BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Báo cáo

"Vốn đầu tư trong ngành Dầu khí"

MỤC LỤC

Phần một: Lời mở đầu ............................................................................ 1

Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy động vốn đầu tư vào

ngành Dầu khí Việt Nam.............................................................................. 5

I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư. ............................................................... 5

1. Khái niệm về đầu tư, đầu tư phát triển................................................. 5

2. Vốn và nguồn vốn ............................................................................. 11

II. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động 1vốn đầu tư vào

ngành dầu khí. ............................................................................................ 17

1.Đặc điểm của ngành dầu khí. ............................................................. 17

2/ Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam

................................................................................................................... 18

Chương II : Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu tư vào ngành Dầu

khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. ............................................................ 20

I/ Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam. ...... 20

1/ Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua. ...... 20

2/ Quy mô và tốc độ huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam. ..... 23

II/ Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt

Nam thời gian qua: ..................................................................................... 25

1./ Những kết quả đạt được: .................................................................. 25

2/ Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển

ngành dầu khí ở nước ta. ............................................................................ 29

Phần ba: Lời kết. ..................................... Error! Bookmark not defined.

Phần một: Lời mở đầu

Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, các nền

kinh tế diễn ra mạnh mẽ, cộng với sự suy thoái kinh tế mang tính toàn cầu,

sau các sự kiện đầy kịch tính ở Mỹ, Nga, Trung Đông, nước ta cũng không

thể thoát khỏi những thách thức đầy gam go như các nước khác trong khu

vực. Tuy vậy, năm 2002 đã khép lại bằng những thành tựu kinh tế_xã hội mà

Việt Nam đã đạt được trong bối cảnh không ít khó khăn thách thức đó. Nền

kinh tế tiếp tục tăng tưởng với tốc độ khá cao, đạt 7,04%, giá trị sản lượng

công nghiệp tăng 14,5%. Việt Nam đã khẳng định mình là một quốc gia ổn

định trên con đường phát triển và hội nhập. Trong thành tựu chung đó có sự

đóng góp quan trọng của ngành Dầu khí Việt Nam.

Một thực tế là, nhiều năm nay, Dầu khí là một trong những ngành đầu tư

hấp dẫn nhất. Kim ngạch xuất khẩu Dầu khí chiếm tỷ trọng đáng kể và đóng

góp quan trọng đối với nền kinh tế nhiều nước .Riêng với ngành Dầu khí

Việt Nam, cơ hội đầu tư có nhiều, nhưng vốn đầu tư còn hạn chế. Thêm vào

đó ta nhận thấy ngành công nghiệp Dầu khí thế giới đang đi vào giai đoạn

đỉnh để bước sang giai đoạn suy tàn, cuộc khủng bố ở Newyork ngày

11.9.2001 đã mang lại những thay đổi to lớn trong bức tranh địa lý_ chính trị

Dầu khí toàn cầu. Và những gì chúng ta đã và đang thấy trong hoạt động

chính trị- quân sự của Mỹ ở Trung Cận Đông phần nào nói lên tầm quan

trọng của năng lượng Dầu khí.

Trước sự quan trọng như vậy của năng lượng Dầu khí, cùng với một tiềm

năng Dầu khí không phải là ít ở Việt Nam, thì vấn đề đầu tư vào phát triển

ngành Dầu khí ở Việt nam là vấn đề đang được quan tâm. Chính vì lẽ đó, mà

trong bài viết này em xin trình bày về tình hình huy động vốn đầu tư vào

phát triển ngành Dầu khí ở Việt Nam, nhằm đánh giá một cách cụ thể hơn

các hoạt động đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, cũng như sự

phát triển ngành Dầu khí nước ta giai đoạn hiện nay, để từ đó có những giải

pháp cụ thể thu hút các nguồn vốn đầu tư vào phát triển ngành Dầu khí. Đưa

ngành Dầu khí phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của đất nước.

Tuy bài viết đã có nhiều cố gắng, song không tránh khỏi những thiếu sót

và còn nhiều hạn chế, em mong sự đóng góp của thầy cô giáo để bài viết

được hoàn thành tốt hơn.

Bài viết được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo, Thạc sỹ:

Trần Mai Hương. Em xin chân thành cảm ơn cô.

Hà Nội: 11.2003.

Nội dung

Chương I: Khái quát chung về đầu tư và vấn đề huy

động vốn đầu tư vào ngành Dầu khí Việt Nam.

Trước khi đi sâu vào nghiên cứu vấn đề “huy động vốn đầu tư cho sự

phát triển ngành Dầu khí”, em xin trình bày những khái niệm cơ bản về đầu

tư, đầu tư cho phát triển và các nguồn vốn cơ bản cần huy động cho công

cuộc đầu tư.

I / Đầu tư và nguồn vốn đầu tư.

1. Khái niệm về đầu tư, đầu tư phát triển

“Đầu tư là thuật ngữ có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ ra”, sự hi

sinh”. Từ đó có thể coi “Đầu tư” là sự bỏ ra, sự hi sinh những cái gì đó ở

hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại cho người đầu tư các kết

quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.

Các nguồn lực bỏ ra có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động,

tài sản vật chất khác. Còn những kết quả đạt được có thể là tăng thêm tài sản

tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm

việc với năng suất lao động và hiệu suất công tác cao hơn trong nền sản xuất

xã hội.

Những kết quả đã đạt được ở trên đây, những kết quả là tài sản vật chất,

tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi

lúc, mọi nơi, đối với cả người bỏ vốn và nền kinh tế. Những 1kết quả này

không chỉ riêng người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng.

Trong hoạt động đầu tư có bao gồm Đầu tư cho tài chính, Đầu tư thương

mại và Đầu tư cho phát triển. Đầu tư vào ngành dầu khí là hoạt động thuộc

thuộc lĩnh vực Đầu tư phát triển.

Vậy Đầu tư cho phát triển là gì?

Đầu tư cho phát triển được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài

chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ nhằm duy trì tiềm

lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh

tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.

* Đặc điểm của đầu tư phát triển:

Khác với các hoạt động đầu tư khác, Đầu tư phát triển có đặc điểm sau:

Hoạt động Đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn, vốn nằm

khế đọng, không vận động suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây chính là cái

giá khá lớn của Đầu tư phát triển.

Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả

của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều thời gian với nhiều biến động

xảy ra.

Thời gian cần huy động đòi hỏi để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với

các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường là lớn và do

đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt (tích cực, tiêu cực) của các yếu tố

không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế …

Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài

nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn

như các công trình nổi tiếng thế giới ( Kim Tự Tháp cổ ở Ai Cập, nhà thờ La

Mã ở Rome, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc, Đền AngcoVat của

Campuchia ). Điều này nói lên giá trị của các thành quả Đầu tư phát triển.

Các thành quả hoạt động Đầu tư phát triển là công trình xây dựng sẽ hoạt

động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng. Do đó các điều kiện về địa lý, địa

hình nơi đầu tư sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như

tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.

Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng

nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện pháp lý của

không gian.

Từ những đặc điểm trên, ta thấy Đầu tư phát triển không những tác động

đến nền kinh tế mà còn tác động đến toàn bộ xã hội. Vì vậy mà Đầu tư phát

triển có những vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội

nói chung.

* Vai trò của Đầu tư phát triển:

Các nhà kinh tế đều cho rằng Đầu tư phát triển là chìa khoá của sự tăng

trưởng. Vai trò này được thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước:

+ Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu:

Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực

mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên

(đường S dịch chuyển sang đường S’), kéo theo sản lượng tiềm năng từ Q1

đến Q2 và do đó giá cả sản phẩm từ P1 đến P2. Sản lượng tăng, giá cả giảm,

cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích

sản xuất hơn nữa sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ,

phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời

sống của mọi thành viên trong xã hội.

P

S

S’

P1

E1

E2

P2

Eo

Po

D’

D

Qo

Q1

Q2

Q

Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24% - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch sang D’) kéo theo lượng cân bằng tăng theo từ Qo đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ Po đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ Eo đến E1. Sự tác động của đầu tư đến cung, cầu được thể hiện qua mô hình sau:

Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:

Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu

và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù

là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là

yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.

+ Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất

nước:

Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên

quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của đất nước ta

hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ

của Việt nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO,

nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới ra làm 7 giai đoạn thì Việt

nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Chúng ta đều biết rằng có hai con

đường cơ bản để có công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập

từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án

đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không

khả thi.

+ Đầu tư và sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế:

Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu có

thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo

ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ.

Đối với các ngành nông – lâm nghiệp, thuỷ hải sản do những hạn chế về

đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là

rất khó khăn. Như vậy chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch

cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng nhanh của toàn bộ

nền kinh tế.

Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về

phát triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát

khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài

nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị của những vùng có khả năng phát triển

nhanh, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.

+ Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển nền kinh tế:

Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ phát

triển ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ 15% - 20% so với GDP,

tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước

Vốn đầu tư

Vốn đầu tư ICOR ICOR = => Mức tăng GDP = Mức tăng GDP

Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu

tư.

Thứ hai: Xét trên giác độ các đơn vị kinh tế của đất nước, Đầu tư phát

triển có những vai trò sau:

+ Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra

đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật

chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà

xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ,

tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn

với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được

tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư.

Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ đang tồn tại, sau một thời

gian hoạt động, các cơ sở vật - chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư

hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa

chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn

hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển

khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, mua sắm

các thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa

là phải đầu tư.

+ Đối với các cơ sở vô vị lợi, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành

sửa chữa lớn định kỳ, các cở sở vật chất - kỹ thuật còn phải thực hiện các chi

phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt

động đầu tư.

Như vậy : Đầu tư có một vai trò vô cùng to lớn đối với toàn bộ sự phát

triển của một quốc gia. Muốn hoạt động đầu tư ta cần có vốn đầu tư. Vậy

vốn là gì? Vốn huy động từ đâu?

2. Vốn và nguồn vốn

* Khái niệm về vốn:

Xét một phương diện tổng quát nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để

chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư kinh tế đáp ứng nhu

cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn

đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài.

Nếu chỉ xét theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng thì vốn đầu tư là

tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh phục vụ, là tiền

tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử

dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo

ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội.

* Các nguồn vốn cơ bản:

Có rât nhiều cách phân chia các nguồn vốn huy động vào hoạt động đầu

tư phát triển kinh tế. ở đây tôi xin đưa ra một cách phân chia nguồn vốn huy

động, mà ta sẽ dựa vào các nguồn này để xem xét vấn đề huy động vốn vào

ngành đầu khí ở phần sau. Đó là cách phân chia nguồn vốn huy động căn cứ

vào quyền sở hữu nguồn vốn. Có 3 nhà sở hữu vốn ở đây là:

+ Sở hữu của nhà nước (bao gồm ODA)

+ Sở hữu của tư nhân (chủ yếu doanh nghiệp tư nhân)

+ Sở hữu của nước ngoài (chủ yếu FDI)

Đối với nguồn vốn thuộc sở hữu của nhà nước bao gồm nguồn vốn của

ngân sách nhà nước (trong đó bao gồm cả nguồn vốn viện trợ phát triển

chính thức – ODA từ các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi

chính phủ thực hiện dưới hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ

không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài, lãi suất thấp và hai nguồn

vốn nữa là nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước.

Nguồn vốn ngân sách nhà nước : Là nguồn chi của ngân sách nhà nước

cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát

triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn này thường được sử dụng cho

các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, hỗ trợ cho

các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước,

chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. Cùng với quá trình

đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng

vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm

1990, vốn tín dụng Đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như

một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991- 2000

nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan

trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ.

Nguồn vốn tín dụng của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm

đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn

vị sử dụng vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư

phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng của

nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách

sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực

tiếp.

Nguồn vốn đầu tư từ Doanh nghiệp nhà nước(DNNN): Được xác định là

thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ

một khối lượng nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết tổng kiểm kê tài

sản và xác định lại giá trị tài sản DNNN tại thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 năm

2000 tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các DNNN là: 173857 tỷ đồng. Mặc dù

vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực

kinh tế nhà nước với sự tham gia của các DNNN vẫn đóng vai trò chủ đạo

trong nền kinh tế nhiều thành phần.

Nguồn vốn thuộc sở hữu của tư nhân: Bao gồm phần tiết kiệm của dân

cư, phần tích luỹ của các DN dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ

bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất

lớn mà chưa được huy động triệt để. Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng

nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái

phiếu của chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc

doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ

đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.

Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn

lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh

nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hàng chục ngàn

doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn hàng chục ngàn tỷ đồng( chỉ

riêng 8 tháng đầu năm 2001có khoảng 11 ngàn doanh nghiệp mới được

thành lập với số vốn 13000 tỷ đồng)

Nguồn vốn đầu tư trực trực tiếp nước ngoài (FDI).

Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với

các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Theo số liệu của

ngân hàng thế giới (WB) trong năm 1999 toàn bộ các nước đang phát triển

chỉ thu hút được 165 tỷ USD vốn FDI, thì chỉ riêng Mỹ đã thu được

mức132,8 tỷ USD.

Nguồn FDI có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác

là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận.

Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi

nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả FDI mang theo

toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào các nước nhận đầu tư vốn nên nó có thể

thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về

kỹ thuật, công nghệ, hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng

cực kỳ to lớn với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.

Đối với Việt Nam, sau hơn 10 năm thực hiện chính sách mở cửa, nguồn

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu

tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng

các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện... Tính từ năm 1988 đến năm

2000 trên phạm vi cả nước đã có 3251 dự án được cấp phép với tổng số vốn

đăng ký là 44587 triệu USD cho đến nay, Việt Nam đã thu hút được 65 quốc

gia và vùng lãnh thổ đưa vốn vào đầu tư.

Đánh giá về tỷ trọng các nguồn vốn so với tổng đầu tư toàn xã hội ta xem

xét qua bảng số liệu sau đây:

Tæng vèn I.Vèn Nhµ n­íc 1. Vèn ng©n s¸ch Nhµ n­íc 2.Vèn tÝn dông 3.Vèn cña c¸c doanh nghiÖp II.Vèn ngoµi quèc doanh III.Vèn ®Çu t­ trùc tiÕp n­íc ngoµi

1998 100 53.97 22.82 10.49 20.66 21.06 24.97

1999 100 61.6 25.02 18.29 18.29 20.21 18.19

2000 100 61.94 23.22 20.48 18.24 19.49 18.57

2001 100 24.7 24.7 14.4 19.3 23.5 18.3

2002 100 22.6 22.6 10.9 18.8 28.8 18.8

Bảng 1: Cơ cấu tổng đầu tư xã hội (% giá hiện hành )

Năm 2002 tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 180,4 nghìn tỷ đồng, đánh giá

mốc cao nhất từ trước tới nay về tỷ lệ tổng vốn đầu tư so với GDP (33,7%).

Đầu tư năm 2002 đã vượt mức 4% mục tiêu kế hoạch đã được quốc hội

thông qua và tăng 10,3% so với năm 2001.

Năm 2002 đầu tư Nhà nước chiếm 52,3% tổng đầu tư xã hội. Năm 2001,

vốn tín dụng của nhà nước ước thực hiện chỉ đạt 83,4% so với mục tiêu kế

hoạch. Nguyên nhân chủ yếu là do vốn hỗ trợ phát triển chính thức( ODA)

được giải ngân đạt 1,58 tỷ USD, chỉ bằng 88% kế hoạch. Đầu tư nhà nước

tuy vẫn là nguồn quan trọng nhất, song đã có xu hướng giảm dần xét trong tỷ

trọng vốn đầu tư xã hội (bảng1). Hơn nữa, mức giảm tỷ trọng vốn đầu tư

ngân sách Nhà nước cho thấy giới hạn của nhà nước trong việc tăng đầu tư

từ ngân sách cả về con số tuyệt đối và tương đối (xét trong tương quan giữa

thu và chi, giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển).

Năm 2002, đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiếp tục tăng

mạnh, đạt 28,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, mức kỷ lục từ trước tới nay.

Mức đóng góp của vốn FDI thực hiện xét theo tỷ trọng trong tổng số vốn

đầu tư toàn xã hội đã có bước sụt giảm đáng kể sau năm 1998 và hầu như

không đổi trong những năm 1999-2000. Xu hướng này còn có thể tiếp tục vì

vốn FDI cam kết cũng đang có xu hướng giảm.

Xu hướng suy giảm FDI diễn ra trong tình hình Việt Nam được xem là

quốc gia ổn định nhất trong khu vực và Việt Nam đã thực hiện nhiêu biện

pháp để cải thiện môi trường cho Đầu tư Nhà nước kể từ năm 2000. Rõ ràng

những nỗ lực vừa qua là chưa đủ hấp dẫn FDI. Những vấn đề đang cản trở

thu hút FDI vẫn được các nhà Đầu tư Nhà nước liệt kê là: quy trình, thủ tục

hành chính rườm rà và tệ nạn tham nhũng, các hệ thống văn bản pháp luật

chưa đồng bộ và thiếu minh bạch, quy chế hai giá và chi phí dịch vụ hạ tầng

hỗ trợ sản xuất kinh doanh đắt đỏ, thuế thu nhập cá nhân quá cao, quy định

về tuyển dụng lao động cứng nhắc, tổ chức xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả.

Nhiều tắc trách, thiếu nhất quán và mâu thuẫn trong xử lý các vấn đề phát

sinh cả đối với FDI và đầu tư.

Các hình thức huy động vốn nói chung:

Hiện nay có rất nhiều hình thức huy động vốn thích hợp trong các điều

kiện nhất định, vì vậy, có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau đối với các

nhu cầu khác nhau về vốn. Ta có thể xem xét các hình thức khá phổ biến

như sau : Huy động vố thông qua ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân

hàng, thị trường chứng khoán, nguồn tín dụng phi chính thức. Ngoài ra hình

thức huy động vốn theo dự án, phát hành trái phiếu công trình đối với các dự

án lớn cũng là phương thức huy động vốn đáng chú ý.

+ Huy động vốn thông qua các tổ chức ngân hàng.

Đây là hình thức huy động vốn phổ biến nhất đối với nhu cầu vốn ngắn

hạn, trung hạn và dài hạn. Tuy nhiên hiện nay huy động vốn trung và dài hạn

qua ngân hàng còn hạn chế, do rất nhiều nguyên nhân. Do đó, bên cạnh

nguồn vốn huy động dưới dạng tín dụng ngân hàng, có thể huy động thêm

vốn của ngân hàng dưới dạng góp vốn ( vốn cổ phần ), theo quyết định mới

đây của ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cách huy động này ngoài tác dụng

đáp ứng nhu cầu về vốn, còn tạo nên sợi dây gắn bó ngân hàng và nhà đầu

tư, do đó giảm bớt độ rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng và tăng

cơ hội vay vốn trung và dài hạn của các nhà đầu tư.

+ Huy động vốn thông qua các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

Các tổ chức tài chính phi ngân hàng ở Việt Nam hiện nay chủ yếu bao

gồm các công ty tài chính và các công ty bảo hiểm hoạt động khá khiêm

tốn,phạm vi hẹp, đối tượng phục vụ có giới hạn. Tuy vậy đây là hình thức

huy động vốn mà các nhà đầu tư bắt đầu quan tâm, do đó cần có những

thông tin phổ biến hơn về các điều kiện huy động vốn từ các tổ chức trên, để

đa dạng hoá nguồn vốn nhằm tăng khả năng đảm bảo nhu cầu về vốn, đồng

thời là tăng tính cạnh tranh giữa các tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng.

Một trong những hình thức huy động qua các công ty tài chính rất đáng quan

tầm là hình thức tín dụng thuê mua. Tuy nhiên,cần xem lại thủ tục và lãi suất

của tín dụng thuê mua để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.

+ Huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán.

Thị trường tài chính thứ cấp ở nước ta còn kém phát triển, mặc dù thị

trường chứng khoán đã hoạt động từ tháng 7 năm 2000, nhưng quy mô hoạt

động còn nhỏ bé, dung lượng giao dịch không đáng kể, hơn nữa phần lớn

mang tính chất thu lợi ngắn hạn. Vì vậy theo em trong tương lai gần khó có

thể coi đây là hình thức huy động vốn nhiều Ưtiĩutytuy vọng. Mặc dù vậy thị

trường tài chính vẫn là một kênh dẫn vốn quan trọng và tạo điều kiện luân

chuyển vốn dễ dàng hơn, đặc biệt có tác động tới hình thức đầu tư dưới dạng

góp vốn.

+ Huy động vốn thông qua hình thức tài trợ theo dự án.

Để tăng nguồn vốn cho các dự án, các nhà đầu tư nên sử dụng rộng rãi

hơn hình thức tài trợ theo dự án, bao gồm phát hành trái phiếu theo các công

trình để huy động vốn. Hình thức này rất có lợi do mang tính độc lập tương

đối đối với các kết quả hoạt động khác các ngành cần vốn lớn, nhưng đã vay

nợ nhiều nên không thể huy động thêm vốn theo cách thông thường. Tuy

nhiên, đây là hình thức đòi hỏi có sự hỗ trợ của các tổ chức tín dụng, đồng

thời phải được chuẩn bị chu đáo để tạo lập uy tín cho dự án và tăng cường

sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài.

+ Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng phi chính thức.

Mặc dù nguồn vốn phi chính thức coi như là nguồn vốn không được kiểm

soát và không được khuyến khích. Tuy vậy không thể phủ nhận một thực tế

là hình thức huy động không chính thức này hiện nay khá hấp dẫn. Điều đó

là do tính đơn giản trong việc huy động vốn, chi phí giao dịch thấp. Đây

cũng là một cách làm rất có hiệu quả để huy động các nguồn vốn đa dạng

còn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư theo hình thức tài trợ trực tiếp.

II. Đặc điểm của ngành dầu khí và vấn đề huy động vốn đầu tư

vào ngành dầu khí.

1.Đặc điểm của ngành dầu khí.

“Dầu khí là thuật ngữ gọi tắt cho “dầu mỏ” và “khí đốt”. Chúng là những

hợp chất hữu cơ tự nhiên. Riêng khí đốt còn gọi là khí tự nhiên. Khí này tồn

tại cùng với dầu thô gọi là “ khí đồng hành”. Dầu khí không chỉ là nhiên liệu

mà còn là nguyên liệu nên nó ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế thế giới.

Khác với than đá, hay các khoáng sản khác, việc thăm dò – khai thác chế

biến phân phối dầu thô đã rất nhanh chóng mang tính toàn cầu. Do đó về mặt

công nghệ, trình độ công nghiệp dầu khí ở tất cả các nước đều gần như nhau,

không phân biệt đó là nước phát triển cao hay lạc hậu.

Ngành dầu khí là ngành công nghiệp bao gồm rất nhiều công đoạn không

những thăm dò, khai thác mà còn phải chế biến từ dầu thô trở thành dầu tinh.

Theo thông lệ, ngành dầu khí được chia là ba nhóm loại hình hoạt động gọi

là thượng nguồn, trung nguồn, và hạ nguồn. Nhóm thượng nguồn gồm các

hoạt động nghiên cứu địa chất, tìm kiếm, thăm dò, khai thác mỏ. Nhóm

trung nguồn gồm các hoạt động tàng trữ vận chuyển, và nhóm hạ nguồn gồm

các hoạt động xử lý, chế biến ( lọc dầu, hoá dầu, hoá khí ) và phân phối. Ba

nhóm này có những đặc điểm riêng nhưng gắn kết với nhau tạo thành một

vòng khép kín của một ngành công nghiệp hoàn chỉnh.

Trong ngành công nghiệp dầu khí để khai thác được một tấn sản phẩm thì

phải mất nhiều năm từ việc thăm dò khai thác, khảo sát địa chất công trình,

thẩm định trữ lượng, đánh giá tiềm năng, phát triển đưa mỏ vào khai thác

cũng phải qua rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó điều kiện địa lý thiên nhiên

ngày càng xấu đi, việc khai thác vận chuyển đòi hỏi chi phí tăng nhanh. Nói

cách khác, đối với ngành dầu mỏ càng khai thác được nhiều thì ngày càng

khó khai thác. Một vấn đề nữa của ngành dầu khí là công nghệ rất hiện đại,

vốn đầu tư cực kỳ lớn, rủi ro cao, lợi nhuận nhiều và tính quốc tế cao. Vì các

đặc điểm đó mà cho đến giữa thế kỷ 20, ngành này hoàn toàn nằm trong tay

các nước phát triển cao, cùng các tập đoàn siêu quốc gia mang tính độc

quyền. Cho nên các quốc gia đang phát triển dù có một tiềm năng lớn về tài

nguyên dầu khí thì vấn đề phát triển dầu khí vẫn còn khó khăn.

2/ Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt Nam

Từ nhiều năm nay dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất.

Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan trọng

đối với nền kinh tế nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, đặc

biệt là trong môi trường thềm lục địa và tiềm năng dầu khí của Việt Nam, cơ

hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư có hạn. Vì vậy vấn đề huy động vốn

đầu tư vào phát triển ngành dầu khí không những phục vụ cho lĩnh vực thăm

dò khai thác dầu thô, mà điều quan trọng nữa là chúng ta cần vốn để trang bị

công nghệ, kiến thức tơi tinh lọc dầu. Khi đó mới hy vọng đất nước đi theo

con đường CNH-HDH mà ngành dầu khí là ngành dẫn đầu.

Nếu đặt nền kinh tế Việt Nam trong quỹ đạo kinh tế thế giới: ta thấy hiện

nay năng lượng và nhiên liệu luôn được coi là đầu tàu cho sự phát triển kinh

tế-xã hội, vậy mà vẫn chưa tìm ra một năng lượng, nhiên liệu nào thay thế

than, dầu khí. Dự báo trong vòng 15 năm tơi tiêu thụ dầu mỏ trên toàn thế

giới sẽ đạt mức cao nhất, khoảng 90-95 triệu thùng/ngày, so với hiện tại là

70-77 triệu thùng. Sau đó sẽ giảm dần vì khai thác giảm đi, giá dầu tăng vọt,

các nước có thể rơi vào khủng hoảng năng lượng. Thực tế là hiện nay, giá

dầu thô tăng kỷ lục. Ngày 14/2/2000, giá dầu trên thị trường NewYork tăng

vượt quá mức giá 30USD/ thùng tại thời điểm này năm 1999. Đây là mức

giá cao nhất kể từ cuộc chiến tranh vùng vịnh 1991. Nguyên nhân khiến cho

giá dầu tăng mạnh là do tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu đã đẩy mạnh nhu

cầu sử dụng dầu thô, đặc biệt là ở châu á và Nhật Bản. Dự báo giá dầu thô

vẫn có thể tăng trong thời gian tới.

Chính vì nhu cầu dầu trên thế giới ngày một tăng lên Việt Nam cần có sự

ưu tiên trong vấn đề khai thác dầu khí, nguồn năng lượng mà thiên nhiên ban

tặng.

Một thực tế ở Việt Nam hiện nay trong vấn đề phát triển ngành dầu mỏ

là: Chúng ta chỉ mới tập trung thăm dò và khai thác dầu khí, còn khâu chế

biến thành dầu tinh hầu như ta chưa có khả năng. Một trong những nguyên

nhân của vấn đề này là ta chưa có nguồn vốn đủ lớn để tập trung công nghệ

và trí tuệ chế biến dầu tinh. Mặt khác nếu chỉ riêng vấn đề khai thác thăm dò

và khai thác chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu vốn, thiếu máy móc

thiết bị. Vì vậy việc huy động vốn vào ngành dầu khí là việc cần thiết.

Chương II : Thực trạng và giải pháp huy động vốn đầu

tư vào ngành Dầu khí ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.

I/ Thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt

Nam.

1/ Tình hình phát triển ngành dầu khí ở Việt Nam những năm qua.

Ngành dầu khí Việt Nam đến nay về cơ bản đã được xây dựng gần hoàn

chỉnh, bao gồm các hoạt động đầu tư thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ

chức được xếp vào ngành này hiện ở Việt Nam là:

Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam) 1.

Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (PetroLimex) 2.

Công ty xăng dầu hàng không (Vinapco) 3.

Công ty dầu khí TPHCM (Saigon Petro) 4.

Công ty dầu khí Hà nội (Hanoi Petro) 5.

Trong các tổ chức kể trên chỉ có tổng công ty dầu khí Việt Nam với tiền

thân của nó là “ Tổng cục dầu khí Việt Nam “ hoạt động trong tất cả các

khâu từ nghiên cứu tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, kinh

doanh dầu thô, khí đốt và sản phẩm dầu khí, dịch vụ dầu khí.

Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ.

Cùng với việc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt

Nam cũng từng bước phát triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp

đèn, sau 27 năm thành lập, Tổng cục dầu khí Việt Nam đã đưa ngành công

nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Theo

thống kê của thế giới, nước ta được xếp hạng thứ 35 từ năm 2001 và năm

2002 được nâng thứ 31 trong danh sách các nước sản xuất dầu khí. Như vậy

trong 27 năm từ khi được thành lập đến nay, ngành dầu khí Việt Nam đã có

những bước phát triển to lớn, là một trong những ngành kinh tế hàng đầu của

đất nước, đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách của quốc gia, phục vụ

Tích cực cho công cuộc phát triển và đổi mới nền kinh tế Việt Nam.

Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam qua các lĩnh

vực như sau:

Về hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí:

“ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát huy

Nội lực, kết hợp tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư về khoa học và

công nghệ của nước ngoài. Hiện nay, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đang

quản lý giám sát và tham gia hoạt động điều hành 19 hợp đồng trong giai

đoạn tìm kiếm thăm dò, nghiên cứu TM và chuẩn bị phát triển.

Bên cạnh đó, PetroVietnam đã triển khai nhiều dự hợp tác nghiên cứu,

Khảo sát khu vực với các công ty dầu khí nước ngoài để đánh giá tiềm năng

dầu khí tổng thể của Việt Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý,

vật lý vùng thềm lục địa Việt Nam... Tổng công ty đã triển khai một số đề án

độc lập đạt kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả năng quản lý và điều hành

của mình.

Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát thu thập được tiềm năng dầu khí của

Việt Nam dự báo có khoảng 3-3,5 tỷ tấn dầu quy đổi. Cho đến nay công tác

tìm kiểm thăm dò khai thác dầu khí mới được thực hiện trên 30% diện tích

vùng biển Việt Nam, phát hiện xác minh khoảng 30-35% trữ lượng báo, đảm

bảo cho khai thác với sản lượng 22-24 triệu tấn quý đầu vào năm 2005.

“ở hoạt động khai thác dầu khí” của Tổng công ty dầu khí Việt Nam

Được duy trì tại 6 mỏ: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, PM3 và

Ruby. Toàn ngành đã đặt mức khai thác 100 triệu tấn dầu vào ngày

13/2/2001. Sản lượng khai thác của xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro năm

2001 đạt 13,46 triệu tấn bằng 105,15% kế hoạch năm.

“Về công nghiệp khí”: Được triển khai tích cực theo quy hoạch tổng thể

Sử dụng khí, nhiều dự án khí sẽ phát huy hiệu quả ngay trong giai đoạn

2001-2005. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng hành vận hành ổn định công Suất cấp khí đạt 4,8-5,3 triệu m3/ ngày. Năm 2001 đã đưa vào bờ trên 1,7 tỷ m3 khí đồng hành. Đề án Nam Côn Sơn chính thức phát động cuối tháng

5/2001, hiện đang được triển khai khẩn trương để hoàn thành công trình vào

cuối năm 2002. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau nhà máy Đạm và

nhà máy Điện Cà Mau đang triển khai các công tác chuẩn bị.

Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Trong điều kiện chưa có được nhà máy

lọc dầu và một liên hợp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Tổng công ty Dầu khí Việt

Nam đã triển khai kế hoạch phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo

hướng nhập nguyên liệu trung gian từ nước ngoài để chế biến và sản xuất

các sản phẩm hoá dầu, sau đó dần dần phát triển và tiến tới chuyển sang sử

dụng nguyên liệu trong nước tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc

dầu đến hoá dầu.

Về các dịch vụ kỹ thuật dầu khí: Trong những năm gần đây, Tổng công

ty Dầu khí Việt Nam đã đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các dịch vụ

kỹ thuật chuyên ngành và dịch vụ phục vụ sinh hoạt hết sức đa dạng với quy

mô từ thấp đến cao, từng bước vươn lên cung cấp các dịch vụ có hàm lượng

công nghệ cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng ra thị trường khu vực và quốc

tế. Mức tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ dầu khí trong giai đoạn 1996-2000

đạt từ 15-20%/năm, doanh số thực hiện khoảng 3000 tỷ đồng.

Về công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ:

Trong nghiên cứu khoa học; giai đoạn 1996-2000 Tổng công ty Dầu khí

Việt Nam đã thực hiện được 150 đề tài. Nhiều đề án trong lĩnh vực nghiên

cứu địa chất, dầu khí, công nghệ trong các lĩnh vực khoan và khai thác, kỹ

thuật an toàn, bảo vệ môi trường...được đánh giá cao.

Đội ngũ cán bộ khoa học, các nhà quản lý, kỹ sư, công nhân lành nghề

của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang tự khẳng định năng lực của mình,

đảm nhiệm hầu hết các khâu quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí.

Tổng số cán bộ công nhân viên ngành dầu khí đến nay khoảng 14000

người, tỷ lệ cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật là khá cao

(chiếm 83%).

2/ Quy mô và tốc độ huy động vốn vào ngành Dầu khí ở Việt Nam.

Từ nhiều năm nay, dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn

nhất. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan

trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác

dầu khí, đặc biệt là trong môi trường thêm lục địa và tiềm năng dầu khí của

Việt Nam cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư của ta có hạn. Tuy vậy,

đến nay vốn đầu tư vào ngành dầu khí đã đạt mức độ đáng kể.

 Ta xem tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác mỏ, cớ cấu nguồn vốn

thuộc khu vực Nhà nước và nguồn vốn không thuộc khu vực Nhà nước ( bao

gồm vốn khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài).

Qua bảng số liệu các năm sau:

Bảng 2:

(Nguồn niên giám thống kê 2001).

Năm Tổng vốn đầu tư Vốn thuộc khu Vốn ngoài quốc

vực Nhà nước doanh

Tỷ Cơ Tỷ Cơ Tỷ Cơ

đồng cấu(%) đồng cấu(%) đồng cấu(%)

Giá 1995 3645 100 1089.8 30 2555.2 70

thực 1996 3788.7 100 1458.8 38.5 2329.9 61.5

tế 4374.6 100 1789.5 40.9 2543.1 59.1 1997

3735.5 100 2492.1 66.7 1243.4 33.3 1998

3688.6 100 2864.5 77.66 824.1 22.34 1999

3737.7 100 2778 74.32 959.7 25.68 2000

4140 100 3080 74.4 1060 25.6 2001

29.9 2282.4 70.1 Giá 1995 3255.4 100 973

thực 1996 3221.7 100 1263.4 39.2 1958.3 60.8

tế 3576.8 100 1463.2 40.9 2113.6 59.1 1997

2900.5 100 1935.1 66.7 965.4 33.3 1998

2808.3 100 2180.6 77.6 6282 22.4 1999

2845.3 100 2114.7 74.3 730.6 25.7 2000

3143.4 100 2338.6 74.4 804.8 25.6 2001

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác có xu

hướng ổn định đến năm 2001 đã tăng nhanh cho thấy đầu tư vào ngành dầu

khí ngày càng hấp dẫn. Riêng khu vực nhà nước những năm 1995, 1996,

1997 đầu tư vào ngành còn thấp, nhưng đến năm 2001 đã tăng lên nhanh

chóng, cho thấy rằng ngành dầu khí ngày càng được nhà nước quan tâm đầu

tư phát triển, nhất là lĩnh vực khai thác mỏ.

Nhìn chung, ngành dầu khí ngày càng thu hút các nhà đầu tư, đầu tư vào

ngành từ lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí đến lĩnh vực chế biến,

lọc hoá dầu.

Nếu năm 2000 tổng vốn đầu tư vào ngành dầu khí là 4200 tỷ đồng, thì

năm 2001 tăng lên 5600 tỷ đồng và năm 2002 ước tính trên 700 tỷ đồng,

trong đó, vốn ngân sách lấy từ phần lãi dầu được để lại chiếm 25%, vốn vay

các loại 63% và vốn tự bổ sung 12%.

Một ngành công nghiệp muốn phát triển, nhất là ngành công nghiệp mũi

nhọn như ngành dầu khí rất cần nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.

Và thực tế, những năm gần đây để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài,

pháp luật Việt Nam đã thông thoáng đối với đầu tư nước ngoài nên vốn FDI

vào lĩnh vực dầu khí tăng nhanh. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư,

vốn FDI thực hiện trong năm 2002 dạt 2345 triệu USD, tăng 2% so với năm

2001. Trong số các ngành kinh tế, ngành công nghiệp dầu khí có số vốn trực

tiếp thực hiện lớn nhất, đạt gần 1 tỷ USD do có nhiều hợp đồng thăm dò khai

thác dầu khí chuẩn bị phát triển mỏ và do dự án đường ống dẫn khi Nam

Côn Sơn với vốn đăng ký 581 triệu USD đi vào giai đoạn kết thúc.

Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam

trong thời gian qua là những con số không nhỏ, từ đó đã mang lại những kết

quả khả quan trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu

khí nói riêng. Song ngành dầu khí như ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp

dầu khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa Dầu khí còn là ngành công

nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên nhiên ban

tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vốn

vào ngành dầu khí.

II/ Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí

ở Việt Nam thời gian qua:

1./ Những kết quả đạt được:

Trong thời gian qua, ngành dầu khí đã được đầu tư phát triển, nguồn vốn

đầu tư vào không phải là nhỏ. Nhìn chung, các mỏ dầu khí được đầu tư vào

những năm trước đây đã và đang phát huy hiệu quả. Ta có thể thấy kết quả

mà ngành dầu khí đã làm được trong những năm gần đây như sau:

- Trong hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí, những năm gần

đây Việt Nam đã ký 43 hợp đồng dưới nhiều hình thức với công ty nước

ngoài (riêng năm 2000 đã ký 6 hợp đồng), thu hút trên 3 tỷ USD vào lĩnh

vực này. Nhiều mỏ dầu và khí có giá trị thương mại đã được phát hiện và

đưa vào khai thác.

- Về hoạt động khai thác dầu khí tính đến ngày 13/2/2001 PetroVietnam đã khai thác được 100 triệu tấn dầu thô và 50722 tỷ m3 khí, đóng góp đáng

kể cho ngân sách nhà nước (trong giai đoạn 1996-2000 khoảng 5 tỷ USD và

5000 tỷ VND) PetroVietnam được xếp trong số 100 công ty có doanh số bán

ra lớn nhất tại khu vực châu á- Thái Bình Dương (không kể Nhật Bản và

Trung Quốc). Hiện nay liên doanh Vietsovpetro là đơn vị có sản lượng khai

thác lớn, chiếm trên 80% toàn bộ sản lượng dầu thô và 1,58 tỷ m3 khí đồng

hành.

- Tính đến hết tháng 6/2002, sản lượng khai thác dầu khí đạt 9,505 triệu

tấn dầu thô quy đổi, trong đó 8,423 triệu tấn dầu thô bằng 50,4% kế hoạch năm, khai thác khí đạt 1082 triệu m3 khí, bằng 54% kế hoạch; xuất khẩu dầu

thô đạt 8,31 triệu tấn, bằng 50,36% kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu đạt

256771 tỷ đồng, đạt 56% kế hoạch, nộp ngân sách 13411 tỷ đồng.

Trong lĩnh vực công nghiệp khí. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng hành Bạch Hổ vận hành ổn định, đạt mức công suất thiết kế 6 triệu m3/ngày. Lượng khí đồng hành đưa vào bờ 6 tháng đầu năm dạt 1082,6 triệu m3. Đề

án khí Nam Côn Sơn đang được triển khai theo đúng tiến độ ở hầu hết các

khâu để công trình hoàn thành vào cuối năm 2002.

Trong lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Ngoài đề án nhà máy lọc dầu số 1

Dung Quất, đề án Đạm Phú Mỹ (800 000 tấn/ năm) là dự án hoá dầu đầu tiên

và lớn nhất Việt Nam đang được triển khai theo tiến độ nhằm đưa nhà máy

vào hoạt động năm 2004. Đề án lọc dầu số 2 đang được chính phủ xem xét

phê chuẩn báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.

Như vậy: Bằng những nỗ lực không nhỏ để huy động vốn đầu tư vào

ngành Dầu khí. Bên cạnh đó nhờ tiếp xúc thường xuyên với các đối tác nước

ngoài và công tác đào tạo cán bộ rất cần được coi trọng, nên PetroVietnam

có thể nói là đơn vị kinh tế hội nhập khá thuận lợi vào ngành dầu khí thế

giới. Trong nhiều năm liên tục công tác tài chính kế toán luôn đạt được

những kết quả cao nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phát triển vượt

mức kế hoạch đề ra.

Tổng doanh thu của PetroVietnam năm 2001 đạt 50415 tỷ đồng thì năm

2002 đạt 61 000 tỷ đồng, gần tương đương với GDP của TPHCM. Trong số

đó doanh thu từ dầu thô năm 2002 ước đạt 2732 triệu USD, từ kinh doanh

sản phẩm khí đạt 3551 tỷ đồng, từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác

đạt 10 861 tỷ đồng và có 5 đơn vị thành viên đạt doanh thu trên 1000 tỷ

đồng/năm. Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu bình quân toàn Tổng công ty đạt

18,8%, đơn vị đạt cao nhất đến 32%. Một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh

giá hoạt động của một đơn vị kinh tế là số thu nộp ngân sách. Theo chỉ tiêu

này thì năm 2000 đạt 26616 tỷ đồng, năm 2001 đạt 26 682 tỷ đồng và năm

2002 ước đạt 27 000 tỷ đồng.

Ta có thể thấy tổng doanh thu, nộp ngân sách của ngành dầu khí Việt

Nam từ 1995 đến năm 2001 ở bảng 3a, sản lượng và doanh thu của các sản

phẩm dầu khí từ 1995 đến 2000 ở bảng 3b, để từ đó so sánh qua các năm và

rút ra cho mình những nhận xét về kết quả mà ngành dầu khí Việt Nam đã

đạt được trong những năm qua.

Bảng 3a

Năm 1995- 1997 1998 1999 2000 2001

1996

Tổng Triệu 1437 1247 1911 3194 3900

doanh thu USD

trong đó 1870 2374 4113 4866 Tỷ

VND

Nộp ngân Triệu 2196 781 692 1030 1778 2300

sách USD

trong đó 723 893 906 752 Tỷ

VND

Bảng 3b

Năm Dầu thô

1995 Sản lượng 7.7 Triệu tấn Khí đồng hành 182 Triệu m3

Doanh thu (USD) 1.03 Tỷ

1996 Sản lượng 8.6 Triệu tấn 9.1 Triệu 274.5 Triệu m3

Doanh thu (USD) 1.35 Tỷ

1997 Sản lượng 9.8 Triệu tấn 19.5 Triệu 527 Triệu m3

Doanh thu (USD) 1.44 Tỷ

1998 Sản lượng 11.8 Triệu tấn 41.3 Triệu 828 Triệu m3

Doanh thu (USD) 1.13 Tỷ 70 Triệu

1999 Sản lượng 14.88 Triệu tấn 1031 Triệu m3

Doanh thu (USD) 2.062 Tỷ

2000 Sản lượng 15.5 Triệu tấn 71.16 Triệu 1400 Triệu m3

Doanh thu (USD) 3.194 Tỷ

Qua bảng số liệu trên ta thấy sản lượng dầu thô và khí đồng hành từ 1995

đến nay liên tục tăng, nếu năm 1995 sản lượng dầu thô là 7,7 triệu tấn thì

đến năm 2000 đạt 15,5 triệu tấn, chỉ trong vòng 5 năm mà sản lượng dầu thô đã tăng lên gấp đôi. Sản lượng khí đồng hành năm 1995 là 182 triệu m3 thì chỉ sau 5 năm sản phẩm khí đã tăng hơn gấp 7 lần (14 000 triệu m3). Rõ ràng

nguồn vốn huy động tăng và sử dụng hiệu quả, khi đó sản lượng các sản

phẩm dầu khí mới tăng một cách nhanh chóng như vậy. Và dẫn đến doanh

thu từ ngành dầu khí cũng tăng nhanh, năm 1997 doanh thu là 1 437 triệu

USD nộp vào ngân sách là 781 triệu USD thì đến năm 2001 doanh thu tăng

lên 3 900 triệu USD, nộp vào ngân sách là 2 300 triệu USD.

Để có được những kết quả khả quan như vậy, những năm gần đây ngành

dầu khí không những được sự đầu tư phát triển của Nhà nước để trở thành

một ngành công nghiệp mũi nhọn, mà ngành đã thu hút lượng vốn đầu tư

vào rất lớn, có thể nói là lớn nhất trong các ngành công nghiệp ở Việt Nam.

Thật vậy, theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, nguồn vốn FDI năm 2002

đầu tư vào ngành dầu khí chiếm 42,6% tổng nguồn vốn FDI thực hiện. Dẫn

đến doanh thu xuất khẩu dầu thô năm 2002 đạt 1/2 tổng kim ngạch xuất

khẩu cả nước. Đây là một tỷ lệ lớn mà ngành dầu khí đã đóng góp vào nền

kinh tế quốc gia. Với tốc độ thu hút vốn đầu tư và phát triển như hiện nay,

nhất định trong tương lai ngành dầu khí sẽ là ngành công nghiệp mũi nhọn

không thể thiếu được góp phần thực hiện CNH-HĐH của đất nước ta.

2/ Những hạn chế còn tồn tại trong vấn đề huy động vốn và phát triển

ngành dầu khí ở nước ta.

Một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những kết quả to

lớn mà ngành dầu khí đã làm được, vẫn tồn tại những sai sót hạn chế trong

vấn đề huy động vốn vào ngành và đưa ra một số đánh giá sơ bộ về tình hình

phát triển của ngành dầu khí Việt Nam.

Trong vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành, mặc dù những năm gần

đây Nhà nước rất quan tâm đến phát triển công nghiệp dầu khí và tích cực

kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò

khai thác, chế biến dầu khí. Song cần thẳng thắn thừa nhận rằng, môi trường

đầu tư nước ta chưa có sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực.

Trong số những mặt tồn tại của môi trường đầu tư Việt Nam có lẽ trước

hết cần nhắc nhở tới sự thiếu quy hoạch dài hạn và rõ ràng về ngành và về

sản phẩm. Từ đó dẫn tới những chính sách hạn chế và thay đổi trong một số

lĩnh vực, rất khó lường trước đối với các nhà đầu tư. Thứ hai là chi phí đầu

tư tại Việt Nam tuy đã có xu hướng giảm xuống, nhưng so với các nước

trong khu vực thì tính cạnh tranh vẫn còn thấp. Thứ 3 là việc hạn chế cho

việc chấp hành luật pháp chưa nghiêm, vận dụng luật pháp chưa nhất quán

giữa các ngành, các cấp. Đặc biệt trong bối cảnh đẩy nhanh tiến trình hội

nhập quốc tế việc am hiểu và vận dụng các điều khoản của các hiệp định

quốc tế song phương và đa phương còn không ít bất cập không chỉ có các cơ

quan địa phương mà còn ở các cơ quan quản lý ở TW. Ngoài ra vẫn còn

không ít vướng mắc liên quan đến chính sách thuế, nhất là thuế tài nguyên

và thuế lợi tức.

Bên cạnh những hạn chế trong môi trường đầu tư của Việt Nam, đã làm

giảm các nhà đầu tư vào Việt Nam. Một hạn chế lớn trong vấn đề huy động

vốn vào ngành dầu khí là: Giá dầu hiện nay đang biến động nên khiến các

nhà đầu tư nước ngoài thường chú trọng đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm khai

thác dầu thô ở Việt Nam rồi mang dầu thô ra nước ngoài tinh lọc hóa dầu.

Ngành dầu khí là ngành cần đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị, đầu tư công

nghệ thì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư. Còn nguồn vốn

trong nước thì hạn hẹp nên vấn đề huy động vốn vào hệ thống công nghiệp

lọc hoá dầu còn rất hạn chế.

Chính vì thiếu nguồn vốn, hơn nữa nguồn vốn huy động vào ngành sử

dụng không còn phù hợp trong các lĩnh vực của ngành dầu khí, nên ngành

dầu khí nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.

Một đất nước bán nguyên liệu để nhập thành phẩm là một nước lạc hậu và

Việt Nam đang là nước bán dầu thô để nhập từng lít xăng. Mặc dù đề án lọc

dầu ở Việt Nam được đặt ra từ rất sớm, trước cả khi thành lập Tổng công ty

Dầu khí Việt Nam. Lợi nhuận biên của công nghiệp lọc dầu rất thấp nên việc

huy động vốn nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Nhà máy lọc dầu số 1 Dung

Quất, một liên doanh giữa PetroVietnam và Zarubeznheft (Nga) với tỷ lệ

góp vốn 50/50 đã được Bộ Kế hoạch & Đầu tư cấp giấy phép và đi vào hoạt

động từ 28/12/1998 nhưng trong điều hành triển khai gặp nhiều trắc trở nên

chính phủ đã quyết định tự đầu tư từ cuối năm 2002. Vì vậy PetroVietnam

phải phấn đấu nỗ lực rất cao mới hy vọng hoàn thành đúng tiến độ xây dựng

do nhà nước quy định. Dự án khu liên hợp lọc hoá dầu số 2 ở Nghi Sơn-

Thanh Hoá có công suất 7 triệu tấn/năm, báo cáo nghiên cứu khả thi đã được

chính phủ phê duyệt trong tháng 8/2002 nhưng hình thức đầu tư còn chưa

xác định PetroVietnam còn đang trong giai đoạn tìm kiếm đối tác. Do đó

mục tiêu đưa nhà máy này vào hoạt động trong năm 2008 như trước đây đã

công bố có lẽ khó thành hiện thực. Tất cả những điều nói trên có nghĩa là

Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ 21 sẽ vẫn bán dầu thô và nhập sản

phẩm xăng dầu.

Trong lĩnh vực hoá dầu cho đến nay mới có hai dự án sản xuất nhựa PVC

công suất 100 000 tấn/ năm và dự án sản xuất DOP công suất 30 000

tấn/năm đã đi vào sản xuất. Còn tất cả các dự án khác, như chế biến

Condensat thành xăng thương phẩm (công suất 270 000 tấn/năm), dự án đạm Cà Mau, các dự án polypropylen (m3), LAB (công suất 30 000 tấn/năm)...

đều trong giai đoạn triển khai xây dựng hoặc đang lập báo cáo khả thi. Nói

cách khác tất cả đều đang ở phía trước và đang cần nguồn vốn lớn để đầu tư

vào ngành lọc hoá dầu, hy vọng ngành lọc hoá dầu sẽ vươn lên đúng với tầm

vóc mà nó phải có để góp phần vào phát triển ngành dầu khí xứng đáng là

ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Muốn vậy, Việt Nam cần có các

giải pháp cơ bản để huy động vốn và có định hướng để phát triển ngành dầu

III Một số giải pháp nhằm huy động vốn đầu tư vào phát triển

nghành Dầu khí ở Việt Nam

khí trong thế kỷ 21 này.

1. Định hướng phát triển ngành Dầu khí những năm tới:

Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá các nền kinh tế, việc hội

nhập thành công và phát triển đều tuỳ thuộc vào sự nổ lực vươn lên của từng

quốc gia, từng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nhận thức được điều đó,

ngành Dầu khí đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển của mình từ nay

đến năm 2020 là: Phấn đấu xây dựng ngành Dầu khí Việt Nam phát triển

toàn diện, xây dựng tổng công ty Dầu khí Việt Nam trở thành một tập đoàn

kinh tế mạnh, hoạt động đa chức năng, tham gia tích cực vào quá trình hợp

tác khu vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu năng lượng, sản phẩm

hoá dầu cho nền kinh tế trong thế kỷ 21, đồng thời góp phần vào việc bảo

vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Những định hướng chủ

đạo làm cơ sở để hoạch định cho từng giai đoạn để phát triển đã được đề ra

trong chiến lược phát triển của tổng công ty Dầu khi Việt Nam giai đoạn

2001_2005 là:

Tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm thăm dò Dầu khí, nhằm sớm

xác định tiềm năng Dầu khí của đất nước, làm cơ sở cho viẹc hoạch định,

chiến lược phát triển ngành Dầu khí. Tích cực gia tăng sản lượng khai thác

Dầu khí, góp phần đảm bảo ngân sách quốc gia, đồng thời tạo tiền đề phát

triển toàn diện ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Đảm bảo thoả

mãn nhu cầu khí thiên nhiên cho đất nước.

Phát triển ngành công ngiệp khí đầy tiềm năng của đất nước, khuyến

khích để mở rộng thị trường tiêu thụ khí, xây dựng và vận hành hệ thống

đường ống dẫn khí quốc gia, tham gia liên kết vào hệ thống đường ống

đường ống dẫn khí khu vực, nhằm đảm bảo phát triển ổn định ngành công

nghiệp khí, thoả mãn nhu cầu khí thiên nhiên cho đất nước.

Đẩy mạnh khâu chế biến Dầu khí, nhằm từng bước đảm bảo an ninh

nhiên liệu cho phát triển đất nước, đồng thời cung cấp nguyên liệu cho công

nghiệp hoá dầu, đặc biệt là nguyên liệu sản xuất sợi tổng hợp cho ngành

công nghiệp dệt may, sản xuất phân đạm cho nông nghiệp, chất nổ, chất dẻo,

nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác, dầu nhờn, nhựa đường, chất

tổng hợp,...

Phát triển công tác thương mại, tài chính và dịch vụ Dầu khí. Tham

gia một cách có hiệu quả vào thị trường kinh doanh dầu thô và sản phảm dầu

khí quốc tế. Đảm bảo cung cấp 60_70% dịch vụ cho nhu cầu công nghiệp

Dầu khí. Song song với phát triển dịch vụ kỹ thuật trong ngành, tạo điều

kiện hỗ trợ các đơn vị thuộc các Bộ, ngành, địa phương tham gia ngày càng

nhiều vào cung cấp dịch vu cho Dầu khí.

Từng bước phát triển hoạt động ra nước ngoài cả về thăm dò, khai

thác dịch vụ và thương mại, nhằm đảm bảo nguồn cung cấp Dầu khí lâu dài

cho đất nước.

Đẩy mạnh phát triển tiềm lực khoa học công nghệ của Tổng công ty

Dầu khí Việt Nam, sớm tiếp cận với trình độ chung của cộng đồng Dầu khí

khu vực và thế giới.

Phát huy nội lực, kết hợp với tăng cường hợp tác đầu tư nước ngoài theo

nhiều hình thức, hội nhập bình đẳng vào cộng đồng Dầu khí khu vực và

quốc tế.

Phát triển các dự án dầu khí trọng điểm góp phần làm động lực phát

triển cho những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước: Miền Bắc, miền

Trung, khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ.

Phát huy những thành tựu đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, với tri

thức kinh nghiệm và cơ sở vật chất đã tích luỹ được, Tổng công ty Dầu khí

Việt Nam tin tưởng sẽ hoàn thành những nhiệm vụ do Đại Hội Đảng toàn

quốc lần thứ IX đề ra, góp phần tích cực trong quá trình CNH_HĐH nền

kinh tế đất nước, hội nhập bình đẳng với ngành công nghiệp Dầu khí khu

vực và thế giới trong thế kỷ 21.

2. Những cơ hội và thách thức trong vấn đề phát triển ngành Dầu khí

:

Mặc dù Đại hội IX đã đưa ra những định hướng cho phát triển ngành

Dầu khí . Song để thực hiện được những định hướng đó, không phải là vấn

đề một sớm một chiều. Vì vậy ta cần nắm bắt những cơ hội đồng thời phải

vượt qua những thách thức, mới hy vọng đạt được những định hướng đề ra.

Những cơ hội mà ta cần nắm bắt đó là: Hiện nay chưa có một nguồn

năng lượng nào thay thế được nguồn năng lượng Dầu khí , cho nên phát triển

ngành công nghiệp Dầu khí là vấn đề mà cả thế giới quan tâm, đặc biệt là

các nước phát triển . Đối với Việt Nam có các mỏ lớn đã và đang khai thác,

nếu ta có các biện pháp, chính sách kêu gọi các nhà đầu tư thì trong tương

lai không xa sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ

vào phát triển ngành Dầu khí tương xứng với tiềm năng của nó. Ngoài ra,

như ta đã biết ngành Dầu khí là ngành cần sự đầu tư khoa học công nghệ, mà

thế kỷ 21 này là thế kỷ của khoa học công nghệ và nền kinh tế tri trức, rất

nhiều công nghệ mới ra đời, làm cho những điều trước đây 10 năm còn cho

là viễn tưởng thì nay trở thành hịên thực. Nếu như trước đây vấn đề phát

triển các lĩnh vực trong ngành Dầu khí là khó khăn do thiếu máy móc thiết bị

thì ngày ngày nay vấn đề khó khăn đó đã được đáp ứng. Điều quan trọng là

chúng ta làm thế nào để có được khoa học công nghệ đó và vận dụng như

thế nào cho phù hợp với tình hình phát triển ngành Dầu khí hiện nay của đất

nước.

Cơ hội là vậy, song thách thức cũng không nhỏ. Thực vậy, qua một

quá trình tìm kiếm thăm dò, các mỏ Dầu khí ở vị trí địa lý thuận lợi hầu như

đã phat hiện gần hết nên địa bàn thăm dò chuyển sang những vùng đầy khó

khăn như vùng biển sâu, vùng hoang vu, hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Việc

khai thác các mỏ hiện đang hoạt động ngày cũng càng khó khăn vì trữ lượng

đi vạo cạn kiệt, đòi hỏi phải áp dụng công nghệ kỹ thuật phức tạp để tăng hệ

số thu hồi dầu, tìm thêm các tầng Dầu khí mới thường là ở rất sâu hoặc kích

thước bé.

Dầu khai thác được đưa đến các nhà máy lọc dầu để chế biến. Phần

lớn các nhà máy này đã được xây dựng từ lây nên công nghệ trở thành lạc

hậu, chi phí sửa chửa bảo dưỡng cũng tăng cao hoặc phải xây dựng nhà máy

lọc dầu mới rất tốn kém.

Tương tự như vậy, việc vận chuyển dầu thô hoặc các sản phẩm lọc

dầu trong bối cảnh những yêu cầu về an toàn và bảo vệ môi trường ngày

càng nghiêm ngặt, đòi hỏi phải hoán cải hoặc đóng mới các phương tiện vận

tải và xây dựng lại kho tàng.

Tất cả những điều đó đòi hỏi phải sử dụng công nghệ ngày càng hiện

đại hơn, đầu tư lớn hơn, bao gồm cả đầu tư phát triển hạ tầng, cho nên giá

thành sẽ cao.

Những yếu tố nói trên cộng thêm vói các yếu tố thời tiết, đầu cơ hoặc

chính trị càng làm cho giá dầu khí chao đảo, biến thiên không thể kiểm soát

được, tác động xấu đến quá trình phát triển kinh tế bình thường.

Thách thức lớn nhất đối với các mục tiêu đã nêu trên là làm sao

thông qua công tác thăm dò có thể gia tăng trữ lượng xác minh trong lúc vốn

đầu tư cho nghiên cứu, tìm kiếm, thăm dò hạn hẹp và cấu trúc địa chất của ta

phức tạp làm cho tiềm năng Dầu khí tích tụ thành mỏ có giá trị thương mại

không cao.

Như vậy, nước ta cần có những chính sách, luật lệ và cách thức làm ăn

hấp dẫn hơn các nước trong khu vực thì mới có thể thu hút được nguồn đầu

tư nước ngoài nhiều hơn.

Một vấn đề hết sức cấp thiết nữa được đặt ra là phải đầu tư cho các

đơn vị nghiên cứu, các cộng ty thăm dò khai thác của Việt Nam để họ có thể

tiếp thu, sử dụng công nghệ tiên tiến và luôn đổi mới đẻ tự lực phần lớn

trong công tác thuộc phạm trù điều tra cơ bản này mới có thể chủ đọng đưa

mục tiêu, ước mơ thành hiện thực.

Công nghệ khai thác của ta cần phải nâng cấp toàn diện để đưa hệ số

thu hồi dầu lên mức 40_50% hoặc cao hơn như ở các nước khác. Điều này

lại càng đặc biệt có ý nghĩa đối với lượng dầu khổng lồ còn nằm trong móng

nứt nẻ, một đối tượng mà sự hiểu biết của chúnh ta còn rất hạn hep, cũng

như các mỏ nhỏ, mỏ biên mà sắp tới sẽ đưa vào khai thác.

Đối với khí đốt, chúng ta có may mắn là trữ lượng đã xác minh khá

dồi dào. Như thế trong tương lai gần như thách thức lớn không phải ở phía

công nghệ mà là thị trường tiêu thụ và vốn đầu tư, đặc biệt cho cơ sở hạ tầng

không phải chỉ cho bản thân công nghiệp khí đốt mà cả cho các ngành công

nghiệp sử dụng khí đót làm nhiên liệu và nguyên liệu.

Trong 10 năm tới, hàng loạt mỏ mới sẽ đưa vào khai thác, nhiều

đường ống dãn khí từ các bể Nam Côn Sơn, Cửa Long, Mã lai_Thổ Chu.

Cũng như đường ống liên ASEAN sẽ được xây dựng. Điều này có thực hiện

hay không hoàn toàn phụ thuộc vào vấn đề thị trường tiêu thụ có được giải

quyết hay không. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có quyền hy vọng vì tốc độ phát

triển kinh tế nếu giữ được ở mức 5_7% thì áp lực đó sẽ trở thành động lực

để phát triển công nghiệp khí đốt Việt Nam đúng tầm cỡ mong muốn.

Trong lĩnh vực lọc_ hoá dầu, dịch vụ, thương mại, cũng như đã đề cập

đến ở trên, thach thức lớn nhất vẫn là vốn đầu tư. Tuy nhiên, với sự quan

tâm của Chính phủ cùng với việc thành lập công ty tài chính Dầu khí cũng

như chủ trương cổ phần hoá, thách thức này chắc chắn sẽ được vượt qua và

các mục tiêu sẽ thành hiện thực.

3. Những yêu cầu đặt ra để huy động vốn có hiệu quả:

Huy động vốn đã khó, sử dụng nguồn vốn huy động được sao cho

hiệu quả lại càng khó hơn. Vì vậy tính hiệu quả trong huy động vốn là rất

quan trọng. Ta có thể xác định tính hiệu quả của việc huy động vốn qua

những tiêu thức sau:

Mức độ đáp ứng mục tiêu của việc huy động vốn: có thể đạt được

mục tiêu đã đề ra ở mức độ nào.

Mức độ chi phí cho nguồn vốn huy động: chi phí sử dụng nguồn vốn

huy động ( kể cả chi phí giao dịch để huy động vốn ).

Để việc huy động vốn đạt được hiệu quả cao, cần đáp ứng một số

yêu cầu sau:

Thứ nhất, việc huy động vốn phải đảm bảo tính kịp thời. Thông

thường, khi có nhu cầu về vốn bổ sung, tìm nguồn vốn để giải quyết nhu cầu

đó, tuy nhiên, nếu việc cung ứng vốn không đúng thời điểm, thời cơ đầu tư

thì nguồn vốn đó sẽ mất ý nghĩa, hoặc làm giảm khả năng thu lợi ích từ các

hoạt động đầu tư kinh doanh. Vì vậy, cải tiến các thủ tục hành chính phức

tạp trong các quy trình giao dịch về vốn là mong muốn của các ngành kinh

tế nói chung. Nhiều khi một số ngành phải chấp nhần một tỷ lệ lãi suất cao

hơn rất nhiều trên thị trường tài chính phi chính thức để có được nguồn vốn

kịp thời vì nếu không vay kịp vốn thì nguồn vốn “rẻ” trở nên “đắt”, có thể

làm cho các kết quả dự tính trong các phương án kinh doanh giảm đi dẫn

đến gặp khó khăn trong việc trả nợ.

Thứ hai, cần lựa chọn nguồn vốn đảm bảo hiệu quả cao nhất trong

những điều kiện nhất định. Như trên đã trình bày, trong điều kiện thị trường

tài chính càng phát triển thì càng có nhiều cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn

vốn khác nhau để phục vụ sản xuất kinh doanh, do đó cần lựa chọn nguồn

vốn phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn.

Hiệu quả của việc sử dụng các hình thức huy động vốn không chỉ thể hiện ở

hiệu quả đầu tư mà nguồn vốn mang lại, mà còn thể hiền ở khả năng dễ dàng

tiếp cận và huy động các nguồn vốn, như khả năng làm tăng lời nhuận ròng

và lợi nhuận tích luỹ.

Thứ ba, việc huy động vốn cần đảm bảo đáp ứng nhu cầu về số

lượng và thời gian: Một ý đồ đầu tư, kinh doanh sẽ không thực hiện được

nếu không có đủ một lượng vốn nhất định theo nhu cầu được tính toán, do

đó khi huy động vốn phải đảm bảo đủ về số lượng và tính tương thích về

thời gian.

Thứ tư, huy động vốn cần bảo đảm giảm thiểu chi phí giao dịch: Một

nguồn vốn lãi suất thấp đôi khi trở nên quá đắt, do chi phí liên quan đến giao

dịch về vốn quá cao. Nguyên nhân chi phí giao dịch cao có thể là: thủ tục

hành chính phức tạp, quy trình giải ngân phiền toái, chi phí tư vấn cao hoặc

đôi khi do quy mô không thích hợp. Vì vậy, các ngành kinh tế cần tuỳ theo

lượng vốn cần vay để chọn nguồn vốn phù hợp, vì những nguồn vốn phức

tạp sẽ làm cho chi phí giao dịch trên một đồng vốn huy động cao hơn nếu

lượng vốn huy động nhỏ. Ngược lại, những dự án lớn có thể có lợi về chi phí

cho vốn nếu tìm đến những nguồn vốn có thủ tục phức tạp hơn nhưng lại

phải chịu lãi suất thấp hơn.

Riêng đối với ngành Dầu khí , là ngành cần huy động lượng vốn lớn

thì hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động được càng cần thiết.

Sử dụng vốn hiệu quả, càng làm tăng khả năng huy động vốn . Hay nói cách

khác, huy động vốn và sử dụng hiệu quả các nguồn huy động được là một

trong những biện pháp để huy động vốn mà ta sẽ trình bày sau đây.

4. Những giải pháp cơ bản để huy động vốn vào phát triển ngành Dầu

khí ở Việt Nam :

Như đã trình bày ở trên, một trong những trở ngại lớn nhất đối với

vấn đề huy động vốn là môi trường đầu tư Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì

vậy việc cải thiện môi trường đầu tư vừa phải tốt hơn trước đây, vừa phải tốt

hơn các nước khác trong khu vực là điều cần phải làm. Theo hướng này, một

biện pháp quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư,

đặc biệt liên quan đến FDI nhằm tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn

định, tiến tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong

nước và nước ngoài. Xây dựng cơ chế chính sách mới phù hợp với tình hình

trong nước. Với luật FDI đã được sửa đổi và các cam kết hội nhập quốc tế

của Việt Nam để cải thiện môi trường kinh doanh, tháo gỡ khó khăn, tạo

điều kiện cho các nhà đầu tư làm ăn có hiệu quả. Từ đó các thủ tục cấp phép

đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ đơn giản hoá, các quy

định các giấy phép không hợp lý đang cản trở hoạt động của các nhà đầu tư

sẽ được bãi bỏ hoặc điều chỉnh.

Cần đa dạng hoá các hình thức đầu tư để khai thác thêm các kênh

thu hút đầu tư mới, đồng thời phải đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy,

nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, mở rộng thẩm quyền và

trách nhiệm của địa phương để giải quyết kịp thời các vướng mắc cho nhà

đầu tư. Bên cạnh đó cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng như cung cấp điện,

nước, thông tin, . . . cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính ngân

hàng, dịch vụ kỹ thuật công nghệ, . . . là yếu tố quan trọng để tăng tính cạnh

tranh của môi trường đầu tư. Ngoài ra Việt Nam cần phát triển các

ngành công nghiệp phụ trợ, công nghiệp vệ tinh để kêu gọi đầu tư vào các

ngành công nghiệp chính, đòi hỏi vốn lớn và công nghệ cao. Nhất là ngành

Dầu khí lại rất cần điều đó.

Nguồn nhân lực chiếm một vị trí quan trọng trong sản xuất kinh

doanh , vì vậy cần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng

làm chủ các công nghệ hiện đại, đáp ứng các yêu cầu của chủ đầu tư, đẩy

mạnh công tác đầu tư hướng vào các lĩnh vực trọng điểm, tăng cường cung

cấp các thông tin cho các nhà đầu tư.

Những giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư chung là như vậy.

Riêng đối với ngành Dầu khí, tuy việc huy động vốn đầu tư còn gặp nhiều

trở ngại do chính sách thuế suất và tình hình biến động giá dầu hiện nay. Vì

vậy, vấn đề đặt ra đối với việc huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí ở

nước ta là làm sao để vừa khuyến khích các nhà đầu tư, đồng thời giữ vững

chủ quyền và không bị thua thiệt.

Trên cơ sở phân tích và trình bày ở trên, nhằm nâng cao hiệu quả và

thúc đẩy đầu tư vào các hoạt động Dầu khí, em xin đề xuất một số giải pháp

sau:

Về thuế suất thuế tài nguyên:

Nghị định 84/CP ngày 17_12_1996 của chính phủ quy định chi

tiết

việc thi hành luật Dầu khí có ghi: “ thuế tài nguyên đối với dầu thô

được tính trên cơ sở luỹ tiến từng phần của tổng sản lượng dầu thô thực, khai

thác trong mỗi kỳ nộp thuế dựa theo sản lượng bình quân mỗi ngày dầu thô

khai thác trên toàn bộ diện tích hợp đồng Dầu khí “ và được phân thành hai

mức khác nhau tuỳ theo mực nước biển đến 200m và trên 200m. Việc quy

định như vậy đã đảm bảo sự hợp lý phân chia quyền lợi giữa các bên. Tuy

vậy, thuế suất tài nguyên của Việt Nam còn cao hơn so với các nước trong

khu vực và chưa đề cập đến vùng xa khó khăn hay những vùng cần khuyến

khích. Mặc dù thời gian gần đây các bộ, ngành đã trình Chính phủ thông qua

một số điểm khuyến khích các nhà thầu, nhưng vẫn cần có các quy định bổ

sung vào luật Dầu khí hoặc trong các hợp đồng phân chia sản phẩm như:

Đối với mỏ được đánh giá là có trữ lượng lớn thì thuế tài nguyên cần

tính theo thang sản lượng khai thác và tỷ suất thuế tài nguyên tăng phần thu

của nước chủ nhà.

Đối với phần Dầu khí trả cho Chính phủ dưới hình thức thuế tài

nguyên, nếu xuất khẩu thì không phải trả thuế xuất khẩu.

Đối với các mỏ vừa và nhỏ và những mỏ hoạt động trong điều kiện xa

bờ thì khi tính tỷ lệ thuế tài nguyên, ngoài việc xác định theo thang bậc,

cũng cần bổ sung khung hình tính thuế tài nguyên riêng, nhằm khuyến khích

và hấp dẫn nhà đầu tư.

Cho phép các nhà thầu Dầu khí được kéo dài thời hạn hơn trong các

hoạt động thăm dò và khai thác tại các khu vực nước sâu, xa bờ, vùng và lô

liền kề vùng tranh chấp.

*Về thuế suất thuế lợi tức:

So với các nước đã nói trên thì thuế suất thuế lợi tức quy định trong

luật Dầu khí có cao hơn, trong thực tế tuỳ từng hợp đồng phân chia sản

phẩm, hay thoả thuận Dầu khí có các tỷ lệ ưu đãi thấp hơn.

Trong hoạt động Dầu khí cả nước chủ nhà và nhà đầu tư đều quan

tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh với những góc độ khác nhau. Các

tranh chấp quyền lợi thường xẩy ra, mà quyền lợi tuỳ thuộc vào: các loại

thuế, chi phí dầu thu hồi, các chi phí khác... Nếu chi phí cao, trong đó một

phần do các loại thuế cao, thì lợi nhuận các bên sẽ thấp, Tuỳ thuộc vào từng

giai đoạn khác nhau của quá trình hoạt động Dầu khí, các quy định tài chính

và chính sách thuế cũng khác nhau, như trong giai đoạn tìm kiếm thăm dò sẽ

được miễn giảm loại thuế nào, khi khai thác dầu thì các chi phí nào không

được tính vào chi phí được thu hồi….

Mục tiêu của đầu tư là mang lại doanh lợi, trong lĩnh vực Dầu khí, để

thăm dò và khai thác Dầu khí đòi hỏi lượng đầu tư khá lớn. Thông thường

những mỏ vừa và nhỏ cũng phải đầu tư vài trăm triều đô la Mỹ, những mỏ

phải hàng tỷ đô la Mỹ. Nhà đầu tư chỉ ứng vốn trong giai đọan tìm kiếm và

thăm dò, khi phát hiện ra dầu và đi vào khai thác thương mại thì lúc đó chi

phí trang trải hàng năm là từ phần dầu để lại. Việc tính lợi tức của nhà đầu tư

là tính lợi tức sau thuế. Cách đánh thuế theo một tỷ lệ cố định như trong luật

Dầu khí hay hiệp định Dầu khí hiện nay có những mặt hạn chế nhất định.

Theo luật Dầu khí thì thuế suất thuế lợi tức là 50%. Nên chăng để khuyến

khích đầu tư thăm dò và khai thác những mỏ nhỏ, hoặc những mỏ xa bờ, có

nhiều khó khăn cần điều chỉnh và bổ sung luật Dầu khí và nên áp dụng cách

đánh thuế luỹ tiến, làm đòn bẩy kinh tế khuyến khích nhà đầu tư bỏ vốn vào

những cấu tạo được coi là khó khăn tại thềm lục địa Việt Nam .

Cuối cùng, em xin đưa ra một số giải pháp chung để chúng ta cùng

nhau xem xét:

Một là: Vấn đề chuyển nhượng vốn hay cổ phần, theo điều 34 Luật

đầu tư nước ngoài quy định đối với các nhà đầu tư nước ngoài cần đặt ra một

cách cụ thể hơn.

Hai là: Chi phí đào tạo trong các hợp đồng Dầu khí cần được chú

trọng hơn.

Ba là: Cần có cơ chế đầu tư trong điều kiện biến động của giá dầu. Cụ

thể là:

Kịp thời bổ sung luật Dầu khí cho phù hợp, nhằm thu hút vốn đầu tư

đảm bảo lợi ích nhà đầu tư đồng thời đảm bảo chủ quyền lợi ích quốc gia ở

mức quốc gia ở mức cao nhất.

Hoàn thiện các mô hình phân chia sản phẩm và các định chế

kinh tế tài chính trong các hoạt động thăm dò và khai thác Dầu khí. Theo

thông lệ quốc tế thì trước khi ký kết hợp đồng hay hiệp định nước chủ nhà

và các nhà đầu tư phải tính toán kỹ càng đưa ra những quyết định chấp nhận

phân chia quyền lợi các bên và khi tính dự án đầu tư, phía đầu tư phải tính

thời gian thu hồi vốn, lợi nhuận thu được... vì vậy họ phải tính giá dầu bình

quân và dự kiến cho suốt quá trình thăm dò và khai thác.

Cần có qui định bổ sung trong hợp đồng hay hiệp định là khi giá dầu

xuống thấp, chi phí duy trì và đầu tư cho các hoạt động Dầu khí vẫn được

đảm bảo theo mức kế hoạch của chương trình công tác và ngân sách đã được

chấp thuận hàng năm để đảm bảo hoạt động sản xuất bình thường.

Đối với Vietsovpetro và các nhà thầu khác tuỳ theo giai đoạn phát

triển cũng phải để lại tỷ lệ hợp lý và cố định trong một số năm, thường là đi

đôi với kế hoạch 5 năm để có kế hoạch kịp thời.

Petro Vietnam có thể hình thành và quỹ bình ổn để bù đắp thiếu

hụt khi có biến động của giá dầu. Nguồn hình thành quỹ này có thể trích từ

nguồn của các công ty dầu hàng năm hoặc từ lợi nhuận thu được từ các hoạt

động Dầu khí khi giá dầu lên cao.

Bốn là: Trên cơ sở vận dụng linh hoạt Luật đầu tư nước ngoài và Luật

Dầu khí cần có những quy định phù hợp để có những liên doanh Dầu khí

theo hướng như Pertro Vieetnam đã làm thời gian gần đây.

Năm là: Nhà nước cần cho Pertro Vietnam một cơ chế đấu thầu phù

hợp với đặc thù của ngành trong việc mua sắm vật tư thiết bị và lắp đặt

nhằm đưa nhanh các mỏ vào phát triển và khai thác.

Sáu là: Các luật và nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ và

liên bộ cần được thông báo kịp thời để các bên cùng thực hiện nghiêm chỉnh.

Bảy là: Quan tâm hơn đến được kiến nghị của các nhà đầu tư Dầu khí

.

Có thể thấy rằng, Việt Nam hịên nay được coi như vùng đất còn mới

mẽ cho sự đầu tư cả về địa lý cũng như môi trường pháp lý, cung cách làm

ăn, kỹ thuật công nghệ và cơ sở hạ tầng, nhất là trong ngành Dầu khí . Vì

vậy, việc khuyến khích và dẫn các nhà đầu tư đang là yêu cầu bức bách đối

với chúng ta.

Phần ba : Lời kết

Dầu khí đang và sẽ đóng vai trò nổi bật trong các cân năng lượng. Đối

với Việt Nam, là đất nước ổn định về chính trị, an ninh xã hội, được thiên

nhiên ưu đãi có nguồn tài nguyên phong phú, vị trí địa lý thuận lợi. Đặc biệt

trong nguồn tài nguyên phong phú ấy các mỏ Dầu khí chiếm một vị trí lớn.

Cho nên không phải ngẫu nhiên mà ngành Dầu khí trở thành ngành công

nghiệp mũi nhọn của đất nước. Để đưa ngành Dầu khí là ngành đầu tàu

trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam đã

thực hiện các biện pháp huy động vốn vào phát triển ngành Dầu khí , đặc

biệt sự thông thoáng rõ ràng của luật đầu tư nói chung và luật Dầu khí nói

riêng đã thu hút nhiều vốn và công nghệ từ các nhà đầu tư trong và ngoài

nước đầu tư vào các lĩnh vực trong phát triển ngành Dầu khí từ thăm dò, tìm

kiếm, khai thác đến tinh lọc dầu.

Đương nhiên trên bước đường trưởng thành và hội nhập, ngành Dầu khí

là một ngành công nghiệp mang tính tầm cỡ, đòi hỏi vốn lớn công nghệ hiện

đại. Nên trong quá trình phát triển, ngành Dầu khí Việt Nam không thể tránh

khỏi những vấp váp, yếu kém, thậm chí tiêu cực. Tuy nhiên, như ta đã thấy,

những kết quả đã đạt được của ngành trong vấn đề huy động vốn và sự phát

triển của ngành những năm gần đây, cộng với những đường lối đúng đắn,

những đổi mới trong tư duy, những tiến bộ trong công nghệ và quản lý.

Ngành Dầu khí Việt Nam chắc chắn sẽ phát triển ngày càng nhanh hơn trước

và quá trình hội nhập quốc tế sẽ nhanh chóng, để trở thành một ngành công

nghiệp hiện đại ngang tầm khu vực.

Với những gì đã đạt được, cùng với những phương hướng giải pháp cho

những năm tới như trên, em tin chắc rằng, ngành Dầu khí Việt Nam sẽ phát

triển tương xứng với tiềm năng mà nó phải có trong một tương lai không xa.