intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo: Tổng quan kinh tế Việt Nam từ năm 2012 đến nay và triển vọng tương lai

Chia sẻ: Bão Bão | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

162
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo: Tổng quan kinh tế Việt Nam từ năm 2012 đến nay và triển vọng tương lai trình bày tổng quan kinh tế vĩ mô năm 2012; tổng quan kinh tế vĩ mô 10 tháng đầu năm 2013;...Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo: Tổng quan kinh tế Việt Nam từ năm 2012 đến nay và triển vọng tương lai

  1. TỔNG QUAN KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 2012 ĐẾN NAY VÀ TRIỂN VỌNG TƯƠNG LAI Vũ Thị Kim Xuyến, K14-NHTMI Phạm Văn Hùng, K14-NHTMA Kinh tế thế giới năm 2012 hầu như không có dấu hiệu phục hồi, khủng hoảng nợ công, cùng suy thoái kinh tế tại nhiều nền kinh tế đầu tàu như Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản... không được giải quyết khiến cho tình hình kinh tế - xã hội nước ta cũng phải tiếp tục chịu ảnh hưởng dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn. Tính chung cả châu Á, tăng trưởng GDP nửa đầu năm 2012 giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Những bất lợi từ sự sụt giảm của kinh tế thế giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại; nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể. Bước sang năm 2013, những tháng đầu năm, tình hình kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực hơn, tuy nhiên, hậu quả của cuộc đại suy thoái vẫn còn tiếp diễn đòi hỏi Đảng, Chính phủ cùng các cơ quan chức năng phải vào cuộc một cách quyết liệt hơn nữa nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đáng lo ngại này, vươn lên tăng trưởng và phát triển trong tương lai. Bài viết sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề này. 1. TỔNG QUAN KINH TẾ VĨ MÔ NĂM 2012 1.1. Tăng trưởng kinh tế thấp Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 5,03% so với năm 2011. Đây là mức thấp nhất từ năm 2000. Điều này được lý giải là trong điều kiện của nền kinh tế nước ta trong năm 2012, mục tiêu ưu tiên của chính phủ là kiềm chế lạm phát (tỷ lệ lạm phát 2012 đạt mức thấp 6,81%). Các giải pháp thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát thường có hiệu ứng phụ là tăng trưởng kinh tế bị suy giảm. Đồng thời trong bối cảnh suy giảm chung của kinh tế toàn cầu: 3.8% năm 2011; 3,3% năm 2012 (IMF, 2012) thì tốc độ tăng 5,03% này là chấp nhận được. Đồng thời, mức tăng trưởng thấp nhưng tình hình tăng trưởng lại có kết quả tích cực, thể hiện ở tăng trưởng đã cao lên qua các quý lần lượt là 4,64%, 4,80%, 5,05%, 5,44% và tăng trưởng đạt được ở cả 3 nhóm ngành, trong đó nhóm ngành dịch vụ tăng cao hơn tốc độ chung. Mức tăng trưởng năm 2012 tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011 nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn, cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là hợp lý và thể hiện xu hướng cải thiện qua từng quý, khẳng định tính kịp thời, đúng đắn và 1|Page
  2. hiệu quả của các biện pháp và giải pháp thực hiện của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ. Hình 1.1: Diễn biến tăng trưởng GDP và CPI của Việt Nam 2000-2012 Nguồn: Tổng cục thống kê Các số liệu thống kê cho thấy, năm 2012 có tỷ lệ tăng GDP thấp nhất trong vòng nhiều năm nhưng điều cần nhấn mạnh là sự “không bình thường” trong giai đoạn 2007 đến nay. Theo nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê, những chỉ tiêu liên quan trực tiếp đến tăng trưởng trong thời kỳ 2007-2012 là: Tỷ lệ tăng vốn đầu tư toàn xã hội/GDP luôn ở mức trên 40% (cao nhất năm 2007 đạt 46,5%), tuy nhiên, đến năm 2011-2012 giảm nhanh còn 34,6%. Trong đó, tỷ lệ đầu tư của các khu vực kinh tế nhà nước dao động quanh mức 37 - 38%, khu vực ngoài nhà nước trên 35% và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xoay quanh mức 26% trong khi tỷ lệ tích lũy nội bộ dưới 30%. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng của tổng sản phẩm (GO) xoay quanh mức 11 - 13% và tốc độ tăng giá trị gia tăng (VA) dao động từ 6-8%. Đóng góp của các yếu tố vốn, lao động và nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP tương ứng là 76, 16 và 7%, so với giai đoạn trước đó đã thay đổi theo hướng xấu đi, giai đoạn 2000-2006 số liệu các yếu tố tương ứng là 51, 23 và 26%. Những số liệu nêu trên chỉ ra rằng, trước năm 2007 nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu như: tốc độ phát triển kinh tế tương đối cao (khoảng 7,2%/năm); GDP bình quân đầu người tăng gấp 2 lần năm 2001 (nếu tính giá hiện hành thì khoảng 3,4 lần); thu ngân sách, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng khoảng 4 lần và quan trọng là Việt Nam đã bước đầu thành công trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế hiện tai đang bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt khi có biến động. Thứ nhất, Mặc dù là một trong những nước đang phát triển rất thiếu vốn, nhưng Việt Nam đã và đang duy trì phương thức tăng trưởng dựa chủ yếu vào thâm 2|Page
  3. dụng vốn - yếu tố vốn đóng góp trên 50% tăng trưởng GDP. Trong khi lợi thế lao động trẻ, dồi dào, cùng với nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp cho tăng trưởng vào khoảng 50% còn lại. Ở các nước phát triển, tỷ lệ đóng góp của riêng TFP vào kết quả tăng trưởng thường chiếm tỷ trọng cao hơn, từ 50-60%. Tăng trưởng kinh tế nước ta dựa trên thâm dụng vốn đầu tư là cơ bản. Điều này thể hiện ở chỗ sự tăng trưởng kinh tế những năm qua vẫn theo chiều rộng là chính, dựa trên khai thác nguồn lực sẵn có, nghĩa là dựa trên lợi thế tĩnh, chứa chưa dựa trên khai thác tối ưu lợi thế động. Thứ hai, bất cập trong đầu tư công ở nước ta là tập trung vào đầu tư cho kinh tế rất cao (chiếm 73% tổng vốn đầu tư của Nhà nước) trong khi đầu tư vào các lĩnh vực xã hội có liên quan trực tiếp đến sự phát triển của con người (khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế, cứu trợ xã hội, văn hoá, thể thao…) lại rất thấp và đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Hơn nữa, vì nhiều nguyên nhân, trong đó có tham nhũng, lãng phí làm cho đầu tư công có hiệu quả thấp. Đánh giá của của Ngân hàng Thế giới (WB) thì chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm 10, thì chất lượng nhân lực Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91, Ấn Độ 5,76, Malaysia 5,59, Thái Lan 4,94 điểm. So với các nước trong khu vực, chỉ số kinh tế tri thức của nước ta chưa bằng 1/2 chỉ số đạt được của nhóm nền kinh tế công nghiệp mới (NICs gồm Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hồng Kông) và thấp hơn khá nhiều so với Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và Philippines. Thứ ba, hiệu quả và chất lượng đầu tư thấp (chất lượng tăng trưởng thấp). Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, vùng kinh tế ngày càng dựa nhiều vào vốn FDI, nhưng nguồn vốn này phân bổ không đều, chất lượng chưa cao và cũng chưa có nhiều đóng góp vào chất lượng tăng trưởng. Đầu tư dàn trải, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư thấp, nhất là nguồn vốn đầu tư của Nhà nước, khiến cho chỉ số ICOR của Việt Nam thưởng ở mức cao hơn mặt bằng chung so với các nước đang phát triển khác trong khu vực và trên thế giới. Hình 1.2: Tăng trưởng GDP và hệ số ICOR của Việt Nam giai đoạn 2000-2012 Đơn vị: % Nguồn: Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng 3|Page
  4. Ngoài ra còn nhiều điều chưa hợp lý trong việc sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách. Chi phí đầu tư của khu vực Nhà nước lớn, chất lượng không đạt yêu cầu do thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và vốn ODA cũng là một trong số những nguyên nhân khiến cho tăng trưởng kinh tế còn ở mức hạn chế. 1.2. Lạm phát được kiềm chế Việc kiềm chế lạm phát ở mức thấp có thể được xem là một trong những điểm sáng của tình hình kinh tế vĩ mô năm 2012. Lạm phát trong suốt giai đoạn 2002-2012 cho thấy một xu hướng đi lên đặc biệt là đạt đỉnh vào các năm 2008 (19.89%) và năm 2011 (18.13%), nhưng năm 2012, con số này đã được kiềm chế ở mức 6,81%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12/2012 tăng 0.27% so tháng trước và tăng 6.81% so với tháng 12/2011. Nhìn vào số liệu thống kê có thể thấy chỉ số CPI có sự suy giảm rõ rệt nhưng những biến động của chỉ số CPI trong năm có nhiều biến động. Trong đó, với quyền số lớn nhất, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống với mức tăng cả năm là 5.78% cũng đóng góp đáng kể 2.3% vào mức tăng chung 6.81%. Hình 1.3: Diễn biến tốc độ tăng CPI các tháng năm 2012 Nguồn: Tổng cục Thống kê/Gafin Như vậy trong năm 2012, lạm phát đã được kiềm chế (ở mức 6.81%) trong mục tiêu cho phép (yêu cầu của Quốc hội là dưới 7%). Đây được xem là kết quả của chính sách tiền tệ thắt chặt kể từ đầu năm 2011 theo Nghị quyết 11 của Chính phủ cũng như việc tái khẳng định ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát theo Nghị quyết 01/2012/NQ- CP hồi đầu năm 2012. 1.3. Cán cân thương mại thặng dư, cán cân thanh toán được cải thiện Cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2012 đã biến chuyển theo hướng tích cực: từ bị thâm hụt trong 2 năm 2009 (-8,4 tỷ USD), 2010 (-1,7 tỷ USD) sang thặng dư 4|Page
  5. trong năm 2011 (2,5 tỷ USD) và tiếp tục thặng dư trong các quý năm 2012, quý I: 4,28 tỷ USD; quý II: 2,17 tỷ USD; quý III: 4,2 tỷ USD. Đây là sự chuyển dịch vị thế quan trọng, góp phần làm tăng sức mạnh tài chính quốc gia, chống lại kỳ vọng về biến động tỷ giá, kỳ vọng lạm phát. Có thể nhận định một số nguyên nhân góp phần tạo nên sự cải thiện cán cân thanh toán tổng thể là: Thứ nhất, và quan trọng nhất là chính sách điều hành: (i) Đầu tháng 2/2011, NHNN tuyên bố mức phá giá cao nhất trong lịch sử (9,3%), nâng tỷ giá chính thức lên 20.693 USD/VND và giảm biên độ xuống còn +/-1%; (ii) trong năm 2012, Thống đốc NHNN đã cam kết giữ tỷ giá biến động không quá 3% và liên tục can thiệp để ổn định tỷ giá tạo niềm tin cho công chúng. Những việc này đã đưa tỷ giá danh nghĩa về gần với giá thị trường hơn và tạo điều kiện giảm biến động tỷ giá, giảm kỳ vọng tăng tỷ giá, từ đó thu hút được lượng ngoại tệ mà cá nhân và DN nắm giữ, góp phần hạn chế tình trạng đô la hóa và tăng dự trữ ngoại hối. Thứ hai, những cải thiện trong các khoản mục của cán cân thanh toán: (i) Thương mại hàng hóa, dịch vụ nhập siêu giảm kỷ lục; (ii) giải ngân vốn đầu tư nước ngoài vẫn duy trì mức cao đạt 10,46 tỷ USD, thấp không đáng kể so với năm 2011, 11 tỷ USD; (iii) giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức đạt mức kỷ lục từ trước đến nay. Thứ ba, tình hình kinh tế khó khăn, tồn kho tăng, các DN mà đặc biệt là các DN trong nước chỉ sản xuất cầm chừng dẫn đến kim ngạch nhập khẩu giảm và đây là lý do chính tạo ra xuất siêu hàng hóa trong năm 2012. Năm 2012 là năm đầu tiên trong vòng 20 năm trở lại đây nước ta có cán cân thương mại thặng dư. Tính chung cả năm 2012, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011. Tăng trưởng của xuất khẩu vượt kế hoạch đề ra nhưng chủ yếu dựa vào khu vực có vốn đầu tư nước ngoài -72,3 tỷ USD, khu vực kinh tế trong nước đạt 42,3 tỷ USD. Tuy nhiên, mức thặng dư này chủ yếu đến từ xuất khẩu hàng hóa, trong khi, Việt Nam vẫn ở trong tình trạng nhập khẩu dịch vụ như những năm trước. Kim ngạch dịch vụ xuất khẩu năm 2012 ước tính đạt 9,4 tỷ USD, tăng 6,3% so với năm 2011. Kim ngạch dịch vụ nhập khẩu năm 2012 ước tính đạt 12,5 tỷ USD. Nhập siêu dịch vụ năm 2012 là 3,1 tỷ USD, tăng 3,8% so với năm 2011 và bằng 32,8% kim ngạch dịch vụ xuất khẩu năm 2012. Xu hướng nhập siêu dịch vụ ngày càng tăng vì ngày càng có nhiều người dân trong nước sử dụng dịch vụ y tế, du lịch, giáo dục nước ngoài, con số này ước tính 1-1,5 tỷ USD mỗi năm (Hoài Ngân, 2013). Cán cân thương mại thặng dư, nhưng sự thặng dư này là chưa vững chắc do có một phần nhu cầu đầu tư, sản xuất, tiêu dùng trong nước bị chững lại; thâm hụt cán cân dịch vụ còn cao do Việt Nam chưa đảm bảo cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, vận tải có chất lượng cao. Đáng quan ngại nhất là cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nông sản và tài nguyên nên Việt Nam phụ thuộc nhiều vào biến động giá, các 5|Page
  6. mặt hàng gia công, giá trị gia tăng không cao. Thêm vào đó, xuất siêu năm 2012 phụ thuộc hoàn toàn vào khối DN FDI trong khi lượng vốn FDI đăng ký đang có xu hướng giảm dần. Do vậy, rất khó để kì vọng cán cân thanh toán của Việt Nam sẽ tiếp tục thặng dư một cách ổn định. 1.4. Bội chi ngân sách và vấn đề nợ công Theo kinh nghiệm quốc tế, trong điều kiện bình thường tỷ lệ thâm hụt ngân sách ở mức 3% là đáng lo ngại, ở mức 5 % là đáng báo động. Trong khi đó thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn dao động quanh mức 5%. Điều này hàm ý rằng chính phủ cần có biện pháp để sớm khắc phục tình trạng này. Bên cạnh đó, tốc độ tăng thâm hụt ngân sách cao, thường ở mức từ 17% đến 18%/năm. Theo các chuyên gia của IMF, đây là mức thâm hụt lớn và không bền vững. Bảng 1.1: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2001-2012 (%GDP) Năm MoF1 MoF2 IMF ADB 2001 -3.8 -3.5 2002 -3.3 -2.3 2003 -4.9 -1.8 -4.8 -2.2 2004 -4.9 -1.1 -1.2 0.2 2005 -4.9 -0.9 -3.3 -1.1 2006 -5 -1.8 -0.2 1.3 2007 -5.7 -1.8 -2.5 -1.1 2008 -4.6 -3.7 -1.2 0.7 2009 -6.9 -2.8 -0.9 -6.6 2010 -5.6 -2.1 -5.7 2011 -4.9 -3.1 2012 -4.8 Nguồn: Tổng hợp từ MoF, IMF và ADB Bội chi ngân sách Nhà nước ước đạt 140.2 nghìn tỷ đồng, trong đó, thu vượt kế hoạch 2.690 tỷ đồng, và chi thực tế cũng vượt kế hoạch với con số tương tự. Điều này làm cho bội chị ngân sách thực tế đúng kế hoạch bội chi cả năm đã được Quốc hội phê duyệt từ đầu năm. Năm 2012, Chính phủ đã sử dụng các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN cùng hàng loạt các biện pháp cải thiện và chống thất thu NSNN cũng được triển khai như: cải cách thủ tục hành chính; thường xuyên đôn đốc kịp thời người nộp thuế; tích cực thanh tra, kiểm tra thuế; chống gian lận thuế, nhất là chống chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI… Hàng loạt giải pháp nói trên đã mang lại kết quả tích cực cho thu NSNN năm 2012. Tính đến 31/12/2012, tổng thu NSNN cả nước đạt 765.590 tỷ đồng, 6|Page
  7. tức vượt 2.690 tỷ đồng so với dự toán kế hoạch là 740.500 tỷ đồng. Thu từ dầu thô ước đạt 128.7% so với dự toán - tăng 1.6% so với thực hiện năm 2011, đạt khoảng 112.000 tỷ đồng. Thu NSNN từ các hoạt động sản xuất kinh doanh nội địa ước đạt 467.200 tỷ đồng, đạt 96,4 % dự toán và tăng 10,7 % so với số thực hiện năm 2011. Tuy nhiên, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu theo ước tính chỉ đạt khoảng 82 % dự toán và thu từ đất đai ước tính chỉ đạt hơn 65 % dự toán thu. Số thu này cũng phản ánh đúng tình trạng kinh tế năm 2012. Tình trạng “đóng băng” của thị trường bất động sản đã tác động mạnh đến thu NSNN từ đất đai, đặc biệt là thu ở các địa phương có số thu từ đất đai lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Hầu hết các địa phương đều không đạt dự toán thu NSNN từ đất như Đà Nẵng năm 2012 chỉ đạt 37,1% dự toán thu từ đất. Để bù đắp bội chi Việt Nam buộc phải vay trong nước và vay nước ngoài. Do số nợ vay được sử dụng vào những mục đích không sinh lợi nên toàn bộ số chi trả nợ gốc phải trông vào phát hành nợ mới, đặc biệt là vay trong nước và ngân sách nhà nước Việt Nam đang đứng trước “vòng xoáy” nợ nần với qui mô nợ Chính phủ ngày càng lớn. Thâm hụt ngân sách tăng dẫn đến nợ công tăng. 2. TỔNG QUAN KINH TẾ VĨ MÔ 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2013 2.1. Tăng trưởng kinh tế dưới mức tiềm năng Báo cáo về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội 10 tháng đầu năm 2013 của Chính phủ cho biết, trong quý III, GDP của Việt Nam tăng trưởng 5,54% so với quý II, góp phần đưa GDP 9 tháng đầu năm 2013 tăng 5,14%, và con số này cao hơn cùng kì năm ngoái (5,1%) (tính theo giá so sánh năm 2010). Nhận định về tình hình tăng trưởng kinh tế đến cuối năm, ngày 22/10, ông Glenn Maguire, chuyên gia, Kinh tế trưởng khu vực châu Á Thái Bình Dương của Ngân hàng ANZ dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2013 của Việt Nam vẫn ở dưới mức tiềm năng, chỉ đạt khoảng 5,1% năm 2013. Mức dự báo này là kém lạc quan nhất so với các dự báo từ phía Việt Nam với mức 5,3%. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, GDP 9 tháng đầu năm 2013 đã tăng 5,14%, điều này có thể khẳng định, dù rằng mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2013 là 5,5% khó đạt được bởi những khó khăn trong các yếu tố nền tảng tạo nên tăng trưởng, nhưng triển vọng mức tăng trưởng 5,3% là hoàn toàn có cơ sở. Tổng cung của nền kinh tế những tháng đầu năm bước đầu đã có những dấu hiệu tích cực, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều thách thức. Hàng tồn kho của doanh nghiệp đã giảm nhưng chậm, cùng với đó là tốc độ tăng nhập khẩu tư liệu lao động sản xuất còn khá khiêm tốn, biểu hiện bằng một số chỉ tiêu như nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng tăng 14,9 tỷ USD, tương ứng 11,4%; sắt thép đạt 5,6 tỷ USD, tăng 10,7%; sản phẩm hóa chất đạt 2,3 tỷ USD, tăng 11%... Ngoài ra, một chỉ số cơ bản đánh giá năng lực sản xuất của các doanh nghiệp là PMI1 đã tăng dần qua các tháng đầu năm (từ 49,1 trong tháng 8 lên 51,5 điểm trong tháng 9). Điều này tạo nên hiệu ứng tốt cho thị trường sản xuất của Việt Nam 7|Page
  8. Hình 2.1: chỉ số PMI ngành sản xuất của Việt Nam từ năm 2012 đến nay Nguồn: HSBC Cùng với sự tăng chậm chạp của tổng cung thì tổng cầu cũng trong trạng thái tương tự, dù đã có sự cải thiện, tuy nhiên, mức cải thiện này còn tương đối yếu. Theo thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ 9 tháng đầu năm 2013 chỉ đạt mức tăng trưởng 12,6% so với cùng kì năm trước (đã loại trừ đi yếu tố lạm phát) so với 22,7% vào năm 2007. Sự tăng trưởng ở mức khiêm tốn của tổng cung và tổng cầu là những nhân tố chính khiến cho tốc độ tăng trưởng GDP những tháng đầu năm 2013 còn ở mức hạn chế. Vì vậy, muốn đạt được mức tăng trưởng 5,5% đã đề ra hồi đầu năm, phải xuất phát từ sự kích thích trong tổng cung và tổng cầu, cần thiết phải có sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ cùng các chính sách kinh tế vĩ mô khác. 2.2. Lạm phát được kiềm chế, chỉ số tăng giá thấp Những tháng đã qua của năm 2013 tiếp tục được đánh giá là giai đoạn thành công của NHNN Việt Nam trong việc kiểm soát lạm phát kể từ sau thành công của năm 2012. Chỉ số giá của các mặt hàng thiết yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong rổ hàng hóa như thực phẩm, dịch vụ ăn uống chỉ tăng trong hai tháng đầu năm, những tháng sau đó, chỉ số này đều giảm. Điều này đã góp phần làm cho lạm phát tính đến tháng 9 chỉ tăng 4,63% so với đầu năm và ổn định hơn so với nhiều năm trở lại đây, biểu hiện qua mức độ phân tán của tốc độ tăng CPI so với giá trị trung bình đạt mức khá ổn định trong 9 tháng/2013, thấp hơn nhiều so với năm 2012 và năm 2011. 8|Page
  9. Hình 2.2: Tỷ lệ lạm phát hàng tháng năm 2011, 2012 và 10 tháng đầu năm 2013 Đơn vị: % Nguồn: Vietnam Economic Times, GSO Lạm phát những tháng đầu năm tăng tương đối cao so với những tháng trước đó (tháng 1 và tháng 2 tăng lần lượt là 1,25% và 1,32%) được nhận định chủ yếu là do xu hướng mùa vụ mà không chịu nhiều tác động từ các yếu tố cơ bản như CSTK hay CSTT. Điều này cũng diễn ra tương tự trong tháng 8 và tháng 9, chỉ số giá tăng cao (0,83% và 1,06%) là do sự thay đổi trong việc điều chỉnh giá hàng hóa cơ bản và dịch vụ công (y tế, giáo dục). Những tháng cuối năm, các yếu tố này đã trở nên thiếu hiệu quả, vì vậy theo dự báo của UBGSTCQG, mức lạm phát những tháng cuối năm 2013 sẽ ở mức thấp, và mục tiêu lạm phát đầu năm là có thể đạt được. Bảng 2.1: Mức độ thay đổi chỉ số giá cả ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh tháng 8 và tháng 9 năm 2013 Chỉ số giá (% thay 13/9/ 2013 so với 13/8/2013 so với 2012 đổi) 13/8/2013 2012 Tổng +1,06 % +6,83 % 16,24 Hà Nội +0,57 % +6,17 % 15,06 TP. Hồ Chí Minh +3,13 % +3,32 % 12,15 Nguồn: Vietnam Economic Times 2.3. Thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối có chuyển biến tích cực Thị trường tiền tệ, ngoại hối những tháng đầu năm 2013 có những cải thiện tích cực, biểu hiện qua một số chỉ tiêu cơ bản: Thứ nhất, thanh khoản của hệ thống tiếp tục được củng cố và hiện khá dồi dào với sự gia tăng mạnh của tốc độ huy động vốn. Điều này khiến cho mặt bằng lãi suất 9|Page
  10. huy động, cho vay và cả liên ngân hàng giảm mạnh xuống mức thấp ngang với thời điểm năm 2006. Bảng 2.2: Diễn biến lãi suất thị trường liên ngân hàng đầu năm 2013 (%/năm) Kì hạn Ngày 2/1/2013 Ngày 28/6/2013 Ngày 18/9/2013 Ngày 21/10/2013 Qua đêm 5,37 1,05 2,41 3,37 1 tuần 6,20 1,2 2,92 3,45 2 tuần 6,83 1,29 3,32 3,68 1 tháng 6,76 3,54 3,82 4,26 3 tháng 7,50 4,58 6,94 5,67 6 tháng 7,00 5,18 5,60 5,72 9 tháng 9,50 10,43 6,50 6,65 Nguồn: NHNN Tính đến tháng 10, lãi suất huy động đã giảm từ 2-3%/năm, lãi suất cho vay giảm 3-5%/năm so với những tháng đầu năm; lãi suất liên ngân hàng mặc dù có thời điểm tăng cao, tuy nhiên, về mặt bằng chung, mức lãi suất vẫn giữ ở mức tương đối ổn định với các kì hạn ngắn (3-4%/năm). Thứ hai, tín dụng đang tăng trưởng thuận lợi. Đầu năm, hoạt động tín dụng tương đối ảm đạm khi cả hai tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng đều là con số âm với lần lượt -1,2% và -0,28%; những con số này báo hiệu một sự giảm sút trong nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế. Tuy nhiên, những tháng sau đó, tăng trưởng tín dụng lại diễn biến theo chiều ngược lại. Tính đến hết quý III, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống đạt 7,89%. Nếu dựa trên tình hình của năm trước đó, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng 10 tháng đầu năm 2012 chỉ đạt 2%, nhưng đến cuối năm vẫn đạt xấp xỉ 9% thì mục tiêu 12% đến cuối năm là một mục tiêu khả quan. Thứ ba, trên thị trường ngoại hối: tỷ giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng khá. Mặc dù có một vài biến động nhỏ mang tính thời vụ và nhất thời nhưng nhìn chung tỷ giá USD/VND của Việt Nam thời gian qua vẫn được giữ ở mức ổn định và có tác động tích cực đến các chỉ tiêu khác như lãi suất, lạm phát, dự trữ ngoại hối... Ngày 28/6/2013, NHNN đã thực hiện điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 21.036 (điều chỉnh tăng 1%) sau hơn 1 năm duy trì mức tỷ giá 20.828. Cùng với đó, NHNN cũng điều chỉnh tỷ giá mua vào USD theo hướng khuyến khích các TCTD bán ngoại tệ cho NHNN nhằm tăng dự trữ ngoại hối (20.850 so với tỷ giá cũ 20.828 và 21.100 so với tỷ giá mới 21.036). Điều này cùng với lượng vốn FDI, ODA chảy vào Việt Nam thời gian qua khiến cho dự trữ ngoại hối tăng từ mức 7 tỷ USD lên mức 28 tỷ USD tính đến tháng 10/2013. Theo dự báo của ngân hàng ANZ, mức dự trữ của Việt Nam sẽ đạt mức 32 tỷ USD vào năm 2014. 10 | P a g e
  11. Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực thì thị trường tiền tệ vẫn còn tồn tại một số những hạn chế cần được khắc phục, cụ thể: (i) sự luân chuyển vốn chưa thực sự thông suốt, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng vẫn còn ở mức cao và chưa có dấu hiệu giảm sút, hàng tồn kho doanh nghiệp lớn; (ii) các thành phần trên thị trường phát triển chưa đồng đều, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước và các định chế tài chính nhỏ, có tỷ lệ nợ xấu cao. Chính điều này đã buộc chính phủ phải can thiệp để tạo sự bất cân xứng trên thị trường, khiến cho quan hệ cung – cầu phần nào bị hạn chế; (iii) thị trường thứ cấp chưa phát triển, đặc biệt là thị trường trái phiếu, và các nghiệp vụ phái sinh; việc đầu tư còn mang tính chất ngắn hạn, đầu cơ và thiếu tính chuyên nghiệp. Những phân tích trên cho thấy, thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối của Việt Nam muốn phát triển cần một sự nỗ lực hơn nữa của Chính phủ, các cơ quan chức năng cũng như sự phối hợp nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại, đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh những chuyển biến tích cực, nhằm tạo ra một môi trường kinh tế ổn định và phát triển. 2.4. Cân đối ngân sách còn gặp nhiều khó khăn Mười tháng đầu năm 2013, NSNN tiếp tục ở trong tình trạng thâm hụt. Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước luỹ kế đến 15/10 đạt 572.1 tỷ đồng , bằng 70,1% dự toán. Nguồn thu ngân sách chủ yếu đến từ hoạt động xuất khẩu dầu thô. Tính đến 15/9, thu từ dầu thô tăng 7,5% so với kế hoạch, nguồn thu này góp phần bù đắp cho sự giảm thu 10% và 13% từ nội địa và thu từ hoạt động xuất - nhập khẩu, tuy nhiên, lượng thu từ dầu thô vẫn còn thấp hơn nhiều so với 103,6% và 116,9% dự toán của cùng kỳ năm 2012 và 2011. Với tình hình đó, UBTCNS nhận định thu ngân sách năm 2013 chỉ đạt 92,2% so với dự toán (hụt thu 63.630 tỷ đồng). Hình 2.3: Tình hình thu, chi ngân sách lũy kế qua các tháng năm 2013 Đơn vị: nghìn tỷ đồng Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ GSO 11 | P a g e
  12. Cùng với tình trạng thâm hụt NSNN, tại cuộc họp Quốc hội ngày 23/10, các thành viên UBTCNS cơ bản nhất trí với việc chính thức nâng trần nợ công lên mức 5,3% GDP từ mức 4,8% trước đó. Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu chi ngân sách vượt thu, Chính phủ đã liên tục phát hành trái phiếu từ đầu năm, khiến cho dư nợ công tính đến 15/10 chiếm 56,2% GDP, tuy nhiên, con số này được nhận định là vẫn ở trong giới hạn an toàn. Đứng trước tình trạng thâm hụt ngân sách, những nguyên nhân chủ yếu được đưa ra là: (i) tăng trưởng kinh tế không đạt kế hoạch, mức tăng của tổng cung-tổng cầu còn yếu khiến các nguồn thu hạn chế, việc nộp thuế của cá nhân, tổ chức còn gặp nhiều khó khăn; (ii) Chính phủ thực hiện các chính sách hỗ trợ như miễn, giảm, giãn thuế; (iii) thất thoát từ các khoản thu còn tiếp diễn; (iv) dự toán thu- chi ngân sách của Chính phủ ở mức khá cao. Chính vì vậy, nhiệm vụ năm 2014 được đặt ra là tiếp tục đầu tư phát triển, hạn chế việc thất thoát ngân sách, đặc biệt là thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo nguồn thu dài hạn và ổn định cho ngân sách. 2.5. Tái cấu cơ cấu đạt được những thành công bước đầu Đề án tái cấu trúc kinh tế Việt Nam được Chính phủ trình ủy ban thường vụ Quốc hội vào ngày 19/4/2012, theo đó, tái cấu trúc bao gồm 3 lĩnh vực chủ đạo là (1) tái cấu trúc đầu tư, mà trước hết là đầu tư công; (2) tái cấu trúc ngân hàng và các tổ chức tài chính; (3) tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là một quá trình lâu dài và phức tạp, cùng với đó là những diễn biến khó lường của nền kinh tế nước ta đã gây ra những tác động không nhỏ đến sự thành công của quá trình này. Tính đến nay, đề án đã thực hiện được hơn một năm, tuy còn nhiều khó khăn và thách thức, nhưng những thành công bước đầu đã phần nào được bộc lộ. Về tái cơ cấu đầu tư, mà trọng tâm là đầu tư công. Chính phủ đã phân bổ nguồn lực một cách tập trung và hiệu quả hơn, chỉ đầu tư vào các dự án quan trọng, cấp thiết và đối ứng cho các dự án ODA. Hạn chế đầu tư vào các dự án dàn trải, kém hiệu quả. Thống kê cho thấy, tỷ trọng vốn đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng từ 61,3% giai đoạn 2006 - 2010 lên 62,6% giai đoạn 2011 - 2013. Về tái cơ cấu tài chính, tín dụng, trọng tâm là các NHTM. NHNN đã đưa ra nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả và an toàn cho hoạt động của các TCTD, cụ thể là các công ty chứng khoán, bảo hiểm; tái cơ cấu thông qua hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng yếu kém. Từ năm 2012 đến nay, nước ta đã giảm 5 tổ chức tín dụng thông qua sáp nhập, hợp nhất, giải thể; rút giấy phép 3 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cổ phần hóa 4 NHTMNN. Chuyển Quỹ Tín dụng Nhân dân Trung ương thành Ngân hàng Hợp tác xã. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã hoàn thiện các quy định về an toàn và tăng cường giám sát, thanh tra hoạt động của các tổ chức tín dụng; tăng cường rà soát, ngăn chặn tình trạng sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng. Đặc biệt, để xử lí nợ xấu, NHNN đã đưa công ty quản lí tài sản của các tổ chức tín dụng VAMC vào hoạt động. Đến nay, VAMC đã mua được 10 nghìn tỷ đồng nợ xấu mà theo đánh giá của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình, nếu không có VAMC, con số nợ xấu đã tăng thêm 10% 12 | P a g e
  13. trong năm 2013. Đó được xem là những kết quả tích cực trong quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng. Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Để thực hiện đề án này, hàng loạt các quy định nhằm nâng cao hiệu quả của các DNNN như: Nghị định 50 về quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng; Nghị định 51 về chế độ tiền lương đối với viên chức quản lý; Nghị định 61 về quy chế giám sát tài chính, đánh giá kết quả hoạt động và công khai thông tin tài chính; Nghị định 71 về đầu tư vốn nhà nước vào DN và quản lý tài chính đối với DNNN và Nghị định 99 về phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN... đã được ban hành. Ngoài ra, hoạt động của các doanh nghiệp tập trung chủ yếu vào những ngành, lĩnh vực then chốt như tư liệu sản xuất, các mặt hàng thiết yếu và quốc phòng, an ninh. Quá trình cổ phần hóa cũng diễn ra tích cực với thành tích giảm số DN 100% vốn nhà nước từ 5.655 DN năm 2011 xuống còn 1.25 DN tính đến nay. Điều đáng nói là khoảng 80% các DNNN hiện nay đang hoạt động có lãi, quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu đối với DNNN tiếp tục được hoàn thiện, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường và yêu cầu hội nhập quốc tế. Ngoài các đề án tái cơ cấu như đã chỉ ra, cơ cấu kinh tế cũng chuyển biến theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp từ 20,6% năm 2010 xuống còn khoảng 19,3% năm 2013. Công nghiệp và xây dựng tập trung vào các ngành có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giá trị gia tăng lớn. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 60,2% năm 2010 lên khoảng 78% năm 2013. Đây là những thành công bước đầu rất đáng khích lệ của quá trình này. Bên cạnh những thành công bước đầu, quá trình tái cơ cấu vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, biểu hiện ở việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đổi mới công nghệ với tốc độ còn chậm, tái cơ cấu DNNN và các TCDN chưa đạt yêu cầu, vốn sử dụng với hiệu quả chưa cao… Tất cả những hạn chế này cần phải được giải quyết một cách nhanh chóng và triệt để nếu muốn quá trình tái cơ cấu thực sự thành công như tinh thần vốn có của nó. 3. TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI 3.1. Triển vọng kinh tế Việt Nam thời gian tới Trên cơ sở nhìn nhận tình hình kinh tế năm 2013 và tính toán dựa trên mô hình kinh tế lượng, Ủy ban giám sát tài chính quốc gia đã đề xuất các chỉ tiêu chủ yếu cho kế hoạch phát triển kinh tế hai năm tiếp theo. Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế năm 2014, 2015 Năm 2014 2015 CPI (%) 7 6,5 GDP (%) 5,6-5,8 6-6,2 13 | P a g e
  14. Tổng vốn đầu tư (%GDP) 30-31 30-31 Tín dụng (%) 15 15 Xuất khẩu (%) 12-14 13-15 Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia Về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo nhận định của nhiều cá nhân và tổ chức có uy tín về kinh tế, triển vọng về tăng trưởng kinh tế Việt Nam không lạc quan như dự báo của UBGSTCQG. Báo cáo kinh tế mới công bố ngày 4/11/2013 của HSBC về triển vọng kinh tế Việt Nam, “kinh tế dường như đã đi qua đáy”. Báo cáo đưa ra nhận định rằng: “trong khi những điều tồi tệ nhất về một nền kinh tế trì trệ dường như đã được vượt qua, tăng trưởng trong ngắn hạn vẫn còn thấp do nhu cầu nội địa còn chậm chạp”. Theo đó, mức tăng trưởng GDP được dự báo cho năm 2014 là 5,4%. Cùng mức tăng trưởng kinh tế dự báo này là dự báo của WB, với mức tăng trưởng 5,4% vào năm 2014. TS.Trần Du Lịch, Ủy viên ban kinh tế thường vụ Quốc hội lại có cái nhìn lạc quan hơn với mức tăng trưởng GDP là 5,5% trong năm tới, và dự báo này trùng khớp với dự báo của ADB. Dù có mức dự báo khác nhau, nhưng tất cả đều có một điểm chung là kinh tế Việt Nam năm 2014 sẽ có một gam màu sáng hơn giai đoạn 2012, 2013. Điều này đem đến một tín hiệu khả quan về kì vọng tăng trưởng kinh tế trong năm tới. Về thu hút FDI. Quý III/2013, chỉ số FDI tăng nhanh, đưa tổng số vốn FDI đăng kí trong 9 tháng đầu năm đạt mức 15 tỉ USD, tăng 36% so với cùng kì năm 2012, trong đó FDI giải ngân cũng tăng 6,4% so với cùng kì năm 2012. Từ đó, các chuyên gia của ngân hàng HSBC thu hút nguồn vốn trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt là vào ngành sản xuất năm 2014 sẽ rất tích cực. Ngoài ra, chỉ số PMI đã tăng lên hơn 51 điểm trong tháng 9 và tháng 10 năm 2013 cho thấy chỉ số này có thể duy trì tốt trong các tháng còn lại của năm 2013 và năm 2014. Về vấn đề lạm phát, nhiều chuyên gia nhận định lạm phát những năm tới sẽ tiếp tục ổn định ở mức 7%/năm. Về lãi suất, tỷ giá. Lãi suất được dự báo là sẽ giữ ở mức phù hợp với lạm phát, và góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Còn về tỷ giá, với chính sách quản lí tỷ giá của NHNN thời gian qua, và sẽ còn tiếp tục trong giai đoạn tới, TGĐ HSBC Việt Nam Sumit Dutta dự báo, tỷ giá liên ngân hàng Việt Nam trong năm 2014 sẽ duy trì ở mức 21.500 VND/USD. Đây được xem là mức tỷ giá phù hợp với sức mua, vừa không gây ra sự biến động lớn đến lạm phát, lãi suất trong nước, vừa thúc đẩy xuất khẩu, duy trì thặng dư cán cân thương mại bền vững. Về thâm hụt ngân sách và vấn đề nợ công. Kinh tế được nhìn nhận lạc quan hơn vào năm 2014 sẽ đem đến nguồn thu lớn hơn trong ngân sách, và vì thế, nguồn thu ngân sách sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, để tiếp tục đầu tư cho phát triển, TS.Trần Du 14 | P a g e
  15. Lịch cho rằng, thâm hụt ngân sách sẽ giữ ở mức 5,3% GDP trong năm 2014 và sẽ giảm trong năm 2015. Chi tiêu cho ngân sách sẽ tập trung vào đầu tư phát triển và trả nợ, đồng thời, chi ngân sách và phát hành trái phiếu Chính phủ sẽ thấp hơn năm 2013 để thúc đẩy tái cấu trúc với giới hạn là 65% GDP. Nhìn chung, triển vọng kinh tế năm 2014 được đánh giá là khá tích cực đối với một nước đang phát triển và đang trong tình trạng suy thoái kéo dài như Việt Nam. Một mặt, nó tạo niềm tin vào sự hồi phục kinh tế trong tương lại, mặt khác, nó cũng tạo áp lực cho các cơ quan chức năng, Chính phủ, Bộ Tài chính, NHNN,… phải đưa ra các biện pháp sáng suốt, hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu và triển vọng kinh tế đó. 3.2. Một số kiến nghị Bên cạnh những điểm sáng, nền kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với một số khó khăn, như quá trình tái cơ cấu diễn ra còn chậm, các tiêu cực của hệ thống ngân hàng, những bất cập trong thu - chi và quản lí nợ công,… đòi hỏi Chính phủ phải có những chính sách và giải pháp hợp lí nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng suy thoái, trì trệ kéo dài hiện nay. Các biện pháp được đề xuất là: Thứ nhất, tiếp tục kiềm chế lạm phát trong đó cần phải khắc phục tác động trễ của những chính sách tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh năm 2013. Yêu cầu các NHTM thực hiện nghiêm túc trần lãi suất huy động, hạ lãi suất cho vay VND, giám sát và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn vay ngân hàng, qua đó giúp doanh nghiệp từng bước vực dậy sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN cần điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, phối hợp với việc kiểm soát thâm hụt ngân sách và chi tiêu công là cơ sở cho việc kiềm chế lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô. Thứ hai, triển khai có hiệu quả đề án tái cơ cấu nền kinh tế trong đó trọng tâm là tái cơ cấu DNNN, NHTM và tái cơ cấu đầu tư công. Tái cơ cấu DNNN là một trong 3 đột phá trong tái cơ cấu nền kinh tế. Tuy đã có rất nhiều những quy định, những văn bản luật, thông tư hướng dẫn được ban hành để triển khai và thúc đẩy quá trình tái cơ cấu DNNN, nhưng theo như nhận định của Ủy ban kinh tế Quốc hội, quá trình này đang diễn ra chậm khi cả năm 2013 mới tiến hành được 25 doanh nghiệp. Việc triển khai thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chưa có tính chiến lược, còn rời rạc, chủ yếu là chuyển giao nội bộ tập đoàn, tổng công ty hoặc giữa các doanh nghiệp nhà nước, chưa tạo ra động lực và áp lực để buộc các doanh nghiệp nhà nước đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp. Vì vậy, thời gian tới, cần thực hiện triệt để các giải pháp theo đúng tinh thần của các thông tư, nghị định, quyết định như QĐ 929, NĐ 50, 51…, cũng như có các giải pháp hiệu quả hơn để thúc đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu, đưa các DNNN đúng nghĩa là các đầu tàu kinh tế của cả nước. 15 | P a g e
  16. Về tái cơ cấu ngân hàng. Tính đến thời điểm này, Ngân hàng Nhà nước đã phê duyệt 08 phương án cơ cấu lại đối với 09 NHTM CP yếu kém. Song song đó là việc thành lập công ty quản lí tài sản VAMC để tập trung xử lí nợ xấu của các ngân hàng và các TCTD. Tuy nhiên, kết quả tái cơ cấu các NHTM CP yếu kém vẫn chưa đáp ứng theo mục tiêu của Đề án tái cơ cấu là tập trung lành mạnh hóa tình trạng tài chính, củng cố năng lực hoạt động của các NHTM, nâng cao trật tự kỷ cương và nguyên tắc thị trường hóa hoạt động ngân hàng. Yêu cầu đặt ra lúc này là thực hiện triệt để quá trình tái cơ cấu. Xử lí nợ xấu của các ngân hàng theo cơ chế tự nguyện - ép buộc, khơi thông dòng chảy tín dụng. Đồng thời, tiếp tục thực hiện các hoạt động mua bán - sáp nhập các ngân hàng yếu kém, đó cũng là một biện pháp hạn chế tình trạng sở hữu chéo còn nhiều nan giải hiện nay. Tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công. Trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nâng cao hiệu quả đầu tư công cũng như tạo cơ hội bình đẳng cho các nguồn vốn khác của xã hội. Kiểm soát chặt chẽ đầu tư công là biện pháp quan trọng giúp giảm thâm hụt ngân sách, tạo điều kiện cho ổn định kinh tế vĩ mô và tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng bền vững trong trung và dài hạn. Đông thời, nâng cao chất lượng và sử dụng vốn có hiệu quả đối với hoạt động đầu tư công từ nguồn trái phiếu chính phủ cần được coi là biện pháp then chốt trong tái cơ cấu đầu tư công. Thứ ba, các chính sách cần tiếp tục hỗ trợ tổng cầu (đầu tư và tiêu dùng) để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục tăng sản lượng sản xuất kích thích kinh tế. Theo đó, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần được quan tâm (không nên thấp dưới 30%GDP) để tạo điều kiện cân đối cung cầu hàng hóa, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô. Ngân hàng thế giới dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới trong hai năm 2014-2015 tương ứng là 3,0% và 3,3%, cao hơn mức 2,2% trong năm 2013. Điều này đem đến một sự kì vọng rằng vốn đầu tư FDI vào Việt Nam sẽ tăng lên nhanh trong thời gian tới. Đầu tư tư nhân trong nước cũng sẽ cải thiện nhờ những giải pháp chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh đã triển khai trong thời gian qua sẽ phát huy tác dụng trong thời gian tới cùng với những chính sách và biện pháp tái cơ cấu nền kinh tế, giúp nền kinh tế hoạt động nhịp nhàng và hiệu quả hơn. Thứ tư, trong trung hạn, các chính sách cần hướng tới việc cải thiện cả cung và cầu của nền kinh tế, nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế. Do đó, việc đẩy nhanh tái cơ cấu kinh tế đóng vai trò quan trọng và cần phải tập trung thực hiện trong vòng 2-3 năm tới để tạo được bước chuyển biến rõ ràng. Bên cạnh đó, xuất khẩu phải giữ vai trò là động lực quan trọng cho tăng trưởng. Tuy nhiên, về mặt dài hạn cần có những giải pháp từng bước cải cách khu vực nông nghiệp, nông thôn, đồng thời hỗ trợ công nghiệp và khu vực doanh nghiệp trong nước, như vậy, kinh tế mới có thể tăng trưởng và phát triển một cách bền vững. Bên cạnh những gam màu tối mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt năm 2012, và những tháng đã qua năm 2013, nền kinh tế cũng có một số điểm sáng đáng khen 16 | P a g e
  17. ngợi như lạm phát được kiềm chế, dự trữ ngoại hối tăng cao, tỷ giá ổn định, cán cân thương mại thặng dư,… chính vì vậy, niềm tin vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thời gian tới sẽ chuyển biến theo hướng tích cực là hoàn toàn có cơ sở. Đồng thời, để cho quá trình ấy thực sự trở nên nhanh chóng và hiệu quả hơn, những chính sách và giải pháp từ phía các cơ quan chức năng, Chính phủ, Quốc hội cùng các cơ quan hữu quan khác là một trong những yêu cầu cần thiết và cấp thiết. Tài liệu tham khảo: 1. Tạp chí Vietnam Economic News, số 41/2013, “Vietnam to register improved growth in 2014”. 2. Tạp chí Vietnam Economic News, số 44/2013, “Inflation control, economic restructuring in 2014, 2015” 3. Hội thảo khoa học Ecna 2010, “Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở Việt Nam”. 4. Nguyễn Quang Thái, “Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2012 và triển vọng 2013” 5. Tạp chí Vietnam Economic Times số 236, tháng 10/2013. 6. Các trang web: Gso.gov.vn; Tapchitaichinh.vn; Baomoi.com; VnEconomy.vn; ecna.gov.vn; dantri.com.vn Chú thích: (1): Purchasing Managers’ Index (PMI) Việt Nam của HSBC là một chỉ số tổng hợp được xây dựng để cho một đánh giá khái quát về hoạt động trong ngành sản xuất và đóng vai trò như một chỉ số hàng đầu cho toàn bộ nền kinh tế. Chỉ số được hình thành từ chỉ số riêng đo lường sự thay đổi về sản lượng, số lượng đơn đặt hàng mới, việc làm, thời gian giao hàng của nhà cung cấp và lưu kho hàng hóa mua. Kết quả chỉ số PMI dưới 50.0 cho thấy nền kinh tế sản xuất nhìn chung giảm sút; trên 50.0 có nghĩa nhìn chung là phát triển. Kết quả chỉ số là 50.0 là không có sự thay đổi. Mức chênh lệch so với 50.0 càng lớn thì tốc độ thay đổi mà chỉ số báo hiệu sẽ càng lớn. 17 | P a g e
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2