Bài thảo luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
lượt xem 11
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài "Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh" nhằm phân tích cơ sở thực tiễn trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh; phân tích cơ sở lý luận trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh; phân tích phẩm chất Hồ Chí Minh trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài thảo luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
- MỤC LỤC
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam, đã về với cõi vĩnh hằng được hơn 50 năm. Người ra đi nhưng đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn – đó chính là tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta. Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam sẽ quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, đọc lập ấy “Thời gian đã qua lâu rồi, nhưng những lời tuyên ngôn của Bác đã đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử vẫn luôn văng vẳng bên tai chúng ta. Lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc, ta thấy rằng dân ta đã đấu tranh rất anh dũng để có được độc lập ngày nay. Khi các phong trào khởi nghĩa ở Việt Nam đều thất bại, rơi vào bế tắc, chính lúc đó Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Ở đây Người đã nhận thấy nỗi khổ của nhân dân lao động, được tiếp xúc với luận cương của Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước mới cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam . Trên bước đường tìm đường cứu nước và hình thành tư tưởng Người đã gặp không ít những khó khăn thử thách nhưng với tấm lòng yêu nước và sự kiên trì của mình Người đã vượt qua và tiếp tục sự nghiệp cách mạng. . Các văn kiện như : Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Đường cách mệnh của Bác đã góp phần rất lớn trong việc tìm ra thông tin cách mạng các dân tộc bị áp bức Vậy tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành là do đâu ? Cơ sở nào góp phần hình thành tư tưởng đó. Để tìm hiểu về vấn đề trên, nhóm 7 thực hiện nghiên cứu đề tài “Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”. 3
- 2. Tổng quan nghiên cứu Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là một đề tài hay và quan trọng. Đã có nhiều bài báo, trang thông tin về vấn đề này. Tuy nhiên, để nghiên cứu một cách tổng quát về tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn khá ít. 3. Mục tiêu nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này, chúng ta cần nghiên cứu cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh một cách hệ thống. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau: - Phân tích cơ sở thực tiễn trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. - Phân tích cơ sở lý luận trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. - Phân tích phẩm chất Hồ Chí Minh trong cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1. Đối tượng nghiên cứu: Phân tích cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh 2. Phạm vi nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề rộng. Nhưng với đề tài này nhóm chỉ nghiên cứu các cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. 5. Phương pháp nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Nhà nước, của Đảng là cơ sở phương pháp luận định hướng nghiên cứu. Ngoài các phương pháp luận Tư tưởng Hồ Chí Minh, bài thảo luận sử dụng các phương pháp cụ thể, chú trọng phương pháp lịch sử kết hợp với logic, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu các tài liệu lịch sử… 4
- CHƯƠNG 1: CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX Từ năm 1858, đế quốc Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hàng, từng bước trở thành tay sai của thực dân Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của chúng trên toàn cõi Việt Nam. Pháp biến Việt Nam từ một nước phong kiến trở thành nước “thuộc đia và phong kiến”. Trong xã hội Việt Nam xuất hiện sự biến đổi giai cấp, tầng lớp và những mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Thực dân Pháp vẫn duy trì nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với khoảng 95% dân số là nông dân. Sau khi xâm lược và thôn tính toàn bộ nước ta, thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc ngày càng trở nên bức thiết. Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa. Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Cùng với đó, giai cấp địa chủ được bổ sung, củng cố, tăng cường thêm các điền chủ người Pháp và nước ngoài. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Bên cạnh tầng lớp thợ thủ công, tiểu thương, trong xã hội Việt Nam xuất hiện những giai tầng mới. Đó là giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị. Từ đó, liền với mâu thuẫn cơ bản trong xã hội phong kiến là nông dân với địa chủ phong kiến, xuất hiện các mâu thuẫn mới: Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân Việt Nam với giai cấp tư sản, mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trước những mâu thuẫn ấy, từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh yêu nước chống Pháp xâm lược liên tục nổ ra. Ở miền Nam, có các cuộc khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực. Ở miền Trung, có các cuộc khởi nghĩa của Trần 5
- Tấn, Đặng Như Mai, của Phan Đình Phùng. Ở miền Bắc, có các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật, Phạm Bành và Đinh Công Tráng, Nguyễn Quang Bích, Hoàng Hoa Thám, v.v...Các cuộc khởi nghĩa, trong đó có những cuộc dưới ngọn cờ "Cần Vương" tức giúp vua cứu nước, tuy đều rất anh dũng, nhưng cuối cùng đều thất bại. Điều đó chứng tỏ nhân dân ta rất yêu nước, song giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng của nó đã suy tàn, bất lực trước nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc. Cùng với những biến đổi giai cấp, tầng lớp, đến đầu thế kỷ XX, trước ảnh hưởng của các cuộc vận động cải cách, của cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc và tấm gương Duy Tân Nhật Bản, ở Việt Nam xuất hiện các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với sự dẫn dắt của các sĩ phu yêu nước có tinh thần cải cách. Tiêu biểu cho khuynh hướng ấy phải kể đến những phong trào như: Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu khởi xướng (1905-1909); Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động (1906-1908); Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn Can, Nguyễn Quyền và một số nhân sĩ khác phát động (3-1907 – 11- 1907); Phong trào chống đi phu, chống sưu thuế ở Trung Kỳ năm 1908. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản nói trên đều thất bại, đều bị thực dân Pháp đàn áp. Nguyên nhân sâu xa là giai cấp tư sản Việt Nam còn non yếu. Nguyên nhân trực tiếp là các tổ chức và người lãnh đạo của các phong trào đó chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Tinh thần yêu nước vẫn sục sôi trong lòng nhân dân. Song, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước diễn ra sâu sắc. Cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ, tưởng chừng như không có đường ra. Yêu cầu lịch sử cần phải có tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, phải có một con đường mới cho phong trào cứu nước giải phóng dân tộc đã trở thành vấn đề cấp thiết. Trong bối cảnh đó, sự ra đời giai cấp mới là giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam đã làm cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam xuất hiện dấu hiệu mới của một thời đại mới sắp ra đời. Cuối thế kỷ XIX, ở Việt Nam đã có công nhân, nhưng lúc đó mới chỉ là một lực lượng ít ỏi, không ổn định. Công nhân Việt Nam chịu ba tầng áp bức bóc lột: thực dân, tư bản, phong kiến. Có áp bức, có đấu tranh. Bị thực dân Pháp bóc lột nặng nề, công nhân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh chống lại. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc đấu tranh thời kỳ này vẫn còn tản mạn và mang tính tự phát, thiếu tổ chức và lãnh đạo. Đầu thế kỷ XX, công nhân phát triển hơn 6
- và trở thành một giai cấp ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918. Từ hình thức đấu tranh thô sơ như đốt lán trại, bỏ trốn tập thể, họ đã nhanh chóng tiến tới đình công, bãi công. Phong trào đấu tranh của công nhân đã đi từ tự phát lên tự giác. Tuy nhiên phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đều thất bại. Công nhân là những người dám đứng lên để chống lại đế quốc thực dân. “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân". Phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ XX cũng là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập, truyền bá vào đất nước ta. Hồ Chí Minh sinh ra lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc khó khăn, bế tắc nhất, điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm con đường mới cứu nước, cứu dân. Chính Hồ Chí Minh là một người đã dày công truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Sau đó, chính thực tiễn Đảng lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi; lãnh đạo vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là nhân tố góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trên tất cả các phương diện. 1.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Một số nước đế quốc Anh, Pháp, Mỹ Tây Ba Nha, Ý, Đức, Nga, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha…đã chi phối toàn bộ tình hình thế giới. Phần lớn các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh đã trở thành thuộc địa phụ thuộc của các nước đế quốc. Tình hình đó đã làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có trong lòng chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước tư bản; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ 7
- nghĩa đế quốc. Sang đầu thế kỷ XX, những mâu thuẫn này càng ngày càng phát triển gay gắt. Giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa không chỉ là đòi hỏi của riêng họ, mà còn là mong muốn chung của giai cấp vô sản quốc tế, tình hình đó đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Trước bối cảnh đó, nhân dân các dân tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân, đế quốc tạo thành phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở châu Á Đặc biệt, ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này gây ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu người chết và 20 triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa nói riêng phát triển mạnh mẽ. Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác – Lênin ở một nước lớn, rộng một phần sáu thế giới. Đối với nước Nga, Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng vô sản đã đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ phong kiến, lập nên một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc Nga thì đó còn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì trước cách mạng “nước Nga là nhà tù của các dân tộc”. Cuộc cách mạng vô sản của nước Nga thành công, các dân tộc thuộc địa của đế quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập và quyền liên hợp. Cách mạng Tháng Mười Nga mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng xã hội duy nhất trong lịch sử thực hiện được mục tiêu: Giải phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và tiến tới giải phóng toàn nhân loại. Nhờ đó, con người được sống với đúng nghĩa là con người, phẩm giá, lương tri, danh dự, công bằng và lẽ phải được tôn trọng; hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc đã được tìm thấy giá trị đích thực; tài năng sáng tạo của con người được thừa nhận và phát huy. Nhấn mạnh điều này, Bác Hồ viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”. Nó đã chứng minh 8
- chân lý: Loài người từ bỏ chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, một thực tế lịch sử không thể đảo ngược. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của chúng ta. Ngày 2/3/1919, Quốc tế Cộng sản ra đời ở Mátxcơva, do V.I. Lênin đứng đầu, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản không những vạch đường hướng chiến lược cho cách mạng vô sản mà còn đề cập các vấn đề dân tộc và thuộc địa; giúp đỡ, chỉ đạo phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với việc nghiên cứu và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920) đã thông qua Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do Lênin khởi xướng. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của Nhà nước Xôviết, Quốc tế Cộng sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô cùng với sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản, công nhân và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước 9
- CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 2.1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam Chủ nghĩa yêu nước là giá trị xuyên suốt trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đây là tài sản có giá trị nhất trong hành trang của người thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc ra đi tìm đường cứu nước năm 1911. Nó là cơ sở xuất phát, là động lực, là sợi dây đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nhận thức về lòng yêu nước của người Việt Nam. Người có viết: “Dân ta có một lòng yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ”. Chính bởi vậy, đây là động lực, sức mạnh giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại vượt qua mọi khó khăn trong dựng nước và giữ nước mà phát triển. Chính chủ nghĩa yêu nước là nền tảng tư tưởng, điểm xuất phát và động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con đường cứu nước, cứu dân. Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa, phát triển tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa yêu nước trong thời đại mới. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã có quá trình lịch sử hàng ngàn năm với nội dung phong phú và sâu sắc. Trong 1000 năm Bắc thuộc, phong trào yêu nước đã diễn ra mạnh mẽ như: cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng năm 40 - 43, cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248 chống lại quân Đông Ngô, cuộc khởi nghĩa của Lý Bí năm 542 chống quân Lương, khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791),… và tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền năm 938 đã kết thúc hoàn toàn thời kỳ mất nước kéo dài hơn một nghìn năm, dân tộc ta đã giành lại chủ quyền đất nước. Thời kỳ phong kiến, yêu nước có nội dung trung quân ái quốc, tinh thần yêu nước chỉ thể hiện khi có lợi ích giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích của nhân dân lao động trong sự nghiệp chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Những cuộc kháng chiến tiêu biểu như: cuộc kháng chiến chống quân Tống của nhà Lý gắn liền với tên tuổi của Lý Thường Kiệt, 3 lần kháng chiến chống Mông – Nguyên của nhà Trần gắn liền với tên tuổi của Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn, … Từ đó, quan điểm yêu nước gắn liền với thương dân. Kế thừa truyền thống của dân tộc, 10
- Người đã thể hiện lòng yêu quê hương đất nước nồng nàn bằng con đường hành động đi tìm con đường cứu nước. Với Người, yêu nước gắn liền với thương dân. Người nói: “lòng thương yêu nhân dân và nhân loại của tôi không bao giờ thay đổi” Người “có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Không có gì quý hơn độc lập tự do - chân lý lớn của thời đại được Hồ Chí Minh khẳng định, đồng thời cũng chính là một điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng và bảo vệ đất nước, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam là yêu nước gắn liền với yêu dân, có tinh thần đoàn kết, dân chủ, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần cù, dũng cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. 2.1.2. Tinh thần đoàn kết, nhân ái, khoan dung trong cộng đồng, hòa hiếu với các dân tộc lân bang. Truyền thống đoàn kết, gắn bó hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Người Việt Nam gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm. Người thường nhấn mạnh: nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa. Tình nghĩa ấy Người đã nâng lên “cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển là nhà”. Theo Người, đại đoàn kết toàn dân tộc không phải là sách lược hay thủ đoạn chính trị mà là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề mang tính sống còn của dân tộc Việt Nam nên chiến lược này được duy trì cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh đã khái quát thành nhiều luận điểm mang tính chân lý về vai trò và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”,... Người đã đi đến kết luận: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công” 11
- Đối với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết không chỉ là khẩu hiệu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam nên tất yếu đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ này phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng. Đại đoàn kết là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Về đoàn kết quốc tế, theo Người, thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt Nam. Ngoài ra, thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản là nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng của dân tộc và thời đại. Bởi lẽ, nhân dân Việt Nam không chỉ chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước mình mà còn vì độc lập, tự do của các nước khác, không chỉ bảo vệ lợi ích sống còn của dân tộc mình mà còn vì những mục tiêu cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương sâu sắc đối với con người, ở cái nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác biệt với mình, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt ý kiến của mình lên người khác, xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh cũng còn biểu hiện ở niềm tin của Người vào phấn tốt đẹp, phần thiện trong mỗi con người, dù nhất thời họ có lầm lạc, nhỏ nhen, thấp kém... Người đã dạy cho chúng ta một cách nhìn lạc quan về con người: "Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng". Người tin rằng với sức mạnh cảm hoá của cách mạng và của giáo dục, những con người nhất thời lầm lạc vẫn có thể cải tạo, vươn lên, trở thành có ích cho xã hội, bởi như Người quan niệm: "Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên". Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc công lý, chính nghĩa, tự do, bình đẳng, không chấp nhận thỏa hiệp vô nguyên tắc với tội ác và bất công xã hội, với tất cả những gì chà đạp lên quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh 12
- phúc của mỗi con người và mỗi dân tộc. Khi chủ nghĩa thực dân đã dùng hành động bạo lực của kẻ mạnh để đàn áp kẻ yếu thì không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để giành và giữ lấy chính quyền. Người nói: "Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí, đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân". Về phần mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ của ta cần nêu cao lý tưởng chính nghĩa, nhân đạo hoà bình, phải có sự đối xử khoan hồng với tù binh và kiều dân Pháp, để "làm cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc vǎn minh, vǎn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước". Người đã chỉ thị cho Bộ tài chính hãy cấp cho mỗi binh lính và thường dân Pháp bị bắt mỗi tháng 200 đồng, trong khi mức ǎn của bộ đội ta chỉ có 150 đồng/tháng, với lý do "ta có thể chịu kham khổ được nhưng đối với họ cần phải rộng rãi hơn". Bản thân Người nhiều lần viết thư cho tù binh và kiều dân Pháp bị bắt giữ, tỏ ý ái ngại cho tình thế hiện tại (của họ, vẫn coi họ như là bạn hữu. Đến thǎm trại tù binh trong chiến dịch Biên giới, thấy một đại uý quân y Pháp ở trần, đang run lên vì lạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cởi chiếc áo Người đang mặc, trao cho anh ta. 2.1.3. Tinh thần cần cù, sáng tạo, dũng cảm lạc quan Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản xuất, chiến đấu và cũng là một dân tộc ham học hỏi, không ngừng mở rộng cửa tiếp nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại, từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư tưởng văn hóa phương Tây. Nhờ vị trí địa lý thuận lợi, nằm giữa đầu mối của sự giao lưu văn hóa Bắc - Nam và Đông - Tây, người Việt Nam từ xưa đã ham học hỏi những cái mới lạ. Trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biên những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó. Cần cù, siêng năng là một trong những phẩm chất đáng quý của người Á Đông, trong đó có Việt Nam, cần cù chính là yếu tố quan trọng giúp con người có thể đảm bảo được việc duy trì cuộc sống cá nhân, bởi vì: Thứ nhất, Việt Nam là một nước nông nghiệp, trước đây chủ yếu là nghề nông trồng lúa nước, đây là công việc vất vả và có tính thời vụ cao, vì vậy để có được hạt gạo người Việt phải cần cù, phải một nắng hai sương, phải “Siêng nhặt chặt bị”; thứ hai, Việt Nam là quốc gia có khí hậu khá khắc nghiệt, không chỉ nắng lắm mưa nhiều mà còn phải hứng chịu rất nhiều thiên tai như hạn hán, bão lụt, vì vậy để chống chọi với thiên nhiên, để duy trì và ổn định cuộc sống chúng ta phải cần cù; 13
- thứ ba, trong lịch sử dân tộc Việt Nam chúng ta đã dành tới hơn nửa thời gian để tiến hành chiến tranh vệ quốc, mặc dù kết quả cuối cùng chúng ta giành thắng lợi nhưng hậu quả sau mỗi cuộc chiến là sự hoang tàn đổ nát vì vậy để khắc phục hậu quả, ổn định đời sống con người Việt Nam đã rèn cho mình đức tính cần cù. Trong muôn nguy, ngàn khó, người lao động vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo”. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa, dù trước mắt còn đầy gian truân, khổ ải phải chịu đựng, vượt qua. Hồ Chí Minh chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó. Hồ Chí Minh là người kế thừa trọn vẹn tinh thần lạc quan của nhân dân ta. Hơn thế, Người còn là một chiến sĩ lạc quan cách mạng. Trước hết, Hồ Chí Minh là người luôn tin ở bản thân mình. Thật vậy, nếu không có niềm tin ấy thì Người không thể một mình quyết ra đi tìm đường cứu nước ở một chân trời xa lạ. Tinh thần lạc quan Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ, Người luôn tin tưởng vào xu thế vận động và phát triển của xã hội, của thời đại, tin vào sự lớn mạnh của phe xã hội chủ nghĩa. Năm 1941, lúc cách mạng còn gặp muôn vàn khó khăn, nhưng tại khu rừng Khuổi Nậm, thuộc Pắc Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Người đã dự đoán: Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công. Tinh thần lạc quan Hồ Chí Minh được thể hiện sáng ngời trong “Di chúc” khi Người nói về sự tất thắng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Người tin rằng: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn ”. Và Người khẳng định sự thắng lợi bằng bốn “nhất định”: “Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nêu rõ đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người. Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định đạo đức là gốc, là nền tảng, là sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Người coi đạo đức rất quan trọng như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông, suối. Đạo đức trở thành nhân tố quyết định của sự thành bại của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người. Tình yêu nước, sự trung thành với tổ quốc, suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng luôn gắn liền với sự thương dân, tin dân, lấy dân làm gốc, hết lòng phục vụ nhân 14
- dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Bên cạnh đó, các đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” luôn là nền tảng, là phẩm chất đạo đức cần có của mỗi người. Đây là nền tảng của đời sống mới, của các phong trào thi đua yêu nước. Theo Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Tình yêu thương con người không chung chung trừu tượng mà được xây dựng trên lập trường của giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Đặc biệt, để xây dựng được một Cộng sản chủ nghĩa thì chủ nghĩa Quốc tế, tinh thần quốc tế là vô cùng cần thiết, là tiền đề để đấu tranh chống lại mọi sự chia rẽ, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc. 2.1.4. Tự hào về lịch sử, trân trọng nền văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán và những giá trị cốt lõi tốt đẹp khác của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hóa truyền thống riêng biệt, độc đáo, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc thể hiện tính đoàn kết cộng đồng, sự gắn bó, hài hòa giữa con người với các yếu tố tự nhiên đã dần trở thành món ăn tinh thần độc đáo của dân tộc. Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước, tạo nên một nền văn hóa riêng, với những giá trị truyền thống tốt đẹp và cao quý. Ngay từ buổi đầu lập nước, người Việt Nam đã tự ý thức về cộng đồng dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, ý thức tự hào, tự tôn của dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giở sử nước ta ra mà xem, mi sẽ thấy tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn”. Lòng tự hào, tự tôn dân tộc luôn là nền tảng tinh thần để mỗi người Việt Nam có trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc mình. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến lịch sử dân tộc và tự hào với truyền thống văn hóa dân tộc. Để giáo dục lòng yêu nước, kêu gọi đoàn kết cứu nước và khẳng định ở triều đại nào cũng có người anh hùng mưu trí, sáng tạo trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giải phóng dân tộc và bảo vệ đất nước, Người viết bài “Lịch sử nước ta” (tháng 2 năm 1942), trong đó có đoạn: “Dân ta phải biết sử ta, Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Kể năm hơn bốn ngàn năm, Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa” Bản sắc văn hóa kết tinh ở hệ giá trị văn hóa dân tộc, thấm sâu vào mọi hoạt động vật chất, tinh thần, phong tục, tập quán, sinh hoạt cá nhân, mang diện mạo, trí tuệ, tâm hồn, phong cách của các dân tộc hay cộng đồng quốc gia - dân tộc và được tiếp nối, phát huy, 15
- phát triển trong các thời kỳ lịch sử. Bản sắc văn hóa cũng chính là tài sản tinh thần chung, là nguồn sức mạnh giúp con người vượt qua những khó khăn, thử thách khắc nghiệt để vươn lên trong hành trình phát triển không ngừng. Văn hóa dân tộc Việt Nam chứa đựng giá trị lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và được nhìn nhận qua hai lớp quan hệ. Về nội dung, đó là lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự cường, tự tôn dân tộc... Về hình thức, đó là cốt cách văn hóa dân tộc được biểu hiện ở phong tục, tập quán, ngôn ngữ, lễ hội, cách cảm và nghĩ.. Nó phản ánh những nét độc đáo, đặc tính dân tộc. Nó là ngọn nguồn đi tới chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh nói rằng, âm nhạc dân tộc ta rất độc đáo, phải khai thác và phát triển lên; rằng, những người cộng sản chúng ta rất quý trọng cổ điển, có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ những ngọn nguồn cổ điển đó. Vì vậy, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam là phải trân trọng, khai thác có chọn lọc, giữ gìn, phát huy những giá trị của văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn lịch sử. Tháng 8-1943, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm nhấn mạnh ý nghĩa của văn hóa. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” Hồ Chí Minh chú trọng chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Trao đổi với một nhà văn Liên Xô, Người nhấn mạnh rằng “các bạn chớ hiểu là tôi cho rằng chúng tôi cần dứt bỏ văn hóa nào đó, dù là văn hóa Pháp đi nữa. Ngược lại, tôi muốn nói điều khác. Nói đến việc mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới, mà đặc biệt hiện nay là văn hóa Xô Viết - chúng tôi thiếu - nhưng đồng thời tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt chước... Văn hóa của các dân tộc khác cần phải được nghiên cứu toàn diện, chỉ có trong trường hợp đó mới có thể được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”2 . Nhận diện về hiện tượng văn hóa Hồ Chí Minh, một nhà báo Mỹ viết: “Cụ Hồ không phải là một người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, mà cụ là một người yêu mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một 16
- con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước cụ” Hồ Chí Minh chỉ rõ mục đích tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam, xây dựng văn hóa Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ. Nội dung tiếp thu là toàn diện bao gồm Đông, Tây, kim, cổ, tất cả các mặt, các khía cạnh. Tiêu chí tiếp thu là có cái gì hay, cái gì tốt là ta học lấy. Mối quan hệ giữa giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc và tiếp thu văn hóa nhân loại là phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc, đó là điều kiện, cơ sở để tiếp thu văn hóa nhân loại. 2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại 2.2.1. Tinh hoa văn hóa phương Đông a. Nho giáo Nho giáo phát triển và trở nên địa vị độc tôn trong đời sống tinh thần và thâm nhập sâu, rộng vào đời sống nhân dân lao động Việt Nam là ở thời Hậu Lê (bắt đầu từ Lê Thái Tổ). Ở thế kỷ XVI trở đi, đặc biệt ở thế kỷ XVII Nho giáo ở Việt Nam suy yếu hẳn. Dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn, ở thế kỷ XIX, Nho giáo mới được khôi phục trở lại địa vị độc tôn trong đời sống tinh thần người Việt, nhưng phát triển mạnh các yếu tố thần học, niềm tin vào số mệnh, vào ma quỷ, thần thánh, các lực lượng siêu nhiên. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Nho giáo bị bọn thực dân Pháp lợi dụng như một công cụ để nô dịch dân tộc Việt Nam. Nhưng Nho giáo vào Việt Nam trước hết giữ vai trò của một học thuyết chính trị - đạo đức giúp nhà vua trị nước, yên dân và xây dựng một trật tự xã hội phù hợp với cương thường lễ nghĩa. Trong xã hội Việt Nam, hàng Nho sỹ luôn có hai phái Nho xuất (ra làm quan) và Nho xử (không ra làm quan). Phái Nho xuất luôn hướng đến vòng danh lợi, tư tưởng của họ không có gì đặc sắc. Phái Nho xử (đông đảo hơn) dù phức tạp về khuynh hướng, nhưng đều gắng noi gương thánh hiền, mang tư tưởng ưu dân ái quốc. Hạn chế về thế giới quan của Nho giáo là chủ nghĩa duy tâm khách quan hữu thần. Con người Nho giáo là con người của số phận, định mệnh. Hạn chế về nhân sinh quan của Nho giáo là học thuyết coi thường nhân nhân lao động và coi thường phụ nữ. Nhân dân lao động và phụ nữ trong Nho giáo chỉ là hạng tiểu nhân, là hạng lao lực và là hạng hạ ngu mà thôi.. Trong Nho giáo tư tưởng “ Trọng nam khinh nữ”, đây là một vấn đề còn ảnh hưởng rất lớn trong thời đại ngày nay. Nhưng trong Nho giáo cũng chứa đựng nhiều yếu tố triết lý tích cực. Đặc biệt là triết lý tu thân đề cao tu dưỡng đạo đức cá nhân: Có tu 17
- dưỡng đạo đức cá nhân mới tề được gia; có tề được gia mới trị được quốc; có trị được quốc mới bình được thiên hạ. Muốn bình thiên hạ trước hết phải trị được quốc; muốn trị được quốc trước hết phải trị được gia; muốn trị được gia trước hết hãy tu dưỡng đạo đức cá nhân. Như vậy, nếu gạt bỏ các hạn chế về thế giới quan và nhân sinh quan nói trên, thì tính cách mạng của Nho giáo là ở chỗ: Đạo đức với mình thì phải nghiêm khắc; đạo đức với người thì phải khoan dung, độ lượng; đạo đức với công việc thì phải tận tâm, tận lực Sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học, ông ngoại là cụ Hoàng Xuân Đường, bố là cụ Nguyễn Sinh Sắc, và anh trai là Nguyễn Tất Đạt đều là những nhà Nho yêu nước nổi tiếng của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, những người thầy đầu tiên của Người không ai khác mà chính là bố và anh trai của Người. Việc học tập của Người trước năm 1911 chủ yếu đều học ở trường làng. Chính vì vậy, ảnh hưởng của Nho giáo ở Hồ Chí Minh là tất nhiên, và Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất sâu sắc. Đặc biệt là triết lý tu thân đề cao tu dưỡng đạo đức cá nhân: Đạo đức với mình thì phải nghiêm khắc; đạo đức với người thì phải khoan dung, độ lượng; đạo đức với công việc thì phải tận tâm, tận lực. Người đã sử dụng rất tài tình các phạm trù đạo đức của Nho giáo để quy định các chuẩn mực đạo đức con người mới ở Việt Nam. Hồ Chí Minh có một quá trình tiếp biến Nho giáo rất căn bản và có hệ thống: Từ tiếp thu di sản Nho học từ người cha, đến học tập các thầy đồ nổi tiếng một thời như Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý, Trần Nhân, v.v..; từ việc học tập qua trao đổi với các nhà nho thế hệ cha chú như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, đến quá trình tự học lâu dài, bền bỉ; từ tiếp thu di sản Nho học đến tiếp biến Nho học, tổng hoà giá trị của Nho học với tinh hoa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng dân chủ phương Tây; từ sáng tạo tư tưởng dựa trên di sản Nho học đến hiện thực hóa tư tưởng ấy trong thực tiễn cách mạng; từ sự khai thác mang tính cá nhân, đến đúc rút các quan điểm mang tính định hướng cho việc khai thác di sản tư tưởng Nho giáo. Nho giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ v.v.. là những điều bị Hồ Chí Minh phê phán, bác bỏ. Nhưng Nho giáo cũng có nhiều yếu tố triết lý tích cực như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đó là ước vọng về một xã hội an ninh, hòa mục, một thế giới đại đồng, triết lý nhân sinh, tu thân, dưỡng tính; đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, kế thừa, cải tạo cho phù hợp để phục vụ cách mạng. Người dẫn lời của 18
- Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại” Hồ Chí Minh đã sử dụng tài tình nhiều khái niệm, phạm trù đạo đức của Nho giáo để quy định những chuẩn mực đạo đức con người mới xã hội ở Việt Nam. Những khái niệm, phạm trù đạo đức ấy ở Hồ Chí Minh nó đã được bổ sung những nội dung mới phù hợp với dân tộc, thời đại và cách mạng. Đồng thời Người cũng đã bổ sung những khái niệm, phạm trù đạo đức của thời đại mới vào tư tưởng đạo đức mới của mình. Những giá trị đạo đức mới của Người đã hòa nhập với những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, đồng thời làm cho những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc được nâng lên tầm cao mới: truyền thống kết hợp với hiện đại, dân tộc kết hợp với nhân loại.. Phạm trù Trung - Hiếu của Nho giáo đã được Hồ Chí Minh cách mạng thành một trong những phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là “Trung với nước, hiếu với dân”. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước do dân làm chủ nên trung với nước đồng thời là hiếu với dân. Hiếu với dân không còn lại ở thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Phải gần dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Người dạy: Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Đối với cán bộ, đảng viên, điều đó là tận trung với nước, tận hiếu với dân, vì họ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Như vậy, có thể thấy, Hồ Chí Minh đã khai thác di sản tư tưởng của Nho giáo - Nho giáo đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh một cách sâu sắc, từ những phạm trù, mệnh đề tư tưởng đến phương pháp tư duy; từ tư tưởng, học thuyết đến triết lý sống; từ nhận thức đến thực hành b. Phật giáo Nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người: “ Đã gạn lọc, kế thừa, cách mạng hóa những hạt nhân hợp lý trong triết lý đạo Phật, nhất là triết lý đề cao nếp sống đạo đức trong sáng, chủ trương bình đẳng, yêu thương đồng loại, chống điều ác. Người đã nâng nó lên thành ngọn lửa hun đúc cho truyền thống yêu nước, 19
- nhân ái của dân tộc, động viên khích lệ đồng bào theo đạo Phật đồng lòng xây dựng đất nước” Đến với Phật giáo, Hồ Chí Minh như đến với tư tưởng vị tha, cứu khổ, mưu cầu hạnh phúc, an lành cho con người, bình an cho xã hội. Và chính Người, nhà cách mạng đã hành động như một nhà hiền triết hướng đến những gì cao đẹp nhất của con người. Hồ Chí Minh cho rằng, trong mỗi con người phải có cái tâm, cái đức trong sáng. Người hết sức chú trọng về đạo đức và cái tâm của con người, có đạo đức, có cái tâm thì hành động làm theo lương tâm và đạo đức và chính Người cũng là một tấm gương về thực hành theo cái tâm, cái đức trong sáng và cao cả. Hồ Chí Minh nói: “Đức Phật dạy tín đồ, con người thông hiểu, tu hành từ muôn vàn giáo lý, đặng kết động hướng tới sống theo đức hạnh cao nhất:“Hãy gấp làm điều thiện, ngăn tâm làm điều ác”. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Từ quan điểm đó, người luôn ý thức rằng làm thế nào cho mọi người được có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người nói: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Với tấm lòng bao dung, độ lượng và luôn hướng đến điều thiện, dạy con người hướng đến giá trị tốt đẹp, Hồ Chí Minh nói: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác".Qua lăng kính về giáo lý của Phật giáo, cho chúng ta thấy, những ảnh hưởng của Hồ Chí Minh về tư tưởng giáo lý nhà Phật rất rõ nét.. Đó là lòng yêu thương con người, quên mình vì mọi người, mình vì người khác. Chân lý cao cả vô ngã, vị tha, hy sinh quên mình cho chúng sinh trong triết lý Phật giáo đã tác động mạnh mẽ đến nhân cách Hồ Chí Minh. Trọn cuộc đời mình, Người luôn đau đáu, trăn trở một tâm niệm :” Độc lập cho Tổ quốc tôi, độc lập cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu”. Với lòng yêu nước, thương dân vô bờ bến, Người đã đấu tranh không mệt mỏi, hy sinh quên mình để cống hiến cho công cuộc giành độc lập, tự do của dân tộc. c. Lão giáo (Đạo giáo) 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài thảo luận: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, vận dụng tư tưởng đó trong công cu ộc xây dựng đất nước hiện nay”
13 p | 762 | 251
-
PHƯƠNG PHÁP TRÌNH BÀY BÁO CÁO KHOA HỌC - TRUNG TÂM CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
6 p | 334 | 70
-
Bài thảo luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Làm rõ phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
13 p | 1027 | 51
-
Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Khảo sát các bài toán quỹ tích có điều kiện trong môi trường Hình học động
98 p | 128 | 18
-
Tìm hiểu các hướng tiếp cận phân loại email và xây dựng phần mềm mail client hỗ trợ tiếng Việt - 2
36 p | 86 | 11
-
Đề tài: " XÃ HỘI CÔNG DÂN TRUNG QUỐC: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ MÔI TRƯỜNG CHÍNH SÁCH "
16 p | 108 | 10
-
Dự thảo tóm tắt Luận Án Tiến sĩ Sinh học: Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và năng lực trí tuệ của học sinh từ 6 đến 17 tuổi người dân tộc Kinh, H'mong, Dao ở tỉnh Yên Bái
22 p | 86 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn