CHƯƠNG 7 – LÝ THUYẾT TIỀN TỆ

Mục tiêu học tập của chương:

1. Về mặt kiến thức:

Nắm được các nội dung lý thuyết về tiền để thông qua đó hiểu được tiền tệ là gì, tiền đóng

những chức năng nào trong nền kinh tế, có những loại tiền tệ nào được chấp nhận trong

lưu thông. Từ đó hiểu được tại sao chúng ta lại cần tiền và tiền đóng những vai trò gì trong

nền kinh tế. Thêm vào đó chúng ta cũng tiếp cận với các lý thuyết về cung và cầu tiền cũng

như sự cân bằng cung và cầu tiền trong nền kinh tế sẽ quyết định như thế nào tới giá cả của

tiền.

2. Về mặt kỹ năng:

Sinh viên sẽ dần được làm quen với việc thu thập dữ liệu thống kê về cung tiền trên thế

giới, phân tích một số số liệu liên quan tới cung tiền, đồng thời phân tích một số tình huống

kinh tế liên quan tới bài học.

Nội dung Mục tiêu học tập của chương: ......................................................................................................... 1

I. Quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ.............................................................................. 4

1. Khái quát sự ra đời và phát triển của tiền tệ ............................................................................ 4

2. Khái niệm tiền tệ ..................................................................................................................... 5

3. Lý do chúng ta cần tiền ........................................................................................................... 6

II. Bản chất, chức năng và tính chất của tiền tệ .............................................................................. 8

1. Bản chất của tiền tệ ................................................................................................................. 8

2. Chức năng của tiền tệ .............................................................................................................. 9

2.1. Phương tiện trao đổi ............................................................................................................. 9

2.2. Thước đo giá trị .................................................................................................................. 10

2.3. Phương tiện cất trữ giá trị. .................................................................................................. 13

2.4. Phương tiện thanh toán ....................................................................................................... 15

3. Tính chất của tiền tệ .................................................................................................................. 15

III. Các hình thức tiền tệ ............................................................................................................... 17

IV. Các chế độ tiền tệ .................................................................................................................... 22

V. Cung – Cầu tiền tệ .................................................................................................................... 24

1. Cầu tiền tệ.............................................................................................................................. 24

1.1. Khái niệm ....................................................................................................................... 24

1.2. Lý thuyết cầu tiền ........................................................................................................... 24

1.2.1. Lý thuyết cầu tiền của Irving Fisher – Lý thuyết số lượng tiền tệ ........................... 25

1.2.2. Lý thuyết về cầu tiền của trường phái Cambridge ................................................... 26

1.2.3. Lý thuyết cầu tiền tệ của Keynes - Lý thuyết ưa thích tiền mặt .............................. 28

1.2.4. Lý thuyết cầu tiền tệ của Milton Friedman - Học thuyết số lượng tiền tệ hiện đại . 30

1.2.5. Mô hình Wong ......................................................................................................... 33

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới cầu tiền .................................................................................. 34

1.3.1. Căn cứ vào nhu cầu nắm giữ tiền ............................................................................. 35

1.3.2. Phân loại theo các lý thuyết về cầu tiền: .................................................................. 37

2. Cung tiền ............................................................................................................................... 38

2.1. Khái niệm ....................................................................................................................... 38

2.2. Các phép đo cung tiền .................................................................................................... 38

2.3. Chủ thể cung ứng tiền cho nền kinh tế ........................................................................... 41

2.3.1. Ngân hàng trung ương ............................................................................................. 41

2.3.1. Ngân hàng thương mại ............................................................................................. 44

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới cung tiền .............................................................................. 46

3. Cân bằng cung cầu tiền tệ ..................................................................................................... 47

I. Quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ 1. Khái quát sự ra đời và phát triển của tiền tệ Khi nền kinh tế sơ khai, sự trao đổi diễn ra dưới hình thức hiện vận (H – H’), và tiền sử

dụng trong trao đổi là hiện vật (tiền hàng hoá) là những loại tiền được làm ra từ các dạng

vật chất mà bản thân nó đã có giá trị sử dụng sẵn, nó không do một tổ chức nào phát hành.

Khi nền sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển, lúc này các loại tiền bằng hàng

hóa đơn thuần đã bộc lộ nhiều nhược điểm như cồng kềnh, có độ bền không cao, không

được chấp nhận rộng rãi. Lúc này loài người đã tìm kiếm và khai thác được kim loại và

được chọn làm vật ngang giá với ưu điểm như: Có độ bền, gọn, giá trị phổ biến. Để thuận

tiện cho lưu thông tiền kim loại, ngân hàng đã quy định thống nhất việc đúc tiền như về

kích thước, hình dáng, trọng lượng cho mỗi đơn vị tiền tệ, đặt tên cho đồng tiền, quy ước

các bộ phận chia nhỏ của đồng tiền. Tiền kim loại do nhà nước và cá nhân đúc nhưng đều

phải được nhà nước quản lý, điều này đánh dấu sự ra đời của nghiệp vụ phát hành tiền.

Chính nhờ đồng tiền này mà nền kinh tế đi vào ổn định hơn, cũng dựa trên cơ sở đó, nhà

nước lúc bấy giờ không chỉ phát hành bằng tiền kim loại mà còn phát hành ra tiền giấy.

Như vậy, trong giai đoạn này đã xuất hiện tiền kim loại và tiền giấy, tuy nhiên chưa xuất

hiện ngân hàng.

Ngân hàng xuất hiện là một hiện tượng khách quan do yêu cầu của nền kinh tế. Ngân hàng

thương mại (NHTM) là ngân hàng xuất hiện đầu tiên, trong giai đoạn đầu này hoạt động

của ngân hàng còn rất sơ khai, ngân hàng phát hành ra các chứng thư hay các kỳ phiếu

đúng bằng giá trị của vàng mà khách hàng gửi vào ngân hàng, do đó khả năng chuyển đổi

các giấy tờ đó ra vàng luôn đảm bảo được thuận tiện. Tuy nhiên, với tốc độ buôn bán lưu

thông ngày càng tăng, nhu cầu về tiền ngày càng nhiều thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt

NHTM. Điều này dẫn tới trong lưu thông có rất nhiều kỳ phiếu ngân hàng khác nhau, nhiều

ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận đã phát hành kỳ phiếu ra lưu thông không có vàng để đảm

bảo khả năng thanh toán làm cho người dân nghi ngờ và mất uy tín của khách hàng đối với

ngân hàng nhỏ và họ đổ xô nhau đến các ngân hàng lớn, do đó ngân hàng lớn có điều kiện

mở rộng quy mô và thâu tóm các ngân hàng nhỏ. Bên cạnh đó,với nhiều loại giấy được

đưa vào lưu thông làm cho tiền tệ mất ổn định, do đó buộc nhà nước phải can thiệp để

thống nhất việc phát hành tiền và đảm bao an toàn cho lưu thông giấy bạc ngân hàng bằng

cách chỉ cho một số ngân hàng thực hiện phát hành giấy bạc ngân hàng gọi là ngân hàng

phát hành. Ngân hàng phát hành là những ngân hàng có vốn lớn, số lượng chi nhánh nhiều,

có uy tín trên thị trường.

Cuối thế kỷ XIX, một số nước đã hình thành ngân hàng phát hành, các ngân hàng phát

hành này đã thực hiện một số chức năng của NHTW. Và đến đầu thế kỷ XX thì các chức

năng phát hành tiền đã hoàn toàn tách khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM, đánh

dấu sự ra đời của NHTW, và NHTW trở thành cơ quan độc quyền phát hành tiền trong một

quốc gia. Quá trình phát triển công nghệ ngân hàng ngày càng hiện đại đã cho phép thay

thế một phần giấy bạc ngân hàng, tiền kim loại do NHTW phát hành bằng tiền điện tử, điều

này mang lại một lợi ích to lớn cho bất kỳ một quốc gia nào vì nó giúp cho việc tăng tốc

độ luân chuyển vốn cho nền kinh tế.

2. Khái niệm tiền tệ Những nhà kinh tế học định nghĩa tiền theo nghĩa rộng như là bất cứ thứ gì có thể được

chấp nhận rộng rãi như là một trung gian thanh toán hàng hóa và dịch vụ hay là thanh

toán nợ nần. Hiểu theo nghĩa rộng này, tiền tệ đã vượt ra khỏi ý nghĩa của đồng tiền pháp

định (sẽ được thảo luận kỹ tại các mục sau) hay những phương tiện trung gian trao đổi do

nhà nước quy định. Nó có thể là tiền giấy, vàng, bạc, hay là tờ sec. Một tờ sec có thể được

dùng để trao đổi hàng hóa nhưng lại không thể dùng để trả nợ (người cho vay không chấp

nhận) thì vẫn được gọi là tiền tệ theo cách hiểu này.

Hiểu theo nghĩa chặt chẽ hơn, tiền tệ là phương tiện thanh toán pháp quy quy định mọi

người bắt buộc phải chấp nhận nó khi được dùng để làm phương tiện trung gian thanh

toán và thanh toán cho một khoản nợ được xác lập bằng đơn vị tiền tệ ấy. Như vậy hiểu

theo nghĩa này tiền tệ mang ý nghĩa bắt buộc về mặt luật pháp của một quốc gia hoặc một

khu vực. Những người dân trong quốc gia hoặc khu vực đó bắt buộc phải sử dụng một hoặc

nhiều hơn một đơn vị tiền tệ (USD, VND, EUR …) theo quy định của pháp luật nước đó

để dùng chúng trong cả trung gian thanh toán cho hàng hóa và thanh toán nợ nần.

Đơn vị tiền tệ của nhiều quốc gia có thể có cùng một tên gọi (USD, franc...) hay chỉ có một

tên gọi riêng (VND của Việt Nam) và để phân biệt các đơn vị tiền tệ đó người ta thường

phải gọi kèm tên quốc gia sử dụng đồng tiền (dollar Singapore, dollar Úc …). Một quốc

gia có thể chỉ sử dụng đồng tiền pháp định của quốc gia khác mà không có đồng tiền riêng

(Zimbabwe) hoặc sử dụng đồng tiền chung trong khối (đồng EUR) hoặc sử dụng song song

nhiều hơn một đơn vị tiền tệ.

Tại Việt Nam, điều 12, Nghị định 64/2001/NĐ – CP, đã quy định các phương tiện thanh

toán bao gồm: tiền mặt, sec, lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, và

các phương tiện thanh toán khác theo quy định của pháp luật.

Trên thực tế xã hội có thể ngầm chấp nhận thêm những phương tiện thanh toán khác không

được pháp luật cho phép tùy theo nhu cầu của mình. Tại Việt Nam, những giao dịch thanh

toán bằng vàng hay USD vẫn được thực hiện ngầm một cách phổ biến giữa những người

dân mặc dù nó đã bị chính phủ cấm. Một ví dụ tiếp theo, tại điều 3, Nghị định 222/2013/NĐ

– CP, đã quy định tiền mặt bao gồm cả tiền giấy và tiền xu nhưng tiền xu dần dần đã biến

mất khỏi thị trường từ những năm 2011 và tới năm 2013 hầu như người dân đã không sử

dụng nó như một phương tiện trao đổi hay thanh toán.

3. Lý do chúng ta cần tiền Để sáng tỏ vấn đề này chúng ta cần quay về nền kinh tế trong thời kỳ sử dụng hàng hóa

làm phương tiện thanh toán. Trong nền kinh tế này mọi cá nhân có thể sử dụng hàng hóa

và dịch vụ để trao đổi trực tiếp với nhau. Ví dụ một người nuôi lợn sẽ dùng lớn để trao đổi

với dê của người hàng xóm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Về mặt nguyên lý thì người

dân trong nền kinh tế sử dụng hàng hóa làm vật trung gian trao đổi có thể đáp ứng tất cả

các nhu cầu mà không cần tiền làm vật trung gian trao đổi. Nhưng trên thực tế thì nền kinh

tế này hoạt động không hiệu quả. vì năm lý do sau:

Thứ nhất, những người mua hoặc người bán phải mất nhiều thời gian và nỗ lực để tìm kiếm

đối tác phù hợp. Người nuôi lợn trong ví dụ trên có thể không muốn đổi lấy dê của người

hàng xóm. Và như vậy ông ta sẽ phải tốn thời gian để tìm ra một hàng hóa trao đổi thích

hợp. Nhưng lại phát sinh ra một vấn đề mới là người sở hữu hàng hóa mà ông ta muốn trao

đổi cũng phải thích lợn. Như vậy muốn trao đổi được thì phải xuất hiện một sự trùng lặp

ngẫu nhiên về nhu cầu (Double-coincidence of wants). Sự trùng lặp này phải diễn ra cùng

thời gian và cùng không gian. Chính vì điều này đã làm cho chi phí giao dịch hay chi phí

thời gian dành cho việc trao đổi tăng lên cao.

Thứ hai, do khó khăn gặp ở trên, người nuôi lợn muốn tăng cơ hội giao dịch ông ta sẽ phải

sản xuất ra nhiều loại sản phẩm hơn. Hoặc ông ta sẽ làm điều này để thỏa mãn nhu cầu bởi

vì ông ta biết rằng thật khó để tìm ra những người sẵn sàng trao đổi hàng hóa. Khi đó ông

ta đã phân tán nguồn lực thay vì chuyên biệt hóa vào việc nuôi lợn. Và điều này sẽ khiến

cho năng suất lao động của ông ta giảm do không thể chuyên môn hóa và việc nuôi lợn,

công việc mà ông có khả năng tốt nhất.

Thứ ba, ở nền kinh tế sử dụng hàng hóa để trao đổi, mỗi loại hàng hóa có rất nhiều loại giá

cả. Người nuôi lợn có thể đổi đổi hai con lợn lấy một con dê, 10 giạ gạo để đổi lấy một cái

cày, hay một cái bàn đổi lấy mười chai rượu nếp. Một câu hỏi đặt ra là giá cả của một con

lợn, một con dê, một cái bàn, hay một chai rượu là bao nhiêu? Theo thống kê, một nền kinh

tế sử dụng hàng hóa làm vật trao đổi thì nếu nền kinh tế đó có 100 loại hàng hóa thì sẽ có

4,950 loại giá cả, nếu có 10,000 hàng hóa thì sẽ có 49,995,000 loại giá cả1. Hãy tưởng

tượng bạn vào một cái chợ có 1,000 loại hàng hóa khác nhau, bạn có đủ thời gian để so

sánh giá cả của những sản phẩm này không? Cũng có thể nhưng thời gian và công sức bỏ

ra là rất lớn. Chính vì vậy chi phí giao dịch sẽ tăng lên đáng kể.

Thứ tư, trong nền kinh tế này thiếu sự tiêu chuẩn hóa. Tất cả những con lợn và con dê

không giống nhau do đó giá của dê được tính theo lợn sẽ phải chỉ rõ kích cỡ và những đặc

điểm khác của chúng. Ngoài ra những hàng hóa này sẽ thay đổi tính chất vật lý theo thời

gian hoặc do các tác nhân khác. Những điều này sẽ là rào cản cho việc trao đổi.

Thứ năm, việc tích lũy tài sản sẽ trở nên khó khăn. Chỉ có một cách duy nhất để tích lũy

1 Công thức tính số loại giá cả = N(N – 1)/2. Trong đó N là số loại hàng hóa.

tài sản là chất đống những tài sản khác nhau này lại.

Sự thiếu hiệu quả trong nền kinh tế sử dụng hàng hóa làm vật trao đổi sẽ ép mọi người trở

về hình thức tự cung tự cấp. Hoặc nó không làm cho người ta có động lực tạo ra những sản

phẩm tốt hơn. Nếu một cái bàn có thể đổi được 10 chai rượu thì cái bàn đó phải thật tốt hay

tốt vừa hay không cần tốt. Khi đó nền kinh tế dạng này gặp vấn đề về tăng trưởng. Để cải

thiện điều này, người ta đã phải có động cơ tìm ra một loại sản phẩm đặc thù mà được chấp

nhận rộng rãi làm vật trung gian trao đổi chung. Giả sử trong ví dụ trên da dê được chấp

nhận là vật trung gian trao đổi rộng rãi khi đó người nuôi lợn dù có không thích da dê thì

vẫn chấp nhận đổi lợn lấy da dê vì ông ta biết rằng ông ta có thể sử dụng tấm da dê để đổi

lấy bất cứ thứ hàng nào mà ông ta muốn có. Và khi đó ông ta cũng sẽ có động cơ cải thiện

năng suất để có thể đổi lấy được nhiều tấm da dê hơn. Nhiều tấm da dê hơn có nghĩa là ông

ta sẽ giàu hơn. Lúc này một loại hàng hóa nào đó được dùng làm trung gian trao đổi mà có

giá trị độc lập với giá trị sử dụng được gọi là hóa tệ (hàng hóa được dùng làm tiền tệ -

commondity currency/money)

Một khi tiền được phát minh, chi phí giao dịch giảm xuống đáng kể cũng như cải thiện

những vấn đề mà nền kinh tế hàng đổi hàng gặp phải. Nó cho phép mọi người có thể chuyên

môn hóa, tạo ra năng suất cao hơn, và thu nhập cao hơn. Và đó cũng chính là lý do chúng

ta cần tiền.

II. Bản chất, chức năng và tính chất của tiền tệ 1. Bản chất của tiền tệ Về bản chất, tiền tệ là vật trung gian môi giới trong trao đổi hàng hoá, dịch vụ, là phương

tiện giúp cho quá trình trao đổi được thực hiện dễ dàng hơn. Bản chất của tiền tệ được thể

hiện rõ hơn qua hai thuộc tính sau của nó:

 Giá trị sử dụng của tiền tệ là khả năng thoả mãn nhu cầu trao đổi của xã hội, nhu

cầu sử dụng làm vật trung gian trong trao đổi. Như vậy người ta sẽ chỉ cần nắm giữ

tiền khi có nhu cầu trao đổi. Giá trị sử dụng của một loại tiền tệ là do xã hội qui

định: chừng nào xã hội còn thừa nhận nó thực hiện tốt vai trò tiền tệ (tức là vai trò

vật trung gian môi giới trong trao đổi) thì chừng đó giá trị sử dụng của nó với tư

cách là tiền tệ còn tồn tại. Đây chính là lời giải thích cho sự xuất hiện cũng như biến

mất của các dạng tiền tệ trong lịch sử.

 Giá trị của tiền được thể hiện qua khái niệm “sức mua tiền tệ”, đó là khả năng đổi

được nhiều hay ít hàng hoá khác trong trao đổi. Có những loại tiền chỉ mang dấu

hiệu của giá trị (tiền giấy bất khả hoán) và có những loại tiền mang đầy đủ giá trị

thật của nó (vàng, bạc ...)

2. Chức năng của tiền tệ Phần trên chúng ta đã khảo sát sơ lược lý do tại sao chúng ta cần tiền. Bằng việc tìm hiểu

cặn kẽ về các chức năng của tiền tệ chúng ta cũng sẽ nắm bắt rõ ràng hơn vấn đề tại sao

chúng ta lại cần tiền đến như thế.

Tiền tệ thực hiện bốn chức năng chính trong nền kinh tế:

 Phương tiện trao đổi;

 Thước đo giá trị;

 Phương tiện tích lũy;

 Phương tiện thanh toán

2.1. Phương tiện trao đổi Trong nền kinh tế hàng đổi hàng, việc sử dụng các hàng hóa trao đổi trực tiệp với nhau (H

– H) đã dần được thay thế bằng việc trao đổi hàng với tiền. Người nuôi lợn thay vì phải đi

tìm ra cho được con dê để trao đổi thì nay ông ta chỉ cần dùng nó để đổi lấy tiền (trong ví

dụ trên là tấm da dê) sau đó cất trữ và dùng tiền đó để đổi ra bất cứ thứ gì mình thích ở một

thời điểm thích hợp. Lúc này mô hình trao đổi sẽ là H – T – H’. Đôi khi việc trao đổi chỉ

diễn ra theo hình thức H – T với mục đích tích lũy của cải.

Việc không phải trao đổi trực tiếp hàng với hàng sẽ giúp cho người lao động tạo lập tính

chuyên môn hóa cao mà không lo lắng việc hàng hóa hoặc dịch vụ của mình làm ra sẽ

không tìm được sự trao đổi thích ứng. Ngoài ra, nó giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh

tế thông qua việc khắc phục những hạn chế khác của trao đổi hàng hoá trực tiếp, đó là

những hạn chế về nhu cầu trao đổi (chỉ có thể trao đổi giữa những người có nhu cầu phù

hợp), hạn chế về thời gian (việc mua và bán phải diễn ra đồng thời), hạn chế về không gian

(việc mua và bán phải diễn ra tại cùng một địa điểm). Bằng việc đưa tiền vào lưu thông,

con người đã tránh được những chi phí về thời gian và công sức dành cho việc trao đổi

hàng hoá (chúng ta chỉ cần bán hàng hoá của mình lấy tiền rồi sau đó có thể mua những

hàng hoá mà mình muốn bất cứ lúc nào và ở đâu mà mình muốn). Nhờ đó, việc lưu thông

hàng hoá có thể diễn ra nhanh hơn, sản xuất cũng được thuận lợi, tránh được ách tắc, tạo

động lực cho kinh tế phát triển. Với chức năng này, tiền tệ được ví như chất dầu nhờn bôi

trơn giúp cho guồng máy sản xuất và lưu thông hàng hoá hoạt động trơn tru, dễ dàng.

Chúng ta cần lưu ý là khi thực hiện chức năng là một phương tiện trao đổi, tiền tệ được

xem là phương tiện chứ không phải là mục đích của trao đổi. Vì vậy tiền tệ thực hiện chức

năng phương tiện trao đổi không nhất thiết phải là tiền tệ có đầy đủ giá trị (ví dụ dưới

dạng tiền vàng). Đối với những hàng hóa đặc biệt được sử dụng như là tiền tệ (hóa tệ) thì

nó mang đầy đủ giá trị (giá trị sức lao động kết tinh trong hàng hóa đó) đối với những loại

tiền tệ như tiền giấy thì không cần mang đầy đủ giá trị.

Tuy nhiên tiền tệ sẽ không thể làm trọng vẹn nhiệm vụ là phương tiện trao đổi nếu như nó

thiếu chức năng là thước đo giá trị.

2.2. Thước đo giá trị Việc sử dụng tiền tệ như là một trung gian trao đổi đã đem lại thêm một lợi ích khác: Thay

vì phải yết giá một loại hàng hóa theo rất nhiều hàng hóa khác (trong nền kinh tế hàng đổi

hàng) thì nó chỉ phải yết giá theo một phương tiện làm trung gian trao đổi là tiền tệ với

những thước đo phù hợp. Ví dụ một kg gạo bằng 15,000 VNĐ, một kg thịt lợn bằng

80,000 VNĐ … Chức năng này cung cấp cho nền kinh tế thước đo về giá trị được tính

bằng tiền. Điều này cũng giúp cho chúng ta có thể dễ dàng so sánh được giá trị của các loại

hàng hóa khác nhau theo các đơn vị tính khác nhau. Ví dụ, nếu trong nền kinh tế hàng đổi

hàng chúng ta rất khó để so sánh giá trị của một cái bàn và một con lợn thì ở trong nền kinh

tế có xuất hiện tiền tệ thì chúng ta dễ dàng có thể so sánh giá trị của chúng với nhau thông

qua thước đo giá trị của tiền tệ. Như vậy bất kể loại hàng hóa nào với bất kỳ đơn vị tính

toán nào theo tính chất vật lý (kg, m, lít,…) hay phi vật lý (giờ công, buổi xem phim, …)

đều quy được về một loại đơn vị giá trị tiền tệ duy nhất (ở Mỹ giá trị này là USD, ở Việt

Nam là đồng).

Chúng ta sử dụng bảng so sánh về số lượng loại giá cả trong nền kinh tế sử dụng hàng hóa

trao đổi trực tiếp và sử dụng tiền tệ làm phương tiện trung gian trao đổi.

Bảng 2. So sánh về số lượng loại giá cả

Số lượng giá trong nền kinh tế

Số lượng hàng hóa 1 2 3 4 10 100 1,000 10,000

Sử dụng hàng hóa trao đổi trực tiếp Không xuất hiện giá 1 3 6 45 4,950 499,500 49,995,000

Sử dụng tiền làm trung gian trao đổi Không xuất hiện giá 2 3 4 10 100 1,000 10,000

Chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền để đo lường làm giảm hẳn chi phí thời gian để

giao dịch trong một nền kinh tế, nhất là giảm hẳn số giá cần phải xem xét. Cái lợi của chức

năng này của tiền tăng lên khi nền kinh tế trở nên phức tạp hơn.

Thông qua các phân tích trên chúng ta có thể suy ra một điều rằng những loại đồng tiền

nào càng dễ phân chia giá trị thì loại tiền đó càng dễ trở thành một loại trung gian thanh

toán mạnh hơn. Chúng ta thử xem xét ba loại tiền tệ làm trung gian thanh toán bao gồm

tấm da dê trong ví dụ trên, vàng và tiền giấy do nhà nước phát hành. Chúng ta dễ dàng có

thể nhận thấy tiền giấy là loại tiền dễ phân chia giá trị nhất sau đó là tới vàng và tấm da dê.

Chúng ta có thể cắt nhỏ tấm da dê ra để đổi hàng hóa không? Tất nhiên là có thể nhưng

không nên. Vàng cũng có thể cắt nhỏ ra để trao đổi nhưng chi phí để chia nhỏ chúng cũng

như là độ chính xác trong việc phân chia là một vấn đề lớn. Đối với tiền giấy do nhà nước

bảo chứng phát hành, việc làm của nhà nước đơn giản là đưa nhiều loại mệnh giá phù hợp

với giá trị của hàng hóa khi lưu thông (tại Việt Nam hiện nay có những mệnh giá như 500;

1,000; 2,000; 5000; 10,000; 100,000; 500,000). Tuy nhiên chúng ta cũng cần nhớ rằng đây

chỉ là một trong những điều kiện khiến cho một loại đồng tiền này mạnh hơn đồng tiền

khác trong lưu thông.

Để thực hiện chức năng thước đo giá trị như đã phân tích trên, tiền tệ bản thân nó phải có

giá trị để trao đổi với giá trị của hàng hóa (được biểu hiện bằng giá cả). Cũng giống như

khi dùng quả cân để đo trọng lượng một vật thì bản thân quả cân đó phải có trọng lượng.

Giá trị của tiền tệ được đặc trưng bởi khái niệm sức mua tiền tệ, tức là khả năng trao đổi

của đồng tiền. Khi tiền tệ tồn tại dưới dạng hàng hoá (tiền có đầy đủ giá trị - hóa tệ) thì sức

mua của tiền phụ thuộc vào giá trị của bản thân tiền. Khi xã hội chuyển sang sử dụng tiền

dưới dạng dấu hiệu của giá trị (tiền giấy, tiền tín dụng v.v.) thì giá trị của tiền không được

đảm bảo bằng giá trị của nguyên liệu dùng để tạo ra nó (vì giá trị đó quá thấp so với giá trị

mà nó đại diện) mà phụ thuộc vào tình hình cung cầu tiền tệ trên thị trường, mức độ lạm

phát, vào tình trạng hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế và cả niềm tin của người sử

dụng vào đồng tiền đó. Để tiện cho việc đo lường giá trị của hàng hoá, cần có một đơn vị

tiền tệ chuẩn. Đơn vị tiền tệ được đặc trưng bởi tên gọi và tiêu chuẩn giá cả. Tên gọi của

tiền ban đầu do dân chúng lựa chọn tự phát, sau đó do chính quyền lựa chọn và quy định

trong pháp luật từng nước, chẳng hạn đồng Việt Nam (VND), Đô la Mỹ (USD), Euro

(EUR) v.v…Tiêu chuẩn giá cả là giá trị của các đơn vị tiền tệ chuẩn. Khi tiền vàng hoặc

tiền giấy có khả năng đổi ra vàng cùng được lưu thông, tiêu chuẩn giá cả là giá trị của một

hàm lượng vàng nguyên chất nhất định chứa trong một đơn vị tiền tệ. Ví dụ hàm lượng

vàng của Bảng Anh (GBP) năm 1987 là 7,32238 gam vàng nguyên chất; hàng lượng vàng

của đô la Mỹ công bố tháng 1 năm 1939 là 0,888671 gam vàng nguyên chất. Ngày nay, khi

tiền giấy không được đổi ra vàng, hàm lượng vàng không có ý nghĩa thực tế. Hàm lượng

vàng và tiêu chuẩn giá cả tách rời nhau. Hàm lượng vàng đứng im không đổi, trong khi đó

tiêu chuẩn giá cả biến động và hình thành tiêu chuẩn giá cả danh nghĩa và tiêu chuẩn giá

cả thực.

Ngày nay, một đồng tiền muốn được sử dụng rộng rãi trong cả nước làm đơn vị tính toán

để đo lường giá trị hàng hoá phải được nhà nước chính thức định nghĩa, theo những tiêu

chuẩn nhất định. Nói cách khác đồng tiền đó phải được pháp luật qui định và bảo vệ. Nhưng

đây chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ. Điều kiện đủ là phải được dân chúng

chấp nhận sử dụng. Song muốn được dân chúng chấp nhận, đơn vị tính toán đó phải có

một giá trị ổn định lâu dài. Trong lịch sử tiền tệ của các nước, không thiếu những trường

hợp dân chúng lại sử dụng một đơn vị đo lường giá trị khác với đơn vị đo lường giá trị do

nhà nước qui định.

2.3. Phương tiện cất trữ giá trị.

Chức năng cất trữ giá trị này của tiền thể hiện ở hai điểm: Thứ nhất, khi tiền tạm thời rút

ra khỏi lưu thông nó có thể trở lại ở một khoảng thời gian sau đó để thực hiện chức năng

trao đổi. Người nuôi lợn sau khi đổi lợn lấy tiền, ông ta có thể cất trữ tiền lại để sau đó sử

dụng vào trao đổi những hàng hóa hoặc dịch vụ khác mà ông ta cần. Thứ hai, tiền được sử

dụng như là một phương tiện để tích lũy của cải. Người nuôi lợn nếu không có tiền để tích

lũy tài sản thì ông ta sẽ dùng gì? Dùng chính những con lợn hay dùng những hàng hóa mà

ông ta trao đổi được? Thật sự là không khả thi. Chúng ta cần bàn luận về vấn đề này sâu

hơn một chút.

Khi tiền tệ chưa xuất hiện, người ta thường thực hiện tích lũy dưới hình thái hiện vật, hình

thái này không tiện lợi vì nó đòi hỏi phải có chỗ rộng rãi, phải tốn nhiều chi phí bảo quản,

dễ hư hỏng, khó lưu thông và it sinh lời. Khi tiền tệ xuất hiện, người ta dần dần thay thế

tích lũy dưới hình thái hiện vật bằng hình thái tích lũy dưới dạng tiền tệ. Hình thái này có

nhiều ưu điểm, điểm nổi bật là dễ lưu thông và thanh khoản. Tuy nhiên, tích lũy dưới hình

thái tiền tệ (những loại tiền có dấu hiệu giá trị như tiền giấy) có nhược điểm là có thể dễ

mất giá khi nền kinh tế gặp lạm phát. Khi hàng hóa tăng giá lên quá cao như trường hợp

của Zimbabwe trong những năm 2008 đã được đề cập ở phần đầu chương này thì tiền tệ

đã mất cả chức năng lưu thông lẫn chức năng lưu trữ giá trị. Khi đó người ta sẽ có xu hướng

lựa chọn một loại tiền tệ khác có giá trị ổn định hoặc một loại tài sản khác mà có tính thanh

khoản cao.

Một câu hỏi được đặt ra là không chỉ có tiền mới có chức năng lưu trữ giá trị nhưng tại sao

người ta vẫn lựa chọn tiền là phương tiện tốt duy nhất có chức năng lưu trữ giá trị? Câu trả

lời ở đây là tính thanh khoản. Cổ phiếu của Vinamilk, trái phiếu của chính phủ, đất đai …

đều là những phương tiện thể hiện sự cất trữ giá trị. Nhưng những tài sản này có dễ dàng

để bán không? Muốn bán cổ phiếu Vinamilk chúng ta phải tìm người mua trên thị trường

chứng khoán và thực hiện hàng loạt các thủ tục như khớp lệnh, các khoản phí giao dịch …

có nghĩa là bạn phải mất thời gian và chi phí mới đổi được nó sang tiền và sử dụng tiền để

mua hàng hóa khác khi cần. Trong khi đó nếu bạn nắm tiền thì ngay tức khắc bạn có thể

dùng tiền để mua hàng hóa bạn cần miễn là nó có mặt trên thị trường và bạn đủ tiền để mua

nó.

Có một điều chúng ta cần lưu ý là với mục đích cất trữ giá trị cho những nhu cầu trong

tương lai gần, người ta có xu hướng cất trữ giá trị dưới dạng tiền có dấu hiệu giá trị. Song

vì loại tiền này, không có một sự đảm bảo chắc chắn về sự nguyên vẹn giá trị từ khi nhận

cho đến khi đem ra sử dụng, thêm vào đó giá cả của các loại hàng hóa có xu hướng tăng

trong dài hạn nên tiền sẽ không phải là cách lựa chọn tốt nhất khi muốn dự trữ giá trị trong

thời gian dài.

Cất trữ giá trị: Dùng vàng hay tiền giấy? Tiền giấy vốn là loại tiền có dấu hiệu giá trị do nhà nước bảo chứng phát hành hay còn gọi là tiền pháp tệ. Loại tiền này tuy rất thuận tiện trong lưu thông, trong lưu trữ giá trị trong ngắn hạn nhưng trong dài hạn nó chứa đựng nhiều rủi ro. Rủi ro đầu tiên có thể nhận thấy là sức mua của tiền tệ giảm khi nền kinh tế bị lạm phát, điều này đồng nghĩa với việc tổng giá trị tích lũy của những người dùng tiền giấy bị giảm xuống. Rủi ro thứ hai là khi gặp các thảm họa tự nhiên hay chiến tranh loạn lạc dẫn đến sự sụp đổ của Nhà nước thì tiền giấy cũng trở nên vô giá trị. Rủi ro thứ ba có thể nhận thấy là khi chính quyền trung ương yếu kém trong việc quản lý kinh tế hoặc không thể đảm bảo được tình hình an ninh chính trị thì giá trị của tiền giấy cũng bị giảm xuống. Người Châu Á thường có thói quen có tâm lý tích trữ vàng nhiều hơn các lục địa khác là vì trong lịch sử người dân ở đây đã chịu nhiều chiến tranh/loạn lạc nên họ đã học được kinh nghiệm rằng trong số tất cả các loại assets (đất đai, nhà cửa, hàng hóa, gia súc...) chỉ có vàng là có thể dễ dàng cất giấu và vận chuyển để bảo toàn tài sản cho tương lai (store of value). Vì sao vậy? Vàng là một loại tài sản được lựa chọn tự nhiên qua hàng nghìn thử nghiệm của loài người để làm phương tiện thanh toán. Nó thỏa mãn rất nhiều các điều kiện như tính bền vững, gọn nhẹ, sự ưa thích của con người, nguồn cung không tập trung. Thêm vào đó đây là loại tài sản quí hiếm, nhưng không quá hiếm như Rhodium hay Palladium để đến tận thế kỷ 18 con người mới phát hiện ra; bền vững, nhưng không quá khó nóng chảy (để đúc thành tiền) như Platinum có nhiệt độ nóng chảy trên 3000 độ; có bề ngoài bắt mắt, không như bạc dễ bị nhầm với các kim loại rẻ tiền khác; không độc hại gây nguy hiểm như rất nhiều nguyên tố hiếm khác trong bản tuần hoàn (có phóng xạ). Hơn nữa vàng rất khó làm giả nhưng lại rất dễ kiểm chứng nên dễ được chấp

nhận làm trung gian thanh toán ở những quốc gia khác nhau. Khi đó người nắm giữ vàng dù có đi tới đâu cũng không lo nó bị mất giá trị. 2.4. Phương tiện thanh toán Thuật ngữ “standard of deferred payment” thường được dịch là phương tiện thanh toán

nhưng nếu hiểu sát nghĩa thì nó được coi là phương tiện thanh toán trả chậm (deferred

payment). Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán sự vận động của tiền tệ tách rời

sự vận động của hàng hóa và làm cho số lượng tiền mặt cần thiết cho lưu thông giảm đi

tương đối vì sự mua bán chịu, thực hiện thanh toán bù trừ lẫn nhau.

Muốn được chấp nhận làm phương tiện thanh toán, tiền tệ phải có sức mua ổn định, tương

đối bền vững theo thời gian, chính sức mua ổn định đã tạo cho người ta niềm tin và sự tín

nhiệm tiền tệ.

Khi tiền tệ thực hiện chức năng là phương tiện trao đổi và thước đo giá trị thì tiền tệ tạo

điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi diễn ra ngay lập tức. Khi nó thực hiện chức năng lưu

trữ giá trị và chức năng thanh toán thì nó tạo điều kiện cho việc trao đổi diễn ra ở bất cứ

thời điểm nào trong tương lai. Ví dụ trong một hợp đồng thương mại có đoạn “Bên A cung

cấp cho bên B 400 tấn gạo tám thơm Hải Hậu loại 1 với giá 1,758,000 đồng/tấn, thanh toán

trước 50% giá trị hợp đồng ngay khi giao hàng, 50% còn lại thanh toán sau 60 ngày kể từ

ngày giao hàng”.

Những tài sản gì có thể được dùng như tiền? Rõ ràng một nền kinh tế nếu sử dụng tiền như là một trung gian trao đổi sẽ trở nên hiệu quả hơn. Nhưng một câu hỏi đặt ra là những tài sản nào có thể được dùng như tiền? Bất kể tài sản nào cũng có thể sử dụng như là tiền nếu nó thỏa mãn đồng thời những tiêu chí sau: 1. Được chấp nhận bởi hầu hết mọi người; 2. Tiêu chuẩn hóa về chất lượng, các đơn vị tài sản khác nhau đều có chất lượng đồng nhất; 3. Bền vững, tài sản phải được sử dụng lâu dài, không dễ hư hỏng; 4. Giá trị của nó liên quan tới khối lượng. Phải có một lượng đủ lớn để đưa vào lưu thông và giúp cho việc trao đổi hàng hóa trở nên dễ dàng hơn; 5. Dễ dàng phân chia giá trị phù hợp với bất cứ giá trị nào của các hàng hóa và dịch vụ mà nó thanh toán.

3. Tính chất của tiền tệ Phần trên chúng ta đã khảo sát sơ lược về việc những tài sản nào có thể được dùng như

tiền. Tại phần này chúng ta tìm hiểu đầy đủ hơn tính chất của tiền để hiểu vì sao tiền có thể

thực hiện được các chức năng của tiền. Tiền tệ có các tính chất cơ bản sau đây:

 Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ, người

dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ không được coi

là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương phát hành cũng sẽ mất

đi bản chất của nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát, người ta không chấp nhận nó

như là một phương tiện trao đổi.

 Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người ta

có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Chính vì thế những tờ giấy bạc

do ngân hàng trung ương phát hành được in ấn trông không giống bất cứ một tờ giấy

chất lượng cao nào khác.

 Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho

người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán bằng một

loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền

tệ khắc phục được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu một người mang

một con bò đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn mức anh ta cần trong

khi lại không có được những thứ khác cũng cần thiết không kém.

 Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá trị

cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để làm tiền,

chính vì vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng cao còn tiền xu

thì được làm bằng kim loại bền chắc.

 Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang theo,

tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những đồng xu

có kích thước, trọng lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in khổ rộng ví dụ

như khổ A4.

 Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì nếu

có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong việc cất

trữ giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế trong lịch sử những

kim loại hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay ngân hàng trung

ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.

 Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau không

phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm ra cách đây

2 năm cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa vào lưu thông.

Có như vậy tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính toán một cách dễ dàng và

thuận tiện trong trao đổi.

III. Các hình thức tiền tệ Tiền tệ tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau trong suốt chiều dài lịch sử của nó. Để nắm bắt

về các loại hình tiền tệ, chúng ta sẽ xem xét các thời kỳ phát triển của tiền và các hình thức

tiền tệ tồn tại ở các thời kỳ đó.

Có thể tóm gọn các thời kỳ phát triển của tiền ở hai giai đoạn, giai đoạn hóa tệ và giai đoạn

tiền là dấu hiệu giá trị.

Giai đoạn hóa tệ

Hóa tệ tức là tiền bằng hàng hóa, là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong

một thời gian dài. Hàng hoá dùng làm tiền tệ trong trao đổi phải có giá trị thực sự và giá trị

của vật trung gian trao đổi này phải ngang bằng với giá trị hàng hoá đem trao đổi, tức là

trao đổi ngang giá hàng hoá thông thường lấy hàng hoá đặc biệt - tiền tệ. Hoá tệ lần lượt

xuất hiện dưới hai dạng: Hoá tệ phi kim loại và hoá tệ kim loại.

 Hóa tệ phi kim: Đây là hình thái cổ xưa nhất của tiền tệ, rất thông dụng trong các

xã hội cổ truyền. Tuỳ theo từng quốc gia, từng địa phương và từng khu vực, người

ta dùng những hàng hóa khác nhau để làm trung gian trao đổi, chẳng hạn, ở Hy Lạp

và La Mã người ta dùng bò, trâu, ở Tây Tạng người ta dùng trà đóng thành bánh, ở

Châu Phi dùng lụa vải, vỏ sò, vỏ hến để làm tiền. Hóa tệ phi kim loại có nhiều điều

bất lợi khi đóng vai trò tiền tệ, như: tính chất không đồng nhất, dễ hư hỏng, khó

phân chia hay gộp lại, khó bảo quản cũng như vận chuyển, nó chỉ được công nhận

trong từng khu vực, từng địa phương. Do vậy, hóa tệ không phải kim loại dần dần

bị loại bá và người ta bắt đầu dùng hóa tệ kim loại thay thế hóa tệ không kim loại.

 Hóa tệ kim loại: Là việc lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng để đúc

thành tiền là đồng, kẽm, bạc, vàng... Kim loại có nhiều ưu điểm hơn hàng hóa không

phải kim loại khi sử dụng làm đơn vị tiền tệ, như: phẩm chất, trọng lượng có thể qui

định chính xác hơn, dễ dàng hơn, bền hơn, hao mòn chậm, dễ chia nhỏ, giá trị tương

đối ít biến đổi... Qua thực tiễn trao đổi và lưu thông hóa tệ kim loại, dần dần người

ta chỉ chọn 2 kim loại quý dùng làm tiền lâu dài hơn là bạc và vàng. Sở dĩ vàng hay

bạc trở thành tiền tệ lâu dài hơn là vì bản thân nó có những thuộc tính đặc biệt mà

các hàng hóa khác không có như: tính đồng nhất, tính dễ chia nhỏ, tính dễ cất trữ,

tính dễ lưu thông. Sau này vàng vượt bạc, trở thành hoá tệ kim loại độc quyền được

dùng làm tiền tệ. Tuy có những đặc điểm rất thích hợp cho việc dùng làm tiền tệ,

tiền vàng không thể đáp ứng được nhu cầu trao đổi của xã hội khi nền sản xuất và

trao đổi hàng hoá phát triển đến mức cao.

Một loạt lý do sau đây đã khiến cho việc sử dụng tiền vàng ngày càng trở nên bất

tiện, không thực hiện được chức năng tiền tệ nữa:

(1) Quy mô và trình độ sản xuất hàng hoá phát triển, khối lượng và chủng loại hàng

hóa ngày càng tăng và đa dạng, trong khi đó lượng vàng sản xuất ra không đủ đáp

ứng nhu cầu về tiền tệ (nhu cầu trao đổi) của nền kinh tế.

(2) Giá trị tương đối của vàng so với các hàng hóa khác tăng lên do năng suất lao

động trong ngành khai thác vàng không tăng theo kịp năng suất lao động chung của

các ngành sản xuất hàng hoá khác. Điều đó dẫn đến việc giá trị của vàng trở nên

quá lớn, không thể đáp ứng nhu cầu làm vật ngang giá chung trong một số lĩnh vực

có lượng giá trị trao đổi mỗi lần nhỏ như mua bán hàng hoá tiêu dùng…

(3). Giá trị thật của nó rất dễ bị hạ thấp bởi chính phủ. Một thực tế đã xảy ra ở thời

kỳ đế chế La Mã khi họ quyết định gia tăng thêm ngân khố bằng cách nung chảy

những đồng tiền vàng và bạc sau đó đúc lại chúng với những hỗn hợp kim loại khác

kém giá trị. Điều này làm cho đồng tiền vàng bị giảm giá trị và dần dần bị mất niềm

tin trong dân chúng.

(4). Giá trị thật bị giảm bởi khối lượng của đồng tiền giảm do ma sát trong quá trình

cất trữ và giao dịch.

(5). Việc nắm giữ vàng rất dễ bị cướp bóc khi người dân phải vận chuyển một khối

lượng vàng lớn để đem đi giao dịch.

Việc tìm kiếm một loại hình tiền tệ mới, thay thế cho vàng trong lưu thông trở nên cần

thiết.

Giai đoạn tiền mang dấu hiệu giá trị

Để giải quyết những vấn đề này, vào đầu thế kỷ 16 sau Công nguyên, một số chính phủ tại

Châu Âu và những ngân hàng tư nhân đã bắt đầu cho gửi vàng tại những nơi an toàn và

cấp những giấy chứng nhận cho người gửi vàng. Bất cứ ai nhận được giấy chứng nhận

này có thể yêu cầu một lượng vàng tương đương. Miễn là mọi người tin rằng vàng luôn

sẵn có ngay khi họ yêu cầu nó thì loại giấy chứng nhận này được lưu hành như là một trung

gian trao đổi. Như vậy tiền giấy đã được phát minh. Loại tiền này được gọi là tiền giấy

khả hoán. Có nghĩa là người sử dụng nó có thể đem nó tới ngân hàng để đổi lấy giá trị

vàng tương ứng được ghi trên tờ tiền này.

Ngày nay tiền giấy khả hoán không được dùng nữa do lượng vàng khai thác được tăng

trưởng không nhanh so với sự tăng trưởng của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra. Ngoài ra

một số chính phủ đã phát hành thêm những tờ giấy bảo chứng mà không có đủ vàng trong

ngân khố đã khiến cho đồng tiền này không còn được tin dùng. Lúc này đồng tiền danh

nghĩa ra đời.

Như đã đề cập tại phần trên, tiền danh nghĩa là loại tiền tệ mà bản thân tự nó không có giá

trị (chỉ là dấu hiệu giá trị) song do chính phủ chỉ định nó là đồng tiền pháp định được dùng

trong thanh toán và do sự tín nhiệm của mọi người mà nó được sử dụng rộng rãi. Người

dân không thể sử dụng đồng tiền này để tới ngân hàng đổi ra vàng. Những loại tiền tệ thuộc

loại này bao gồm tiền xu, tiền giấy bất khả hoán, tiền điện tử, tiền tín dụng.

Tiền giấy vẫn có những trở ngại của nó. Chi phí giao dịch sẽ trở nên đắt đỏ hơn nếu nó là

trung gian thanh toán cho những giao dịch thương mại lớn hoặc những giao dịch tài chính

diễn ra liên tục. Chúng ta hãy tưởng tượng cảnh phải mang hàng va li tiền mặt để đi mua

một căn biệt thự giá 10 tỷ đồng sẽ mất nhiều thời gian di chuyển, rủi ro cướp bóc và thời

gian để đếm tiền như thế nào. Một phát minh lớn trong hệ thống thanh toán đã sảy ra ở

những năm đầu tiên của thế kỷ 20 bằng việc phát minh ra tiền tín dụng. Tiền tín dụng là

tiền nằm trong các tài khoản mở ở ngân hàng và được hình thành trên cơ sở các khoản tiền

gửi vào ngân hàng. Khi khách hàng gửi một khoản tiền giấy vào ngân hàng, ngân hàng sẽ

mở một tài khoản và ghi có số tiền đó. Tiền giấy của khách hàng như thế đã chuyển

thành tiền tín dụng. Tiền tín dụng thực chất là cam kết của ngân hàng cho phép người sở

hữu tài khoản tiền gửi (hay tiền tín dụng) được rút ra một lượng tiền giấy đúng bằng số dư

có ghi trong tài khoản. Do cam kết này được mọi người tin tưởng nên họ có thể sử dụng

luôn các cam kết ấy như tiền mà không phải đổi ra tiền giấy trong các hoạt động thanh

toán. Tuy nhiên các hoạt động thanh toán bằng tiền tín dụng phải thông qua hệ thống ngân

hàng làm trung gian. Cũng vì vậy mà tiền tín dụng còn có một tên gọi khác là tiền ngân

hàng (bank money). Để thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng, các ngân hàng

sẽ ký kết với nhau các hợp đồng đại lý mà theo đó các ngân hàng sẽ mở cho nhau các tài

khoản để ghi chép các khoản tiền di chuyển giữa họ. Khi đó thay vì phải chuyển giao tiền

một cách thực sự giữa các ngân hàng, họ chỉ việc ghi có hoặc nợ vào các tài khoản này.

Hoạt động chuyển tiền thực sự chỉ xảy ra định kỳ theo thoả thuận giữa các ngân hàng –

hoạt động thanh toán bù trừ. Cơ chế hoạt động này làm tăng rất nhanh tốc độ thanh toán.

Chính vì vậy hoạt động thanh toán qua ngân hàng rất được ưa chuộng do tính nhanh gọn

và an toàn của nó. Do tiền tín dụng thực chất chỉ là những con số ghi trên tài khoản tại ngân

hàng cho nên có thể nói tiền tín dụng là đồng tiền phi vật chất và nó cũng là loại tiền mang

dấu hiệu giá trị như tiền giấy. Để sử dụng tiền tín dụng, những người chủ sở hữu phải sử

dụng các lệnh thanh toán để ra lệnh cho ngân hàng nơi mình mở tài khoản thanh toán hộ

mình. Có nhiều loại lệnh thanh toán khác nhau, nhưng dạng phổ biến nhất là séc. Tuy nhiên

loại tiền này vẫn tạo ra những phí tổn lớn về chi phí giao dịch mà cụ thể ở đây là chi phí

thông tin dùng trong việc kiểm tra giao dịch để xem tài khoản của người ghi sec có đủ hay

không.

Bước tiến mới trong hệ thống thanh toán là việc tạo ra tiền điện tử. Nó làm cho hệ thống

này trở nên hiệu quả hơn. Những tiến bộ về công nghệ máy tính cũng như sự phát triển của

mạng lưới thông tin viễn thông đã cho phép các ngân hàng thay tế phương thức thanh toán

truyền thống sử dụng các chứng từ giấy bằng phương thức thanh toán điện tử (Electronic

means of payment- EMOP)- phương thức thanh toán trong đó các giao dịch chuyển tiền

thanh toán được thực hiện nhờ hệ thống viễn thông điện tử dựa trên cở sở mạng máy tính

kết nối giữa các ngân hàng. Bằng phương pháp mới này, tốc độ chuyền tiền tăng lên rất

nhanh, giảm bớt được chi phí về giấy tờ so với lưu thông tiền mặt và séc. Khi chuyển sang

phương thức thanh toán điện tử, tiền trong các tài khoản ở ngân hàng được lưu trữ trong hệ

thống máy tính của ngân hàng dưới hình thức điện tử (số hoá). Đông tiền trong hệ thống

như vậy được gọi là tiền điện tử (E-money) hoặc tiền số (Digi money). Như vậy, tiền điện

tử là tiền tệ tồn tại dưới hình thức điện tử, (số hoá) Hai hệ thống thanh toán điện tử lớn nhất

hiện này là CHIPS (Clearing House Interbank Payment System- Hệ thống thanh toán bổ

trợ liên ngân hàng) và SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial

Telecommunication). Các hệ thống này cho phép thực hiện các hoạt động thanh toán điện

tử giữa các ngân hàng không chỉ trong một quốc gia mà cũng trên phạm vi quốc tế. Ngoài

ngân hàng ra, các quỹ đầu tư trên thị trường tiền tệ và chứng khoán, các công ty chứng

khoán và cả các công ty kinh doanh ngày nay cũng rất tích cực sử dụng hệ thống này trong

các hoạt động thanh toán, chuyển tiền của mình. Ngoài dùng các hoạt động chuyển khoản,

tiền điện tử cũng được sử dụng trực tiếp trong các giao dịch dưới các hình thức sau:

 Các thẻ thanh toán: Là các tấm thẻ do ngân hàng hoặc các công ty tài chính

phát hành mà nhờ đó, người ta có thể lưu thông những khoản tiền điện tử.

Các loại thẻ thanh toán hiện nay có nhiều loại với tính năng khác nhau gồm

thẻ rút tiền ATM (ATM card- bank card), thẻ tín dụng (credit card), thẻ ghi

nợ (debit card) và thẻ thông minh (Smart card).

 Tiền điện tử (Electronic cash- E-card): Đây là một dạng tiền điện tử được sử

dụng để mua sắm hàng hoá hoặc dịch vụ trên internet. Những người sử dụng

loại tiền này có thể tải tiền từ tài khoản của mình ở ngân hàng về máy tính cá

nhân, rồi khi duyệt web có thể chuyển tiền từ máy tính đến máy tính người

bán để thanh toán. Hiện nay, dạng tiền này đang được một công ty Hà Lan là

DigiCash cung cấp.

Những lợi thế của tiền điện tử nếu trên khiến chúng ta có thể nghĩ ràng nền kinh tế

sẽ mau chóng tiến tới không dùng tiền giấy. Tuy nhiên có nhiều lý do khiến cho

điều này không thể diễn ra ngày một ngày hai. Thứ nhất, việc thiết lập một hệ thống

máy tính, các máy đọc thẻ, mạng truyền thông cần thiết cho phương thức thanh toán

điện tử là tốn kém. Thứ hai, việc sử dụng các tờ séc bằng giấy có lợi tế là chúng

cung cấp các chứng từ xác nhận việc thanh toán, trong khi tiền điện tử không có

được điều này. Ngày nay, ở bất kỳ nền kinh tế nào, dự ở bất cứ mức độ phát triển

nào cũng có tính chất đa dạng nhất của việc tồn tại nhiều hình thái tiền tệ để tháa

mún tất cả những nhu cầu đa dạng của xã hội. Chẳng hạn ở Nhật Bản, Hoa Kỳ ngày

nay tiền giấy loại nhỏ, tiền kim loại vẫn cũng cần thiết được sử dụng cho việc chi

trả nhỏ bên cạnh các đồng tiền giấy hoặc tiền trên tài khoản có giá trị lớn.

IV. Các chế độ tiền tệ Chế độ tiền tệ là hệ thống các thể chế về tổ chức và quản lí lưu thông tiền tệ của một nước.

Nhà nước quyết định đơn vị tiền tệ, tỉ giá các loại dấu hiệu tiền tệ trong lưu thông và chế

độ phát hành chúng; cơ sở bảo đảm của tiền tệ, các hình thức chu chuyển, chi trả không

dùng tiền mặt; quy định một cách đều đặn tỉ giá đồng tiền quốc gia với đồng tiền ngoại tệ;

cơ sở bảo đảm giá trị đồng tiền; phân định ranh giới và quản lí chặt chẽ các lĩnh vực chu

chuyển, chi trả bằng tiền mặt và không dùng tiền mặt trong nền kinh tế quốc dân.

Lịch sử phát triển tiền tệ cho thấy, bản vị tiền tệ của các nước do điều kiện cụ thể của mỗi

thời kỳ quyết định. Cho đến nay các chế độ bản vị tiền tệ sau đây đã được sử dụng:

i. Chế độ song bản vị: Đồng tiền của một nước được xác định bằng một trọng lượng

cố định của hai kim loại (thường là vàng và bạc). Ví dụ: năm 1792, 1 USD vàng

bằng 1.603 gam vàng ròng; 1 USD bạc bằng 24,06 gam bạc ròng. Do đó, trọng

lượng 1 USD bạc bằng 15 lần trọng lượng 1 USD vàng. Chế độ này từng được áp

dụng ở Anh,Hoa Kỳ trước thế kỷ 19.

ii. Chế độ bản vị tiền vàng: Đồng tiền của một nước được bảo đảm bằng một trọng

lượng vàng nhất định theo quy định của pháp luật với những yêu cầu như Nhà nước

không hạn chế việc đúc tiền vàng, tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định một

trọng lượng vàng nhất định và được tự do chuyển đỏi ra vàng theo tỉ lệ đó, và tiền

vàng được lưu thông không hạn chế. Chế độ này được áp dụng phổ biến ở các nước

cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỉ XX.

iii. Chế độ bản vị vàng thỏi: Chế độ này cũng quy định cho đơn vị tiền tệ quốc gia một

trọng lượng vàng cố định. Nhưng vàng được đúc thành thỏi mà không thành tiền,

không lưu thông trong nền kinh tế mà chỉ dự trữ để làm phương tiện thanh toán quốc

tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài. Tiền giấy quốc gia được đổi ra vàng theo

luật định. Chế độ này từng được áp dụng ở Anh năm 1925, ở Pháp năm 1928...

iv. Chế độ bản vị vàng hối đoái: Đây là chế độ quy định tiền giấy quốc gia không được

trực tiếp chuyển đổi ra vàng. Muốn đổi ra vàng, cần phải thông qua một ngoại tệ.

Ngoại tệ đó phải được tự do chuyển đổi ra vàng như USD, Bảng Anh... Chế độ này

từng được áp dụng ở Ấn Độ năm 1898, ở Đức năm 1924, ở Hà Lan năm 1928...

v. Chế độ bản vị ngoại tệ: Chế độ này quy định đơn vị tiền tệ quốc gia được xác định

bằng đơn vị tiền tệ của nước ngoài (ngoại tệ). Đó là các ngoại tệ mạnh và được tự

do chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Chế độ này sử dụng phổ biến ở những nước

có ít vàng hoặc bị lệ thuộc vào nước khác. Chế độ này từng được áp dụng từ 1944-

1971. Bắt đầu sụp đổ từ 1960.

vi. Chế độ bản vị tiền tệ tập thể: Gồm chế độ “Quyền rút vốn đặc biệt” SDR của IMF

phát hành năm 1970. Với SDR cho phép quốc gia sở hữu có được quyền ưu tiên

trao đổi trong nội bộ IMF để lấy ngoại tệ mạnh. Và đồng tiền chung Châu Âu được

phát hành trong Liên minh Châu Âu dùng làm đồng tiền chung của các nước trong

liên minh. Đồng EURO đượcchính thức lưu hànhtrong nội bộ EU dưới dạng tiền

ghi sổ (bút tệ). 1/7/2002, phát hành tiền giấy EURO vào lưu thông dần dần thay thế

các đồng tiền quốc gia. Các nước sử dụng đồng EURO hy vọng rằng đây sẽ là đồng

tiền quốc tế mạnh, là đối thủ cạnh tranhcủa Đô-la Mỹ, và sẽ được sử dụng rộng rãi

trong các giao dịch tài chính quốc tế.

vii. Chế độ bản vị tiền giấy không chuyển đổi ra vàng: Dưới chế độ này, đơn vị tiền tệ

của một quốc gia không được chuyển đổi ra kim loại quý. Theo đó, vàng bị rút ra

khỏi lưu thông trong nước, tiền giấy không được đổi ra vàng và vàng chỉ được dùng

để thanh toán quốc tế. Chế độ này còn được gọi là chế độ tiền pháp định hay tiền có

dấu hiệu giá trị.

V. Cung – Cầu tiền tệ 1. Cầu tiền tệ 1.1. Khái niệm Cầu tiền tệ là tổng khối lượng mà các tổ chức và cá nhân cần có để thỏa mãn các nhu cầu trao đổi, thanh toán và tích lũy giá trị.

Cầu tiền tệ không trực tiếp quyết định mức cung tiền tệ vì mức cung tiền tệ phụ thuộc và

Ngân hàng trung ương. Cầu tiền tệ thường tác động gián tiếp tới mức cung tiền tệ thông

qua sự biến động về giá cả trên thị trường, lãi suất …

1.2. Lý thuyết cầu tiền Nghiên cứu cầu tiền có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với mỗi ngân hàng trung ương

(NHTW). Nghiên cứu cầu tiền làm cơ sở cho NHTW đưa ra quyết định về cung ứng tiền,

và thông qua nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền giúp cho việc lựa chọn chính

sách trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bởi vậy việc xây dựng cho nền kinh tế một mô hình

cầu tiền đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu các nhân tố của chính sách tiền tệ.

Sau đây chúng ta sẽ xem xét một cách khái quát các lý thuyết cầu tiền bắt đầu từ các học

thuyết cổ điển của các nhà kinh tế như Irving Fisher, Alfred Marshall và A.C. Pigou, các

học thuyết của Keynes và sau Keynes về cầu tiền tệ, mô hình về cầu tiền của Wong.

1.2.1. Lý thuyết cầu tiền của Irving Fisher – Lý thuyết số lượng tiền tệ Lý thuyết của Irving Fisher không đề cập trực tiếp đến cầu tiền mà đề cập gián tiếp đến cầu

tiền thông qua phân tích “tốc độ chu chuyển của tiền” tức là, số lần trung bình trong một

năm mà một đơn vị tiền tệ được chi dùng để mua tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản

xuất trong nền kinh tế.

Học thuyết này đã chỉ ra mối liên hệ giữa tổng lượng tiền lưu hành (M) với tổng số chi tiêu

để mua hàng hoá thành phẩm và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế (PY - trong đó

P là mức giá cả, Y là tổng sản phẩm) bằng phương trình trao đổi:

MV = PY

Trong đó V là tốc độ chu chuyển của tiền tệ (tức là số lần trung bình một năm mà một đơn

vị tiền tệ được chi dùng để mua tổng số hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong nền

kinh tế vào năm đó).

Theo Irving Fisher, tốc độ V phụ thuộc vào phương thức thanh toán (dùng tiền mặt, hay

dùng tiền tín dụng, hay ghi sổ nợ v.v...) sử dụng trong các giao dịch. Thói quen thanh toán

này thay đổi một cách chậm chạp qua thời gian cho nên tốc độ V thông thường sẽ ổn định

trong thời gian ngắn. Mặt khác, các nhà kinh tế cổ điển (bao gồm cả Irving Fisher) cho

rằng tiền lương và giá cả là hoàn toàn linh hoạt nên mức tổng sản phẩm được sản xuất ra

(Y) thường ở mức công ăn việc làm đầy đủ (mức sản lượng tiềm năng) cho nên có thể coi

Y là không thay đổi trong thời gian ngắn. Kết quả là khi khối lượng tiền lưu hành (M) tăng

lên, vì Y và V không thay đổi, nên mức giá (P) cũng tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Như vậy,

theo học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển thì những sự vận động trong mức giá cả chỉ là kết

quả của những thay đổi trong số lượng tiền tệ.

Vì học thuyết số lượng tiền tệ cho chúng ta biết bao nhiêu tiền được nắm giữ đối với một

mức tổng thu nhập đã cho, cho nên thực ra nó là một học thuyết về cầu tiền tệ. Ta có thể

viết lại phương trình trao đổi như sau:

M = 1/V × P

Khi thị trường tiền tệ cân bằng, số lượng tiền tệ mà các chủ thể kinh tế nắm giữ (M) bằng

mức cầu tiền tệ (Md). Ta có:

M d = k × PY

với k = 1/V là một hằng số vì V là hằng số.

Phương trình này cho thấy mức các giao dịch tạo ra bởi một mức cố định của thu nhập

danh nghĩa (PY) xác định mức cầu tiền tệ (Md). Như vậy, học thuyết số lượng tiền tệ của

Fisher nêu lên rằng mức cầu tiền tệ thuần tuý là một hàm số của thu nhập và do vậy lãi

suất không có ảnh hưởng đến cầu về tiền tệ. Fisher đi đến kết luận đó vì ông tin rằng các

chủ thể kinh tế giữ tiền chỉ để tiến hành các giao dịch và không được tự do quyết định số

lượng tiền tệ muốn nắm giữ.

1.2.2. Lý thuyết về cầu tiền của trường phái Cambridge Trong khi Irving Fisher đang phát triển quan điểm học thuyết số lượng tiền tệ của mình

về cầu tiền thì một nhóm các nhà kinh tế thuộc đại học Cambridge, Anh đại diện là Alfred

Marshall và A.C. Pigou cũng đang nghiên cứu cùng vấn đề đó.

Mặc dù sự phân tích của họ đưa đến một phương trình tương tự như phương trình cầu tiền

của Fisher ( M d = k × PY ), nhưng cách tiếp cận của họ khác với cách tiếp cận của Fisher.

Thay vì nghiên cứu cầu tiền tệ bằng cách chỉ nhìn vào mức giao dịch và cách thức các chủ

thể kinh tế tiến hành giao dịch, coi đó là những yếu tố quyết định chủ chốt, những nhà kinh

tế thuộc đại học Cambridge đặt câu hỏi xem các cá nhân sẽ muốn giữ bao nhiêu tiền. Theo

các nhà kinh tế đại học Cambridge, các cá nhân có sự linh hoạt trong quyết định nắm giữ

tiền và không bị ràng buộc ở cách thức giao dịch (tức là quyết định nắm giữ bao nhiêu tiền

của họ không phụ thuộc vào việc họ dùng tiền mặt hay tiền tín dụng trong giao dịch). Có

hai lý do khiến người ta muốn nắm giữ tiền:

Tiền là phương tiện trao đổi cho nên người ta cần tiền để tiến hành các giao dịch của mình.

Các nhà kinh tế đại học Cambridge đồng ý với Fisher rằng số lượng tiền tệ mà các cá nhân

muốn nắm giữ sẽ phụ thuộc vào mức độ giao dịch và do vậy sẽ phụ thuộc vào thu nhập

danh nghĩa (PY). Tuy nhiên chỉ có bộ phận cầu tiền dành cho giao dịch là tỷ lệ với thu

nhập danh nghĩa mà thôi.

Khác với Fisher, các nhà kinh tế đại học Cambridge cho rằng người ta còn nắm giữ tiền

như là phương tiện cất giữ của cải cho nên mức của cải của con người cũng ảnh hưởng đến

cầu tiền tệ. Bởi vì những nhà kinh tế đại học Cambridge tin rằng giá trị danh nghĩa của của

cải tỷ lệ với thu nhập danh nghĩa cho nên bộ phận cầu tiền cho mục đích cất trữ của cải

cũng tỷ lệ với thu nhập danh nghĩa.

Từ đó các nhà kinh tế đại học Cambridge kết luận rằng cầu tiền phải tỷ lệ với thu nhập

danh nghĩa và biểu thị hàm số cầu tiền tệ như sau:

M d = k × PY (với k là hằng số của tỷ lệ)

Mặc dù các nhà kinh tế đại học Cambridge coi k là hằng số và đồng ý với Fisher rằng

thu nhập danh nghĩa do lượng tiền tệ quyết định nhưng cách tiếp cận của họ cho phép các

cá nhân lựa chọn muốn nắm giữ bao nhiêu tiền. Điều này cho phép k có thể biến động trong

thời hạn ngắn bởi vì những quyết định dùng bao nhiêu tiền để cất giữ của cải phụ thuộc

vào lợi tức dự tính về các tài sản khác mà cũng hoạt động như phương tiện cất giữ của cải.

Nếu lợi tức dự tính của các tài sản khác thay đổi thì kcũng có thể thay đổi. Hệ số k vì thế

còn được gọi là hệ số "ưa thích tiền" vì nó cho chúng ta biết các chủ thể kinh tế muốn nắm

giữ bao nhiêu tiền trong tổng thu nhập của mình.

Tóm lại, cả hai, Irving Fisher và các nhà kinh tế trường phái Cambridge đã phát triển

một cách tiếp cận cổ điển về cầu tiền, theo đó cầu tiền tỷ lệ với thu nhập danh nghĩa. Tuy

nhiên, hai cách tiếp cận của họ khác nhau ở chỗ Fisher nhấn mạnh các nhân tố kỹ thuật

giao dịch và bác bỏ mọi khả năng của lãi suất ảnh hưởng đến cầu tiền tệ trong ngắn hạn,

trong khi trường phái Cambridge nhấn mạnh sự lựa chọn của cá nhân và không bác bỏ

những ảnh hưởng của lãi suất mặc dù họ cũng không khai thác những ảnh hưởng rõ ràng

của lãi suất đối với cầu tiền tệ.

1.2.3. Lý thuyết cầu tiền tệ của Keynes - Lý thuyết ưa thích tiền mặt Với mô hình Cambridge, các cá nhân có một sự linh hoạt trong việc quyết định nắm giữ

tiền và hoàn toàn không ràng buộc vào những hạn chế về thể chế. Do đó, cách tiếp cận

của Cambridge không xoá bỏ các ảnh hưởng của lãi suất đến cầu tiền tệ. Các nhà kinh tế

tân cổ điển này thừa nhận rằng tiền tệ có hai thuộc tính thúc đẩy người ta muốn giữ tiền.

Tiền hoạt động như một phương tiện trao đổi mà người ta cần dùng để tiến hành các giao

dịch và tiền hoạt động như một phương tiện giữ của cải. Theo họ, người ta nắm giữ tiền

không chỉ cho nhu cầu giao dịch mà còn cho nhu cầu tích luỹ giá trị.

Lý thuyết về cầu tiền tệ này được J.M.Keynes (1883 - 1946) giới thiệu trong cuốn

"Học thuyết chung về công ăn việc làm, lãi và tiền tệ" của mình vào năm 1936. Keynes từ

bỏ quan điểm cổ điển cho rằng tốc độ chu chuyển của tiền là một hằng số và phát triển một

học thuyết về cầu tiền tệ trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của lãi suất.

Là một người thuộc trường phái Cambridge nên Keynes đương nhiên cũng đi theo quan

điểm do các nhà kinh tế học trường phái Cambridge đi trước đã phát triển. Lý thuyết về

cầu tiền của Keynes, được ông gọi là lý thuyết về sự ưa thích tiền mặt cũng đặt câu hỏi: tại

sao các cá nhân lại giữ tiền? Nhưng Keynes đã chính xác hơn nhiều so với những người

đi trước khi ông đi sâu tìm hiểu về những gì ảnh hưởng đến những quyết định nắm giữ tiền

của các cá nhân. Theo ông, có 3 động cơ nằm sau cầu về tiền tệ:

Động cơ giao dịch: Vì tiền là phương tiện trao đổi nên người ta cần có tiền để tiến hành

các giao dịch hàng ngày. Đi theo truyền thống cổ điển, Keynes nhấn mạnh rằng bộ phận

cấu thành đó của cầu tiền trước tiên là do mức giao dịch của dân chúng quyết định và tỷ lệ

thuận với thu nhập.

Động cơ dự phòng: Keynes đã đi xa hơn sự phân tích cổ điển bằng cách thừa nhận

rằng, ngoài việc giữ tiền để tiến hành các giao dịch hàng ngày, người ta còn có nhu cầu dự

trữ tiền cho các nhu cầu chi tiêu bất ngờ trong tương lai. Số tiền dự phòng mà người ta

muốn nắm giữ được xác định trước tiên bởi mức độ các giao dịch mà người ta dự tính sẽ

thực hiện trong tương lai, đến lượt số lượng những giao dịch này lại tỷ lệ với thu nhập.

Chính vì vậy cầu về tiền do động cơ dự phòng tỷ lệ với thu nhập.

Động cơ đầu cơ: Nếu như Keynes kết thúc học thuyết của mình với các động cơ giao dịch

và động cơ dự phòng thì thu nhập sẽ vẫn là yếu tố quyết định quan trọng duy nhất của cầu

tiền tệ, và như vậy có nghĩa là ông không thêm gì hơn vào cách tiếp cận của trường phái

Cambridge. Tuy nhiên, Keynes đồng ý với các nhà kinh tế cổ điển Cambridge rằng tiền tệ

là phương tiện cất giữ của cải và gọi động cơ giữ tiền đó là động cơ đầu cơ. Vì ông cũng

đồng ý với các nhà kinh tế Cambridge cổ điển rằng của cải tỷ lệ với thu nhập nên bộ phận

cầu tiền do động cơ đầu cơ cũng sẽ tỷ lệ với thu nhập. Tuy nhiên, Keynes lưu tâm cẩn thận

hơn đến những nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định về việc bao nhiêu tiền được nắm giữ

cho mục đích cất giữ của cải và ông cho rằng ngoài thu nhập, lãi suất cũng đóng một vai

trò quan trọng trong các quyết định này. Khi lãi suất tăng cao, người ta sẽ muốn nắm giữ

của cải hơn là tiền mặt và ngược lại, khi lãi suất giảm người ta sẽ nắm giữ tiền nhiều hơn

các loại của cải khác.

Đặt 3 động cơ chung với nhau Keynes rút ra hàm về cầu tiền tệ như sau:

Trong đó:

Md : Mức cầu tiền danh nghĩa

P: Mức giá cả trung bình

Y: Thu nhập

i : Lãi suất

Keynes đã cẩn thận phân biệt giữa số lượng danh nghĩa và số lượng thực tế. Theo Keynes,

vì tiền được đánh giá theo giá trị hàng hoá và dịch vụ mà nó có thể mua được cho nên

người ta muốngiữ một lượng nhất định số dư tiền thực tế (nghĩa là lượng tiền theo giá trị

thực). Và vì vậy cầu tiền tệ (thực tế) do ba động cơ ông chỉ ra sẽ tương quan với thu nhập

thực tế (Y) và lãi suất (i).

Dấu "-" dưới i trong hàm số ưa thích tiền mặt có nghĩa là cầu về số dư tiền thực tế liên

hệ âm với lãi suất (i), trong khi dấu "+" dưới Y có nghĩa là cầu về số dư tiền thực tế liên hệ

dương với thu nhập thực tế (Y).

Để xem Keynes giải thích thế nào về sự biến động của tốc độ V, ta hãy tính V trên cơ sở

hàm số ưa thích tiền mặt với sự thừa nhận rằng Md có thể thay bằng M trong sự cân bằng

của thị trường tiền tệ:

Vì cầu tiền tệ liên hệ âm với lãi suất nên khi i tăng lên f(i, Y) giảm xuống làm tốc độ V

tăng lên. Nói cách khác, một sự tăng lên của lãi suất khuyến khích người ta giữ ít số dư

tiền thực tế hơn so với một mức thu nhập đã cho biết, do đó tốc độ V phải cao hơn.

Do những chuyển động của lãi suất có tính chu kỳ: giảm xuống trong thời kỳ suy thoái

và tăng lên trong thời kỳ hưng thịnh nên cũng dẫn đến những chuyển động chu kỳ của tốc

độ lưu thông tiền tệ. Nghĩa là, tốc độ lưu thông tiền tệ không phải là một hằng số như quan

điểm của các nhà kinh tế học cổ điển nữa.

1.2.4. Lý thuyết cầu tiền tệ của Milton Friedman - Học thuyết số lượng tiền tệ hiện đại Năm 1956, Milton Friedman đã phát triển một học thuyết mới về cầu tiền tệ trong bài báo

nổi tiếng của mình "Học thuyết số lượng tiền tệ: Một sự xác nhận lại". Cũng giống như

Keynes, ông tìm hiểu cầu tiền tệ bắt đầu từ câu hỏi tại sao người ta chọn việc giữ tiền.

Nhưng thay vì phân tích những động cơ đặc biệt thúc đẩy việc giữ tiền như Keynes đã làm,

Friedman đơn giản nêu lên rằng cầu tiền tệ phải chịu ảnh hưởng bởi cùng những nhân tố

ảnh hưởng tới cầu của bất kỳ tài sản nào. Ngoài tiền, các chủ thể trong nền kinh tế có thể

giữ nhiều hình thức của cải khác, được chia thành ba loại: trái khoán, cổ phiếu, hàng hóa.

Động lực cho việc giữ các tài sản ngoài tiền thể hiện bằng lợi tức dự tính về mỗi một tài

sản đó so với lợi tức dự tính về tiền. Lợi tức dự tính về tiền bị ảnh hưởng bởi lãi trả cho

các khoản tiền gửi nằm trong cung tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng đi kèm khoản tiền gửi.

Từ sự phân tích đó, Friedman đã đưa ra hàm số cầu tiền tệ như sau:

=

f(Yp, rb – rm, re – rm, pe – rm)

Md P

+

-

-

-

Md/P là cầu về số dư tiền thực tế

Yp = phép đo của cải của Friedman được gọi là thu nhập thường xuyên (về mặt kỹ thuật,

nó bằng giá trị được chiết khấu về hiện tại của các thu nhập tương lai dự tính) và có thể mô

tả một cách dễ hiểu hơn như là thu nhập dài hạn bình quân dự tính.

rm là lợi tức dự tính về tiền

rb là lợi tức dự tính về trái phiếu

re là lợi tức dự tính về vốn cổ phần (cổ phiếu thường) pe là tỷ lệ lạm phát dự tính

Các dấu ở dưới phương trình chỉ ra rằng cầu tiền tệ liên hệ dương (+) hay âm (-) với các

số hạng ngay trên dấu đó.

Trong hàm cầu tiền của Friedman, các số hạng (rb - rm) và (re - rm) biểu thị cho lợi tức dự

tính về trái phiếu và cổ phiếu so với lợi tức dự tính về tiền. Khi chúng tăng lên cầu tiền tệ

sẽ giảm xuống. Số hạng sau cùng (pe - rm) biểu thị cho lợi tức dự tính về hàng hoá so với

tiền. Lợi tức dự tính về giữ hàng hoá là tỷ lệ dự tính của khoản lợi về vốn phát sinh khi giá

cả hàng hoá tăng lên (tăng bằng tỷ lệ lạm phát dự tính pe). Khi (pe - rm) tăng lên, lợi tức dự

tính về hàng hoá so với tiền tăng lên và cầu tiền tệ giảm xuống.

Friedman không coi lợi tức dự tính về tiền là một hằng số như Keynes. Khi lãi suất tăng

lên trong nền kinh tế, các ngân hàng thu được nhiều lợi trong việc cho vay hơn và vì thế

họ muốn thu hút nhiều tiền gửi để tăng hơn nữa khối lượng các khoản cho vay lấy lãi của

mình hiện nay. Kết quả là lợi tức về tiền được giữ dưới dạng tiền gửi ngân hàng tăng lên

cùng với lãi suất và (rb - rm) ổn định tương đối khi lãi suất tăng. Như vậy, khác với học

thuyết của Keynes cho rằng lãi suất là một yếu tố quyết định của cầu tiền tệ thì học thuyết

của Friedman chỉ ra rằng những thay đổi của lãi suất sẽ ít có tác dụng đến cầu tiền tệ. Do

vậy, hàm số cầu tiền tệ của Friedman chủ yếu là một hàm số mà trong đó thu nhập thường

xuyên là yếu tố quyết định đầu tiên của cầu tiền tệ. Phương trình cầu tiền tệ của ông có thể

được tính gần đúng với Md/P = f (Y ) . p

Hàm cầu tiền theo quan điểm của Friedman là tương đối ổn định vì những thay đổi trong

lãi suất chỉ có những ảnh hưởng nhỏ đến cầu tiền tệ trong khi Yp lại tương đối ổn định và

có thể dự đoán được. Ông cũng suy ra là tốc độ V có thể dự đoán được vì:

Trong đó mối quan hệ giữa Y và Yp thông thường là hoàn toàn dự đoán được. Nếu chúng

ta có thể dự đoán tốc độ nào sẽ xảy ra trong thời kỳ tới thì lúc đó một sự thay đổi trong

lượng tiền tệ sẽ gây nên một sự thay đổi dự đoán được trong tổng chi tiêu. Như vậy, ngay

cả khi tốc độ không còn được coi là đứng yên thì cung tiền tệ tiếp tục được coi là yếu tố

quyết định đầu tiên của thu nhập danh nghĩa, hoàn toàn giống với kết luận của học thuyết

số lượng tiền tệ trước đây. Do đó, học thuyết cầu tiền tệ của Friedman thực sự là một sự

phát biểu lại học thuyết số lượng tiền tệ cổ điển bởi vì nó dẫn đến cùng một kết luận về

tầm quan trọng của tiền đối với tổng chi tiêu.

Trong hàm số ưa thích tiền mặt của Keynes (trong đó lãi suất là một yếu tố quan trọng của

cầu tiền) có thể giải thích được những chuyển động chu kỳ của tốc độ. Vậy cách trình bày

của Friedman có giải thích được hiện tượng đó không? Điểm mấu chốt để trả lời câu hỏi này

là khái niệm thu nhập thường xuyên (Yp) mà Friedman dùng trong hàm cầu tiền tệ của

mình không giống với khái niệm thu nhập (Y) được đo lường trong hàm số cầu tiền tệ của

Keynes. Bởi vì nhiều sự tăng lên của thu nhập trong thời kỳ bành trướng của chu kỳ kinh

doanh chỉ là tạm thời cho nên thu nhập thường xuyên tăng lên ít hơn nhiều so với thu nhập.

Như vậy f(Yp) chỉ tăng lên một mức nhỏ hơn so với sự tăng lên của Y trong công thức trên,

kết quả là V tăng. Tương tự, trong một cuộc suy thoái, cầu tiền tệ giảm xuống ít hơn thu

nhập bởi vì sự sụt xuống của thu nhập thường xuyên là nhỏ so với thu nhập, kết quả là theo

công thức trên tốc độ giảm xuống. Theo cách đó, chúng ta có chuyển động chu kỳ của tốc

độ V.

Có hai sự khác nhau chủ yếu giữa Học thuyết của Friedman với Học thuyết của Keynes.

Friedman tin rằng những thay đổi trong lãi suất có ít ảnh hưởng đến lợi tức dự tính về các

tài sản khác so với tiền. Như vậy, ngược lại với Keynes, ông cho rằng cầu tiền tệ không

nhạy cảm với lãi suất. Hơn thế nữa, ông còn khác với Keynes trong việc nhấn mạnh rằng

hàm số cầu tiền tệ là ổn định.

1.2.5. Mô hình Wong Phát triển những tư tưởng của Friedman, Wong đã chỉ ra từ đặc trưng của các nước

đang phát triển, là tỷ lệ lãi suất không nhạy cảm đối với cầu tiền nhưng việc khối

lượng tiền tín dụng cho xã hội có ảnh hưởng đến cầu tiền. Vì vậy Wong đã đưa ra

hàm cầu tiền cho một số nước đang phát triển như sau:

MOd

t = g[Ye

t, CRe

t, (ΔPt/Pt-1)e

, ut]

Trong đó

MOt là lượng tiền trung bình (tức là tiền trong lưu thông cộng với tiền gửi không kỳ hạn)

trong thời kỳ t MOd t là cầu tiền trong dài hạn trong thời kỳ t

Yt là GDP danh nghĩa trong thời kỳ t

CRt là chỉ số của bậc hạn chế tín dụng trong thời kỳ t

∆Pt/Pt-1 là phần trăm thay đổi trong chỉ số giá (hoặc tỷ lệ lạm phát) trong thời kỳ t

Theo Wong, bậc hạn chế tín dụng có thể được xấp xỉ bằng các biến chứa đựng các yếu tố

có khối lượng tín dụng nội địa với dạng tùy theo đặc trưng của mỗi nền kinh tế. Với điều

kiện nền kinh tế Việt Nam, bậc hạn chế tín dụng được lựa chọn là CR = -DC/GDP, trong

đó:

DC là tín dụng nội địa ròng của hệ thống ngân hàng.

GDP là thu nhập thực tế. P là chỉ số giá tiêu dùng.

Việc lựa chọn bậc tín dụng dưới dạng như vậy nhằm đưa ra được ảnh hưởng của khối lượng

tín dụng nội địa ròng vào trong hàm cầu tiền thông qua tỷ lệ giữa tín dụng ròng và thu nhập.

Tỷ lệ này phản ánh tính hợp lý hay không của sự mở rộng hay thu hẹp tiền tệ trong nền

kinh tế thông qua kênh tín dụng và đây cũng là một trong các chỉ số để đánh giá tính bất

ổn của nền kinh tế.

Kết luận:

Như vậy, các nghiên cứu trên đã cho thấy trong mối quan hệ giữa cầu tiền với các biến

vĩ mô, yếu tố thu nhập và lạm phát ñóng vai trò quan trọng. Đặc biệt chỉ có mô hình

của Wong cho thấy vai trò của nhân tố bậc hạn chế tín dụng (mà thực chất là khối lượng

tiền tín dụng) có ảnh hưởng đến cầu tiền trong các nước đang phát triển.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới cầu tiền Những nghiên cứu về chức năng của tiền tệ đã giúp chúng ta hiểu được tại sao các chủ

thể kinh tế lại muốn nắm giữ tiền. Vì tiền là phương tiện trao đổi nên người ta cần đến tiền

trước tiên là để giao dịch (tức để mua sắm hàng hoá, dịch vụ). Do có chức năng cất trữ giá

trị nên tiền cũng có thể dùng làm nơi cất trữ tài sản. Tổng hợp số lượng tiền tệ mà các chủ

thể trong nền kinh tế cần để thoả mãn các nhu cầu chi tiêu và tích lũy được gọi là mức cung

tiền tệ. Chúng ta sẽ phân loại các yếu tố ảnh hưởng tới cầu tiền căn cứ theo nhu cầu nắm

giữ tiền theo phân loại Keynes và căn cứ vào các lý thuyết về cầu tiền.1

1.3.1. Căn cứ vào nhu cầu nắm giữ tiền Có thể chia nhu cầu nắm giữ tiền ra thành ba bộ phận sau tương ứng với các mục đích

sử dụng tiền khác nhau gồm nhu cầu giao dịch, nhu cầu dự phòng và nhu cầu tích lũy giá

trị.

(i) Bộ phận cầu tiền cho nhu cầu giao dịch

Nhà nước, các doanh nghiệp, tổ chức, các gia đình đều cần tiền làm phương tiện để hoạt

động giao dịch mua bán phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mình. Nhà nước

cần tiền để phục vụ các hoạt động hành chính, doanh nghiệp cần tiền để mua nguyên vật

liệu, trả lương cho công nhân, các gia đình cần tiền để mua hàng tiêu dùng, lương thực thực

phẩm. Tổng hợp các nhu cầu này thành nhu cầu tiền giao dịch.

Các yếu tố ảnh hưởng tới nhu cầu tiền giao dịch:

Thu nhập thực tế: Do nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch phụ thuộc vào tổng giá trị

các giao dịch mà các chủ thể kinh tế dự định tiến hành, mà tổng giá trị các giao dịch

này lại phụ thuộc vào thu nhập thực tế nên có thể nói thu nhập thực tế là nhân tố đầu

tiên tác động đến bộ phận cầu tiền này. Thu nhập thực tế tăng lên sẽ làm cầu tiền

cho giao dịch tăng lên và ngược lại.

Lợi tức dự tính của việc nắm giữ các tài sản khác: Việc quyết định để một bộ phận

thu nhập nhận được dưới dạng tiền cho nhu cầu giao dịch đã khiến cho các chủ thể

không thể sử dụng phần thu nhập đó để đầu tư vào các dạng tài sản sinh lời, như

khoản cho vay, giữ các trái phiếu, cổ phiếu... Khi lợi tức dự tính của việc nắm giữ

các tài sản sinh lời tăng lên sẽ làm cho nhu cầu tiền cho giao dịch giảm xuống và

ngược lại. Trong các loại tài sản sinh lời, các khoản nợ là loại tài sản phổ biến nhất

được các chủ thể kinh tế lựa chọn, do vậy, lãi suất được xem là nhân tố đặc trưng

cho lợi tức dự tính của các tài sản khác. Sự biến động trong mức lãi suất sẽ gây ra

những biến động ngược chiều trong cầu tiền tệ. Cũng cần lưu ý rằng, việc giữ các

tài sản sinh lợi dẫn tới chi phí giao dịch, chẳng hạn phí môi giới khi bán chứng

khoán, để chuyển đổi các tài sản sinh lời sang tiền cho nhu cầu giao dịch khi cần.

Hơn nữa, trong một số trường hợp việc đầu tư vào các tài sản sinh lời làm phát sinh

các khoảnchi phí đầu tư, chẳng hạn phí môi giới chứng khoán. Khi các khoản chi

phí này tăng lên sẽ làm giảm khoản lợi tức dự tính nhận được từ việc đầu tư vào các

tài sản sinh lợi, kết quả là làm cầu tiền tăng.Tuy nhiên, do các chi phí này là tương

đối ổn định trong ngắn hạn nên những biến động trong lãi suất vẫn được xem là

nguyên nhân dẫn tới những biến động trong cầu tiền.

Tính lỏng của các tài sản sinh lời: Sự phát triển của thị trường tài chính hiện đại đã

làm xuất hiện nhiều dạng tài sản tài chính có tính lỏng rất cao, khiến cho việc chuyển

qua lại giữa chúng và tiền chỉ đòi hỏi một khoản chi phí rất nhỏ. Điều này sẽ tạo

điều kiện cho các chủ thể kinh tế giảm thiểu số tiền nắm giữ cho nhu cầu giao dịch,

do đó sẽ làm giảm nhu cầu nắm giữ tiền cho giao dịch.

(ii). Bộ phận cầu tiền cho nhu cầu dự phòng

Ngoài những khoản chi tiêu thường xuyên, các doanh nghiệp, gia đình thường dự trữ

một khoản tiền để đáp ứng những chi tiêu bất thường, hoặc để chuẩn bị cho khi nghỉ hưu,

đối phó những thời kỳ khó khăn. Đây là bộ phận cầu tiền cho các nhu cầu dự phòng.

Do là bộ phận tiền dành cho nhu cầu giao dịch chi tiêu không dự tính trước được trong

tương lai nên bộ phận tiền tệ cho nhu cầu dự phòng cũng chịu ảnh hưởng bởi thu nhập thực

tế của chủ thể kinh tế, lợi tức dự tính của việc nắm giữ tài sản khác ngoài tiền. Khi thu nhập

thực tế tăng lên, tiền tệ cho dự phòng có xu hướng tăng lên mặc dù mối liên hệ này không

được chặt chẽ như với nhu cầu tiền giao dịch49, trong khi đó, khi lãi suất tăng, tiền dự

phòng lại có xu hướng giảm xuống. Nhưng nhân tố đặc trưng ảnh hưởng tới cầu tiền dự

phòng lại là điều kiện vĩ mô của nền kinh tế. Khi các chủ thể không chắc chắn về mức độ

giao dịch trong tương lai, họ sẽ tăng cường các khoản để giành và bộ phận tiền dự phòng

tăng lên.

(iii). Bộ phận cầu tiền cho nhu cầu cất trữ tài sản

Đây là bộ phận cầu tiền cho nhu cầu cất trữ tài sản dưới dạng tiền. Cất trữ tài sản dưới

dạng tiền thì không bị rủi ro mất vốn như khi cất trữ tài sản dưới dạng khác (gửi tiền thì

ngân hàng có thể bị phá sản, đầu tư vào cổ phiếu hay trái phiếu có thể bị mất vốn do chúng

giảm giá, đầu tư vào hàng hoá cũng vậy) lại có tính lỏng cao nhất (vì có thể dùng làm

phương tiện thanh toán bất cứ khi nào để thoả mãn nhu cầu chi tiêu). Tuy nhiên, do có mức

sinh lời thấp (một nhân tố được các chủ thể chú trọng khi cất trữ tài sản) nên tiền chỉ được

cất trữ làm tài sản với mục đích phân tán rủi ro mà thôi.

Các nhân tố ảnh hưởng:

Thu nhập thực tế: liên hệ dương với nhu cầu tiền cho tích luỹ tài sản.

Lợi tức dự tính của việc nắm giữ các tài sản khác: tăng làm chi phí cơ hội của việc

giữ tiền tăng khiến cầu tiền giảm. Đối với bộ phận cầu tiền này, lãi suất có ảnh

hưởng mạnh hơn so với các bộ phận cầu tiền khác.

Rủi ro của các tài sản sinh lời khác: tăng làm cầu tiền cho nhu cầu cất trữ tài sản

tăng.

Tính lỏng của các tài sản sinh lời khác: tăng làm cầu tiền cho nhu cầu cất trữ tài sản

giảm

1.3.2. Phân loại theo các lý thuyết về cầu tiền: Việc phân lại theo các lý thuyết về cầu tiền cho ta biết chính xác từng nhân tố cụ thể nào

ảnh hưởng tới cầu tiền và thông qua đó có thể đo lường và ước lượng được mối tương quan

giữa các nhân tố này với cầu tiền:

 GDP danh nghĩa: GDP danh nghĩa tăng dẫn đến nhu cầu tiền tệ tăng. Các học thuyết

của Irving Fisher, trường phái Cambridge, Milton Friedman, hay Wong đều coi

trọng nhân tố này;

 Lãi suất: Khi lãi suất tăng, cầu về tiền giảm xuống. Keynes, William Baumol và

James Tobin tin vào điều này trong khi Milton Friedman lại bác bỏ điều này.

 Lợi tức của các khoản đầu tư dự tính là cổ phiếu và trái phiếu: Khi lợi tức của các

khoản này tăng lên so với lợi tức thu được từ tiền tiền thì nhu cầu nắm giữ tiền giảm

xuống (lý thuyết của Milton Friedman)

 Lạm phát dự dự tính: Khi lạm phát dự tính tăng cao trong tương lai thì nhu cầu tiền

sẽ giảm xuống (lý thuyết của Milton Friedman, Wong).

 Khối lượng tiền tín dụng: Nếu NHTM đáp ứng đủ lượng tiền tín dụng cho nền kinh

tế thì nhu cầu tiền thật sẽ giảm xuống (doanh nghiệp không thu hút tiền qua các

kênh khác…)

2. Cung tiền 2.1. Khái niệm Mức cung tiền tệ là lượng tiền được cung ứng nhằm thoả mãn các nhu cầu trao đổi, thanh

toán và dự trữ của các chủ thể trong nền kinh tế. Mức cung tiền cần phải tương ứng với

mức cầu về tiền tệ ở một biên độ cho phép. Sự thiếu hụt hay dư thừa của cung tiền tệ so

với cầu đều có thể dẫn tới những tác động bất lợi cho nền kinh tế.

Điều quan trọng khi nghiên cứu về mức cung tiền tệ là xác định thành phần của lượng

tiền cung ứng. Tức là, xác định những cái gì được coi là tiền trong nền kinh tế và do vậy

sẽ được đưa vào phạm vi đo lượng tiền. Việc xác định này về mặt lý thuyết căn cứ vào định

nghĩa về tiền tệ, tức là bất cứ cái gì được thừa nhận chung là phương tiện thanh toán cho

hàng hoá, dịch vụ hay các khoản nợ thì đều được coi là tiền. Tuy nhiên tiêu chuẩn đặt ra

như vậy vấp phải khó khăn trong ứng dụng thực tiễn. Nếu như tiền giấy hay các tài khoản

séc dễ dàng được coi là tiền vì chúng được sử dụng trực tiếp làm phương tiện thanh toán

trong nền kinh tế một cách phổ biến, thì các tài khoản tiền gửi ngắn hạn, các giấy chứng

nhận tiền gửi v.v... có được coi là tiền tệ không? Tuy chúng không được sử dụng trực tiếp

làm phương tiện thanh toán nhưng sự phát triển của thị trường tài chính hiện đại đã khiến

cho chúng có khả năng đổi ra tiền một cách dễ dàng khi cần, và do vậy chắc chắn sẽ ảnh

hưởng đến tổng phương tiện thanh toán (tổng lượng tiền) của xã hội.

2.2. Các phép đo cung tiền Do tính lỏng của một tài sản tài chính càng cao thì ảnh hưởng của chúng tới tổng

phương tiện thanh toán càng lớn và ngay bản thân tiền giấy và tài khoản séc (với tư cách

là các phương tiện thanh toán trực tiếp trong nền kinh tế) cũng có thể coi là một dạng tài

sản tài chính có tính lỏng cao nhất nên người ta đã căn cứ vào tính lỏng của các tài sản tài

chính để xác định thành phần lượng tiền cung ứng. Tiêu chí này dẫn đến sự hình thành nên

nhiều phép đo lượng tiền khác nhau tuỳ theo quan niệm rộng hay hẹp về tiền tệ. Chúng

được ký hiệu là M1, M2, .... (M là viết tắt của chữ Monetary aggregates - Tổng lượng tiền),

trong đó các phép đo sau sẽ bao gồm phép đo trước cộng thêm các dạng tài sản tài chính

có tính lỏng kém hơn. Các phép đo lượng tiền cung ứng thường được sử dụng gồm:

Phép đo M0 (còn gọi là phép đo lượng tiền mặt) bao gồm:

Tiền mặt (Cash - ký hiệu là C): là bộ phận tiền giấy do ngân hàng trung ương phát hành

lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng. Nó bằng lượng tiền giấy do ngân hàng trung ương

phát hành trừ đi lượng tiền giấy do các ngân hàng (kể cả ngân hàng trung ương) nắm giữ.

Đây là bộ phận tiền tệ có tính lỏng cao nhất và đang có xu hướng giảm dần trong tổng

phương tiện thanh toán. Ở các nước phát triển, bộ phận tiền mặt trong lưu thông chỉ chiếm

khoảng 5 - 7% mức cung tiền tệ. Ở Việt Nam, M0 giảm mạnh từ tỷ trọng 60 - 70% đầu

những năm 1990 xuống còn khoảng 30% trong những năm gần đây.

Phép đo M0

 Tổng lượng tiền mặt do NHTW phát hành đang được lưu thông (Tiền cơ sở; Tiền

hẹp; Tiền mặt có thể chi tiêu ngay lập tức).

 M0

 Tiền gửi không kỳ hạn (Demand deposit - ký hiệu DD): gồm những khoản tiền gửi

Phép đo M1 (còn gọi là phép đo lượng tiền giao dịch) bao gồm:

có thể rút ra bất cứ lúc nào theo yêu cầu, có thể tồn tại dưới tài khoản phát séc hoặc

không phát séc.

Đây là bộ phận tiền được sử dụng cho các giao dịch thường xuyên và là đối tượng kiểm

soát trước hết của ngân hàng trung ương các nước.

 M1 và

Phép đo M2, bao gồm:

 Tiền gửi tiết kiệm (Saving deposit - SD)

 Tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng (Time deposit - TD)

M2 kém linh hoạt hơn M1 nhưng sự kiểm soát M2 là quan trọng vì tiền gửi tiết kiện và tiền

gửi có kỳ hạn tại ngân hàng là lượng tiền giao dịch tiềm năng. Hơn nữa, giữa chúng và M1

thường xuyên có sự chuyển hoá lẫn nhau.

 M2 và

 Các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác (ngoài ngân hàng)

Phép đo M3 thêm vào những loại tài sản kém lỏng hơn, bao gồm:

 M3 và

 Các chứng khoán có giá: tín phiếu kho bạc, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng...

Và cuối cùng là phép đo rộng nhất L bao gồm:

Vì trình độ phát triển của thị trường tài chính không giống nhau giữa các nước và thay

đổi theo thời gian nên thành phần của các phép đo nêu ở trên có thể khác nhau giữa các

quốc gia và thay đổi theo thời gian. Ví dụ: Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) còn đưa thêm

séc du lịch và các dạng tiền gửi có thể phát séc khác vào phép đo M1, ở phép đo M2 họ

tách tiền gửi có kỳ hạn thành tiền gửi có kỳ hạn lượng nhỏ thì để lại M2 còn tiền gửi có kỳ

hạn lượng lớn thì đưa sang M3 và thêm vào M2 tài khoản tiền gửi tại thị trường tiền tệ, cổ

phần quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ (không có tính tổ chức). Việt Nam thì thêm vào M2

kỳ phiếu ngân hàng thương mại. Việc lựa chọn ra một phép đo lượng tiền chính thức trong

thực tế sẽ căn cứ vào việc phép đo lượng tiền nào giúp thực hiện được tốt nhất việc dự báo

các biến số kinh tế mà tiền tệ có ảnh hưởng nhiều như tỉ lệ lạm phát, chu kỳ kinh doanh.

Trên thực tế các quốc gia thường sử dụng phép đo M1 hoặc M2. Việt Nam chúng ta sử

dụng phép đo M2.

Cần lưu ý rằng, việc thu thập các số liệu về lượng tiền cung ứng của các ngân hàng

trung ương không phải bao giờ cũng kịp thời và chính xác. Có hai lý do khách quan gây ra

điều này: Thứ nhất, các báo cáo của các tổ chức tín dụng nhỏ như quỹ tín dụng, quỹ tiết

kiệm... thường là định kỳ nên khi cần công bố thông tin về lượng tiền cung ứng ngân hàng

trung ương thường phải ước tính cho đến khi nhận được những báo cáo số liệu thực vào

một ngày trong tương lai. Thứ hai, những biến động của lượng tiền cung ứng mang tính

thời vụ, chẳng hạn tổng lượng tiền cung ứng luôn tăng vào các dịp lễ tết do chi tiêu của các

hộ gia đình tăng lên. Mức tăng này không hoàn toàn giống nhau giữa các năm, và thường

thì khi chưa có số liệu cụ thể, các ngân hàng trung ương sẽ đưa ra các số liệu ước tính dựa

vào các thống kê của các năm trước. Kết quả là những số liệu ước đoán này sẽ không phải

bao giờ cũng chính xác. Những số liệu này sẽ được điều chỉnh lại cho chính xác khi có đầy

đủ số liệu. Những khác biệt giữa số liệu ước tính và số liệu được điều chỉnh lại khi có đủ

số liệu nhiều khi dẫn đến những bức tranh khác nhau về những gì đang xảy ra đối với lượng

tiền cung ứng. Ví dụ theo những số liệu ước tính thì tỉ lệ tăng trưởng của mức cung tiền

giảm nhưng theo những số liệu đã được điều chỉnh thì tỉ lệ tăng trưởng của mức cung tiền

lại là tăng nhẹ. Tình trạng này hay xảy ra với các thống kê ngắn hạn, ví dụ mức cung tiền

hàng tháng, nhưng có xu hướng mất đi khi thời gian thống kê dài hơn, ví dụ mức cung tiền

hàng năm. Vì vậy, khi nghiên cứu về lượng cung ứng tiền tệ, chúng ta không cần phải chú

ý đến những biến động ngắn hạn trong số lượng tiền cung ứng mà chỉ tập trung vào những

biến động dài hạn của nó.

2.3. Chủ thể cung ứng tiền cho nền kinh tế 2.3.1. Ngân hàng trung ương Việc cung ứng tiền vào lưu thông thường do ngân hàng trung ương đảm nhiệm. Hàng

năm, trên cơ sở tính toán nhu cầu tiền trong lưu thông biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ

mô như tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tình hình ngân sách nhà nước và tình hình

cán cân thanh toán quốc tế, ngân hàng trung ương sẽ lên kế hoạch cung ứng tiền vào lưu

thông thông qua bốn kênh chủ yếu:

Phát hành qua thị trường mở: ngân hàng trung ương cung ứng tiền thông qua việc mua

vào từ thị trường tiền tệ các chứng khoán ngắn hạn. Tuỳ theo ngân hàng trung ương mua

chứng khoán từ các ngân hàng hay các chủ thể kinh tế phi ngân hàng mà dự trữ của các

ngân hàng hay tiền mặt trong lưu thông sẽ tăng lên.

Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ: ngân hàng trung ương cung ứng tiền thông

qua hành vi mua vàng hoặc ngoại tệ cho dự trữ quốc gia (National reserves). Lượng tiền

cung ứng vào lưu thông cũng sẽ tăng lên trực tiếp hoặc gián tiếp qua các ngân hàng trung

gian như trường hợp phát hành qua thị trường mở.

Phát hành qua các ngân hàng trung gian: ngân hàng trung ương cung ứng tiền thông

qua hành vi cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian, làm tăng dự trữ của các ngân hàng

này, qua đó tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng qui mô cho vay khiến lượng tiền đưa vào

lưu thông tăng thêm. Như vậy NHTƯ đã cung ứng tiền ra lưu thông gián tiếp qua các ngân

hàng trung gian. Lượng tiền này có thể dưới dạng tiền mặt hoặc tiền tín dụng tuỳ theo các

ngân hàng trung gian cho vay dưới dạng tiền mặt hay chuyển khoản. Ngân hàng trung ương

cho các ngân hàng trung gian vay chủ yếu dưới hai hình thức: chiết khấu hay tái chiết khấu

các giấy tờ có giá ngắn hạn và thế chấp hay ứng trước.

Phát hành qua chính phủ: ngân hàng trung ương cũng sẽ làm cho lượng tiền tăng lên

qua hành vi cho ngân sách nhà nước vay. Ngân hàng trung ương có thể cho vay trực tiếp

hoặc thông qua việc mua lại các chứng khoán chính phủ do kho bạc phát hành.

Qua các kênh trên, ngân hàng trung ương sẽ trực tiếp cung cấp một lượng tiền giấy và

tiền kim khí vào lưu thông, còn được gọi là tiền cơ sở hay cơ số tiền (ký hiệu là MB -

Monetary base). Trong quá trình lưu thông, một phần lượng tiền này được giữ trong tay

các chủ thể kinh tế (phi ngân hàng) - gọi là tiền mặt lưu hành (ký hiệu C - cash), một phần

nằm tại các ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ - gọi là tiền dự trữ trong các ngân hàng (ký

hiệu R - Reserves). Như vậy, cơ số tiền MB = C + R. Bộ phận tiền dự trữ của các ngân

hàng chia làm hai bộ phận nhỏ hơn là dự trữ bắt buộc (ký hiệu RR - Required reserves) -

là bộ phận tiền giấy mà các ngân hàng phải giữ lại theo yêu cầu của ngân hàng trung ương

và dự trữ vượt mức (ký hiệu ER - Excess reserves) - là bộ phận tiền giấy do các ngân hàng

tự ý giữ lại ngoài mức dự trữ theo yêu cầu, được xem như là thành phần nhàn rỗi của tiền

dự trữ . Qua hệ thống ngân hàng, bộ phận tiền dự trữ R có thể được nhân lên thành

lượng tiền tín dụng hay tiền gửi (ký hiệu D - Deposit) lớn hơn nhiều lần thông qua cơ chế

tạo tiền của hệ thống các ngân hàng trung gian.

Do tiền dự trữ không tham gia vào thanh toán nên tổng lượng tiền cung ứng vào lưu thông

sẽ là: Ms = C + D. Do cơ chế nhân tiền của hệ thống ngân hàng nên lượng tiền cung ứng

vào lưu thông MS lớn hơn lượng tiền giấy in ra nhiều lần. Tỷ số giữa mức cung tiền và

lượng tiền cơ sở gọi là số nhân tiền tệ (Money multiplier):

k = Ms / MB

Từ đó ta suy ra: MS = k × MB

Như vậy, mức cung tiền tệ trong nền kinh tế sẽ phụ thuộc vào 2 yếu tố chính là cơ số tiền

và số nhân tiền tệ. Số nhân tiền tệ lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc,

tỷ lệ dự trữ quá mức tại các ngân hàng trung gian, tỷ lệ giữ tiền mặt trong lưu thông so với

tiền gửi không kỳ hạn.

Vấn đề điều tiết cung ứng tiền của ngân hàng trung ương luôn có quan hệ hữu cơ với điều

tiết kinh tế nhằm đạt được mục tiêu kinh tế của chính sách tiền tệ quốc gia trong từng giai

đoạn.

2.3.1. Ngân hàng thương mại Cung tiền (Ms) là tổng khối lượng tiền hiện có trong nền kinh tế, đó cũng chính là M1.

Ms = Cp + D

Trong đó Cp : tiền mặt ngoài ngân hàng.

D: tiền gửi không kỳ hạn.

Cơ sở tiền tệ MB: là tổng của tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng và dự trữ thực tế của các

ngân hàng thương mại (R).

MB = C + R

Trong các nền kinh tế hiện đại, cung tiền bao giờ cũng lớn hơn cơ sở tiền tệ, đó là do quá

trình tạo ra tiền của các ngân hàng thương mại.

Ngân hàng thương mại đóng vai trò của một trung gian tài chính trong nền kinh tế. Chức

năng cơ bản của chúng là nhận tiền gửi và cho vay lại. Ngoài ra, nó còn có chức năng cơ

bản quan trọng khác trong nền kinh tế là cho phép các cá nhân và tổ chức sử dụng tài khoản

séc như là mộtphương tiện thanh toán.Trên cơ sở thực hiện các chức năng này, các ngân

hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cung tiền của nền kinh tế.

Quy mô và hình thức hoạt động của ngân hàng thương mại được thể hiện trên bảng tổng

kết tài sản của chúng.

Mỗi ngân hàng khi nhận được một khoản tiền gửi phải để lại dự trữ một tỷ lệ phần trăm

tiền mặt, nhằm bảo đảm khả năng ổn định cho việc chi trả thường xuyên của ngân hàng

thương mại và yêu cầu quản lý tiền tệ của ngân hàng trung ương.

Một tỷ lệ phần trăm tiền dự trữ gửi vào tài khoản dự trữ tại ngân hàng trung ương gọi là dự

trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định khác nhau theo từng

loại tiền gửi và từng loại ngân hàng, còn một phần dự trữ để tại ngân hàng gọi là dự trữ tùy

ý. Tỷ lệ dự trữ thực tế của ngân hàng là tổng của dự trữ bắt buộc và dự trữ tùy ý.

Giả sử trong nền kinh tế chỉ có một ngân hàng, ngân hàng A có tổng số tiền gửi là 100 triệu

đồng, tỷ lệ dự trữ thực tế là 10%. Nghĩa là, ngân hàng này giữ lại 10% tiền gửi đưới dạng

dự trữ và cho vay hết phần còn lại. Tài khoản của ngân hàng được biểu hiện:

Ngân hàng A

Tài sản có

Tài sản nợ

Dự trữ Cho vay

10 90

Tiền gửi

100

Các khoản nợ của ngân hàng A là 100 triệu, việc cho vay không làm thay đổi nghĩa vụ trả

nợ của ngân hàng đối với người gửi tiền. Trước khi ngân hàng A cho vay, cung ứng tiền tệ

bằng 100 triệu đồng dưới dạng tiền gửi vào ngân hàng. Nhưng khi ngân hàng A cho vay,

cung ứng tiền tệ tăng lên. Người gửi tiền vẫn có 100 triệu đồng tiền gửi không kỳ hạn,

nhưng giờ đây người vay tiền của ngân hàng nắm giữ 90 triệu đồng tiền mặt. Cung ứng

tiền tệ ( bằng tổng tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn) bằng 190 triệu đồng. Như vậy sau

khi giữ phần tiền dự trữ, ngân hàng cho vay phần tiền gửi còn lại và chính phần cho vay

này sẽ làm tăng cung tiền trong nền kinh tế.

Việc tạo ra cung tiền không ngừng lại ở đó. Trong thực tế không chỉ có một ngân hàng ví

dụ ngân hàng B và những người vay tiền ở ngân hàng A sang gửi tiền ở ngân hàng B. Sau

khi đã giữ lại phần dự trữ10% thì ngân hàng B lại cho vay hết số tiền gửi còn lại.

Ngân hàng B

Tài sản nợ

Dự trữ Cho vay

Tài sản có 9 81

Tiền gửi

90

Ngân hàng B tạo ra lượng tiền là 81 triệu đồng. Nếu 81 triệu đồng này được gửi vào ngân

hàng C và ngân hàng này cũng có tỷ lệ dự trư là 10%, nó sẽ giữ lại 8,1 triệu đồng dưới

dạng dự trữ và cho vay 72,9 triệu đồng.

Ngân hàng B

Tài sản có

Tài sản nợ

Dự trữ Cho vay

8.1 72.9

Tiền gửi

81

Nếu chúng ta tiếp tục quá trình tương tự cho nhiều ngân hàng và giả định rằng tất cả các

khoản nợ vay đều được gửi lại trong hệ thống ngân hàng thì tổng thay đổi trong lượng tiền

gửi là:

ΔD = ΔR + ΔR(1 – rd)1 + ΔR(1 – rd)2 + …+ ΔR(1 – rd)Q

Ta có thể chứng minh được:

ΔD = ΔR*(1/ rd)

Trong đó:

ΔD: Số lượng thay đổi tiền gửi trong ngân hàng:

ΔR: Sự thay đổi của dự trữ

rd : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Như vậy lượng tiền gửi trong hệ thống ngân hàng tăng lên bằng với lượng thay đổi dự trữ

nhân với số nghịch đảo của tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Số nghịch đảo của dự trữ bắt buộc là số

nhân tiền gửi đơn giản (1/rd). Tuy nhiên mô hình này không bàn đến việc giữ tiền của công

chúng do đó các nhà kinh tế phải xem xét cơ số tiền.

2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới cung tiền Giả sử:

(i) Khu vực ngân hàng muốn dự trữ một khoản tiền mặt R bằng một tỷ lệ “r” so với số

lượng tiền gửi D vào ngân hàng. Hay:

R = r*D  r = R/D

Lúc này r được gọi là tỷ lệ dự trữ

(ii). Khu vực phi ngân hàng muốm nắm một lượng tiền mặt C bằng một tỷ lệ “c” so với

tiền gửi D vào ngân hàng. Hay:

c = C/D

Lúc này c được gọi là tỷ lệ nắm giữ tiền mặt khu vực phi ngân hàng

Do lượng tiền mạnh bằng tiền mặt ngoài ngân hàng cộng với tiền dự trữ trong ngân hàng

hay:

MB = C + R

 MB = c*D + r*D = D(c + r)

Ngoài ra do lượng cung tiền Ms lại bằng tiền mặt ngoài ngân hàng và tiền gửi trong ngân

hàng hay:

Ms = C + D = c*D + D = (c + 1)*D

Ta được biết số nhân tiền tệ k chính là tỷ số giữa lượng cung tiền và tiền mạnh:

k = Ms/MB = D(c + r)/(c +1)/D = (c + 1)/(c + r) > 1

Tiếp tục, chúng ta biết trong ngân hàng chúng ta có hai loại dự trữ là dự trữ bắt buộc và

dự trữ tùy ý. Gọi rd là tỷ lệ dự trữ bắt buộc và rty là tỷ lệ dự trữ tùy ý. Lúc này:

r = rbb + rty

 k = (c + 1)/(c + rd + rty)

Từ công thức trên cho thấy có ba nhân tố cốt lõi ảnh hưởng tới cung tiền bao gồm:

 Lượng tiền mặt ngoài ngân hàng;

 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc; và

 Tỷ lệ dự trữ tùy ý.

Căn cứ vào các nhân tố này (chủ yếu là lượng tiền mặt ngoài ngân hàng và tỷ lệ dự trữ bắt

buộc) và NHTW thực thi các chính sách tiền tệ để làm tăng hoặc giảm số nhân tiền tệ thông

qua đó làm tăng hoặc giảm lượng cung tiền Ms.

3. Cân bằng cung cầu tiền tệ Thị trường tiền tệ luôn hướng về điểm cân bằng khi mức cung tiền tệ bằng mức cầu tiền

tệ. Điều kiện cho sự cân bằng của thị trường tiền tệ là:

Có nghĩa là cung tiền thực bằng cầu tiền thực:

i

s /P M

i

2

i

1

F(Y,i)

i

3

Q2

Q3

Q1

d M

/P

Sự cân bằng cung cầu tiền tệ sẽ xác định được mức lãi suất hay mức giá cả của tiền tệ i1.

Mức cầu tiền thực tế có liên hệ dương với thu nhập thực tế và liên hệ âm với lãi suất vì vậy

trên đồ thị phản ánh thị trường tiền tệ, đường cầu tiền thực tế (Md/P) có độ nghiêng xuống

dưới. Mức cung tiền được điều chỉnh bởi NHTW, do NHTW ấn định không phụ thuộc vào

lãi suất vì vậy đường cung tiền thực tế thẳng đứng. Giao điểm giữa đường cung tiền thực

tế và đường cầu tiền thực tế như đồ thị xác định lãi suất cân bằng của thị trường (i) tương

ướng với khối lượng tiền thực tế trong lưu thông (Q), nó phản ánh trạng thái mà thị trường

tiền tệ luôn hướng tới.

Nếu thị trường tiền tệ ở tại điểm 2, lượng cầu tiền thực tế thấp hơn lượng cung về tiền thực

tế một khoảng Q1 – Q2 tức là có sự dư cung về tiền. Nếu các tổ chức và cá nhân đang giữ

nhiều tiền hơn họ muốn ở mức lãi suất i2 cao hơn mức lãi suất cân bằng i1, họ sẽ cố gắng

giảm lượng tiền bằng cách mua các tài sản sinh lãi, tức là đem cho vay. Tuy nhiên khi có

ít người muốn vay với lãi suất i2 do vậy lãi suất thị trường sẽ bị áp lực làm giảm xuống tới

điểm cân bằng i1.

Nếu lãi suất thị trường ban đầu ở điểm i3 thấp hơn lãi suất cân bằng i1, sẽ có lượng dư cầu

tiền thực tế Q3 – Q1. Các tổ chức cá nhân giữ ít tiền hơn họ sẽ muốn nâng số tiền họ giữ

bằng cách bán các trái phiếu lấy tiền, đẩy lãi suất tăng lên tới mức lãi suất i1, khi đó thị

trường cân bằng lãi suất không tăng nữa.

Như vậy thị trường luôn chuyển động tới một mức lãi suất cân bằng tại đó mức cung tiền

thực tế bằng mức cầu tiền thực tế. Sự cân đối này cho thấy trong ngắn hạn khi mức giá và

sản lượng chưa kịp điều chỉnh; nếu NHTW tăng mức cung ứng tiền, lãi suất thị trường sẽ

được điều chỉnh giảm, ngược lại khi mức cung tiền giảm xuống sẽ đẩy lãi suất thị trường

tăng lên. Chính vì vậy, khi NHTW tìm cách kiểm soát cả mức cung tiền và mức lãi suất

của thị trường đều dẫn tới nguy cơ mất cân đối thị trường.