
Trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn tiếp cận
dưới góc độ công tác xã hội (Nghiên cứu trường
hợp tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình)
Cao Minh Huệ
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ. Công tác xã hội; Mã số: 60 90 01 01
Nghd: PGS.TS Hoàng Bá Thịnh
Năm bảo vệ: 2014
Keywords: Trẻ vị thành niên; Hành vi; Công tác xã hội; Ninh Bình
Contents:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng mang đến cho con người
nhiều tiện nghi trong cuộc sống nhưng cũng kéo theo đó là những mặt trái còn tồn tại nhức nhối
trong mọi mặt đời sống. Chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn từ môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội đặc biệt là mối quan hệ giữa người với người. Trước đây, trẻ
thường được học văn hóa, ứng xử thông qua gia đình, làng xã, văn hóa dân gian, chương trình
giáo dục chính quy… thì ngày nay, những chuyển biến xã hội diễn ra quá nhanh chóng đã phần
nào hạn chế chức năng giáo dục của gia đình và các thiết chế truyền thống đem lại cho lứa tuổi
thanh thiếu niên, đặc biệt là các em ở tuổi vị thành niên nhiều thử thách.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây, tình trạng các em trong lứa tuổi vị thành niên
có hành vi lệch chuẩn như: quay cóp, vô lễ với giáo viên, đua xe, vi phạm pháp luật, sử dụng ma
túy, quan hệ tình dục sớm, bạo lực… đang ngày càng gia tăng và ở mức báo động, gây ảnh
hưởng xấu đến môi trường học đường và nhân cách trong tương lai. Đặc biệt là tình hình người
phạm tội chưa thành niên trong những năm qua rất phức tạp, tăng cả số lượng, tính chất và mức
độ nghiêm trọng.

Ở trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình, các em chưa thành niên là những học sinh “đặc
biệt” phải nhập trường bằng hồ sơ thụ án pháp nhân, bằng những dấu vân tay, thầy cô là những
người quản giáo nghiêm khắc… Đặc điểm nổi bật của những học sinh ở đây là nhận thức hạn
chế, có hành vi lệch chuẩn ở mức độ cao là vi phạm pháp luật, đa số các em vi phạm pháp luật
nhiều lần như: trộm cắp, quậy phá, sa vào tệ nạn xã hội, nghiện ma túy, cờ bạc và nhiều thói
quen xấu. Một số em thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý như: giết người, cướp tài sản, hiếp dâm trẻ em nhưng do chưa đủ độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc trẻ chưa thành niên phạm tội, nhưng trong đó
quan trọng nhất là việc giáo dục hành vi của trẻ vị thành niên chưa được quan tâm đúng mức,
cần được xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng thực sự chú trọng. Chính vì vậy, người
nghiên cứu đã chọn đề tài: “Trẻ vị thành niên có hành vi lệch chuẩn tiếp cận dưới góc độ công
tác xã hội (Nghiên cứu trường hợp tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình)” là đề tài nghiên
cứu của mình, góp phần là yếu tố tác động vào sự hình thành và phát triển nhân cách toàn diện
của trẻ vị thành niên.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu nước ngoài
Vấn đề trẻ em phạm tội với những đặc trưng tâm lý, nhân cách đã được nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu.
Theo David P.Farrington (1996), tính hiếu động và tính hay bốc đồng là những nét tính
cách quan trọng nhất của trẻ giúp cho việc phán đoán khả năng phạm tội sau này. Ông đã tiến
hành điều tra tại Thụy Điển cho thấy, các em học sinh bị giáo viên nhận xét là hiếu động ở độ
tuổi 13 thì thường phạm các tội có sử dụng bạo lực cho đến độ tuổi 26. Ngoài ra ông còn tiến
hành nghiên cứu trí tuệ của trẻ chưa thành niên phạm tội. Cuộc điều tra ở Thụy Điển cho thấy,
trẻ được kiểm tra nếu thiểu năng trí tuệ lúc 3 tuổi thì sẽ có nguy cơ phạm tội cao cho tới độ tuổi
30. Nghiên cứu ở Cambridge cho thấy trẻ có điểm IQ nhỏ hơn 90 trong độ tuổi từ 8-10 tuổi có tỷ
lệ phạm tội cao gấp đôi các em khác. Như vậy, theo kết quả nghiên cứu của ông tại Thụy Điển
việc trẻ hiếu động ở tuổi 13 và khả năng nhận thức kém của trẻ cũng là một trong những yếu tố
dẫn đến việc trẻ có hành vi lệch chuẩn ở mức độ cao là làm trái pháp luật trong tương lai.
Dựa trên kết quả nghiên cứu của mình, nhà tâm lý học tội phạm người Nga A.I Đongova
đã đưa ra nhận định rằng, những người chưa thành niên phạm tội thường có tính phô trương,

khoe khoang, thể hiện phẩm chất tiêu cực thiếu lành mạnh của mình, làm ra vẻ anh hùng rơm…
Chúng thường thỏa hiệp với những nét tính cách của mình như: Sống không có lý tưởng, hoài
bão, dễ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ những người khác, thiếu tính điềm đạm, bình tĩnh mà chỉ
quen ăn chơi, đàng điếm, lười biếng, nghiện. [24] Đặc biệt ở giai đoạn này trẻ thay đổi mối quan
hệ gia đình và xã hội, giành nhiều thời gian hơn cho bạn bè. Thời kỳ này, trẻ rất sợ bị bỏ rơi, tẩy
chay, loại khỏi nhóm bạn, và đặc biệt hơn, trẻ mong muốn được vào nhóm để thể hiện tính cách
và đóng góp vào lợi ích chung của nhóm.
Theo các nhà tâm lý Nga [22], ở người chưa thành niên phạm tội cũng như những người
chưa thành niên bình thường thì các quan điểm pháp luật , nhận thức pháp luật không được hình
thành hoặc bị lệch lạc. Điều này tạo khả năng phát sinh hành vi không phù hợp với các qui định
của pháp luật.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
của người chưa thành niên nói chung và người chưa thành niên có hành vi phạm tội nói riêng.
Qua các nghiên cứu cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn người chưa thành niên đến việc thực
hiện những hành vi phạm tội. Đó là nguyên nhân từ phía gia đình và nhóm bạn bè vẫn được xem
là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn đối với hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Tiêu biểu
cho quan điểm này phải kể đến các tác giả như V.M Koromosikov, Margot Prior (2000), Rutter
Giller (1983) và Sarnecki (1985).
2.2. Nghiên cứu trong nước
Tác giả Phạm Minh Đức (1981) đã tiến hành nghiên cứu 265 học sinh có hành vi lệch
chuẩn ở độ tuổi từ 10-17, học tại hai trường phổ thông công - nông nghiệp. Theo tác giả các em
học sinh phạm pháp nói chung phát triển bình thường về mặt trí tuệ nhưng do động cơ học tập bị
suy thoái, nhu cầu nhận thức thấp, nhu cầu tầm thường khác cao nên dẫn đến hành vi phạm tội
của các em.
Tác giả Nguyễn Xuân Thủy (1993) đã khẳng định rằng [30], người chưa thành niên phạm
tội về cơ bản cũng có những đặc điểm tâm lý như những trẻ em bình thường khác cùng lứa tuổi.
Song, do tiếp xúc thường xuyên với những điều kiện tiêu cực và trong quá trình phạm tội mà
nhân cách của các em bị giảm sút nghiêm trọng
Theo tác giả Trần Trọng Thủy [31], ở phần lớn các thiếu niên phạm pháp, phẩm chất tiêu
cực chiếm ưu thế trong cấu trúc nhân cách, đó là: thiếu quyết tâm, vô trách nhiệm, hay bắt chước
một cách mù quáng, thô lỗ, gây gổ.

Trong quá trình nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Duy Xi là một nhà tâm lý học làm
công tác quản lý trại giam của Bộ Công An đã đưa ra một số nhận xét cơ bản về đặc điểm tâm lý
của trẻ em làm trái pháp luật như sau [19]:
- Về trí tuệ, ở trẻ làm trái pháp luật có sự phát triển chậm, tư duy trừu tượng kém hơn trẻ
bình thường, không biết phân tích đánh giá đúng một số hiện tượng mà nặng về tư duy cụ thể
thực dụng và rất khéo léo “mưu trí” trong thực hiện hành vi trái pháp luật như kỹ xảo ăn cắp,
móc túi, che dấu, đối phó với sự theo dõi phát hiện của nhà chức trách”
- Về hứng thú, ham muốn của các em thường nặng về vật chất tầm thường, thấp hèn,
thậm chí kỳ quặc. Các em không còn hứng thú học tập, hiểu biết như trẻ bình thường, thích đua
đòi, ăn chơi như người lớn (có 82% nghiện thuốc lá, 70% uống bia rượu, 72% nghiện cafe, chè.
- Về tình cảm, thiếu bền vững, thay đổi dễ dàng, nhanh chóng, nhưng lại mạnh mẽ. Tình
cảm có tính rung động cao, dễ bị kích động, bồng bột, sôi nổi là đặc trưng cơ bản của tình cảm ở
trẻ em làm trái pháp luật.
- Về tính cách, nét tính cách đặc trưng là các em muốn vươn lên làm người lớn, muốn
hoạt động để thử sức và có xu hướng bắt chước cái xấu của người lớn. Có tính độc lập và tự
trọng cao, nên nếu bị chửi rủa, đánh mắng, xúc phạm thì các em thường có phản ứng quyết liệt,
chống trả lại hoặc nảy sinh tiêu cực bỏ nhà đi lang thang, tỏ ra bất cần đời.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Minh Hạc [9], đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hành vi
phạm pháp ở người chưa thành niên. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: giao tiếp nhóm (có quan hệ
trong nhóm bạn bè) có thể là nguyên nhân khá cơ bản và rất trực tiếp đưa đứa trẻ tới hành vi
phạm pháp, với những trẻ này, giao tiếp nhóm không hướng trẻ vào hoạt động học tập mà hướng
trẻ vào hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất.
Theo tất cả những nghiên cứu cho tới nay thì mối quan hệ với bạn đồng lứa dẫn đến hành
vi lệch chuẩn của trẻ vị thành niên là rất lớn. Trẻ rất dễ bắt chước, học nhau những hành vi xấu
và coi đó là trò vui, tiêu khiển. Bên cạnh đó, khi trẻ vị thành niên bị bạn bè từ chối mối quan hệ,
coi thường… thì dễ sinh ra cảm giác cô độc, ghẻ lạnh hoặc có thể liên quan đến sức khỏe tâm
thần và những vấn đề phạm pháp. Một số nhà nghiên cứu mô tả văn hóa bạn đồng lứa của trẻ vị
thành niên là ảnh hưởng đồi bại, làm giảm giá trị tác động và sự kiểm soát của cha mẹ. Tệ hơn,
nó có thể lôi kéo trẻ vị thành niên vào rượu chè, ma túy, phạm pháp và những hành vi lệch lạc
khác.

Ngoài ra, còn nguyên nhân từ phía gia đình. Theo số liệu thống kê của Viện Kiểm sát
Nhân dân Tối cao [37] cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do không được quan tâm
chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu mới đây của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân
phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn
nàn bố mẹ không đáp ứng nhu cầu cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ.
Các kết quả thống kê đã chỉ ra rằng, đa số các trường hợp làm trái pháp luật ở trẻ em đều
rơi vào khoảng độ tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi, một số ít trường hợp rơi vào lứa tuổi từ 13 tuổi trở
xuống. Vì vậy, tìm hiểu về tâm lý trẻ em làm trái pháp luật, ngoài việc nghiên cứu tâm lý trẻ vị
thành niên nói chung, chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu và lý giải các hiện tượng tâm lý ở lứa tuổi
14 đến dưới 18 là lứa tuổi tập trung nhiều nhất các hành vi làm trái pháp luật ở trẻ em.
Theo tác giả Trần Thị Minh Đức [6, Tr.31,32] người chưa thành niên có hành vi vi phạm
pháp luật thường thuộc nhóm trẻ em chưa ngoan. Các đặc điểm tâm lý nổi trội là:
- Lệch lạc trong nhận thức về hành vi vi phạm: Đó là những sai lệch về tư duy, kiểu suy
nghĩ ủng hộ cho hành vi vi phạm xã hội hay chống đối xã hội của trẻ (các hành vi này thường thể
hiện qua cơ chế biện minh, hợp lý hóa). Các lệch lạc trong suy nghĩ ăn sâu, bám rễ trong nhận
thức và được lặp đi lặp lại trong hành vi trở thành thói quen hành động của trẻ. Các lệch lạc
trong nhận thức thường thể hiện ở các mức độ sau:
+ Nói giảm nhẹ hành vi vi phạm của mình để người nghe chấp nhận được: “Cháu chỉ lấy
mỗi một cái bánh thôi”, “Vì cháu đói”, “Chúng cháu chỉ giả vờ chơi vợ chồng thôi”, “Cháu chỉ
đánh nó mấy cái”...
+ Chối bỏ trách nhiệm về hành vi của mình: “Không phải là lỗi của cháu”, “Cháu không
biết”, “Nó bảo cháu làm thế thì cháu làm, còn bán được bao nhiêu thì cháu không biết”...
+ Niềm tin về sở hữu, khi cho rằng mình có quyền đối với tài sản của người khác: “Cháu
chỉ mượn đi tạm thôi”, “Nếu cháu không được thì họ cũng đừng hòng được hưởng”, “Của cháu,
họ đã hứa cho cháu mà”...
+ Cho rằng mình có quyền gây tổn thương cho người khác: “Cháu có quyền làm như
vậy”, “Đáng lẽ cháu còn cho ăn đòn nặng hơn”...
+ Đổ lỗi cho nạn nhân: “Nó bắt đầu trước chứ”, “Ai bảo họ có tiền mà không biết giữ”,
“Ai bảo nó mách lẻo”...
- Đặc điểm tính cách xấu nổi trội ở trẻ vi phạm pháp luật
+ Không vâng lời, bướng bỉnh, có xu hướng chống đối các biện pháp giáo dục