VIÊM TAI GIỮA CẤP
Viêm tai giữa cấp (acute otitis media – AOM) là một chẩn đoán rất thường gặp tại
các cơ sở y tế nhi khoa. Vào năm 2000, tổng chi phí dành cho việc chẩn đoán viêm
tai giữa tại Hoa Kỳ lên đến khoảng 5 tỉ USD; 40% trong số này được dành cho trẻ
từ 1 đến 3 tuổi.
Mặc dù AOM có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, bệnh lý này phần lớn vẫn ở trẻ nhỏ.
Dịch tai giữa có thể tồn tại nhiều tuần đến nhiều tháng sau khi khởi phát AOM
mặc dù đã được điều trị với kháng sinh thích hợp. Khi mà dịch còn lấp đầy khoảng
tai giữa, thì trẻ vẫn còn nguy cơ giảm thính lực dẫn đến những vấn đề trong phát
triển nói, ngôn ngữ, khả năng nhận thức. Tại các nước đang phát triển, nhiễm
trùng tạo mủ, bao gồm viêm tai xương chũm và viêm màng não mủ, vẫn còn là
những biến chứng quan trọng của AOM.
I. DỊCH TỄ HỌC
Khoảng 60-80% trẻ ≤ 1 tuổi có ít nhất một đợt AOM, và tỷ lệ này ở trẻ 2-3 tuổi là
80-90%. Tại Hoa Kỳ, xuất độ AOM cao nhất trong độ tuổi 6 tháng-24 tháng. Sau
đó, xuất độ bệnh sẽ giảm dần theo tuổi ngoại trừ độ tuổi bắt đầu đến trường, 5-6
tuổi, tỷ lệ bệnh có phần tăng nhẹ. AOM không thường gặp ở trẻ độ tuổi đi học, trẻ
thiếu niên, người lớn, nhưng vi khuẩn học và phương hướng điều trị ở những đối
tượng này vẫn tương tự với trẻ nhỏ.
Bệnh có tỷ lệ tăng nhẹ ở trẻ nam so với nữ. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy
tầm quan trọng của AOM ở trẻ em: trẻ vùng Boston có trung bình 1,2 và 1,1 đợt
AOM trong năm đầu và năm tuổi thứ hai, theo thứ tự. Bệnh lý tai giữa chiếm
khoảng 1/3 các trường hợp đến khám tại các cơ sở y tế nhi khoa mỗi năm trong 5
năm đầu đời.
Một nghiên cứu khác tại vùng Pittsburgh cho thấy số ngày trung bình trẻ phải điều
trị kháng sinh do viêm tai giữa lần lượt là 41,9 và 48,6 ngày tương ứng với năm
tuổi đầu tiên và thứ hai; trong khi đó, trẻ nhận điều trị kháng sinh do các nguyên
nhân khác trung bình chỉ 1,9 và 4,1 ngày trong khoảng thời gian tương tự. Thủ
thuật đặt ống thông tai giữa được thực hiện ở những trẻ có chảy dịch tai giữa nặng
hoặc kéo dài và bị AOM tái đi tái lại. Tỷ lệ thủ thuật trong nghiên cứu trên là 1,8%
và 4,2% tương ứng với năm đầu và năm tuổi thứ hai.
Kể từ khi kết quả những nghiên cứu trên được công bố rộng rãi, dịch tễ học và vi
sinh học của AOM tại Hoa Kỳ có chiều hướng thay đổi bởi ba yếu tố:
Sự áp dụng vắc-xin tổ hợp ngừa 7 týp phế cầu (pneumococcal conjugate
vaccine – PCV) năm 2000,
Sự phổ biến hướng dẫn điều trị của Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ và Hiệp
hội Bác sĩ gia đình Hoa Kỳ năm 2004, giúp cung cấp tiêu chuẩn chẩn đoán
AOM,
Chiến dịch giáo dục của trung tâm kiểm soát bệnh tật và các nhóm có thẩm
quyền khác trong việc tác động các bậc bố mẹ và bác sĩ lâm sàng nhằm
tránh sử dụng kháng sinh không phù hợp đối với các chẩn đoán AOM mơ
hồ, không xác thực.
Yếu tố nguy cơ:
Một số yếu tố nguy cơ của AOM đã được xác định, quan trọng nhất trong số đó
chính là lứa tuổi.
1) Lứa tuổi
Lứa tuổi thường gặp nhất của AOM là 6 tháng-18 tháng tuổi. Nếu đến 3 tuổi trẻ
vẫn chưa mắc AOM hoặc mắc rất nhẹ thì trẻ sẽ có rất ít nguy cơ bị tái phát và
bệnh thể nặng. Việc bệnh xuất hiện trong độ tuổi khá sớm được giải thích có thể là
do sự phối hợp của nhiều yếu tố, bao gồm sự kém trưởng thành về mặt giải phẫu,
thể chất, và đáp ứng miễn dịch. Một số yếu tố đã được xác định (như: sự thay đổi
hình dạng sọ não, hướng của vòi eustach, sự hình thành kháng thể khi tiếp xúc với
tác nhân gây bệnh), nhưng những yếu tố khác vẫn còn đang bàn cãi.
2) Môi trường chăm sóc hàng ngày
Sự lan rộng các tác nhân vi khuẩn và virút thường xảy ra trong các trung tâm chăm
sóc trẻ. Trẻ được nuôi dưỡng tại nhà trẻ, đặc biệt khi có từ 4 trẻ trở lên, cho thấy
có nguy cơ cao bị AOM so với những trẻ được chăm sóc tại nhà. Thủ thuật ngoại
khoa đặt ống thông màng nhĩ cho các trường hợp viêm tai giữa nặng và tái phát ở
trẻ ≤ 2 tuổi cao gấp 7 lần hơn ở các trẻ được chăm sóc theo nhóm (21%) so với trẻ
chăm sóc tại nhà (3%).
3) Bú sữa mẹ
Bú sữa mẹ ít nhất 3 tháng đầu đời sẽ giúp giảm thiểu các tác nhân vi khuẩn cư trú
tại vùng mũi họng và liên quan với ít đợt AOM hơn. Nguyên nhân làm giảm xuất
độ AOM vẫn chưa được xác định nhưng có thể là do sự hiện diện của các yếu tố
có tính miễn dịch hoặc không miễn dịch với vai trò bảo vệ trong sữa mẹ, sự phát
triển các cơ vùng mặt liên quan với động tác bú mẹ, tư thế duy trì trong suốt thời
gian bú mẹ.
4) Khói thuốc lá và ô nhiễm môi trường
Tiếp xúc với khói thuốc lá và không khí ô nhiễm có thể làm tăng nguy cơ AOM.
Một nghiên cứu phân tích meta cho thấy tỷ số chênh là 1,48 (độ tin cậy 95%) đối
với khả năng tái phát AOM nếu bố hoặc mẹ hút thuốc. Cơ chế trong tình huống
này chưa hoàn toàn được hiểu rõ nhưng có thể là do sự gia tăng tình trạng mang
phế cầu ở vùng mũi họng và hầu họng.
Mối nguy hiểm do không khí ô nhiễm mang lại cho trẻ đã được tổng kết bởi Ủy
ban Sức khỏe Môi trường của Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ. Mặc dù không có
bằng chứng cho thấy tác động của ô nhiễm trên chức năng của vòi Eustach hay
bệnh lý tai giữa nhưng đã có những dữ kiện cho thấy mối liên quan giữa dị nguyên
và ô nhiễm đối với các bệnh lý do phế cầu.
5) Sử dụng núm vú giả
Một nghiên cứu phân tích meta cho thấy những trẻ sử dụng núm vú giả có gia tăng
nhẹ xuất độ mắc AOM so với trẻ không dùng (nguy cơ tương đối 1,24; độ tin cậy
95%).
6) Chủng tộc
Trẻ em châu Phi- châu Mỹ có xuất độ AOM cũng như xuất độ tồn tại dịch tai giữa
kéo dài thấp hơn so với trẻ em da trắng. Sự khác biệt này không được giải thích rõ
ràng, nhưng một giải thích được tạm chấp nhận là do trẻ da trắng được tiếp cận
chăm sóc y tế tốt hơn nên khả năng được phát hiện bệnh cao hơn. Khi trẻ em ở các
chủng tộc được theo dõi sát, xuất độ AOM hiện diện đồng đều ở cà hai nhóm.
Trẻ châu Mỹ bản xứ, trẻ Eskimo gốc Canada hay Alaskan, trẻ châu Úc bản xứ có
xuất độ mắc AOM nặng và tái phát cao hơn trẻ có nguồn gốc Caucasian. Trong
những cộng đồng này, 40% trẻ có thể có thủng màng nhĩ mạn tính ở tháng tuổi thứ
18.
Tại các nước đang phát triển, do thiếu các điều kiện chăm sóc y tế kết hợp với các
yếu tố môi trường địa phương đã dẫn đến các đợt viêm tai giữa mủ nặng. Một
nghiên cứu tại Tanzania cho thấy viêm tai giữa mủ mạn xảy ra khá thường xuyên
(9,4%) ở trẻ vùng nông thôn.
7) Tiền căn gia đình
Một phân tích meta từ 22 nghiên cứu xoay quanh các yếu tố nguy cơ của AOM đã
nhận thấy nguy cơ AOM sẽ gia tăng nếu có bất kỳ thành viên nào trong gia đình
mắc AOM.
8) Yếu tố di truyền
Vai trò của yếu tố di truyền trong AOM cũng được đề cập đến trong một nghiên
cứu đoàn hệ ở các trẻ sinh đôi và sinh ba cùng giới tính, không có dị tật, các trẻ
này được theo dõi trong vòng hai năm. Kết quả cho thấy sự bất tương hợp trong
đợt AOM xảy ra ở trẻ sinh đôi khác trứng lớn hơn ở trẻ sinh đôi cùng trứng. Ngoài
ra, nghiên cứu còn ghi nhận sự liên quan giữa gen qui định cytokine tiền viêm với
viêm tai giữa và AOM tái phát.
9) Các yếu tố khác
Điều kiện xã hội – kinh tế,
Tư thế ngủ,
Mùa (tần suất bệnh tăng vào mùa thu – đông),
Khả năng đề kháng của cơ thể chủ,
Bệnh lý nền (chẻ vòm hầu, hội chứng Down, viêm mũi dị ứng).
II. SINH BỆNH HỌC
Tai giữa với cấu trúc hộp hẹp là một phần trong hệ thống thông khí bao gồm mũi,
vòi Eustach ở phía trước, và các tế bào chũm phía sau. Hệ thống này được lót bởi
niêm nhầy hô hấp; các yếu tố ảnh hưởng đến một trong các phần của hệ thống
thường sẽ gây ra các triệu chứng tương tự nhau. Sự tạo mủ lan rộng tiếp cận với hệ
thống này có thể dẫn đến các biến chứng như viêm tai xương chũm, viêm mê đạo,
viêm xương đá, viêm màng não, huyết khối xoang bên.
Bệnh sinh của viêm tai giữa ở trẻ em là một chuỗi các sự kiện: bệnh nhi có bất
thường trước đó, thường là nhiễm siêu vi đường hô hấp trên hay dị ứng. Tình trạng
này dẫn đến sung huyết tại lớp niêm nhầy hô hấp ở mũi, họng, và vòi Eustach.
Tình trạng sung huyết tại vòi Eustach sẽ làm tắc nghẽn tại phần eo vòi. Chính sự
tắc nghẽn này sẽ tạo ra áp lực âm dẫn đến sự bài xuất và tích tụ các chất tiết của
lớp niêm nhầy tại tai giữa. Đây là môi trường để virút và vi khuẩn vốn đang cư trú
tại đường hô hấp trên phát triển, dẫn đến các dấu hiệu lâm sàng của AOM.
III. VI SINH HỌC
Từ các mẫu dịch bệnh phẩm có sau khi chọc hút tai giữa ở trẻ bị AOM, các tác
nhân vi khuẩn và/hoặc virút đường hô hấp trên có thể được phân lập. Ngày nay, tỷ
lệ phân lập được khá cao với sự đa dạng của các phương pháp vi sinh hiện nay.
Một nghiên cứu trên 79 trẻ AOM được đặt ống thông tai giữa có đợt chảy dịch tai
mới cho thấy, với kỹ thuật PCR và kỹ thuật xác định kháng nguyên, 76 mẫu bệnh
phẩm trong số trên đã được xác định ít nhất một tác nhân gây bệnh (96%). 73
trường hợp tìm thấy vi khuẩn (kèm hoặc không kèm với virút) , 55 trường hợp tìm
thấy virút (kèm hoặc không kèm với vi khuẩn), và có sự đồng hiện diện của cả
virút và vi khuẩn trong 52 trường hợp. Các trường hợp có sự kết hợp giữa virút và
vi khuẩn thường có đáp ứng kháng sinh kém hơn so với nhiễm vi khuẩn đơn thuần
bởi lẽ sự hiện diện của virút làm giảm chức năng bạch cầu, giảm sự thấm nhập của
kháng sinh vào tai giữa.
Vi khuẩn
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy H. influenzae thường được phân lập ở những trẻ
có biểu hiện AOM cả hai tai hơn là một tai, trong khi đó, S. pneumoniae có tỷ lệ
phân lập như nhau ở trẻ mắc AOM một tai và cả hai tai.
Các chủng vi khuẩn thường gây bệnh bao gồm: Streptococcus pneumoniae,
Haemophilus influenzae, và Moraxella catarrhalis. Ba tác nhân này vẫn tiếp tục là
nguyên nhân chính gây AOM mặc cho các chương trình tiêm chủng H. influenzae
týp b (Hib) và PCV7 đã được đưa vào sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, có một vài
thay đổi được ghi nhận như sau:
Theo một tổng hợp dữ liệu từ nhiều quốc gia ở châu Âu, Hoa Kỳ, Nam Mỹ, týp
phế cầu gây bệnh chủ yếu hiện tại là týp 19F, 23F, 14, 6B, 6A, 19A, và 9V. Các
týp có trong vắc-xin PCV7 chỉ hiện diện trong 60-70% các trường hợp AOM phân
lập được trong độ tuổi 6-59 tháng. Cùng với sự áp dụng rộng rãi PCV7, các týp
phế cầu không có trong vắc-xin đang dần dần trở thành tác nhân chính trong
AOM, đặc biệt là týp 19A.
Trong khi đó, phần lớn các trường hợp H. influenzae phân lập được đều là H.
influenzae không thể định týp (90%), do đó, vắc-xin tổ hợp ngừa Hib có rất ít tác
động trong việc làm giảm tỷ lệ các ca AOM do H. influenzae. Mặt khác, khoảng
1/3 đến 1/2 các trường hợp H. influenzae không định týp này có sản sinh ra beta-
lactamase.
Các tác nhân khác như liên cầu nhóm A, tụ cầu trùng, vi khuẩn kỵ khí thường ít
gặp. Trực khuẩn gram âm thường gây AOM ở trẻ sơ sinh, tuy nhiên, ở độ tuổi này
cũng vẫn có thể gặp AOM do ba tác nhân chính đã nêu trên.
Virút
Các virút thường được phân lập trong AOM bao gồm virút hô hấp hợp bào,
rhinovirus, virút cúm, adenovirus. Một nghiên cứu trên 92 trẻ AOM có độ tuổi ≤ 1
tuổi, được lấy bệnh phẩm dịch tai giữa cho thấy: 22% bệnh phẩm có sự hiện diện
rhinovirus, 18% có sự hiện diện của virút hợp bào hô hấp và coronavirus trong 7%
bệnh phẩm.
Human metapneumovirus, được xác định lần đầu năm 2001, cũng có liên quan với
viêm tai giữa ở trẻ em.
Các tác nhân khác như Mycoplasma pneumoniae hiếm khi được phân lập từ bệnh
phẩm dịch tai giữa trẻ AOM. Chlamydia trachomatis có liên quan với AOM ở trẻ
≤ 6 tháng.
Viêm tai giữa do lao vẫn còn là một nguyên nhân gây bệnh lý tai giữa nặng đối với
các nước đang phát triển. Nhiễm ký sinh trùng (Ascaris lumbricoides) và nấm
(Blastomyces dermatitidis, Candida, và Aspergillus spp) có thể xảy ra nhưng
hiếm.
IV. LÂM SÀNG
Triệu chứng lâm sàng AOM bao gồm đau tai, mất thính lực, chóng mặt. Đau tai
thường gặp ở người lớn và trẻ thiếu niên hơn là ở trẻ nhỏ. Trong một nghiên cứu
đoàn hệ trên 335 đợt AOM liên tục liên quan với tụ dịch tai giữa, đau tai hiện diện
trong 42% các đợt nặng, 40% trong các đợt nhẹ và trung bình, và vắng mặt trong
17% tổng số đợt. Triệu chứng này ít khi được quan tâm đúng mức ở trẻ dưới hai
tuổi.
Chảy dịch tai, mủ tai hoặc sưng quanh tai (có thể là dấu chỉ điểm bệnh lý xương
chũm) là các dấu hiệu đặc hiệu, nếu có. Các triệu chứng và dấu hiệu không đặc
hiệu bao gồm sốt, kích thích, đau đầu, thờ ơ ngoại cảnh, chán ăn, nôn ói, tiêu chảy.
Trẻ nhỏ, đặc biệt nhũ nhi, thường biểu hiện bằng các triệu chứng không đặc hiệu
khi bị AOM, điều này nhiều lúc gây khó khăn cho chẩn đoán.
Hai nghiên cứu được tiến hành tại Phần Lan đã chỉ ra sự thiếu tính đặc hiệu trong
lâm sàng của AOM. Trong nghiên cứu đầu tiên, AOM được chẩn đoán ở 191 trẻ
trong số 354 trẻ (54%) đến khám tại hoặc một bác sĩ nhi, hoặc một bác sĩ chuyên
khoa tai mũi họng, hoặc một bác sĩ đa khoa vì bất kỳ triệu chứng cấp nào. Các
triệu chứng có liên quan đến tai, bao gồm đau tai, cảm giác tắc nghẽn tai làm tăng
rõ rệt khả năng chẩn đoán AOM, nhưng 32% trẻ < 2 tuổi lại không có triệu chứng
liên quan đến tai dù trẻ bị AOM. Sốt, đau tai, khóc quá mức hiện diện ở 90% và
72% tương ứng với bệnh nhi có và không có AOM. Nghiên cứu thứ hai tiến hành
tại một số nhà trẻ, các trẻ tham gia nghiên cứu được đánh giá nhĩ đồ hoặc soi tai.
Kết quả cho thấy đau tai có mối liên quan mật thiết với trẻ AOM. Tuy nhiên, 41%
trẻ có AOM mà không có triệu chứng ở tai.
Một nghiên cứu khác, cũng tiến hành tại Phần Lan, đã ghi nhận một số mối liên
quan giữa triệu chứng viêm tai giữa và tác nhân gây bệnh dựa vào quan sát mô tả
trên 587 trẻ AOM nằm trong nhóm chứng của nghiên cứu, các trẻ này được theo
dõi từ 2 đến 24 tháng tuổi, với tổng cộng có 1819 mẫu dịch tai giữa được lấy. Kết
quả cho thấy sốt ≥ 38oC và đau tai có tần suất cao hơn hẳn ở bệnh nhi AOM do
pneumococcus (44% do phế cầu so với 25% do H. influenzae, 26% do moraxella).
Triệu chứng mắt, viêm kết mạc nguyên phát, thường được xác định nhiều hơn ở
bệnh nhân do H. influenzae (54% do H. influenzae so với 15% do phế cầu, 18%
do moraxella).
V. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán AOM đòi hỏi sự kết hợp giữa:
Bệnh sử có diễn tiến cấp tính, với các dấu hiệu và triệu chứng của viêm tai
giữa, VÀ
Có sự hiện diện của dịch tai giữa (theo tiêu chí được mô tả vào năm 2004
bởi Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa kỳ và Hiệp hội Bác sĩ gia đình Hoa Kỳ).
VI. BIẾN CHỨNG VÀ DI CHỨNG
Mất thính lực từng lúc hoặc vĩnh viễn hiện diện ở hầu hết các bệnh nhân có tụ dịch
tai giữa. Điếc trong trường hợp này thường là điếc dẫn truyền, nhưng điếc do thần
kinh cảm giác cũng có thể xảy ra dù khá hiếm. Giảm thính lực còn hiện diện
chừng nào dịch tai giữa vẫn còn tồn tại. Một số nghiên cứu cho thấy trẻ có dịch tai
giữa tồn tại kéo dài sẽ có điểm số đánh giá thấp về khả năng nói, ngôn ngữ, và các
khả năng nhận thức. Ngoài ra, trẻ bị viêm tai giữa còn có thể bị rối loạn chức năng
tiền đình, vận động, thăng bằng.
Thủng màng nhĩ có thể xảy ra do áp-xe vùng tai giữa chèn ép lên màng nhĩ gây
thiếu máu nuôi, hoại tử, và thủng. AOM do liên cầu nhóm A có liên quan với tỷ lệ
thủng màng nhĩ cao hơn so với các tác nhân khác.
Viêm tai xương chũm tuy hiếm xảy ra nhưng là một biến chứng nặng.
Ngoài ra, còn các biến chứng khác như viêm mê đạo, viêm màng não, áp-xe ngoài
màng cứng, áp-xe não, huyết khối xoang bên, huyết khối xoang tĩnh mạch hang, tụ
mủ dưới màng cứng, huyết khối động mạch cảnh.
VII. TỔNG KẾT
AOM được chẩn đoán bởi sự hiện diện của dịch trong khoang tai giữa kết hợp với
các dấu hiệu và triệu chứng cấp tính của viêm tai giữa,
Xuất độ AOM tại Hoa Kỳ cao nhất trong khoảng 6-24 tháng tuổi,
Bên cạnh lứa tuổi, các yếu tố nguy cơ quan trọng khác của AOM bao gồm: trẻ
được gởi nhà trẻ, không được bú mẹ, tiếp xúc với khói thuốc lá, dùng núm vú giả,
chủng tộc, và tiền căn gia đình,
Ba chủng vi khuẩn chịu trách nhiệm chính cho viêm tai giữa: Streptococcus
pneumoniae, Haemophilus influenzae, Moraxella catarrhalis,
Các chủng virút thường gặp nhất bao gồm virút hợp bào hô hấp, rhinovirus, virus
cúm, adenovirus,
Các triệu chứng của AOM bao gồm đau tai, mất thính lực, chảy dịch ở tai, sưng
quanh tai, chóng mặt. Các triệu chứng không đặc hiệu, thường gặp ở trẻ nhỏ, bao
gồm sốt, kích thích, nhức đầu, thờ ơ, chán ăn, nôn ói, tiêu chảy,
Các biến chứng AOM bao gồm điếc dẫn truyền nhẹ; rối loạn chức năng vận động,
thăng bằng, tiền đình;viêm tai xương chũm; viêm xương đá; viêm mê đạo. Các
biến chứng nội sọ hiếm gặp, chủ yếu ở các nước đang phát triển, bao gồm viêm
màng não, áp-xe ngoài màng cứng, áp-xe não, huyết khối xoang bên, huyết khối
xoang tĩnh mạch, mủ dưới màng cứng, huyết khối động mạch cảnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. Jerom O. Klein, et al, Epidemiology, pathogenesis, clinical
manifestations, and complications of acute otitis media. Up to date 17.1
02. Murphy, TF, Faden, et al. Nontypeable Haemophilus influenzae as a
pathogen in children. Pediatr Infect Dis J 2009; 28-43
03. Niemala, M. Uhari, et al. Lack of specific symptomatology in children
with acute otitis media. Pediatr Infect Dis J 1994; 13:765