44
NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG
CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO
TRONG
CA DAO NGƯỜI VIỆT
NGUYÊN HẰNG PHƯƠNG?)
1. Cảm hứng chủ đạo là “Trạng thái
tình cảm mãnh liệt, say đấm xuyên suốt
tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất
định, gây tác động đến cảm xúc của
những người tiếp nhận tác phẩn?”. Bê-
lin-xki - nhà lý luận văn học Xô Viết -
cũng đã nhận thức được vai trò quan
trọng của cảm hứng chủ đạo trong sáng
tạo văn học nghệ thuật, ông coi cảm hứng
chủ đạo là “điều kiện không thể thiếu
được của việc tạo ra những tác phẩm đích
thực, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần
tuý trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu
đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ,
một khát vọng nhiệt thành”."
Cũng như một số khái niệm khoa học
khác, khái niệm cảm hứng chủ đạo có
quá trình hình thành, phát triển và sự
giới hạn nội hàm nhất định. “Thuật ngữ
cảm hứng chủ đạo lúc đầu chỉ yếu tố
nhiệt tình, say sưa diễn thuyết, sau chỉ
trạng thái mê đắm khi xuất hiện tứ thơ.
Về sau lý luận văn học xem cảm hứng
chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội
dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng
xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới được
mô tả” [6.39]. Như vậy, cảm hứng chủ
đạo đã ngày càng thâm nhập sâu vào thế
°) Thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên.
giới nghệ thuật song song với quá trình
điều chỉnh nhận thức của khoa học lý
luận văn học.
2. Việc tìm hiểu cảm hứng chủ đạo
trong văn học nghệ thuật là một trong
những hướng tiếp cận nội dung tư tưởng
tác phẩm thường thấy xưa nay. Song, từ
việc tìm hiểu cảm hứng chủ đạo đi đến
những nhận xét về mối quan hệ giữa nó
với các yếu tố nội dung, hình thức tác
phẩm, đết. việc phát hiện sự biến đổi có
tính quy luật của cảm hứng chủ đạo giữa
các chuỗi tác phẩm, các bộ phận tác
phẩm là một trong những hướng đi còn
mới mẻ. Vấn để chúng tôi đặt ra ở đây là
vận dụng lý luận, tìm hiểu cảm hứng chủ
đạo, tìm hiểu sự chuyển đổi cảm hứng
chủ đạo từ ca dao cổ truyền đến ca dao
hiện đại. Cũng cần nói thêm rằng, để sự
nghiên cứu có tính khách quan khoa học,
chúng tôi sẽ xem xét cảm hứng chủ đạo ở
một số tác phẩm tiêu biểu trước khi tiến
hành nghiên cứu cẩm hứng chủ đạo trong
ca dao.
2.1. Trong văn học nghệ thuật, cảm
hứng chủ đạo có vai trò quan trọng, chỉ
phối cảm xúc và một số không nhỏ thành
phần nội dung, hình thức tác phẩm.
2.1.1. Truyện Kiểu của đại thi hào
dân tộc Nguyễn Du là một ví dụ tiêu
biểu. Trong thi phẩm tuyệt diệu này,
“loại (...) hiện tượng đời sống được miêu
tả phản ánh” là những số phận con người,
đặc biệt là những kiếp người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Trong truyện
Kiều, có nhiều câu trực tiếp triết lý về
kiếp đời chìm nổi, bèo bọt của con người
với những lời thơ thấm thía từ gan ruột.
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Thương thay cũng một biếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chỉ.
Những là oan bhổ lưu ly,
Chờ cho hết biếp còn gì là thân” .v.v...
Và có bao nhiêu lần Kiều đánh đàn -
tiếng đàn chứa chất tâm trạng - thì cũng
có bấy nhiêu lần trái tim tác giả thổn
thức theo nhịp đập tâm trạng nàng. Cũng
vậy, có bao nhiêu lần Kiều gặp tai hoạ là
có bấy nhiêu lần tác giả thốt lên những
tiếng kêu xa xót, xé lòng ...
Như vậy, từ việc lựa chọn đề tài số
phận con người, lựa chọn các phương tiện
biểu đạt .... đến sự vui, buôn, hả hê, đau
xót trước những tâm trạng, cảnh huống
gặp trong đường đời của nhân vật trung
tâm - nàng Kiều, Nguyễn Du đã khêu gợi
và thổi vào trái tim độc giả một thứ xúc
cảm đặc biệt tạo thành cảm hứng chủ đạo
nhân đạo chủ nghĩa. Cảm hứng chủ đạo
nhân đạo chủ nghĩa, tấm lòng đau đời,
thương người ấy đã chỉ phối toàn bộ hệ
thống hình tượng. Cảm hứng ấy hoá thân
trong từng cảnh huống, tính cách nhân
vật và “nhờ vậy, vượt ra ngoài dự kiến
chủ quan của tác giả, làm “vô hiệu hoá” ở
một mức độ nhất định chủ nghĩa định
mệnh cùng những triết lý duy tâm cố
hữu trong tư tưởng của nhà nho Nguyễn
Du” [ã. 47]. Như vậy, nàng Kiều và các
nhân vật trong tác phẩm không phải là
những mình hoạ sơ lược cho tư tưởng
định mệnh, tài mệnh tương đố và những
triết lý duy tâm khác như có người đã
nhận định mà là những hình tượng nghệ
thuật sinh động chứa đựng tư tưởng
nhân đạo chủ nghĩa, tình cảm tâm huyết
của tác giả trước những kiếp người và
những biến cố của cuộc đời, góp phần tạo
nên tính cách đa dạng mà thống nhất của
4ð
nhân vật “huý Kiều, góp phần huy động
những phương tiện nghệ thuật... phù
hợp để tái hiện, tái tạo hiện thực. Có thể
đánh giá, khen chê Nguyễn Du về điểm
này hay điểm khác nhưng thi tài của ông
vần là siêu phàm và cảm hứng chủ đạo
nhân đạo chủ nghĩa trong tác phẩm vẫn
ngời sáng. Truyện Kiều đã, đang và sẽ
làm rung động bao trái tim nhậy cảm của
người đời bởi cốt truyện ly kỳ éo le, bởi
những vần thơ sắc sảo điêu luyện, bởi
những xúc cảm nhân đạo chân thực mà
đại thi hào Nguyễn Du đã phả vào tác
phẩm.
2.1.2. Với loại hình trữ tình, cảm
hứng chủ đạo càng có điều kiện bộc lộ rõ
nét. Thơ Tế Hữu là một ví dụ. Thơ ông,
theo nghiên cứu của một học giả có tên
tuổi - là thơ trữ tình chính trị - hơn thế,
là “đỉnh cao thơ trữ tình chính trị". Thơ
ông, đa dạng về đề tài, phong phú về
giọng điệu, tài tình ở phương cách biểu
đạt, đầy ắp cảm xúc, nhiệt tình cách
mạng. Không giống thơ của nhiều nhà
thơ khác, thơ ông nhất quán về tư tưởng,
cảm xúc. Có thể đưa ra nhận xét ấy với
đa phần tác phẩm thơ, với từng tập thơ
gắn với các thời điểm lịch sử của dân tộc,
với cả chàng đường thơ đồ sộ của ông.
Như vậy, cũng có nghĩa là có thể tìm hiểu
cảm hứng chủ đạo trong từng bài thơ,
từng tập thơ hay cả chặng đường thơ
Tố Hữu.
Trong số 24 bài thơ in trong tập Tố
Hữu Thơ có 1ð bài thuộc các để tài: đấu
tranh cách mạng, xây dựng đất nước, Tổ
quốc, lãnh tụ, người chiến sĩ (chiếm
>63%). Như vậy, cảm hứng chủ đạo trong
thơ ông chủ yếu là cảm hứng trữ tình lịch
sử dân tộc. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng:
tìm hiểu cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố
46
Hữu không nên chỉ dừng lại ở việc định
danh chúng qua liệt kê các lớp để tài.
Theo nghiên cứu của tác giả 7h¡ pháp thơ
Tố Hữu, hiện nay, trong văn học nghệ
thuật có 3 dòng “thể tài” (tức 3 dòng nội
dung thể loại): Lịch sử - dân tộc, đạo đức
- thế sự, đời tư. Tác giả cho rằng “ở các
tác phẩm lớn thường có sự kết hợp các
nét nội dung thể tài với nhau, trong đó có
một hay hai nét chiếm ưu thế, tạo thành
loại tác phẩm đa bình diện”. Thơ Tố Hữu
có nhiều bài thuộc loại tác phẩm đa bình
diện như thế. Trong những bài thơ đa
bình diện ấy, xét về phương diện cảm
hứng chủ đạo cũng có những “cách tân”
đáng kể. Nói cách khác, sự đan xen tự
nhiên giữa các đề tài, sự kết hợp hài hoà
giữa các chủ đề với các thể tài... làm cho
cảm hứng chủ đạo trong thơ Tố Hữu cũng
“đa thanh sắc”, “giầu âm điệu cảm xúc”,
dễ đi vào lòng người, dễ rung động tình
người. Chẳng hạn, trong thơ Tố Hữu, cảm
hứng chủ đạo trữ tình đời tư là một mạch
cảm xúc đáng kể. Song, khách quan mà
xét, sự ý thức về đời sống cá nhân, những
xúc động cá nhân ấy, thường được sưởi
ấm bởi tình cảm cách mạng, niềm lạc
quan cách mạng khiến cảm hứng trữ tình
đời tư trong thơ Tế Hữu buôn nhưng
không bì luy, rất “cá nhân” nhưng không
đơn độc. Và, “Em yêu”, “Đôi ta”, “Hai đứa
mình”... trong thơ ông cũng chững chạc
hơn, rắn rỏi hơn “Em yêu”, “Đôi ta”...
trong tác phẩm của các nhà thơ cùng
thời.
Điều đáng lưu ý là, trong thơ Tố
Hữu, cảm hứng chủ đạo trữ tình lịch sử -
dân tộc vẫn là mạch cảm xúc chủ yếu.
Cảm hứng ấy không chỉ đánh thức những
tình cảm tiểm ẩn trong trái tim độc giả
mà trước hết, nó chi phối việc lựa chọn đề
NGUYỄN HẰNG PHƯƠNG
tài và các phương tiện nghệ thuật khác
tạo nên chất “trữ tình chính trị” - một
thứ “ma lực” cuốn hút người thưởng thức
và bình giá thơ ông một thời.
Những điều nêu trên cho thấy, cảm
hứng chủ đạo là “mạch ngầm” tư tưởng
của tác phẩm, là yếu tố chi phối và khuấy
động không khí xúc cảm của cả người
sáng tác lẫn đối tượng tiếp nhận tác
phẩm. Nhưng vấn đề còn là ở chỗ, xem
xét cảm hứng chủ đạo phải nhìn từ nhiều
bình diện. Xem xét cảm hứng chủ đạo với
tư cách là tư tưởng, tình cảm của tác giả
đối với hiện thực được mô tả, chúng ta sẽ
có thể cắt nghĩa được sự “vận động” của
một số yếu tố nội dung, hình thức trong
chỉnh thể tác phẩm. Nếu xét cảm hứng
chủ đạo với tư cách là yếu tố của bản
thân nội dung tác phẩm, chúng ta sẽ chỉ
ra được mạch cảm xúc tuôn chảy trong
tác phẩm, lý giải được phần nào sức hấp
dẫn, sức sống của tác phẩm với công
chúng, với thời gian.
Như vậy, có thể nói, cảm hứng chủ
đạo là một yếu tố có vai trò cả trong quá
trình sáng tạo lẫn thưởng thức văn học
nghệ thuật. Yếu tố đó có mặt và thâm
nhập vào hầu hết các “ngõ ngách” của tác
phẩm. Có điều, cần nhận thức sâu sắc về
vai trò của cảm hứng chủ đạo ở mỗi “tư
cách” mà nó đảm trách. Với “tư cách” là
thái độ, tư tưởng tình cảm của tác giả với
hiện thực được mô tả trong tác phẩm, nó
là điều kiện tiên quyết, là nguồn cảm
hứng để người sáng tác tạo nên giá trị tác
phẩm từ sự lựa chọn hiện thực. Tức, là
yếu tố tạo nguồn và thúc đẩy quá trình
sáng tạo văn học nghệ thuật. Chẳng hạn,
cảm hứng chủ đạo giúp lựa chọn, tổ chức,
triển khai các khía cạnh khác nhau của
đề tài, tạo nên hệ thống đề tài mới trên
cơ sở thế giới quan và quan niệm nghệ
thuật mới. Với “tư cách” là một yếu tố của
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
bản thân nội dung tác phẩm, cảm hứng
chủ đạo là hệ quả của quá trình thâm
nhập thực tế, lựa chọn đề tài, thể nghiệm
tư tưởng, tình cảm... của tác giả. Tức, là
kết quả của sự hoà điệu tuyệt vời giữa
thế giới quan với tài năng, bản lĩnh và
mức độ thâm nhập của người sáng tác
vào hiện thực đời sống. Nó có khả năng
thức tỉnh những tình cảm ở độc giả, làm
tiền để cho sự tiếp nhận sâu sắc tác
phẩm, biến quá trình tiếp nhận tác phẩm
dường như khô khan thành quá trình
tiếp nhận tự nguyện nhờ sự đồng cảm,
thăng hoa nghệ thuật. Song, điều quan
trọng là, ở cả hai “tư cách”, cảm hứng chủ
đạo đều có vai trò (gián tiếp hoặc trực
tiếp) tác động vào người tiếp nhận, tạo
nên những xúc cảm thẩm mỹ ở họ, khiến
“sự chiếm lĩnh thuần tuý trí óc đối với tư
tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng”
như Bê-lin-XRI đã từng nhận xét.
2.2. Xét cảm hứng chủ đạo trong ca
đao là một hướng đi cần thiết để tiếp cận
thể loại, tìm ra sự chuyển đổi các hình
thức nghệ thuật mang tính nội dung từ
ca dao cổ truyền đến ca dao hiện đại. Tuy
nhiên, ở phần trước, chúng tôi đã có địp
để cập đến cảm hứng chủ đạo khi tìm
hiểu về hệ thống để tài trong ca dao cổ
truyền và ca dao hiện đại. Đó là cảm
hứng chủ đạo với tư cách là tư tưởng,
tình cảm của tác giả đối với mảng hiện
thực được mô tả. Tìm hiểu cảm hứng chủ
đạo với tư cách là một yếu tố của bản
thân nội dung nghệ thuật, tức “trạng thái
tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt
tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
tưởng xác định, một sự đánh giá nhất
định, gây tác động đến cảm xúc của
những người tiếp nhận tác phẩm” là mục
đích chính của chúng tôi trong phần này.
Thực hiện mục đích nghiên cứu,
chúng tôi tiến hành “định lượng” cảm
47
hứng chủ đạo trên cơ sở sự khảo sát,
thống kê cụ thể. Thao tác đó sẽ kéo theo
việc phải xác định rõ một số khái niệm sử
dụng trong quá trình nghiên cứu. Chúng
tôi dùng tập hợp từ “cảm hứng trữ tình”
(đời tư, lịch sử - dân tộc, đạo đức - thế
sự) với tư cách là một thuật ngữ khoa học
trong đó “trữ tình” được dùng không phải
với tư cáck là phương thức phản ánh (bên
cạnh phương thức tự sự, kịch) mà với tư
cách là định ngữ cho “cảm hứng chủ đạo”
nhằm mục đích nhấn mạnh vào tính chất
trữ tình của đối tượng nghiên cứu. Từ
đây, vì lý do giản tiện, chúng tôi dùng
thuật ngữ “cảm hứng” với nghĩa là “cảm
hứng chủ đạo” trong quá trình tìm hiểu
cảm hứng chủ đạo của các bộ phận ca dao
người Việt.
Thông thường, người ta tìm hiểu cảm
hứng trong từng tác phẩm. Ỏ đây, do đặc
điểm đối tượng và mục đích nghiên cứu,
chúng xác định cảm hứng của từng
“chuỗi” lời ca dao, từng bộ phận ca dao
chia theo các mốc lịch sử. Và định ra tiêu
chí phân loại các lời ca dao làm cơ sở cho
việc xác định cảm hứng theo mục đích
trên là thao tác khoa học cần thiết đầu
tiên.
Chúng ta biết rằng, trong quá trình
sáng tạo văn học nghệ thuật, người sáng
tác có mối quan hệ đầu tiên và mật thiết
với để tài (tức mảng hiện thực được mô tả
trong tác phẩm). Mối quan hệ đó là khởi
nguồn của mọi xúc cảm tạo nên giá trị
tác phẩm. Như vậy, xét đến cùng, cảm
hứng trướ. hết và chủ yếu bắt nguồn từ
để tài, có quan hệ mật thiết với để tài.
Vậy, xác định cảm hứng của các “chuỗi”
lời ca đao được phân loại theo tiêu chí đề
tài là hướng tiếp cận có cơ sở khoa học.
48 NGUYÊN HẰNG PHƯƠNG
Sơ đồ la - Khảo sát một số đề tài trong ca dao cổ truyền
Đề tài (Lời, %) Tình yêu Các đề tài
đôi lứa Gia đình khác
Số lời cadao
cô truyền đã khảo sát
(100%) (~ 52%) (~ 8,4%) (~ 39,9%)
Ghi chú :
1. Bảng thống kê trên sẽ tiếp tục được cụ thể hoá.
2. Trên cơ sở các đề tài đã khảo sát, người nghiên cứu xác định cảm hứng
chủ đạo của ca dao cổ truyền ( Thể hiện ở biểu đồ trang sau)
Sơ đồ 1b - Khỏẻo sát một số đề tài trong ca dao hiện đại
Đề tài Đấu
(Lời, %) tranh Sản ã R Tổ quốc
cách xuất xây ô Chủ Iế đất
đao hiện đại mạng dựng | nước
đã khảo sát
—
(100%) ~28,73% | ~10,52% | ~24,33% | ~x4,05% | ~x4,91% | x27,44%
Ght chú :
1. Bảng thống kê trên sẽ tiếp tục được cụ thể hoá.
2. Trên cơ sở khảo sát các đề tài trên, người nghiên cứu xác định cảm hứng
chủ đạo của ca dao hiện đại ( Thể hiện ở biểu đồ trang sau)
BIẾU ĐỒ THỂ HIỆN SỰ CÓ MẶT CỦA CÁC CẢM HỨNG
TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN VÀ CA DAO HIỆN ĐẠI
La-Cảm hứng trữ Ma-Cảm hứng
tình đời tư 7.096 trữ tình lịch sử
lời (chiếm 60%) dân tộc 841 lơi
Llb- Các loại cảm Khiôm 72,56% )
hứng khác b- Các cảm
hứng khác
Biểu đô 1a: Sự có mặt Biểu đồ 1b: Sự có mặt
của cảm hứng trữ tình đời tư của cảm hứng trữ tình lịch sử
trong ca dao cổ truyền dân tộc trong ca dao hiện đại
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2.2.1. Chúng tôi tiến hành khảo sát
các lời ca đao cổ truyền in trong Kho tàng
ca dao người Việt và của các lời ca dao
hiện đại In trong Ca đao Việt Nam 1945 -
1975; Ca dao chống Mĩ cứu nước chọn
lọc; Cụ Hồ ở giữa lòng dân theo 9 hướng:
2.2.1.1. Ở bộ phận ca dao cổ truyền,
chúng tôi khảo sát 9 đề tài: Tình yêu và
gia đình. Trong ca dao hiện đại chúng tôi
khảo sát một số đề tài: đấu tranh cách
mạng, sản xuất xây dựng, lãnh tụ, tổ
quốc đất nước, phản chiến. (Kết quả khảo
sát được thể hiện bằng sơ đồ 1a, 1b)
2.2.1.2. Bước đầu chúng tôi nghiên
cứu chủ đề và sắc thái biểu cảm của
những lời ca dao ở một số đề tài tiêu biểu.
Khảo sát 300 lời ca dao cổ truyền về
đề tài tình yêu in trong Xho tàng cư dao
người Việt (tập Ù, chúng tôi thống kê
được 8 chủ đề: tình yêu say đắm bất chấp
mọi khó khăn, trở ngại: 45 lời (chiếm
15%); Tình yêu tan vỡ vì những nguyên
nhân khách quan và chủ quan; 27 lời
(chiếm9%); Tình yêu chân thực, giản dị
nhưng vô cùng đẹp đẽ, nên thơ: 108 lời
(chiếm x 34,33%); Nỗi nhớ nhung, thốn
thức trong tình yêu: 108 lời (chiếm 36%);
Sự giận hờn, trách cứ trong tình yêu: 16
lời (chiếm ~ 5,33%); Đừng bỏ lỡ cơ hội
yêu: ð lời (chiếm x 1,66%); Vẻ đẹp lý
tưởng của người yêu và tình yêu: 2 lời
(chiếm ~ 0,66%).
Khảo sát 139 lời ca dao hiện đại về
đề tài tình yêu in trong Ca đao Việt Nam
1945 - 1975; Ca dao chống Mĩ cứu nước
chọn lọc, chúng tôi thống kê được các chủ
đề sau: Tình yêu gắn với sự nghiệp đấu
tranh bảo vệ đất nước: 49 lời (chiếm z~
40,16%); Tình yêu gắn với lao động sản
xuất và sự nghiệp xây dựng đất nước: 2ð
lời (chiếm x 20,49%); Tình yêu gắn với
chiến dịch diệt giặc đốt: 4 lời (chiếm ~
3,28%); Tình yêu thuỷ chung, tràn đầy
49
tỉnh thần lạc quan cách mạng: 37 lời
(chiếm ~x 30,33%); Vẻ đẹp lý tưởng của
người yêu theo quan điểm mới: 7 lời
(chiếm > ã,74%).
Dựa vào tiêu chí “sắc thái biểu cảm”
để phân loại ca dao về đề tài tình yêu,
chúng tôi có kết quả như sau:
Trong số 11.89ã lời ca dao cổ truyền
có 4.733 lời mang “sắc thái biểu cảm”
dương tính (chiếm x> 77,56%) và 1.369 lời
mang “sắc thái biểu cảm” âm tính (chiếm
+ 22,44%).
Trong khi đó ở bộ phận ca dao hiện
đại có ð lời mang “sắc thái biểu cảm”
dương tính (chiếm x 4,1%) và 117 lời
mang “sắc thái biểu cảm” âm tính (chiếm
~ 95,9%) *rong tổng số 122 lời ca dao
khảo sát.
Trong phong cách học, “sắc thái biểu
cảm” được dùng chỉ phần tỉn bổ sung của
tín hiệu ngôn ngữ, chỉ thái độ đánh giá
tình cảm của người nói với đối tượng được
nói đến. Ở đây, chúng tôi dùng khái niệm
“sắc thái biểu cảm” để chỉ phần tin cơ sổ
của tín hiệu ngôn ngữ - tức nội dung của
những lời ca dao khảo sát. Từ “ sắc thái”
được dùng nhằm mục đích diễn tả sự biến
chuyển tỉnh tế của các thành phần ý
nghĩa trong nội dung cơ sở của những lời
ca dao khảo sát.
2.2.2. Những thống kê, phân loại ở
trên cho thấy:
2.2.2.1. Ở mỗi bộ phận ca dao, tần số
xuất hiện những đề tài trung tâm rất
khác nhau. Trong ca dao cổ truyền,
những lời về đề tài tình yêu và gia đình
chiếm tỷ lệ khá cao (+ 60,4% - xem sơ đồ
1a). Đó là những lời ca dao ý thức về đời
sống cá nhân, bắt nguồn từ những xúc
động cá nhân. Tác giả dân gian sáng tác
những lời ca dao về các để tài này đứng ở
“sóc độ cá nhân” để nhìn nhận vấn để,
xem xét hiện thực. Chúng tôi xác định
50
những lời ca dao trên thuộc cảm hứng trữ
tình đời tư (xem biểu đồ 1a). Trong ca dao
hiện đại, số lời ca dao chiếm tỷ lệ cao lại
là những lời về đề tài đấu tranh cách
mạng, sản xuất xây dựng, lãnh tụ, Tổ
quốc đất nước... ( ~ 72,6% - xem sơ đồ
1b). Những lời ca dao này ít nhiều đề cập
tới các sự kiện đấu tranh giai cấp, chiến
tranh cách mạng, có ảnh hưởng đến vận
mệnh dân tộc. Chúng tôi xác định những
lời ca dao này thuộc cảm hứng trữ tình
lịch sử - dân tộc. (xem biểu đồ 1b).
Song, sẽ là phiến điện nếu như người
nghiên cứu không xem xét cảm hứng của
những lời ca dao thuộc các đề tài chưa
được kể đến ở trên. Sự so sánh giữa
chúng (giữa những lời ca dao thuộc cảm
hứng trữ tình lịch sử - dân tộc với những
lời ca dao thuộc cảm hứng khác) sẽ là
những gợi ý thiết thực giúp tìm ra sự
chuyển đổi hết sức tự nhiên, linh hoạt
của các yếu tố nội dung, hình thức giữa 2
bộ phận ca dao: cổ truyền và hiện đại.
Vấn đề này chúng tôi sẽ trở lại trong một
bài nghiên cứu khác.
Tuy nhiên, không thể chỉ xem xét
cảm hứng ở bình diện “bề nổi” mà còn
phải nghiên cứu nó ở bình điện “bề sâu”.
Nhìn vào số liệu thống kê, phân loại và
các sơ đồ, biểu đồ ở trên, chúng ta mới chỉ
điểm danh được các lớp để tài, gọi tên
được cảm hứng của từng bộ phận ca dao
chia theo tiến trình lịch sử. Chủ để, nội
dung của từng chuỗi, từng bộ phận ca dao
chia theo tiêu chí đề tài là những vấn đề
cần được tiếp tục xem xét.
2.2.2.9. Số lượng, đặc điểm, cách biểu
hiện của một số chủ đề được khai triển từ
các đề tài trung tâm trong ca dao cổ
truyền và ca dao hiện đại rất khác nhau.
Tình yêu trong ca dao cổ truyền là
đề tài đáng lưu ý. Đề tài này được triển
khai thành nhiều chủ đề (xem kết quả
thống kê ở mục 2.9.1.9). Điều đó cho thấy
NGUYỄN HÀNG PHƯƠNG
sự đa dạng trong việc biểu đạt đời sống
nội tâm của quần chúng lao động về vấn
đề hết sức riêng tư - tình yêu đôi lứa. Tất
cả các cung bậc tình cảm: Yêu thương,
nhớ nhung, giận hờn, trách móc, riết
róng, lạnh lùng .... trong tình yêu đôi lứa
đều được rhản ánh sinh động qua các lời
ca dao. Xin đơn cử vài ví dụ:
6B.Yêu nhau uạn sự chẳng nề,
Một trăm chỗ lệch cũng bê cho bằng.
HT230 NGCK111a TCBDI17 TNPDI150
199. Nhớ ai trong dạ bồi hồi,
Khi đúng tưởng huệ khi ngồi tưởng mai.
HPV149 HT 167
ñ. Ở chỉ hat dạ ba lòng,
Dạ cam thì ngọt dạ bòng thì chua.
VNP7 210
YÝ..v...
Phải chăng đây chính là một trong
những nguyên nhân tạo nên sức hấp dẫn
của ca dao cổ truyền? Tuy nhiên, sức hấp
dẫn của ca dao cổ truyền không chỉ ở sự
đa dạng phong phú của các chủ để mà
còn ở cách thể hiện chủ đề đó trong tác
phẩm. Nếu như ở ca dao hiện đại, các chủ
đề thường được khai thác qua lời tâm
tình trực tiếp của tác giả dân gian [11.18]
thì ở ca dao cổ truyền những chủ đề khai
thác từ các đề tài (đặc biệt đề tài tình
yêu) lại bộc lộ chủ yếu qua hệ thống hình
tượng và tâm trạng nhân vật trữ tình.
Chẳng hạn:
729. Thương tằm cởi áo bọc dâu,
Về nhà .nẹ hỏi qua cầu gió bay.
CDTCM47
166. Bao giờ cho hương bén hoa,
Khăn đào bén túi thời ta lấy mình.
Thuyền không đậu bến giang Đình,
Ta không ta quyết lấy mình mà thôi.
THQP ða
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Như vậy, có thể nói, cảm hứng trữ
tình đời tư là mạch cảm xúc chính chỉ
phối không khí các lời ca của bộ phận ca
dao cổ truyền.
Trong khi đó các đề tài: đấu tranh
cách mạng, sản xuất xây dựng, lãnh tụ,
Tổ quốc đất nước... không chỉ chiếm tỉ lệ
cao mà còn đáng chú ý bởi các chủ đề
được khai triển từ các đề tài đó khá đa
dạng, đặc biệt “ đề tài Hồ Chủ Tịch được
tác giả dân gian khai thác khá triệt để”.
Có thể thấy rằng, những đề tài tưởng
chừng “khô khan” “không tươi mát” cũng
tạo được sức hấp dẫn riêng đối với quần
chúng lao động. Tuy nhiên, vấn đề còn là
ở chỗ quần chúng đó sống trong giai đoạn
lịch sử nào, tiếp thu ảnh hưởng của quan
điểm nghệ thuật nào ... Một nhà lý luận
văn học đã từng nhận xét: Cảm hứng
sáng tạo trong giai đoạn lịch sử hiện nay
có thể được tạo ra bởi những xúc cẩm
xuất phát từ các vấn đề chính trị của thời
đại và cho rằng điều đó hoàn toàn hợp
quy luật. Có thể dẫn một vài lời ca dao đề
cập đến những khía cạnh khác nhau của
đời sống chính trị song vẫn rạo rực cảm
hứng trữ tình.
... Lòng đân uê uới cụ Hồ,
Như sông uề biển khi mô cho ngừng.
(Lời 251 - Ca dao Việt Nam 1945 - 1975)
Chim bhôn chọn nhánh chọn nhành,
Người khôn biết Tổ quốc mình là đâu.
(Lời 107 - Ca dao Việt Nam 194õ - 1975)
Bao giờ đất nước thái bình,
Việt Nam độc lập thì mình lấy ta.
(LỡI 39 - Ca dao Việt Nam 1945 - 1975)
2.2.2.3. Sự phân loại ca đao về đề tài
tình yêu thành: dương tính và âm tính
(Xem kết quả thống kê mục 9.2.1.2) giúp
phần nào nhận thấy những cung bậc tình
cảm của tâm trạng nhân vật trữ tình. Mà
“nhân vật trữ tình” là gì nếu không phải
S1
là hình tượng nghệ thuật sinh động, hư
cấu nên từ “nguyên mẫu” ở ngoài đời.
Như vậy, hiện thực sinh động ở mỗi giai
đoạn lịch sử cũng góp phần tạo nên sự
phong phú, đa dạng của sắc thái biểu
cảm ở những lời ca dao tình yêu. Tuy
nhiên, sự phân loại trên chỉ có ý nghĩa
tương đối bởi giới hạn và biểu hiện của
sắc thái biểu cảm nhiều khi hết sức mong
manh, tỉnh tế. Chẳng hạn, hai lời ca dao
sau có thể xác định được sắc thái biểu
cảm.
807 - Đôi ta như lửa mới nhẹn,
Như trăng mới mọc như đèn mới bhêu.
HT148 VNPII 60 VNP7 182
(Sắc thái biểu cảm dương tính)
194 - Thương tằm ngửa áo bọc dâu,
Tưởng tằm có ngãi hay đâu bạc tình.
DCNTB II 143
(Sắc thái biểu cảm âm tính)
Còn lời ca dao sau nên xếp vào loại
nào:
198 - Không buông giọng bướm lời hoa,
Có sao lại bắt lòng ta cảm tình.
TCBDI 147
2.2.3. Những nghiên cứu ở trên cho
phép chúng tôi rút ra một số kết luận
sau:
2.2.3.1. Cảm hứng trong sáng tạo
văn học nghệ thuật là một yếu tố thuộc
phạm trù nội dung, song lại có mối quan
hệ gắn bó mật thiết với vấn đề lựa chọn,
tổ chức, cấu tạo đề tài - một phương điện
của phạm trù thi pháp học. Như vậy, xem
xét cảm hứng trong mối quan hệ với để
tài thực chất là đi vào “lãnh địa” của thi
pháp học hiện đại để nhìn nhận, đánh giá
vai trò và các mối quan hệ giữa nó với các
yếu tố có liên quan. Nghiên cứu cảm
hứng trong ca dao là một thể nghiệm
bước đầu theo hướng trên.
õ2
2.2.3.2. Cảm hứng trong bộ phận ca
đao cổ truyền chủ yếu là cảm hứng trữ
tình đời tư. Nói cách khác, nhiều lời ca
dao cổ truyền chứa đựng cảm hứng trữ
tình đời tư. Cảm hứng của bộ phận ca dao
hiện đại chủ yếu là cảm hứng trữ tình
lịch sử - dân tộc. Nói cách khác, hầu hết
các lời ca dao hiện đại chứa đựng cảm
hứng trữ tình lịch sử - dân tộc.
Như vậy, có sự khác nhau về cảm
hứng giữa hai bộ phận ca dao: Cổ truyền
và hiện đại. Điều đó một mặt phản ánh
sự thay đổi nguồn cảm hứng trong sáng
tạo văn học nghệ thuật ở mỗi giai đoạn
lịch sử; mặt khác đánh dấu bước chuyển
biến trong quan niệm nghệ thuật của các
tác giả dân gian cùng thị hiếu thẩm mĩ
không chỉ của người sáng tác mà của cả
người thưởng thức văn học nghệ thuật
dân gian. Vậy nên, có thể nói rằng, sự
thay đổi cảm hứng và một số yếu tố khác
trong chỉnh thể tác phẩm văn học nghệ
thuật là sự thay đổi có tính quy luật cho
dù người sáng tác ra nó có ý thức hoặc
không có ý thức.
2.2.3.3. Sự khác nhau giữa các chủ
đề được khai thác từ cùng một đề tài, sự
khác nhau về "sắc thái biểu cảm” của các
lời ca dao về đề tài tình yêu ở hai bộ phận
ca dao cổ truyền và hiện đại cho thấy sự
chuyển đổi cảm hứng nói riêng, sự
chuyển đổi các đặc điểm thi pháp khác
nói chung không dừng ở thay đổi diện
mạo mà đi vào chiều sâu - thay đổi nội
dung của từng yếu tố trong hệ thống thi
pháp. Nếu khảo sát cảm hứng trong từng
chuỗi lời ca cùng chủ đề của một đề tài,
vấn đề cũng còn nhiều chỗ cần bàn luận.
2.2.3.4. Mối quan hệ giữa cảm hứng
với để tài là mi quan hệ tích cực, thúc
đẩy quá trình sáng tạo và thưởng thức
tác phẩm, khơi dậy xúc cảm thẩm mĩ, tạo
nên sự thăng hoa nghệ thuật. Tìm hiểu
mối quan hệ này và sự chuyển đổi cảm
NGUYÊN HẰNG PHƯƠNG
hứng từ ca đao cổ truyền đến ca dao hiện
đại chính là tìm ra “chìa khoá” mở qui
luật chuyển đổi một số yếu tế thi pháp
khác từ ca dao cổ truyền đến ca dao hiện
đại.
N.H.P
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Ca dao chống Mỹ cứu nước chọn lọc,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội,
1980.
2/ Nguyễn Nghĩa Dân: Ca dao Việt
Nam 1945 - 1975, Nhà xuất bản Văn hoá
Thông tin, 1997,
3/ Lê Tiến Dũng, Trần Hoàng: Cụ Hồ
ở giữa lòng dân, Nhà xuất bản Thuận
Hoá, Huế, 2000.
4/ Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học, Nhà xuất bản Khoa
học kỹ thuật, Hà Nội, 1996.
5/ Hà Minh Đức (Chủ biên): Lý luận
uăn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,
1998. :
_6I Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (chủ biên): Từ điển thuật ngữ
uăn học (in lần thứ 3), Nhà xuất bẩn Đại
học quốc gia Hà Nội, 1999.
7¡ Tố Hữu: Thơ, Nhà xuất bản Giáo
dục, 1998
8/ Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng
Nhật (chủ biên): Xho tàng ca dao người
Việt (4 tập), Nhà xuất bản Văn hoá thông
tin, Hà Nội, 1995.
9/ Trần Đình Sử: Thị pháp thơ Tố
Hữu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hội nhà
văn Việt nam, 1987.
10/ Nhiều tác giả: Văn hoá dân gian,
những phương pháp nghiên cứu, Nhà xuất
bản Khoa học xã hội, 1990,
11/ Nguyễn Hằng Phương: “Đề tài Hồ
Chủ tịch trong ca đao Việt Nam 194ã -
1975", Tạp chí Văn hoá dân gian số 3/2000.
12/ Cù Đình Tú: Phong cách học uà
đặc điêm tu từ tiếng Việt, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983.