77
Bài hc phát trin kinh tế xanh cho Vit Nam t kinh nghim c ngoài
Nguyn Sơn Tùng
Tóm tắt: Sử dụng nguồn tài nguyên đphát triển kinh tế sẽ dẫn đến nguy cạn kiệt,
điều này ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh cũng như môi trường sống. Việc phát triển kinh
tế mà không gây ảnh hưởng hoặc tác hại xấu đến môi trường là điều mà các nước trên thế giới
đã quan tâm và thực hiện từ rất lâu. Kinh tế Viện Nam đang trên đà phát triển hiện nay các
nhà khoa học quản lý cũng quan tâm tới vấn đề này. Bài viết này sử dụng phương pháp phân
tích tài liệu (Content-analysis) để tập trung hệ thống hóa kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh
tế xanh tại Đan Mạch, Hàn Quốc và Singapore đồng thời khái quát thực trạng phát triển kinh tế
xanh tại Việt Nam, Qua đó, đưa ra một số bài học cho quan quản lý Nhà nước trong quá
trình thực hiện phát triển kinh tế xanh
Từ khóa: Kinh tế xanh, tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xanh.
1. Đặt vấn đề
Trước diễn biến ngày càng phức tạp và được dự báo tăng nhanh trong tương lai của biến
đổi khí hậu, cùng với nguồn tài ngun thiên nhiên bị phá hoại nghiêm trọng, kéo theo các tác
động tiêu cực đến môi trường và xã hội, thì việc lồng ghép mục tiêu tăng trưởng xanh vào phát
triển kinh tế đều hết sức cn thiết ở mỗi quốc gia. Nền kinh tế xanh sẽ là một hướng đi mới
cho nền kinh tế trong tương lai, Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) đã tuyên bố
rằng, nền kinh tế xanh tạo ra việc làm tăng cường công bằng hội (UNEP, 2011), qua đó
cho thấy c động tích cực của nền kinh tế xanh đối với thị trường lao động. Tổ chức Lao động
Quốc tế cũng tin rằng, nền kinh tế xanh thể tạo ra hàng triệu cơ hội việc làm cho người lao
động (Ge & Zhi, 2016). Việc hiện đại hóa nền kinh tế cổ điển sang nền kinh tế xanh đã trở
thành quá trình chuyển đổi có chất lượng (Runciman, 2012). Cũng theo Cato (2012), các nước
phát triển xác định quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh sự gia tăng nơi làm việc và
phát triển thị trường hàng hóa. Trong khi đó, các nước đang phát triển tập trung vào giải pháp
cho các vấn đề liên quan đến nghèo đói lập kế hoạch phát triển bền vững. Nhóm quốc gia
BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) đã chọn chiến lược sdụng hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên.
Tại Việt Nam, vấn đề tăng trưởng xanh phát triển bền vững được Đảng và Nhà nước
đặc biệt quan tâm trong thời gian qua. Quá trình thực hiện phát triển kinh tế xanh Việt Nam
luôn nhận được nhiều sự quan tâm giúp đỡ và hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế; cộng đồng trên thế
giới. Ngày 24/5/2022, tại “Diễn đàn triển lãm kinh tế xanh (GEFE) 2022”, Chủ tịch Hiệp
hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) cho biết, các doanh nghiệp châu Âu muốn
chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh cho Việt Nam. Cùng với đó, Việt Nam thu hút được
nhiều nguồn vốn đu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nền kinh tế xanh, đặc biệt là phát triển
công nghiệp xanh, năng lượng xanh, Bên cạnh đó, quá trìnhy dựng và thực hiện chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức tồn tại một số
hạn chế: Nguồn vốn, sự bất ổn của thị trường, chế chính sách, nguồn nhân lực chất lượng
cao,Chính vậy, bài viết này sẽ hệ thống hóa kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh Đan
Mạch, Hàn Quốc, Singapore. Qua đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm cho mục tiêu phát
triển kinh tế xanh ở Việt Nam.
78
2. Cơ sở lý thuyết
Tăng trưởng nâu (Brown growth), kinh tế nâu (Brown Economy), tăng trưởng xanh
(Green growth), kinh tế xanh (Green Economy) là những thuật ngữ ngày càng được dùng phổ
biến hiện nay. Các quốc gia trên thế giới đã trải qua một quá trình chuyển đổi từ tăng trưởng
nâu sang tăng trưởng xanh, sự chuyển đổi y góp phn làm cho hoạt động sản xuất tiêu
dùng trở nên bền vững hơn, nâng cao chất lượng cuộc sống giảm tác động từ biến đổi khí
hậu. Tăng trưởng nâu mô tả sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch và không
xem xét đến các tác động phụ tiêu cực từ việc sản xuất tiêu dùng kinh tế gây ra cho môi
trường. Ngược lại, tăng trưởng xanh được xem việc chuyển sang một hthống năng lượng
sạch hơn, tiêu dùng năng lượng hiệu quả hơn và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách
tốt hơn, đặc biệt là trên đất nông nghiệp trồng rừng (The Word Bank, 2013). Ở một cách tiếp
cận khác, Hallegatte et al. (2012) cho rằng, việc tăng trưởng xanh sẽ làm cho quá trình tăng
trưởng tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên, tạo ra môi trường sạch hơn linh hoạt, không
nhất thiết phải làm cho nó chậm lại.
Theo Matthews (2013), kinh tế nâu nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào các loại nhiên
liệu hóa thạch, tăng nguy hủy hoại môi trường không xem xét đến các vấn đề hội, ô
nhiễm môi trường cạn kiệt nguồn tài nguyên. Đối lập với kinh tế nâu, kinh tế xanh nền
kinh tế với mục tiêu giảm suy thoái môi trường sự khan hiếm sinh thái, với mục tiêu phát
triển bền vững không hủy hoại môi trường. Nền kinh tế xanh thường được mô tả đối lập với
việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch các nguồn tài nguyên không thể tái tạo (Ryszawska, 2013).
Theo Liên hợp quốc, kinh tế xanh là nền kinh tế đem đến trong tương lai về một mô hình
tăng trưởng kinh tế mới thân thiện với các hệ sinh thái của trái đất và góp phn giải quyết vấn
đề việc làm cho người lao động. Dựa trên nền tảng sản xuất kinh tế, kinh tế xanh giúp giảm
thiểu phát thải, giảm tiêu thụ tài nguyên và giảm chi phí môi trường (Matthews, 2013).
Nền kinh tế xanh cũng thể được hiểu một quá trình chuyển đổi kinh tế năng động,
với mục tiêu carbon thấp, tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên gia tăng phúc lợi cho
người dân bằng cách sử dụng công nghệ và tạo ra nhiều việc làm mới, đồng thời giảm thiểu suy
thoái môi trường trong dài hạn (Frone & Simona, 2015). Quá trình hiện đại hóa nền kinh tế cổ
điển sang nền kinh tế xanh đã trở thành quá trình chuyển đổi chất lượng, đây một cách
tiếp cận hoàn toàn mới về chính sách kinh tế, có thể giải quyết một tổ hợp các vấn đề kinh tế -
môi trường - hội. Nhìn chung, vấn đề kinh tế xanh được các nhà nghiên cứu trên thế giới
quan tâm từ khá sớm, điển hình như: Egorova et el. (2015), Maria et al. (2015), Georgeson &
Maslin (2019), Sulich (2020), Mikhno et al. (2021). Việt Nam, các nghiên cứu về kinh tế
xanh tập trung xoay quanh các nội dung: Xu hướng phát triển kinh tế xanh trên thế giới; cơ hội
và thách thức phát triển nền kinh tế xanh; thực trạng giải pháp phát triển kinh tế xanh; giải
pháp thực hiện tăng trưởng xanh,… như nghiên cứu của Phạm Đức Anh (2020), Nguyễn Thị
Lan Anh (2021), Đinh Hồng Linh & Nguyễn Thị Hằng (2021), Nguyễn Đình Đáp (2022)...
3. Thực trạng nền kinh tế xanh ở Việt Nam
3.1. Một số kết quả đạt được
Trong suốt chặng đường hơn 10 năm triển khai và thực hiện kinh tế xanh, với sự chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước cùng với nhận thức của cộng đồng xã hội về tm quan trọng của kinh tế
xanh, cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc: Hành vi sản xuất và tiêu
79
dùng có nhiều thay đổi đáng kể và được cải thiện tích cực; ngày càng có nhiều hành động thiết
thực đóng góp vào việc phát triển kinh tế xanh; đời sống của người dân không ngừng được cải
thiện và nâng cao, nhiều khu đô thị nổi lên, đặc biệt là hình thành các vùng nông thôn mới.
Căn cứ vào sự chỉ đạo của Chính phủ qua từng giai đoạn, việc thực hiện nền kinh tế xanh
ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận.
Biểu đ 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2021
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam
Biểu đồ 1 cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2021
dao động ở mức trung bình là 5,65%. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2020 và
2021 sự sụt giảm đáng kể, nguyên nhân chính do sự ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19,
đặc biệt trong quý 3/2021 phn lớn các tỉnh, thành của cả nước phải thực hiện giãn cách xã hội
để phòng, chống dịch bệnh. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm
2020 và 2021 vẫn luôn dương.
Theo dữ liệu GDP của IMF dữ liệu tăng trưởng kinh tế của quan thống thuộc
các quốc gia công bố, GDP Việt Nam năm 2021 xấp xỉ 352 tỷ USD, xếp vị trí thứ 5. Các nước
thuộc top 3 bao gồm Indonesia, Thái Lan và Philippines, thứ hạng này không có biến động so
với năm 2020 (VCCI, 2022). (Bảng 1)
Bảng 1: Thứ hạng GDP của các nền kinh tế lớn Đông Nam Á giai đoạn 2020 - 2021
Nguồn: Cổng thông tin AEC của VCCI (2022)
Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, năm 2021 Việt Nam chịu tác động mạnh mẽ từ
đại dịch Covid-19, đặc biệt là hoạt động thương mại và dịch vụ nhưng tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam vẫn đạt 2,58%, giảm không đáng kể so với năm 2020. Cơ cấu kinh tế Việt Nam năm
2021 được đóng góp chủ yếu từ khu vực dịch vụ và công nghiệp. So với các năm trước đó,
cấu kinh tế Việt Nam năm 2021 sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng ttrọng ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dn tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, xu hướng này
phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xanh của Chính phủ. (Hình 1)
80
Hình 1: Cơ cấu nền kinh tế Việt Nam năm 2021
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê Việt Nam
Để được những thành tựu ban đu trong mục tiêu xanh hóa nền kinh tế, phải kể đến
vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc tích cực hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp
trong nước nắm bắt kịp thời diễn biến của thị trường trong nước quốc tế, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cơ quan Nhà nước còn đưa ra nhiều biện
pháp khuyến khích các doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng mô hình nông nghiệp xanh, phát triển
công nghiệp xanh, phát triển năng lượng tái tạo tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải CO2
đối với các ngành công nghiệp nặng… Đồng hành với quá trình phát triển kinh tế xanh ở Việt
Nam, thời gian qua, Ngân hàng Thế giới đã tích cực hỗ trợ cho Việt Nam trong nhiều lĩnh vực,
đặc biệt là việc đu tư vốn vào các dự án về công nghiệp xanh, năng lượng xanh, phát triển cơ
sở hạ tng, quản lý môi trường đô thị và ứng phó với biến đổi khí hậu. Kể từ năm 1994 cho đến
nay, Ngân hàng Thế giới đã cam kết hỗ trợ Việt Nam hơn 25,3 t USD trong phát triển đất nước
(The World Bank, 2022).
Việc phát triển kinh tế xanh đã ảnh hưởng tích cực đến lao động trong nước, cấu
lao động Việt Nam xu hướng chuyển dịch rõ nét theo hướng phi nông nghiệp. Xu hướng y
phù hợp với mục tiêu xanh hóa nền kinh tế, góp phn bổ sung và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao cho việc ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp ln thứ vào
phát triển kinh tế quốc gia.
3.2. Những khó khăn và tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực trạng phát triển kinh tế xanh Việt Nam
còn tồn tại một số hạn chế và khó khăn nhất định, cụ thể:
Thực tế cho thấy, nhận thức của người dân về nền kinh tế xanh vẫn còn khá mới mẻ,
chính vì thế rất cn các nhà khoa học, chuyên gia xem xét nghiên cứu và phổ biến kiến thức về
phát triển kinh tế xanh từ các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách đến doanh nghiệp
người dân.
81
Biểu đ 2: Tốc độ tăng trưởng lượng phát thải CO2 ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2021
Đơn vị: Nghìn tấn
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ https://countryeconomy.com/energy-and-
environment/co2-emissions/vietnam
Dựa vào số liệu Biểu đ2 cho thấy, lượng phát thải CO2 của Việt Nam năm 2021 là
321.413 nghìn tấn, giảm 0,605 nghìn tấn, với tốc độ tăng trưởng -0,19% so với năm 2020,
trong khi đó lượng phát thải CO2 ở năm đu thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh (năm 2011)
chỉ ở mức 155.970 nghìn tấn. Với lượng phát thải CO2 năm 2021 đã đưa Việt Nam nằm trong
bảng xếp hạng 184 quốc gia gây ô nhiễm nhiều nhất trên thế giới năm 2021. Nhìn chung, lượng
phát thải CO2 Việt Nam trong suốt giai đoạn 2011 - 2021 xu hướng tăng đáng kể, lượng
phát thải CO2 năm 2021 tăng gấp đôi so với năm 2011. Theo phân tích của
Countryeconomy.com (2021), t số lượng phát thải CO2 trên 1.000 USD GDP sẽ đo lường
“hiệu quả môi trường” của một quốc gia theo thời gian. Theo đó, trong năm 2021 Việt Nam đã
thải ra 0,31 kg cho mỗi 1.000 USD GDP, thấp hơn so với năm 2020. Qua đó cho thấy, việc đẩy
mạnh phát triển kinh tế xanh trong thời gian qua đã làm tăng nhu cu tiêu thụ năng lượng, đồng
nghĩa với việc lượng phát thải CO2 có xu hướng tăng nhanh qua các năm.
Nguồn lực tài chính cho mục tiêu xanh hóa nền kinh tế của Việt Nam còn khá hạn chế
trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hp cùng với ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19.
Bên cạnh đó, xung đột quân sự Nga - Ukraine cùng với những biến động và bất ổn từ nền kinh
tế thế giới đã có tác động không nhỏ đến kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Những sự kiện này làm
cho quá trình hồi phục kinh tế Việt Nam trở nên khó khăn hơn, nguy cơ xuất hiện nhiều rủi ro,
yêu cu các nhà hoạch định chính sách không chỉ đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững mà còn
phải khắc phục những khó khăn trước mắt. Chất lượng nguồn lao động cho nền kinh tế xanh tại
Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cu về trình độ khoa học công nghệ cao của chiến lược phát
triển kinh tế xanh. So với thế giới thì dây chuyền sản xuất và công nghệ ở Việt Nam phn lớn
công nghệ cũ và lỗi thời, tiêu tốn khá nhiều nhiên liệu và năng lượng. Do đó, việc áp dụng
dây chuyền sản xuất hiện đại và công nghệ tiên tiến vào nền kinh tế xanh là thách thức lớn cho
Việt Nam, rất cn có nguồn nhân lực chất lượng cao đảm nhiệm. Đồng thời, sự tư vấn và hỗ trợ
từ các nước phát triển trên thế giới điều rất cn thiết cho Việt Nam trong quá trình áp dụng
khoa học và công nghệ mới (Nguyễn Thị Quỳnh Hương & Nguyễn Thị Vân Chi, 2020).
Về hành lang pháp lý, mặc Chính phủ cũng đã ban hành và phê duyệt các chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh phát triển bền vững theo từng thời kỳ. Tuy nhiên, hệ thống
pháp luật vẫn chưa thật sự đồng bộ, chưa có văn bản pháp luật cụ thể quy định về năng lượng