Bệnh phó lao

Bệnh phó lao (Johnes disease - Paratuberculosis)

Giới thiệu bệnh

Bệnh phó lao (Johnes disease - Paratuberculosis) là một

bệnh mãn tính, làm suy nhược cơ thể, gây ảnh hưởng đến

đường ruột của tất cả động vật nhai lại như bò, cừu và dê.

Mặc dù có nhiều con trong đàn gia súc có thể bị nhiễm

bệnh, nhưng thông thường chỉ có dưới 5% số con bị nhiễm

bệnh thể hiện triệu chứng lâm sàng. Trong hoàn cảnh bị

kích thích, thiếu dinh dưỡng, hoặc bị nhiễm ký sinh trùng

thì tỷ lệ gia súc phát bệnh sẽ nhiều hơn, thậm trí gia súc

mắc bệnh có thể chết. Không có cách nào điều trị được

bệnh này.

Sự lưu hành cụ thể và thiệt hại về kinh tế của bệnh phó lao

đến nay chưa được hiểu biết rõ, bởi vì chưa có phương

pháp kiểm tra chẩn đoán để phát hiện ra sự nhiễm vi khuẩn

Mycobacterium? paratuberculosis trong cơ thể động vật

sống còn chưa phát triển lâm sàng bệnh. Một số nghiên cứu

trong lò giết mổ gia súc ở New Zealand và United States đã

xác định được 4-18% số bò đực nhiễm Mycobacterium?

paratuberculosis. Một công trình nghiên cứu lớn ở miền

đông United States và Puerto Rico vào năm 1987 đã được

thực hiện trên 7.540 con bò. Kết quả cho thấy 2,9% số bò

đực giống sữa và 0,8% số bò đực giống thịt bị nhiễm

Mycobacterium paratuberculosis.

Sự thiệt hại kinh tế rõ rệt nhất do bệnh phó lao là làm giảm

sản lượng sữa và giảm khối lượng thịt đối với những con

bò đã biểu hiện triệu chứng lâm sàng. Sản lượng sữa của

những con bò sữa mắc bệnh này đã được ước tính giảm mất

7,8% trong chu kỳ tiết sữa cuối cùng và khối lượng thịt xẻ

của chúng cũng bị? giảm đi mất 59 kg.

Nguyên nhân

Bệnh này gây nên bởi vi khuẩn Mycobacterium?

paratuberculosis. Loại vi khuẩn này không gây bệnh cho

các động vật không nhai lại. Sự truyền nhiễm vi khuẩn này

chủ yếu theo đường thức ăn, nước uống dính phải phân từ

con vật bị nhiễm bệnh. Gia súc đã có triệu chứng lâm sàng

thì mỗi ngày có thể thải ra theo phân trên 500 tỷ vi khuẩn.

Hiển nhiên, môi trường chuồng trại có thể trở nên ô nhiễm

rất nặng và gia súc trong trại đó sẽ có nguy cơ nhiễm bệnh

này.

Có đến 35% số bò nhiễm bệnh có lâm sàng sẽ bị nhiễm vi

khuẩn M. paratuberculosis trong sữa của chúng. Cũng có

những báo cáo cho biết những con bê con mới sinh ra từ

con mẹ có lâm sàng bệnh ở mức nặng đã bị nhiễm bệnh

này.

Mycobacterium? paratuberculosis đề kháng với môi trường

và các loại thuốc xát trùng. Chúng có thể sống được một

năm trong nước tù đọng, phân và lớp đất sâu. Chúng cũng

có thể chống chịu được độ lạnh -14oC trong vòng một năm.

Khả năng sống của lchúng bị giảm đi trong môi trường có

nước tiểu và sử lý ủ chua.

Những con bê con dưới 6 tháng tuổi dễ cảm nhiễm nhất với

bệnh này. Phụ thuộc vào số lượng vi khuẩn mà bê bị

nhiễm, thường chỉ có khoảng 1/3 số bê bị? nhiễm vi khuẩn

Mycobacterium? paratuberculosis. Triệu chứng lâm sàng

bệnh chỉ ít khi xuất hiện ở gia súc dưới 2 hoặc 3 năm tuổi.

Thông thường, đây là bệnh của con vật trưởng thành mà nó

bị nhiễm mầm bệnh từ lúc mới được vài tháng tuổi.

Mycobacterium? paratuberculosis nhiễm và sống trong các

tế bào đường ruột nhưng không phá huỷ chúng. Vi khuẩn

cũng có khả năng chống lại sự tiêu diệt bởi các tế bào miễn

dịch của cơ thể. Dấu hiệu của bệnh mãn tính này được gây

nên bởi khả năng miễn dịch của cơ thể khi tồn tại vi khuẩn

Mycobacterium? paratuberculosis, chứ không phải do vi

khuẩn phá hoại trực tiếp tế bào đường ruột.

Triệu chứng lâm sàng của bệnh

Gần 5% số gia súc bị nhiễm bệnh thể hiện triệu chướng lâm

sàng của bệnh. Lý do của tình trạng này chưa được biết.

Những con vật nhiễm bệnh mà chưa thể hiện lâm sàng thì?

coi như vật ủ bệnh và là nguồn truyền mầm bệnh ra môi

trường ở trang trại. Triệu chứng lâm sàng bệnh ít khi xuất

hiện ở gia súc dưới 2 hoặc 3 năm tuổi. Những con vật mắc

bệnh có thể bị ỉa chảy gián đoạn và dần dần trở nên ỉa chảy

thường xuyên hơn. Có những trường hợp khác thì ỉa chảy

xuất hiện đột ngột và kéo dài đến khi chết. Sút cân là hiện

tượng điển hình của bệnh này và có thể bắt đầu ngay từ khi

con vật chưa bị ỉa chảy. Mặc dù con vật nhiễm bệnh rõ ràng

với triệu chứng xù lông và giảm sữa nhưng nó vẫn ăn uống

bình thường cho đến khi chuyển sang giai đoạn cuối cùng

của bệnh.

Sút cân nhưng không bị ỉa chảy là dấu hiệu chủ yếu của

bệnh này ở dê và cừu.

Chẩn đoán

Những con vật có biểu hiện bệnh mãn tính nhưng không ỉa

chảy, đôi khi vẫn ăn? bình thường thì nên quan sát kỹ.

Bệnh phó lao chỉ được thông báo khi có kiểm tra hậu phẫu

bệnh tích.

Rất khó có thể xác định những con nào nhiễm bệnh, vì

không có triệu chứng lâm sàng đặc trưng. Nuôi cấy phân

lập vi khuẩn Mycobacterium? paratuberculosis qua phân thì

rất đắt vì? mất nhiều thời gian cho vi khuẩn phát triển. Nuôi

cấy vi khuẩn phải giữ mẫu trong tủ ấm trong 4 tháng. Vi

khuẩn thải ra gián đoạn nên nhiều khi bị nhầm lẫn.? Kiểm

tra? các mẫu máu cũng đã được làm nhưng cũng không có

khả năng xác định âm tính hay dương tính.

Tiêm phòng vaccin

Vaccin đã được phát triển ở Mỹ, châu Âu, và New Zealand

có tác dụng làm giảm số gia súc nhiễm bệnh có lâm sàng,

nhưng không giảm được số gia súc nhiễm bệnh trong đàn.

Biện pháp sử lý

Người sản xuất nên cố gắng duy trì đàn gia súc an toàn

bệnh bằng cách nuôi dưỡng gia súc non bằng thức ăn thay

thế sữa mẹ. Việc mua thức ăn thay thế sữa cũng hay bị rủi

ro vì thiếu cách kiểm tra để xác định những con vật bị

nhiễm bệnh.

Khi bệnh đã được chẩn đoán ra ở trong đàn thì không được

bán gia súc đó đi với mục đích lấy sữa hoặc làm giống.

Những đàn gia súc bị nhiễm bệnh có khả năng phân tán

bệnh nhiều gấp 20 lần so với những con đã biểu hiện bệnh.

Vì rất khó xác định những con mang bệnh nên việc loại trừ

bệnh phó lao trong đàn là không thể làm được. Thậm trí

loại bỏ cả đàn giống cũng khó có thể an toàn được bệnh

nếu mua lại đàn giống khác mà không an toàn bệnh này.

Thực hiện quy trình loại thải và quản lý nghiêm ngặt đàn

gia súc sẽ giảm được bệnh phó lao đến mức có thể chấp

nhận được.

Qui trình quản lý đàn gia súc bị nhiễm bệnh bao gồm

các điểm sau:

+ Loại thải để giết thịt những con vật biểu hiện lâm sàng

của bệnh phó lao. Gửi mẫu thịt đi kiểm tra để xác định

bệnh.

+ Loại tất cả những con sơ sinh, con mẹ và con hậu bị trong

các trường hợp đã kết luận.

+ Cách ly hoàn toàn những con nghi ngờ bệnh ra khỏi đàn.

+ Rửa và xát trùng khu vực nuôi gia súc bị nhiễm bệnh . Vi

khuẩn Mycobacterium? paratuberculosis bị vô hoạt với

dung dịch Formalin 5% trong 10 phút, thuốc xát trùng

Cresilic 1/32, phenol 1/40

+ Thường xuyên thu dọn phân từ sân chuồng trại chăn nuôi

để đưa đi bón cây trồng, không đưa bón cho đồng cỏ chăn

thả.

+ Chăn thả gia súc non trên đồng cỏ sạch và nhốt trong

ngăn chuồng riêng, cách biệt với đàn trưởng thành cho đến

khi nhập vào đàn vắt sữa.

+ Tránh để gia súc non tiếp xúc? với vùng chứa phân của

gia súc trưởng thành.

+ Đảm bảo thức ăn, nước uống không bị ô nhiễm phân.

Nước uống nên bơm đến từ nguồn nước sạch.

+ Tách con sơ sinh khỏi con mẹ ngay sau khi đẻ và nuôi

nhốt riêng khỏi gia súc trưởng thành ở ngăn chuồng sạch

sẽ.

+ Rửa vú mẹ sạch trước khi vắt sữa đầu để nuôi con.

+ Nuôi bê con trong chuồng riêng và sử dụng thức ăn thay

thế sữa dạng bột, có chất lượng cao để nuôi dưỡng sau 72

giờ kể từ lúc đẻ ra.

Nguyễn Quang Sức, Viện Chăn Nuôi dịch