I. Ngun nhân dn đến sự ra đời của chính sách lạm phát mục tiêu
Như chúng ta đã biết, một CSTT truyền thống của mi quốc gia được đặt ra thông
thường để đạt được 4 mục tiêu chính: Tạo ra công ăn việc làm cho xã hi hay làm
giảm áp lực thất nghiệp; Đảm bảo sự tăng lên của GDP thực (t lệ tăng trưởng có
được sau khi trừ đi t lệ lạm phát); ổn định giá trị đối nội của đồng tiền hay đảm
bo sức mua hàng hoá trong nước của ni tệ; ổn định giá tr đối ngoại của đồng
tiền hay là ổn định tỷ giá.
Mặc dù các mục tiêu này không phải không có những điểm thống nhất, ví dụ như
tăng trưởng cao thường đi kèm với t lệ thất nghiệp thấp... nhưng nói chung thì
chúng có nhng mâu thuẫn nội tại với nhau trong ngắn hạn như:
- Các cú sốc làm tng cung giảm xuống khiến thất nghiệp gia tăng, NHTƯ buộc
phải điều chỉnh lượng cung tiền cho cân bằng với mức cầu tiền thực tế để cho lãi
suất giảm xuống và thúc đẩy đầu tư tạo công ăn việc làm, nhưng đồng thời việc
đó cũng làm cho mức giá cả chung của nền kinh tế tăng lên.
- Giảm t l lạm phát nhằmn định giá tr đối nội của đồng tiền đồng nghĩa với
một CSTT thắt chặt khiến cho lãi suất trong nền kinh tế tăng lên, hiện tượng thoái
lui đầu tư xuất hiện làm tng cầu của nền kinh tế giảm xuống. Thất nghiệp sẽ có
xu hướng tăng và tăng trưởng kinh tế bị kìmm.
Qua việc xem xét các mục tiêu của CSTT và các mi quan hệ giữa chúng đưa
chúng ta đến một kết luận quan trọng rằng: NHTƯ không thể đạt được tất cả các
mục tiêu cùng mt lúc trong ngắn hạn, mà buộc phải lựa chọn mt mục tiêu chính
để tập trung trong khi tạm thời coi nhẹ các mục tiêu khác. Vy vấn đề đặt ra cho
chúng ta tiếp theo sẽ là “mục tu nào nên được chọn làm mục tiêu chính cho
CSTT? vì sao? nó có tác động thế nào đến các biến số của nền kinh tế?”
Trước đây, thường có 2 xu hướng chính cho CSTT: tập trung vào mục tiêu tăng
trưởng kinh tế hoặc cùng mt lúc theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên,
sau một thời gian kiểm nghiệm cả về thuyết ln thực tế, các nhà hoạch định
chính sách đều nhận ra rằng nếu tiếp tục tập trungo mục tu tăng trưởng thì
kết quả là quc gia đó sẽ phải hứng chịu những cơn sốc lạm phát trong khi những
biến số thực khác của nền kinh tế không tiếp tục tăng n như mong muốn. Điều
này là vì:
- Thứ nhất, “CSTT ảnh hưởng lên nền kinh tế mang tính dài hn” nghĩa là ảnh
hưởng không chính xác về mặt thời gian và đôi khi đẩy nền kinh tế vào trạng thái
tiêu cực đặc biệt là khi nó không rõ ràng và nhất quán.
- Thứ hai, “đường cong Philip trong dài hạn là một đường thẳng” nghĩa là sự đánh
đổi t lệ lm phát cao lấy t lệ tăng trưởng cao trong dài hạn là không có. Trong
ngắn hạn chúng ta thấy, đường cong Philip đã chỉ ra một mối quan hệ giữa tỷ lệ
lạm phát cao để đổi lấy tỷ lệ thất nghiệp thấp và t lệ tăng trưởng cao. Đó là vì khi
giá cả tăng lên, các công ty và hgia đình tin rằng họ sẽ giàu lên trong tương lai
nh lợi nhuận và tin lương danh nghĩa tăng lên, do vậy họ sẽ tăng đầu tư cũng
như tiêu dùng của mình. Nhưng trong dài hạn tăng trưởng kinh tế bị giới hạn (khi
đạt được sản lượng tim năng) trong khi lạm phát vn cứ tiếp tục tăng lên do
những dự tính của ngườin.
- Thứ ba, “độ lệch thời gian”, điều này nghĩa làc nhà hoạch định chính sách thì
thường cho rằng các cá nhân và công ty đưa ra các quyết định tiêu dùng hay đầu
tư trùng với thời điểm họ công b CSTT, và vì vậy với những nhân tố đã được
c định trước chỉ cần họ thực hiện mt CSTT mrộng hơn so với dự tính của
khu vực tư nhân sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, khu vực tư nhân
thường đưa ra các quyết định của mình dựa trênc dự tính trước của họ về
CSTT, và mt khi họ nhn thấy động cơ mở rộng của các nhà hoạch định chính
sách thì hsẽ chủ động tăng giá cả và tiền lương. Kết quả là, cui cùng thìc
nhà hoạch định chính sách sẽ không thể lừa được người lao động và các công ty,
CSTT trở nên thất bại, lm phát vẫn tăng mà kinh tế không tăng trưởng.
Những lý lẽ trên khiến cho các nhà hoạch định chính sách nhận ra rằng đã đến lúc
phải tìm kiếm mt mc tiêu mang tính dài hạn hơn, tạo ra những tin đề kinh tế
mô n đnh cho sự phát trin lâu dài. Cùng lúc đó, mt điều rất dễ dàng nhn ra là
lạm phát luôn có những tác động tiêu cực nhất định đến nền kinh tế. Tất nhiên
cũng không thể phủ nhận mt số tác động tích cực nhưng những tác động tiêu cực
vẻ ni lên rõ hơn: to nên sự bất ổn định trong môi trường kinh tế - xã hội, phát
tín hiệu sai lệch kích tch đầu tư quá mức vào khu vực tài chính, và gây ra các
chi phí lớn (chính là chi phí cơ hội của những khoản tin không có lãi suất)... Vì
vậy đối với bất kỳ quốc gia nào, trong thời gian nào t việc kiểm soát lạm phát để
giữ giá cả ổn định cũng luôn thu hút được sự quan tâm chú ý.
Tuy nhiên n định giá cả li không đơn giản là việc kiểm soát lm phát. Theo
nghĩa hẹp đó là việc NHTƯ ngăn chặn cả tình trạng lạm phát lẫn thiểu phát của
nền kinh tế (vì thông qua kênh tài chính các kênh khác, với cùng một chỉ số
tuyệt đối về lạm pt hay giảm phát như nhau, thì chi p đối với nền kinh tế từ
giảm phát còn ln hơn từ lm phát). Trong khi đó hiểu theo nghĩa rộng hơn (mang
tính thị trường hơn) thì n định giá cả đạt được khi mà sự biến động của giá cả
(thể hiện qua t lệ lạm phát) không gây ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư hay
tiêu dùng của các công ty hay chủ thể khác trên thtrường.
Tất nhiên khi giá cả được giữ ở mức ổn định thì nó có thể giúp hn chế các ảnh
hưởng tiêu cực của cả lm phát ln thiểu phát, nhưng bản thân ổn định giá cả cũng
mang trong mình những ích li riêng như:
- Cho phép sự thay đổi trong mức giá cả tương đối khi nó không còn bnh hưởng
bởi sự dao động trong mức giá cả chúng, vì thế các quyết định đầu tư hay tiêu
dùng sẽ vẫn được đưa ra một cách chính xác và dễ dàng. Nghĩa là ổn định giá cả
hướng dẫn các nguồn lực tìm đến với khu vực mang lại lợi nhuận tốt, và nhờ đó
tăng tiềm năng sản xuất của nền kinh tế.
- Nếu tất cả các nhà đầu tư đều tin tưởng rằng mức giá cả là n định trong tương
lai, họ sẽ không yêu cầu “mc phí bù lm phát” để bù đắp cho sự trượt giá của
đồng tiền và ri ro khi nắm giữ các tài sn tài chính dài hạn. Bằng cách loi trừ
phần chi phí bù đắp này ra khi lãi suất thực tế, thị trường vn sẽ hoạt động có
hiệu quả hơn và khuyến khích được nhiều đầu tư.
- Việc giá cả ổn địnhng sẽ khiến các công ty và cá nhân không cần thiết phải
rút bớt các nguồn lc của mình ra khỏi khu vực sn xuất nhằm tự phòng tránh các
rủi ro do lạm phát hoặc thiểu phát.
- Sự ổn định giá cả giúp tăng cường đáng kể sự công bằng xã hi thông qua vic
loại trừ những chi p thực phát sinh khi lạm pt hay thiểu phát làm tăng sự méo
mó nh hưởng đến thuế và an toàn xã hi, cũng như giảm sự phân phối lại của cải
thu nhập mt cách độc quyn.
ổn định giá cả phải là mục tiêu cơ bản của CSTT trong dài hạn, là
sở để một quốc gia có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền
vững và t lệ thất nghiệp tự nhiên.
Chính sách lm phát mục tiêu ra đời và ni lên như mt phương pháp
hữu hiệu nhất để ổn định giá cả. Đây là một cơ chế điều hành CSTT
tương đối mới, đi đầu áp dụng nó là ngân hàng Trung ương (NHTU) Niu-
Dilân (năm 1990), và hơn chục năm qua đã có hành loạt các nưc thực hiện
như Canađa (1991), Vương quốc Anh (1992), Phần lan (1993), Thụy Điển
(1993), Ôxtrâylia (1993), Tây Ban Nha (1994)...
II.Lạm phát mục tiêu
1. Khái niệm
CSMTLP là một khung cơ bản cho CSTT mà trong đó NHTƯ công khai
công bchỉ số lm pt trong dài hn (mục tiêu đã được lượng hoá) và cam
kết sẽ duy trì mục tiêu này để nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn
định và t lệ thất nghip thấp.
2. Điều kiện để thực hiện chính sách LPMT
Thứ nhất, NHTƯ cần một mức độc lập tương đối để thực thi CSTT, mặc dù
không có một NHTƯ nào có thể hoàn toàn độc lập khỏi sự ảnh hưởng của chính phủ.
NHTƯ cần phải, trong giới hạn cho phép, được tự do la chọn các công cụ để đạt được t
lệ lạm pt mc tiêu. Để thực hiện yêu cầu này, quc gia đó cần tb nguyên tắc ''nn
sách chi phi'', cũng như các vấn đề thuộc chính sách tài khoá không được gây bất cứ ảnh
hưởng nào đến CSTT. Số thoát khỏi ngân sách chi phối ngụ ý rằng các khoản vay t
NHTƯ của chính phủ phải ở mức thấp nhất (hoặc tốt nhất bằng 0) và các th trường tài
chính trong nước có đủ độ sâu để ''nuốt chửng'' các đợt phát hành nợ của chính phủ.
Hơn nữa, sự thoát khỏi ngân sách chi phối cũng ngụ ý rằng chính phủ phải sở
nguồn thu rộng rãi và không phi đưa mt cách có hệ thống vào ngun thu từ in tin. Nếu
chi phối về mặt tài khoá tn tại thì chính sách thuế khoá sẽ gây áp lực đến lạm phát và
thi bay hiệu quả của CSTT. Trên thực tế, điều này được thể hiện qua việc chính phủ
không mun làm mếch lòng công chúng bng việc yêu cầu NHTƯ, d, giảm lãi suất để
tăng thuế.
Thứ hai, NHTƯ phải khả năng thực hiện lạm phát mc tiêu cũng như không có
trách nhiệm với các mục tiêu khác như: tiền lương, mc thất nghiệp hay t giả. Ví dụ,
nếu mt quốc gia duy trì chế độ t giá cố định, trong điều kin các luồng vn dịch chuyển
mạnh như hiện nay thì không thề cùng mt lúc thực hiện được lạm phát mục tiêu. Hơn
nữa là khi NHTƯ duy trì cùng lúc hai hay nhiều mục tiêu t th trường không hiểu trong
trường hợp xấu đi, mục tiêu nào sẽ được ưu tiên thực hiện. Ví dụ, khi xuất hiện mi đe
doạ đến t giá, NHTƯ buộc phải lựa chọn: hoặc duy trì t giá cố định, từ bỏ mục tiêu lạm
phát; hoặc bảo vệ chỉ tiêu lạm phát kế hoạch, hy sinh t giá cố định. Tóm lại, ngồi ''trên
hai ghế" không bao ginhận được ''vương miện'' thành công.
3. Kĩ thuật xác định chsố mục tiêu
Về k thuật việc xác định chỉ số mục tiêu (hay lạm phát mục tiêu - inflation
targeting) bao gồm các bước: 1. Lựa chọn loại chỉ số giá (dựa trên mức độ giá cả hoặc t
lệ lạm pt); 2. Hình thành mục tiêu; 3. Tính toán xu hướng lạm phát năm sau; 4. Ưu việt
cơ bản nhất của lạm phát mục tiêu là không b can thiệp bởic chỉ số kinh tế mô
khác như các mục tiêu trung gian truyền thống (M2, M3 hay t giá). Một sự khác biệt
nữa với các cơ chế điều hành khác là nó to cho NHTƯ sự tự do và linh hoạt trong việc
điều hành CSTT. Ví dụ trong trường hợp lấy khối lượng tin hoặc t glm mục tiêu
trung gian, công chúng và các doanh nghiệp có thể kiểm soát dễ dàng và khi các chỉ số
như lạm pt, lãi suất hay t giá biến động họ sẽ có những phn ứng tiêu cực trước tình
trạng điều hành CSTT của quốc gia. Chính sự khác biệt này tạo điều kiện cho NHTƯ chủ
động hơn trong điều hành CSTT. Xác định lạm phát mục tiêu (mt chỉ số hoặc mt
khoảng biên độ); 5. Thoả thuận vkhả năng huỷ bỏ giá trị mục tiêu hoặc t chối chỉ số
lạm phát mục tiêu trong mt số trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên để áp dụng lm phát mục
tiêu t NHTƯ, trước hết, phải được mức tin tưởng cao từ phía xã hội và phải hoạt
động mt cách minh bạch. Hơn nữa, kinh nghiệm quý báu của các nước áp dụng chỉ số
lạm phát mục tiêu đã ch ra sự cần thiết hình thành nhng điều kiện tối thiểu để áp dụng
lạm phát mục tiêu trong điều hành CSTT. Trên hết tất cả, lm phát mục tiêu ch thể áp
dụng ở những nước mà đó thể đảm bảo duy trì lạm phát ở mức thấp không chỉ trên
hình thức mà trên cả thực tế. Các cơ quan quản lý tiền tệ cần hiểu rằng lạm phát không
thể bù đắp tổn hại cho nền kinh tế, có nghĩa rằng với sự trợ giúp của tiền tệ, việc bành
trướng ngân sách sẽ không những không thúc đẩy phát trin các khu vực kinh tế, mà tin
tệ hóa thâm hụt ngân sách sẽ còn là tin đề trực tiếp cho sự gia tăng giá cả trong nn kinh
tế, phá hủy tính ổn định của khu vực tài chính và làm tn hại đến tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn
3. Các vn đề liên quan đến lạm phát mục tiêu
a. Công bố mục tiêu lạm phát
Khi tiếp cận với việc công bố chỉ số lm phát mục tiêu, ta có thể thấy rõ sự khác nhau
giữa các quốc gia. Cơ quan công bố, chỉ số lm phát mục tiêu có thể do NHTƯ tự mình
công bnhư Ôxtrâylia, Phn Lan, Thụy Điển và y Ban Nha, cũng có thể là sự thoả
thuận giữa NHTƯ Bộ tài chính như Canađa và Thụy S, hoặc như ở Vương quốc Anh,
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm công bố và Ngân hàng của nước Anh đóng vai trò cvấn.
Cũng mt s nước, ch số lm phát mục tiêu trước tiên được NHTƯ thông báo
trong nhiều trường hợp do Chính phủ phê duyệt. Như vậy, ở đâu tính độc lập của NHTƯ
càng cao t ở đó NHTƯ sẽ càng phải có trách nhiệm quản trị cơ chế lạm phát mục tiêu,
bao gm: xây dựng chỉ tiêu; công bvà thực thi. Từ đây, ta có thể rút ra kết luận rằng:
chủ thể xây dựng, công bố và thực thi chỉ tiêu lạm phát phụ thuộc rất nhiều vào tính độc
lập của NHTƯ.
Trong tất cả các nước áp dụng lạm phát mc tiêu ch Ngân hàng Reserve của Niu
Dilân và Ngân hàng của nước Anh công bdự báo lạm phát năm ti, còn li các nước
khác từ chốing bố nó. Do vậy, nguyên Thng đốc NHTƯ châu Âu, W.Duiserlberg đã
khuyến cáo rằng:ng b dự báo lm phát không nên thay đổi và cần có sự gii thích của
Cơ quan thực thi. Xã hi cần có mt dự báo duy nhất, dự báo phải được tổng hợp kỹ
lưỡng và phân tích toàn din từ nhiều chỉ số, tránh đơn giản hóa. Công bố lạm phát dự
o duy nhất sẽ giúp luận hiểu được sự mong muốn thục hiện của CSTT. Nếu không,
sẽ làm xã hi hiểu lm về tính minh bạch của chính sách.
b. Xác định chỉ số 1ạm phát mục tiêu
Vấn đề xác định chỉ số lạm phát mục tiêu cũng sự thay đổi giữa các nước. Những khác
nhau cơ bản liên quan đến 3 thông số chính của mục tiêu: tầm nhìn mục tiêu, chỉ số lm
phát mc tiêu và tính linh hoạt của chỉ số lm pt mục tiêu.
- Tầm nhìn mục tiêu. Tm nhìn mục tiêu ngý i về quãng thời gian mà quốc gia có thể
đạt được và duy t mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Hiện nay hai phương pháp tính toán
được xem là ti ưu: phương án thứ nhất, lm pt mục tiêu được xem như là mt chính
sách giảm thiểu tối đa gây sốc cho nền kinh tế. Phụ thuộc vào từng hin trạng của nền
kinh tế mà tầm nhìn mục tiêu thường dao động từ 24 đến 36 tng. Phương án thứ hai,
lạm phát mục tiêu dựa trên quy luật kinh nghiệm. Phương pháp này phụ thuộc ở tầm nhìn
"sâu'' vào tương lai của NHTƯ cũng như các vấn đề thay đổi, của nền kinh tế mà như
quan tâm, hay i cách khác là slượng'' giai đoạn mà NHTƯ có thể dự báo về tình trạng
phát triển của nền kinh tế.
Ngoài ra, việc xác định tầm nhìn mục tiêu phthuộc rất nhiều t lệ lạm pt tại thời điểm
bt đầu thực hiện cơ chế lạm phát mc tiêu. Ví dụ như Canađa Niu Dilân; bước thứ
nht, họ bắt đầu sử dụng lạm phát mục tiêu như một liều thuốc chống lm phát, độ dài
mục tiêu là 18 tháng. Bước tiếp theo, mục tiêu là tiếp tục đạt được mức lạm phát thấp hơn
với khoảng thời gian là 12 tháng đối với NiuDilân và trong 18 tháng đối với Canađa. Sau
khi đạt được thành công về giá tr của chỉ số li cho nền kinh tế trong kế hoạch dài
hạn, chỉ số mục tiêu nên được duy trì ở mức cố định trong mt quãng thời gian. Năm năm
là khoảng thời hạn mà NHTƯ của Niu Dilân đề ra, tại Canađa cũng tương tự nvậy -
đây là khoảng thời gian cần thiết để hiểu rõ hơn chuyển động của nền kinh tế trong điều
kiện lạm pt thấp và qua đó nói lên tính n định giá cả trên thực tế.
- Ch số giá cả. Thực tế hầu hết các nước khi đánh giá lạm phát đều sử dụng chỉ số giá cả
tiêu dùng (CPI) làm ng cnền tảng, bởi CPI nhng lợi thế riêng như: tính quảng bá
tương đối rộng đối với xã hi, được công bố và tính toán thường xuyên. Nhưng bên cạnh
đó, NHTƯ không hiếm khi đưa ra chỉ số giá cả khác mà nó chính là CPI hoặc CPI đã loi
trừ mt số yếu tố - ch số điều chỉnh này thường được gọi là chỉ số lm phát cơ bản (core
inflation).
Thông thường, CPI bao gm những nhóm hàng hóa và dch vụ. Có nhiều mặt hàng mà
giá cả của nó là những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của NHTƯ. Vì nguyên nhân này
nên trong quá trình kiểm soát, NHTƯ cần điều chỉnh hoặc loại bỏ khi CPI những nhóm
mặt hàng hoặc dch vụ mà giá của chúng hoặc do chính phủ điều chỉnh hoặc thường bị
dao động, hayi cách khác, nó không phụ thuộc vào tác đng của NHTƯ. Trên thực tế,
ngoài việc điều chỉnh g của chính phủ, thì thay đi của thuế gián thu, giá lương thực -
thực phẩm hay mt số mặt hàng mà giá cả có tính thay đổi thường xuyên hoặc ít nhạy
cảm với các công cụ của CSTT cũng được rất nhiu nước, bao gồm cả các nước công