BỆNH THƯỜNG GẶP

Ỉa chảy cấp ở trẻ em

Định nghĩa: Trẻ em đi đại tiện nhiều lần (trên 3 lần một ngày) và tính chất phân

thay đổi: phân loãng, nhiều nước.

Bệnh ỉa chảy cấp thường diễn ra dưới 5 ngày, nếu trên 2 tuần là ỉa chảy kéo dài.

Nguyên nhân: thường do ăn và uống phải thức ăn, nước uống bị nhiễm khuẩn

hoặc tiếp xúc với phân của người mắc bệnh.

Yếu tố thuận lợi: không rửa tay trước khi ăn, ăn rau sống rửa không sạch, uống

nước lã chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh. Trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ hoặc

mắc một số bệnh như sởi, suy dinh dưỡng...

Bệnh cảnh lâm sàng: thay đổi tùy theo mức độ nặng nhẹ

- Hội chứng tiêu hóa: ỉa chảy, phân loãng, nhiều nước, đi nhiều lần (có khi15-20

lần/ngày). Phân mùi chua hoặc khó ngửi, có nhiều mũi nhày hoặc có máu. Có thể

nôn.

- Mất nước điện giải: nhẹ: quấy khóc, vật vã hoặc lờ đờ, khát nước, nước tiểu giảm

khối lượng, khóc không có nước mắt, mắt trũng, miệng khô, thở nhanh, sâu hơn

bình thường, mạch nhanh nhỏ, thóp lõm, huyết áp tụt.

- Sốt: có thể sốt hoặc không.

Điều trị:

- Bồi phụ nước điện giải bằng các đường uống, tiêm truyền tĩnh mạch hoặc dùng

ống thông mũi- dạ dày.

ãMột số dung dịch để uống: ORS 1 gói pha trong đúng 1 lít nước sôi để nguội cho

uống trong một ngày. Nếu chưa có sẵn gói oresol, có thể dùng 1 thìa cà phê muối

(3,5g), 8 thìa cà phê đường (40g) pha vào 1 lít nước hoặc dùng bột gạo nấu thành

nước cháo: bột gạo 50g (5 thìa canh), muối 3,5g (1 thìa cà phê), 1 lít nước; đun sôi

2-5 phút. Cho thêm vài thìa nước quả vào cháo để bổ sung kali.

ãMột số dung dịch tiêm truyền: huyết thanh 9%00, glucoza 5%, lactat Ringer...

- Dinh dưỡng: không nên kiêng khem tránh thiếu hụt chất dinh dưỡng. Ngay sau

khi bồi phụ nước điện giải, có thể cho trẻ bú và ăn ngay. Những trẻ nuôi bằng sữa

bò sau khi bù đủ nước điện giải, cho trẻ ăn sữa loãng hơn bình thường hoặc cho ăn

sữa pha với oresol (1/3 sữa pha với 2/3 ORS). Dần dần cho ăn theo chế độ bình

thường, khi trẻ khỏi bệnh, mỗi ngày cho ăn thêm một bữa trong một tuần để lấy lại

sức.

- Kháng sinh: chỉ nên dùng trong một số trường hợp : ampicillin,

sunphamethoxazole hoặc acid nalidicique...

Bệnh sâu răng

Sâu răng làm tiêu men răng, ngà răng, các tổ chức không có tế bào. Bệnh không tự

khỏi.

Nguyên nhân

- Do bẩm sinh, do hình thể: rãnh, lõm trên mặt nhai dễ bị sâu

- Do thức ăn: nhất là đường - nguồn thức ăn của vi khuẩn

Triệu chứng: tê hoặc buốt khi uống nước nóng quá hoặc lạnh quá, sau đó là đau.

Dự phòng:

- Chải răng thường xuyên vào buổi sáng hoặc tối, chải răng đúng cách bằng bàn

chải lông mềm, chải mặt ngoài, mặt trong và mặt nhai, trên và dưới. Nên cầm bàn chải quay 450 về phía lợi, chải kỹ rìa lợi và cổ răng.

- Súc miệng, nên súc lần cuối với nước chè (chè tươi, chè hạt, nước vôi) trong vài

phút vì chè có nhiều flo.

- Nên tập cho trẻ từ tuổi mẫu giáo thói quen chải răng, tránh ăn bánh, kẹo giữa các

bữa ăn. Nếu ăn nên súc miệng ngay.

- Dùng nước máy, muối ăn, sữa chứa flo, dùng kem đánh răng có flo giảm được

30% sâu răng.

- Dùng chất nhựa phủ lên mặt nhai.

Điều trị: khi bị sâu răng cần điều trị sớm bằng khoan răng, trám răng. Cần điều trị

sớm, không đợi răng đau mới chữa.

Say nắng, say nóng

Khái niệm

Là hiện tượng trúng nóng, trúng nắng do phơi mình quá lâu dưới ánh sáng mặt trời

hoặc một nhiệt độ quá cao như trong hầm lò, một số nguyên nhân thuận lợi nhất

định như gắng sức, đau ốm, ẩm ướt

- Say nóng thường gặp vào buổi xế chiều, có nhiều tia hống ngoại, còn say nắng

hay gặp vào lúc giữa trưa, khi trời nắng gay gắt, có nhiều tia tử ngoại. Say nắng

thường nặng hơn say nóng, có thể gây tử vong.

Yếu tố thuận lợi

- Nhiệt độ môi trường tăng quá cao: nông dân làm việc ngoài trời, binh lính tập

trận, khách du lịch.

- Trẻ em cảm sốt nhẹ được bố mẹ chăm sóc không đúng qui cách: đóng kín cửa,

chùm chăn kín mít...

Triệu chứng

- Ở trẻ sơ sinh: là bệnh cảnh của tình trạng mất nước toàn thể cấp, có thể nhanh

chóng dẫn tới hôn mê, co giật, dễ gây tử vong.

- Ở người lớn và trẻ lớn, các triệu chứng xuất hiện mỗi lúc một nặng dần nếu

không cứu chữa hoặc cứu chữa không đúng cách.

Mới đầu: vã mồ hôi, nhức đầu, khó chịu, mặt đỏ nhừ, cảm giác nghẹt thở, có khi

đau bụng, nôn mửa. Sau đó: chóng mặt, hoa mắt, mặt tái nhợt, mạch nhanh, ngất lịm, chuột rút, đái ít. Sốt cao có khi lên tới 42-440. Da niêm mạc khô kèm theo

trụy mạch, tình trạng người bệnh li bì, giãy giụa, lẫn lộn, mê sảng, cuối cùng là

hôn mê, co giật.

Chú ý : trong say nắng bệnh nặng ngay từ đầu, sốt rất cao 43-440, có nhiều dấu

hiệu thương tổn thần kinh rất rõ, có thể hồi phục hoặc khó hồi phục, có thể tụ máu

dưới màng cứng và trong não. Các thương tổn thần kinh hay xảy ra ở người có xơ

vữa động mạch.

Xử trí chung

- Hạ thân nhiệt xuống dần từng bước, càng sớm càng tốt: đặt nạn nhân nằm chỗ

mát, thoáng gió, cởi bớt quần áo, cho uống nước lạnh có muối. Chườm lạnh bằng

nước đá khắp người, ở đầu thì chườm trán và gáy. Hoặc phun nước lạnh vào người

bệnh (tránh phun vào mũi, miệng). Nếu chườm lạnh phải liên tục thay khăn, nhúng

lại vào nước lạnh.

- Theo dõi đến khi thân nhiệt hạ xuống đến 380 đưa bệnh nhân vào nằm nghỉ chỗ

mát.

Trưòng hợp nặng hơn phải đưa bệnh nhân đến tuyến y tế gần nhất để cấp cứu kịp

thời.

Phòng bệnh

- Khi lao động ngoài trời phải đội mũ nón. Khi đi cấy phải tìm cách tránh cho ánh

nắng mặt trời chiếu vào gáy. Khi khát phải uống nhiều nước co pha muối, mỗi giờ

phải uống một lượng muối chừng một nhúm.

- Cần hướng dẫn các bà mẹ trong việc chăm sóc con đau ốm cũng như cách xử lý

khi trẻ bị sốt cao: chườm đá đầu, gáy, đùi, bụng.. uống paracetamol..