Tài liệu làm việc 2022.2.2.15
- Tập 2, Số 2
CÁCH YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP
CỦA SINH VIÊN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bùi Thanh An1
Sinh viên K56BF Cử nhân Kinh doanh quốc tế
Trường Đại học Ngoại thương, Cơ sở II tại TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Phạm Thị Châu Quyên
Giảng viên Bộ môn Kinh doanh và Thương mại Quốc tế
Trường
Đại học Ngoại thương, Cơ sở II tại TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Tóm tắt
Bài báo phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến ý định quyết định nghề nghiệp: cơ hội nghề nghiệp, ảnh
hưởng của những người xung quanh, thu nhập và phúc lợi, cơ hội phát triển bản thân, đam mê, các
rủi ro của công việc và môi trường sống và làm việc. Sau khi phân tích dữ liệu của 212 sinh viên đại
học ở Thành Phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu chỉ ra rằng thu nhập và phúc lợi, cơ hội phát triển bản
thân và đam mê là ba Yếu tố ảnh hưởng đến ý định lựa chọn của sinh viên Thành Phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu nhất quán với lý thuyết lựa chọn nghề nghiệp của Hà Lan về việc làm người lao
động có xu hướng lựa chọn vai trò công việc họ yêu thích và có khả năng sử dụng và giám sát các kỹ
năng và kiến thức của họ. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn khẳng định bổ sung về khái niệm phát triển
bản thân của Super về giai đoạn Khám phá (từ 15 đến 24 tuổi) cho việc học và định hướng nghề
nghiệp. Ngoài ra, nghiên cứu còn đề xuất rằng sinh viên nên tham gia các buổi định hướng nghề
nghiệp, những hội thảo chuyên sâu về chuyên ngành, tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tập trong
ngành nghề mà họ yêu thích để tăng hiệu quả tìm kiếm và lựa chọn nghề nghiệp.
Từ khóa: Ý định nghề nghiệp, đơn vị nghề nghiệp, sinh viên, Thành Phố Hồ Chí Minh
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tóm tắt
Nghiên cứu này xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến ý định nghề nghiệp của sinh viên Đại học Thành phố Hồ Chí
Minh bao gồm: cơ hội việc làm, ảnh hưởng của mọi người xung quanh, thu nhập và phúc lợi, cơ hội phát triển
bản thân, đam mê, rủi ro trong công việc, và môi trường sống và làm việc. Sau khi phân tích 212 mẫu sinh viên
Đại học Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định nghề nghiệp của sinh viên
Đại học Thành phố Hồ Chí Minh là thu nhập và phúc lợi, cơ hội phát triển bản thân và đam mê.
1Tác giả liên hệ, Email: bta7799@gmail.com
Bộ sách nghiên cứu FTU, Tập 2 Số 2 (8/2022) | 249
Translated from English to Vietnamese - www.onlinedoctranslator.com
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với lý thuyết lựa chọn nghề nghiệp của Holland, theo đó mỗi người sẽ
được lựa chọn nơi mình yêu thích công việc và có cơ hội vận dụng, rèn luyện kỹ năng, kiến thức. Bên cạnh
đó, nghiên cứu cho thấy các khái niệm phát triển bản thân của Super lựa chọn giai đoạn Khám phá (15-24
tuổi) để học hỏi và định hướng nghề nghiệp là phù hợp. Hơn nữa, nghiên cứu khuyến nghị sinh viên nên
tham gia các buổi định hướng nghề nghiệp, hội thảo chuyên ngành và trải nghiệm thực tập tại các ngành
nghề yêu thích để nâng cao hiệu quả tìm kiếm và lựa chọn việc làm.
Từ khóa:ý định nghề nghiệp, lựa chọn nghề nghiệp, sinh viên, thành phố Hồ Chí Minh
1. Giới thiệu
Việc làm tác động đáng kể đến xã hội vì nó ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống và tỷ lệ tội phạm, trong đó vấn đề việc làm của sinh viên mới tốt nghiệp luôn
được quan tâm. Cụ thể, theo Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội), tính đến quý I năm 2019, số người thất nghiệp có trình độ
đại học là hơn 65.000 người, trình độ trung cấp là 52.700 người, trình độ đại học là
hơn 180.000 người. Theo thống kê của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI - Bộ Công Thương), hàng năm, tỷ lệ sinh viên mới tốt nghiệp không có
định hướng nghề nghiệp cụ thể là 38% và 60% sinh viên tốt nghiệp làm việc không
đúng chuyên ngành, trong khi nguồn lao động chất lượng cao không đủ đáp ứng
nhu cầu của doanh nghiệp (Đoàn, 2022).
Ngược lại với tình trạng thất nghiệp của sinh viên, nguồn nhân lực tại các doanh nghiệp lại đang
thiếu hụt. Nguyên nhân của nghịch lý này xuất phát từ việc sinh viên có thể chưa đáp ứng được yêu
cầu tuyển dụng và chuyên môn của doanh nghiệp. Do đó, sinh viên cần xây dựng lộ trình nghề
nghiệp, tích lũy kiến thức và kỹ năng cho công việc tương lai. Vì vậy, việc xác định các yếu tố ảnh
hưởng đến ý định nghề nghiệp là rất cần thiết để các nhà hoạch định chính sách xây dựng chính sách
điều tiết cung cầu thị trường lao động. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố thu hút nguồn
nhân lực cho doanh nghiệp và cung cấp những yếu tố để sinh viên cân nhắc khi thiết kế lộ trình nghề
nghiệp.
2. Tổng quan tài liệu
2.1. Các khái niệm liên quan
Nghề nghiệp là công việc được thực hiện để sống và phục vụ xã hội (Nguyễn & Lương, 2018).
Hơn nữa, nghề nghiệp là việc làm trong thời gian dài. Thời gian ngắn nhất là vài tháng, và dài nhất là
cả đời.
Việc lựa chọn nghề nghiệp dựa trên sự tự nhận thức và các yếu tố xã hội để lựa chọn nghề nghiệp
phù hợp cho công việc lâu dài. Việc quyết định nghề nghiệp cần được cân nhắc kỹ lưỡng vì luôn có chi phí
cơ hội. Do đó, mỗi người sẽ có ý định nghề nghiệp, ảnh hưởng đáng kể đến thị trường lao động.
Cơ hội việc làm là khả năng được tuyển dụng (Từ điển Collins, nd). Ngoài ra, cơ hội việc làm còn
có nghĩa là khả năng được thăng tiến lên các vị trí cao hơn trong sự nghiệp, hoặc có cơ hội làm việc ở
nhiều vị trí khác nhau.
Những ảnh hưởng từ mọi người xung quanh là tư duy, suy nghĩ, lối sống, con đường sự nghiệp hoặc địa vị xã hội
của cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn bè và hàng xóm của học sinh, những yếu tố này ảnh hưởng đến ý định nghề
nghiệp của họ.
Bộ sách nghiên cứu FTU, Tập 2 Số 2 (8/2022) | 250
Thu nhập và phúc lợi còn được gọi là tiền lương và phúc lợi (hay C&B). Thu nhập là khoản thanh toán trực
tiếp cho hiệu suất làm việc của nhân viên, trong khi phúc lợi là khoản thanh toán gián tiếp (Wooll, 2022).
Cơ hội phát triển cá nhân là cơ hội để sinh viên phát triển các kỹ năng chuyên môn, kỹ
năng giao tiếp, đặc điểm cá nhân và vị thế xã hội.
Đam mê là một cảm xúc mạnh mẽ của con người đối với công việc. Họ có thể cảm thấy hạnh phúc khi làm việc,
mong muốn làm việc hiệu quả và tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về những ngành nghề đó.
Rủi ro tại nơi làm việc là những rủi ro mà mọi người có thể phải đối mặt khi làm việc, chẳng hạn như rủi ro
về an toàn trong lĩnh vực xây dựng hoặc rủi ro pháp lý khi họ làm việc ở những vị trí có trách nhiệm cao.
Môi trường sống và làm việc là nơi sinh viên sinh sống, có thể gần hoặc xa nơi làm việc. Việc đi lại xa có thể
gây khó khăn cho người lao động, hoặc những người muốn làm việc ở nước ngoài để trải nghiệm cuộc sống hoặc
muốn ở gần để chăm sóc gia đình. Bên cạnh đó, môi trường làm việc cũng rất quan trọng bởi vì môi trường làm
việc vui vẻ, hỗ trợ, đồng nghiệp thân thiện, văn hóa doanh nghiệp và cơ sở vật chất cũng ảnh hưởng đến lựa
chọn nghề nghiệp.
2.2. Các lý thuyết liên quan
Lý thuyết về khái niệm bản thân đang phát triển của Super về hành vi nghề nghiệp (1988) lập luận về sự
trưởng thành trong lựa chọn nghề nghiệp, có liên quan hay không liên quan đến độ tuổi theo thời gian mà họ có
thể trải qua các giai đoạn chuyển đổi trong sự nghiệp. Sự trưởng thành dựa trên sở thích và năng lực chuyên
môn cũng như các tình huống cuộc sống cá nhân thay đổi theo thời gian và kinh nghiệm. Super chia sự phát triển
nghề nghiệp thành năm giai đoạn: Tăng trưởng (từ khi sinh ra đến 14 tuổi), Khám phá (15-24 tuổi), Thành lập
(25-44 tuổi), Duy trì (45-64 tuổi) và Suy thoái (65 tuổi trở lên). Rizal và cộng sự (2021) đã sử dụng lý thuyết này
trong thời gian nghiên cứu của sinh viên vì đây là giai đoạn phát triển các kỹ năng, nhu cầu, tiềm năng và khái
niệm bản thân để quyết định xem đó có phải là quyết định cuối cùng hay không.
Lý thuyết Lựa chọn Nghề nghiệp của John Holland (RIASEC) nêu rõ môi trường mà nhân viên muốn
làm việc. Mọi người có xu hướng làm việc với những người có cùng sở thích công việc, và họ có thể sử dụng
kiến thức và kỹ năng của mình, thể hiện các giá trị và đặc điểm của mình, giải quyết các vấn đề thú vị và tận
hưởng vai trò của mình tại nơi làm việc. Hành vi được xác định bởi sự tương tác giữa tính cách và môi
trường khi Holland tập trung vào khái niệm rằng hầu hết mọi người phù hợp với một trong sáu loại tính
cách: Thực tế, Khám phá, Nghệ thuật, Xã hội, Khởi nghiệp và Truyền thống (Holland, 1997). Các khía cạnh
của sáu loại tính cách có liên quan tích cực đến sự sáng tạo và đổi mới (Sharif, 2017). Cả các nhà nghiên cứu
và người thực hành đều có thể áp dụng nghiên cứu này để phân tích mối tương quan giữa các loại tính
cách và sự khác biệt; tuy nhiên, cần phát triển thêm về tính nhất quán và sự phát triển giữa các tính cách
(Hartmann và cộng sự, 2021).
Hotchkiss, Black, Campbell & Garcia Jr (1979) đã đánh giá quan điểm của Super về phát triển nghề
nghiệp như một lý thuyết về sự phù hợp giữa các giai đoạn trưởng thành nghề nghiệp và khái niệm bản
thân. Lý thuyết này chỉ tập trung vào các quan điểm cá nhân như uy tín và thu nhập, trong khi lý thuyết lựa
chọn nghề nghiệp của Holland phân tích ảnh hưởng của quan điểm xã hội. Lý thuyết sau cho thấy mối liên
hệ giữa vai trò của cá nhân và môi trường làm việc. Từ hai lý thuyết này, câu hỏi đặt ra là sự kết hợp giữa
độ tuổi nghề nghiệp, quan niệm cá nhân, nhiệm vụ xã hội và các mối quan hệ ảnh hưởng như thế nào đến
ý định nghề nghiệp của sinh viên.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Bộ sách nghiên cứu FTU, Tập 2 Số 2 (8/2022) | 251
Quan điểm của hai lý thuyết này ảnh hưởng như thế nào đến định hướng nghề nghiệp của trường Đại học Thành phố Hồ
Chí Minh?
4. Giả thuyết nghiên cứu
4.1. Cơ hội việc làm
Cơ hội có thể ảnh hưởng đến cách sinh viên nhìn nhận tương lai của mình về khả năng hợp lý
của một tương lai trong một lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể (Borchert, 2002). Do đó, cơ hội nghề nghiệp,
sự ổn định công việc và cơ hội thăng tiến trong ngành ảnh hưởng trực tiếp đến ý định lựa chọn nghề
nghiệp của sinh viên. Hơn nữa, đây là một mối quan hệ tích cực bởi vì cơ hội nghề nghiệp càng cao
thì ý định lựa chọn càng lớn.
Giả thuyết H1: Cơ hội việc làm có mối quan hệ tích cực với ý định nghề nghiệp
4.2. Ảnh hưởng của những người xung quanh
Theo Borchert (2002), một người nào đó trong cuộc sống của sinh viên có thể đã tạo ra tác động hoặc
ấn tượng đáng kể, dẫn đến lựa chọn nghề nghiệp cụ thể: nền tảng giáo dục của cha mẹ, doanh nghiệp gia
đình và truyền thống làm việc, chẳng hạn như bác sĩ và chính trị gia. Bên cạnh đó, sinh viên có thể ngưỡng
mộ những người họ hàng xuất sắc trong công việc của họ, vì vậy họ có thể muốn đi theo con đường của
họ. Hơn nữa, bạn bè cũng có ảnh hưởng vì họ có thể chia sẻ cùng sở thích và ước mơ và muốn làm việc
cùng nhau trong tương lai. Trong nghiên cứu của Nguyen & Luong (2018), yếu tố ảnh hưởng của gia đình
đã được đưa ra, chỉ ra rằng sinh viên có xu hướng giữ gìn truyền thống gia đình khi lựa chọn nghề nghiệp
và tận dụng những lợi thế từ nghề nghiệp của cha mẹ, chẳng hạn như kiến thức hoặc kinh nghiệm, hoặc
những người quen biết trong gia đình là yếu tố ảnh hưởng. Do đó, suy nghĩ, công việc và lối sống của
những người xung quanh tác động đến ý định nghề nghiệp của sinh viên đại học. Tuy nhiên, tác động này
cũng có thể tiêu cực hoặc tích cực, chẳng hạn như việc một số gia đình ép buộc con cái theo nghề truyền
thống của gia đình. Hơn nữa, do ảnh hưởng tiêu cực của những người xung quanh, sinh viên chọn một con
đường không chính xác.
Giả thuyết H2: Ảnh hưởng của con người có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến ý định nghề nghiệp.
4.3. Thu nhập và phúc lợi
Trong nghiên cứu của Quadri (2018), yếu tố thu nhập ảnh hưởng đến ý định nghề nghiệp của đối
tượng nghiên cứu. Bên cạnh đó, Douglas & Shepherd (2002) cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa lựa chọn
nghề nghiệp và thái độ của người lao động về thu nhập. Bên cạnh đó, theo tháp nhu cầu của Maslow
(1943), nhu cầu cơ bản nhất là ăn, mặc và đảm bảo an toàn vì thu nhập và phúc lợi có thể đảm bảo cho
người lao động về thức ăn, quần áo trong khi phúc lợi có thể mang lại bảo hiểm y tế. Do đó, thu nhập và
phúc lợi sẽ có tác động tích cực đến ý định nghề nghiệp.
Giả thuyết H3: Thu nhập và phúc lợi ảnh hưởng tích cực đến ý định nghề nghiệp.
4.4. Cơ hội phát triển bản thân
Theo Quadri (2018), yếu tố năng lực phát triển trí tuệ ảnh hưởng đến ý định lựa chọn nghề nghiệp của
thủ thư. Sau khi đáp ứng được những nhu cầu cơ bản trong tháp nhu cầu của Maslow (1943), người lao
động sẽ nỗ lực hướng tới việc hoàn thiện bản thân. Do đó, một công việc có thể phát triển tính chuyên
nghiệp, kỹ năng làm việc và phát triển nhận thức sẽ là điều mà người lao động hướng tới. Do đó, cơ hội
phát triển bản thân sẽ tác động tích cực đến ý định lựa chọn nghề nghiệp.
Bộ sách nghiên cứu FTU, Tập 2 Số 2 (8/2022) | 252
Giả thuyết H4: Cơ hội phát triển cá nhân có tác động tích cực đến ý định nghề nghiệp
4.5. Niềm đam mê
Về lựa chọn nghề nghiệp, Mauser & Schwartz (1970) cho rằng nhiều người không suy nghĩ quá
nhiều về loại nghề nghiệp mà họ muốn do nghề nghiệp hoặc nghề mà họ không có hứng thú và khả
năng. Họ chỉ ra rằng những phát hiện về thiên kiến lựa chọn nghề nghiệp thường quá muộn và
không được ưu tiên khi đối tượng nghiên cứu phải đối mặt với gánh nặng tài chính và những thách
thức gia đình khiến họ lo lắng và chịu đựng sự không hài lòng trong công việc suốt cuộc đời. Nguyen
& Luong (2018) đã đề cập đến các yếu tố của sinh viên, trong đó tác giả đã tách năng lực và sở
trường; ước mơ và lý tưởng chuyển thành yếu tố đam mê và tình yêu với những quan sát như: chọn
nghề dựa trên ước mơ, có nhiều thông tin và kinh nghiệm hơn, ý định nghề nghiệp mạnh mẽ hơn.
Dựa trên quan điểm trên, đam mê tác động đáng kể đến ý định chọn nghề vì sinh viên sẽ dành phần
lớn thời gian trong ngày để làm việc. Do đó, việc chọn một công việc mà họ yêu thích sẽ mang lại
niềm vui, sự phấn khích và háo hức để làm việc hiệu quả.
Giả thuyết H5: Đam mê có mối quan hệ tích cực với ý định nghề nghiệp
4.6. Rủi ro trong công việc
Theo Douglas & Shepherd (2002), thái độ đối với rủi ro ảnh hưởng đến ý định nghề nghiệp. Những rủi ro
này không chỉ đến từ nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe mà còn đến từ pháp lý. Theo tháp nhu cầu của
Maslow (1943), nhu cầu an toàn là một nhu cầu cơ bản. Do đó, sinh viên sẽ có xu hướng muốn chọn những công
việc ít rủi ro đến sức khỏe và tính mạng. Tuy nhiên, điều này có thể thay đổi nếu công việc đó có mức lương hấp
dẫn, phúc lợi và chính sách bảo hiểm an toàn cao. Mặt khác, đối với một số người lao động đã đáp ứng đầy đủ các
yêu cầu cơ bản, những rủi ro trong công việc sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến ý định nghề nghiệp.
Giả thuyết H6: Rủi ro công việc có mối quan hệ tiêu cực với ý định nghề nghiệp.
4.7. Môi trường sống và làm việc
Theo Borchert (2012), các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến ý định nghề nghiệp. Các yếu tố môi
trường có thể được chia thành môi trường làm việc và môi trường sống. Theo lý thuyết lựa chọn nghề
nghiệp của Holland (1997), mọi người muốn làm việc ở nơi có nhiều người có cùng sở thích nghề nghiệp.
Ngoài ra, văn hóa doanh nghiệp và môi trường làm việc sẽ ảnh hưởng đáng kể đến việc nhân viên làm việc
hiệu quả trong thời gian dài. Ngoài ra, môi trường sống cũng ảnh hưởng đến ý định nghề nghiệp. Những
người sống ở các khu vực có thu nhập cao có xu hướng làm công việc trí óc hơn là công việc chân tay. Lối
sống và khoảng cách đi làm cũng ảnh hưởng đáng kể đến ý định nghề nghiệp vì một số người lao động
muốn tìm cơ hội làm việc ở nước ngoài để tìm kiếm cơ hội hoặc trải nghiệm cuộc sống. Ngược lại, những
người khác muốn làm việc tại quê nhà hoặc gần nhà để chăm sóc gia đình.
Giả thuyết H7: Môi trường sống và làm việc ảnh hưởng tích cực đến ý định nghề nghiệp.
5. Vật liệu và phương pháp
5.1. Tiến độ nghiên cứu
Tác giả tiến hành nghiên cứu thông qua bảy bước chính: 1) xây dựng mô hình nghiên cứu;
2) thiết kế thang đo; 3) xây dựng bảng câu hỏi; 4) xác định quy mô mẫu; 5) thu thập dữ liệu;
6) phân tích và xử lý dữ liệu; 7) đề xuất giải pháp.
Bộ sách nghiên cứu FTU, Tập 2 Số 2 (8/2022) | 253