
XÃ HỘI HỌC NÔNG
THÔN
THIẾT THẾ CƯỚI HỎI.
Gv: Tống Văn Chung.

Ý nghĩa của cưới xin trong đời
sống Xh
Trong cuộc sống, ngày xưa cũng như ngày
nay, đám cưới chính là biểu hiện của nếp
sống XH, của nền văn hóa dân tộc.
Hôn lễ được coi là quan trọng hàng đầu,
dính dáng trực tiếp đến việc nối dõi tông
đường.
Nó đánh dấu bước tiến mới quan trọng so
với thời ở hang động mà nam – nữ ăn ở
chung đụng, sống bằng săn bắt hái lượm,
luật lệ ko rõ ràng.

Lễ tục cưới hỏi xưa & nay.
Theo sách Văn công gia lễ thì cưới xin có
6 lễ chính:
1. Nạp thái.
2. Vấn danh.
3. Nạp cát.
4. Nạp tệ.
5. Thỉnh kỳ.
6. Nghinh hôn
(Trần Dư, “Khơi lại dòng xưa”, NXB Lao động)
Có chữ rằng “Lục lễ bất trị, trinh nữ bất
hành” nghĩa là: sáu lễ không đủ thì người
con gái không đi.

Ý nghĩa của các nghi lễ này.
1. Nạp thái: Nhà trai đến nhà gái ngỏ ý.
2. Vấn danh: Nhà trai hỏi tên, tuổi cô dâu
để tính ngày giờ, xem có bị xung khắc
không.
3. Nạp cát: Chọn được ngày tốt, xác nhận
với nhà gái.
4. Nạp tệ: Đưa đồ thách cưới do nhà gái ấn
định.
5. Thỉnh kỳ: định ngày cưới, làm lễ, nộp nữ
trang, vải vóc cho nhà gái.
6. Nghinh hôn (thân nghinh): Lễ rước dâu.

Nhận xét
Trong thời xưa, lễ cưới của ta được tiến
hành bắt chước của Tàu.
Một lễ cưới được tổ chức rườm rà, nhiều
thủ tục, kéo dài “Phàm người lấy vợ, trước
hết fải muợn người mối lái, sau định lễ cầu
thân lễ dẫn cưới định ngày đón
dâu…nhà trai dẫn lễ cưới rồi để đến 3, 4
năm mới được đón dâu” (Năm 1477, nhà
Lê quy định).
Về sau các thủ tục được gia giảm đi rất
nhiều = lễ dạm, lễ hỏi, lễ xêu, lễ cưới của
ta.