CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

CỦA VĂN HÓA HỌC

G.A. Avanesova

Phương pháp nghiên cứu của văn hóa học là tập hợp các phương thức, thao

tác và biện pháp được sử dụng để phân tích văn hóa và, ở mức độ nhất định, tạo

nên đối tượng của nghiên cứu văn hóa. Do văn hóa học là một lĩnh vực kiến thức

tích hợp, thu thập kết quả nghiên cứu của một loạt khoa học chuyên ngành (nhân

học văn hóa, nhân học xã hội, dân tộc học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học,

sử học…), cho nên thao tác phân tích được thực hiện thông qua sự tổng hợp các

phương pháp và mục đích nhận thức, tập hợp xung quanh một trung tâm: văn hóa

và các bình diện của nó. Điều này đã cho phép tư duy lại nhiều quan niệm và khái

niệm đang tồn tại trong khuôn khổ mỗi chuyên ngành hợp thành văn hóa học.

Trong quá trình phân tích văn hóa học, các phương pháp cụ thể của từng chuyên

ngành khác nhau được sử dụng một cách có chọn lọc, tính đến khả năng giải quyết

các vấn đề, phân tích chúng trên phương diện văn hóa học. Không hiếm khi chúng

được sử dụng không phải với tư cách các thao tác hình thức, mà giống như các

cách tiếp cận trong nghiên cứu xã hội hoặc nghiên cứu nhân văn. Tất cả những

điều này tạo nên cơ sở để biểu hiện về sự biến thái nhất định các phương pháp

chuyên ngành, về sự tích hợp chúng trong khuôn khổ các nghiên cứu văn hóa, và

đó, cuối cùng, chính là tác nhân kích thích sự phát triển nhận thức văn hóa học nói

chung.

Sự nhận biết như vậy không có nghĩa là dẫn đến loại bỏ sự cần thiết phân

thành những nhóm đặc biệt và nghiên cứu chuyên sâu các phương pháp phân tích

của văn hóa học. Trong hệ phương pháp của văn hóa học cũng áp dụng sự chia

tách, phổ biến đối với các khoa học xã hội và nhân văn khác, là chia thành các

phương pháp phục vụ cho việc nghiên cứu tri thức cơ bản và các phương pháp gắn

với việc thu nhận tri thức kinh nghiệm. Cũng có thể tách thêm một nhóm đặc biệt

các phương pháp nghiên cứu lĩnh vực tri thức văn hóa học ứng dụng. Trong những

thập niên gần đây trong khuôn khổ tri thức ứng dụng đã xuất hiện các phương

pháp và kỹ thuật của các chuyên ngành văn hóa học mới nhất như nhân học sinh

thái, nhân học đô thị, dự án văn hóa-xã hội, tổ chức các liên kết và quan hệ liên

thiết chế (trong đó có tư vấn thích ứng, giao tiếp cộng đồng…

Một cách phân nhóm các phương pháp nghiên cứu văn hóa học khác bắt

nguồn từ cách phân chia truyền thống trong lịch sử, chia các khoa học thành khoa

học về tự nhiên và khoa học về tinh thần. Đến thế kỷ XX các nhà nghiên cứu bắt

đầu nói đến việc sử dụng trong phân tích xã hội và phân tích văn hóa các phương

pháp của nghiên cứu văn hóa nhân văn và nghiên cứu văn hóa xã hội theo hệ thuật

ngữ của tư duy khoa học Nga. Khi nói về các ngành khoa học nhân văn, người ta

muốn nói đến tổ hợp các phương pháp của nghiên cứu ngữ văn, nghiên cứu văn

học, sử học, lý luận văn hóa, nghiên cứu tôn giáo, nghệ thuật học, dân tộc chí,

nhân học văn hóa, triết học, đạo đức học,… Còn khi nói đến các khoa học xã hội,

người ta đưa vào nhóm này các phương pháp của kinh tế học, chính trị học, dân

tộc học, xã hội học,… Trong nhóm thứ nhất, nhiệm vụ cơ bản là nghiên cứu tính

chất cá thể của văn hóa, so sánh chúng, mô tả các tư liệu xuất phát điểm của văn

hóa. Còn thao tác tổng quát trong trường hợp này chỉ là nhiệm vụ thứ yếu. Đồng

thời người ta cũng sử dụng các phương pháp gắn liền với việc đi sâu thấu hiểu văn

hóa, thâm nhập vào ý nghĩa bên trong của các hiện tượng và giá trị của nó, bằng

cách này hay cách khác, gắn với quan điểm giá trị của khuynh hướng thực chứng.

Trong số chúng, có tầm quan trọng đặc biệt là các phương pháp dân tộc học thực

địa (mô tả, phân loại, phương pháp tàn dư,…), phương pháp quan sát, phỏng vấn

mở của tâm lý học và xã hội học, các phương pháp của sử học (trong đó có

phương pháp lịch sử - so sánh), phân tích văn bản trong khuôn khổ hệ hình của

giải minh học,… Trong nhóm thứ hai, ngược lại, nhiệm vụ chủ yếu là tìm ra các

qui luật và nguyên tắc, cho phép đi từ những qui luật chung đến thấu hiểu các hiện

tượng riêng. Trong nhóm này, các thực tế riêng lẻ ít có giá trị hơn các tổng kết

mang tính hệ quan niệm, phân tích tính chất chung của các hiện tượng và liên kết

chúng với rất nhiều hiện tượng khác. Trong trường hợp này, việc sử dụng các

phương pháp này hay khác chủ yếu là hướng tới việc làm rõ về mặt nhận thức các

chức năng của văn hóa, nêu bật những mối liên hệ nhân - quả, khách quan, bên

trong của nó, thấu hiểu một cách có phê phán các hiện tượng tinh thần của đời

sống văn hóa. Bên cạnh đó, các phương pháp, nguyên tắc và phạm trù nhận thức

bị cuốn hút về mô hình lý tưởng phân tích hệ hình của khoa học tự nhiên và

phương thức xây dựng đề án-công cụ để vận dụng chúng. Theo khuynh hướng này

được sử dụng rộng rãi là các phương pháp và thủ pháp cụ thể của phép phân tích

trong các nghiên cứu kinh tế học, chính trị học, xã hội học - đó là cách tiếp cận cấu

trúc - chức năng, phương pháp phân loại, phân tích sự kiện và các hợp phần, mô

hình hóa đi đôi với áp dụng phân tích toán học, trưng cầu dư luận xã hội, nghiên

cứu văn bản bằng phương pháp phân tích nội dung,…

Như vậy, nhóm các phương pháp thứ nhất ở mức độ cao hơn, có khả năng

phản ánh thế giới không gian vật thể và sự kiện cụ thể của văn hóa, phản ánh dòng

chảy kinh nghiệm văn hóa còn phân lập yếu của con người, cũng như các đặc tính

của hiện tượng văn hóa như những sự khác nhau, giống nhau, rất khó biểu đạt,

những gì độc nhất vô nhị. Các phương pháp này có thể phản ánh những hiện tượng

dễ thay đổi hoặc toàn vẹn của văn hóa, nhưng thật khó xác định hình thức của bản

thân tính hay thay đổi và tính toàn vẹn đó.

Nhóm các phương pháp thứ hai, ngược lại, dựa vào thế mạnh của trừu tượng

hóa khách quan, giải quyết tốt hơn loại nhiệm vụ biểu lộ rõ cái chung nhất, cái

toàn thể gắn với nhau về mặt chức năng bằng cách phân tích các cấu trúc điều

chỉnh phân tầng. Các phương pháp đó có hiệu quả tốt nhất với các đơn vị văn hóa

trung mô và cho phép nghiên cứu những gì đã được phân hóa, chia tách, đã có

hình thức biểu hiện rõ ràng, nhưng rất khó cấp cho hình thức đó một nội dung

nhân văn mang tính cá nhân, độc đáo, vốn hết sức quan trọng trong văn hóa.

Bên cạnh đó, khi sử dụng các phương pháp này hay khác cũng không thể

đưa ra một ranh giới rõ rệt giữa chủ thể của phép phân tích với khách thể được

nghiên cứu. Đặc tính đó liên kết tất cả các phương pháp phân tích xã hội và phân

tích nhân văn lại, phân biệt chúng với các phương pháp của khoa học tự nhiên, của

toán học, kỹ thuật ứng dụng, mà việc sử dụng chúng có nền tảng vững chắc dựa

trên thể thức giải thích và hầu như không quan tâm lắm đến thể thức thấu hiểu. M.

Weber là một trong những người đầu tiên chú ý đến đặc điểm vừa nêu của các

khoa học về xã hội và văn hóa, nơi không thể chia tách khách thể và chủ thể của

việc phân tích. Vì thế ông cho rằng các khoa học này cần sử dụng đồng thời cả

phương pháp thấu hiểu lẫn phương pháp giải thích. Cái thể thức có thể liên kết

chúng làm một được M. Weber gọi là "sự thấu hiểu có giải thích". Từ đó việc công

nhận xã hội và văn hóa là những đối tượng đặc biệt của phân tích khoa học và đòi

hỏi những phương pháp đặc biệt trên phương diện tổng hợp, thường xuyên được

đề cập tới ở nước ngoài trong khuôn khổ các khuynh hướng khoa học như xã hội

học thấu hiểu (Ph. Znaneski, U. Tomas…), hiện tượng học (A. Sius …), xã hội

học văn hóa (Ph.Kh. Tenbruk, P.Bourdier…), và trong khoa học Nga là những

người bênh vực văn hóa học xã hội và xã hội học văn hóa. Trong khuôn khổ các

trường phái và khuynh hướng nghiên cứu văn hóa vừa nêu, ở những thập niên gần

đây xuất hiện nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu muốn khắc phục những điểm hạn

chế của cả cách mô tả dân tộc học, lẫn chủ nghĩa hình thức của các phương pháp

cấu trúc chức năng và hình thành những phương pháp phân tích bằng con đường

thấu hiểu văn hóa, cho phép chuyển thành sự diễn giải xã hội học các tư liệu lịch

sử văn hóa.

Cách đặt vấn đề về sự cần thiết giải quyết các nhiệm vụ phức tạp như vậy đã

được chuẩn bị bằng cả một thời kỳ trước đó trong sự phát triển của tri thức văn

hóa học: trong nó in rõ dấu ấn của một loạt giai đoạn tuần tự, trong khuôn khổ của

chúng, các phương pháp đặc thù của phân tích văn hóa đã tạo dựng và hình thành

nên các mô hình nhận thức nhất định.

Giai đoạn đầu tiên trong phân tích văn hóa một dân tộc hoặc một thời kỳ lịch

sử xa xôi nào đó được phát triển trong khuôn khổ giải quyết các vấn đề nhân văn

của tư liệu, chủ yếu mang tính chất mô tả kinh nghiệm. Ở giai đoạn này, các

phương pháp được sử dụng cho phép các nhà nghiên cứu tháo gỡ những rào cản

"không hiểu" thời đại khác hoặc nền văn hóa khác. Ở đây, việc sử dụng các

phương pháp phân tích khác nhau là nhằm hướng tới làm rõ các chứng cớ để giải

thích và đạt tới cấp độ lý luận. Đồng thời, được tạo dựng và được phổ biến là mô

hình phân loại và mô hình miêu tả để nhận biết văn hóa. Các mô hình này chỉ đưa

ra những mô tả cấu hình hoặc mô tả nền văn hóa như những chỉnh thể mà không

chỉ rõ được mối quan hệ nhân quả và các chức năng của hiện tượng được nghiên

cứu.

Giai đoạn tiếp theo sử dụng các phương pháp tiếp cận văn hóa học so sánh

các nền văn hóa khác nhau, điều này đòi hỏi phải sử dụng một quang phổ rộng hơn

các phương tiện phân tích và khái niệm chuyên ngành đặc thù. Đồng thời, các nhà

văn hóa học thường hay sử dụng các phương pháp của triết học, lôgíc học, xã hội

học, ngôn ngữ học, tâm lý học, ký hiệu học, sử học, cũng như các thể thức phân

tích trên phương diện liên ngành - cách tiếp cận cấu trúc, chức năng, mô hình

hóa,… Trong khuôn khổ của cấp độ phân tích này, các mô tả đặc tính và mô tả văn

hóa riêng lẻ dường như vẫn còn tản mạn, chưa gắn kết với nhau do sự không đồng

loại của chúng. Ở giai đoạn này, các mô hình nhận thức văn hóa được xây dựng là

mô hình liên tưởng và mô hình chức năng.

Một giai đoạn khác của phân tích văn hóa gắn liền với việc làm lộ rõ các đặc

điểm tổng hợp, chủ đạo, quyết định của văn hóa: cơ cấu cốt lõi và tính ổn định của

nó, các cấu trúc và khuôn mẫu quan trọng nhất (những đặc điểm thế giới quan, các

thiết chế truyền thống,…). Còn một cấp độ phân tích văn hóa nữa gắn với việc tìm

hiểu và giải thích các xu hướng và đặc điểm của văn hóa dường như đối lập với cơ

cấu cốt lõi, với các hệ hình quan trọng nhất của nó, nhưng không xuất hiện như

những gì xa lạ đối với các hệ hình đó, mà tương quan với chúng theo một cách

thức xác định (đó có thể là các tà thuyết, các cuộc cách mạng cực đoan, các hiện

tượng phản văn hóa,…). Ở hai bình diện phân tích cuối cùng, xem xét văn hóa trên

cấp độ những biến đổi năng động qui mô lớn của nó và sự phát triển của văn minh

nói chung không thể không sử dụng các phương pháp của khoa học nhân văn, vốn

có khả năng khái quát lớn, khả năng nhận thức lớn để nhìn thấy đằng sau các hiện

tượng cụ thể bên ngoài của văn hóa các mối quan hệ sâu xa và các sơ đồ ý thức. ở

cấp độ phân tích văn hóa này xuất hiện nhu cầu xây dựng các mô hình hệ thống,

cũng như các mô hình động trong nhận biết văn hóa.

Cuối cùng, có một nhóm các phương pháp phân tích văn hóa trong khuôn

khổ các trường phái và khuynh hướng khoa học, trước hết là thuyết tiến hóa,

thuyết khuyếch tán, cấu trúc luận, chức năng luận, nhân học hành động, nhân học

nhận thức,… Như vậy, trong tri thức văn hóa học chỉ sử dụng các phương pháp có

khả năng giải quyết các nhiệm vụ ở cấp độ nhận thức phức hợp, có thể kết hợp sự

lựa chọn của các phương pháp hoàn toàn khác nhau, lấy từ các hệ hình khái niệm

lý thuyết khác nhau. Mỗi một phương pháp sẽ mất đi tính chất tự thân trọn vẹn

trước kia, và tiếp nhận những đặc tính bổ sung tương hỗ, sự liên hợp đặc biệt với

các nguyên tắc nhận thức, các thể thức và thủ pháp phân tích khác nhau. Điều đó

cho phép có được những nghiên cứu văn hóa học phản ánh đúng cái đối tượng siêu

phức tạp của nó là văn hóa.