l

i

d e z i r o h t u A e r u s o c s D c

i l

b u P

QUẢN LÝ RỦI RO VÀ TÁC ĐỘNG XÃ HỘI CỦA PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN KINH NGHIỆM TỪ MỘT DỰ ÁN QUY MÔ TRUNG BÌNH Ở VIỆT NAM

l

i

d e z i r o h t u A e r u s o c s D c

i l

b u P

d e z i r o h

t

l

i

u A e r u s o c s D c

i l

b u P

l

i

d e z i r o h t u A e r u s o c s D c

i l

b u P

Nguyễn Qúy Nghị, Martin H. Lenihan, Claude Saint-Pierre, Nguyễn Thị Minh Phương, Phan Huyền Dân

Bản quyền © 2020

Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển/Nhóm Ngân hàng Thế giới. 1818 H Street, NW, Washington, DC20433 USA. Tài liệu này đã được bảo hộ bản quyền.

Các kết quả tìm hiểu, các giải thích và kết luận trong tài liệu này thuộc về các tác giả và không phản ánh quan điểm của Ngân hàng Thế giới, các tổ chức thành viên, các thành viên Ban Giám đốc Điều hành Ngân hàng Thế giới và các chính phủ mà họ đại diện.

Ngân hàng Thế giới không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu trong tài liệu này và được miễn trừ trách nhiệm đối với việc sử dụng các dữ liệu đó.

Ảnh bìa: TSHPCo

iii

Mục lục

Các từ viết tắt Lời cảm ơn Tóm tắt vi vii viii

I.

Dự án Thủy điện Trung Sơn A. B. C. Giới thiệu chung về dự án Khía cạnh xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn Cơ sở xây dựng tài liệu 1 2 3 6

II.

Phương pháp thực hiện A. B. C. Xác định khái niệm thực hành tốt Lựa chọn chủ đề Xác nhận các thực hành tốt từ các cộng đồng bị ảnh hưởng 7 8 9 10

III.

Cuộc sống trước và sau khi xây dựng Thủy điện Trung Sơn A. B. Trước khi xây dựng Thủy điện Trung Sơn Sau khi xây dựng Thủy điện Trung Sơn 12 13 14

IV.

Tham vấn, Tham gia và Cam kết của các bên liên quan A. B. C. D. Tham vấn sớm và thường xuyên với các cộng đồng bị ảnh hưởng Sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc thiểu số Từng bước nâng cao năng lực xây dựng quan hệ cộng đồng Tóm tắt 18 19 22 23 25

V.

Tái định cư A. B. C. D. E. F. Sử dụng tri thức bản địa để lựa chọn các vị trí tái định cư Trao quyền cho hộ tái định cư bằng cách cho phép tự xây nhà mới Đảm bảo diện tích đất ở đầy đủ Cho phép điều chỉnh trong quá trình xây dựng các lô tái định cư Chi trả tiền xây dựng nhà thành nhiều đợt Tóm tắt 27 29 30 34 36 38 41

VI. Cải thiện sinh kế 43

A. B. C. D. E. F. Lập kế hoạch phục hồi sinh kế theo mô hình dự án phát triển dựa vào cộng đồng Sử dụng một cơ chế thực hiện đã được chứng minh: Các nhóm cùng sở thích Điều chỉnh các hoạt động và nguồn lực khôi phục sinh kế Đảm bảo chuyển giao cho chính quyền địa phương Nhận biết rằng thay đổi sinh kế là một quá trình lâu dài Tóm tắt 44 46 48 51 53 54

iv

VII. Quản lý rủi ro trong giai đoạn tích nước lòng hồ 57

58

A. B. C. D. Đánh giá lại rủi ro và tác động từ việc tích nước, dựa trên thiết kế kỹ thuật cập nhật Chuẩn bị và thực hiện đồng thời biện pháp giảm thiểu rủi ro và tác động môi trường và xã hội Đặc biệt chú ý đến truyền thông trong thời gian tích nước Tóm tắt 58 61 62

VIII. Quan tâm tới văn hóa bản địa và sự tham gia của phụ nữ 64

65

Đảm bảo sự tôn trọng đối với các nền văn hóa dân tộc thiểu số trong suốt quá trình thực hiện dự án Quan tâm đồng đều đến nam giới và phụ nữ trong các hộ gia đình bị ảnh hưởng A. B. C. Một cơ chế giải quyết khiếu nại cho phép tiếp cận tối đa 68 70

IX. 71 72

Kết luận và Viễn cảnh A. B. C. Bài học cho các dự án thủy điện có quy mô tương tự Hướng tới thực hành tốt trong quản lý rủi ro và tác động xã hội đòi hỏi quy trình quản lý thích ứng kết hợp với các khuyến khích phù hợp Những câu trả lời và lời kết cho tương lai 73 74

Phụ lục 1. Địa bàn dự án Phụ lục 2. Địa bàn của các hoạt động trong dự án 79 80

v

Tóm tắt các tác động môi trường và xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn

3 5 20

25

28

Trung Sơn

Tái định cư: Tóm tắt kinh nghiệm dự án thủy điện Trung Sơn

DANH MỤC BẢNG Bảng 1. Bảng 2. Các mốc thực hiện dự án theo kế hoạch và thực tế Bảng 3. Các hoạt động tham vấn trong giai đoạn chuẩn bị dự án Tham vấn và Sự tham gia: Tóm tắt kinh nghiệm từ dự án Bảng 4. Thủy điện Trung Sơn Số hộ bị ảnh hưởng bởi dự án Thủy điện Trung Sơn, và tổng kinh phí Bảng 5. bồi thường Bảng 6. Hiệp định gốc và sửa đổi với Ngân hàng thế giới về dự án Thủy điện Bảng 7. Một số ý kiến của người dân và phương án xử lý về lô tái định cư Bảng 8. Bảng 9. Gói hỗ trợ khôi phục sinh kế theo các nhóm bản Bảng 10. Cải thiện sinh kế: Tóm tắt kinh nghiệm từ Dự án Thủy điện Trung Sơn Bảng 11. Các tác động tiềm năng và tác động thực tế trong giai đoạn tích nước Bảng 12. Kế hoạch truyền thông của dự án thủy điện Trung Sơn về việc tích nước Bảng 13. Quản lý rủi ro khi tích nước: Tóm tắt kinh nghiệm từ dự án Trung Sơn 34 37 42 49 56 59 61 62

DANH MỤC HÌNH

Các mốc thời gian của Dự án Thủy điện Trung Sơn Các hộ gia đình có nhà tắm và sử dụng điện lưới

HÌNH 1. HÌNH 2. HÌNH 3. Những thay đổi về tài sản hộ gia đình HÌNH 4. HÌNH 5. HÌNH 6. HÌNH 7. Các mốc quyết định tham vấn ở dự án Thủy điện Trung Sơn Các mốc quyết định trong tái định cư ở dự án thủy điện Trung Sơn Các mốc quyết định trong cải thiện sinh kế ở dự án thủy điện Trung Sơn Phương pháp tiếp cận thích ứng đối với quản lý rủi ro và tác động xã hội 5 14 15 25 41 55 73

10 16 21 30

33 35

DANH MỤC HỘP Hộp 1. Hộp 2. Hộp 3. Hộp 4. Hộp 5. Hộp 6. Hộp 7. Hộp 8. Các tiêu chí xác định thực hành tốt trong dự án Trung Sơn Kết quả xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn Tham vấn cấp thôn bản về các khu tái định cư Sử dụng tri thức bản địa trong việc lựa chọn địa điểm tái định cư Trình tự sửa đổi Hiệp định với Ngân hàng Thế giới về Dự án thủy điện Trung Sơn Nhà ở theo lối sống của người Thái và ở khu tái định cư tập trung Điều phối viên địa phương trong chương trình cải thiện sinh kế ở dự án Trung Sơn Tín ngưỡng của người Thái 51 65

vi

Các từ viết tắt

AIDS CLIP ESMP EVN FAO GENCO2 HIV NHTG OP RPF RLDP SESIA TLN TSHPCo VND VRN Hội chứng suy giảm miễn dịch Kế hoạch Cải thiện Sinh kế Cộng đồng Kế hoạch Quản lý Môi trường và Xã hội Tập đoàn Điện lực Việt Nam Tổ chức Nông lương Thế giới Tổng Công ty Phát điện 2 Virus gây suy giảm miễn dịch ở người Ngân hàng Thế giới Chính sách hoạt động Khung Chính sách Tái định cư Chương trình Tái định cư và Phát triển Sinh kế Đánh giá tác động môi trường và xã hội bổ sung Thảo luận nhóm Công ty TNHH MTV Thủy điện Trung Sơn Đồng - Đơn vị tiền tệ Việt Nam Mạng lưới sông ngòi Việt Nam

vii

Lời cảm ơn

“Quản lý rủi ro và tác động xã hội của phát triển thủy điện: Kinh nghiệm từ một dự án quy mô trung bình ở Việt Nam” là báo cáo do Ngân hàng Thế giới (NHTG) xây dựng với mục đích tài liệu hóa những kinh nghiệm về quản lý rủi ro và tác động xã hội của Dự án thủy điện Trung Sơn. Báo cáo này cũng ghi nhận nỗ lực của các bên liên quan trong giai đoạn thực hiện dự án nhằm đảm bảo sự tuân thủ đầy đủ với những chính sách an toàn xã hội của NHTG về Tái định cư không tự nguyện và Người bản địa.

Tài liệu này là kết quả của việc rà soát do nhóm công tác của NHTG thực hiện vào thời điểm kết thúc dự án. Ông Nguyễn Qúy Nghị (Chuyên gia cao cấp về Phát triển Xã hội, SEAS1) và ông Martin Henry Lenihan (Chuyên gia cao cấp về Phát triển Xã hội, SEAS1) giữ vai trò hướng dẫn. Bà Nguyễn Thị Minh Phương và bà Phan Huyền Dân (Các chuyên gia tư vấn Xã hội học) triển khai các hoạt động thực địa và các phân tích ban đầu. Bà Claude Saint-Pierre (Chuyên gia tư vấn Quốc tế) chịu trách nhiệm về mặt phương pháp. Bà Vũ Thùy Dung, trợ lý chương trình, đã hỗ trợ hành chính trong suốt quá trình thực hiện. Các chủ nhiệm dự án của Ngân hàng Thế giới bao gồm ông Franz Gerner (Chuyên gia trưởng về Năng lượng), và ông Trần Hồng Kỳ (Chuyên gia cao cấp về Năng lượng) đã cung cấp những góp ý quý báu. Lãnh đạo và cán bộ của Công ty TNHH MTV Thủy điện Trung Sơn đã ủng hộ sáng kiến chia sẻ kinh nghiệm dự án. Nhóm biên soạn cũng xin trân trọng cảm ơn những hỗ trợ to lớn của công ty trong việc bố trí thực địa và hậu cần. Ông Vũ Huy Phúc (Giám đốc), ông Đặng Ngọc Triệu (Phó giám đốc), ông Hoàng Ngọc Hiển (Trưởng ban Quản lý Dự án) đã đưa ra những đánh giá giá trị về quá trình triển khai dự án. Nhóm biên soạn cũng đã nhận được những bình luận có tính xây dựng của các phản biện, bao gồm ông Chaogang Wang (Chuyên gia trưởng về Phát triển Xã hội, SMNSO), ông Satoshi Ishihara (Chuyên gia cao cấp về Phát triển Xã hội, SCASO) và ông Vincent Roquet (Chuyên gia cao cấp về Phát triển Xã hội, SESF2).

Chúng tôi cũng xin cám ơn sự hỗ trợ đối với sáng kiến này đến từ Văn phòng Quốc gia và Ban Phát triển Xã hội của Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, trong đó có bà Susan S. Shen (Giám đốc Ban Phát triển Xã hội Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương), bà Stefanie Stallmeister (Giám đốc Quản lý điều hành và Danh mục đầu tư tại Việt Nam) và ông Ousmane Dione (Giám đốc Quốc gia tại Việt Nam). Nhóm biên soạn xin gửi lời tri ân tới cán bộ dự án, chính quyền địa phương, cộng đồng bị ảnh hưởng, và các hộ gia đình, đã dành thời gian chia sẻ kinh nghiệm quý báu, những câu chuyện thú vị và ý kiến phản hồi chân thực mà nếu không có chúng việc chuẩn bị tài liệu này đã không thể hoàn thành.

viii

Tóm tắt

Thủy điện Trung Sơn là một dự án quy mô trung bình (260 megawatt) được xây 1. dựng với mục đích bền vững về môi trường và xã hội. Dự án được xây dựng trên thượng nguồn sông Mã ở các tỉnh Thanh Hóa và Sơn La thuộc Tây Bắc Việt Nam. Công trình bắt đầu đi vào hoạt động từ cuối năm 2016. Công ty TNHH MTV Thủy điện Trung Sơn (TSHPCo), thành viên của GENCO2 (EVN), là đơn vị quản lý hồ chứa và nhà máy thủy điện. Ngân hàng Thế giới đã cung cấp tài chính thông qua khoản vay trị giá 330 triệu đô la Mỹ. Dự án được thiết kế tuân theo tiêu chuẩn quốc tế về quản lý tác động và rủi ro xã hội và môi trường, cũng như về công nghệ và chi phí. Một trong những hợp phần của dự án được dành riêng cho việc quản lý các tác động xã hội của quá trình xây dựng hồ chứa và đập, với ngân sách và các khung chỉ số đi kèm.

Kinh nghiệm thu được từ dự án Thủy điện Trung Sơn có thể cung cấp thông tin phù 2. hợp cho các dự án thủy điện có quy mô tương tự. Báo cáo này là kết quả của hoạt động chia sẻ kiến thức được Ngân hàng Thế giới thực hiện vào cuối năm 2019 với sự tham gia của TSHPCo. Dự án được hưởng lợi từ quá trình ra quyết định theo nguyên tắc quản lý thích ứng dựa trên khung biện pháp và quy trình thực hiện. Các hoạt động chi tiết đều có thể được triển khai nếu chúng phù hợp với khung nguyên tắc chung. Nguyên tắc quản lý thích ứng đặc biệt hữu ích khi giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thời gian thực hiện dự án. Mười tám thực hành tốt được đề xuất trong năm lĩnh vực: (a) tham vấn và sự tham gia, (b) tái định cư, (c) phục hồi sinh kế, (d) tích nước hồ chứa, và (e) cộng đồng dễ bị tổn thương và nhạy cảm văn hóa.

Tham vấn đóng vai trò quan trọng trong việc đem lại những kết quả hiện có của dự 3. án, và giảm thiểu tác động xã hội. Hiệu quả của nó là rõ ràng thông qua việc kết hợp bốn yếu tố (thời gian, tần suất, ngôn ngữ và tăng cường năng lực cộng đồng). Bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị và được tiếp tục trong suốt quá trình triển khai, tham vấn được thực hiện bằng ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng địa phương, hầu hết đều thuộc các nhóm dân tộc thiểu số. Dự án ngay từ đầu đã huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự. Kết quả tham vấn được sử dụng để hoàn thiện thiết kế dự án và xây dựng các giải pháp giảm thiểu tác động. Tất cả các bên liên quan cùng làm việc để thống nhất từng chi tiết của những tài liệu này. Thông qua hoạt động tư vấn trực tiếp, TSHPCo dần dần cải thiện được mối quan hệ cộng đồng của riêng mình và phát triển các kỹ năng tương tác với hộ gia đình và chính quyền địa phương. Những người bị ảnh hưởng cũng được trao cơ hội nâng cao năng lực của chính họ để hiểu rõ hơn dự án.

4. Kinh nghiệm từ dự án Thủy điện Trung Sơn cho thấy việc di dời tiến triển như thế nào. Nó đòi hỏi quá trình đàm phán và sự tham gia liên tục của tất cả các bên liên quan để giải quyết các vấn đề phát sinh. Quá trình tham gia trong việc lựa chọn địa điểm khu tái định cư, cách thức xây nhà mới của các hộ bị ảnh hưởng, là một phần của những thảo luận liên tục. Các quyết định quan trọng và cho kết quả tích cực của dự án bao gồm: sử dụng tri thức bản địa trong việc lựa chọn điểm tái định cư, và trả tiền cho các hộ tự xây dựng nhà thành nhiều đợt để

ix

kiểm soát tiến độ và chất lượng của những ngôi nhà mới. Việc cho phép người dân tự xây dựng nhà mới trong khu tái định cư đòi hỏi sự nỗ lực bền bỉ và quyết định của các cơ quan trung ương. Những điều chỉnh trong quá trình xây dựng là chìa khóa để đảm bảo điều kiện nhà ở đầy đủ cho tất cả mọi người. Kết quả là, tiến độ di dời và tiến độ chung của dự án được đảm bảo. Tiếng nói của cộng đồng đã được lắng nghe, và nguồn lực được sắp xếp kịp thời để phân bổ cho việc xây dựng nhà tái định cư, cho dù là nhà do các hộ gia đình tự xây dựng hay do dự án cung cấp. Chất lượng nhà ở được cải thiện, cùng với điều kiện sống tốt hơn, đồng thời vẫn bảo tồn được kiểu nhà sàn đặc trưng của dân tộc Thái. Sự phối hợp giữa chính quyền các cấp và Ban quản lý dự án nổi bật lên qua quá trình này.

5. Thực hiện phục hồi sinh kế thông qua cộng đồng địa phương tuy tốn nhiều thời gian nhưng về lâu dài có thể sẽ dẫn đến kết quả bền vững hơn. Hoạt động phục hồi sinh kế tại các bản được xây dựng theo mô hình phát triển dựa vào cộng đồng. Nhóm cùng sở thích (CIG), mô hình đã được chứng minh ở Việt Nam, là cách thức chủ yếu để tổ chức các hoạt động tập huấn và trình diễn. Thành viên nhóm và lĩnh vực hoạt động được lựa chọn thông qua quá trình tham vấn từ dưới lên. Dịch vụ tư vấn cá nhân được bổ sung thực hiện nhằm hỗ trợ các bản bị ảnh hưởng điều chỉnh hoạt động sinh kế của họ. Các hoạt động sinh kế từng bước được tích hợp vào hoạt động của địa phương, bắt đầu từ cấp thôn bản. Đến năm 2019, chúng đã được chuyển giao toàn bộ cho chính quyền địa phương, và các hộ gia đình bước vào quá trình đa dạng hóa sinh kế. Trong số rất nhiều lựa chọn khác nhau mà dự án đưa ra, người dân đã bắt đầu ưu tiên hoạt động chăn nuôi và tiếp thu kiến thức, kỹ năng mới trong lĩnh vực này. Mặc dù không được duy trì sau khi kết thúc dự án, mô hình nhóm sở thích đã tỏ ra hữu ích như là phương thức để duy trì và tái tạo vốn xã hội trong quá trình di dời. Từ góc độ này, năng lực tự quản của cộng đồng thôn bản đã được nâng cao. Đồng thời, cán bộ địa phương có cơ hội phát triển năng lực bản thân trước khi hoạt động của các mô hình phát triển dựa vào cộng đồng được chuyển giao cho chính quyền địa phương.

Quản lý tác động hạ lưu trong thời gian tích nước lòng hồ rất quan trọng, đòi hỏi 6. phải có phương án cụ thể giảm thiểu các rủi ro. Tác động hạ lưu khi tích nước lòng hồ đã được đánh giá từ giai đoạn chuẩn bị dự án và có thể được giảm thiểu thông qua việc duy trì dòng chảy môi trường. Tuy nhiên, phương án này không khả thi trong thiết kế kỹ thuật của đập và nó làm dấy lên lo ngại rằng dòng sông sẽ bị cạn và các hoạt động phía hạ lưu sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc này đã kích hoạt một loạt các hoạt động nghiên cứu, tham vấn, đánh giá và xác định các biện pháp giảm thiểu. Kế hoạch truyền thông toàn diện đã được thực hiện để đưa thông tin tới các cộng đồng và hộ kinh doanh ở hạ lưu. Các tác động tiềm tàng được giám sát trực tiếp trên hiện trường. Tuy nhiên, trên thực tế dòng chảy môi trường được duy trì trong quá trình tích nước, toàn bộ khu vực hạ lưu được đảm bảo an toàn, các biện pháp giảm thiểu được xây dựng và phổ biến rộng rãi cho cộng đồng. Bồi thường bằng tiền đã được chi trả cho các thiệt hại thực tế, và việc tích nước lòng hồ chỉ bị trì hoãn trong ba tháng. Đây cũng là cơ hội để TSHPCo tăng cường năng lực truyền thông chủ động với nhiều bên liên quan hơn.

7. Sự tôn trọng đối với văn hóa các dân tộc thiểu số được đảm bảo trong suốt quá trình triển khai. Rủi ro và tác động đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số được xác định ngay từ giai đoạn chuẩn bị. Việc di dời mộ là một vấn đề nổi bật khi đây là một yêu cầu đối với dự án nhưng cũng là một việc thường không được thực hiện trong văn hóa bản địa. Nhờ vào nguyên tắc tôn

x

trọng văn hóa địa phương được áp dụng trong dự án thủy điện Trung Sơn mà nhiệm vụ gần như bất khả thi này đã trở thành một thực tiễn được cộng đồng chấp nhận. Các hộ bị ảnh hưởng có thể quyết định có di dời mộ gia đình họ hay không, và ai sẽ đảm nhận việc này. Quá trình truyền thông với các cộng đồng bị ảnh hưởng và việc tổ chức các nghi lễ thờ cúng tại thời điểm di dời, là mấu chốt để đạt được thỏa thuận này. Dự án dành đủ thời gian để xác định số lượng ngôi mộ bị ảnh hưởng. Việc lựa chọn các địa điểm nghĩa trang mới cũng không thể thực hiện được nếu không có sự tham khảo ý kiến với người dân địa phương.

8. Cả nam giới và phụ nữ trong các hộ gia đình bị ảnh hưởng được quan tâm và chú trọng ngang nhau. Trong thời gian đầu thực hiện, dự án đã chú ý dành sự quan tâm cho cả nam và nữ để tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cuộc họp liên quan đến dự án. Dự án đã khởi xướng việc hợp tác với Hội Phụ nữ huyện và duy trì quan hệ này để nâng cao nhận thức về các khu lán trại lớn của công nhân trong khu vực Trung Sơn. Hội Phụ nữ đã mời các bậc cha mẹ tham dự để thông báo cho họ về những rủi ro tiềm ẩn và biện pháp bảo vệ phụ nữ và trẻ em gái. Trong quá trình tái định cư, sự quan tâm dành cho phụ nữ tập trung trong hai lĩnh vực: (a) giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp dưới tên của cả hai vợ chồng, và (b) khuyến khích sự có mặt của cả hai vợ chồng khi nhận tiền bồi thường. Sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động phục hồi sinh kế được cải thiện rõ rệt khi dự án triển khai các phương pháp tập huấn và lịch trình hoạt động phù hợp. Tuy nhiên, việc mời phụ nữ Mông tham gia vẫn còn gặp nhiều thách thức do khả năng hạn chế đọc/viết ngôn ngữ phổ thông và phong tục địa phương.

9. Quản lý rủi ro và tác động xã hội đòi hỏi phải giải quyết các trở ngại thông qua sự phối hợp tương tác thường xuyên với các bên liên quan. Ban quản lý dự án của TSHPCo vốn có rất ít kinh nghiệm trong việc tổ chức tham vấn, triển khai các hoạt động sinh kế, và áp dụng các chính sách an toàn xã hội của Ngân hàng Thế giới. Sự tham gia của đầy đủ các bên liên quan đã cho phép đưa ra các quyết định rõ ràng để giải quyết từng vấn đề này. Thay vì chỉ có cuộc đối thoại giữa TSHPCo và người dân bị ảnh hưởng, sự đối thoại giữa các bên liên quan đã đảm bảo tiến độ xây dựng đập và việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động xã hội. Việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế tạo ra sự khích lệ đối với các bên liên quan của dự án, và các cam kết của TSHPCo cũng không kém phần quan trọng. Sự tham gia của các bên còn là động lực mạnh mẽ để đạt được tiến bộ trong xây dựng và thực hiện các biện pháp giảm thiểu. Với tư cách là một bên liên quan, các cộng đồng địa phương với kinh nghiệm thực tế của họ đã góp phần vào các quyết định thành công. Nếu không có tác động từ họ, chắc chắn kết quả dự án sẽ không đạt được.

10. Sự phát triển nhanh chóng của khu vực hồ chứa Trung Sơn, với mạng lưới cơ sở hạ tầng mới, đang mang đến cả những cơ hội và thách thức. Giai đoạn mới đã bắt đầu, không chỉ là sự vận hành của một đập thủy điện, mà còn về sự phát triển xã hội bền vững của các cộng đồng tái định cư vùng cao đang sinh sống xung quanh. Chương trình Tái định cư, Sinh kế và Dân tộc thiểu số đã tạo đà và cần được tiếp tục để được phát triển hơn nữa nhằm nâng cao mức sống của người dân địa phương một cách bền vững. Hiện nay, khi toàn bộ dự án Trung Sơn đã đi vào hoạt động, vẫn còn nhiều điểm cần tiếp tục khai thác để phát triển sinh kế. Để tiếp tục hỗ trợ cho các hộ gia đình địa phương và cộng đồng, phạm vi trách nhiệm xã hội của TSHPCo sẽ cần phải được xác định, và sự tương tác với chính quyền địa phương có thể sẽ tiếp tục duy trì trong một thời gian dài.

1

Dự án Thủy điện Trung Sơn

2

“Em cũng được đi nhiều nơi, em hỏi han về tái định cư của họ. Khi chúng em đi qua có hỏi họ về tái định cư của họ như thế nào, đền bù ra sao, hỗ trợ sinh kế như thế nào, họ chỉ lắc đầu vì nó không giống. Em kể với họ là Dự án thủy điện Trung Sơn như thế này, như thế kia. Họ bảo là nếu chúng tôi được như thế thì làm gì khổ như thế này.” (PVS số 15, Trưởng bản, xã Tân Xuân).

A. Giới thiệu chung về dự án

1. Thủy điện Trung Sơn là công trình quy mô trung bình được xây dựng ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Với công suất lắp đặt 260 MW, công trình vừa cung cấp điện vừa giúp kiểm soát lũ, đồng thời được kỳ vọng sẽ đóng góp vào giảm thiểu biến đổi khí hậu ở Việt Nam bằng cách giảm phát thải CO2. Thủy điện Trung Sơn được xây dựng trên sông Mã, một trong những con sông lớn của Việt Nam, với tổng chiều dài 400 km, trong đó có một phần chảy qua đất Lào. Mặc dù vị trí của đập được đặt ở xã Trung Sơn, thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa, nhưng tác động từ hồ chứa do nó tạo ra ảnh hưởng tới ba huyện của hai tỉnh1.

Các hợp phần của dự án bao gồm đập và công trình phụ trợ, đường truyền dây tải 2. điện, và giảm thiểu tác động xã hội và môi trường. Đơn vị thực hiện là Công ty TNHH MTV Thủy điện Trung Sơn (TSHPCo) thuộc Tổng Công ty Phát điện 2 (GENCO2), Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). Ngân hàng Thế giới (NHTG) hỗ trợ tín dụng 330 triệu đô la Mỹ cho dự án.

3. Dự án thủy điện Trung Sơn được thiết kế tuân theo những thực hành tốt trên thế giới về kỹ thuật, chi phí, bền vững về môi trường và xã hội. Mục tiêu của dự án là cung cấp điện năng chi phí thấp, đồng thời vẫn đảm bảo an toàn và bên vững về môi trường và xã hội. Giảm thiểu tác động MT-XH là một trong những hợp phần của dự án và có các chỉ tiêu đi kèm nhằm đánh giá kết quả đạt được. Mức sống của người dân bị ảnh hưởng được cam kết ít nhất là tương đương hoặc cải thiện hơn so với trước khi dự án triển khai. EVN, TSHPCo, và NHTG là các các bên tham gia trực tiếp đều cam kết thực hiện dự án như một ví dụ điển hình về cách thức thủy điện có thể hỗ trợ cho sự phát triển của Việt nam, theo hướng cân bằng những lợi ích về kinh tế với tính bền vững về môi trường và xã hội.

1

Huyện Quan Hóa và huyện Mường Lát thuộc tỉnh Thanh Hóa, huyện Vân Hồ thuộc tỉnh Sơn La.

4. Trong khi có nhiều chủ thể khác nhau tham gia trong quá trình quản lý tác động/rủi ro xã hội, các hộ gia đình bị ảnh hưởng, TSHPCo và NHTG là những nhóm chính dẫn dắt các cuộc thảo luận và đàm phán. Hộ gia đình vừa là nhóm bị ảnh hưởng vừa được hưởng lợi từ dự án. Họ được kỳ vọng sẽ tham gia tích cực vào các hoạt động của dự án (bao gồm lập kế hoạch, thực hiện, giám sát và đánh giá). Chính quyền địa phương, đặc biệt cấp huyện và tỉnh, thể chế hoá các quyết định do TSHPCo đề xuất trong sự phối hợp với các hộ bị ảnh hưởng và NHTG. Vai trò chính của TSHPCo là thực hiện dự án theo đúng tiến trình, tiêu chuẩn và nguyên tắc đã đồng ý trước đó. Về phần mình, NHTG có trách nhiệm giám sát việc thực hiện dự án, đảm bảo việc đạt được mục tiêu phát triển, và các mục tiêu của chính sách an toàn. Tùy theo từng chủ để và giai đoạn cụ thể của dự án, các chủ thể khác có thể xuất hiện (ví dụ, các bộ ngành cấp trung ương khi

3

điều chỉnh hiệp định dự án, các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong quá trình tham vấn, nhóm hỗ trợ kỹ thuật về sinh kế trong việc thực hiện CLIP, và các nhà thầu, tư vấn).

B. Khía cạnh xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn

5. Ngoài những yêu cầu bắt buộc của Việt Nam, việc thực hiện dự án cần phải tuân thủ những yêu cầu về chính sách an toàn môi trường và xã hội của Ngân hàng Thế giới. Tám chính sách an toàn đã được kích hoạt, bao gồm 02 chính sách an toàn xã hội: Tái định cư không tự nguyện (OP 4.12) và Người bản địa (OP 4.10). Qua tham vấn với người bị ảnh hưởng, đánh giá xã hội, sinh kế và đánh giá tác động môi trường và xã hội bổ sung một loạt tác động hoặc rủi ro trong khu vực dự án đã được xác định. Các ảnh hưởng này được tóm tắt trong bảng 1. Các yếu tố tác động chữ in nghiêng được giải quyết thông qua kế hoạch quản lý môi trường thay vì chương trình Tái định cư, Sinh kế và Phát triển Dân tộc thiểu số (RLDP).

BẢNG 1. Tóm tắt các tác động môi trường và xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn

Các phần dự án

Tiếng ồn, bụi, an toàn đường bộ

Đập

Khu vực lòng hồ

Lán trại công nhân

Tác động tiêu cực • • Chất thải • An toàn lũ • Tác động hạ lưu: nguồn cá cho sinh kế, khai thác cát • Gián đoạn giao thông đường thủy • Tái định cư • Mất đất nông nghiệp, đặc biệt đất trồng luồng • Nhu cầu phục hồi sinh kế • Nguy cơ đối với bản sắc văn hóa tộc người ở khu vực tái định cư • Sử dụng và buôn bán ma túy gia tăng trong công nhân • Tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ khu vực lán trại • An toàn và sức khỏe sinh sản, đặc biệt phụ nữ

• Tái định cư các hộ bị ảnh hưởng

Đường vào, Đường dây truyền tải điện

Nguồn: SESIA và đánh giá sinh kế.

3

Kế hoạch Tái định cư và Kế hoạch Phát triển Dân tộc Thiểu số nhằm phục vụ cho việc xây dựng (1) 22km đường vào công trường (bao gồm cả các cầu), (2) 65km đường dây truyền tải điện 220kV và (3) trạm 110kV Mai Châu và đường dây đấu nối.

6. Chương trình Tái định cư, Sinh kế và Phát triển Dân tộc thiểu số (RLDP) là tài liệu tích hợp của dự án cho quản lý các tác động và rủi ro xã hội xung quanh đập và hồ chứa. Đây là “mảng xã hội” trong hợp phần giảm thiểu tác động xã hội và môi trường của dự án. Tài liệu được chia thành 04 phần, đảm bảo tính tuân thủ đối với 02 chính sách an toàn đã nêu: (i) Kế hoạch tái định cư (RAP) đối với đập và công trình phụ trợ, (ii) Kế hoạch cải thiện sinh kế cộng đồng, (iii) Kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số, (iv) Hoạt động quản lý và truyền thông. Kế hoạch về hoạt động quản lý và truyền thông bao gồm cơ chế khiếu nại, và hệ thống giám sát, đánh giá. Kế hoạch tích hợp này bao phủ toàn bộ các hộ bị ảnh hưởng vì phần lớn trong số họ đều đủ điều kiện để tham gia vào tất cả 04 chương trình. Các tác động và rủi ro bắt nguồn từ việc xây dựng đường vào và đường dây truyền điện từ nhà máy thủy điện vào lưới điện quốc gia được xử lý trong các tài liệu riêng rẽ.2 Dự án thiết lập một khung chính sách tái định cư duy nhất (RPF), trong đó xác định các

4

quyền lợi và bồi thường đối với việc thu hồi đất và quá trình tái định cư dưới tác động của các hạng mục công trình xây dựng khác nhau.

Quản lý thích ứng được xác định là một nguyên tắc trong RLDP. Nguyên tắc này cho 7. phép các hoạt động cụ thể được điều chỉnh miễn là chúng phù hợp với biện pháp và nguyên tắc khung của RLDP, RPF và rộng hơn là chính sách an toàn của NHTG. Quản lý thích ứng được thể hiện trong ít nhất năm lĩnh vực dưới đây:

Đáp ứng kịp thời những cập nhật trong chính sách và luật (ví dụ Nghị định 69/ND-CP hướng dẫn thực hiện thu hồi đất, bồi thường và tái định cư, Luật Đất đai 2013 và các nghị định hướng dẫn thi hành luật) được ban hành sau thời điểm phê duyệt khung chính sách tái định cư của dự án thủy điện Trung Sơn.

Áp dụng nguyên tắc bồi thường với giá thay thế dựa trên giá thị trường tại thời điểm thực hiện. Khung chính sách tái định cư cũng đặt ra các nguyên tắc để xem xét tính hợp lệ của các hộ phát sinh sau ngày khóa sổ trong việc nhận bồi thường và hỗ trợ tái định cư.

Điều chỉnh ngân sách RLDP khi cần trong quá trình thực hiện. Các khoản dự phòng đã được đưa vào để cho phép tăng ngân sách.

Hiệu chỉnh kế hoạch thực hiện tùy theo tiến trình thực hiện. RLDP, ban đầu được lên kế hoạch cho giai đoạn 5 năm từ cuối năm 2010 đến cuối năm 2015, đã được cập nhật và kéo dài đến năm 2019.

Đáp ứng những thay đổi của các hộ bị ảnh hưởng về thu xếp tái định cư và phục hồi sinh kế. Nhiều vòng tham vấn với người dân địa phương được tiến hành để xác thực các lựa chọn của người dân và nắm bắt những mong muốn thay đổi của họ về phục hồi sinh kế và thu xếp tái định cư. Thực tế là, người dân thay đổi các lựa chọn của họ nhiều lần kể từ cuộc họp tham vấn đầu tiên, đặc biệt là về các lựa chọn tái định cư.

8. RLDP được triển khai ở tất cả các địa phương bị ảnh hưởng bởi hồ chứa, và tập trung nhiều hơn vào “khu vực lõi”. Tổng số trên địa bàn có 7 xã và một thị trấn chịu các tác động của hồ chứa rộng 13 (km2). Khu vực lõi thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa bị ngập trong lòng hồ, còn khu vực lõi thuộc địa phận tỉnh Sơn La bị ngập bởi một nhánh sông. 09 xã không thuộc vùng lõi3 nằm dọc theo con sông kéo dài 65 km về phía hạ lưu (Xem Phụ lục 1 và 2 bản đồ khu vực dự án). Các hỗ trợ thông qua RLDP được thiết kế tương ứng với mức độ tác động ở từng bản cụ thể.

3

Các xã thuộc khu vực lõi bao gồm: Trung Sơn (vị trí đập, huyện Quan Hóa), Mường Lý, Trung Lý, Tam Chung, Tén Tằn và thị trấn Mường Lát (thuộc huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa), Tân Xuân và Xuân Nha (thuộc huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La).

9. Các hoạt động trong Chương trình Tái định cư và Cải thiện Sinh kế đã diễn ra trong khoảng thời gian tám năm. Dự án bắt đầu thực hiện các hoạt động này song song với việc xây dựng đập vào năm 2012 sau khi đường vào công trường được hoàn thành. Nhà máy thủy điện Trung Sơn bắt đầu hoạt động vào cuối năm 2016. Năm 2017, các hoạt động phục hồi sinh kế

5

(CLIP) được thực hiện như dự kiến trong khuôn khổ dự án và được kéo dài đến cuối năm 2019 trong hai năm gia hạn dự án (Hình 1).

HÌNH 1. Các mốc thời gian của Dự án Thủy điện Trung Sơn

2012-2017 Thực hiện dự án thuỷ điện Trung Sơn Thực hiện RLDP

2008-2011 Chuẩn bị dự án thuỷ điện Trung Sơn Thiết kế RLDP

2018-2019 Mở rộng dự án thuỷ điện Trung Sơn (CLIP)

2003-2007 Giai đoạn khảo sát thuỷ điện Trung Sơn

2017 Giai đoạn vận hành thuỷ điện Trung Sơn

2008-2011 Giai đoạn thiết kế thuỷ điện Trung Sơn Xây dựng đường vào

2012-2016 Giai đoạn xây dựng thuỷ điện Trung Sơn Xây dựng đường tải điện

Dự án Thủy điện Trung Sơn đã đạt hầu hết các mốc chính theo kế hoạch đề ra. Tổ 10. máy đầu tiên của nhà máy phát điện gần như đúng tiến độ, chậm khoảng ba tháng sau ngày dự kiến ban đầu. Kết quả này đạt được trong khi vẫn đảm bảo các hoạt động xây lắp chỉ triển khai sau khi hoàn thành công tác thu hồi đất (cho từng cột mốc) và công tác chi trả bồi thường được thực hiện. Đây có thể coi là một thành quả quan trọng so với các dự án hạ tầng ở quy mô tương tự, đặc biệt trong bối cảnh ở Việt Nam, nơi các dự án thường xuyên bị kéo dài do thiếu mặt bằng sạch hoặc khiếu kiện kéo dài.

BẢNG 2. Các mốc thực hiện dự án theo kế hoạch và thực tế

Các mốc hoạt động chính

Theo kế hoạch

Trên thực tế

Hoàn thành đường vào và cầu Khởi công xây dựng công trình chính Hoàn thành đường tải điện Tích nước Hoạt động thương mại tổ máy số 1 của nhà máy thủy điện Hoạt động thương mại của tổ máy số 4

Tháng 6/ 2012 Tháng 6/ 2012 Tháng 1/ 2016 Tháng 10/ 2016 Tháng 10/ 2016 Tháng 4/ 2017

Tháng 6/ 2012 Tháng 10/ 2012 Tháng 10/ 2016 Tháng 1/ 2017 Tháng 1/ 2017 Tháng 6/ 2017

C.

Cơ sở xây dựng tài liệu

Bản báo cáo được xây dựng nhằm tài liệu hóa những thực hành tốt trong quản lý tác

11. động và rủi ro xã hội ở một dự án thủy điện quy mô trung bình và có 4 mục tiêu chính:

Trước hết, để xem xét việc đạt được nguyên tắc tuân thủ các thực hành tốt theo chuẩn mực quốc tế được thống nhất từ giai đoạn chuẩn bị. Do đó, tài liệu này được chuẩn bị vào cuối năm 2019 (khi kết thúc dự án) để giúp các bên cùng đánh giá mức độ đạt được của cam kết này.

Thứ hai, để cung cấp những thông tin cập nhật tác động của dự án và việc triển khai các biện pháp giảm thiểu. Mặc dù các chính sách an toàn xã hội đã xác định cách thức quản lý các tác động và rủi ro xã hội từ trước khi bắt đầu hoạt động xây lắp, các tài liệu này được cập nhật thường xuyên trong suốt quá trình của dự án để phản ánh tốt hơn

6

các rủi ro và tác động trên thực tế. Tài liệu này báo cáo tác động thực tế của dự án. Nó cũng giải thích về những thay đổi trong thiết kế, thời gian thực hiện và chính sách đã diễn ra, đồng thời mô tả cách thức quản lý tác động và rủi ro xã hội đã được điều chỉnh cho phù hợp.

Thứ ba, để nắm bắt tính năng động trong tương tác giữa các bên liên quan khi triển khai dự án. Những điều chỉnh đã được thực hiện cho thấy sự năng động trong quá trình ra quyết định trong suốt thời gian triển khai dự án thủy điện là quan trọng như thế nào để quản lý thành công các rủi ro và tác động xã hội. Các dự án thủy điện khác cũng có thể gặp những tình huống tương tự, do đó, tài liệu này được xây dựng để giúp các bên lường trước được tình huống họ có thể gặp phải và đưa ra cách thức vượt qua chúng qua một trường hợp cụ thể của dự án thủy điện Trung Sơn.

Thứ tư, để đóng góp vào hoạt động chia sẻ kinh nghiệm và tri thức cho những người quan tâm hoặc tham gia vào công việc tương tự trong các dự án thủy điện hoặc dự án hạ tầng nói chung. Tài liệu này hướng đến cán bộ dự án, nhà hoạch định chính sách, nhà nghiên cứu, kỹ sư và những người tham gia trong khâu thiết kế, chuẩn bị và thực hiện các biện pháp giảm thiểu tác động xã hội trong một dự án thủy điện, cho dù dự án đó có được tài trợ bởi một tổ chức tài chính quốc tế hay không. Tài liệu cũng sẽ đặc biệt hữu ích cho những người làm việc trong những dự án đầu tư tương tự được tài trợ bởi các tổ chức tài chính quốc tế (IFIs).

7

Phương pháp thực hiện

8

12. Phần này sẽ tập trung vào phương pháp thực hiện, bao gồm: xác định các thực hành tốt, lựa chọn chủ đề, rà soát tài liệu, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, và sự công nhận từ các chủ thể và cộng đồng bị ảnh hưởng.

13. Tài liệu hóa là công việc đòi hỏi sự sắp xếp và phân tích các sự kiện theo dòng thời gian hoặc theo các chủ đề. Ở mỗi chủ đề, cần làm rõ các câu hỏi như: Ai, Cái gì, Khi nào, Tại sao và Như thế nào.

Nghiên cứu tài liệu: Hoạt động này góp phần quan trọng trong việc xác định các nội dung chính của dự án thủy điện, bao gồm cả tài liệu chính sách an toàn, việc thực thi chúng và những kết quả đạt được. Bên cạnh biên bản ghi nhớ và công thư trao đổi giữa các bên (NHTG và TSHPCo, EVN) các tài liệu khác được tổng hợp bao gồm: tài liệu liên quan đến dự án4, báo cáo tham vấn, nghiên cứu nền, báo cáo đánh giá – giám sát định kỳ, văn bản hành chính liên quan đến dự án của chính quyền các cấp, và báo cáo nghiên cứu từ những dự án tương tự. Rà soát các ấn phẩm học thuật giúp nhóm khái niệm hóa các kinh nghiệm dự án trong khung khổ phân tích được công nhận về quản lý rủi ro/tác động xã hội. Điều này có thể bao gồm các nghiên cứu về các vấn đề tái định cư chung hoặc tái định cư do đập gây ra.

Phỏng vấn sâu và Thảo luận nhóm: Phỏng vấn trực tiếp được thực hiện dựa trên một danh sách những câu hỏi mở. Ngoài các câu hỏi chính được xác định trước, phương pháp này cho phép linh hoạt điều chỉnh công cụ phỏng vấn nhằm nắm bắt được toàn bộ câu chuyện đã diễn ra. Có 28 cuộc phỏng vấn sâu và 04 TLN (bao gồm 2 cuộc TNL nam và 2 cuộc TLN nữ) được thực hiện với những đối tượng thuộc các nhóm khác nhau. Những người trả lời chính bao gồm: Ban QLDA, chính quyền địa phương, cán bộ thôn bản, và đại diện các hộ dân bị ảnh hưởng.

A.

Xác định khái niệm Thực hành tốt

4

Kế hoạch Tái định cư, Kế hoạch phát triển Dân tộc thiểu số, Khung chính sách Tái định cư và RLDP.

14. Các tài liệu hiện có về quản lý rủi ro và tác động xã hội ít nêu rõ các tiêu chí để xác định một thực hành tốt. Chúng thường chỉ tập trung vào một chủ đề cụ thể (như chương trình tái định cư) (World Bank, 2004; Scudder, 2005) hoặc tập trung vào các công cụ được tích hợp với nhiều thành tố (Scudder, 2005; IHA, 2010) hoặc bổ sung thêm nhiều chiều cạnh khác để xem xét các tác động cụ thể (tái định cư). Có sự thiếu vắng cách hiểu chung về việc xác định thực hành tốt ở cấp độ vi mô (dự án, hoạt động, can thiệp). Chẳng hạn, liên quan đến chi trả đền bù, một khuyến nghị thường được đưa ra là cả hai vợ chồng nên cùng nhận tiền đền bù thông qua một tài khoản đồng sở hữu. Tiêu chí nào để đánh giá việc này có được xem là một thực hành tốt hay không?

9

Trong tài liệu này, định nghĩa của FAO5 về thực hành tốt trong hướng dẫn về chia sẻ

15. tri thức được sử dụng:

“Một thực hành tốt là thực hành không chỉ tốt, mà còn chứng minh được sự áp dụng và mang lại kết quả tốt, và do đó được khuyên dùng như một mô hình. Đó là một kinh nghiệm thành công, được thử nghiệm và xác nhận, theo nghĩa rộng, được lặp đi lặp lại và xứng đáng được chia sẻ để nhiều người có thể áp dụng.”

16. Chỉ một số ít các thực hành tốt trong dự án thủy điện Trung Sơn được lựa chọn để thảo luận trong báo cáo này. Các chủ đề này sẽ được phân tích chi tiết để chứng minh rằng chúng thực sự là thực hành tốt. Chúng được chọn vì đây có thể là những chủ đề thường gặp trong hầu hết các dự án thủy điện ở quy mô và môi trường tương tự, và vì chúng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng các bên để đạt được mục tiêu phát triển của dự án Trung Sơn.

17. Thực hành tốt được xác định và ghi lại trong tất cả chu trình của dự án. Tài liệu này tập trung hơn vào giai đoạn thực hiện, vì Gencer và Spencer (2012) đã ghi lại những bài học kinh nghiệm liên quan đến các tác động và rủi ro môi trường và xã hội trong giai đoạn chuẩn bị của dự án. Mục tiêu của báo cáo này là xác định những gì có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án và làm thế nào để giải quyết chúng theo cách phù hợp, trong đó có cân nhắc các yêu cầu chính sách, bối cảnh địa phương (bao gồm khuôn mẫu văn hóa), tính khả thi về mặt kỹ thuật và tài chính.

5

FAO (2013) liệt kê bảy tiêu chí chung để xác định một thực hành tốt: (a) hiệu quả và thành công; (b) bền vững về môi trường, kinh tế và xã hội; (c) nhạy cảm giới; (d) khả thi về mặt kỹ thuật; (e) vốn có tính tham gia; (f) có thể nhân rộng và thích nghi; và (g) giảm rủi ro thiên tai/khủng hoảng.

18. Việc xác định các thực hành tốt trong dự án Trung Sơn là một quá trình tương tác. Nhiệm vụ này được bắt đầu với một số cuộc họp trao đổi nhằm giúp các thành viên làm quen dần với dự án, đồng thời làm sáng tỏ các khía cạnh chính như phạm vi, phương pháp, các bên liên quan và các đề cử thực hành tốt. Cuối cùng, nhóm đã xây dựng ra năm tiêu chí để xác định “các ứng viên thực hành tốt” ở dự án Trung Sơn. Danh sách này đã được thảo luận với TSHPCo. Quá trình ban đầu này giúp các bên có cơ hội thể hiện quan điểm của mình. Các ứng viên thực hành tốt đáp ứng tất cả các tiêu chí sẽ được ưu tiên lựa chọn.

10

HỘP 1. Các tiêu chí xác định thực hành tốt trong dự án Trung Sơn

Tuân thủ chính sách của dự án. Trong dự án này, chính sách bao gồm các quy tắc thực thi dự án được Chính phủ Việt Nam và NHTG cùng thừa nhận. Chính sách bao gồm cả các tiêu chuẩn quốc tế. Chính sách thường đưa ra ngưỡng thấp nhất cần đáp ứng, do vậy đây yêu cầu tối thiểu cần đạt được của một thực hành tốt.

Lấy con người làm trung tâm. Tất cả các quyết định chính thức đều dựa trên một quá trình tham vấn đầy đủ và sự tham gia của các bên liên quan. Mức độ tham gia của từng chủ thể được xác định tùy theo khả năng ảnh hưởng của họ đến việc thực hiện quyết định. Các chủ thể trực tiếp bị ảnh hưởng (affected parties) đóng vai trò chủ động vào quá trình tham gia và ra quyết định.

Không tiềm ẩn các nguy cơ tác động xã hội và môi trường. Các quyết định được đưa ra dựa trên việc đánh giá các khả năng rủi ro có thể xảy ra. Các quyết định chính thức đảm bảo rằng không có rủi ro xã hội nào sẽ xuất hiện trong quá trình thực thi các quyết định.

Phù hợp với bối cảnh cộng đồng. Các quyết định khi đưa ra đều phải có cân nhắc tới bối cảnh thực tiễn, điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi cộng đồng. Đây là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện thành công các dự án/can thiệp phát triển.

Nhạy cảm về giới và văn hóa. Thực hành tốt sẽ tính đến đặc thù văn hóa của người bản địa, cộng đồng địa phương, và đảm bảo sự đa dạng và bản sắc của họ. Chiều cạnh giới cũng cần được tính đến trong tất cả các biện pháp can thiệp của dự án.

B.

Lựa chọn chủ đề

19. Thủy điện Trung Sơn là dự án điển hình cho việc áp dụng toàn diện các chính sách an toàn xã hội của NHTG. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên (và có thể là khó khăn nhất) là xác định các chủ đề sao cho không chỉ đại diện đặc thù cho dự án mà còn đáp ứng các tiêu chí lựa chọn để từ đó phục vụ cho quá trình tài liệu hóa. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, khi mà các khía cạnh của chính sách an toàn được lồng ghép vào gần như tất cả các hoạt động từ ngày chuẩn bị đầu tiên cho đến khi kết thúc dự án.

20. Từ những thảo luận với các chủ thể có liên quan, một nhóm gồm 18 hành động/ quyết định nổi lên như những chủ đề tiềm năng, khi xét đến khả năng đóng góp của chúng vào việc đạt được mục tiêu phát triển, và tầm quan trọng của chúng trong vòng đời dự án. Cuối cùng, 5 chủ đề đã được lựa chọn để cân nhắc thực hiện các bước tiếp theo và chiếm phần lớn thảo luận trong báo cáo này: tham vấn và tham gia (phần IV), tái định cư (phần V), phục hồi sinh kế (phần VI), tích nước (phần VII) và phát triển dân tộc thiểu số và lồng ghép giới (phần VIII). Xác định các chủ đề ứng viên cho các thực hành tốt chỉ mới là bước đầu tiên, nhiệm vụ quan trọng hơn là phải xác nhận chúng với các bên liên quan khác khi nhóm làm việc tại hiện trường.

11

C.

Xác nhận các thực hành tốt từ các cộng đồng bị ảnh hưởng

21. Các thực hành tốt đã được xác nhận thông qua các phiên làm việc tại hiện trường với các cộng đồng bị ảnh hưởng và các bên liên quan khác của dự án. Quá trình ra quyết định liên quan đến quản lý các tác động và rủi ro xã hội trong dự án Trung Sơn đã được tái hiện một cách cẩn thận bằng cách kết hợp thông tin có được từ những cuộc thảo luận với các bên liên quan và xem xét kỹ lưỡng các tài liệu dự án. Các tài liệu này đã đem lại những hiểu biết hữu ích về các sự kiện đã diễn ra và giúp gợi ra những mốc thời điểm quan trọng trong quá trình triển khai. Báo cáo từ các dự án tương tự được sử dụng làm thông tin tham khảo. Cuộc phỏng vấn với các cán bộ của TSHPCo đã khẳng định các thực hành tốt được lựa chọn và xem đó như một cơ hội nâng cao năng lực liên quan đến chủ đề đặt ra.

22. Phương pháp tiếp cận từng bước là giải pháp cần thiết để giúp các cá nhân và cộng đồng bày tỏ quan điểm của họ về những gì có thể được coi là thực hành tốt trong dự án. Trong quá trình phỏng vấn và thảo luận nhóm, ban đầu, mọi người có xu hướng tập trung vào những gì họ chưa hài lòng. Họ coi các cuộc thảo luận như một vòng tham vấn khác, trong đó người dân địa phương và những người thực hiện dự án trao đổi với nhau. Dần dần, họ trở nên hào hứng chia sẻ những nhìn nhận tích cực hơn. Quá trình trao đổi giúp họ gợi lại thông tin quan trọng và chia sẻ quan điểm đa chiều. Các thành viên cộng đồng đã đóng góp ý kiến và giúp xác định quan điểm chung về các quyết định thành công trong dự án. Các cuộc thảo luận này cũng cho thấy mức độ hiểu biết của người dân địa phương về hoạt động của dự án. Đặc biệt, nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số đã đưa ra những tuyên bố mạnh mẽ, khác hẳn với định kiến cho rằng họ ngại nói lên quan điểm của mình. Họ đã chia sẻ với nhóm nghiên cứu những kiến thức của họ về quyền lợi của hộ gia đình và cách họ tìm hiểu thông tin và đưa ra yêu cầu hoặc gửi thư khiếu nại lên chính quyền các cấp.

Lưu ý: Tài liệu này không kỳ vọng sẽ bao phủ đầy đủ hết nội dung quản lý rủi ro và tác 23. động xã hội như quy định trong các chính sách chi phối quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án thủy điện Trung Sơn. Thay vào đó, nó cung cấp những phân tích chi tiết về các quyết định hoặc chủ đề quan trọng thể hiện nỗ lực của các bên liên quan trong việc giải quyết các thách thức an toàn xã hội nhằm đạt được các kết quả tích cực. Những thực hành chúng tôi trình bày trong tài liệu này có thể áp dụng được cho các dự án thủy điện quy mô tương tự, mặc dù nguồn lực và các biện pháp giảm thiểu có thể được huy động theo những cách khác nhau. Ngoài ra, tài liệu này không nhằm đánh giá việc thực hiện chính sách an toàn xã hội hoặc đánh giá tác động của dự án với một thiết kế chuyên biệt. Điều này có nghĩa là rất khó cho nhóm soạn thảo phân tách những thay đổi (tích cực và tiêu cực) do tác động của dự án với những thay đổi diễn ra một cách tự nhiên trong bối cảnh không có dự án. Tuy vậy, nó không làm mờ đi các tác động to lớn của dự án khi tính đến điều kiện kinh tế - xã hội và địa lý trong khu vực giai đoạn trước dự án. Cuối cùng, chúng tôi quyết định chỉ ghi lại các quá trình ra quyết định đã được chứng minh là có hiệu quả, nhấn mạnh những trở ngại mà dự án đã gặp phải và cách thức vượt qua. Chia sẻ những kinh nghiệm như vậy sẽ hiệu quả hơn. Một số câu hỏi cần thảo luận trong giai đoạn tiếp theo được trình bày trong phần IX của báo cáo.

12

Cuộc sống trước và sau khi xây dựng Thủy điện Trung Sơn

13

A.

Trước khi xây dựng Thủy điện Trung Sơn

24. Khi các đoàn khảo sát địa chất bắt đầu đặt chân đến vùng đất này tìm vị trí đặt đập thủy điện vào năm 2004-2005, Trung Sơn là cả một vùng đồi núi thưa thớt dân cư với bạt ngàn cây tre luồng. Tuyệt đại đa số cư dân là người dân tộc Thái, Mường và Mông. Học vấn ở người trưởng thành hầu hết chỉ ở bậc tiểu học, một số ít ở bậc trung học cơ sở. Ngày đó, hầu hết trẻ em đều được đến trường, song chỉ có một số ít học sinh tiếp tục theo đuổi bậc trung học phổ thông tại ngôi trường nằm ở thị trấn nhỏ cách xa bản của các em.

Khi việc chuẩn bị dự án được khởi động trong năm 2007-2008, người dân nơi đây 25. vẫn sống trong nghèo đói. Ở tám xã thuộc vùng lõi, có tới hai phần ba số hộ có mức sống dưới chuẩn nghèo quốc gia. Cũng ở thời điểm đó, tỷ lệ nghèo của vùng Tây Bắc là 36%, và trên cả nước là 13%. Đây là khoảng cách rất lớn về mức sống giữa cộng đồng trong vùng dự án và mức chung của cả nước. Cộng đồng 50 bản bị ảnh hưởng bởi nhà máy thủy điện rất dễ bị tổn thương và gắn bó chặt chẽ với tài nguyên thiên nhiên địa phương. Chính phủ đã có nhiều chương trình và dự án phát triển dành riêng để thúc đẩy sự phát triển các nhóm dân tộc thiểu số. Các chương trình này đưa ra những hỗ trợ trong nhiều lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, văn hóa và xã hội và kinh tế. Những chương trình đáng chú ý nhất bao gồm Chương trình 134 và 1356. Các chương trình này hỗ trợ miễn học phí cho trẻ em dân tộc thiểu số, khám và điều trị y tế miễn phí cho người dân tộc thiểu số, và định cư quy mô lớn cho các nhóm dân tộc thiểu số (DRCC, 2008).

26. Hoạt động sinh kế tại địa phương chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là trồng lúa, ngô và sắn trên đất dốc. Chăn nuôi lợn, gà ở dạng quy mô hộ gia đình, chủ yếu để tiêu dùng trong hộ. Thi thoảng vào mùa khô, từ tháng hai đến tháng tám, dân bản đi đánh bắt cá trên sông bổ sung nguồn thức ăn cho gia đình. Khi có sản lượng dư thừa hoặc cần tiền mặt, các hộ gia đình nông dân có thể bán bớt một phần lúa thóc, ngô, sắn, hoặc gà, lợn. Nói chung, các gia đình thường có rất ít tiền mặt trong nhà. Ở thượng nguồn mà ngày nay là lòng hồ Trung Sơn, vào năm 2008 thu nhập bình quân đầu người chỉ vào khoảng 2 triệu đồng/người/năm (tương đương 100 đô la Mỹ).

7

Chương trình 135 cung cấp hỗ trợ tài chính cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nhỏ cho các xã nghèo và đặc biệt khó khăn. Bên cạnh đó, chương trình cũng phát triển một số hoạt động để khuyến khích mở rộng nông lâm nghiệp và áp dụng công nghệ tiên tiến trong các lĩnh vực để trang bị cho mọi người kiến thức và kỹ năng để thúc đẩy sản xuất của họ). Chương trình 134 cung cấp hỗ trợ để loại bỏ các nhà tạm.

27. Hầu hết các hộ gia đình chưa tiếp cận được lưới điện quốc gia, và giao thông vô cùng khó khăn. Người Thái và Mường sinh sống trong các ngôi nhà sàn, còn người Mông sống trong các ngôi nhà trệt, mái thấp. Quy mô hộ gia đình trong vùng dự án vào khoảng 5 người/hộ (5,3). Chỉ có 404 hộ thuộc hai xã gần thị trấn Mường Lát là trung tâm huyện sử dụng được nguồn điện lưới. Số còn lại cũng có một số ít hộ gia đình mua được máy phát điện mini. Có tới 1/3 số hộ trong vùng dự án thắp sáng bằng các vật liệu như than, củi, hoặc nến. Chỉ có 4 xã (Trung Sơn, Trung Lý, Xuân Nha và Tân Xuân) có đường, nhưng cũng chỉ đến được trung tâm xã. Để đến thị trấn huyện gần nhất, người dân từ các bản chỉ có thể đi xe máy trên những con đường miền núi

14

gồ ghề, hoặc đi bộ với khoảng cách dài hàng chục ki-lô-mét. Phụ nữ, thường bận rộn với công việc trong nhà, thường không có thời gian và tiền bạc để ra đến thị trấn và trở về trong cùng ngày.

B.

Sau khi xây dựng Thủy điện Trung Sơn

Thủy điện Trung Sơn đã mang lại những thay đổi cho vùng cảnh quan miền núi 28. trước đây. Đường giao thông do dự án tài trợ đã giúp ô tô có thể di chuyển đến tất cả các bản. Người dân địa phương có thể tiếp cận được điện lưới quốc gia, một nguồn năng lượng tin cậy hơn. Ở khu vực dự án, tỷ lệ các hộ được tiếp cận nguồn điện lưới quốc gia là 97% vào năm 2018, so với mức ít hơn một phần ba vào năm 2015. Tỷ lệ các hộ gia đình dùng máy phát điện giảm đáng kể. Hầu hết nhà được xây mới theo cách truyền thống và với chất lượng tốt hơn. Đa số các nhà (80%) đều có nhà tắm, và khu vệ sinh. Người dân hài lòng với ngôi nhà của mình.

100

90

80

70

60

Nhà tắm

50

40

Sử dụng điện lưới quốc gia

30

20

10

0

Điều tra căn bản

Đánh giá giữa kỳ

Đánh giá cuối kỳ

Nguồn: ASEC, 2018: 31.

HÌNH 2. Các hộ gia đình có nhà tắm và sử dụng điện lưới

29. Trong mỗi gia đình, xe máy, điện thoại di động, và ti-vi đã trở thành những vật dụng không thể thiếu. Một số thiết bị tiện dụng khác như bếp gas, tủ lạnh, nồi cơm điện, đầu DVD, và quạt điện cũng đang trở nên phổ biến trong khu vực dự án Thủy điện Trung Sơn (Hình 3). Mọi người chia sẻ rằng cuộc sống trở nên tiện nghi hơn rất nhiều so với trước khi có dự án. Từ nguồn tài chính của dự án, ngoài các tuyến đường nội bộ trong khu tái định cư, 20 km đường vào từ quốc lộ 15 đến khu vực đập đã được xây dựng. Con đường đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của người dân. Việc vận chuyển tre luồng và nông sản trở nên thuận tiện hơn. Những phụ nữ dưới 40 tuổi đều biết sử dụng xe máy. Họ kể về cách họ tự mình đưa đón con đi học, đi chợ và di chuyển ra tới trung tâm huyện một cách dễ dàng. Đây là những điều mà trước đó hầu như không thể thực hiện được vì những con đường đất gần như không thể đi lại trong mùa mưa.

15

Điện thoại di động

Xe máy

Quạt điện

Tivi màu

Giường

VHS, đầu DVD, đầu thu kỹ thuật số, ăng ten chảo

Bếp ga/Bếp điện tử

Bếp điện, nồi cơm điện, nồi áp suất

Tủ lạnh

Máy bơm nước

Xuồng máy

Ô tô

Máy phát điện

0

20

40

60

80

! 100

Điều tra căn bản

Đánh giá giữa kỳ

Đánh giá cuối kỳ

Nguồn: ASEC, 2018: 33.

HÌNH 3. Những thay đổi về tài sản hộ gia đình

Nông nghiệp vẫn là nguồn sinh kế chính, nhưng vấn đề an ninh lương thực không 30. còn là mối lo ngại. Hoạt động nông nghiệp ở khu vực Trung Sơn bị thu hẹp, tuy nhiên, việc tiếp cận với đất rừng sản xuất đã được cải thiện. Cho dù, các hộ gia đình (đặc biệt là ở Sơn La) có thể phải di chuyển xa hơn để đến đất nông nghiệp và rừng của họ, nhưng hầu hết các con đường có thể đi lại bằng xe máy. Không có hộ bị thiếu đói. Hộ nào có hoạt động sản xuất nông nghiệp duy trì ổn định thì cuộc sống phục hồi tốt. Một số ít khác cần đến sự trợ giúp. Hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm vai trò chủ đạo, song người ta nhận thấy hoạt động phi nông nghiệp bắt đầu có dấu hiệu tăng dần.

31. Các hộ gia đình nhìn chung đã bày tỏ sự hài lòng về chất lượng cuộc sống sau khi di dời. Năm 2018, trong cuộc khảo sát đánh giá cuối dự án, 89% những người được hỏi hài lòng với căn nhà mới xây trong khu tái định cư; 91% hài lòng với hệ thống giao thông; 93% hài lòng về hệ thống điện. Tỷ lệ hài lòng với việc phân lô tái định cư thì ở mức thấp hơn (77%). Hộp 2 cung cấp một đoạn trích từ đánh giá cuối kỳ thủy điện Trung Sơn. Sinh kế trước dự án được mô tả cụ thể trong đánh giá tác động xã hội (2008). Khôi phục và cải thiện mức sống được điều tra cụ thể ở điều tra đầu kỳ (2013) và giữa kỳ và cuối kỳ (2017-2018).

16

HỘP 2. Kết quả xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn

Tham vấn

Những người dân bị ảnh hưởng được thông báo và tư vấn đầy đủ về các hoạt động tái định cư, phương án xây nhà ở, địa điểm tái định cư, các biện pháp phục hồi thu nhập. Các cuộc tham vấn cộng đồng được tổ chức để thảo luận về các vấn đề thủ tục, khó khăn, những vấn đề phát sinh và đề xuất hướng giải quyết.

Chỉ số hài lòng về thông tin dự án đạt. Các thông tin về đập, hồ thủy điện và các giải pháp đền bù được thông báo rộng rãi đến người dân và chính quyền địa phương.

Tái định cư

Các bên phụ trách thu hồi đất và tái định cư, phục hồi sinh kế, dân tộc thiểu số và giới, và giám sát đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Những người bị ảnh hưởng nhận được bồi thường đầy đủ. Các khoản bồi thường cho hộ bị ảnh hưởng cũng như cho cộng đồng được thực hiện đầy đủ và theo lịch trình đã được thống nhất.

Các bản tái định cư mới đều sẵn sàng, kịp thời cho việc chuyển đến. Khu tái định cư và nhà ở tái định cư được hoàn thành ít nhất một tháng trước khi các hộ gia đình chuyển tới. Các hộ gia đình được tư vấn về điểm tái định cư và các phương án xây nhà. Người dân được hỗ trợ kỹ thuật trong việc xây dựng nhà mới. Tất cả các cơ sở hạ tầng thiết yếu như hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh, và giao thông được xây dựng tại các điểm/khu tái định cư như đã nêu trong bản kế hoạch tái định cư. Cơ sở hạ tầng tại nơi ở mới đáp ứng tiêu chuẩn ít nhất bằng nơi ở cũ hoặc cao hơn.

Cải thiện sinh kế

Các hoạt động sinh kế phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của những người bị ảnh hưởng. Trong các gói sinh kế đều có thiết kế phương pháp có sự tham gia của người dân vào lập kế hoạch phát triển sinh kế, và phản ánh nhu cầu của cộng đồng. Các khóa tập huấn về cải thiện sinh kế thuận tiện về thời gian, địa điểm, và kinh phí được cấp đủ cho các khóa này.

Các hộ tham gia hoạt động sinh kế nhận được vật tư nông nghiệp như cây giống, vật nuôi, và các hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc. Một số hộ gia đình được tiếp cận với khoản tín dụng nhỏ. Các khóa tập huấn mở ra cơ hội tìm được việc làm và cải thiện thu nhập.

Chỉ số hài lòng về hoạt động cải thiện sinh kế ở dự án thủy điện Trung Sơn đạt. Các chỉ số về chất lượng cuộc sống ở các bản mới đều đạt ở mức hài lòng. Các chỉ số này bao gồm thu nhập hàng tháng, số hộ cư trú ổn định trong khu vực tái định cư, cơ sở hạ tầng trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, đường đi lại, tình trạng đi học ở trẻ em, số người có việc làm trong hộ gia đình.

Hoạt động cải thiện sinh kế hoàn thành vào tháng 12 năm 2019, 3 năm sau tái định cư. Tiến độ của các hoạt động này bị chậm do giai đoạn đầu thực hiện bị kéo dài. Một số mô hình sinh kế không phù hợp với điều kiện địa phương nên không hiệu quả và phải dừng lại.

17

HỘP 2. Kết quả xã hội của dự án Thủy điện Trung Sơn (tiếp theo)

Giới và phát triển dân tộc thiểu số

Dự án Trung Sơn đã tuân thủ đầy đủ chính sách phát triển dân tộc thiểu số của NHTG trong việc cung cấp thông tin và tham vấn. Dự án giảm thiểu các tác động tiêu cực đến các cộng đồng, môi trường, và văn hóa địa phương. Dự án tôn trọng các phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tâm linh của các cộng đồng sở tại. Dự án quan tâm tới nguyện vọng của người dân trong việc quy hoạch xây dựng nghĩa trang và di dời mộ.

Dự án quan tâm tới tính dễ bị tổn thương của phụ nữ. Các quyền về sở hữu tài sản, quyền được bồi thường, quyền làm việc, và quyền tham gia của họ đều được đảm bảo. Dự án đảm bảo hỗ trợ người dân tiếp cận các cơ sở y tế, nâng cao năng lực nhân viên y tế, trợ cấp thuốc, vệ sinh làng bản. Hệ thống cấp nước cho các hộ gia đình được duy trì và dần dần cải thiện.

Nguồn: Trích từ Báo cáo đánh giá cuối kỳ.

18

Tham vấn, Tham gia và Cam kết của các bên liên quan

19

32. Tham vấn và sự tham gia trong Dự án Trung Sơn có ý nghĩa quan trọng trong mọi chu trình dự án và không kém phần quan trọng đối với hoạt động tái định cư và cải thiện sinh kế. Hoạt động tham vấn của dự án chịu chi phối bởi các quy định của Việt Nam và chính sách an toàn của NHTG. Dự án tổ chức tham vấn không chỉ vì yêu cầu chính sách, mà vì đây là phương tiện khuyến khích sự tham gia tích cực của những người bị ảnh hưởng và là phương pháp xây dựng mối tương tác với chính quyền địa phương.

A.

Tham vấn sớm và thường xuyên với các cộng đồng bị ảnh hưởng

“Họp nhiều lắm. Ngày nào người ta cũng họp thủy điện. Họp nhiều lắm. Lâu lâu người ta lại về nghe ý kiến của dân và phỏng vấn cho dân cái nọ, cái kia. Em đi họp tất cả các cuộc họp luôn. Đi hết cả nhà đấy chứ không phải không đi họp đâu. Nhà nào có 3 người mà biết tiếng Kinh, tiếng Thái thì đều đi” (TLN số 1, Nhóm nữ, xã Trung Sơn).

“Quan trọng nhất là sự tham vấn và tham gia của các bên. Cái đấy là quan trọng nhất của vấn đề tái định cư. Người dân được cung cấp thông tin đầy đủ và tham gia vào tất cả các công đoạn từ tìm địa điểm cho đến quy hoạch. Tất cả đều được tham gia thì sẽ tránh được các thất bại của dự án” (PVS số 1, Cán bộ dự án, TSHPCo).

Hầu hết các hộ gia đình lần đầu tiên nghe về đập thủy điện trong cuộc họp thôn bản. 33. Người dân không biết đến dự án trước khi hoạt động tham vấn bắt đầu vào năm 2007. Một vài người cho rằng họ lần đầu tiên nghe đến thủy điện Trung Sơn từ năm 2004 khi những đoàn khảo sát địa chất đầu tiên tiếp cận vùng dự án. Năm 2007, thông tin về việc một đập thủy điện được xây dựng tại xã Trung Sơn nhanh chóng lan tỏa trong cộng đồng dân cư khi vòng tham vấn đầu tiên được tổ chức. Vòng này tập trung nhấn mạnh đến những tác động tiềm năng và đề xuất khắc phục/ giảm thiểu của dự án.

34. Trong giai đoạn 2008-2010, 08 vòng tham vấn đã được tổ chức. Mỗi vòng có những mục tiêu và trọng tâm khác nhau. Trong thời gian chuẩn bị dự án, hoạt động tham vấn đã được triển khai tại địa bàn bị ảnh hưởng bởi các hạng mục đường vào, khu vực đập, hồ chứa, và các bản hạ lưu. Vòng tham vấn lớn nhất là vòng tham vấn thứ ba diễn ra vào giai đoạn từ tháng 12/2009 đến tháng 1/2010, khi đó, các cuộc tham vấn đã được thực hiện tại 53 bản (bao gồm 44 xã bị ảnh hưởng), với sự tham gia của 2324 người (1394 nam và 930 nữ) – chiếm khoảng 1/5 tổng số người bị ảnh hưởng (10591). Thông báo mời họp được gửi từ trước một tháng và được nhắc lại vài ngày trước buổi họp tham vấn. Cuộc họp nhóm phụ nữ được tổ chức riêng (Bảng 3).

Cộng đồng được cung cấp thông tin về dự án, bao gồm thời gian thực hiện. Tác động 35. môi trường và xã hội đã được chia sẻ với người dân. Các biện pháp giảm thiểu rủi ro dự án đối với cộng đồng cũng được chuẩn bị dựa trên nền tảng của đánh giá tác động xã hội, RLDP và đánh giá tác động sức khỏe. Bản kế hoạch RLDP bao gồm khung chính sách tái định cư, kế hoạch hành động tái định cư, chương trình cải thiện sinh kế cộng đồng và kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số. Các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường cũng được tham vấn ở cấp địa phương.

20

BẢNG 3. Các hoạt động tham vấn trong giai đoạn chuẩn bị dự án

Địa điểm/Những người tham gia Mục đích • 5 xã bị ảnh hưởng bởi đường

Ngày 2008 (Tháng 1 và Tháng 4)

Chuẩn bị kế hoạch tái định cư đường vào

vào, 12 bản

• 5 xã bị ảnh hưởng bởi hồ chứa,

10 bản

• Mẫu hộ gia đình (1 trong số

2008 (Tháng 3)

Chuẩn bị CLIP (phân tích thách thức và cơ hội sinh kế)

Đánh giá tác động sức khỏe

2008 (Tháng 4 - Tháng 6)

7) và các thảo luận nhóm tập trung, 3 cuộc họp (102 nông dân), các lãnh đạo và các cơ quan địa phương, các tổ chức phi chính phủ địa phương. • 5 xã bị ảnh hưởng bởi hồ chứa trong khu vực lõi RLDP và 1 xã có đường bị ảnh hưởng, 11 bản, 440 người, trong đó 190 người thuộc các hộ tái định cư, lãnh đạo và cán bộ y tế

Đánh giá xã hội

• 6 xã bị ảnh hưởng bởi hồ chứa, 499 người tham gia cuộc họp, 30 phỏng vấn sâu, 57 cán bộ cấp huyện và cấp xã

2008 (Tháng 5 - Tháng 8)

• 3 xã bị ảnh hưởng bởi đường

vào

• 14 bản ở khu vực lòng hồ phải

Tham vấn tái định cư

di dời

2008 (Tháng 6)

Tham vấn tái định cư và phục hồi sinh kế

2008 (Tháng 10)

• Tất cả các bản có liên quan (bản tái định cư và bản tiếp nhận)

Tham vấn về tác động môi trường và xã hội

2008 - 2009 (Tháng 12 - Tháng 1)

• 34 bản bị ảnh hưởng bởi đường vào, công trường, hồ chứa, các tác động khu vực thượng lưu và hạ lưu. Bao gồm cả các bản bị mất đất nhưng không phải di dời • Tham vấn về tất cả các biện pháp giảm thiểu dự án, bao gồm các cộng đồng bị ảnh hưởng, chính quyền cấp xã và huyện.

Tham vấn về thiết kế dự án RLDP và EMP

2010 (Tháng 1 - Tháng 3)

• Tham vấn cấp quốc gia với các

tổ chức xã hội dân sự

Nguồn: World Bank (2011a).

21

36. Hoạt động tham vấn về tái định cư tiếp tục được triển khai trong quá trình thực hiện dự án, với nội dung trọng tâm là chuẩn bị di dời. Một cuộc họp nửa ngày được tổ chức ở tất cả các bản để tham khảo ý kiến các hộ gia đình ảnh hưởng về mong muốn của họ đối với những ngôi nhà mới trong khu tái định cư và các chính sách đang áp dụng khác. Cuộc họp có sự tham gia của hầu hết các hộ gia đình bị ảnh hưởng. Khung chính sách tái định cư của dự án là tài liệu chính được sử dụng trong các cuộc họp này. Bên cạnh bản đầy đủ là các tài liệu ngắn gọn được trình bày dưới nhiều dạng khác nhau như tờ rơi, tài liệu ghi âm (bằng tiếng dân tộc địa phương). Cán bộ của TSHPCo (phối hợp với trung tâm phát triển quỹ đất của huyện), ủy ban nhân dân xã trình bày chính sách của dự án và giải đáp các câu hỏi của người dân. Tất cả các hộ dân được cung cấp phiếu đăng ký hình thức tái định cư. Phiếu này được thu lại vài ngày sau buổi tham vấn để người dân có đủ thời gian để tìm hiểu về thông tin được cung cấp. Kết quả tham vấn thu được từ các phiếu đăng ký được tổng hợp lại và sử dụng làm cơ sở để TSHPCo và chính quyền địa phương xây dựng và hoàn thiện phương án tái định cư thích hợp.

HỘP 3. Tham vấn cấp thôn bản về các khu tái định cư

Ví dụ về báo cáo cuộc họp bản (huyện Mường Lát, ngày 23-26 tháng 1 năm 2013

Ngôi nhà của trưởng làng được sử dụng làm nơi tổ chức cuộc họp tham vấn. Gần như tất cả các hộ gia đình bị ảnh hưởng đã có mặt tại cuộc họp. Cuộc họp cũng có sự tham gia của các trưởng bản, UBND xã, trưởng ban và cán bộ của Ban bồi thường và tái định cư huyện.

Nhóm TSHPCo chịu trách nhiệm chính trong việc trình bày kế hoạch tổng thể của tất cả các khu tái định cư tập trung; một kế hoạch chi tiết của khu tái định cư phù hợp cho người dân, và các mô hình nhà tái định cư do dự án xây dựng (dành cho những hộ gia đình chọn phương án này).

Trong các buổi tham vấn, không có sự phản kháng của cộng đồng đối với việc thực hiện dự án hoặc tái định cư nói chung. Tất cả các câu hỏi và ý kiến nhận được là yêu cầu làm rõ thêm về cách áp dụng chính sách tái định cư đối với trường hợp cụ thể của các hộ gia đình bị ảnh hưởng: lịch thanh toán; lựa chọn cho việc tái định cư bên ngoài các khu tái định cư tập trung; xây dựng nhà mới trên đất rừng sản xuất; quá trình di dời. Nhóm Trung Sơn đã đưa ra giải thích kỹ càng hơn dựa trên khung chính sách tái định cư của dự án.

Người dân bản Xước quan tâm về nguồn nước trong khu tái định cư, để đáp lại sự lo lắng này, TSHPCo đã xác nhận sự sẵn có của nguồn nước và chia sẻ cách thức phân phối nước cho các hộ gia đình.

Mẫu BM 01 được thu thập một tuần sau khi tham vấn ý kiến người dân. Dự án cung cấp thông tin liên hệ để người dân có thể trao đổi khi có bất cứ câu hỏi nào khác (qua điện thoại hoặc thông qua trưởng bản).

37. Dự án tổ chức các buổi tham vấn theo chuyên đề nếu cần thiết. Việc phân bổ từng lô tái định cư cho các hộ gia đình tái định cư đã diễn ra trong khoảng sáu tháng. Hoạt động bốc thăm chia lô tái định cư được triển khai trên hiện trường tại từng điểm tái định cư. Các hộ dân được mời đến các điểm tái định cư mà họ được dự kiến chuyển vào. Tại mỗi điểm, cán bộ của Ban Quản lý dự án trình bày quy hoạch chung của khu và vị trí cụ thể của các lô. Người dân có thể đưa ra những góp ý để việc xây dựng điểm tái định cư sao cho hoàn thiện hơn. Sau cùng, một buổi họp đã được thực hiện, trong đó, các hộ dân bốc thăm lô tái định cư của mình. Sau khi bốc thăm, người dân có

22

thể tự thỏa thuận với nhau để đổi vị trí các lô tái định cư trên cơ sở tự nguyện và hoàn thiện các thủ tục hành chính đi kèm.

Tham vấn được thực hiện trong 38. tất cả các giai đoạn của chương trình phục hồi sinh kế cộng đồng CLIP), từ giai đoạn thí điểm (ở 5 bản) tới giai đoạn thực hiện trên quy mô toàn dự án. Trong giai đoạn 2016-2017, tổng số đã có 3 đợt tham vấn (tháng 10 năm 2015, tháng 4 năm 2016, tháng 11 và tháng 12 năm 2016) được tổ chức với 138 cuộc tham vấn cấp bản, và 2.600 người tham gia, trong đó khoảng 22% là phụ nữ. Việc tổng hợp các nguyện vọng của người dân thông qua tham vấn là điều kiện tiên quyết trong việc xây dựng và chuẩn bị cho các hoạt động sinh kế ở giai đoạn này. Các cuộc họp này bắt đầu bằng việc cung cấp thông tin cho cộng đồng về chương trình sinh kế, và thường có sự tham gia của chính quyền địa phương. Tiếp đó, cuộc họp bàn về các tiềm năng và hạn chế của nông nghiệp và các hoạt động tạo thu nhập khác trong bản. Những bàn luận này dẫn đến việc xác định các ưu tiên trong một danh sách đề xuất các hoạt động cải thiện sinh kế, và dần dần định hình các mô hình trong khuôn khổ dự án. Cuối cùng, các hộ gia đình được mời tham gia để thành lập các nhóm cùng sở thích đối với mỗi hoạt động cụ thể, và các nhóm này sẽ thực hiện các hoạt động sản xuất theo mô hình.

B.

Sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc thiểu số

Một trở ngại rất lớn của hoạt động tham vấn là khả năng hạn chế sử dụng tiếng phổ 39. thông của những người bị ảnh hưởng. Dân cư quanh khu vực hồ chứa Trung Sơn đa số thuộc về tộc người Thái, Mường, Mông, và Khơ Mú. Để đảm bảo việc tham vấn có ý nghĩa và hiệu quả, ngôn ngữ địa phương được sử dụng (đôi khi thông qua phiên dịch). Những người tham gia được khuyến khích sử dụng ngôn ngữ mà họ cảm thấy thoải mái. Trong giai đoạn chuẩn bị dự án, các tài liệu âm thanh truyền thông của dự án được thiết kế với thời lượng 15 phút bằng tiếng dân tộc thiểu số Thái, Mông, Mường và tiếng phổ thông.

40. Dự án quan tâm tới những đặc trưng của từng ngôn ngữ. Thứ nhất, ngôn ngữ người Thái ở khu vực dự án thiên về kiểu phát âm có ngữ điệu, sử dụng các từ vựng của nhóm Thái trắng vùng phía tây Thanh Hóa - Nghệ An. Người Thái ở vùng tây Thanh Hóa không hiểu được người Thái đen ở vùng Sơn La. Người ghi âm chuyển thể tài liệu dự án là người dân tộc Thái trắng ở khu vực này. Người ghi âm đồng thời là chuyên gia dân tộc học tham gia vào nhóm tham vấn tại các bản cộng đồng người Thái sinh sống. Thứ hai, cộng đồng người Mông trong khu vực dự án Trung Sơn có cách phát âm và ngữ điệu tiếng Mông gần giống với nhóm người Mông đỏ ở Lào Cai, vì đa số di cư từ các tỉnh Lào Cai, Cao Bằng xuống trong thời gian gần đây. Một phát thanh viên ở chương trình các dân tộc thiểu số của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã được mời ghi âm tài liệu. Cán bộ này cũng được mời tham gia cùng với đơn vị tư vấn trong quá trình tiến hành tham vấn tại các

23

bản người Mông sinh sống. Thứ ba, mặc dù người Mường sống tại khu vực này sử dụng tiếng Thái, tiếng Việt một cách thành thạo, nhưng dự án vẫn quyết định chuyển thể tài liệu sang tiếng Mường nhằm đảm bảo rằng những người Mường lớn tuổi gặp khó khăn trong việc hiểu tiếng Việt có thể dễ dàng nắm bắt thông tin dự án bằng tiếng mẹ đẻ. Một cán bộ biết tiếng Mường của tỉnh Thanh Hóa đồng thời là một phát thanh viên của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã hỗ trợ nhóm tư vấn dịch tại các buổi tham vấn và ghi âm tài liệu dự án bằng tiếng dân tộc Mường. Cuối cùng, một phát thanh viên có thâm niên và kinh nghiệm của Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam với giọng đọc truyền cảm, rất quen thuộc với các thính giả của Đài đã hỗ trợ nhóm tư vấn trong quá trình ghi âm.

Ngôn ngữ dân tộc thiểu số đã 41. được sử dụng liên tục trong quá trình thực hiện dự án. Trong các cuộc họp tham vấn, khi cần thiết, các thông điệp đều được nhắc lại bằng ngôn ngữ địa phương với sự hỗ trợ của các cán bộ địa phương và trưởng bản. Các cuộc thảo luận nhóm nhỏ cho phép người dân sử dụng ngôn ngữ địa phương để trao đổi trực tiếp với các thành viên trong nhóm. Bắt đầu từ năm 2016, một mạng lưới những điều phối viên địa phương được xây dựng, trong đó bao gồm cả những người nói tiếng Thái và một người nói tiếng Mông. Khi giao tiếp bằng tiếng Việt, ngôn ngữ đơn giản được sử dụng để giúp người dân hiểu hơn về dự án.

C.

Từng bước nâng cao năng lực xây dựng quan hệ cộng đồng

“Có nhiều lần NHTG về đây họp, chúng tôi cũng có đi cùng. Họ treo những bảng lên để cho người dân đối thoại. NHTG tư vấn chủ đầu tư và người dân. Họ treo bản đồ này lên, giải thích cho người dân và hỏi người dân xem có ý kiến như thế nào, và họ ghi chú lại. Họ làm kỹ lắm. Họ tham vấn rất kỹ.” (PVS số 2, Cán bộ dự án, TSHPCo).

“Lần đầu tiên tham vấn, người dân chưa mạnh dạn lắm trong việc đề xuất ý tưởng. Các ý kiến được thu thập, song khá yếu ớt. Vòng tham vấn thứ 2 thực sự nghiêm túc. Dự án đã thừa nhận rất nhiều ý kiến của bà con.” (PVS số 27, chuyên gia NHTG).

42. Thực hiện tham vấn có ý nghĩa là một kinh nghiệm hoàn toàn mới đối với TSHPCo. Ban QLDA có nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng các công trình thủy điện và lập kế hoạch di dời. Tuy nhiên, họ có rất ít kinh nghiệm trong việc triển khai tham vấn ý nghĩa, và cũng chưa được chuẩn bị các kỹ năng để thực hiện việc này. Việc thiếu kinh nghiệm phản ánh mô hình phổ biến của hoạt động tham vấn trong các dự án ở Việt Nam nói chung và các dự án thủy điện nói riêng. Chúng hiếm khi được tiến hành theo tiêu chuẩn quốc tế.

43. Kỹ năng tương tác của dự án với từng nhóm mục tiêu được cải thiện thông qua việc trực tiếp tổ chức và chủ trì các cuộc họp. Trong những buổi tham vấn cộng đồng đầu tiên, cán

24

bộ BQL dự án gặp nhiều khó khăn trong việc huy động sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân. Với sự hỗ trợ của NHTG và các đơn vị tư vấn, Ban QLDA đã áp dụng được nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau trong tham vấn về tái định cư và phát triển sinh kế. Trong bất cứ trường hợp nào thì cách thức điều hành một buổi tham vấn theo hướng chia sẻ thông tin hai chiều và khuyến khích ý kiến đóng góp của người dân luôn luôn là những nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ, cũng giống như việc cung cấp cho người dân thông tin cụ thể về các hoạt động mà dự án sẽ thực hiện, tái định cư và phương thức di dời.

44. Trong thời gian thực hiện dự án, năng lực của người dân địa phương trong việc tham gia thảo luận và chia sẻ ý kiến đã được cải thiện đáng kể. Họ trở nên chủ động trong việc giám sát, nắm bắt thông tin và đưa ra yêu cầu để dự án đáp ứng mong muốn của họ. Trước khi có dự án thủy điện Trung Sơn, những người dân bản khá dè dặt và ít biết đến những quyền của họ. Các mối liên hệ, tương tác của họ với bên ngoài khá mờ nhạt. Sự thay đổi ở phụ nữ dân tộc thiểu số rất rõ rệt (đặc biệt ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi) khi họ có thể nêu bật các đề nghị và yêu cầu của họ đối với dự án bằng tiếng nói mạnh mẽ. Họ không thể làm được điều đó nếu không tiếp cận được thông tin dự án và tiếp xúc thường xuyên với các cuộc họp tham vấn. Các hoạt động tham vấn được tổ chức tính thường xuyên, cũng như cách thức trao đổi thông tin hai chiều đã góp phần tạo ra sự thay đổi này.

TSHPCo đã thành lập một nhóm quan hệ cộng đồng và mời chính quyền địa phương 45. tham gia với vai trò ngày càng lớn hơn trong hoạt động tham vấn. Ban đầu, cán bộ dự án của TSHPCo đã tương tác với chính quyền địa phương với mục đích có được những hỗ trợ mang tính pháp lý trong xử lý thu hồi đất và tái định cư. Ngoài ra, nhóm cán bộ xã hội của công ty còn phân công người giám sát công việc theo địa bàn và các chuyên gia tư vấn chuyên trách về cải thiện sinh kế. TSHPCo bắt đầu hợp tác chặt chẽ với chính quyền huyện và xã khi tiến hành tham vấn địa phương vào cuối năm 2012. Việc lựa chọn loại hình nhà ở trong các khu tái định cư tập trung - tự xây nhà hoặc nhà do dự án xây - là cơ hội để công ty và chính quyền địa phương cùng nhau thực hiện vòng tham vấn cấp thôn bản. Chính quyền xã và huyện tiếp tục tương tác chặt chẽ với TSHPCo trong công việc của họ với cộng đồng. Trong những năm cuối cùng của dự án, TSHPCo đã thành lập một nhóm quan hệ cộng đồng để tiếp tục hợp tác với cộng đồng và chính quyền địa phương.

46. Các tổ chức xã hội dân sự đã cùng tham gia ngay từ đầu dự án. Các tổ chức xã hội dân sự tham gia các cuộc họp tham vấn với cộng đồng bị ảnh hưởng trong quá trình chuẩn bị dự án, và cũng đồng thời là đối tượng được tham vấn. Một cuộc tham vấn đã được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 3/2010, thu hút hơn 100 đại biểu đến từ các tổ chức phi chính phủ, cơ quan tư vấn và nghiên cứu tại Hà Nội. Sau phần trình bày về RLDP của dự án Trung Sơn, các tổ chức xã hội dân sự đã nêu câu hỏi về các vấn đề tăng cường năng lực cho các hộ gia đình trong tái định cư, quản lý các rủi ro sinh kế, sức khỏe và đảm bảo an ninh xã hội tại khu vực dự án. Các tổ chức này cũng đưa ra các câu hỏi về việc đảm bảo quyền khiếu nại của dân cư, đền bù các hạng mục công trình cộng đồng, vấn đề cấp nước sinh hoạt, và xây dựng khu nghĩa trang mới. Các tổ chức đã tham gia vào quá trình tham vấn cấp thôn/bản cũng được mời trình bày về những quan sát và nhận định của họ.

25

D.

Tóm tắt

47. Tham vấn trong dự án Trung Sơn là một thực hành tốt, hoạt động hiệu quả thông qua việc kết hợp bốn yếu tố. Trước tiên, tham vấn bắt đầu sớm vào năm 2008 và được duy trì thường xuyên. Thứ hai, ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc thiểu số địa phương. Thứ ba, chức năng quan hệ cộng đồng đã được phát triển trong TSHPCo thông qua việc từng bước nâng cao năng lực trong tương tác với chính quyền địa phương. Và thứ tư, dự án huy động sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự ngay từ đầu và duy trì trong suốt quá trình thực hiện với sự tham gia mạnh mẽ của các bên quan tâm. Kết quả tham vấn đã được sử dụng để hoàn thiện hơn thiết kế dự án và các biện pháp giảm thiểu, đặc biệt là các công cụ an toàn xã hội. Tất cả các bên cùng làm việc với nhau để hoàn thiện từng chi tiết của các tài liệu này.

48. Trong quá trình thực hiện, các khu tái định cư tập trung đã được điều chỉnh so với thiết kế ban đầu và các hoạt động cải thiện sinh kế được thực hiện với sự đóng góp tích cực của các cộng đồng mục tiêu. Bên cạnh đó, thông qua các vòng tham vấn, TSHPCo đã gây được lòng tin tưởng của cộng đồng bị ảnh hưởng. Đến lượt mình, cộng đồng đã ngày càng thể hiện sự chủ động trong việc đặt câu hỏi tìm kiếm thông tin dự án. Cuối cùng, sự hiểu biết đầy đủ của những người bị ảnh hưởng và đặc biệt là các điều khoản được nêu trong khung chính sách rõ ràng đã góp phần cải thiện năng lực của chính họ. Bảng 4 sẽ tóm tắt nội dung về các bên tham gia chính, các vấn đề được xác định trong quá trình thực hiện, quá trình giải quyết các vấn đề này và kết quả phát triển xã hội.

HÌNH 4. Các mốc quyết định tham vấn ở dự án Thủy điện Trung Sơn

2008 Công bố RLDP

2006 Thông báo đầu tiên về dự án

2012 Tham vấn về CLIP và điểm TĐC

2014 Tham vấn TĐC, bốc thăm

2016-2019 Tham vấn CLIP (tiếp tục)

2010 Tham vấn RLDP (Vòng 3). Tham vấn các tổ chức NGOs

2011 Phê duyệt dự án Trung Sơn

2013 Tham vấn điểm TĐC

2015 Tham vấn TĐC (tiếp tục)

2009 Phê duyệt Khung chính sách TĐC

2007 Tham vấn cộng đồng về đồng thuận dự án

26

BẢNG 4. Tham vấn và Sự tham gia: Tóm tắt kinh nghiệm từ dự án Thủy điện Trung Sơn

Trở ngại chính • Đơn vị thực hiện dự án chưa có kinh nghiệm và năng lực thực hiện các hoạt động tham vấn • Hoạt động tham vấn trong các dự án ở Việt Nam nói chung, các dự án thủy điện nói riêng hiếm khi

được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc tế.

Các bên tham gia • Cộng đồng bị ảnh hưởng • Ban quản lý dự án và tư vấn • NHTG và tư vấn • Chính quyền địa phương • Các tổ chức phi chính phủ Quá trình ra quyết định • Trước khi triển khai dự án, thông báo cho các cộng đồng về việc xây dựng thủy điện Trung Sơn • Tham vấn cộng đồng • Các chuyên gia tư vấn độc lập triển khai các đánh giá xã hội để xác định các thách thức trong việc

bồi tường, khôi phục sinh kế và bảo tồn văn hóa • Tăng cường năng lực tham vấn cho cán bộ dự án • Tham vấn cộng đồng về các tài liệu dự án để quản lý rủi ro và tác động xã hội • Điều chỉnh lại các tài liệu dự án sau tham vấn • Tham vấn thường xuyên trong quá trình thực hiện dự án Kết quả • Dự án nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng (chiếm 86% các hộ được hỏi ý kiến từ cuộc khảo

sát)

• Các điểm tái định cư phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng được tìm thấy • Ý kiến của cộng đồng được tiếp thu và là cơ sở để điều chỉnh thiết kế các khu tái định cư. • Các tác động của dự án liên quan đến di dời được giảm thiểu • Các giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc thiểu số được bảo tồn • Người dân được trao quyền để phát biểu ý kiến và tham gia, đặc biệt là phụ nữ Tham vấn và Sự tham gia: ba thực hành tốt từ dự án Trung Sơn • Đảm bảo tham vấn sớm và thường xuyên với các cộng đồng bị ảnh hưởng • Sử dụng ngôn ngữ của cộng đồng dân tộc thiểu số • Từng bước cải thiện năng lực xây dựng quan hệ cộng đồng, và phối hợp với chính quyền địa

phương

27

Tái định cư

28

49. Công trình thủy điện Trung Sơn đã ảnh hưởng trực tiếp đến đất đai của 3.413 hộ dân, trong đó có 648 hộ phải di dời. Phần lớn là các hộ gia đình dân tộc thiểu số. Tác động tập trung chủ yếu ở khu vực đập và hồ chứa, với 2.013 hộ bị ảnh hưởng nằm rải rác ở 7 xã và 1 thị trấn. Các hộ tái định cư có hai lựa chọn: di chuyển đến các khu tái định cư tập trung hoặc đến các địa điểm khác mà họ muốn. Trong tổng số 483 hộ gia đình được bố trí vào bốn khu tái định cư tập trung, được chia thành 13 điểm7, 100 hộ tự nguyện đăng ký chuyển nhà ở ra ngoài các khu tái định cư; 65 hộ ảnh hưởng bởi đường vào được tái định cư dọc theo tuyến đường. 3.413 hộ gia đình này đã nhận được bồi thường cho phần đất đai và tài sản bị thu hồi trước khi khởi công xây dựng (Bảng 5). Tổng kinh phí đền bù từ vốn đối ứng của EVN/GENCO2 là 581,3 tỷ đồng (khoảng 25 triệu USD). Ngoài ra, dự án Trung Sơn cũng hỗ trợ bố trí 47 lô tái định cư cho các hộ bị ảnh hưởng bởi đường Tây Thanh Hóa. Quản lý việc thu hồi đất và tái định cư trong quá trình triển khai dự án Trung Sơn đã hình thành kinh nghiệm trong bốn lĩnh vực, tất cả đều liên quan đến các khu tái định cư tập trung: lập kế hoạch, tự xây nhà, lô tái định cư và chi trả tiền xây nhà.

BẢNG 5. Số hộ bị ảnh hưởng bởi dự án Thủy điện Trung Sơn, và tổng kinh phí bồi thường

Hạng mục

Tổng

Ngân sách đền bù (triệu đồng)

Hộ gia đình di dời

Số lượng hộ gia đình bị ảnh hưởng Hộ gia đình mất >10% diện tích đất sản xuất

2,103

418

583

549,440

498

50

65

18,050

445

-

-

4,709

349

-

-

8,848

Công trình chính, hồ chứa, và các điểm tái định cư tập trung Đường vào Trạm biến áp Mai Châu và đường dây nối Đường dây truyền tải điện Đường vào (sửa chữa) Tổng

18 3,413

- 468

- 648

203 581,250

7

Bốn khu tái định cư tập trung và phân khu thành 13 điểm là: Khu số 1 (Co Pùng, Pom Chốn, Pa Púa, Keo Đắm, Tổ Xước); Khu số 2 (Tài Chánh, bản Nàng, bản Lát); Khu số 3 (bản Lìn, Tổ Chiềng, bản Co Cài); Khu số 4 (Thắm Tôn, Suối Nón 1, Suối Nón 2). Pom Chốn và Pa Púa sau đó được chia thành một địa điểm chính và một địa điểm mở rộng.

29

A.

Sử dụng tri thức bản địa để lựa chọn các vị trí tái định cư

“Địa bàn xã Xuân Nha, xã Tân Xuân địa hình rất khó. Chúng tôi đặt nhiều tình huống, di chuyển ra khỏi huyện cũng có, di chuyển ra khỏi xã cũng có. Chúng tôi đã đặt vấn đề đưa bà con đi đến những vị trí đó. Có những nơi ở ngoài xã có vị trí rất đẹp nhưng lại xa quê quán, xa nơi ở cũ. Người dân không muốn đi đến những vùng khác xã, những địa bàn khác. Cuối cùng, dự án quyết tâm lựa chọn điểm như hiện nay là Thẳm Tôn, và Suối Nón. Đó là những nơi là người dân tìm, và đề đạt nguyện vọng. Di vén tại chỗ và dự án đã chấp thuận. Đấy là cái thành công của dự án khi đã làm tốt được việc này” (PVS số 22, Cán bộ cấp huyện, huyện Vân Hồ).

50. Vị trí của các khu tái định cư là một chủ đề quan trọng trong quá trình tham vấn. Các hộ dân bày tỏ nguyện vọng muốn tìm nơi ở mới gần nơi cũ để thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Vị trí đề xuất của hai trong số bốn khu tái định cư không nhận được sự đồng thuận từ phía người dân. Qua các vòng tham vấn, vị trí của 2 trong 4 khu đã được điều chỉnh sang vị trí thay thế khác. Khoảng cách trung bình các bản bị ảnh hưởng đến điểm tái định cư được lựa chọn khoảng 2 km, trong khi tới điểm được đề xuất ban đầu là 20 km. Các điểm tái định cư đều ở trong cùng xã và bản cũ.

51. Các cộng đồng tái định cư có vai trò trực tiếp trong việc lựa chọn các khu tái định cư của họ. Dự án khuyến khích những người dân bị ảnh hưởng đưa ra gợi ý về vị trí của các khu tái định cư tập trung. Ở bản Tả Bán và Tà Lào, những hiểu biết của người dân địa phương về vùng đất của họ giúp chọn ra nơi tái định cư phù hợp như thảo luận trong Hộp 4. Quá trình này cũng cho phép tối ưu hóa việc phân khu tái định cư tập trung thành một số điểm định cư nhỏ hơn.

30

Những người dân bản Tà Lào (xã Tân Xuân) kể lại rằng họ không thống nhất với phương án ban đầu của dự án về vị trí khu tái định cư (bản An). Rất nhiều người trong bản đã đi xem. Đây là vùng đất bằng phẳng, thuận tiện cho việc bố trí và quy hoạch các lô đất. Nhưng tất cả đều không muốn chuyển đến đó. Bản An cách nơi ở cũ 20 km. Vị trí này được mô tả là khu đất rất đẹp, nhưng khí hậu rất nóng vì nằm kẹp giữa thung lũng nên khuất gió, và không có đủ nước. Sinh sống ở đó cũng có nghĩa là phải vượt qua chặng đường 20 km đồi núi mỗi ngày để về làm nương ở khu ruộng cũ.

Tương tự, người dân Tả Bán bày tỏ mong muốn đi tìm một khu tái định cư thay thế. Dự án đã tổ chức thêm các cuộc tham vấn. TSHPCo nhận ra rằng không ai hiểu mảnh đất này bằng chính cộng đồng địa phương. Người dân bản hiểu từng khe suối, rừng cây, từng quả đồi. Họ cũng hiểu cả cung cách tổ chức sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Sau cuộc họp tham vấn, cộng đồng được chủ động chọn điểm tái định cư cho mình. Họ cử ra một nhóm nam giới đảm nhận việc này. Nhóm này đã đi tìm nhiều ngày, tự đánh giá về nguồn nước, độ dốc, chất đất, điều kiện thời tiết, khoảng cách đến nơi ở cũ, và khả năng kết nối được với đường giao thông. Mỗi khi tìm được một địa điểm ưng ý, thôn bản mời cán bộ ủy ban xã, cán bộ TSHPCo và toàn bộ dân bản đến xem và cùng họp bàn. Khi đó, cuộc họp lại bàn luận kỹ lưỡng hơn bởi vì vị trí tái định mới được đề xuất lại cách xa ruộng nương của một số hộ gia đình, cách xa đường giao thông, và có thể tiềm ẩn nguy cơ sạt lở.

Lựa chọn cuối cùng chỉ được thống nhất sau 7 lần họp với bản Tà Lào và 10 lần họp với bản Tả Bán. Người dân ghi nhận rằng rằng dự án đã thực sự rất kiên nhẫn để hỗ trợ bà con tìm nơi ở mới. Về phần mình, bà con cũng rất hài lòng với vị trí mà họ tìm được.

HỘP 4. Sử dụng tri thức bản địa trong việc lựa chọn địa điểm tái định cư

B.

Trao quyền cho hộ tái định cư bằng cách cho phép tự xây nhà mới

“Ừ, muốn tự mình dựng, tự mình làm. Nếu dự án làm cho, mỗi khẩu chỉ hơn 20m2, quá hẹp so với nhà này. Nhà này một chiều gần 12m và một chiều hơn 7m. Mình làm nhà sàn ở thoáng hơn. Nếu lấy nhà của dự án, thì quá gò bó, quá hẹp. Nói chung người dân tộc mình thích nhà rộng, thích nhà sàn. Đa số là tự làm. Mình nghe họ vào tuyên truyền, nhà muốn làm thì tự chuẩn bị. Có nhiều nhà làm mới hoàn toàn phải tự chuẩn bị gỗ. Như nhà bác đây xem gỗ thấy vẫn còn đảm bảo nên chỉ phải thay một số thôi. Mình làm đơn xin kiểm lâm để [vào rừng] xin gỗ mới được làm chứ, không thì không được làm đâu.” (PVS số 17, Nam giới thuộc hộ tái định cư, xã Tân Xuân).

“Họ làm rất đẹp. Chắc chắn để cho dự án làm không thể đẹp như thế được. Cái đó mới là cái mấu chốt nhất mà gần như các dự án khác không có. Các dự án khác xây nhà và đưa người dân vào ở. Đó là bản sắc của người ta. Người Thái ưa ở nhà sàn. Nhà còn tốt, người ta đưa lên dựng lại. Họ có thể sử dụng tiền mà dự án trả để sửa sang những chỗ cần như làm mái, sơn sửa, hoặc thay thế” (PVS số 25, Cán bộ dự án, TSHPCo).

31

52. Đa số các hộ thuộc diện di dời đều có nguyện vọng tự làm nhà thay vì nhận nhà do dự án xây. Một đợt tham vấn cộng đồng đã được thực hiện vào năm 2012 để đánh giá phương án ưa thích của các hộ dân. Kết quả cho thấy phần lớn người dân chọn tự xây nhà với tỷ lệ là 96% ở cả hai huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa và 73% ở tỉnh Sơn La. Vào giai đoạn cuối, tỷ lệ này của toàn dự án tăng lên 95,5% trong số các hộ phải di dời.

53. Nguyện vọng này là hoàn toàn có thể hiểu được nếu xét đến kết quả nghèo nàn của hoạt động tái định cư trong các dự án tương tự ở Việt Nam. Bản thân TSHPCo cũng từng có kinh nghiệm trong một dự án khác về việc người dân không đồng ý nhận những ngôi nhà tái định cư do dự án xây. Tương tự, ở khu vực Trung Sơn, do đặc thù của đời sống sản xuất nông nghiệp, người nông dân cần một diện tích rộng hơn để sinh hoạt trong khi nhà do dự án xây dựng phải thực hiện theo các tiêu chuẩn kỹ thuật đã được xác định từ trước mà có thể không phù hợp với nguyện vọng của người dân. Việc cho người dân tự xây nhà sẽ khuyến khích họ chủ động, phát huy tính làm chủ, và đầu tư thêm để có ngôi nhà đẹp hơn để đáp ứng các nhu cầu rất khác nhau về kiểu dáng, cách trang trí, và đặt hướng nhà. Tự xây nhà là lựa chọn cho phép trao quyền đầy đủ cho các hộ bị ảnh hưởng trong việc tối đa hiệu quả sử dụng các gói bồi thường trong thiết kế, huy động lao động, thời gian xây dựng, trang trí. Một căn nhà mới và thuận tiện cho người sử dụng sẽ làm họ gắn bó với nơi ở mới hơn, và vơi dần đi cảm giác buồn khi phải di dời khỏi nơi ở cũ.

Phương án tự xây là hợp pháp, khả thi về mặt kỹ thuật và tài chính, tạo ra sự thích 54. ứng về văn hóa và bền vững. Trước hết, phương án tự xây nhà được quy định trong khung chính sách tái định cư. Tài liệu đầy đủ được công bố rộng rãi tới chính quyền địa phương và các bên liên quan. Thứ hai, kinh nghiệm cho thấy việc sắp xếp tái định cư cần được thiết kế một cách linh hoạt, cho phép người dân điều chỉnh nhà theo nhu cầu cụ thể của họ, chẳng hạn như không gian cho gia súc, vườn và họ có thể đầu tư thêm để có được ngôi nhà lớn hoặc tốt hơn. Thứ ba, dự án Trung Sơn dự định xây dựng nhà tái định cư bằng xi măng và bê tông, khiến người dân không thể tận dụng nguyên vật liệu từ ngôi nhà cũ, đặc biệt là xà gỗ. Tập tục của người Thái (nhóm dân tộc chiếm phần lớn các hộ dân bị ảnh hưởng) là khi chuyển nhà, họ sẽ chuyển ngôi nhà cũ đến vị trí mới.

55. Rủi ro đi kèm với phương án người dân tự xây nhà đã được đánh giá và khắc phục một cách phù hợp. Hai rủi ro chính đã được xác định. Nếu việc chi trả trực tiếp tiền bồi thường nhà không được thực hiện kịp thời, toàn bộ dự án Trung Sơn sẽ bị chậm tiến độ. Và một lo ngại khác là các hộ gia đình không có kỹ năng cần thiết để quản lý khoản tiền dùng cho việc xây nhà nhà và đối mặt với nguy cơ không có nhà ở. Để giảm thiểu các nguy cơ này, giải pháp được đề

32

xuất là việc chi trả tiền làm thành 03 đợt, mỗi đợt được thực hiện sau khi xác minh các thông số kỹ thuật của ngôi nhà. Có những thông số mà ngôi nhà cần đáp ứng trước khi hộ gia đình có thể nhận được tiền. Điều này nhằm đảm bảo rằng khoản tiền được sử dụng đúng cho việc xây nhà và các hộ gia đình không coi đây là khoản có thể phung phí trong việc tiêu dùng. Từ quan điểm của Ngân hàng Thế giới, khoản tiền cho các hộ gia đình bị ảnh hưởng xây nhà là một phần trong gói đền bù đầy đủ được nêu chi tiết trong Kế hoạch Tái định cư, và chỉ đơn giản là phần ứng trước cho chi phí vật liệu, nhân công và các khoản khác liên quan đến việc xây dựng nhà. Do đó, chi trả tiền cho việc xây nhà rõ ràng chỉ là một phần của gói tái định cư lớn hơn, và không đủ điều kiện để được coi là “bồi thường tiền mặt”. Cuối cùng, phương án này sẽ nâng cao tính sở hữu của các hộ bị ảnh hưởng và giải phóng THSPCo khỏi mối lo ngại về trách nhiệm pháp lý trong việc bảo trì sau khi dự án kết thúc.

56. Việc tự xây nhà trên thực tế gặp nhiều trở ngại do những quy định ràng buộc từ phía NHTG và Việt Nam. Về dòng tiền, trừ khi Hiệp định vay được sửa đổi, khoản vay của Ngân hàng Thế giới không cho phép thực hiện chi trả trực tiếp cho các hộ dân để họ tự xây dựng nhà. Các khoản đền bù cho việc thu hồi đất và tái định cư và khôi phục đời sống cho những người bị ảnh hưởng phải lấy từ nguồn ngân sách đối ứng. TSHPCo đã không lường trước được kịch bản này (vì cho rằng người dân sẽ nhận nhà do dự án xây mà chi phí của nó đủ điều kiện để dùng ngân sách từ dự án). Do đó, họ đã gặp khó khăn trong việc thu xếp vốn đối ứng. Việc sửa đổi Hiệp định vay là cần thiết để đảm bảo khoản vay của Ngân hàng Thế giới có thể tiếp tục được sử dụng cho mục đích xây dựng nhà ở. Mặc dù tổng của khoản vay không đổi, nhưng việc sửa đổi này đòi hỏi một quá trình cần nhiều thời gian theo các quy định của Việt Nam (chi tiết ở Hộp 5).

33

• Tháng 9 năm 2013, TSHPCo đã trình hồ sơ đề xuất GENCO2, đơn vị quản lý trực tiếp dự án, cho

phép sửa đổi hiệp định vay để có đủ nguồn vốn chi trả cho các hộ dân tự làm nhà.

• Trung Sơn phải giải trình với GENCO2 về sự phù hợp của đề xuất này, bao gồm việc các hộ tái định cư có nguyện vọng tự xây nhà, dự án có khả năng phân bổ đủ vốn vay cho phương án này, đây là phương án tốt nhất để tránh khỏi tình trạng trì hoãn ở toàn bộ dự án Trung Sơn, giúp giảm thiểu chi phí của dự án vì có thể tìm nguồn vay trong nước, đồng thời không làm tăng thêm khoản vay đã ký kết với NHTG.

• GENCO2 rà soát hồ sơ và các giải trình của dự án. Đề xuất được chuyển lên cấp cao hơn là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vào tháng 5/2014 để xem xét giải quyết. EVN gửi văn bản đề nghị Bộ Công thương cho phép sửa đổi hiệp định vay và đề nghị bộ có ý kiến chính thức với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

• Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan chịu trách nhiệm đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ về việc ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về vốn vay ưu đãi với NHTG. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi xin ý kiến Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước khi trình Thủ tướng Chính phủ vào tháng 3/2015.

• Thủ tướng Chính phủ báo cáo Chủ tịch nước về việc sửa đổi hiệp định vay. Sau khi có ý kiến trả lời của Chủ tịch nước vào tháng 5/2015, Văn phòng Chính phủ có văn bản giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiến hành các thủ tục với NHTG để hoàn tất việc sửa đổi hiệp định vay cho dự án. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã gửi yêu cầu chính thức tới Ngân hàng Thế giới vào ngày 21 tháng 5 năm 2015.

• Ngân hàng Thế giới đã kích hoạt quy trình nội bộ để tái cấu trúc dự án cấp độ II (với sự phê duyệt

của Phó chủ tịch khu vực) và sửa đổi Hiệp định.

• Các sửa đổi Hiệp định được Ngân hàng Thế giới ký vào ngày 4 tháng 1 năm 2016.

HỘP 5. Trình tự sửa đổi Hiệp định với Ngân hàng Thế giới về Dự án thủy điện Trung Sơn

57. Hiệp định vay sửa đổi được ký vào tháng 3 năm 2016 kết thúc 3 năm thảo luận và đàm phán ở cấp khác nhau với sự tham gia mạnh mẽ của nhiều bên liên quan. Khung chính sách tái định cư ban đầu vẫn là một tài liệu định hướng mà dự án cần phải tuân thủ. Tất cả các bên đã nỗ lực để đáp ứng mong muốn của các hộ gia đình và tháo gỡ kịp thời các khó khăn. Trong thời gian này, các hoạt động di dời và tái định cư vẫn tiếp tục diễn ra để đáp ứng thời hạn xây dựng đập. Công ty mẹ, GENCO2, đã cấp vốn đối ứng cho TSHPCo để chi trả cho người dân tự làm nhà. Với điều khoản tài trợ hồi tố, những chi phí đó sẽ được thu hồi từ khoản vay của Ngân hàng Thế giới khi bản hiệp định sửa đổi có hiệu lực. Xem bản sửa đổi của hiệp định trong Bảng 6.

34

BẢNG 6. Hiệp định gốc và sửa đổi với Ngân hàng thế giới về dự án Thủy điện Trung Sơn

Hiệp định sửa đổi

Hiệp định gốc Đoạn 3(a) của Phụ lục 1 của Hiệp định (a) Tái định cư, sinh kế và phát triển dân tộc thiểu số Cung cấp hỗ trợ cho việc thực hiện RLDP, bao gồm tái định cư, phục hồi, bồi thường và các biện pháp phát triển sinh kế, giúp cải thiện, hoặc ít nhất là duy trì mức sống và khả năng tạo thu nhập của những người bị ảnh hưởng bởi Dự án, bao gồm các dân tộc thiểu số (không bao gồm việc chi trả tiền bồi thường cho thu hồi đất, tái định cư và phục hồi cuộc sống cho những người bị ảnh hưởng)

Cung cấp hỗ trợ cho việc thực hiện RLDP, bao gồm tái định cư, phục hồi, bồi thường và các biện pháp phát triển sinh kế, giúp cải thiện, hoặc ít nhất là duy trì mức sống và khả năng tạo thu nhập của những người bị ảnh hưởng bởi Dự án, bao gồm các dân tộc thiểu số (không bao gồm việc chi trả tiền bồi thường cho thu hồi đất, tái định cư và phục hồi cuộc sống cho những người bị ảnh hưởng, ngoại trừ hỗ trợ cho việc tự xây nhà tái định cư).

Đoạn 3(a) thuộc Phần IV.A của Phụ lục 2 của Hiệp định Thuật ngữ "Chi tiêu hợp lệ trong Phần 1 và 3 của Dự án" có nghĩa là các chi tiêu ghi nhận trong Phần 1 và 3 của Dự án cho các chi phí hợp lý của: (i) dịch vụ tư vấn; (ii) hàng hóa; (iii) công trình dân dụng; (iv) đào tạo và hội thảo;

Thuật ngữ "Chi tiêu hợp lệ trong Phần 1 và 3 của Dự án" có nghĩa là các chi tiêu ghi nhận trong Phần 1 và 3 của Dự án cho các chi phí hợp lý của: (i) dịch vụ tư vấn; (ii) hàng hóa; (iii) công trình dân dụng; (iv) đào tạo và hội thảo; và (v) hỗ trợ cho những người bị ảnh hưởng tự xây dựng nhà tái định cư như được nêu trong sổ tay hướng dẫn thực hiện dự án, loại hỗ trợ mà TSHPCO ghi nhận từ ngày 1 tháng 12 năm 2014. "

C.

Đảm bảo diện tích đất ở đầy đủ

“Ở trên này địa hình rất khó để có thể có được 400m2 nhưng chính sách đã ghi thế rồi thì không thể làm khác được. Chính quyền địa phương và dân cứ yêu cầu thế. Đến lúc chia không đủ 400m2 thì họ cứ đòi. Vì dự án đã ghi như thế, và dự án đã ký vào đấy rồi. Tất cả các ban ngành đều ký vào đó rồi. Trung Sơn là dự án tái định cư độc nhất chứ không có dự án nào như vậy.” (PVS số 5, Cán bộ dự án, TSHPCo).

“Đo sơ đồ thì ban đầu đúng như thế. Nhưng sau khi làm họ thấy nó cao chênh nhau nên san lại thì nó không đủ. Lúc đó bên dự án còn định bỏ chỗ này để đi tìm chỗ khác. Nhưng khi đi tìm chỗ khác khó khăn quá thì họ lại hỏi ý kiến gia đình là nền của anh được rồi, dự án của chúng tôi cũng muốn tìm chỗ khác nhưng không tìm được. Bây giờ các bác tự tìm chỗ nào gần nơi tái định cư nhất thì tự tìm và chúng tôi nhất trí. Họ cũng có lời như thế. Đến khi đó, tôi nói, tôi chỉ muốn ở bản này”. (TLN số 5, Nhóm nam, xã Tân Xuân).

Trong dự án Trung Sơn, một nỗ lực đặc biệt đã được thực hiện nhằm đảm bảo diện 58. tích đất ở cho các hộ phải di dời. Mỗi hộ gia đình di dời vào khu tái định cư tập trung có thể nhận được 400m2 đất ở và 300m2 đất vườn. Diện tích này có thể lớn hơn nếu có nhiều đất ở hơn. Ban đầu quy định này được hiểu rằng 400m2 bao gồm cả mái taluy như cách làm thường thấy ở một số dự án tương tự ở Việt Nam. Do đó, trong đợt đầu tiên, diện tích san nền chỉ dao động trong khoảng 250 đến 300 m2 (hoặc thậm chí dưới 200m2 trong một số trường hợp), một phần do điều kiện thi công khó khăn trên địa hình đồi núi. Những người dân tái định cư đã từ chối

35

nhận lô đất nhỏ hơn này. Họ tuyên bố họ muốn nhận 400 m2 đất đã được san phẳng hoàn toàn. Phần lớn người dân bị ảnh hưởng là người Thái và họ muốn duy trì lối sống của người Thái sau khi phải di dời (Hộp 6). Họ cũng muốn bảo vệ quyền của mình như đã được quy định trong Khung chính sách tái định cư.

Các hộ người Thái vốn ở quen với không gian rộng rãi, nơi các ngôi nhà không kề sát nhau. Một căn nhà sàn đặt trong không gian rộng bao giờ nhìn cũng đẹp hơn. Họ muốn xây dựng lại ngôi nhà mới với 80m2 hoặc lớn hơn diện tích mặt sàn. Phần lớn các ngôi nhà sàn của người Thái ở khu vực Trung Sơn đều có diện tích mặt sàn khoảng 100 m2, thường chiều dài 13m, còn chiều rộng khoảng 7m hoặc 8m. Nhà của người Thái có hai cầu thang hai bên sườn nhà, vì vậy cần mảnh đất có diện tích lớn hơn.

Người dân muốn dựng lại căn nhà mới với mặt sàn rộng ít nhất 80m2 và có cầu thang hai bên. Nếu đặt một ngôi nhà kích thước như thế vào lô đất nền 250m2, mảnh đất sẽ trở nên chật chội. Hơn nữa, nhà ở của người Thái có không gian để duy trì các hoạt động chăn nuôi nhỏ. Một số hộ băn khoăn làm thế nào để gia đình có thể duy trì các hoạt động này nếu như diện tích đất ở chỉ vừa đủ để đặt được ngôi nhà sàn.

HỘP 6. Nhà ở theo lối sống của người Thái và ở khu tái định cư tập trung

59. Tối ưu diện tích đất ở không chỉ đảm bảo tuân thủ khung chính sách tái định cư, mà còn tạo cơ sở cho việc ổn định cuộc sống của những người bị ảnh hưởng. Dự án xác định ba kịch bản để giải quyết vấn đề của các lô đất nhỏ: (a) tìm kiếm thêm khu tái định cư; (b) tăng diện tích đất vườn cho các hộ gia đình nhận được đất ở có diện tích nhỏ; hoặc (c) bồi thường thêm tiền mặt cho các hộ này. Giải pháp cuối cùng trước khi thực hiện phải được xác định thông qua tham vấn với các hộ gia đình bị ảnh hưởng và phải đạt được thỏa thuận giữa TSHPCo, chính quyền địa phương, các hộ gia đình bị ảnh hưởng, và nhóm dự án NHTG.

60. Việc hiệu chỉnh các lô tái định cư kéo theo việc điều chỉnh về mặt kỹ thuật. Trong ba giải pháp được đưa ra thì việc tìm điểm tái định cư mới không khả thi do diện tích đất sẵn có ở địa phương là hữu hạn, và sức ép từ tiến độ dự án sao cho kịp thời gian xây đập. Thông qua việc đảm bảo người dân được nắm bắt đầy đủ thông tin và đồng thuận với dự án, diện tích của các lô tái định cư tăng lên đáng kể. Thiết kế kỹ thuật của các khu tái định cư tập trung đã được điều chỉnh và hợp đồng với các nhà thầu đã được sửa đổi, cho phép họ được bồi hoàn cho phần công việc bổ sung. Hầu hết các lô đất sau khi hiệu chỉnh đã đạt diện tích không dưới 400m2 (đất ở). Về điều này, biên bản ghi nhớ của nhóm công tác Ngân hàng Thế giới vào tháng 7 năm 2015 đã ghi nhận:

“Diện tích của các lô tái định cư đã tăng lên đáng kể. Trong khu tái định cư số 1 là nơi dữ liệu toàn diện nhất, chỉ có một lô có diện tích nhỏ hơn 350m2 (334,5m2) chiếm 1% tổng số lô. Tỷ lệ các mảnh đất có diện tích từ 350-400m2 và hơn 400m2 lần lượt là 23,1% (46 lô) và 76,4% (152 lô). Những nỗ lực và thực hành tương tự có thể được nhân rộng tại các khu tái định cư số 2, 3 và 4.”

36

61. Một số hộ mà dự án không thể bố trí đủ diện tích vẫn chấp nhận phương án thay thế. Những hộ mà không được bố trí đủ diện tích được hỗ trợ tài chính bổ sung hoặc đất vườn bổ sung. Tuy nhiên, họ chấp nhận phương án này không phải vì những hỗ trợ đi kèm, mà vì họ biết rằng dự án đã xem xét đầy đủ các phương án kỹ thuật để cung cấp các lô tái định cư đủ lớn trong khi vẫn đảm bảo an toàn cho những người sẽ sống trên những mảnh đất này.

D.

Cho phép điều chỉnh trong quá trình xây dựng các lô tái định cư

“Bấy giờ họ đo mặt nền thiết kế, mặt tiền 20 m thì phải đúng 20 m, nếu không đúng họ không nhận. Mặt sâu này là phải đúng 15 m. Mình phải ghi rõ lắm. Mặt nền có phẳng không, có còn vương vãi vật liệu hay cái gì trên đó không, có đất đá không. Phải như thế họ mới nhận, chứ nếu không họ không nhận đâu” (PVS số 1, Cán bộ dự án, TSHPCo).

“Có những hộ sau khi đã bàn giao nền rồi, xong hết rồi nhưng dân lại không chịu nhận. Họ lại xin ra ngoài mà dự án vẫn phải chiều họ. Họ bảo bây giờ em ký rồi, em nhận bàn giao nền rồi nhưng sau khi ký nhận về thì em thấy không ở được. Gia đình em bàn bạc xin ra ngoài khu tái định cư để ở. Lúc đó mình vẫn phải theo nguyện vọng của dân. Có nhiều trường hợp mình san nền xong thì lại phải bỏ” (PVS số 1, Cán bộ dự án, TSHPCo).

Các hộ gia đình di chuyển vào 62. khu tái định cư đã giám sát trực tiếp quá trình san nền của nhà thầu xây dựng. Một số lô đất ở đủ lớn để có thể trực tiếp san nền, trong khi một số khác phải san lấp thêm để đạt được diện tích 400m2 đất ở cho mỗi hộ gia đình. Ở một điểm tái định cư, dự án nhận được 11 yêu cầu điều chỉnh cho các lô tái định cư. Với những lô sát nhau mà có độ cao chênh lệch lớn, các hộ dân đề nghị được san lại sao cho chênh lệch không quá lớn, đảm bảo an toàn, và tránh sạt lở đất sau này. Những việc tăng thêm này đòi hỏi sự điều chỉnh đồng thời trong hợp đồng xây dựng giữa nhà thầu với đơn vị quản lý dự án. Ba nhiệm vụ được thực hiện song song: điều chỉnh thiết kế chi tiết của công trình; điều chỉnh hợp đồng; và san nền các lô đất. Đây là thời điểm căng thẳng vì dự án cần hoàn thành bàn giao các lô đất ở cho các hộ gia đình kịp thời gian cho ngày tích nước theo lịch trình. Để đẩy nhanh tiến độ, đơn vị quản lý dự án đã bố trí nhân sự thường trực tại các điểm tái định cư. Tất cả các ý kiến từ các hộ di dời đều được ghi nhận với sự chứng kiến của các hộ gia đình, nhà thầu xây dựng, tư vấn giám sát, ban quản lý dự án và chính quyền địa phương.

37

BẢNG 7. Một số ý kiến của người dân và phương án xử lý về lô tái định cư

Khu vực

Thống nhất giải pháp xử lý

Lô san nền H1, H2- Trục A

Đắp lô H1 bằng cao trình lô H2

Lô H3, H4, H5, H6

Các lô H3, H4: đào thêm 0,5m Các lô H5, H6: đào thêm 1,0m

Lô H7

Lô H8

Không hiệu chỉnh, xem xét tăng thêm diện tích Xem xét bố trí vị trí khác cho hộ gia đình. San lô H8 cho lô H7, H9

Lô H14 và H15

Gia cố mái taluy âm bằng đá hộc xây VXM M100

Kiến nghị của người dân, bản, xã Đề nghị hạ cùng 1 cốt san nền đối với 2 lô H1 & H2 Đề nghị hạ cùng 1 cốt nền và đảm bảo chênh cao với đường GTNV 1m. Đề nghị tăng thêm diện tích do gần sát khe tụ thủy Do vị trí lô này nằm ở khe tụ thủy, theo phong tục người Thái không dựng nhà. Gia đình đề nghị bố trí san nền ở vị trí khác Do công trình đường Tây Thanh Hóa quá gần, nên việc bố trí theo thiết kế ban đầu không đảm bảo an toàn. Đề nghị gia cố mái taluy âm đảm bảo chống xói, ổn định lâu dài

Nguồn: Ban quản lý dự án. Trích từ số theo dõi khiếu nại tại điểm tái định cư Tài Chánh.

8

96 % ở Khu tái định cư số 1, 98% ở Khu tái định cư số 2, 100% ở Khu tái định cư số 3 và 100% ở Khu tái định cư số 4.

63. Các hộ gia đình ký nhận vào các văn bản có liên quan sau khi các yêu cầu đã của họ đã được đáp ứng thỏa đáng và không cần chỉnh sửa thêm gì nữa. Họ lo ngại về việc phải chịu trách nhiệm sửa chữa nếu có vấn đề gì phát sinh sau khi ký. Như được ghi nhận trong các báo cáo của Ngân hàng Thế giới vào tháng 6 năm 2016 và tháng 1 năm 2017, với những hộ dân lựa chọn di chuyển vào các khu tái định cư do dự án xây dựng, 100% đã chấp nhận các lô đất do dự án cung cấp và trung bình 98,5% trong số họ đang xây dựng/hoàn thiện nhà ở tại các khu tái định cư8. Dự án đáp ứng các yêu cầu cho việc tích nước lòng hồ, bao gồm: (a) thanh toán tiền bồi thường cho đất đai và các công trình bị ảnh hưởng bởi hồ chứa và các cơ sở liên quan; (b) cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản tại các khu tái định cư số 1, 2, 3, 4; (iii) di dời các hộ gia đình bị ảnh hưởng (AH) ra khỏi khu vực sẽ bị ngập.

38

E.

Chi trả tiền xây dựng nhà thành nhiều đợt

“Làm nhà sàn phải là nhà sàn, nhà xây phải là nhà xây, hoặc là lấy nhà của dự án thủy điện làm cho thì phải lấy nhà đấy mới đảm bảo. Mình mà làm căn nhà xập xệ thì người ta cũng không nghiệm thu. Tính theo bên dự án họ cho 1 khẩu là 25m2. Nếu làm nhà không đủ, thì người ta không nghiệm thu, còn thừa ra không sao. Cái đấy là họ cũng lo cho dân thôi” (PVS số 17, Nam giới thuộc hộ gia đình bị ảnh hưởng, xã Tân Xuân).

“Ý của họ là phải chia thành 3 lần vì lấy một lần về mình tiêu đi không làm được nhà. Ví dụ như mình làm được cái nền, làm cái móng thì người ta mới cho lần 2. Nếu người ta cho một lượt không may mình cứ tiêu cái này, cái kia thì không đủ để làm một cái nhà. Họ mà đưa một lần có nhà về giữ được thì làm nhà được nhưng cũng có nhà tiêu đi thì lại không có nhà để ở. Lúc có tiền thì cái gì cũng muốn mua. Họ làm như thế là cũng đúng. Cuối cùng tất cả mọi người đều xây được nhà”. (TLN số 2, Nhóm nữ, xã Trung Lý).

64. Khi lựa chọn phương án tự xây dựng nhà, các hộ gia đình tái định cư biết rằng theo quy định trong khung chính sách tái định cư của dự án, họ sẽ nhận được một khoản tiền tương đương với giá trị của ngôi nhà mới mà họ được hưởng.9 Khung chính sách tái định cư cũng quy định rằng nếu ngôi nhà cũ có giá trị lớn hơn giá trị của ngôi nhà mới mà họ sẽ được cấp, hộ gia đình đó sẽ nhận được khoản tiền chênh lệch. Trong trường hợp ngược lại, các hộ gia đình không phải trả khoản tiền chênh lệch giữa nhà cũ và nhà mới. Cuối cùng, các hộ gia đình được phép tái sử dụng vật liệu xây dựng từ ngôi nhà cũ của họ mà không bị khấu trừ số tiền bồi thường.

“Theo cách làm quy định ở luật Việt Nam, mình vào kiểm kê để xác định nhà loại nào, và giá trị bao nhiêu. Đấy là cách Việt Nam làm thế. Nhưng ở dự án này, giá đền bù là một ngôi nhà mới theo giá thay thế. Với giá thay thế, người dân có được một số tiền tốt để vừa làm nhà mới, vừa kết hợp sử dụng vật liệu ngôi nhà cũ chuyển lên” (PVS số 25, Cán bộ dự án, TSHPCo).

9

25m2 cho hộ gia đình 1-2 người; 45m2 cho hộ gia đình 3-4 người, 65m2 cho hộ > 5 người.

“Dự án đưa ra đơn giá cho ngôi nhà mới theo mẫu đã tham vấn với người dân. Mình tính tiền ra để trả tiền cho họ nếu họ muốn tự xây. Ở đây, về cơ bản người ta đã có nhà sàn, chỉ một số hộ chưa có thôi. Cho nên, người ta tận dụng được ngôi nhà cũ. Người Thái cũng giống người Kinh thôi, ai cũng muốn tự mình xây nhà cho mình. Người dân thích tự làm nhà của mình hơn. Vì thế, những khiếu nại trong quá trình thực hiện giảm xuống” (PVS số 25, Cán bộ dự án, TSHPCo).

39

65. Một gói tài chính tiêu chuẩn để xây dựng một ngôi nhà mới được xác định ngang bằng với số tiền bồi thường cho ngôi nhà bị ảnh hưởng. Theo quy định của Việt Nam, một hộ gia đình tái định cư thường sẽ nhận được một gói các khoản bồi thường bằng tiền mặt cho những thiệt hại của họ (đất đai, công trình, hoa màu, v.v.). Người dân có thể sử dụng số tiền đó để mua một lô đất tái định cư (có thể với giá được trợ cấp) và xây dựng nhà. Giá trị bồi thường cho ngôi nhà bị ảnh hưởng là giá trị còn lại của ngôi nhà, được tính toán dựa trên giá trị của một ngôi nhà mới xây với tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương, trừ đi khấu hao tỉ lệ với độ tuổi của ngôi nhà. Với cách tính này, các hộ có diện tích nhà ở nhỏ, sau khi bị thu hồi có nguy cơ không đủ tiền để mua hoặc dựng lại một căn nhà mới. Một vài dự án tái định cư ở Hà Nội đã cho thấy tình trạng sau 10 năm các gia đình tái định cư nghèo vẫn không có cách nào để trả khoản tiền nợ mua nhà tái định cư. Họ phải đối mặt với tình huống phải dời khỏi nhà và/hoặc trở thành người thuê lại chính căn nhà mà họ chưa trả nợ hết. Trong dự án Trung Sơn, điều khoản chính sách khác đã được áp dụng. Một hộ gia đình tái định cư sẽ nhận được (a) tiền bồi thường cho các tài sản bị ảnh hưởng (đất, nhà ở, công trình, cây trồng); và (b) giá trị của ngôi nhà tái định cư mới mà họ được nhận. Số tiền này đã được Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt.

Dự án đặc biệt chú ý đến chất lượng của những ngôi nhà mới. Dự án đã phổ biến đến 66. cộng đồng các thông số kỹ thuật đối với nhà sàn và nhà xây trước khi người dân bắt đầu xây dựng nhà. Đối với nhà tự xây, nhà bếp, bể nước và nhà vệ sinh phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Diện tích của ngôi nhà không được phép nhỏ hơn tiêu chuẩn tối thiểu đã quy định. Cấu trúc của ngôi nhà phải đáp ứng các yêu cầu an toàn, cho dù đó là nhà gỗ, nhà sàn gỗ hay nhà bê tông, được lợp ngói, tôn hoặc vật liệu tương đương. Các điều kiện vệ sinh và môi trường phải được thực hiện. Tầng trệt của một ngôi nhà sàn phải cao từ 1,8m đến 2,2m để có thể sử dụng làm kho hoặc cho các mục đích khác. Cột trụ nhà có thể là hình tròn hoặc hình vuông, với đường kính lớn hơn hoặc bằng 20 cm.

Các hộ gia đình nhận được khoản tiền bồi thường nhà thành ba đợt. Khoản thanh 67. toán đầu tiên, 40%, được thực hiện khi ngôi nhà cũ đã được tháo dỡ, và vật liệu xây dựng đã được vận chuyển đến lô đất mới và chuẩn bị cho việc xây nhà. Các hộ bị ảnh hưởng ở tạm (lán tạm trong khu tái định cư, ở nhờ nhà người thân, hoặc nhà thuê – sử dụng tiền hỗ trợ thuê nhà) trong quá trình xây dựng nhà mới. Trong trường hợp cả chồng và vợ không có khả năng phụ trách xây dựng nhà ở mới hay thực hiện di dời, họ có thể nhờ họ hàng hỗ trợ nếu những người này cam kết giúp đỡ cho đến khi hoàn thành ngôi nhà. Đợt thứ hai, 30%, được thực hiện khi ít nhất phần thô đã hoàn thành. Đợt này thường diễn ra khoảng 4-5 tháng sau lần thanh toán đầu tiên. Đợt thanh toán cuối cùng được thực hiện sau khi hội đồng bồi thường, di dân, tái định cư cấp huyện nghiệm thu công trình. Ngoài ra, dự án còn thanh toán một khoản dành cho việc xây dựng bể nước và nhà vệ sinh sau khi hoàn thành toàn bộ ngôi nhà. Mỗi đợt chi trả chỉ được thực hiện sau khi có biên bản nghiệm thu theo yêu cầu. Nếu quá trình dựng nhà chưa đạt yêu cầu, dự án yêu cầu gia đình chỉnh sửa, gia cố thêm, đảm bảo yêu cầu chất lượng tối thiểu theo quy định của dự án.

40

“Tôi thì không thích cách làm đó, nhưng tôi nghĩ rằng nếu cấp một lần sẽ có hộ không có nhà ở, vì có tiền trong tay lại tiêu pha đi. Cách làm đó chắc là do họ có kinh nghiệm, nên họ làm như thế. Như bọn bác có nhà thì không sợ, cấp một lần vẫn làm được. Nhưng có nhà mang về không biết quản lý sẽ thất thoát vốn, thất thoát tiền thì không có nhà ở. Dự án làm như thế cũng hợp lý thôi. Dân rất thắc mắc cái đó, nhưng họ không hiểu rằng cầm một lần khó quản lý” (PVS số 13, Nam giới, xã Trung Sơn).

“Phương án này khi Trung Sơn đưa ra, được NHTG đồng thuận và chúng tôi cũng ủng hộ. Chúng tôi cũng rất lo và khi phương án này đưa ra chúng tôi đồng ý ngay. 100% sẽ có nhà chứ không thể không có được. Người dân cũng muốn làm nhanh để được nhận tiền. Chúng tôi đã họp nhiều và cũng nói là phải học theo Trung Sơn. Khổ một cái là các dự án khác của tỉnh lại không có phương án đó.” (PVS số 4, Cán bộ cấp huyện, huyện Mường Lát).

“Có người bảo là làm như thế thì làm sao mà làm được nhà. Có, có làm được. Mình làm xong phần nào dự án trả tiền phần đấy. Nếu mình mua vật liệu thì người ta cũng chưa lấy tiền vì người ta biết rằng dự án này cho tiền. Không phải là dự án không cấp cho mình mà là mình làm được rồi thì dự án mới cấp tiếp cho.” (PVS số 15, Trưởng bản, xã Tân Xuân).

68. Chỉ khoảng một nửa số hộ trong cộng đồng ủng hộ phương án thanh toán tiền theo đợt, nửa còn lại muốn nhận toàn bộ số tiền trong một lần duy nhất. Phương án thanh toán tiền thành ba đợt vẫn được thực hiện. Cộng đồng dân tộc thiểu số tại địa bàn dự án vốn chưa quen với việc quản lý số tiền lớn. Nguy cơ cao là tiền để xây nhà nếu trả hết một lần sẽ bị dùng vào việc khác như mua xe máy, xe ô tô, trâu, bò hoặc mua các vật dụng đắt tiền. Do đó, các hộ dân có thể rơi vào tình cảnh nhà ở không được cải thiện sau dự án, hoặc thậm chí không có nhà ở. Vì vậy, cần có biện pháp ngăn ngừa ngay từ đầu. Do đó, dự án đã thực hiện biện pháp phòng ngừa này. Để giúp người dân hiểu rõ hơn về biện pháp này, dự án đã triển khai thêm các đợt truyền thông tại cộng đồng.

69. Đối với các hộ không chuyển vào khu tái định cư, dự án vẫn thực hiện giám sát và chi trả tuân theo các nguyên tắc tương tự. Ban quản lý dự án yêu cầu các hộ xây nhà ở ngoài khu tái định cư làm bản cam kết về việc họ tự bố trí nơi ở mới. Việc cam kết thể hiện ở hai điểm, một là cam kết xây dựng nhà ở đảm bảo tuân thủ theo khung chính sách của dự án về diện tích và kết cấu của ngôi nhà mới; hai là, di chuyển đúng thời gian đến địa chỉ đăng ký thực tế. Địa chỉ sẽ được kiểm tra để xác minh rằng việc dựng nhà trên lô đất được chỉ định là hợp pháp. Sau khi lập biên bản xác nhận, ban quản lý dự án chuyển hồ sơ lên chính quyền cấp huyện ra quyết định phê duyệt đồng ý cho hộ ngoài khu tái định cư được dựng nhà.

F.

Tóm tắt

70. Kinh nghiệm thu được từ dự án Trung Sơn cho thấy việc di dời tiến triển như thế nào, đòi hỏi phải có những cuộc đàm phán và sự tham gia liên tục của tất cả các bên liên quan cùng nhau giải quyết khi vấn đề phát sinh. Kinh nghiệm này cho thấy cho thấy cách thức những nguyện vọng của các hộ dân bị ảnh hưởng về việc lựa chọn địa điểm tái định cư và việc họ tự xây dựng nhà mới đã được giải quyết như thế nào. Các quyết định tích cực và quan trọng

41

bao gồm việc huy động kiến thức của cộng đồng địa phương để lập kế hoạch cho các điểm tái định cư, và thanh toán tiền xây nhà thành nhiều đợt để kiểm soát tiến độ và chất lượng của những ngôi nhà mới. Việc cho phép các hộ gia đình tự xây nhà trong kế hoạch tái định cư đòi hỏi một nỗ lực bền bỉ, yêu cầu sửa đổi Hiệp định và những điều chỉnh trong quá trình thi công đất nền có ý nghĩa then chốt nhằm đảm bảo diện tích phù hợp cho tất cả mọi người. Kết quả là, tiến độ di dời diễn ra kịp thời, và tiến độ của dự án nói chung được đảm bảo. Tiếng nói của cộng đồng đã được lắng nghe, và nguồn lực được phân bổ kịp thời cho việc xây dựng nhà mới, cho dù đây là những ngôi nhà do hộ gia đình xây hay do dự án cung cấp. Chất lượng nhà ở được cải thiện, giúp cho người dân có điều kiện sống tốt hơn nhiều, trong khi vẫn giữ được phong cách của những ngôi nhà sàn Thái. Quá trình này đã đẩy mạnh sự phối hợp mạnh mẽ hơn giữa chính quyền các cấp và ban quản lý dự án.

HÌNH 5. Các mốc quyết định trong tái định cư ở dự án thủy điện Trung Sơn

2010 Một số hộ ở Mường Lý xin tự xây nhà trong khu TĐC

2012 NHTG đề nghị tổ chức vòng tham vấn mới

01-11/2016 11/2016: Các hộ tiếp tục xây nhà mới. Di dời các hộ cuối cùng

2008 Ngày khoá sổ Tham vấn cộng đồng về xây dựng nhà TĐC

2014 NHNN chịu trách nhiệm sửa đổi hiệp định vay. San nền, tổ chức bốc thăm, và bắt đầu di dời. Có ý kiến phàn nàn về diện tích lo TĐC

2015 Ký kết hiệp định vay sửa đổi. Đảm bảo đủ diện tích đất ở. 70% các hộ dân nhận lô TĐC, và bắt đầu xây dựng nhà mới

2009 Hai phương án làm nhà đưa vào Quy hoạch tổng thể di dân

2011 Ký kết hiệp định vay NHTG Tham vấn về mẫu nhà TĐC

2013 Tham vấn cộng đồng về phương án xây nhà. Thống nhất phương án để dân tự xây nhà. TSHPCo tiến hành các thủ tục xin sửa đổi hiệp định vay

42

BẢNG 8. Tái định cư: Tóm tắt kinh nghiệm dự án thủy điện Trung Sơn

Những trở ngại chính • Đa số các hộ dân muốn tự xây dựng nhà tái định cư, nhưng dòng tiền cho việc này lại chưa được

tính đến khi ký kết Hiệp định.

• Ban đầu, việc chi trả trực tiếp cho các hộ bị ảnh hưởng tự xây dựng nhà tái định cư không được chấp

nhận, trong khi việc sử dụng vốn đối ứng lại khiến cho TSHPCo gặp rủi ro tài chính.

• Định nghĩa về diện tích san nền nhà ở tối thiểu sau khi san nền ở địa hình có độ dốc lớn chưa rõ

ràng.

Các bên tham gia • Cộng đồng bị ảnh hưởng • Ban quản lý dự án và TSHPCo, GENCO2 và EVN • UBND cấp tỉnh, huyện, xã • Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT • Văn phòng Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước • Ngân hàng Thế giới • Nhà thầu xây dựng khu các TĐC • Các đơn vị tư vấn (thiết kế, giám sát, giám sát MT-XH) Quá trình ra quyết định • Tham vấn cộng đồng về việc lựa chọn phương thức làm nhà tái định cư • Tổ chức thăm dò ý kiến tại tất cả các bản bị di dời • Trung Sơn làm việc với NHTG về nguyện vọng tự xây nhà của người dân • Các thủ tục nội bộ được tiến hành từ cả hai phía của Chính phủ và Ngân hàng Thế giới. Hiệp định

điều chỉnh đã được Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Nhà nước ký kết

• Hộ gia đình đăng ký tự làm nhà tái định cư theo mẫu đơn của dự án, có xác nhận của ủy ban nhân

dân xã

• BQL dự án lập danh sách các hộ muốn tự làm nhà gửi lên ủy ban nhân dân huyện. UBND huyện ra

quyết định phê duyệt danh sách này

• Các bên thống nhất chi trả tiền xây nhà cho người dân theo 03 đợt tương ứng với tiến độ xây nhà,

và bao gồm cả việc làm nhà vệ sinh, bể nước sinh hoạt

Kết quả • Tiếng nói của cộng đồng được lắng nghe • Nguồn lực được đảm bảo kịp thời cho việc xây dựng nhà mới • Tiến độ di dân, và tiến độ dự án nói chung được đảm bảo • Phần lớn các hộ được cấp đủ diện tích 400m2 đất san nền làm nhà ở • Đất nền phẳng sẵn sàng cho việc dựng nhà được bàn giao đảm bảo tiến độ di dời • Các ngôi nhà mới ở khu tái định cư được hoàn thiện đầy đủ • Chất lượng nhà ở và điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình được cải thiện • Kiểu nhà sàn của người Thái và Mường được bảo tồn • Mối quan hệ phối hợp giữa chính quyền địa phương và ban quản lý dự án được tăng cường Tái định cư: 05 lĩnh vực thực hành tốt của Công ty Thủy điện Trung Sơn • Vận dụng kiến thức của người địa phương để lựa chọn vị trí khu tái định cư tập trung • Chuẩn bị quyết định cấp quốc gia cho phép người dân tự xây nhà mới • Đảm bảo diện tích đất ở đầy đủ • Cho phép điều chỉnh trong quá trình xây dựng các lô tái định cư • Chi trả tiền xây dựng nhà thành nhiều đợt

43

Cải thiện sinh kế

44

A.

Lập kế hoạch phục hồi sinh kế theo mô hình dự án phát triển dựa vào cộng đồng

“Đối với các dự án khác thì hầu như không có công tác sinh kế. Riêng Trung Sơn thì có bổ sung thêm một khoản tiền dành cho sinh kế… Ban đầu EVN không sẵn sàng vì từ trước giờ không có như thế này... Việt Nam đã có trong quy định, nhưng bồi thường là bồi thường bằng tiền mặt. Còn mình đây trong sinh kế là bồi thường bằng hiện vật và mặt kĩ thuật… Sau này, EVN cũng nhận thấy dự án có sức ảnh hưởng lớn nên đồng ý hỗ trợ sinh kế.” (PVS số 25, Cán bộ dự án, TSHPCo).

“Hoạt động tham vấn có ý nghĩa vì chương trình sinh kế của dự án dựa trên nhu cầu và điều kiện thực tế của người dân, hoàn toàn không có một áp đặt nào, hay có một kế hoạch nào từ trên trời rơi xuống để thực hiện. Sau khi thực hiện tham vấn, nhóm tư vấn tổng hợp lại là có bao nhiêu hộ dân đăng ký từng hoạt động. Mình phải lọc ra. Từ đó mới tổng hợp được thành 1 bản để xem từ đó có bao nhiêu hộ, trong đó có bao nhiêu hoạt động. Mỗi hoạt động thì với điều kiện của địa phương chỉ nên hỗ trợ với định mức là bao nhiêu”. (PVS số 3, Cán bộ tư vấn sinh kế của dự án, TSHPCo).

71. Ngay từ khi mới chuẩn bị dự án Trung Sơn, dự án đã tìm kiếm các phương án để giải quyết những khó khăn trong việc khôi phục mức sống của các hộ gia đình bị ảnh hưởng. Đây là một thách thức dai dẳng cho tất cả các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vì mặc dù phục hồi sinh kế đã được quy định trong hệ thống chính sách hiện hành, có rất ít dự án đã thực sự thành công khi triển khai các hoạt động đó. Phần lớn các hỗ trợ phục hồi sinh kế đều được chuyển thành tiền mặt và không có những hoạt động theo dõi sau đó. Do đó, việc khởi động chương trình phục hồi sinh kế trong dự án Trung Sơn đã đặt ra những thách thức mới cho bên thực hiện, bên giám sát và (thậm chí) những người hưởng lợi từ dự án. Tuy nhiên, dự án phải mất nhiều thời gian để khởi động chương trình và dần dần mở rộng quy mô các hoạt động sinh kế. Quá trình lập kế hoạch hoạt động, lập ngân sách, quy trình mua sắm và việc huy động các dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật bị kéo dài là những khó khăn cụ thể mà dự án gặp phải. Các hoạt động hỗ trợ sinh kế được thực hiện qua 4 giai đoạn: giai đoạn thí điểm (2012-2013), giai đoạn chuyển tiếp (2013-2014), giai đoạn nhân rộng (2015-2017) và giai đoạn sau nhân rộng (2018-2019). Tổng chi phí là 22,6 tỷ đồng (không bao gồm chi phí tư vấn), tương đương 0,95 triệu USD, trong đó 20% diễn ra trong giai đoạn hậu dự án.

72. Chương trình cải thiện sinh kế cộng đồng (CLIP) là một chương trình được thiết kế dựa vào cộng đồng. Trong một môi trường mà tài nguyên nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi hồ chứa Trung Sơn, dự án thiết kế CLIP để huy động các nguồn lực về con người, xã hội và tự nhiên của cộng đồng, đồng thời mang lại nguồn lực tài chính và vật chất thông qua các hoạt động dự án, nhằm tạo điều kiện phục hồi sinh kế bền vững. Phát triển dựa vào cộng đồng là cách tiếp cận được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong các cộng đồng nông thôn nghèo, dựa trên các nguyên tắc trao quyền, sự tham gia, đáp ứng nhu cầu kinh tế, tăng cường trách nhiệm và phát huy năng lực địa phương. Những nguyên tắc này đã được áp dụng triệt để trong quá trình xây dựng và triển khai CLIP. Thông qua tham vấn cộng đồng địa phương, huy động sự tham gia của

45

cộng đồng vào các hoạt động cải thiện sinh kế và trao quyền cho cộng đồng, cộng đồng có thể tự vận hành các hoạt động này, hoặc cùng với chính quyền địa phương đồng quản lý.

Phạm vi của CLIP bao gồm tất cả các bản bị ảnh hưởng và các hộ gia đình bị ảnh 73. hưởng được tập hợp theo các nhóm cùng sở thích. Các xã ở vùng cao Việt Nam được tạo thành từ các bản, mỗi bản là một cộng đồng. Trong bối cảnh dự án Trung Sơn, trong một xã lại có một số bản bị ảnh hưởng bởi hồ chứa và một số thì không, do đó, rõ ràng cần xác định đơn vị bản chứ không phải xã là một cộng đồng. Tất cả các hộ gia đình trong một bản bị ảnh hưởng đều được xác định là đủ điều kiện tham gia CLIP và tiếp cận các lợi ích của dự án. Hầu hết các hoạt động diễn ra thông qua các nhóm cùng sở thích đều bao gồm các hộ gia đình trong một bản. Trong thời gian thực hiện dự án, các nhóm sở thích đã thực sự đóng vai trò mạnh mẽ trong việc duy trì và phát triển hơn nữa mối liên kết giữa các thành viên. Do đó, nhóm sở thích chính là cấp cộng đồng thứ hai trong các bản bị ảnh hưởng.

74. Đối với TSHPCo, một cách tiếp cận mới có nghĩa là một cơ chế mới để huy động nguồn nhân lực, lập kế hoạch và ngân sách, và triển khai. Vì các hộ gia đình đã thể hiện mong muốn mạnh mẽ trong việc tiếp tục hoạt động sinh kế dựa vào nông nghiệp và đa dạng hóa các nguồn thu nhập, nên cần có con giống, hạt giống và các vật tư nông nghiệp khác. Theo thiết kế CLIP, người dân được hỗ trợ sinh kế bằng hiện vật. Cách tiếp cận này thường được áp dụng trong các dự án phát triển nông thôn ở những môi trường tương tự, nhưng hiếm khi áp dụng trong dự án tái định cư do phát triển. Đồng thời, dự án cũng khuyến khích các đơn vị cung cấp tư nhân phát triển vật tư nông nghiệp sẵn có tại địa phương, và nhiều hộ gia đình được dự án hỗ trợ để có thể nhân giống vật nuôi và giống cây trồng.

75. Các hoạt động sinh kế là kết quả của quá trình tư vấn và lập kế hoạch từ dưới lên. Trong quá trình chuẩn bị dự án, từ cấp huyện đến cấp xã và trưởng bản đều tuân thủ một quy trình chính thức. Kết quả là mỗi bản đều xây dựng được kế hoạch CLIP dự kiến. Các kế hoạch này, được bao gồm trong chương trình RLDP, đã xác nhận quyền được hưởng các hỗ trợ CLIP của mỗi bản, và cho thấy các hoạt động đa dạng có thể được lên kế hoạch như thế nào để đáp ứng nhu cầu địa phương. Trong quá trình thực hiện, vì các hoạt động sinh kế đã được điều chỉnh và các nhóm sở thích trở thành cơ chế thực hiện chính của CLIP, người dân đã lựa chọn theo thứ tự ưu tiên những nhóm sở thích phù hợp với bản của họ hơn trong các cuộc họp tham vấn về sinh kế. Họ đã đăng ký tham gia vào các nhóm sở thích và tiếp cận hỗ trợ vật tư nông nghiệp đầu vào. Bước tham vấn này mất khá nhiều thời gian, nhưng xác định được rõ ràng nhu cầu của cộng đồng, hoạt động nhóm, ưu tiên của địa phương, và sự sẵn sàng của các hộ gia đình tham gia vào nhóm sở thích.

Trong quá trình chuẩn bị dự án, ủy ban nhân dân xã luôn đóng vai trò tích cực. Vì 76. chính quyền xã nắm chắc về đặc điểm của dân cư, môi trường và tình hình sản xuất địa phương, hơn nữa một số cán bộ xã cũng nằm trong nhóm các hộ gia đình phải di dời, nên ý tưởng của họ đã giúp định hình các hoạt động CLIP và thích ứng các hoạt động này với từng địa bàn. Trong quá trình thực hiện, trưởng bản cũng hoạt động tích cực trong các buổi tham vấn tại bản. Chính quyền cấp huyện, cơ quan chịu trách nhiệm kế hoạch phát triển kinh tế xã hội địa phương, cũng được cập nhật thông tin trong suốt dự án, dưới cả hai hình thức là chính thức thông qua quy trình báo cáo và không chính thức thông qua việc trao đổi với người dân.

46

B.

Sử dụng một cơ chế thực hiện đã được chứng minh: Các nhóm cùng sở thích

“Một trong những cái tôi thấy thành công đó là liên quan đến vấn đề sinh kế. Tại sao lại chia ra thành các nhóm sở thích? Việc chia thành các nhóm sở thích sẽ giúp người dân hỗ trợ nhau duy trì hoạt động sinh kế.” (PVS số 7, cán bộ xã, xã Mường Lý).

“Khi tham gia nhóm sở thích, chúng tôi được quan sát và trao đổi kinh nghiệm với nhau, nhất là khi nuôi con lợn không quen thuộc” (TLN số 5, nam, xã Tân Xuân).

“Nếu con vật ốm hoặc chết là phải họp và báo cáo với tổ nhóm. Tổ nhóm sẽ điện cho sinh kế để bảo nhà này chết bao nhiêu con. Nhà này thì bị ốm, ốm thế nào. Họ về kiểm tra. Họ cho thuốc hoặc là tiêm. Họ cho thuốc về mình phải đi hướng dẫn cho các thành viên khác cách pha bột hoặc pha thuốc. Cuối cùng cũng cứu được.” (TLN số 3, nữ, xã Trung Sơn).

77. Nhóm sở thích là cơ chế đã chứng minh có hiệu quả ở Việt Nam với các đặc điểm sáng tạo có thể đáp ứng nhu cầu phục hồi sinh kế trong một dự án thủy điện. Mô hình nhóm sở thích từ lâu đã được ứng dụng trong các dự án khuyến nông và phát triển dựa vào cộng đồng tại Việt Nam. Do đó, nhóm và các hoạt động thí điểm có liên quan, còn được gọi là “các mô hình”, là một hoạt động được công nhận đem lại hiệu quả ở tất cả các cấp. Điều này cho phép thành lập các nhóm không chính thức trong cộng đồng. Trong suốt quá trình dự án, đã có ba loại hình nhóm sở thích: nhóm trồng trọt bao gồm lúa, cây ăn quả; nhóm chăn nuôi, với một loạt các hoạt động chăn nuôi (gia cầm, lợn, dê, thức ăn gia súc cho bò, cá, ong mật); và hoạt động phi nông nghiệp. Ở nhóm phi nông nghiệp, một số thành viên tập trung vào chế biến các loại cây trồng mới được phát triển (miến dong), một số làm thủ công mỹ nghệ. Một nhóm “kinh doanh hộ gia đình” đã được thành lập để giúp các hộ kinh doanh nhỏ liên kết với nhau và phát triển các kế hoạch tiếp cận thị trường. Một số nhóm khác dành cho những người trẻ tuổi thì hỗ trợ họ thực hiện các kế hoạch cá nhân như tiếp cận các trường dạy nghề hoặc mở một dịch vụ nhỏ như cửa hàng sửa chữa.

Các nhóm cùng sở thích bắt đầu được hình thành sớm trong giai đoạn thí điểm cải 78. thiện sinh kế. Thành lập các nhóm sở thích là một trong những hoạt động của dự án để hỗ trợ phục hồi sinh kế. Mỗi nhóm nhỏ dự kiến gồm 3-6 hộ gia đình được thành lập. Khi các hộ gia đình vẫn ở bản cũ, thông qua các nhóm sở thích, các hoạt động cải thiện sinh kế được thử nghiệm để rút kinh nghiệm cho các giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn thí điểm, có 5 nhóm sở thích trồng trọt, 8 nhóm chăn nuôi và 3 nhóm phát triển thị trường phi nông nghiệp đã được thành lập, với tổng số 275 thành viên thuộc 5 bản tham gia. Thành viên các nhóm chủ yếu là các hộ gia đình

47

tích cực hơn so với các hộ khác. Các thành viên nhóm chăn nuôi được cung cấp con giống từ các giống cải tiến. Dự án cũng khuyến khích các hộ thành viên xây dựng chuồng trại, sử dụng vật liệu tre luồng và kết hợp thức ăn sẵn có tại địa phương với thức ăn công nghiệp. Các nhóm trồng trọt được cung cấp hạt giống và vật tư nông nghiệp. Tất cả các thành viên đều tham gia các khóa tập huấn về chăn nuôi, trồng trọt hoặc phòng trừ dịch bệnh. Các nhóm cũng chọn ra đại diện tham gia các chuyến tham quan học tập do dự án tổ chức để tham quan các mô hình hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở các huyện lân cận không thuộc khu vực dự án Trung Sơn. Chính các thành viên trong nhóm đã thực hiện giám sát các hoạt động thí điểm.

Sau giai đoạn thí điểm, mô hình các nhóm sở thích tiếp tục là phương thức chính để 79. thực hiện cải thiện sinh kế. Ở quy mô đầy đủ khi CLIP bao phủ 44 bản, đã có 429 nhóm sở thích được thành lập, trong đó có 175 nhóm trồng trọt, 191 nhóm chăn nuôi và 63 nhóm phi nông nghiệp. Trong số này, 220 nhóm đã thực hiện các hoạt động trình diễn, trong khi những nhóm khác chủ yếu tham gia các khóa tập huấn. Các nhóm thành lập từ giai đoạn thí điểm đã được hợp nhất khi các hoạt động sinh kế dần dần mở rộng sang các bản khác, và các nhóm sở thích mới được hình thành.

80. Các nhóm hoạt động theo cách thúc đẩy mối liên kết chặt chẽ giữa các thành viên, cũng như giữa nhóm và cộng đồng. Điều này được thực hiện thông qua việc tập trung vào những cải tiến đơn giản trong trồng trọt và chăn nuôi và học cách kết hợp vật tư nông nghiệp với nguyên liệu và kinh nghiệm có sẵn tại địa phương. Các thành viên trong nhóm khuyến khích lẫn nhau tham gia các hoạt động đào tạo, đồng thời áp dụng các kiến thức và kỹ năng thu được. Họ chia sẻ kinh nghiệm, chủ yếu là về trồng trọt và chăn nuôi. Các hộ gia đình tham gia vào các nhóm sở thích thời kỳ đầu thì hỗ trợ các thành viên nhóm mới có được các kỹ năng cần thiết. Dự án cũng tổ chức tập huấn về quản lý ngân sách hộ gia đình và kế hoạch sản xuất để giúp các hộ bị ảnh hưởng tối ưu hóa việc sử dụng tiền bồi thường.

81. Làm rõ trách nhiệm của các thành viên trong nhóm là việc làm hữu ích. Nhóm xây dựng các quy định hoạt động của nhóm, trong đó nêu rõ trách nhiệm của người tham gia. Ví dụ, các thành viên trong nhóm không phải đóng góp tài chính cho các buổi hướng dẫn, nhưng phải tuân thủ các khuyến nghị kỹ thuật của các nhóm tư vấn kỹ thuật sinh kế. Các hộ gia đình nhận con giống phải đảm bảo xây dựng chuồng trại và chuẩn bị sẵn thức ăn gia súc và thức ăn chăn nuôi. Tất cả thành viên nhóm sở thích phải được tập huấn trước khi nhận con giống, hạt giống hoặc cây giống và vật tư đầu vào khác. Trưởng nhóm đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì các hoạt động của nhóm sở thích. Trưởng nhóm do các thành viên trong nhóm bầu ra căn cứ vào các tiêu chí như thành thạo tiếng Việt; có uy tín; hoạt động tích cực; và có điều kiện kinh tế tốt hơn. Những người được chọn thường là người của bản nên hiểu được đặc điểm của từng gia đình. Họ là những người giữ vai trò chủ chốt trong việc thúc đẩy năng lực của nhóm sở thích và có ảnh hưởng tích cực đến những thành viên khác. Bắt đầu từ năm 2016, trưởng nhóm đã tham gia chương trình tập huấn được tổ chức riêng tại thị trấn các huyện và kéo dài trong 4 ngày. Ngoài các kỹ thuật và kỹ năng trong chăn nuôi và trồng trọt, khóa học này còn cung cấp cho họ kỹ năng quản lý, bao gồm tổ chức họp nhóm, chia sẻ kinh nghiệm và làm việc nhóm.

48

82. Khả năng thành thạo ngôn ngữ phổ thông cũng được tính đến. Tài liệu đào tạo (do nhóm hỗ trợ kỹ thuật sinh kế thiết kế) dành cho những người chưa đọc thông viết thạo, vì vậy có nhiều ý tưởng và hình ảnh dễ hiểu. Ví dụ, nhu cầu tiêm phòng cho vật nuôi được giải thích thông qua so sánh với việc tiêm chủng cho trẻ em. Các giải pháp cụ thể cho tài liệu tập huấn đã được thử nghiệm và sau đó được áp dụng cho những người không thông thạo tiếng Việt, tập trung vào nhóm phụ nữ trung niên ở các bản Thái và Mông, những nhóm ít thông thạo tiếng Việt nhất. Hoạt động theo nhóm sở thích đã giúp các thành viên hiểu được hình ảnh và nắm bắt được các thông điệp. Những người thông thạo tiếng Việt có thể giải thích lại cho những người chưa thông thạo. Dự án tuyển dụng một điều phối viên thực địa người Mông để tăng cường năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ địa phương.

83. Các biện pháp bổ sung đã được thực hiện để khắc phục những khó khăn như các nhóm trưởng có ít thời gian cho dự án, và tiếp cận với các nhóm dễ bị tổn thương. Giải pháp cho từng vấn đề này đã được xác định và thực hiện. Đầu tiên, ở giai đoạn mở rộng, mỗi nhóm sở thích bao gồm cả một nhóm phó, để chia sẻ trách nhiệm trong việc quản lý nhóm một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Thứ hai là việc sử dụng một số phương pháp cụ thể được khuyến khích ở các bản người Mông. Các điều phối viên thực địa mang theo hình ảnh và đoạn video ngắn lưu trong điện thoại thông minh và chỉ cho người dân xem những thực hành tốt của địa phương. Điều phối viên nói tiếng Mông đã ghi lại những thông điệp và câu chuyện quan trọng về “thực hành tốt” của những bản khác, và các cán bộ của Ủy ban nhân dân xã cũng được khuyến khích đóng góp những tư liệu này. Các hộ gia đình tham gia có thể sử dụng điện thoại thông minh của điều phối viên địa phương để nghe các tệp này. Để tạo điều kiện cho các hộ gia đình dễ bị tổn thương được tham gia, dự án đưa cho các điều phối viên địa phương danh sách các hộ gia đình dễ bị tổn thương và yêu cầu xác định những người chưa tham gia nhóm.

C.

Điều chỉnh các hoạt động và nguồn lực khôi phục sinh kế

“Hồi đó, không riêng hộ bà đăng ký trong cái tổ chăn nuôi lợn mà không được phát lợn, mà nhiều nhà khác nữa... Bà cũng được đi tập huấn mấy lần rồi, được thêm kiến thức, mình được mở mang trí óc, biết được kỹ thuật chăn nuôi như thế nào, bà biết là nếu bà áp dụng theo thì sẽ nuôi được” (PVS số 16, nữ, thành viên nhóm chăn nuôi lợn, xã Tân Xuân).

Trong quá trình chuẩn bị cho dự án Trung Sơn, dự án đã lập kế hoạch cho các hoạt 84. động cải thiện sinh kế căn cứ vào mức độ ảnh hưởng ở từng bản. Các bản bị ảnh hưởng bởi hồ chứa được chia thành ba nhóm: bản bị ảnh hưởng nghiêm trọng, bản bị ảnh hưởng vừa phải, và bản bị ảnh hưởng ít hơn, cụ thể được giải thích trong bảng 9. Mặc dù dự án đã xác định kinh phí của gói hỗ trợ tiêu chuẩn dành cho từng nhóm bản bị ảnh hưởng, nhưng dự án cũng nêu rõ là thông qua việc chuẩn bị kế hoạch hàng năm và tham vấn liên tục với người dân địa phương, khoản hỗ trợ sẽ được điều chỉnh trong quá trình thực hiện nếu cần thiết. Mục đích của việc thiết kế chương trình phục hồi sinh kế theo hướng linh hoạt là nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tế của các hộ gia đình bị ảnh hưởng, đồng thời tận dụng các cơ hội tạo thu nhập xuất hiện bất ngờ trong tương lai gần.

49

85. Dự án đã xây dựng các gói phục hồi sinh kế khác nhau hỗ trợ cho ba nhóm bản. Hầu hết các bản bị ảnh hưởng nghiêm trọng sẽ nhận được nhiều hỗ trợ tái định cư. Các bản bị ảnh hưởng vừa phải cũng được hưởng lợi từ một số hoạt động CLIP tương tự như ở nhóm bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ở các bản bị ảnh hưởng vừa phải, do đất trồng lúa rất hạn chế, một số hộ gia đình muốn phát triển vườn nhà, ao nuôi cá hoặc thủ công mỹ nghệ; và một số người trẻ tuổi muốn chuyển sang phi nông nghiệp thông qua tham gia các khóa đào tạo nghề. Những hỗ trợ dành cho các bản ít bị ảnh hưởng hơn chủ yếu tập trung vào chăn nuôi gia súc ở các nhóm sở thích chăn nuôi và nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng. Hầu hết các hỗ trợ kỹ thuật và dịch vụ được xác định tại thời điểm đó đều đã được thực hiện. Các hộ gia đình bị ảnh hưởng nhận được hỗ trợ trực tiếp, trong đó tập trung vào chăn nuôi để cải thiện sản xuất. Dự án cũng tổ chức các dịch vụ tư vấn cá nhân cho tất cả các hộ gia đình ngoại trừ các hộ ở các bản ít bị ảnh hưởng, trong đó ưu tiên cho những hộ bị ảnh hưởng nặng hoặc dễ bị tổn thương. Dạy nghề là một lựa chọn dành cho những người trẻ tuổi thông qua hợp đồng với các trường lân cận.

BẢNG 9. Gói hỗ trợ khôi phục sinh kế theo các nhóm bản

Mức độ ảnh hưởng của đập thủy điện tới bản

Các bản bị ảnh hưởng nghiêm trọng > 50 % hộ gia đình phải di dời hoặc đất đai bị ảnh hưởng nghiêm trọng

Các bản bị ảnh hưởng vừa phải < 50 % hộ gia đình phải di dời hoặc hơn 5 hộ gia đình chỉ có đất đai bị ảnh hưởng nghiêm trọng

Các bản ít bị ảnh hưởng hơn Không có hộ phải di dời, và có ít hơn 5 hộ có đất đai bị ảnh hưởng nghiêm trọng

1. Hỗ trợ kỹ thuật trong bản

1 người cho 2 bản

1 người cho 2 bản

Thăm hộ gia đình

Cán bộ hỗ trợ kỹ thuật Năm thí điểm Điều phối viên thực địa

2. Cải thiện sản xuất

5 bản

Không

Không

1 đầu người/hộ

1 đầu người/5 hộ

Không

Không

Không

Thí điểm Nhóm sở thích gia súc Chăn nuôi nhỏ, nuôi cá Cơ sở hạ tầng công cộng Ruộng bậc thang (*)

Không

Các điểm tái định cư tập trung

Không

Hợp đồng bảo vệ rừng (*)

50

BẢNG 9. Gói hỗ trợ khôi phục sinh kế theo các nhóm bản (tiếp theo)

Mức độ ảnh hưởng của đập thủy điện tới bản

Các bản bị ảnh hưởng nghiêm trọng > 50 % hộ gia đình phải di dời hoặc đất đai bị ảnh hưởng nghiêm trọng

Các bản bị ảnh hưởng vừa phải < 50 % hộ gia đình phải di dời hoặc hơn 5 hộ gia đình chỉ có đất đai bị ảnh hưởng nghiêm trọng

Các bản ít bị ảnh hưởng hơn Không có hộ phải di dời, và có ít hơn 5 hộ có đất đai bị ảnh hưởng nghiêm trọng

3. Các hoạt động của trung tâm dịch vụ

Dịch vụ tư vấn cá nhân

Ưu tiên cho các hộ phải di dời, các hộ gia đình bị ảnh hưởng nghiêm trọng và các nhóm dễ bị tổn thương khác

Không

Khoảng 20% hộ gia đình

Một số

Một số

Khoảng 20% hộ gia đình

Ít

Cho vay tín dụng – tín dụng vi mô (*) Cho vay tín dụng – kinh doanh nhỏ (*) Dạy nghề Câu lạc bộ kinh doanh Khoảng 5% hộ gia đình

Một số

* Các hoạt động được lập kế hoạch tại thời điểm chuẩn bị dự án, nhưng sau đó đã bị cắt giảm hoặc hủy bỏ do những khó khăn khi thực hiện.

86. Việc khớp giữa hỗ trợ kỹ thuật và mốc thời gian dự án là một khó khăn lớn. Như kế hoạch ban đầu, chương trình cải thiện sinh kế đã huy động một nhóm nhỏ tư vấn sinh kế bắt đầu từ giai đoạn thí điểm, và một nhóm chuyên hỗ trợ kỹ thuật gồm năm chuyên gia và mười một điều phối viên thực địa trong giai đoạn mở rộng ba năm. Vào cuối giai đoạn thí điểm, việc khởi động cho giai đoạn mở rộng đã bị trì hoãn (do nhóm hỗ trợ kỹ thuật làm việc kém hiệu quả dẫn đến việc thay toàn bộ nhận sự). Việc khởi động giai đoạn chính và huy động nhóm hỗ trợ kỹ thuật mới càng trở nên khó khăn hơn khi ban quản lý ở thời điểm đó đang tập trung nỗ lực cho nhiệm vụ tái định cư và TSHPCo thì đang chuẩn bị cho việc sửa đổi hiệp định vay với Ngân hàng Thế giới.

87. Tăng cường mối quan hệ với chính quyền địa phương đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng trong kế hoạch phục hồi sinh kế. Khi dự án đã ký hợp đồng với nhóm tư vấn sinh kế, các tư vấn sinh kế của giai đoạn thí điểm được chuyển sang thực hiện chức năng của cán bộ quan hệ cộng đồng, phối hợp chặt chẽ với cán bộ xã và trưởng bản. Họ giữ vai trò cầu nối giữa cộng đồng và dự án, cung cấp thông tin về các hoạt động cải thiện sinh kế, cũng như tiếp nhận phàn nàn và khiếu nại từ những người bị ảnh hưởng. Ban sinh kế cộng đồng của xã, được thành lập với nguồn kinh phí hỗ trợ từ dự án Trung Sơn, bắt đầu hoạt động chính thức với thành viên là lãnh đạo xã, một cán bộ khuyến nông hoặc cán bộ thú y, đại diện Hội Phụ nữ và trưởng bản. Ban sinh kế xã trợ giúp nhóm tư vấn sinh kế lên kế hoạch thực hiện và giám sát các hoạt động của địa phương.

88. Bộ máy nhân lực đầy đủ đã tạo thêm một kênh để tiếp cận với các hộ gia đình bị ảnh hưởng. Điều phối viên địa phương đảm bảo sự hiện diện thường trực ở các xã và bản (Hộp 7). Thay vì thành lập một trung tâm cung cấp dịch vụ, nhóm tư vấn sinh kế của dự án đã mở một văn phòng nhỏ gần công trình chính để phục vụ người dân trong một xã và cung cấp dịch vụ tư vấn trực tiếp đến các hộ gia đình. Những dịch vụ tư vấn này đã bổ sung cho việc đào tạo và hướng

51

dẫn các thành viên nhóm sở thích. Dịch vụ này dành ưu tiên cho các hộ gia đình bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn và dễ bị tổn thương hơn.

• Khu vực dự án Trung Sơn bao phủ tới 44 bản thuộc 8 xã ở 3 huyện. Đội ngũ nhân lực tư vấn gồm có 5 chuyên gia và 11 điều phối viên thực địa, cộng thêm 3 cán bộ quan hệ cộng đồng làm việc bán thời gian, với sự hỗ trợ của một cố vấn quốc tế bán thời gian.

• Đào tạo các hộ gia đình theo phương pháp “cầm tay chỉ việc” có nghĩa là phải hướng dẫn cho

khoảng 3.000 hộ để làm sao họ có thể làm chủ các kỹ thuật và thực hành.

• Việc sử dụng các điều phối viên địa phương được xác nhận là một lựa chọn đúng đắn. Họ là những người có mặt liên tục ở địa bàn và có thể kịp thời giúp đỡ khi người dân cần hỗ trợ kỹ thuật. Họ được tuyển dụng làm việc ở chính xã mà họ sinh sống, và có một số người có thể nói ngôn ngữ địa phương.

• Việc đảm bảo liên lạc giữa các điều phối viên địa phương và nhóm tư vấn sinh kế tại khu vực đập là điều rất quan trọng. Ban đầu, các điều phối viên không có điện thoại riêng và gặp khó khăn khi sử dụng điện thoại di động, thư điện tử và mạng xã hội. Nhóm tư vấn của dự án phải mất bốn tháng để đào tạo điều phối viên địa phương sử dụng công nghệ thông tin bao gồm cả internet. • Việc đào tạo về công nghệ thông tin được thực hiện song song với đào tạo về quản lý và kỹ thuật trong các hoạt động cải thiện sinh kế của dự án. Các khóa đào tạo này được tổ chức chung cho cả điều phối viên địa phương và 142 trưởng nhóm sở thích. Tất cả 11 điều phối viên đã tham gia với tư cách vừa là học viên và vừa là người hướng dẫn trong các khóa đào tạo.

HỘP 7. Điều phối viên địa phương trong chương trình cải thiện sinh kế ở dự án Trung Sơn

D.

Đảm bảo chuyển giao cho chính quyền địa phương

“Đây là mô hình tốt vì có sự kết hợp với địa phương. Địa phương cử thú y và khuyến nông để thực hiện hỗ trợ tại chỗ. Sự xác nhận của tất cả các cấp liên quan trong tất cả các hoạt động tạo nên sự thông suốt từ trên xuống dưới” (PVS số 24, điều phối viên địa phương xã Tân Xuân).

“Vấn đề sinh kế hậu tái định cư cũng là vấn đề mà thủy điện Trung Sơn làm được. Cơ bản còn lại chính quyền địa phương cũng vào cuộc đồng bộ, phối hợp với các đoàn thể từ thủy điện Trung Sơn đến cấp huyện, đến cấp thôn bản để cùng vào cuộc.” (PVS số 7, cán bộ xã, xã Mường Lý).

89. Các hoạt động sinh kế và chính quyền địa phương đã bắt đầu lồng ghép ở cấp bản và cấp xã. Mối liên kết giữa cán bộ thôn bản, trưởng nhóm sở thích và các hộ gia đình là thường xuyên và chặt chẽ. Có rất nhiều điểm mang lại lợi thế lớn cho TSHPCo trong việc duy trì mối quan hệ với chính quyền và cộng đồng địa phương. Bản chất của dự án đòi hỏi sự hiện diện trực tiếp của TSHPCo ngay từ trong quá trình chuẩn bị dự án và trong suốt các giai đoạn dự án. Bên cạnh đó, sự cởi mở và cam kết của TSHPCo đã mở đường cho sự tham gia tích cực hơn của người dân và chính quyền địa phương. Thông qua các hoạt động, dự án khuyến khích các nhóm trưởng giữ vai trò mạnh mẽ trong việc kết nối các hộ gia đình với các điều phối viên địa phương. Một mạng lưới cấp thôn bản không chính thức được xây dựng theo cách đó, tiếp tục được củng cố hơn nữa thông qua việc thực hiện các hoạt động sinh kế như đã đề xuất (cung cấp đầu vào nông nghiệp,

52

tổ chức đào tạo, giám sát các lĩnh vực thí điểm, chăn nuôi hoặc chế biến nhỏ) của các nhóm sở thích. Các điều phối viên địa phương và nhóm tư vấn kỹ thuật sinh kế thường xuyên trao đổi và phối hợp, giúp cung cấp các giải pháp kịp thời tháo gỡ những khó khăn khi thực hiện các hoạt động sinh kế. Đây là một đặc điểm tích cực vì sự phối hợp chặt chẽ giữa những người hưởng lợi và chính quyền địa phương đã giúp nhóm sở thích tìm được nguồn hỗ trợ kỹ thuật đáng tin cậy khi cần thiết. Mô hình này tận dụng lợi thế của việc cung cấp mạng lưới thông tin và nguồn nhân lực, bên cạnh những hỗ trợ kỹ thuật. Ở cấp xã, dự án cũng tăng dần sự phối hợp với chính quyền địa phương. Qua đề xuất thành lập Ban sinh kế xã (ví dụ, cán bộ ủy ban nhân dân xã và các cán bộ chuyên trách sẽ chịu trách nhiệm quản lý và giám sát các hoạt động sinh kế trong dự án Trung Sơn). Dự án thử nghiệm mô hình này ở một xã và sau đó nhân rộng ra tất cả các địa phương khác bị ảnh hưởng bởi hồ chứa khi hoạt động sinh kế đạt quy mô lớn nhất.

90. Dịch vụ tư vấn cá nhân giúp tăng cường hơn nữa các kỹ năng của điều phối viên địa phương tại các xã dự án. Sau đợt tập huấn chính, nhóm hỗ trợ kỹ thuật sinh kế đã làm việc cùng với các điều phối viên địa phương và trưởng nhóm sở thích để thực hiện các chuyến đi tư vấn cá nhân tại hộ gia đình. Trước tiên, các hoạt động tư vấn cá nhân được thực hiện bởi nhóm tư vấn kỹ thuật, sau đó được truyền lại cho điều phối viên địa phương. Những người này sau đó có thể tự thực hiện tư vấn ở quy mô lớn hơn. Ngoài việc giúp các hộ gia đình lập kế hoạch sản xuất, lao động và ngân sách tốt hơn, điều phối viên còn có thể tổ chức các hoạt động nhóm để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các thành viên. Thông qua các chuyến đi tư vấn cá nhân này mà các điều phối viên địa phương đã nâng cao năng lực của chính mình. Ban sinh kế xã giám sát chất lượng của các hoạt động này, kết hợp mô hình nhóm sở thích với các chuyến đi tư vấn cá nhân, từ đó chuẩn bị cho việc tiếp quản và phụ trách các hoạt động này.

91. Sau khi triển khai toàn diện quy mô hoạt động phục hồi sinh kế, dự án áp dụng một cách tiếp cận mới, trong đó khuyến khích sáng kiến địa phương. Dự án đã nhìn thấy trước việc chuyển giao các hoạt động sinh kế, các dịch vụ nông nghiệp và thú y cho chính quyền địa phương từ trong quá trình chuẩn bị. Bắt đầu từ năm 2018, đối với từng loại thí điểm cải thiện sinh kế và các nhóm liên quan (được gọi là “mô hình” ở Việt Nam), dự án đã xác định rằng chính quyền huyện hoặc xã sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm tiếp quản, duy trì và thúc đẩy hoạt động. Ban sinh kế xã đã nhận được toàn bộ tài liệu hướng dẫn kỹ thuật (do nhóm hỗ trợ kỹ thuật sinh kế biên soạn), danh sách các nhóm sở thích, và danh sách các hoạt động được triển khai tại các bản. Chính quyền địa phương cam kết tiếp tục theo dõi và đẩy mạnh các nhóm sở thích như một phần trong chương trình kinh tế - xã hội thường xuyên của mình, từ đó giúp các hộ gia đình duy trì các hoạt động sinh kế mà dự án đã hỗ trợ. Ví dụ, tại một huyện (Vân Hồ ở tỉnh Sơn La), dự án tài trợ các hộ gia đình bị ảnh hưởng 120 con bò. Ủy ban Nhân dân huyện đã đề cử Hội Phụ nữ huyện chịu trách nhiệm tiếp nhận và tiếp tục thực hiện ở cấp cơ sở sau khi dự án Trung Sơn kết thúc. Hội Phụ nữ huyện đã hợp tác với Hội Phụ nữ xã để lựa chọn các hộ gia đình sẽ nuôi lứa đầu tiên và tổ chức các khóa tập huấn về chăn nuôi bò. Nhóm tư vấn kỹ thuật sinh kế của dự án Trung Sơn tiếp tục cung cấp dịch vụ tư vấn, giám sát và hỗ trợ kỹ thuật cho đến khi kết thúc dự án để đảm bảo chất lượng kỹ thuật và triển khai theo đúng các khuyến nghị của dự án.

53

E.

Nhận biết rằng thay đổi sinh kế là một quá trình lâu dài

“Đối với dự án ở đây, mục tiêu không phải là cứ đưa nền tảng khoa học kĩ thuật tiên tiến vào để áp dụng, mà đây phải xây dựng từ cái họ có để phát triển lên. Còn đưa một cái khoa học mới hẳn thì chắc chắn rằng là không được. Họ đang nuôi bò nuôi, gà mình phải làm thế nào phát triển nó lên. Còn bảo nuôi ngỗng chẳng hạn thì họ chưa bao giờ làm việc đó mà giờ mình bảo thì là không nên rồi.” (PVS số 25, cán bộ dự án, TSHPCo).

“Lợn bản thì cũng vẫn nhốt chuồng, vẫn như thế chứ không phải thả rông đâu. Bây giờ chả có ai thả rông. Các bản khác thì không biết thế nào chưa bản này kể cả lợn, kể cả gà thì đều nuôi nhốt hết. Ở bản cũ người ta có thả chứ trên này không có ai thả cả. Trên này tường bao hết, đất nhà nào nhà đấy có, nên chả ai thả vì ảnh hưởng đến nhau. Mình nuôi nhốt hết. Nói chung lên trên này khâu chăn nuôi cũng vào quy củ rồi nên không còn thả đâu.” (TLN số 5, nam thành viên nhóm nuôi gia cầm, xã Tân Xuân).

92. Chương trình phục hồi sinh kế trong dự án Trung Sơn được hỗ trợ trong khoảng thời gian 05 năm. Giai đoạn này bao gồm một năm thí điểm, một năm chuyển tiếp và ba năm nhân rộng. TSHPCo và Ngân hàng Thế giới đã xây dựng, xem xét và điều chỉnh một kế hoạch phục hồi sinh kế tổng thể. Kế hoạch này giúp nhóm thực hiện nắm bắt được các hướng dẫn về mục tiêu, nhóm đích và ngân sách ước tính. Kế hoạch thường niên của các hoạt động sinh kế được xây dựng dựa trên kế hoạch tổng thể. Sau khi được phê duyệt, việc mua sắm vật tư nông nghiệp đầu vào và huy động hỗ trợ kỹ thuật cứ theo đó mà thực hiện. Trong thời gian này, cần có một nỗ lực tổng hợp của các cán bộ hỗ trợ kỹ thuật sinh kế từ TSHPCo, nhóm tư vấn kỹ thuật, điều phối viên tuyển dụng tại địa phương và ban sinh kế xã. Cụ thể, trong chăm sóc thú y, nhóm tư vấn kỹ thuật với tư cách là cán bộ thú y đã sớm triển khai tập huấn cho các hộ gia đình ở các bản khác nhau, sau đó vẫn tiếp tục công việc này và cung cấp thuốc cho đến khi có dịch vụ thú y ở tất cả các xã bị ảnh hưởng. Hiện nay, người dân có thể tiếp cận và nhận được hỗ trợ kịp thời từ dịch vụ chăm sóc thú y mặc dù loại hình dịch vụ này là một hạn chế lớn ở vùng cao nhiệt đới này.

93. Trong số các lựa chọn khác nhau được đưa ra để đa dạng hóa và cải thiện sinh kế, các hộ gia đình đã ưu tiên chăn nuôi. Ở khu vực Trung Sơn, tất cả vật nuôi từ gia cầm và lợn đến bò và trâu đều từng được nuôi theo kiểu thả rông, các loài vật nuôi lớn hơn thường ở một thời gian dài trong rừng. Phần lớn các hộ gia đình hiện nay đều chuyển sang nuôi gia súc trong các khu vực có rào chắn và trong chuồng trại, đặc biệt là với các hộ trong các khu tái định cư tập trung. Nông dân nhận thấy cách nuôi này giúp họ quản lý vật nuôi dễ dàng hơn, an toàn hơn, môi trường sạch hơn và năng suất cao hơn. Làm việc theo nhóm đã giúp cải thiện các phương thức chăn nuôi truyền thống và làm cho hoạt động chăn nuôi hiệu quả hơn, giảm thiệt hại do bệnh tật hoặc thiếu chăm sóc. Các

54

hộ gia đình có thể bán vật nuôi trưởng thành tại thị trường địa phương hoặc thông qua các thương lái trung gian, những người có thể đến trực tiếp nhà dân để lấy hàng đem ra chợ bán. Dự án khuyến khích các hộ gia đình sử dụng khoản tiền này để tái sản xuất chăn nuôi.

94. Mô hình nhóm sở thích là một cơ chế riêng biệt của dự án và có hiệu quả mặc dù đến nay hầu như các nhóm không còn được duy trì do thiếu nguồn lực sau khi kết thúc dự án. Người nông dân tham gia tập huấn và thực hiện theo cách làm được hướng dẫn có thể tích lũy những hiểu biết mới và chia sẻ với những người khác. Mặc dù các hoạt động nông nghiệp thí điểm được đánh giá là thành công, nhưng nhiều nhóm sở thích chủ yếu chỉ gặp nhau thời gian ban đầu khi có các hoạt động tập huấn, và sau đó không duy trì thường xuyên. Họ có họp nhóm trong trường hợp xảy ra bệnh ở vật nuôi. Điều này đã được dự đoán trước: các nhóm sở thích có vai trò như một sự sắp xếp chuyển tiếp để giúp các hộ gia đình vượt qua những căng thẳng và khó khăn khi di dời. Việc đảm bảo tất cả người dân đều nhận thức được các hoạt động nhóm và phụ nữ phải tích cực tham gia là một thách thức mà dự án mới chỉ được giải quyết một phần. Nhiều hộ gia đình bị ảnh hưởng vẫn đang nỗ lực tìm mọi cách để áp dụng những ý tưởng và kỹ năng mới mà họ học được từ các hoạt động của dự án vào trong thực tế. Trình độ học vấn thấp và chưa quen với công việc nhóm khiến cho việc áp dụng này trở nên khó khăn hơn.

95. Tạo mối liên kết với bên ngoài là một phần nhiệm vụ quan trọng để bắt đầu chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Trong dự án Trung Sơn, các nhóm sở thích phi nông nghiệp được khuyến khích nhưng quy mô vẫn khá nhỏ. Các cán bộ hỗ trợ kỹ thuật sinh kế khuyến khích và hỗ trợ các hộ gia đình quan tâm gặp gỡ thường xuyên, thành lập các nhóm, lên kế hoạch cho các hoạt động mới và đóng góp tài chính để triển khai các hoạt động này. Dự án đã tài trợ một số máy chế biến nông sản. Một vài nhóm phi nông nghiệp đã hình thành, sản xuất các sản phẩm chất lượng cung cấp cho thị trường. Các nhóm này có một số thành viên nhiều kinh nghiệm và có động lực mạnh mẽ. Các trưởng nhóm đặc biệt hữu ích khi thiết lập mối quan hệ với bên ngoài. Điều này khẳng định mối liên quan giữa cách thức tiếp cận dựa vào cộng đồng đối với việc khôi phục sinh kế trong dự án Trung Sơn, trong đó những người hiểu biết và có mối quan hệ tốt hơn trong bản đều được khuyến khích tham gia. Điều này cũng khẳng định việc xây dựng năng lực trong cải thiện sinh kế không chỉ là vấn đề về áp dụng kiến thức và kỹ thuật, mà còn về kỹ năng quản lý, để đảm bảo sự tham gia tích cực vào cả hoạt động sản xuất và bán hàng.

F.

Tóm tắt

96. Kinh nghiệm thu được từ dự án Trung Sơn chứng tỏ rằng việc phục hồi sinh kế thông qua cộng đồng địa phương sẽ mất nhiều thời gian nhưng có khả năng cho kết quả bền vững hơn. Nhìn lại những gì đã diễn ra có thể thấy rằng tất cả các quyết định bao gồm việc lập kế hoạch phục hồi sinh kế giống như một dự án phát triển dựa vào cộng đồng, việc điều chỉnh các hoạt động và nguồn lực theo các giai đoạn dự án tổng thể, việc áp dụng một cơ chế triển khai đã được chứng minh, (mô hình nhóm sở thích), và việc thiết kế một chương trình phù hợp cho các nhóm với khả năng ngôn ngữ khác nhau đều đã góp phần tích cực đáng kể vào sự thành công của CLIP. Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng thay đổi sinh kế là quá trình lâu dài. Để tiếp tục các hoạt động sau khi dự án kết thúc, việc đảm bảo chuyển giao cho cấp chính quyền cơ sở gần nhất (cấp

55

xã) là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, và những thành tựu đạt được trong dự án mới chỉ là những bước đầu tiên. Những bước đi này sẽ mở đường cho việc tích hợp các nhóm sở thích mà dự án hỗ trợ vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm hoặc các chương trình khác do chính phủ tài trợ trên địa bàn.

HÌNH 6. Các mốc quyết định trong cải thiện sinh kế ở dự án thủy điện Trung Sơn

Từ kết quả của dự án, sinh kế địa phương đang trong quá trình khôi phục. Kiến thức 97. và kỹ năng của hộ gia đình trong sản xuất cây trồng và vật nuôi đã được cải thiện. Sinh kế của người dân thông qua hoạt động ban đầu được khuyến khích là đa dạng hóa thành các hoạt động phi nông nghiệp đã thay đổi không nhiều, thay vào đó chỉ là giới thiệu các phương pháp chăn nuôi mới. Do được khuyến khích phát triển nên mô hình nhóm sở thích tỏ ra hữu ích ngay cả khi không được duy trì sau dự án. Chúng là phương tiện để duy trì và xây dựng lại vốn xã hội trong quá trình di dời. Theo nghĩa này, năng lực tự quản của cộng đồng tại các bản dự án đã được nâng lên. Đồng thời, các cán bộ hỗ trợ kỹ thuật ở địa phương có cơ hội nâng cao năng lực bản thân, trước khi các hoạt động của mô hình phát triển dựa vào cộng đồng được chuyển giao cho chính quyền địa phương.

56

BẢNG 10. Cải thiện sinh kế: Tóm tắt kinh nghiệm từ Dự án Thủy điện Trung Sơn

Những trở ngại chính • Hỗ trợ phục hồi sinh kế trong các dự án của EVN hầu hết đều dưới hình thức thanh toán bằng tiền

mặt

• TSHPCo không có kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch và lập ngân sách cho các hoạt động sinh kế

cung cấp vật tư nông nghiệp bằng hiện vật

• Kết hợp giữa nhu cầu của khu vực dự án với các hỗ trợ kỹ thuật và việc tuyển dụng tư vấn là một

nhiệm vụ khó khăn

• Kết hợp giữa lịch trình của các hoạt động cải thiện sinh kế với lịch trình của hoạt động tái định cư là

một thách thức Các bên tham gia • TSHPCo và ban quản lý dự án • Ngân hàng thế giới • Ủy ban nhân dân huyện và xã • Trưởng bản và ban quản lý thôn • Trưởng nhóm và thành viên nhóm sở thích • Các hộ gia đình di dời • Nhóm hỗ trợ kỹ thuật sinh kế • Điều phối viên địa phương Quá trình ra quyết định • Xây dựng kế hoạch chi tiết ở các hoạt động cải thiện sinh kế cho các cộng đồng bị ảnh hưởng • Xác lập các mức ưu tiên đối với các bản có mức độ bị ảnh hưởng • Tham vấn chính quyền địa phương và tham vấn cộng đồng về kế hoạch cải thiện sinh kế • Thành lập nhóm sở thích dựa trên nguyện vọng đăng ký của HGĐ • Thành lập ban sinh kế xã • Kết nối tốt giữa nhóm tư vấn sinh kế, điều phối viên địa phương, và trưởng nhóm sở thích • Tích hợp hoạt động CLIP vào chương trình sinh kế của địa phương • Từng bước chuyển giao các hoạt động cho UBND xã Kết quả • Sinh kế địa phương đang trong quá trình phục hồi như đã chỉ ra trong đánh giá cuối kỳ • Kiến thức và kỹ năng của hộ gia đình trong trồng trọt và chăn nuôi được cải thiện • Mô hình chăn nuôi chuyển từ chăn thả sang nuôi nhốt, và các dịch vụ thú y được mở rộng • Vốn xã hội của các thành viên được tăng cường thông qua quá trình tham gia trong các nhóm sở

thích

Cải thiện sinh kế: 05 bài học từ dự án Trung Sơn • Lập kế hoạch phục hồi sinh kế dưới hình thức một dự án phát triển dựa vào cộng đồng • Điều chỉnh các hoạt động và nguồn lực theo các mốc thời gian dự án tổng thể • Sử dụng một cơ chế thực hiện đã được chứng minh, ví dụ mô hình nhóm cùng sở thích • Đảm bảo chuyển giao cho chính quyền địa phương • Nhận biết rằng thay đổi sinh kế là một quá trình lâu dài

57

Quản lý rủi ro trong giai đoạn tích nước lòng hồ

58

98. Quản lý các tác động hạ lưu trong giai đoạn tích nước lòng hồ là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi phải có các biện pháp giảm thiểu rủi ro cụ thể. Các tác động hạ lưu liên quan đến việc tích nước đã được đánh giá từ trong giai đoạn chuẩn bị dự án. Từ góc độ môi trường và xã hội, việc đảm bảo xả nước ở mức tối thiểu (thường được gọi là dòng chảy môi trường) trong quá trình tích nước và tại mọi thời điểm trong quá trình vận hành tiếp theo vừa là nghĩa vụ theo luật pháp và quy định trong nước, vừa là một yêu cầu then chốt của Kế hoạch Quản lý Môi trường và Xã hội (ESMP) của dự án.

A.

Đánh giá lại rủi ro và tác động từ việc tích nước, dựa trên thiết kế kỹ thuật cập nhật

99. Ở giai đoạn thẩm định dự án, việc tích nước đã được lên kế hoạch thực hiện vào cuối mùa mưa và cần tới một tuần để hoàn thành tích nước. Dự án dự kiến sẽ xả dòng chảy môi trường cần thiết thông qua cửa xả nước trong 2-3 ngày sau khi bắt đầu tích nước. Do đó, sẽ không cần tới các giải pháp kỹ thuật cũng như kế hoạch quản lý môi trường và xã hội cho khu vực hạ lưu trong quá trình tích nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện dự án, ban an toàn đập khuyến cáo không nên tích nước vào mùa mưa vì lý do an toàn, điều này khiến thời gian tích nước tăng lên thành 3 tuần trước khi dự án có thể xả nước qua đập tràn. Do cửa xả được đặt phía trên cống dẫn dòng, mà cống này cần được bít lại và cần thời gian 3 tháng, nên không thể sử dụng cửa xả trong quá trình tích nước. Sau đó, TSHPCo đã nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật thay thế khác nhau nhưng không có giải pháp nào khả thi về mặt kỹ thuật và kinh tế để cung cấp ít nhất 15 mét khối nước chảy xuống hạ lưu trong quá trình tích nước. Các bên đã quyết định rằng việc tích nước sẽ chỉ được thực hiện khi tác động của nó được đánh giá và giải quyết đúng đắn. Quyết định này đã kích hoạt một loạt các biện pháp giảm thiểu. Phạm vi khu vực có nguy cơ bị ảnh hưởng được mở rộng từ 43 km lên 85 km là nơi đặt nhà máy thủy điện Bá Thước 2 đang hoạt động. Tất cả đã được tổng hợp và trình bày trong báo cáo ESMP, bao gồm các tác động và rủi ro liên quan đến giai đoạn tích nước.

100. Khu vực hạ lưu được chia thành ba đoạn căn cứ theo mức độ tác động từ đập thủy điện (20km, 43km, và 85km). Bản chất và mức độ của các tác động và rủi ro từ việc tích nước được đánh giá đồng thời cho từng đoạn sông. Dự án đã tổ chức các cuộc họp tham vấn với chính quyền tỉnh và huyện, 17 chính quyền xã, 47 trưởng bản và 2 công ty thủy điện. Ngoài việc xác định và đánh giá tác động xã hội và môi trường, tham vấn còn giúp TSHPCo nắm bắt nhu cầu truyền thông của cộng đồng trong thời gian tích nước. Bản kế hoạch ESMP cũng được đệ trình lên Bộ Tài nguyên và Môi trường (MoNRE) và sở Tài nguyên và Môi trường của hai tỉnh để cung cấp thông tin và tham khảo ý kiến của họ.

B.

Chuẩn bị và thực hiện đồng thời biện pháp giảm thiểu rủi ro và tác động môi trường và xã hội

101. TSHPCo chịu trách nhiệm thực hiện các biện pháp giảm thiểu đối với tất cả các tác động hạ lưu do việc tích nước gây ra. Các biện pháp giảm thiểu được chuẩn bị và thực hiện bao gồm các giải pháp kỹ thuật, các biện pháp giảm thiểu cho từng địa điểm cụ thể, truyền thông và

59

bồi thường về mặt tài chính cho các hộ bị ảnh hưởng. Các biện pháp môi trường - giải quyết các tác động đến hệ sinh thái sông và ven sông, ngăn chặn khả năng sạt lở và đảm bảo giao thông liên tục – được lập đồng thời với các biện pháp xã hội - trao đổi giữa các bên liên quan và bồi thường tài chính cho toàn bộ các hộ gia đình nuôi cá lồng bị ảnh hưởng bởi việc tích nước. Sau đó, nhóm môi trường và xã hội của TSHPCo đã được phân công thực hiện các biện pháp giảm thiểu này.

102. Quan trọng là các biện pháp giảm thiểu đã được điều chỉnh phù hợp với các tác động thực tế. Do đó, việc tích nước chỉ bị trì hoãn hai tháng và thời gian tích nước được rút ngắn xuống còn 15 ngày, thay vì thời gian 30 ngày như dự kiến ban đầu. Tác động tổng thể của việc tích nước thấp hơn so với dự kiến, bao gồm mực nước trong 20 km đầu tiên sau đập. Ở đoạn sông thứ hai và thứ ba, dòng sông nhận được lưu lượng đáng kể từ suối Xia và sông Luồng (Bảng 11). Điều này, cùng với truyền thông trước và các biện pháp giảm thiểu khác, đã giúp cho quá trình tích nước diễn ra suôn sẻ. Không có sự cố hoặc trường hợp khẩn cấp nào xảy ra.

BẢNG 11. Các tác động tiềm năng và tác động thực tế trong giai đoạn tích nước

Danh mục các tác động

Tác động tiềm năng và tác động thực tế

Thông tin về lịch trình tích nước và xả nước

Đoạn hạ lưu số 1 (20 km) Từ đập tới cầu Co Lương

Đoạn hạ lưu số 2 (43 km) Từ cầu Co Lương tới sông Luồng

Không xác định 7 điểm qua

sông

Đoạn hạ lưu số 3 (85 km) Từ sông Luồng tới đập thủy điện Bá Thước 2 5 điểm qua sông

Đi lại trên sông Mã

37 Hộ gia đình, 107 lồng cá

23 Hộ gia đình, 81 lồng cá

Nuôi trồng thủy sản

Khai thác cát

Tác động tiềm năng Tác động thực tế Tác động tiềm năng Tác động thực tế Tác động tiềm năng

Tác động thực tế

Mực nước đủ để điều hướng và hệ thống đường hiện tại đáp ứng nhu cầu của người dân 5 Hộ gia đình, 17 lồng cá TSHPCo hỗ trợ tài chính cho các hộ bị ảnh hưởng: 1,5-3 triệu đồng / hộ tùy theo mức độ ảnh hưởng 12 điểm khai 27 điểm khai Ba hộ khai thác thác cát thác cát cát nhỏ nằm ở đoạn sông này Tác động không đáng kể: các cơ sở kinh doanh đã có sự chuẩn bị từ trước sau khi nhận được thông tin dự án.

60

BẢNG 11. Các tác động tiềm năng và tác động thực tế trong giai đoạn tích nước (tiếp theo)

Danh mục các tác động

Tác động tiềm năng và tác động thực tế

Thông tin về lịch trình tích nước và xả nước

Đoạn hạ lưu số 1 (20 km) Từ đập tới cầu Co Lương

Không thấy

Kinh doanh nhỏ

Tác động tiềm năng

Đoạn hạ lưu số 3 (85 km) Từ sông Luồng tới đập thủy điện Bá Thước 2 16 cơ sở nhỏ chế biến tre luồng

Tác động thực tế

Đoạn hạ lưu số 2 (43 km) Từ cầu Co Lương tới sông Luồng 10 cơ sở nhỏ chế biến tre luồng Các cơ sở sản xuất kinh doanh đã có biện pháp chủ động để chuẩn bị cho tình trạng thiếu nước tạm thời

Tác động tiềm năng

Không xác định

Nhà máy thủy điện Bá Thước 2

Các nhà máy thủy điện ở hạ lưu

Tác động thực tế

Tác động tiềm năng

Một vài hộ sử dụng đường sông

Thủy điện Bá Thước điều phối việc tích nước của mình. Một vài hộ sử dụng đường sông

Vận tải tre luồng và nông sản trên sông Mã

Tác động thực tế

Sự vắng mặt của các cơ sở chế biến tre luồng đã được xác minh. Thủy điện Thành Sơn đang thi công Không ảnh hưởng: công ty thủy điện Trung Sơn thường xuyên thông báo cho hai nhà máy đang thi công Gần như không có hộ nào sử dụng đường sông Cộng đồng nhận được thông tin về các tuyến giao thông thay thế bằng đường bộ.

Lưu lượng nước từ sông Luồng đủ để duy trì giao thông đường sông Không xác định

Không xác định

Nguy cơ sạt lở bờ sông

Tác động tiềm năng

7 hộ gia đình sống dọc bờ sông phía bên trái dễ bị sạt lở Không có sạt lở trong thời gian tích nước

Hệ sinh thái thủy sinh sông

Hệ sinh thái sông và ven sông

Hệ sinh thái thủy sinh sông Không thấy có tác động

Tác động thực tế Tác động tiềm năng Tác động thực tế

Hệ sinh thái thủy sinh sông TSHPCo chi trả cho việc cứu hộ cá và các chuyên gia tư vấn giám sát quần thể cá.

61

C.

Đặc biệt chú ý đến truyền thông trong thời gian tích nước

103. Kế hoạch truyền thông đã được chuẩn bị và thực hiện đầy đủ. Các hoạt động bao phủ tất cả các bên liên quan như: chính quyền địa phương, doanh nghiệp - từ các dự án thủy điện khác đến các cơ sở kinh doanh cá nhân và những người sống trong phạm vi có nguy cơ. Kế hoạch này đã được lập với một lịch trình chi tiết và xác định trước các phương tiện truyền thông (Bảng 12). Khi đến gần thời điểm tích nước, dự án thường xuyên liên lạc với các trưởng bản để thúc đẩy các hoạt động truyền thông trong bản và tiếp nhận phản hồi từ người dân. Trưởng bản đóng vai trò tích cực trong việc thông báo thời gian tích nước trong các cuộc họp thôn bản, tiếp nhận phản hồi từ người dân địa phương và chuyển tải những phản hồi này đến đơn vị thực hiện dự án. Các phản hồi đều được ghi lại và chuyển đến ban quản lý dự án. Cán bộ dự án được trang bị cuốn cẩm nang truyền thông khủng hoảng. TSHPCo cũng giám sát chặt chẽ các tin tức trên phương tiện truyền thông đại chúng và phương tiện truyền thông xã hội trong giai đoạn tích nước.

BẢNG 12. Kế hoạch truyền thông của dự án thủy điện Trung Sơn về việc tích nước

Hình thức Công văn

Thời điểm Hoạt động 15 ngày trước khi tích nước

Công văn

TSHPCo thông báo tới UNBD các tỉnh và các xã dự án về việc tích nước và đề nghị hỗ trợ. TSHPCo thông báo tới trường học, các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh có nguy cơ bị ảnh hưởng (các dự án thủy điện khác, khai thác cát, sản xuất đũa) TSHPCo cung cấp thông tin thông qua đường dây nóng của trưởng bản, và trưởng bản trao đổi lại với người dân

Đối tượng Chính quyền địa phương Trường học, doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh tư nhân Trưởng bản, Người dân địa phương

TSHPCo thông báo tới chính quyền địa phương về việc xả nước trở lại, và nhắc lại hai lần TSHPCo thông báo tới thông tin tương tự tới trường học và các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh

5 ngày, 3 ngày và 1 ngày trước khi xả nước trở lại

Đường dây nóng, họp thôn, tờ rơi, loa phóng thanh Công văn Điện thoại Công văn Điện thoại Thư điện tử

Điện thoại

Chính quyền địa phương Trường học, doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh tư nhân Trưởng bản

TSHPCo duy trì trao đổi với các trưởng bản để nắm tình hình tại địa phương TSHPCo trả các câu hỏi qua đường dây nóng

Tất cả

Tất cả

Thường xuyên cho tới khi giai đoạn tích nước kết thúc

Tất cả

TSHPCo cập nhật thông tin trên trang thông tin điện tử TSHPCo theo dõi truyền thông đại chúng và truyền thông xã hội.

Đường dây nóng Trang thông tin điện tử Thông tin đại chúng

62

104. Kế hoạch truyền thông được kết hợp với các thông tin chính thức về kế hoạch tích nước ESMP tới các khu vực nằm trong phạm vi có nguy cơ bị ảnh hưởng, và ở cấp quốc gia, trước và sau thời gian tích nước. TSHPCo đã trình bản kế hoạch lên Bộ Tài nguyên và Môi trường và các sở Tài nguyên và Môi trường ở hai tỉnh trong phạm vi ảnh hưởng (Thanh Hóa và Hòa Bình). Bốn ngày sau, bản kế hoạch được thông báo tới từng xã ở khu vực hạ lưu, từ đập thủy điện đến nhà máy thủy điện Bá Thước 2. TSHPCo cũng chia sẻ các thông tin cập nhật thường xuyên về việc tích nước trên trang thông tin điện tử của mình. Hai tháng sau thời điểm tích nước, khi hoàn thành các biện pháp giảm thiểu, TSHPCo đã thông báo tóm tắt cho Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) về tiến độ của dự án và về kết quả thực hiện kế hoạch ESMP trong giai đoạn tích nước.

D.

Tóm tắt

105. Một kết quả từ hàng loạt các hành động là sự an toàn được đảm bảo trong toàn bộ khu vực hạ lưu. Điều này cũng phản ánh sự linh hoạt trong cách thức giải quyết các tác động xã hội cho dù có sự thay đổi cập nhật trong thiết kế kỹ thuật. Bồi thường tài chính chỉ là giải pháp đối với các tác động thực tế. Thời điểm tích nước chỉ bị trì hoãn ba tháng. TSHPCo đã xác nhận tầm quan trọng của truyền thông chủ động với một loạt các bên liên quan và tạo quan hệ cộng đồng chặt chẽ.

BẢNG 13. Quản lý rủi ro khi tích nước: Tóm tắt kinh nghiệm từ dự án Trung Sơn

Tích nước lòng hồ: Ba lĩnh vực thực hành tốt của dự án Trung Sơn • Đánh giá lại rủi ro và tác động của việc tích nước dựa trên thiết kế kỹ thuật cập nhật • Chuẩn bị và thực hiện giảm thiểu đồng thời rủi ro và tác động môi trường và xã hội • Đặc biệt chú ý đến truyền thông và thông tin liên lạc trong thời gian tích nước Các bên tham gia chính • Ban quản lý dự án • Ngân hàng Thế giới • Sở Tài nguyên và Môi trường 2 tỉnh (Hòa Bình và Thanh Hóa) • Ủy ban nhân dân huyện, xã, trưởng bản • Người dân bị ảnh hưởng, trường học trong khu vực dự án • Các dự án thủy điện ở hạ lưu Những trở ngại chính • Thay đổi thiết kế kỹ thuật. Do đó, các rủi ro tác động ở hạ lưu đã thay đổi. • Khu vực có nguy cơ bị ảnh hưởng ở hạ lưu rất rộng. • Giai đoạn tích nước cũng là một thời gian căng thẳng cho các cộng đồng xung quanh hồ chứa. Quá trình ra quyết định • Bổ sung tác động xuôi dòng trong kế hoạch ESMP ban đầu của dự án thủy điện Trung Sơn. • Chuẩn bị một kế hoạch ESMP cụ thể cho việc tích nước thông qua thực hiện các cuộc tham vấn và

khảo sát bổ sung.

• Thiết lập một đường dây nóng để liên lạc với các trưởng bản. • Gửi bản kế hoạch ESMP cụ thể đến Bộ Tài nguyên và Môi trường, các sở Tài nguyên và Môi trường trực

thuộc tỉnh và các xã ở khu vực hạ lưu nằm trong phạm vi rủi ro.

• Gửi công văn 15 ngày trước khi tích nước, xác nhận rằng dự án sẽ hỗ trợ tài chính cho các hoạt động đánh bắt bị ảnh hưởng, vận chuyển đường sông và các nhóm dễ bị tổn thương, và tiếp nhận phản hồi.

• Đồng thời cung cấp các khoản trợ cấp giảm thiểu tác động của dự án và giám sát các khu vực hạ lưu

cho đến khi kết thúc giai đoạn tích nước.

63

BẢNG 13. Quản lý rủi ro khi tích nước: Tóm tắt kinh nghiệm từ dự án Trung Sơn (tiếp theo)

Các mốc thời gian dự án

64

Quan tâm tới văn hóa bản địa và sự tham gia của phụ nữ

65

A.

Đảm bảo sự tôn trọng đối với các nền văn hóa dân tộc thiểu số trong suốt quá trình thực hiện dự án

Rủi ro tác động đến các cộng đồng dân tộc thiểu số trong quá trình xây dựng đập 106. thủy điện và sau khi hoàn thành hồ chứa đã được xác định ngay từ trong giai đoạn chuẩn bị dự án. Những rủi ro này được ghi nhận trong Kế hoạch Phát triển Dân tộc thiểu số. Tài liệu này xác định nguyên tắc tôn trọng đối với đặc điểm văn hóa, nguyện vọng và nhu cầu phát triển mang tính điển hình của cộng đồng dân tộc thiểu số ở khu vực dự án Trung Sơn và xác định các biện pháp thực hiện theo các nguyên tắc này.

107. Dự án xác định một số ít di sản văn hóa vật thể bị ảnh hưởng. Đơn vị thực hiện dự án đã tổ chức di dời khu mộ cổ Huổi Pa và di tích Đá cổ ở bản Nàng 1 là những nơi bị ngập dưới lòng hồ chứa. Hoạt động này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chính thức phê duyệt và các địa điểm mới đã được bàn giao cho các cơ quan có thẩm quyền.10 Mặt khác, hồ chứa không gây ra tác động nào đối với các khu rừng thiêng của cộng đồng dân tộc thiểu số trong khu vực dự án

108. Mặc dù là một trong những nhiệm vụ nhiều thử thách nhất trong các dự án thủy điện ở tất cả các quốc gia, nhưng việc di dời các ngôi mộ bị ảnh hưởng đã được thực hiện một cách hợp lý theo cách thức được cộng đồng chấp nhận. Trong văn hóa của người Thái, cộng đồng chiếm tỷ lệ lớn trong các hộ gia đình ở cả ba huyện bị ảnh hưởng, người đã chết được chôn cất trong các ngôi mộ vĩnh viễn và không được viếng thăm thường xuyên. Di dời mộ thường diễn ra khi có sự thay đổi về sử dụng đất đai, điều này phổ biến ở dân tộc Kinh và cũng là một yêu cầu trong các dự án thủy điện, nhưng việc này lại chưa từng tồn tại trong các cộng đồng bị ảnh hưởng. Quá trình để đạt được thỏa thuận giữa các hộ gia đình bị ảnh hưởng và đơn vị thực hiện dự án phải mất nhiều tháng.

Người Thái tin vào sự sống sau cái chết và tin vào sự bất tử của linh hồn. Các ngôi mộ thuộc về thế giới hư vô nơi tồn tại cả phần ác (các ma thiêng, quỷ dữ do người chết biến thành hoặc có sẵn trong tự nhiên) và phần lành (có tổ tiên). Các ngôi mộ nằm sâu trong rừng. Những người sống không lui tới khu vực này sau khi đã thực hiện xong nghi lễ chôn cất người chết. Phụ nữ Thái ở khu vực Trung Sơn nói rằng mỗi lần có việc phải qua khu rừng có các ngôi mộ chôn ở đó, họ rất sợ hãi, tìm cách tránh xa, hoặc đi đường khác.

Nguồn: Chi tiết về ngôi mộ trong văn hóa Thái có trong Lê Hải Đăng (2016) và Cầm Trọng và Chu Thái Sơn (2016).

HỘP 8. Tín ngưỡng của người Thái

10 Quyết định số 851 / QD-BVHTTDL ngày 24 tháng 3 năm 2015 về việc khai quật khảo cổ. Biên bản hoàn thành và bàn

giao đã được lập vào ngày 29 tháng 2 năm 2016.

109. Truyền thông với các cộng đồng bị ảnh hưởng là chìa khóa để đạt được thỏa thuận về việc di dời mộ, cũng như tổ chức các nghi lễ đi kèm. Khi nhận thức rõ ràng rằng việc triển

66

khai dự án là không thể tránh khỏi, tất cả các bên liên quan đã coi việc di chuyển các ngôi mộ khỏi khu vực bị ảnh hưởng là vấn đề nghiêm trọng. Người Thái kể rằng ban đầu họ bị sốc với đề xuất này. Truyền thông và tham vấn di dời mộ và khu nghĩa trang đã được tổ chức ở từng bản, đặc biệt chú ý lắng nghe ý kiến của người cao tuổi. Một số người bày tỏ mối lo ngại rằng ngôi mộ bị di dời có thể gây ra cho họ sự xui xẻo (gây bệnh cho trẻ em và các thành viên khác trong gia đình). TSHPCo cam kết trang trải không chỉ chi phí di dời mà cả chi phí cho nghi lễ thờ cúng (và/ hoặc các nghi lễ liên quan) trước và sau khi di dời các ngôi mộ bị ảnh hưởng. Ở những bản mà việc đền bù đất/nhà/tài sản chưa được giải quyết, thì việc giải quyết kịp thời các khoản đền bù đã giúp giảm bớt căng thẳng xung quanh việc di dời mộ.

“Từ trước đến nay, ở đây chưa bao giờ bốc mộ. Mình cứ chôn ở đâu thì để ở đó. Mình bốc mộ như thế thì cũng sợ bị mất cái này, mất cái kia. Nhiều cái mình cũng sợ. Không phải luật ở trên này. Người Thái chôn xong là thôi chứ không bao giờ cải. Nếu không bốc đi thì có chỗ bị ngập, có chỗ không bị ngập nhưng lại làm đường đi. Có nhà bị thế này thế kia, có nhà cũng bị ốm” (Thảo luận nhóm, số 2, phụ nữ ở các hộ tái định cư, xã Trung Lý).

“Tuyên truyền mất 3 tháng. Chính điểm xây dựng cầu này là khu vực nghĩa địa, may mà có trưởng bản trẻ nên nhận thức vấn đề có khác. Văn hóa của người Thái là bỏ mả. Nếu mà bốc mả đi thì họ gọi là «đào mả cha mình lên». Khi mà xong khu vực này, các khu vực khác nhìn vào đây họ thay đổi. Họ đồng lòng với mình để di chuyển mộ”. (Phỏng vấn sâu số 25, Cán bộ xã dự án, TSHPCo).

110. Dự án đã đưa ra các phương án để các hộ gia đình bị ảnh hưởng lựa chọn: quyết định di dời và phương thức thực hiện. Phần lớn các hộ gia đình đã chọn cách di dời mộ và đưa đến một nghĩa trang mới. Những người chọn không di dời mộ đã thực hiện một nghi lễ (để thông báo với tổ tiên về địa điểm của khu nghĩa trang mới), và đưa một mảnh đất tượng trưng đến nghĩa trang mới. Đơn vị thực hiện di dời mộ cũng đã tham khảo ý kiến cộng đồng về việc sắp xếp di dời mộ trong thực tế. Hai phương án đã được đề xuất: các hộ gia đình bị ảnh hưởng tự di dời, hoặc thuê nhà thầu thực hiện. Hầu hết các hộ gia đình bị ảnh hưởng đã lựa chọn phương án đầu tiên. Đơn vị thực hiện dự án phối hợp với chính quyền địa phương và chịu trách nhiệm di dời các ngôi mộ vô danh. Trong mọi trường hợp, TSHPCo đều tôn trọng các nghi thức liên quan đến việc di dời mộ, bao gồm cả việc lựa chọn ngày tốt để triển khai.

111. Dự án dành đủ thời gian để xác nhận số lượng ngôi mộ bị ảnh hưởng. Vì người Thái không có phong tục viếng mộ, hầu như họ không thể nhớ vị trí chính xác của các ngôi mộ. Thông thường, các ngôi mộ không có biển để nhận diện hoặc xác định vị trí, và trong một số trường hợp, ngôi mộ chỉ được đánh dấu bằng một hòn đá. Ngoài ra, có những trường hợp người dân khai sai hoặc cùng một ngôi mộ nhưng có nhiều gia đình trong một họ đều khai là của gia đình mình. Do đó, việc xác minh là một nhiệm vụ quan trọng. Sau khi xác định được vị trí các mộ, hộ gia đình lập một danh sách các ngôi mộ cùng với ảnh chụp của ngôi mộ để chính quyền địa phương xem xét và phê duyệt. Danh sách mộ của các hộ gia đình được niêm yết công khai tại địa phương để mọi người cùng xem, nêu ý kiến và đồng tình. Tổng cộng, gần 2.300 ngôi mộ đã được đền bù và di dời. Chín mươi phần trăm các ngôi mộ thuộc địa bàn huyện Quan Hóa (59%) và Vân Hồ (31%).

67

“Dự án phát tờ rơi cho họ. Các gia đình kiểm kê xem có bao nhiêu mộ, họ tên của người mất, và năm mất. Sau đó, họ gửi danh sách kê khai cho hội đồng của xã và cán bộ Trung Sơn xuống kiểm tra trực tiếp. Sau cán bộ dự án kiểm tra xác minh, xã lập danh sách kê khai của các hộ gửi cho huyện. Huyện ra quyết định thẩm định. Căn cứ quyết định đó, dự án đền bù cho người dân tiền di dời mộ lên nơi mới. Trong thời gian họ di dời, chúng tôi giám sát xem họ có bốc không, có di dời lên chỗ mới hay không, trên chỗ mới có bao nhiêu cái. Bây giờ hộ báo có 10 mộ, Trung Sơn vẫn kiểm tra [ở nghĩa trang mới] xem có đủ và đúng hay không” (PVS số 4, Cán bộ dự án thủy điện, TSHPCo).

“Vấn đề này nhạy cảm lắm. Mình làm sao mà biết được là nhà này có mấy mộ, có chôn thật hay không. Đôi khi, đây có thể là cái mộ, hòn đá kia cũng là cái mộ. Nắm đất có thể cũng là tâm linh, là xương, là tro, nên mình cũng phải công nhận vấn đề đấy. Chúng tôi phải mời cả công an vào làm việc cùng. Cũng có người tốt, người xấu. Những người xấu có thể khai tăng” (PVS số 4, Cán bộ huyện, huyện Mường Lát).

112. Việc lựa chọn các điểm đặt khu nghĩa trang mới sẽ không thể thực hiện được nếu dự án không tham vấn ý kiến của người dân địa phương. Những người cao tuổi cũng đóng vai trò trung tâm trong giai đoạn này. Ban đầu, mọi người không đồng ý với vị trí mà dự án đề xuất. Họ được khuyến khích tìm kiếm một địa điểm mới được cộng đồng chấp nhận. Nhiệm vụ này được giao cho một nhóm gồm những người dân trong bản được kính trọng. Tham vấn ý kiến của những người dân khác được thực hiện ngay khi xác định được địa điểm tiềm năng. Sau khi đa số người dân bỏ phiếu cho một địa điểm nhất định, đơn vị thực hiện dự án và chính quyền địa phương tiến hành xác minh và xác nhận địa điểm đó là lựa chọn chính thức. Ví vậy, mỗi khu tái định cư tập trung dành ra hai hecta đất để làm nghĩa trang.

“Đầu tiên dự án cũng chỉ vào chỗ cách đây khoảng 200m nhưng nó lại quá gần, nó sát nhà quá. Nghĩa địa mà sát nhà quá là không được. Họ mới bảo là cái này thôi để cho dân bản tự đi tìm. Việc lên chỗ mới làm mồ mả rất phức tạp vì một bên là đất biên phòng, một bên là đất của bản Ngà, Tân Xuân. Riêng ông đi tìm nghĩa địa 5 lần. Cán bộ không quyết được đâu. Hỏi dân bản mà bảo ừ được thì thế là được”. (PVS số17, nam giới ở hộ bị ảnh hưởng, xã Tân Xuân).

“Ở đó thì ưng rồi. Chỗ đó không ảnh hưởng gì, làm đường cũng không bị ảnh hưởng đến. Trước đây người Thái chôn ở khắp nơi nên nhiều khi mình đi vào rừng phải đi qua cũng e ngại lắm. Bây giờ thì bốc lên đây ổn định rồi. Vị trí này là do dân bản chọn chứ không phải dự án bắt buộc. Dân bản tự họp và chọn vị trí. Cũng hài lòng rồi. Dự án không ép buộc mà để tự chọn theo phong tục” (Thảo luận nhóm số 2, phụ nữ thuộc các hộ bị ảnh ưởng, xã Trung Lý).

68

B.

Quan tâm đồng đều đến nam giới và phụ nữ trong các hộ gia đình bị ảnh hưởng

113. Ngay từ khi mới triển khai, dự án đã quan tâm đến việc tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cuộc họp liên quan đến dự án. Phụ nữ được khuyến khích phát biểu để mọi người lắng nghe và thảo luận về ý kiến của họ. Trong các cuộc tham vấn ở giai đoạn đầu, họ thường giữ im lặng trong các cuộc họp có cả nam và nữ tham gia. So với phụ nữ Thái và phụ nữ Mường, phụ nữ Mông được coi là một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Họ dành nhiều thời gian cho các công việc gia đình hơn, ít liên lạc với những người bên ngoài. Chẳng hạn, họ hiếm khi đến trung tâm huyện, và phần lớn chỉ biết rất ít hoặc không biết tiếng phổ thông.

114. Các cuộc họp ở quy mô nhỏ hơn dành riêng cho phụ nữ được tổ chức giúp họ trở nên tích cực hơn. Trong những buổi tham vấn, dự án sử dụng tối đa ngôn ngữ địa phương. Cách làm này tỏ ra hiệu quả trong việc thu hút phản hồi của phụ nữ và đặc biệt hữu ích trong việc tham vấn về vấn về phục hồi sinh kế sau tái định cư. Dự án sử dụng các thông điệp truyền thông thông qua băng ghi âm để tiếp cận với các nhóm dân tộc Mông dễ bị tổn thương và thông báo cho họ về các tác động và bồi thường của dự án bằng ngôn ngữ của họ. Cách thức này đã được thí điểm thành công và được xác định là hiệu quả về chi phí, phù hợp và có tính sáng tạo.

115. Dự án đã khởi xướng và duy trì việc hợp tác với Hội Phụ nữ huyện để đảm bảo và tối đa hóa sự tham gia của phụ nữ trong các cuộc họp nâng cao nhận thức về rủi ro. Trong giai đoạn đầu chuẩn bị, rủi ro đối với sự an toàn của phụ nữ và thanh niên đã được phân tích. Một lán trại lớn được xây dựng cho công nhân ở trong nhiều năm xây đập, và những con đường mới được mở. Những rủi ro này có khả năng sẽ lớn hơn với cộng đồng dân tộc thiểu số. Dự án tài trợ cho Hội Phụ nữ Huyện tổ chức tập huấn và truyền thông, cho cả cộng đồng và công nhân xây dựng. Tài liệu truyền thông được xây dựng, bao gồm áp phích, đĩa CD, tờ rơi và các tài liệu ghi âm. Các tài liệu tập trung vào nội dung bình đẳng giới, thiên vị giới, và ngăn ngừa sự phân biệt đối xử. Các khóa tập huấn được tổ chức về các chủ đề HIV/AIDS, sức khỏe, an toàn tình dục và phòng chống các bệnh truyền nhiễm. Các khóa tập huấn được tổ chức tại bản (thay vì trung tâm xã như dự kiến ban đầu) để tối đa hóa sự tham gia của phụ nữ. Hội Phụ nữ mời cả các bậc cha mẹ đến tham dự để cung cấp cho họ thông tin về các nguy cơ tiềm ẩn và các biện pháp bảo vệ trẻ em vị thành niên.

“Hai năm đầu mình mời họ đến trụ sở ủy ban xã để mình tập huấn. 4-5 chị thì chỉ có 1 chị được đến thôi, mình thấy hiệu quả không cao. Năm sau, mình cũng nghe ngóng tình hình, nếu mời họ đến thì họ cũng chỉ đến được một ít thôi. Đến năm cuối, chị nghĩ mình trực tiếp xuống bản nào bị ảnh hưởng nặng nhất. Cuối cùng, cả nam và nữ tham gia còn vượt kế hoạch số lượng mình dự kiến”. (PVS số 5, Cán bộ hội phụ nữ huyện, huyện Mường Lát).

116. Trong quá trình tái định cư, sự quan tâm dành cho phụ nữ tập trung vào hai lĩnh vực: giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các khoản thanh toán bồi thường. Luật Đất đai 2013 quy định rằng giấy chứng nhận sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà phải bao gồm tên của cả hai vợ chồng. Giá trị gia tăng thực sự của dự án là tỷ lệ cao phụ nữ tham gia tiếp nhận các khoản bồi thường và các đợt chi trả để xây dựng ngôi nhà mới. Sự khuyến khích này để đảm

69

bảo rằng số tiền dự án đền bù và hỗ trợ cho các hộ gia đình không bị sử dụng cho các mục đích ngoài ý muốn. Điều này đặc biệt quan trọng vì tình trạng làm dụng rượu và nghiện ma túy tồn tại phổ biến ở khu vực Trung Sơn. Thông báo chi trả tiền được gửi cho cả chồng và vợ. Tuy nhiên, ban đầu, phần lớn những người tham gia là nam giới. Bắt đầu từ năm 2015, dự án thúc đẩy mạnh mẽ sự tham gia của phụ nữ vào các buổi chi trả tiền nhà và ký biên lai. Điều này được thực hiện thông qua loa phóng thanh và quá trình huy động của trưởng bản và Hội Phụ nữ. Chữ ký của người vợ được bổ sung trong biên lai chi trả tiền bồi thường. Kết quả là tỷ lệ phụ nữ ký biên lai cho đợt chi trả cuối cùng là 30%, so với chỉ 10% trong đợt chi trả đầu tiên.

Sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động phục hồi sinh kế dần dần tăng lên. 117. Một số tiêu chí liên quan đến giới đã được kết hợp trong thiết kế dự án: ví dụ, 30 phần trăm phụ nữ tham gia các khóa tập huấn, các khóa học dành riêng cho phụ nữ; số lượng phụ nữ tối thiểu trong các nhóm sở thích; số lượng các nhóm sở thích có nữ trưởng nhóm; các hoạt động sinh kế phù hợp với cả nam và nữ. Việc xác định các tiêu chí này khuyến khích sự tham gia sớm của một số phụ nữ trẻ. Các tiêu chí này cũng giúp chỉ ra rằng phụ nữ Thái ở lứa tuổi trung niên là những người có trình độ tiếng Việt hạn chế nên tỷ lệ tham gia của họ khá thấp. Các giải pháp thực tế đã được xác định để giải quyết vấn đề này. Tài liệu tập huấn mới, phù hợp với khả năng đọc và viết của phụ nữ dân tộc thiểu số, đã được xây dựng. Thời gian tập huấn cũng được chọn sao cho phù hợp với thời gian của phụ nữ. Phụ nữ được khuyến khích tham gia vào việc lựa chọn vật tư nông nghiệp do dự án cung cấp.

“Ở xã chúng tôi thì nữ trưởng nhóm sở thích chỉ chiếm khoảng 10%. Các thành viên hay bầu nam vì nam nắm bắt kỹ thuật tốt hơn nữ, nam mạnh dạn nói hơn” (Phỏng vấn sâu số 24, Điều phối viên địa phương ở xã Tân Xuân).

“Nam nữ tham gia các nhóm cũng 50/50. Nhóm nuôi gà, ngan thì nhiều nữ trưởng nhóm hơn, nhóm nuôi lợn, bò, cá lồng thì nam trưởng nhóm nhiều hơn” (Phỏng vấn sâu số 15, Trưởng bản, xã Tân Xuân).

“Gia đình tôi đăng ký nhóm sở thích chăn nuôi theo tên vợ, nhưng khi tập huấn, nếu ai ở nhà thì người đó đi học, rồi về nói lại cho người kia nghe” (Phỏng vấn sâu số 11, nam, hộ thành viên nhóm sở thích gia cầm, xã Trung Sơn).

Kết quả là, tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong các khóa tập huấn về phục hồi sinh kế 118. đạt 30%. Phụ nữ tham gia nhiều hơn trong hợp phần CLIP, như họp tham vấn sinh kế, đăng ký chăn nuôi, cây trồng và vật tư, tập huấn, và chăm sóc trực tiếp cây trồng vật nuôi tại nhà. Trong nhiều trường hợp, người chồng và người vợ cùng đưa ra quyết định trong việc thực hiện các mô hình sinh kế dựa trên các hỗ trợ kỹ thuật mà dự án cung cấp.

C.

Một cơ chế giải quyết khiếu nại cho phép tiếp cận tối đa

119. Cơ chế giải quyết khiếu nại được thiết kế theo quy định bởi luật pháp quốc gia và quy định cụ thể trong dự án. Quy trình chính thức gồm bốn giai đoạn, bắt đầu từ cấp xã và có

70

thể được chuyển lên cấp tỉnh và tòa án cấp huyện nếu người khiếu nại không hài lòng với kết quả nào đó. Với thủ tục này, THSPCo chịu trách nhiệm ghi lại và báo cáo tất cả các phàn nàn/khiếu nại và miễn các khoản phí hành chính và pháp lý cho những người khiếu nại đủ điều kiện. Sự sắp xếp cụ thể trong dự án đề cập đến hội đồng khiếu nại độc lập do TSHPCo thành lập với một đầu mối chuyên trách (nhân viên quan hệ cộng đồng) trong nhóm phụ trách về xã hội và môi trường. Nguyên tắc chính của quy trình thông tin này là giải quyết các khiếu nại và thắc mắc ở cấp độ thấp nhất (trong trường hợp này là cấp thôn bản) và cho phép phản hồi nhanh ngay khi có khiếu nại / câu hỏi được gửi tới. Người khiếu nại luôn có lựa chọn đi theo quy trình chính thức nếu họ không hài lòng với kết quả.

120. Việc triển khai cơ chế khiếu nại trên thực tế bằng cách này hay cách khác đã vượt ra ngoài các quy định nêu trong tài liệu dự án. Ngoài các quy trình chính thức và việc bổ nhiệm cán bộ quan hệ cộng đồng, THSPCo tạo thêm nhiều cách nhận đơn thư qua đó người dân địa phương có thể gửi hoặc đăng ký các câu hỏi/thắc mắc của họ. Trong nhiều trường hợp, dự án thu thập các khiếu nại hoặc câu hỏi từ trưởng bản (người thường trực tiếp trao đổi với người dân địa phương) hoặc từ các cán bộ dự án tại công trường của THSPCo, những người thực hiện công việc giám sát; hoặc từ nhóm môi trường và xã hội - những người mà việc đến thăm các khu vực bị ảnh hưởng là một phần công việc hàng ngày của họ. Do các cán bộ dự án được phân công đảm nhiệm một khu vực dự án cụ thể, nên người dân địa phương có thể liên lạc trực tiếp và thường xuyên theo sát cho đến khi có được trả lời chính thức. Tất cả các khiếu nại đều được ghi lại và chuyển đến chính quyền địa phương (nếu cần) để xử lý và xác minh thêm11.

11 Dự án cũng thiết lập nguồn trực tuyến công khai tại trang web của TSHPCo (https://trungsonhp.vn/khieu-kien-

khieu-nai-lien-quan-den-cong-trinh-va-tai-dinh-cu/#).

121. Kết quả chung của cơ chế giải quyết khiếu nại đã cho thấy thành tựu đầy đủ của các nguyên tắc nêu trên. Trước hết, tất cả các khiếu nại (cho dù tiếp nhận qua bất cứ kênh nào) đều đã được giải quyết ở cấp dự án, với sự tham gia mạnh mẽ của TSHPCo trong quá trình phối hợp với chính quyền địa phương và tham vấn các hộ gia đình liên quan. TSHPCo và các nhà thầu có thể xử lý hiệu quả những câu hỏi, thắc mắc cần xem xét về kỹ thuật (như hiệu chỉnh lô tái định cư). Quyết định chính thức từ UBND cấp huyện là cần thiết cho việc trả lời các câu hỏi /thắc mắc về bồi thường, chính sách tái định cư; do đó, giải trình kỹ thuật do TSHPCo chuẩn bị (dựa trên chính sách dự án, quy định trong nước và yêu cầu của NHTG) là cơ sở cho những quyết định nói trên. Thứ hai, tất cả các khiếu nại đã được giải quyết phù hợp một cách kịp thời. Trong kỳ đánh giá cuối cùng, 82,2% các hộ gia đình được khảo sát cho biết họ hài lòng với việc thực hiện dự án và kết quả của các quy trình xử lý khiếu nại.

71

Kết luận và Viễn cảnh

72

A.

Bài học cho các dự án thủy điện có quy mô tương tự

122. Thực hành tốt về tham vấn, tái định cư, phục hồi sinh kế và phát triển dân tộc thiểu số đã xuất hiện trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án thủy điện Trung Sơn. Chúng đạt được trong một dự án triển khai tại địa bàn xa xôi, với địa bàn khó tiếp cận và các cộng đồng dân tộc thiểu số khác biệt về văn hóa. Trong khi các giải pháp quản lý xã hội thường được thiết kế phù hợp với môi trường kinh tế xã hội của địa phương, bốn lĩnh vực được xác định có liên quan mật thiết với nhau.

Trước hết, các hoạt động tham vấn được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tự do, diễn ra trước, và đầy đủ thông tin; và các nguyên tắc này không thay đổi từ khi chuẩn bị đến khi kết thúc dự án. Do đó, những người thực hiện dự án đã nhận được sự hỗ trợ rộng rãi từ cộng đồng địa phương, dần dần tăng cường sự tham gia của họ và trao quyền cho họ. Những người thực hiện dự án có thể điều chỉnh thiết kế ban đầu để đáp ứng nguyện vọng của cộng đồng bản địa, giảm thiểu tác động của việc di dời và thu hồi đất. Họ cũng làm việc tốt hơn để bảo tồn giá trị văn hóa của các cộng đồng dân tộc thiểu số.

Thứ hai, những nỗ lực trong việc xây dựng các khu tái định cư tập trung là đáng giá. Việc tăng diện tích san nền cho khu dân cư mới, tổ chức hình thức xây dựng nhà bởi chính các hộ tái định cư và quản lý cẩn thận các khoản thanh toán xây nhà đòi hỏi một chuỗi các quyết định diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Những nỗ lực này đã đảm bảo sự tuân thủ các chính sách hiện có của Chính phủ Việt Nam và Ngân hàng Thế giới. Quan trọng hơn, những nỗ lực này đã đóng góp vào sự phát triển bền vững về mặt xã hội xung quanh hồ chứa, và đó là mục tiêu của các chính sách này.

Thứ ba, việc thiết kế một chương trình cải thiện sinh kế độc lập, song song với các khoản thanh toán bồi thường, đã mang lại cơ hội phục hồi sinh kế tốt hơn cho các cộng đồng bị ảnh hưởng. Chương trình cải thiện sinh kế trong dự án Trung Sơn không chỉ là một dự án hỗ trợ sinh kế. Thông qua chương trình này, các cách thức hiệu quả để phát triển sinh kế xung quanh hồ chứa đã được thực hiện thí điểm, xác nhận và chuyển giao cho chính quyền địa phương. Hiện tại, các dịch vụ hỗ trợ sinh kế thuộc trách nhiệm của chính quyền địa phương có điều kiện để tiếp tục triển khai và mở rộng.

Thứ tư, những rủi ro cụ thể đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số và phụ nữ đã được xác định từ giai đoạn chuẩn bị. Dự án đã sớm xây dựng một kế hoạch phát triển dân tộc thiểu số để giải quyết những rủi ro này, dựa trên các nguyên tắc rõ ràng và một số hành động cụ thể. Đây là một công cụ hữu ích dành cho những người thực hiện dự án là những người mà sau đó vẫn cam kết tôn trọng các quyền lợi, đặc điểm văn hóa, nguyện vọng và nhu cầu phát triển của các dân tộc thiểu số địa phương.

73

B.

Hướng tới thực hành tốt trong quản lý rủi ro và tác động xã hội đòi hỏi quy trình quản lý thích ứng kết hợp với các khuyến khích phù hợp

123. Dự án thủy điện Trung Sơn đã chứng minh rằng phương pháp quản lý thích ứng có thể hoạt động hiệu quả trong việc quản lý rủi ro và tác động xã hội. Mặc dù các biện pháp an toàn xã hội đã được chuẩn bị và phê duyệt trong quá trình chuẩn bị dự án, nhưng việc thực hiện kéo dài trong nhiều năm. Do đó, gần như không thể tránh khỏi những thay đổi và thích ứng để đảm bảo đạt được đầy đủ các yêu cầu chính sách và mục tiêu phát triển dự án. Các thay đổi chưa đến mức mà Kế hoạch hành động tái định cư cần phải cập nhật chính thức, nó diễn ra trong quá trình thực hiện dự án và được ghi lại trong các Biên bản ghi nhớ, với sự theo dõi đầy đủ của TSHPCo và Ngân hàng Thế giới. Hình dưới đây minh họa một quy trình quản lý rủi ro và tác động xã hội trong bối cảnh thay đổi.

tiềm tàng

• Xác định các tác động • Tham vấn sớm

• Đánh giá tác động xã hội • Khảo sát kinh tế xã hội • Đánh giá sinh kế • Xây dựng Chương trình Tái định cư và Phát triển Sinh kế • Tham vấn

HÌNH 7. Phương pháp tiếp cận thích ứng đối với quản lý rủi ro và tác động xã hội

Quy hoạch phạm vi

Đánh giá tác động

Hoàn thành

Triển khai Giám sát và Đánh giá

• Đánh giá tác động cuối dự án • Báo cáo kết thúc dự án

tác động, giảm thiểu, thiết kế

• Giám sát độc lập • Ban chuyên gia • Thay đổi thích ứng: • Tham vấn

124. Một số yếu tố có tính xuyên suốt rõ ràng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý thành công các rủi ro và tác động xã hội trong dự án Trung Sơn. Mặc dù có những bài học kinh nghiệm cụ thể từ dự án Trung Sơn liên quan đến tham vấn, tái định cư, phục hồi sinh kế, thích ứng với những thay đổi trong thiết kế kỹ thuật, dân tộc thiểu số và giới, những yếu tố sau đây đã có mặt trong tất cả các chủ đề nêu trên. Chúng có ý nghĩa như là động lực thúc đẩy những người thực hiện dự án xác định như thế nào là thực hành tốt trong bối cảnh dự án, và thực sự triển khai những thực hành tốt đó:

74

Trước tiên, việc tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế là yêu cầu tối thiếu, mở đường cho việc đạt được hiệu quả phát triển. Dự án đã xác định các rủi ro hiện tại và tiềm năng ngay từ đầu. Dự án đã thực hiện một quá trình đo lường, xem xét và phân tích các rủi ro và tác động xã hội trước khi xây dựng các biện pháp giảm thiểu. Ngoài ra, vì theo đuổi các tiêu chuẩn quốc tế là nguyên tắc quản lý trong dự án, bao gồm các rủi ro và tác động xã hội, những người thực hiện dự án đã cân nhắc cẩn trọng và so sánh nhiều lần giữa các lựa chọn (đã được xác định trong các tài liệu chính sách an toàn) và ý nghĩa của chúng đối với cộng đồng địa phương trước khi đưa ra quyết định chính thức trong quá trình thực hiện.

Thứ hai, trách nhiệm xã hội của các nhà đầu tư và nhà thầu đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số đã dần được củng cố. Cam kết mạnh mẽ của EVN và Trung Sơn trong việc thực hiện một dự án đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý rủi ro xã hội đã phản ánh sự thay đổi trong trách nhiệm xã hội của một doanh nghiệp đối với cộng đồng bản địa. Sự thay đổi này không diễn ra ngay lập tức, mà đó là kết quả của quá trình đàm phán và thảo luận kéo dài giữa Ngân hàng Thế giới và EVN, TSHPCo về các chính sách môi trường và xã hội có thể áp dụng cho dự án. Động lực này đã giúp dự án vượt qua những trở ngại và khó khăn trong quá trình thực hiện, đặc biệt là thời gian sửa đổi hiệp định vay và thời gian di dời kịp thời để tích nước.

125. Các bên liên quan của dự án đã có cam kết về việc tôn trọng quyền của cộng đồng địa phương và văn hóa bản địa. Việc tuân thủ hai chính sách an toàn của Ngân hàng Thế giới [Tái định cư không tự nguyện (OP 4.12) và Người bản địa (OP 4.10)] đã mở ra cơ hội cho cộng đồng bản địa cải thiện tình trạng nghèo đói và bảo tồn các đặc điểm văn hóa của nhóm dân tộc thiểu số trong tái định cư, nhà truyền thống, nghi lễ mồ mả và các hoạt động cộng đồng.

Có sự tham gia phối hợp của nhiều bên liên quan để giải quyết các yêu cầu cụ thể, 126. từ đó đảm bảo tiến độ thực hiện và chất lượng xây dựng thủy điện. Nếu thiếu sự phối hợp hài hòa giữa các bên, quá trình ra quyết định có thể sẽ trì hoãn việc theo đuổi các thực hành tốt.

127. Cuối cùng, với những kinh nghiệm ngày càng được vun đắp nhiều hơn, các cộng đồng địa phương đã góp phần vào các quyết định thành công. Cộng đồng đã lên tiếng về những lo ngại và nguyện vọng của họ. Họ ngày càng tích cực tham gia vào các quá trình ra quyết định và trong việc đưa ra định nghĩa về các lựa chọn tốt nhất. Nếu không có những ảnh hưởng của họ, chắc chắn kết quả dự án sẽ không đạt được.

C.

Những câu trả lời và lời kết cho tương lai

128. Làm cách nào để có một giải pháp hai bên cùng có lợi cho các hộ gia đình bị ảnh hưởng và chủ đầu tư dự án? Trong quá trình thực hiện dự án Trung Sơn, TSHPCo đã phải cân bằng giữa việc đáp ứng các yêu cầu từ cộng đồng với việc thực hiện tiến độ dự án, phạm vi trách nhiệm của mình và các chính sách áp dụng. Mặc dù các tài liệu dự án đã cung cấp khung pháp lý cho các quyết định này, trên thực tế vẫn phải thực hiện một số đánh đổi để đảm bảo

75

rằng công trình sẽ hoạt động đúng thời điểm, mà vẫn nhận được sự đồng thuận rộng rãi của người dân địa phương và hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Sự tham gia và tính ổn định của cán bộ dự án có vai trò rất quan trọng để tiếp tục lưu ý đầy đủ tới các tác động xã hội và rủi ro khi đưa ra các quyết định. Giờ đây khi dự án Trung Sơn đã đi vào hoạt động đầy đủ, điều quan trọng không kém là xác định trách nhiệm xã hội của công ty và các phương thức tương tác giữa công ty và chính quyền địa phương.

129. Có thể làm những gì khác để hỗ trợ thay đổi sinh kế? Dự án đã không thể thực hiện đầy đủ một số hoạt động đã được lập kế hoạch từ trước trong kế hoạch phục hồi sinh kế. Khi dự án kết thúc vào tháng 12 năm 2019, người dân tái định cư đã phục hồi hoàn toàn mức sống của họ, nhưng họ vẫn đang trong quá trình điều chỉnh hoạt động sinh kế sao cho thích nghi với khu vực sống mới. Một loạt các hành động đã được đề xuất để bổ sung cho mô hình các nhóm sở thích: tiếp cận tín dụng thông qua quỹ bảo lãnh với ngân hàng; kêu gọi đề xuất kinh doanh nhỏ tại địa phương; hợp đồng sản xuất với doanh nghiệp ở khu vực thành thị; mở cửa thị trường nông nghiệp; mở một trung tâm dịch vụ gần đập thủy điện; tiếp cận của thanh niên với các trường dạy nghề; và sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý tài nguyên đất và tre luồng. Cho đến cuối năm 2019, các nhóm chăn nuôi, cùng với tập huấn và dịch vụ tư vấn cá nhân, vẫn là những hoạt động chính được chào đón rộng rãi. Phạm vi hoạt động của các nhóm phi nông nghiệp còn khiêm tốn do các hộ gia đình không thực sự hào hứng. Cho dù như vậy thì đa dạng hóa các nguồn thu nhập ngoài nông nghiệp sẽ là điều cần thiết trong tương lai. Mặc dù một trong những bài học rút ra từ dự án là thay đổi sinh kế là một quá trình lâu dài, nhưng vẫn còn nhiều điều cần khám phá về những hỗ trợ thay đổi sinh kế xung quanh hồ chứa thông qua các dự án khác, như kinh nghiệm đã từng có ở các dự án thủy điện trên toàn cầu (thủy điện Xiaolangdi ở Trung Quốc, thủy điện Manantali ở Mali, thủy điện Senegal và Mauritania).

130. Có những cơ hội và thách thức nào trong khu vực hồ Trung Sơn? Môi trường kinh tế xã hội đang phát triển nhanh chóng ở khu vực Trung Sơn. Ngày nay, lái xe từ xã Trung Sơn đi Hà Nội mất chưa đến 4 giờ. So với giai đoạn trước dự án, thị trấn Mường Lát đã trở thành một trung tâm có thể dễ dàng tiếp cận và có một số cơ sở tư nhân nhỏ kinh doanh các sản phẩm và đầu vào nông nghiệp. Một số công ty đã bắt đầu phát triển các hoạt động du lịch quy mô nhỏ tại các bản xung quanh hồ chứa, và một số doanh nghiệp nhỏ quan tâm đến các cơ hội mới do hồ chứa mang lại. Điều này có thể trở thành cơ hội khiến các hộ gia đình và cộng đồng tiếp tục điều chỉnh sinh kế của họ, đồng thời chú ý tới các rủi ro liên quan đến văn hóa bản địa và quyền lợi của họ đối với tài nguyên địa phương. Các lựa chọn đáp ứng nguyện vọng của thế hệ trẻ sẽ là nhiệm vụ quan trọng. Một giai đoạn mới đã bắt đầu, không chỉ là hoạt động của một đập thủy điện, mà còn là sự phát triển xã hội bền vững của các cộng đồng vùng cao sống quanh hồ Trung Sơn.

131. Khía cạnh khó nhất của Dự án Thủy điện Trung Sơn là gì? Thực hiện chương trình tái định cư có thể coi là khó nhất trong suốt chu kỳ dự án. Đơn vị thực hiện có thể phải bắt đầu tìm hiểu các vấn đề liên quan đến tái định cư trong nhiều năm trước khi khởi công dự án chính thức. Chương trình tái định có thể kéo dài lâu hơn nhiều so với thời gian thực tế của các hoạt động xây dựng và thời gian hoàn thành dự án. Thêm vào đó, chương trình tái định cư sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều bên liên quan mà lợi ích/mục đích/động lực của họ có thể khác nhau. Do đó,

76

chương trình tái đinh cư cần được thiết kế như một cơ hội phát triển. Nó cần được chấp nhận bởi tất cả các bên liên quan và phải được thực hiện một cách trơn tru. Trong khi các chương trình tái định cư do chính phủ tài trợ thường được thiết kế theo một khuôn mẫu, dự án thủy điện Trung Sơn đã chứng minh rằng chỉ cần dự án đặt các hộ gia đình bị ảnh hưởng ở vị trí trung tâm của các khía cạnh đang được xem xét, dự án hoàn toàn có thể đạt được các kết quả tái định cư thỏa đáng cho các hộ gia đình và cộng đồng bị ảnh hưởng. Một cơ chế quản lý thích ứng cùng với các cam kết mạnh mẽ của các bên liên quan và sự hỗ trợ từ người dân và cộng đồng địa phương giúp cho việc thực hiện dự án thành công. Mức sống của người dân địa phương sẽ được cải thiện một cách bền vững nhờ những động lực tạo ra từ việc thực hiện Chương trình Tái định cư, Sinh kế, và Dân tộc thiểu số.

77

Tài liệu tham khảo

ASEC and Rural Information Center. (2018). Final Evaluation Report: Resettlement Livelihoods and Ethnic Minorities Development Program (RLDP). Trung Son Hydropower Project. Trung Son Hydropower Company.

Binswanger-Mkhize, Hans P., Jacomina P. De Regt, and Stephen Spector. (2009). Scaling up Local and Community Driven Development (LCDD): A real world guide to its theory and practice (English). Washington, DC: World Bank. http://documents.worldbank.org/curated/ en/334991468151478904/Scaling-up-Local-and-Community-Driven-Development- LCDD-a-real-world-guide-to-its-theory-and-practice

Cernea, Michael. (1997a). “The Risk and Reconstruction Model for Resettling Displaced

Populations”. World Development. Vol. 25, No 10, 1569-1587.

Cernea, Michael. (1997b). “Hydropower Dams and Social Impacts: A Sociological Perspective. Social Assessment Series”. Social Development Paper. Paper No 16. Environmentally and Socially Sustainable Development. The World Bank, Washington, DC.

Chu Thai Son (ed.), and Cam Trong. (2016). Thai ethnic culture. People’s Army Publishing House.

Hanoi.

Colson, Elisabeth. (1971). The Social Consequences of Resettlement: The Impact of the Kariba Resettlement Upon the Gweme Tonga. Published on behalf of The Institute for African Studies, University of Zambia by Manchester University Press.

DRCC (2008), Social and economic survey and assessment: Trung Son Hydropower Project, Report of Package XH-01: Technical Assistance (PHRD grant) for preparation of Vietnam Power Nguồn Development Project.

East-Asia Pacific Gender Practice of the World Bank. (2017). Results of Collaboration for Social Inclusion in the Trung Son Hydro Power Project, Vietnam. Available at http://documents. worldbank.org/curated/en/903511496219887678/ Results-of-collaboration-for-social- inclusion-in-the-Trung-Son-Hydro-Power-Project-Vietnam

FAO (Food and Agriculture Organization). (2013). Good practices at FAO: Experience capitalization

for continuous learning. Available at http://www.fao.org/3/a-ap784e.pdf

Gencer, Defne, and Richard Spencer. (2012). New Approaches for Medium-Scale Hydropower Development in Vietnam: Lessons from Preparation of the Trung Son Hydropower Project. The World Bank Group. Washington, DC.

General Statistics Office of Vietnam (2009). Household living standard survey in 2008. Hanoi: Statistical Publishing House. https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=512&idmid=5 &ItemID=9646

78

Hanoi TC Consulting & Center for Development and Integration. (2018). Final Report on CLIP

Implementation. Trung Son Hydropower Project. Trung Son Hydropower Company.

IHA (International Hydropower Association). (2010). Hydropower Sustainability Assessment

Protocol. IHA, London. First publication.

Le Hai Dang (2016). Family rituals of Thai people from transition ritual theory. Viet Nam Social

Sciences, No.3(100).

Mehta, Lyla (ed.). (2009). Displaced by Development: Confronting Marginalization and Gender

Injustice. SAGE Publications India Pvt Ltd. New Dehli.

Nguyen Hong Quang. (2008). Social and economic survey and assessment report. Trung Son

Hydropower Project. Trung Son Hydropower Company.

Onazi, Oche. (2013). Human Rights from Community: A Right-Based Approach to Development.

Edinburgh University Press.

Scudder, Thayer. (2005). The Future of Large Dams: Dealing with Social, Environmental, Institutional

and Political Costs. Routledge.

Tran Thi Minh Luong. (2016). Gender Mainstreaming In Resettlement, Livelihood Restoration and Ethnic Minority Development Program. Trung Son Hydropower Project. Trung Son Hydropower Company.

Trung Son Hydropower Project Management Board. (2011). Resettlement, Livelihood, and Ethnic Minority Development Program (RLDP). Trung Son Hydropower Project. Trung Son Hydropower Company.

World Bank. (2011a). Vietnam - Trung Son Hydropower Project (English). Washington, DC: World http://documents.worldbank.org/curated/en/104781468134093713/Vietnam-

Bank. Trung-Son-Hydropower-Project

World Bank. (2011b), Project Appraisal Document, Trung Son Hydropower Project. Sustainable Development Division, East Asia and Pacific Region. Available online at http://documents. worldbank.org

World Bank. (2004). Involuntary Resettlement Nguồnbook: Planning and Implementation in Development Projects. The World Bank. Washington, DC. Available online at http:// documents.worldbank.org

79

p á h p ế h t ị

v ề v

i

i

.

ó đ

i

i

i

i

ớ g n ê b g n ờ ư đ c á c ề v

i

i

i

i

i

ớ g ế h T g n à h n â g N a ủ c o à n á g h n á đ ỳ k t ấ b ý m à h g n ô h k y à n o á c o á b g n o r t ồ đ n ả b c á c n ê r t n ệ h u ể b c á h k n i t g n ô h t c á c à v

i

n á ự d n à b a ị Đ

ọ g n ê t ,

.

ớ g ế h T g n à h n â g N a ủ c o à n n ậ h n p ấ h c y a h ộ h g n ủ ự s ỳ k t ấ b n ệ h ể h t g n ô h k g n ũ c à v o à n ổ h t h n ã

c ắ s u à m

l

, i

i

1 c ụ

l

i

ớ g n ê b g n ờ ư Đ “

g n ù v ỳ k t ấ b a ủ c ý l

ụ h P

80

p á h p ế h t ị

v ề v

i

i

.

ó đ

i

i

i

i

ớ g n ê b g n ờ ư đ c á c ề v

i

i

i

i

i

ớ g ế h T g n à h n â g N a ủ c o à n á g h n á đ ỳ k t ấ b ý m à h g n ô h k y à n o á c o á b g n o r t ồ đ n ả b c á c n ê r t n ệ h u ể b c á h k n i t g n ô h t c á c à v

i

n á ự d g n o r t g n ộ đ t ạ o h c á c a ủ c n à b a ị Đ

ọ g n ê t ,

.

ớ g ế h T g n à h n â g N a ủ c o à n n ậ h n p ấ h c y a h ộ h g n ủ ự s ỳ k t ấ b n ệ h ể h t g n ô h k g n ũ c à v o à n ổ h t h n ã

c ắ s u à m

l

, i

i

2 c ụ

l

i

ụ h P

ớ g n ê b g n ờ ư Đ “

g n ù v ỳ k t ấ b a ủ c ý l

81

Chú thích ảnh

Bìa 1: Đập thủy điện Trung Sơn nhìn từ lòng hồ (Chụp bởi: TSHPCo)

Phần I: Các chi tiết của đập thủy điện Trung Sơn (Chụp bởi: TSHPCo)

Phần II: Vượt suối thăm cộng đồng bị ảnh hưởng (Chụp bởi: Võ Thanh Sơn/NHTG)

Phần III: Cảnh đường vào duy nhất đến xã Trung Sơn (Chụp bởi: Võ Thanh Sơn/NHTG)

Phần IV: Người dân bị ảnh hưởng bởi dự án tham gia các cuộc họp tham vấn (Chụp bởi: Bồ Thị Hồng Mai/NHTG)

Phần V: Thôn bản khu vực dự án trước khi di dời (Chụp bởi: Võ Thanh Sơn/NHTG) • Trang 29: Cảnh khu tái định cư mới (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/NHTG)

Trang 30: Một ngôi nhà đang trong quá trình xây dựng tại khu tái định cư (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/NHTG)

• Trang 36: Bốc thăm lô tái định cư (Chụp bởi: Nguyễn Trường Chinh /TSHPCo)

Trang 41: Đường thảm nhựa tại khu Tái định cư Thảm tôn (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/ NHTG)

Phần VI: Người dân chẻ Luồng, một nguồn sinh kế quan trọng trong vùng dự án (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/NHTG) •

Trang 46: Hộ gia đình nhận hỗ trợ thiết bị từ chương trình CLIP (Chụp bởi: Erin Gamble/ NHTG)

Trang 49: Thu hoạch lúa, từ hoạt động hỗ trợ sinh kế qua CLIP (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/NHTG)

Trang 53: Hoạt động tạo thu nhập mới tại khu tái định cư (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/ NHTG)

Phần VII: Sông Mã nhìn từ trên cao tại xã Trung Sơn (Chụp bởi: Võ Thanh Sơn/NHTG)

Phần VIII: Người dân mang hoa cỏ dại về làm chổi, một nguồn sinh kế quan trọng ở Trung Son (Chụp bởi: Võ Thanh Sơn/NHTG)

Phần IX: Trẻ em trong bản đi học về (Chụp bởi: Bồ Thị Hồng Mai/NHTG)

Bìa cuối: Khu vực hồ chứa (Chụp bởi: Nguyễn Quý Nghị/NHTG)