intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Quan điểm của sinh viên về hôn nhân đồng giới

Chia sẻ: Phan Ngọc Khánh Quỳnh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

1.240
lượt xem
72
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận "Quan điểm của sinh viên về hôn nhân đồng giới" giúp các bạn hiểu thêm về hôn nhân đồng giới theo quan điểm của luật pháp và dưới góc nhìn của sinh viên đại diện cho giới trẻ ngày nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung bài tiểu luận để nắm bắt đầy đủ nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Quan điểm của sinh viên về hôn nhân đồng giới

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH K40­LỚP40­NHÓM 17  Môn: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG Đề tài: Giảng viên: Th.S TRẦN THỊ MINH ĐỨC Thực hiện:  Nhóm 17: HÌNH SỰ Phan Ngọc Khánh Quỳnh Trần Quang Thân Trần Thanh Trúc Lý Tú Quỳnh Lê Minh Nhật
  2. H ôn nhân đồng giới đang là một vấn đề  được tranh luận rất sôi nổi trên  thế giới hiện nay. Hiện tại, tính đến thời điểm này, có hơn 15 quốc gia  trên thế  giới đã công nhận việc kết hôn giữa những người đồng giới.   Tại thời điểm này ở Việt Nam, các nhà làm luật, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã   hội, bác sĩ, luật sư… đang lên tiếng tranh luận và đưa ra những ý kiến để ủng hộ  việc công nhận kết hôn đồng giới trong Luật hôn nhân và gia đình. Nhưng liệu  việc quá vội vàng công nhận việc kết hôn đồng giới đã là một giải pháp an toàn và   tốt nhất cho vấn đề tại thời điểm hiện tại hay chưa? Theo chúng tôi, chúng ta không nên vội vàng công nhận kết hôn đồng giới  trong Luật. Chúng ta nên xem xét và nghiên cứu vấn đề  hôn nhân đồng giới một   cách tổng thể, dưới nhiều góc độ  khác nhau rồi mới quyết định công nhận hôn  nhân đồng giới ở một thời điểm thích hợp trong tương lai xa. Việc công nhận kết  hôn đồng giới trong Luật vội vàng sẽ khiến chúng ta không thể lường trước được   những hậu quả phát sinh và kéo theo của nó, cũng như những tác động tiêu cực mà   nó mang lại cho các thế hệ tương lai. Với bài tiểu luận này, chúng tôi hy vọng sẽ mang đến cho người đọc một số  kiến thức về hôn nhân đồng giới và quan điểm của sinh viên ngày nay về vấn đề  pháp lý này.
  3. LỜI MỞ ĐẦU PHẦN NỘI DUNG PHẦN KẾT LUẬN  Giáo trình Pháp luật đại cương, TP.HCM, Khoa luật­ trường Đại học Kinh  tế Thành phố Hồ Chí Minh  Luật Hôn nhân và gia đình nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam  Sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển  trẻ em"  của 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok  Các nghiên cứu về hôn nhân đồng giới của :Trung tâm nghiên cứu Pew, các  cơ quan BVA, CSA, IFOP, WHO, PGS­TS Nguyễn Viết Tiến, Ủy ban  Nghiên cứu Gia đình (FRC), Nhà tâm lý Enrique Rojas, Học giả Stanley  Kurtz  Dự thảo Online của Chính Phủ  Báo điện tử Vn­express
  4.  Báo điện tử  Kênh 14  Báo điện tử  Zing.vn  Báo điện tử  VietCatholic News  Báo điện tử  Thanh niên Online  Website 123doc.vn­ Eva.vn­tieuluanhndg.com  VOV.vn (Đài tiếng nói Việt Nam)  Isee.vn ­Hội thảo quan điểm xã hội về hôn nhân đồng giới  RFA.org (Đài Á Châu tự do) ­ Hôn nhân đồng giới: ý kiến giới trẻ  
  5. Chương I :Định nghĩa về đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng  giới. I.1: Định nghĩa về đồng tính luyến ái ­ Đồng tính luyến ái: được nói một cách khiếm nhã là Pê­đê (từ tiếng Pháp pédé,   hay Gay (từ tiếng Anh, thường dùng cho phái nam) và Lesbian (dùng cho phái nữ), là  việc yêu đương hay mối quan hệ tình dục giữa những người đồng giới tính với nhau.   Khái niệm này khác với khái niệm ái nam ái nữ, bán nam bán nữ, hay giới tính thứ ba.   Đồng tính luyến ái không phải là một giới tính, mà là một trong những thiên hướng  tính dục (sexual orientation). ­ Người đồng tính cũng như những người bình thường khác về mặt thể chất, tinh  thần, chỉ  khác về  xu hướng tình dục. Nhiều nhà khoa học cũng cho rằng, thực tế  không phải chỉ có hai giới như chúng ta vẫn thường biết, mà là ba giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng phải thừa nhận ngoài những người đồng tính “tự  nhiên”, còn có không ít trường hợp đồng tính do sự lệch lạc về quan hệ tình dục. Đó là   những bạn trẻ có cuộc sống ăn chơi trác táng và có những quan niệm lệch lạc về tình   dục đồng giới do ảnh hưởng văn hoá phẩm phẩm đồi trụy, không lành mạnh. I.2: Định nghĩa về hôn nhân đồng giới. Hôn nhân đồng giới hay hôn nhân đồng tính là hôn nhân của hai người có cùng  giới tính sinh học hoặc giới tính xã hội được chấp nhận về mặt luật pháp hay xã hội.  Chương II: Hôn nhân đồng giới trong quan điểm của pháp luật II.1: Hôn nhân đồng giới trong quan điểm của pháp luật Việt Nam Ở  Việt Nam, Về  hôn nhân đồng giới, luật Hôn nhân & Gia đình năm 2000 quy  định cấm kết hôn đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ  có chế  tài, xử  phạt. Nay, theo   luật mới, từ 1­1­2015, Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn   giữa những người cùng giới tính” nhưng quy định cụ  thể  “ không thừa nhận hôn  nhân giữa những người cùng giới tính­ Khoản 2 Điều 8”. Như  vậy những người   đồng giới tính vẫn có thể  kết hôn tuy nhiên sẽ  không được pháp luật bảo vệ  khi có  5
  6. tranh chấp xảy ra. Đây cũng được coi là một bước tiến trong việc nhìn nhận hôn nhân   giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay. Ngoài ra, luật HNGĐ năm 2014 chính thức cho phép mang thai hộ  vì hình thức   nhân đạo. Như  vậy các cặp đồng tính nữ  có thể  nuôi con do chính mình sinh ra mà  không cần phải nhận con nuôi như  trước. Đối với đồng tính nam, Nhà nước ta chưa   chấp nhận việc nam đồng tính có thể lấy tinh trùng của mình kết hợp với noãn (trong   ngân hàng hoặc người hiến tặng vô danh) để nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ. II.2: Hôn nhân đồng giới trong quan điểm của pháp luật các nước  khác Những nước hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới Năm  Nước hợp  pháp  hóa  HNĐG 1. Hà Lan 2001 2. Bỉ 2003 3. Tây Ban Nha 2005 4. Canada 2005 5. Nam Phi 2006 6. Na Uy 2009 7. Thụy Điển 2009 6
  7. 8. Bồ Đào Nha 2010 9. Iceland 2010 10. Argentina 2010 11. Đan Mạch 2012 12. Uruguay 2013 13. New Zealand 2014 14. Pháp 2014 15.   Mỹ,   Mexico   và   Brazil  (chỉ   có   một   số   bang   cho  2014 phép các cặp đồng tính kết  hôn) 7
  8. Chương III. Quan điểm của sinh viên về hôn nhân đồng giới. III.1: Quan điểm của sinh viên ở một số quốc gia về hôn nhân đồng  giới Kết quả khảo sát ý kiến của giới trẻ một số nước khác trên thế giới về hôn nhân   đồng giới của Trung tâm Nghiên cứu PEW1 của Hoa Kỳ. Dựa trên kết quả  khảo sát này ta có thể  thấy  phần   lớn   giới   trẻ   trên   thế   giới   hiện   nay   có  thiên   hướng   ủng   hộ   về   vấn   đề   đồng   tính.  Nhóm tuổi 18­29 tuổi  ở  khắp các nước đa số  ủng hộ  về  vấn đề  này hơn  ở  các nhóm khác.   Qua bảng khảo sát, ta cũng thấy thực trạng vấn  đề   này   được   ủng   hộ   nhiều  hơn   ở   các   nước  phương Tây với hơn 50% ở các nhóm tuổi. Cụ  thể,   nếu   các   nước   phương   Tây   như   Canada  (87%), Pháp (81%), Tây Ban Nha (90%),… thì  so với các nước phương Đông thì con số  này  khá   chênh   lệch   ví   dụ   như   Indonesia   (4%),  Malaysia (7%), … Con số này cũng là điều dễ  hiểu vì ở các nước phương Đông quan niệm về  phong tục tập quán thường khắc khe  hơn so  với các nước phương Tây. III.2: Quan điểm của sinh viên Việt  Nam về hôn nhân đồng giới . III.2.1: Kết quả khảo sát ý kiến  sinh viên về hôn nhân đồng giới. Tại Việt Nam thời gian qua, nhu cầu công  nhận   mối   quan   hệ   đồng   giới   từ   cộng   đồng   1 1:Trung tâm nghiên cứu Pew là một cố vấn Mỹ không đảng phái có trụ sở tại Washington, DC ,   cung cấp thông tin về các vấn đề xã hội , dư luận và các xu hướng nhân khẩu học ảnh hưởng tại Hoa   Kỳ  và trên thế  giới. Nó tiến hành bỏ phiếu công cộng ý kiến  , nghiên cứu nhân khẩu học, phân tích   nội dung phương tiện truyền thông , nghiên cứu và thực nghiệm khoa học xã hội khác . Nó không mất   vị trí chính sách rõ ràng . Đó là một công ty con của Pew Charitable Trusts . 8
  9. người đồng tính là có thật và ngày càng cao. Đặc biệt là sự  ủng hộ  của các bạn sinh   viên cho sự hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ngày càng tăng lên và dần chiếm đa số.   Dưới   đây   là   kết   quả   khảo   sát   ý   kiến   của   sinh   viên   được   đăng   trên   báo   điện   tử  Vnexpress: Dựa vào bảng khảo sát, ta có thể dễ dàng nhận thấy sự tăng đều của sự tán  thành hôn nhân đồng tính từ 48% đến 66% trong khoảng thời gian 14 năm.  Đồng thời, lượng ý kiến đồng ý cũng giảm nhanh từ 50% xuống còn 38%. Và  lượng ý kiến trung lập cũng ít đi, thậm chí có khi là 0%. III.2.2: Phân tích kết quả khảo sát  a) Thành phần ủng hộ hôn nhân đồng giới (chiếm hơn 60%) có các quan  điểm như sau: ­Thứ  nhất, hôn nhân là sự  xác lập quyền và nghĩa vụ  vợ  chồng của những   người yêu nhau, mong muốn quan hệ  trên được hợp thức hóa và được xã hội công   nhận. Đó cũng là ý nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất của việc kết hôn. Mục đích sinh   con, duy trì nòi giống chỉ  là điều mà xã hội mong muốn khi một quan hệ  hôn nhân  được xác lập, nhưng đó không phải là nghĩa vụ bắt buộc với các bên khi kết hôn. Bên   cạnh đó, không có một căn cứ  khoa học nào cho rằng, việc không thể  sinh con giữa  những người đồng giới kết hôn vốn chỉ  chiếm một số  lượng ít trong xã hội, nên đó  không phải là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự  thoái hóa, tuyệt   diệt giống nòi của nhân loại.   9
  10. ­ Thứ  hai, quan điểm cho rằng kết hôn đồng giới sẽ   ảnh hưởng đến quyền và  lợi ích hợp pháp của trẻ em là thiếu cơ sở. Quyền lợi của trẻ em chịu  ảnh hưởng từ  các mối liên hệ  đa chiều, phức hợp trong xã hội chứ  không chỉ  từ  quan hệ  hôn nhân   đồng tính. Tại sao pháp luật không cấm người nhiễm HIV kết hôn . Nếu vậy, cũng   nên đối xử công bằng với người đồng tính và không nên sử dụng lý do này để khước   từ quyền kết hôn của họ. ­ Thứ ba, lý do cho rằng hôn nhân đồng giới không phù hợp chuẩn mực đạo đức   xã hội cũng không thực sự  thuyết phục. Khi nhiều người chưa có nhận thức đầy đủ  về nguồn gốc của đồng tính thì sự kỳ thị là điều tất yếu. Không ít người trong xã hội   dễ dàng chấp nhận và đã tin rằng hầu hết những người đồng tính là do bị bạn bè rủ rê  để thử nghiệm các lối sống mới, chạy theo những thói ăn chơi đua đòi. Do đó, xã hội  thiếu sự cảm thông đối với tình trạng đồng tính. Cũng chính vì quan niệm rằng đồng   tính là do  ảnh hưởng từ  lối sống, sinh hoạt của những người đồng tính trước đó nên  cộng đồng đã bỏ mặc và xa lánh người đồng tính để tránh khỏi bị “lây lan”. ­ Thứ  tư, ai cũng có quyền kết hôn với người mình yêu thương. Theo khảo sát   vào tháng 6 năm 2012 của Vnexpress, với câu hỏi “Là người đồng tính, nếu được Luật   cho kết hôn thì bạn sẽ làm gì?”, trong số 1.299  người đồng tính có 856 người chiếm  65.9% sẽ  công khai cưới người tôi yêu, 296 người chiếm 22.8% sẽ  chỉ  đăng ký kết   hôn ngay lập tức. Những người đồng tính đã chịu quá nhiều đã kích, kì thị của gia đình  và xã hội. Vì vậy, việc chấp nhân hạnh phúc của họ  thể  hiện nhân quyền và sự  văn   minh, tiến bộ của xã hội này.  10
  11. Qua đó, ta có thể nhận thấy sự phần nào đó sự thoáng hơn trong quan điểm của  sinh viên Việt Nam. Các bạn ấy có thể bị ảnh hưởng từ tư tưởng, văn hóa của  phương Tây. Hơn nữa, trong thời đại hiện nay, những người đồng tính không ngần  ngại trong việc thể hiện giới tính của mình nên những người đồng tính cũng không hề  xa lạ với họ, có thể đó là những người bạn đồng trang lứa, những người anh, người  chị,... Vì thế, phần lớn các bạn sinh viên cho rằng nên hợp pháp hóa hôn nhân đồng  giới. b) Thành phần phản đối hôn nhân đồng giới (chiếm gần 40%) có các quan  điểm như sau: Xét về các nguyên nhân “Vì sao các bạn không  ủng hộ hôn nhân đồng tính?” thì  có các nguyên nhân sau: ­ Hôn nhân đồng tính được cho khó hòa hợp và dễ đổ vỡ. ­ Hôn nhân đồng tính gây khó khăn ở vấn đề con cái, không có vai trò duy trì nòi   giống một trong những chức năng chủ yếu của hôn nhân. ­ Trẻ  em được nuôi dưỡng bởi các cặp đôi đồng tính dễ  bị  tổn thương tâm lí.   Gây hậu quả cho các thế hệ sau ­ Đi ngược với quy luật tự nhiên, không phù hợp với đa số  dân số  trong xã hội.  Xét trên ý nghĩa sinh học, vai trò quan trọng nhất của mỗi loài là phải tạo ra được con   cái, hôn nhân đồng giới không cho phép họ có con nên trái với quy luật tự nhiên. ­ Kết hôn đồng tính là sự  lệch lạc về  lối sống, đạo đức  ở  nhiều mức độ  khác  nhau. ­ Các thành phần không đồng tình cho rằng “Đồng tính là một căn bệnh tâm thần   làm lệch lạc suy nghĩ và hành vi, dẫn đến xu hướng tình dục cũng bị  tác động”. Một   số thành phần khác thì cho rằng vấn đề đồng tính lan nhanh đó là do trào lưu. Có lẽ, những người  ủng hộ  nghĩ rằng những lý do này mang tính kì thị  và bảo  thủ  nhưng không thể nói là sai hoàn toàn. Đây cũng là suy nghĩ chiếm đa số trong  xã   hội. Chương IV: Nhận thức đúng đắn về hôn nhân đồng giới IV.1: Những mặt tích cực của việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới Thứ nhất, những người đồng giới có thể cảm thấy hạnh phúc về đời sống tinh   thần của mình, năng suất lao động của họ sẽ được nâng cao. Họ không cảm thấy mặt   11
  12. cảm với xã hội khi giới tính của họ  được xã hội chấp nhận. Một điều mà có thể  những người xung quanh có thể  cảm nhận được về  người đồng tính là họ  rất sáng   tạo, nhạy cảm và siêng năng.  Thứ  hai, khi được sống với nhau chính thức thì những tệ  nạn hay vụ  án liên   quan đến giới tính có thể  sẽ  giảm xuống. Khi con người không cảm thấy hạnh phúc   họ sẽ có những suy nghĩ tiêu cực như  sa vào nghiện ngập để  quên đi bản thân không   bình thường, tự tử vì xã hội không chấp nhận họ, kì thị họ…  Thứ ba, theo báo cáo khoa học từ tổ chức WHO của Liên hợp quốc, khoảng 3%   dân số có thiên hướng đồng tính, con số này ở Việt Nam gần 3 triệu người, 3 triệu so   với 90 triệu dân không phải đáng lo ngại. Trong khi đó chúng ta đang ra sức hạn chế  sinh sản thì thiết nghĩ hôn nhân đồng giới là một  biện pháp hạn chế  sinh sản rất tự  nhiên theo quy  luật của vũ trụ  “tương sinh, tương khắc” cho nên  việc cấm đoán này đang đi nghịch với tự nhiên. Thứ  tư,  những người  đồng  tính  đang  chung  sống với nhau như vợ chồng và đang khẳng định lại  giới   tính   thật   sự   của   mình   trong   xã   hội.   Những  trường hợp sống chung như vậy Nhà nước có quản  lý được không? Chắc chắn là không. Vì vậy, hôn  nhân đồng giới sẽ cho chúng ta sự quản lý chặt chẽ,  dễ kiểm soát hơn. Thứ năm, hiện tại  ở châu Á chưa có quốc gia nào cho phép hôn nhân đồng giới   hay kết hợp dân sự  đồng giới nào cả. Vậy, tại sao Việt Nam không là người tiên  phong mà là người theo sau? Thế giới vẫn đang nghĩ Việt Nam là một quốc gia bảo   thủ  trong các mối quan hệ  tuy nước ta đã mở  cửa nhiều năm nay. Việc đạo luật này  được thông qua sẽ là đòn bẩy đưa tên tuổi của Việt Nam đến gần với thế giới hơn vì  được cho là quốc gia thân thiện không có sự kì thị về giới tính. Rất có thể sẽ có nhiều  người đến Việt Nam nhập tịch để có thể kết hôn đồng giới, đây cũng là một điều hay   khi những người này sẽ góp phần phát triển nền kinh tế Việt Nam. Thứ sáu, hầu hết người đồng tính gặp phải sự định kiến và kỳ  thị  của gia đình   và bạn bè. Trong số 1.800 người tham gia trả lời, 20% đã nói rằng vì việc họ đồng tính   mà đã mất bạn, 15% bị gia đình la mắng, 6,5% mất việc, 4,5% bị đánh và 4,1% bị đuổi  ra khỏi nhà. Ngoài ra, họ  còn có thể  bị  bạo lực thể xác, bạo lực tâm lý, bạo lực tình   dục và các hình thức ép người đồng tính đi chữa bệnh tâm thần. Vì thế  PGS­TS   Nguyễn Viết Tiến cho rằng vấn đề kết hôn giữa những người đồng tính là một vấn  đề  thực tế  hiện nay. Việc quy định cho phép kết hôn hay không cần phải được tiến   12
  13. hành điều tra, phân tích, đánh giá, cân nhắc để có đủ cơ sở khoa học khi đưa vào Luật   Hôn nhân ­ Gia đình sửa đổi. Chính vì thế, Bộ Y tế đề  xuất cho phép kết hôn đồng tính vì nó là quyền được   sống thực với gì mình có ­ đó là quyền con người. Những người ủng hộ cho rằng việc công nhận hôn nhân đồng tính là thể hiện sự  bình đẳng giữa con người, rằng pháp luật không nên ngăn cản việc kết hôn của con  người nếu họ  thực sự  muốn vậy. Ngược lại, nhiều người phản đối hôn nhân đồng   tính bởi lo ngại những hệ lụy mà nó gây ra cho xã hội. IV.1: Những mặt tiêu cực của việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới Ủy  ban Nghiên cứu Gia  đình (FRC)  đã  mô tả các hậu quả mà xã hội sẽ gánh phải khi  cho phép kết hôn đồng giới, bao gồm cả việc  suy giảm tỉ lệ kết hôn, gia tăng tỉ lệ ly dị và đe  dọa sự  chung thủy trong tình yêu. Hãy cùng  điểm qua kết quả: Thứ   nhất:   “Tỉ   lệ   kết   hôn   dị   tính   sẽ  giảm” “Ở Massachusetts, tính đến hết năm 2006, chỉ có 52% các cặp đôi đồng tính sống  chung với nhau bận tâm đến việc kết hôn trong khi con số  này  ở  các cặp dị  tính là   91%. Ở Hà Lan, tình hình còn tệ hơn với chỉ 12% các cặp đồng tính. Vì vậy, cho phép   hôn nhân đồng giới sẽ  cho xã hội thấy rằng hôn nhân chỉ  là một ‘sự  lựa chon’ chứ  không phải là điều cần thiết. Do đó, sẽ có ngày càng ít người muốn kết hôn.” Thứ hai: “Hôn nhân đồng giới dễ đổ vỡ ” “Ngay cả  một nhà tâm lý đồng tính cũng thừa nhận rằng “quan hệ của các cặp  đôi đồng tính dễ tan vỡ hơn các cặp đôi dị tính”. Một nghiên cứu tương tự của Hà Lan   cũng cho thấy rằng một mối quan hệ đồng tính nam chỉ kéo dài trung bình 1 năm rưỡi.  Vì vậy, sẽ có rất ít các cặp đôi đồng tính muốn một sự kết đôi trọn đời.”  “Đối với những người đồng tính thì việc có nhiều bạn tình là chuyện dễ  thấy.   Một nghiên cứu  ở  Hà Lan cho thấy rằng những trung bình một người đồng tính nam  có 8 bạn tình hoặc người yêu mỗi năm. Nếu hành vi này được chấp thuận bởi hôn  nhân đồng tính thì định nghĩa ‘chung thủy’ sẽ được xem xét ra sao?” Thứ  ba: “Ngày càng ít trẻ  em được nuôi dưỡng bởi cả  cha lẫn mẹ.   Trẻ  em  được nuôi dưỡng bởi các cặp đôi đồng tính dễ bị tổn thương tâm lí.” 13
  14. “Một số nhà khoa học đã chứng minh rằng những đứa trẻ phát triển tốt nhất khi   được nuôi bởi chính cha mẹ ruột. Việc cho phép hôn nhân đồng giới sẽ tạo ra các gia   đình khuyết đi vai trò của người mẹ  hoặc người cha. Học giả   Stanley Kurtz  nhấn  mạnh hành động này sẽ  phá hủy tính chất và sự  truyền thống của một gia đình đúng   nghĩa.”  Nhà tâm lý Enrique Rojas cho biết: ”Theo các nghiên cứu từ  Hoa Kỳ, Canada,  và New Zealand,  70­80%  số  đứa trẻ  được nuôi bởi người đồng tính sẽ  phát triển   những khuynh hướng đồng tính tương tự. “Những cặp đôi đồng tính nữ  có xu hướng  muốn nuôi dưỡng những đứa trẻ  nhiều hơn các cặp đồng tính nam. Vì thế, hôn nhân  đồng giới sẽ khiến đứa trẻ lớn lên thiếu đi sự dạy dỗ của cha và từ  đó sẽ  sinh ra các  vấn nạn như: gia tăng tỉ lệ phạm tội và có thai ở tuổi vị thành niên, …” . Trong cuốn sách "Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự   phát triển trẻ  em", 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng  25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ  đồng tính cũng đã tham gia vào một   mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ  bình thường. Thứ tư: “Tỉ lệ sinh sẽ giảm sút nghiêm trọng” “Hôn nhân đồng giới không đảm bảo chức năng sinh sản, duy trì nòi giống và do   đó nó khuyến khích xã hội sẽ ‘học hỏi’ theo. Có một bằng chứng cho thấy có mối liên   quan giữa hôn nhân đồng giới và tỉ  lệ  sinh  ở  Mỹ và các quốc gia trên thế  giới. Trong  khi một số người vẫn giữ nỗi lo sợ về sự ‘bùng nổ dân số’ thì các nhà nhân khẩu học   đang rất e ngại trước tỉ lệ sinh thấp có thể gây nguy hại cho sự phát triển xã hội.” Nhà nghiên cứu Dana Mack cho rằng: "Hôn nhân không nên được mở  rộng cho   các cặp đồng tính bởi quan hệ  đồng tính không thể  giúp sinh sản. Hôn nhân là cách   thức của nhân loại mà mục đích cốt lõi là để đoàn kết các thành phần sinh học, xã hội   14
  15. và pháp lý của cha mẹ vào cam kết lâu dài. Hôn nhân nói với một đứa trẻ rằng: một   người đàn ông và một người phụ nữ sẽ ở đó để yêu thương và dạy dỗ bạn” Thứ năm: “Vấn đề sức khỏe” Nhiều nghiên cứu đã ghi nhận: các cặp đồng tính có tỷ  lệ  mắc các chứng rối  loạn tâm lý cao hơn nhiều so với thông thường, tỷ  lệ  chia tay cao của họ  cũng lớn  hơn.  Ví dụ, nghiên cứu tại California (Mỹ) vào năm 2009 cho thấy các cặp đôi đồng  tính có tỷ  lệ  mắc các  chứng rối loạn tâm thần, nghiện ma túy, nghiện rượu và   lạm dụng thuốc an thần, lây nhiễm HIV  cao hơn khoảng 2­2,5 lần so với mức   trung bình. K hông ai trên Thế Giới này có quyền ngăn cản tình yêu của người khác kể cả tình yêu  của những người đồng giới. Họ  có quyền yêu và cưới người họ  yêu thương nhưng   hôn nhân của họ lại không được pháp luật thừa nhận. Mặc dù hơn 60% các bạn sinh   viên đều lên tiếng ủng hộ nhưng xã hội lại không chấp nhận họ. Có lẽ  giới trẻ ngày   nay nhất là là các bạn sinh viên cần có vốn hiểu biết nhiều hơn về hôn nhân đồng giới  và suy nghĩ thật chu đáo trước khi đưa ra ý kiến của mình. Rõ ràng, hôn nhân đồng   giới cũng có những mặt tích cực nhưng hậu quả của nó vẫn nhiều hơn.  Không chấp  nhận   hôn   nhân   đồng   giới   không   phải   không   tôn   trọng  nhân   quyền,   lại   càng  không phải là tư  tưởng của những con người bảo thủ.  Thử  hỏi nếu người thân  trong gia đình bạn yêu và có ý định kết hôn với một người đồng giới thì bố mẹ, ông bà   của bạn sẽ phản  ứng ra sao? Còn bạn sẽ cảm nhận như  thế nào? Bạn sẽ giơ  hai tay  ủng hộ họ chăng? Rõ ràng, hôn nhân đồng giới hoàn toàn không phù hợp với một đất nước nơi gia   đình là nền tảng của xã hội, một đất nước có nền văn hóa mang đậm nét Á Đông như  15
  16. Việt Nam ta. Luật Hôn nhân và Gia đình của nước Viêt Nam đã có một bước tiến lớn   chuyển từ cấm thành không thừa nhận hôn nhân đồng giới nghĩa là đã cho phép họ tổ  chức tiệc cưới, cho phép họ khẳng định tình yêu của mình trước xã hội. Điều đó thể  hiện tính nhân văn trong luật pháp nước nhà.  Và chúng tôi, những người thực hiện bài tiểu luận này cho rằng: luật Hôn   nhân và Gia đình không nên tiến xa hơn nữa mà chỉ nên dừng lại ở mức độ không   thừa nhân đồng giới mà thôi!   16
  17. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0