BỆNH KÝ SINH TRÙNG ĐƯỜNG TIÊU HOÁ

THƯỜNG GẶP Ở DÊ

---*---

1/. Bệnh cầu trùng (Coccidiosis):

- Nguyên nhân và cách lan truyền: Bệnh gây ra bởi loài

ký sinh trùng đơn bào (Eimeria). Chúng sống ký sinh trong

tế bào thành ruột. Các noãn nang cầu trùng nhỏ chứa ấu

trùng được thải theo phân ra ngoài. Sau 24 tiếng các noãn

nang đó trở thành ấu trùng gây bệnh và có thể lan truyền

sang con khác theo đường thức ăn, nước uống. Số lượng ấu

trùng xâm nhập vào cơ thể sẽ quyết định mức độ biểu hiện

bệnh. Nếu kèm theo các tác nhân kích thích thì bệnh sẽ

nặng hơn. Bệnh cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các bệnh

khác kế phát như viêm ruột… Bệnh thường xảy ra khi nuôi

dê ở môi trường quá chật chội, ẩm thấp và dơ bẩn…

- Triệu chứng: Bệnh chủ yếu xảy ra ở dê con. Triệu chứng

thay đổi từ kém ăn đến bỏ ăn, từ phân nhão đến tiêu chảy

nặng. Trường hợp mắc bệnh nặng thì phân lỏng lẫn nhiều

máu. Dê ỉa chảy kéo dài làm giảm khả năng tăng trọng, dê

bị xù lông và có trên 15% số con mắc bệnh chết. Phân của

con bệnh chứa rất nhiều ấu trùng gây nhiễm. Chẩn đoán

dựa trên triệu chúng lâm sàng, tiền sử bệnh và lấy phân

kiểm tra noãn nang cầu trùng.

- Điều trị: Một số chế phẩm Sulfamide được sử dụng có

hiệu quả. Thuốc có thể dùng ở dạng bột trộn vào thức ăn,

nước uống với liều 200mg/kg thể trọng trong 4 ngày đầu,

sau đó giảm dần đi một nửa và liên tục trong vòng 4 ngày.

- Phòng bệnh: Kết hợp vệ sinh, sát trùng chuồng trại với

việc điều trị sẽ có hiệu quả tốt hơn. Vệ sinh máng ăn, máng

uống sạch sẽ, tránh lây nhiễm ấu trùng vào thức ăn, nước

uống. Không nên nuôi nhốt dê chật chội, loại trừ các tác

nhân ngoại cảnh bất lợi. Khi bệnh xảy ra cần vệ sinh sát

trùng chuồng trại, cách ly ngay con ốm để tránh lây nhiễm

ra toàn đàn, nhất là dê con…

2/. Bệnh giun tròn:

- Nguyên nhân và cách lây lan: Có rất nhiều loài giun tròn

cư trú ở đường tiêu hóa và gây bệnh. Chu kỳ phát triển và

lây lan bệnh giun tròn theo vòng tuần hoàn tự nhiên: Giun

tròn đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành

phôi và trứng nở thành ấu trùng giun qua vài giai đoạn, ấu

trùng giun giai đoạn 3 bám vào cỏ, cây nơi ẩm thấp, dê ăn

phải cỏ, cây có dính ấu trùng giun vào đường tiêu hoá gây

bệnh và đẻ trứng tiếp theo…

- Triệu chứng: Kém ăn dẫn đến tình trạng suy giảm thể lực

và tăng trọng kém. Trường hợp mãn tính thì lông xù, da

khô và nứt. Trường hợp nhiễm nặng thì tiêu chảy, phân

xanh thẫm đến màu đen, dơ bẩn lông da khu vực xung

quanh hậu môn. Tuy nhiên cũng có trường hợp dê bị táo

bón nhiều hơn tiêu chảy; Các niêm mạc và kết mạc bị nhợt

nhạt, nhịp thở và nhịp tim tăng lên. Hay xuất hiện thủy

thũng ở dưới hàm; Dê ốm yếu, ít hoạt động, bệnh kéo dài

dê sút cân là rất phổ biến.

- Điều trị: Có thể sử dụng một trong những thuốc có hiệu

lực cao và an toàn như Tetramisole với liều 15 mg/kg,

levamisole với liều 7,5 mg/kg, mebendazole với liều 15-20

mg/kg, febendazole với liều 5-10 mg/kg, febantel với liều 5

mg/kg, hoặc albendazole với liều 10 mg/kg thể trọng…

cho uống hay chích dưới da theo chỉ dẫn của nhà sản xuất

thuốc ghi trên nhãn thuốc. Sau khi tẩy 3 ngày, phân gia súc

thải ra phải được thu gom và tiêu độc.

- Phòng bệnh: Biện pháp phòng bệnh tốt nhất, hiệu quả

nhất là định kỳ tẩy giun cho dê một năm ít nhất hai lần vào

đầu mùa khô và mùa mưa, ở những vùng có nguy cơ nhiễm

bệnh cao thì 3 – 4 tháng tẩy giun sán một lần. Không nên

chăn thả hay sử dụng thức ăn cho dê ở những vùng ngập

nước hay đọng nước lâu ngày, có ốc nước ngọt cư trú. Nếu

có thu gom hay cắt hái về cho dê ăn thì phải rữa sạch, sát

trùng bằng nước muối, thuốc tím hay Clo… rồi phơi tái

trước khi cho dê ăn. Chuồng trại phải được vệ sinh, sát

trùng, tiêu độc sạch sẽ. Phân và nước thải gia súc phải được

xứ lý bằng hệ thống bioga hoặc ủ kín ít nhất một tháng

trước khi sử dụng cho cây trồng hay vật nuôi khác. Khai

thông cống rãnh, ao tù và những vũng nước đọng dơ bẩn

xung quanh chuồng trại, sân chơi, bãi chăn thả…

3/. Bệnh sán lá gan (Fasciolosis):

- Nguyên nhân và cách lây lan: Sán lá gan trưởng thành

sống trong ống mật của vật chủ và đẻ trứng theo ống mật

vào đường tiêu hoá, theo phân ra ngoài. Sán lá gan có vòng

đời gián tiếp thông qua ký chủ trung gian là ốc. Chu kỳ

phát triển và lây lan bệnh sán lá gan theo vòng tuần hoàn tự

nhiên: Aáu trùng sán phát triển thành sán non trong dạ dày,

ký sinh ở ruột rồi đi vào gan và trở thành sán trưởng thành.

Sán trưởng thành đẻ trứng trong ống mật, vào đường ruột

rồi theo phân ra ngoài, gặp môi trường nước trứng nở thành

ấu trùng sán ký sinh trong ốc, ấu trùng trải qua vài giai

đoạn sinh sản tạo nên nhiều vĩ ấu, vĩ ấu bơi tự do trong

nước bám vào cỏ cây, dê ăn phải cỏ cây có dính vĩ ấu sán

vào đường tiêu hoá gây bệnh và đẻ trứng tiếp theo…

- Triệu chứng: Bệnh thường thể hiện ở hai dạng, cấp tính

và mãn tính.

+ Cấp tính: Dê yếu dần, suy nhược cơ thể, biếng ăn và

xanh xao (da, kết mạc, niêm mạc nhợt nhạt). Hiện tượng

này kéo dài một thời gian rồi chết.

+ Mãn tính: Dê lờ đờ, giảm tiết sữa và giảm trọng lượng

sau một tháng trở lên, có thể bị tiêu chảy, thể lực kém, xù

lông, niêm mạc nhợt nhạt và tim đập nhanh hơn. Có xuất

hiện thủy thũng trong trường hợp kéo dài.

- Điều trị: Có thể sử dụng một trong những thuốc có hiệu

lực cao và an toàn như albendazone, niclosamide hoặc

fasciolis… chích dưới da hay cho uống với liều lượng 20 -

50 mg/kg thể trọng hoặc theo chỉ dẫn của nhà sản xuất

thuốc ghi trên nhãn thuốc. Sau khi tẩy 3 ngày, phân gia súc

thải ra phải được thu gom và tiêu độc.

- Phòng bệnh: Biện pháp phòng bệnh tốt nhất, hiệu quả

nhất là định kỳ tẩy sán cho dê một năm ít nhất hai lần vào

đầu mùa khô và mùa mưa, ở những vùng có nguy cơ nhiễm

bệnh cao thì 3 – 4 tháng tẩy giun sán một lần. Không nên

chăn thả hay sử dụng thức ăn cho dê ở những vùng ngập

nước hay đọng nước lâu ngày, có ốc nước ngọt cư trú. Nếu

có thu gom hay cắt hái về cho dê ăn thì phải rữa sạch, sát

trùng bằng nước muối, thuốc tím hay Clo… rồi phơi tái

trước khi cho dê ăn. Chuồng trại phải được vệ sinh, sát

trùng, tiêu độc sạch sẽ. Phân và nước thải gia súc phải được

xứ lý bằng hệ thống bioga hoặc ủ kín ít nhất một tháng

trước khi sử dụng cho cây trồng hay vật nuôi khác. Khai

thông cống rãnh, ao tù và những vũng nước đọng dơ bẩn

xung quanh chuồng trại, sân chơi, bãi chăn thả…

4/. Bệnh sán dây:

- Nguyên nhân và cách lây lan: Moniezia expansa và

Moniezia benedeni là hai loài sán dây đường ruột chủ yếu ở

dê. Sán dây trưởng thành ở ruột dê có thể dài vài mét, bao

gồm các phần đầu, cổ ngắn, thân đốt dài, có nhiều đốt. Các

đốt sán phía sau chứa đầy trứng và được thải ra ngoài theo

phân. Túi trứng màu trắng, dài 1-1,5 cm. Ve, bét ăn phải

trứng sán trong đất, phát triển thành ấu sán gây nhiễm

(Cysticercoids). Dê ăn phải ve, bét có ấu sán, ấu sán phát

triển thành sán trưởng thành ở ruột dê. Sán dây không hút

dinh dưỡng bằng mồm, mà hấp thu qua biểu bì sán. Khoảng

50 con sán ký sinh có thể làm cho dê bị chết.

- Triệu chứng: Bệnh thường biểu hiện ở dê trên 6 tháng

tuổi. Những dê bị bệnh thường còi cọc, xù lông, bụng xệ,

chậm lớn… Ta có thể nhìn thấy các đốt sán trong phân.

- Điều trị: Có thể sử dụng thuốc có hiệu lực cao và an toàn

như niclosamide… cho uống với liều lượng 50 mg/kg thể

trọng hoặc theo chỉ dẫn của nhà sản xuất thuốc ghi trên

nhãn thuốc. Sau khi tẩy 3 ngày, phân gia súc thải ra phải

được thu gom và tiêu độc.

- Phòng bệnh: Biện pháp phòng bệnh tốt nhất, hiệu quả

nhất là định kỳ tẩy sán cho dê một năm ít nhất hai lần vào

đầu mùa khô và mùa mưa, ở những vùng có nguy cơ nhiễm

bệnh cao thì 3 – 4 tháng tẩy giun sán một lần. Không nên

chăn thả hay sử dụng thức ăn cho dê ở những vùng ngập

nước hay đọng nước lâu ngày, có ốc, ve, bét cư trú. Nếu có

thu gom hay cắt hái về cho dê ăn thì phải rữa sạch, sát

trùng bằng nước muối, thuốc tím hay Clo… rồi phơi tái

trước khi cho dê ăn. Chuồng trại phải được vệ sinh, sát

trùng, tiêu độc sạch sẽ. Phân và nước thải gia súc phải được

xứ lý bằng hệ thống bioga hoặc ủ kín ít nhất một tháng

trước khi sử dụng cho cây trồng hay vật nuôi khác. Khai

thông cống rãnh, ao tù và những vũng nước đọng dơ bẩn

xung quanh chuồng trại, sân chơi, bãi chăn thả…

KS . ĐẶNG TỊNH