LUẬN VĂN:
Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm
sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hỡnh sự
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đề ra. Đảng ta đã có một số
văn bản định hướng cho công tác này: Đó là Chỉ thị 53-CT ngày 21/3/2000; Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.
Theo đó một trong những nội dung cơ bản là đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội,
hạn chế thấp nhất tình trạng Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội.
Để đạt được mục đích là không truy tố, xét xử oan người vô tội. Nhà nước phải tạo
ra cơ chế về tổ chức hoạt động cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng; cũng như đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, truy
tố, xét xử đúng người đúng tội. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố
tụng với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; phải đảm bảo chất lượng của việc điều tra,
truy tố; không truy tố người không có hành vi phạm tội.
Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với một người để đưa ra tòa xét xử phải đảm
bảo các điều kiện theo luật định. Việc truy tố phải đảm bảo tính có căn cứ, có chứng cứ
đầy đủ, đảm bảo đúng quy định của pháp luật (là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự).
Một khi điều tra nhưng thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng, chính xác; không được thu
thập một cách hợp pháp hoặc với con người cụ thể, hành vi cụ thể của họ không đảm bảo các
quy định để xác định là một tội phạm quy định trong BLHS thì không thể bị truy tố xét xử.
Tuy nhiên trong quá trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự thì mỗi giai đoạn tố
tụng có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau. Ví như để xét xử đúng thì trước hết việc điều tra
phải đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật... Tuy nhiên việc điều tra theo pháp luật mới chỉ là
giai đoạn đầu, việc có kết tội bị cáo hay không phải được tiến hành tại phiên tòa. Kết quả
điều tra xét hỏi tại phiên tòa là căn cứ, là cơ sở để kết tội bị cáo hay tuyên bố bị cáo không
phạm tội. Do vậy, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là rất quan trọng; đây là khâu quyết định của hoạt động tố tụng
để Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử ra các quyết định đúng pháp luật.
Mặt khác, quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì việc xét xử các vụ án hình sự
theo nguyên tắc xét xử hai cấp. Do đó, sau khi vụ án đã được xét xử sơ thẩm, nếu có
kháng cáo, kháng nghị vụ án sẽ được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Nguyên tắc hai
cấp xét xử giúp cho việc xét xử của Toà án chính xác hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của
bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác theo luật định được đảm bảo. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp - Theo Điều
170 thì Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp
huyện) được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội
phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Theo đó Toà án cấp huyện được xét xử
các tội phạm có khung hình phạt đến 15 năm. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân
sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) xét xử những vụ án còn lại - cá biệt có thể xét xử
vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới khi thấy cần thiết. Như vậy, xét xử các vụ án thuộc cấp
tỉnh là những vụ án thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thường là những vụ án phức
tạp, có nhiều bị cáo tham gia và địa bàn hoạt động tội phạm rất rộng trong quốc gia hoặc
có thể là tội phạm xuyên quốc gia, do đó, khi có kháng án, kháng nghị thì xét xử phúc
thẩm của Toà án tối cao cũng đều là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Vì
vậy, đòi hỏi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm của kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới về
phương thức hoạt động, có tư duy mang tính chiến lược mới đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay; đảm bảo cho việc xét xử chính xác,
đúng pháp luật, sửa chữa, khắc phục được các thiếu sót của sơ thẩm cấp tỉnh mà lý do có
thể do nhận thức chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao hoặc có thể do quy định, hướng dẫn
áp dụng pháp luật chưa đầy đủ.
Do đó, việc nghiên cứu đề tài " Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm
sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hỡnh sự "
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Theo tác giả được biết thì ngoài một số đề tài nghiên cứu và luận văn thạc sĩ có đề
cập đến việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nói chung.
Trong một vài năm qua ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chuyên đề của Vụ thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đề cập đến việc "Nâng cao chất lượng công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự các vụ án hình sự có bị cáo Tòa án
tuyên không phạm tội". Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại
Hà Nội có đề tài "Nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự".
Các đề tài nghiên cứu liên quan đến chất lượng của cán bộ công chức nhà nước
nói chung có các công trình tiêu biểu sau đây:
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền các xã miền núi đặc
biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Hà Giang (2005), Lê Đình Vĩ, Luận văn thạc sĩ.
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Vũ Viết Tuấn, Luận văn thạc sĩ.
- Nâng cao chất lượng bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Kiên
Giang hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Mỹ Dung.
- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Trần ánh Dương.
- Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên giai đoạn hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Hòa.
- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất tại Toà án nhân dân ở nước ta hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn
Thị Tú.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào (2006), Luận văn thạc sĩ của Suc Ni Lan Đon Kun Lạ Vông.
- Nâng cao chất lượng công tác pháp chế trong ngành công nghiệp ở nước ta hiện
nay (2007), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Vỵ…
Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên mới đề cập đến những
khía cạnh nhất định hoặc đề cập những vấn đề chung nhất. Đề tài này chỉ tập trung đến
những vấn đề về chất lượng công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện
Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự các vụ án hình sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự nhằm đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không làm oan sai người vô tội.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản
liên quan đến chất lượng thực hành quyền công tố các vụ án hình sự ở cấp phúc thẩm
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc Viện Kiểm
sát truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, đồng thời khắc phục được các sai sót của
cấp sơ thẩm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng pháp luật không làm oan sai. Đề tài không
nghiên cứu việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nói chung ở những
giai đoạn tố tụng trước đó.
Thời gian nghiên cứu: Đề tài xác định nghiên cứu trong thời gian sau khi thi hành
bộ luật hình sự 1999 và bộ luật tố tụng hình sự 2003; việc áp dụng các quy định của 2 bộ
luật này (phần thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao); trong thực tiễn hoạt động của ngành kiểm sát nhân
dân trong thời gian qua.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận
cứ lý luận, các điều kiện - phương pháp bảo đảm việc truy tố, xét xử hình sự đúng người đúng
tội, đúng pháp luật - không làm oan người vô tội.
Quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta cũng như lý
luận chung về Nhà nước, pháp luật nhất là chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam. Từ đó xây dựng đề ra những quan điểm và một số giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử hình sự các vụ án hình sự, đảm
bảo cho việc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan, sai cho người
không phạm tội. Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự
của bộ luật hình sự 1999; bộ luật tố tụng hình sự 2003; đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp
mà Nghị quyết 48, Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đề ra.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ bản của việc thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử các vụ án hình sự.
- Phân tích làm rõ những vấn đề trong hoạt động tố tụng hình sự để nâng cao hiệu
quả, chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự
nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng sau khi đã được xét xử phúc thẩm nhưng tình trạng
khiếu nại oan sai vẫn còn phổ biến.
- Phân tích, đánh giá thực trạng, những thiếu sót tồn tại trong hoạt động thực hành
quyền công tố của lực lượng kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác
kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
- Đề xuất các quan điểm, luận chứng các giải pháp để nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, hạn chế đến mức
thấp nhất các sai sót trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở cấp tối cao.
- Chỉ ra những bất cập quy định trong bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự và
thực tiễn của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự liên
quan đến tình trạng án phúc thẩm còn oan sai.
- Đề ra các giải pháp cụ thể để thiết thực nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp hiện nay. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Bảo đảm không làm oan người vô tội và không để lọt kẻ phạm tội.
6. Đóng góp mới của luận văn
Là việc nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật. Đề cập trực tiếp và tương đối toàn diện các vấn đề về lý luận, thực tiễn trong thực
hiện pháp luật, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan
người vô tội.
Đề tài sẽ đặt ra một số vấn đề góp phần sửa đổi bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng
hình sự theo hướng cụ thể hơn, rõ ràng hơn để việc thực thi pháp luật của các cơ quan cũng
như người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng áp dụng thống nhất - hạn chế
việc xét xử không đúng pháp luật. Đồng thời chỉ ra các nguyên nhân: Khách quan, chủ quan
dẫn đến việc xét xử chưa đúng pháp luật ở cấp phúc thẩm. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn
luận văn đặt ra những giải pháp cụ thể nhất là các giải pháp trong quản lý chỉ đạo điều hành
nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
7. ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
- Nghiên cứu một số khái niệm, phạm trù liên quan đến thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Xác định những vấn đề liên quan
đến điều kiện đảm bảo chất lượng quyền công tố Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát
chống oan sai trong truy tố xét xử các vụ án hình sự.
- ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan có thẩm
quyền nói chung và cho ngành Kiểm sát nói riêng trong hoàn thiện pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự cũng như đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của ngành Kiểm sát
đối với công tác này - góp phần làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy của các cơ sở đào
tạo của ngành luật.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
1.1. khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát
viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình
sự
1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
Quyền công tố trong quá trình tồn tại cùng chiều dài lịch sử, cho đến ngày nay vẫn
còn đang có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, tựu chung lại chúng tôi thấy một số
quan điểm cơ bản, trước khi đưa ra khái niệm quyền công tố.
Quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển khoa học pháp lý.
Khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần có một cơ
quan Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền xét xử. Đại diện tư tưởng này phải kể tới F.
Fosthoft viết trong cuốn “Sự phát triển của các cơ quan tư pháp ở bang Bắc sông Ranh”
[16, tr.272].
Quan điểm thứ hai lại đưa ra quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội
dân chủ, nhằm bảo vệ các quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố
tụng tại phiên toà và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (điều này cho thấy,
quyền công tố có thể nằm trong cơ cấu của tối cao pháp viện). Cơ quan công tố là “mối liên lạc
giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm
phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật” [17, tr.169, 182-1990, 285-
300]. Trong cuốn sách này, Hessische và cộng sự đã định nghĩa quyền công tố là một loại
quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì
phải có một cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng “chống” lại quyền xét xử
nhằm bảo vệ các đạo luật và các thể nhân bị toà xét xử. Đó là quyền công tố.
Quan điểm thứ ba: Sau khi chế độ phong kiến tan rã, con người đã tách toà án ra
khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì
lịch sử công tố mới xuất hiện. Tuy quyền công tố không xuất hiện cùng với Nhà nước
nhưng lịch sử của nó gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và sự phân chia
quyền lực trong bộ máy Nhà nước, gắn với sự phát triển và văn minh của pháp luật. Còn
trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm nhiệm và họ đại diện cho nhà vua
để xét xử, chứ không đại diện cho công quyền. Theo tác giả Vũ Mộc viết: Quyền công tố
là người đại diện cho Nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự
pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra toà án). Quyền công tố không xuất hiện cùng với
Nhà nước mà nó chỉ xuất hiện cùng toà án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp
và độc lập [19, tr.118 - 119].
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất
của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố
tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện
[28, tr.86].
Qua những quan điểm trên, tựu chung chúng tôi thấy ba quan điểm đầu các tác giả
đều dựa trên cơ sở chung khi xác định sự xuất hiện quyền công tố, gắn quyền công tố với
vấn đề dân chủ. Theo quan điểm này ta thấy quyền công tố là kết quả trực tiếp và tất yếu
của quá trình vận động xã hội ở thời điểm xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế. Từ
những kinh nghiệm thực tế và kết quả của sự tổng kết những lý thuyết chung cho thấy sự
xuất hiện của quyền công tố chưa có sức thuyết phục bởi tính thiếu căn cứ. Từ thực tế khi
nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện
quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế,
phi dân chủ, thực hiện sự chia quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Tuy vậy, chúng
ta cũng không nên đồng nhất giữa sự ra đời cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công
tố (là một bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (khái
niệm pháp lý). Quan điểm thứ tư đã cho ta thấy quyền công tố luôn gắn với bản chất của
nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền. Quan điểm
này coi quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện
việc buộc tội đối với những người đã thực hiện những hành vi phạm tội (theo quan điểm
của giai cấp thống trị xã hội). Như vậy, khi Nhà nước xuất hiện thì đồng thời cũng dẫn tới
sự ra đời của quyền công tố và Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý xã hội
nhằm đấu tranh với tội phạm theo quan điểm của giai cấp thống trị.
Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong
đó quy định tất cả các hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp nào
thống trị có được quyền lực Nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự.
Bởi vì pháp luật hình sự là công cụ để chuyên chính giai cấp hữu hiệu nhất. Khi một hành
vi được coi là phạm tội được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa
một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này Nhà nước là
chủ thể sử dụng quyền của mình (quyền lực công) để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội là người bị truy cứu trách nhiệm
hình sự và gánh chịu những chế tài hình sự do Nhà nước quy định và áp dụng sự buộc tội
nhân danh Nhà nước được gọi là quyền công tố.
Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước nó
xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, tồn tại khi còn Nhà nước và mất
đi khi không còn Nhà nước [26].
Khi nghiên cứu về khái niệm quyền công tố, chúng tôi thấy sự xuất hiện khái niệm
có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm quyền công tố, đó là tư tố. Cả hai khái niệm này
cùng xuất hiện, tồn tại và phát triển, có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong quá trình tìm hiểu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới cho chúng tôi
thấy, “công tố” và “tự tố” là khái niệm pháp lý xuất hiện rất sớm trong pháp luật của các
Nhà nước cổ đại. Tư tố là một chế định pháp lý thuộc loại cổ xưa nhất mà pháp luật cổ
đại cho phép người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố
chống lại người đã thực hiện những hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân. Quyền này của người bị hại (hoặc người thân thích của họ) được
gọi là “quyền tư tố”; người đứng ra khởi tố vụ án được gọi là “tư tố viên” và các vụ án
như thế này gọi là “án tư tố” [5, tr.171-179].
Những vụ án tư tố, các tư tố viên giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình
giải quyết vụ án. Họ không chỉ toàn quyền cung cấp các chứng cứ, thực hiện việc buộc
tội bị cáo trước tòa và đề nghị chế tài hình sự, bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội
mà còn có thể kết thúc quá trình tố tụng bằng việc hòa giải (thỏa thuận) với người phạm
tội. Quyền tư tố do người bị hại trực tiếp thực hiện nhân danh cá nhân để bảo vệ của bản
thân trước tòa (hoặc có thể nhờ người khác thay mặt mình thực hiện quyền này).
Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xưa được xuất phát từ quan niệm của
mọi người cho rằng việc bảo vệ các quyền và lợi ích cá nhân bị người khác xâm hại là
việc riêng tư của từng người. Nhà nước không thấy cần thiết phải can thiệp vào những
việc đó. Còn nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế định đó là do sự phát triển yếu kém
của pháp luật và Nhà nước lúc bấy giờ. Trong điều kiện như vậy, quyền công tố chỉ được
sử dụng trong một phạm vi hẹp nhằm bảo vệ các lợi ích mang tính chất công cộng của
Nhà nước (của giai cấp thống trị và của các cộng đồng (xã hội). Do nhiều yếu tố nên tư tố
ngày càng bị thu hẹp. Điều này chúng ta cũng dễ hiểu vì: Khi người ta muốn thực hiện
một vụ án tư tố phải rất tốn kém về thời gian, tiền của, công sức cho quá trình thu thập
chứng cứ, đảm bảo sự có mặt của nhân chứng cho đến việc thực hiện việc buộc tội trước
Tòa án. Như thế, không phải ai cũng đủ điều kiện và khả năng làm việc trên, nếu thuê
luật sư thì rất tốn kém không phải ai cũng làm được. Mặt khác pháp luật lại cho hòa giải,
thỏa thuận với người phạm tội đã dẫn tới tình trạng nhiều vụ án nghiêm trọng (xét về trật
tự xã hội) không bị xét xử và trừng trị. Điều này làm cho pháp luật không nghiêm minh,
công bằng xã hội không được đảm bảo. Từ những nguyên nhân trên, dẫn đến Nhà nước
thấy cần thiết phải can thiệp và quá trình án tư tố trong những trường hợp người bị hại
không muốn thực hiện quyền tư tố, nhằm bảo đảm lợi ích công.
Như vậy, trong quá trình phát triển của xã hội cũng như của bộ máy Nhà nước và
pháp luật, cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp hình sự đã có những thay đổi căn bản.
Từ chỗ vận hành theo quyền tư tố là chủ yếu, tố tụng hình sự chuyển sang vận hành chủ
yếu dựa vào quyền công tố. Vai trò công tố càng trở nên quan trọng và đứng ra giải quyết
các vụ án hình sự ở hầu khắp các quốc gia như ngày nay. Như vậy, công tố viên vừa là
người đại diện cho công quyền (nhân danh Nhà nước), vừa thay mặt người bị hại đứng ra
buộc tội bị cáo, công tố viên hành động vì xã hội và bảo vệ không chỉ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng, nhằm đảm bảo sự công bằng của xã
hội.
Trước những ưu việt trên, hầu hết các quốc gia trên thế giới, tư tố tồn tại song
song với công tố. Nhưng phạm vi và vai trò áp dụng của nó dần dần thu hẹp và chuyển
xuống hàng thứ hai sau công tố. Nội dung của quyền tư tố cũng dần dần bị thu hẹp và
thông thường chỉ bao gồm quyền yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi
thường thiệt hại và thực hiện buộc tội bị cáo trước Tòa án đối với bị cáo trong các vụ án
tư tố. Trong một số ít quốc gia theo hệ thống pháp luật lục địa, tư tố vẫn giữ vai trò quan
trọng trong việc giải quyết một số loại án tư tố. Tại các quốc gia này chỉ có người bị hại
mới có quyền khởi tố đối với các vụ án ít nghiêm trọng như tội vu khống, làm nhục người
khác, gây thương tích nhẹ hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản… Trong các vụ án này
các công tố viên được gọi là bên chính tố, người bị hại được gọi là bên phụ tố (người truy
tố phụ), thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa án hoàn toàn độc lập với công tố viên
(Bộ Tư pháp - đã dẫn).
Khái niệm quyền công tố được Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền
công tố” khi đề cập tới chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 138). Thuật ngữ này
lại được nhắc tới ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
Như vậy, trong các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, bên cạnh khái niệm truyền
thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện “quyền công tố” và “thực hành
quyền công tố”. Từ đó đến nay đã có nhiều tài liệu giảng dạy, nhiều bài viết đăng trên các
tạp chí khoa học đề cập tới khái niệm này. Song cho tới nay, khi chúng ta đang trong quá
trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong việc nhận thức
về vấn đề này. Từ năm 1960 đến nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về quyền công tố. Nhưng khái quát lại hiện có 7 quan điểm cơ bản. Trong luận văn này
chúng tôi không nhằm mục đích để tranh luận về các quan điểm cho nên các quan điểm
này chúng tôi sẽ dùng trong những đề tài tham luận sau. Trên mỗi quan điểm khác nhau
đều đưa ra những khái niệm khác nhau về quyền công tố. Mỗi quan điểm đều có những
hạt nhân hợp lý riêng của nó. Tuy vậy, xuất phát từ những căn cứ khoa học, các quy định
của pháp luật, thực tiễn hoạt động của cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và
hoạt động công tố ở các nước khác cho thấy những quan điểm trên đã bộc lộ một số vấn
đề cần phải nghiên cứu tiếp như:
- Có những quan điểm đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn tới tình trạng mở rộng phạm vi quyền công tố vượt
khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính.
- Những quan điểm coi quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đến việc xem nhẹ bản
chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền
lực công.
- Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện
kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra tòa và thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm.
Từ đó cho thấy, điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các công trình nghiên cứu về
quyền công tố là không phân định rõ khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền
công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Đa số các tác giả đều cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (chức năng công tố
và chức kiểm sát việc tuân theo pháp luật) như pháp luật trước đây quy định vừa có tính
độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có
những nội dung hòa nhập vào nhau, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo nên sự
thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát.
Theo ý kiến chúng tôi, để làm rõ khái niệm quyền công tố, phải xuất phát từ lịch
sử Nhà nước và pháp luật thế giới nói chung cũng như lịch sử Nhà nước và pháp luật
Việt Nam nói riêng. Dù muốn hay không muốn chúng ta đều phải thừa nhận Nhà nước ra
đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội (xét về mọi phương diện).
Trong xã họi có giai cấp, bất kể xã hội nào, có nhiều loại quan hệ xã hội cùng tồn tại,
nhưng chung quy lại có hai nhóm quan hệ cơ bản, nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích
công cộng và nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích của từng công dân. Nhà nước nói
chung luôn bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội
chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội loại này. Điều này không
phải là vô lý khi các Nhà nước cổ đại và các Nhà nước tư sản hiện đại phân chia pháp
luật thành “công pháp” và “tư pháp”. Công pháp là pháp luật có liên quan đến lợi ích
chung của toàn xã hội còn tư pháp là luật pháp liên quan đến lợi ích của từng công dân.
Nhưng các luật gia Liên Xô và các Nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho rằng
sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp chỉ có tính ước lệ về nguyên tắc
không thừa nhận nó với lập luận cho rằng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
cơ bản thì giữa lợi ích của từng cá nhân và lợi ích của Nhà nước không thể có sự đối lập
mà kết hợp hài hòa. Đồng thời, chính việc thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
đòi hỏi phải mở rộng can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ tư pháp. Mặc dù không
thừa nhận sự phân chia hệ thống pháp luật thành “công pháp” và “tư pháp”, nhưng khoa
học pháp lý của các nước xã hội chủ nghĩa đã phân chia hệ thống pháp luật thành các
ngành luật, trên cơ sở dựa vào tính chất của các quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật
điều chỉnh như: Luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, hành chính, tố tụng
hành chính… Từ những lý thuyết trên, chúng tôi tán thành quan điểm cho rằng, quyền
công tố như bất kỳ quyền (hay nhóm quyền) nào của Viện kiểm sát luôn luôn phải được
xem xét trong mối liên hệ với tính đặc thù của lĩnh vực pháp luật cụ thể nào đó trong hoạt
động của Viện kiểm sát [20, tr.20].
Từ những vấn đề được đưa ra ở trên, chúng tôi cho rằng khái niệm quyền công tố
được thể hiện như sau:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà
nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để
phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để
làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách
nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định truy tố bị can
ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [26, tr.40].
1.1.2. Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
1.1.2.1. Về tính chất của phúc thẩm các vụ án hình sự
Tính chất của phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là
việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Theo đó, phúc thẩm vụ án hình sự được coi là
một thủ tục tố tụng do luật định nhằm kiểm tra lại tính có căn cứ và tính hợp pháp của
bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Thông qua thủ tục phúc thẩm, Toà án cấp trên có nhiệm vụ sửa chữa những sai lầm trong
việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp dưới… Chính vì vậy, phần thứ tư của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 có tên gọi "Xét lại các bản án và quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục phúc thẩm".
Từ khi thực hiện đường lối cải cách tư pháp với các nội dung được nêu trong các
Nghị quyết của Đảng, hệ thống tư pháp Việt Nam đã có những chuyển đổi mạnh mẽ; nhất
là những vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư
pháp trong tố tụng hình sự. Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Công hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ tư đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, có hiệu
lực từ ngày 01/7/2004. Một trong những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
là chính thức ghi nhận nguyên tắc "Thực hiện chế độ hai cấp xét xử" tại Điều 20. Quy
định này khẳng định Toà án Việt Nam thực hiện chế độ hai cấp xét xử, phù hợp với thông
lệ chung trên thế giới và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam
đã tham gia ký kết.
Căn cứ để Toà án cấp phúc thẩm có thể mở phiên toà xét xử lại vụ án hoặc quyết
định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị. Nội dung kháng cáo và
quyết định kháng nghị là cơ sở để Toà án cấp phúc thẩm xác định phạm vi xét xử phúc
thẩm.
Thủ tục phúc thẩm là thủ tục xét xử lại những bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị (khác thủ tục giám đốc thẩm chỉ là xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật). Theo thủ tục phúc thẩm thì Toà án phải mở phiên
toà xét xử lại vụ án với sự tham gia đầy đủ thành phần như Kiểm sát viên, bị cáo, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Khi đã có kháng cáo, kháng nghị theo
đúng trình tự luật định thì vụ án buộc phải đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đảm bảo
chế độ hai cấp xét xử. Do đó, về tính chất xét xử phúc thẩm là việc Toà án xét xử lại bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Việc xác định xét xử phúc thẩm là xét
xử cấp thư hai là một trong những nội dung rất quan trọng của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003. Vì đây là căn cứ pháp lý để nhà làm luật quy định những vấn đề tiếp theo của
thủ tục này như: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, nguyên tắc
hai cấp xét xử không có nghĩa là mọi vụ án hình sự đều phải thông qua xét xử sơ thẩm và
xét xử phúc thẩm mà xét xử phúc thẩm chỉ được tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án và quyết định sơ thẩm có hiệu lực
pháp luật khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không bị kháng cáo hay kháng nghị.
Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác
không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, hoặc quyết định sơ thẩm. Khi xem xét các
phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm phải đảm bảo nguyên
tắc là chỉ được làm lợi cho bị cáo, không được quyết định bất lợi cho bị cáo hoặc thay đổi
bất lợi về quyền của các đương sự khác đã được Toà án cấp sơ thẩm quyết định. Trường
hợp xem xét thấy phần không bị kháng cáo kháng nghị có sai lầm nghiêm trọng thì phải
kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét quyết định (Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự).
Như vậy, bản chất pháp lý của thủ tục phúc thẩm là thủ tục mà Toà án cấp trên xét xử
lại vụ án hoặc xét lại quyết định của Toà án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. Khi xét xử phúc thẩm Toà án cấp phúc thẩm có những quyền nhất định
như quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, nhất là biện pháp tạm giam.
Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm. Sửa bản án, quyết
định sơ thẩm, huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại hoặc điều tra lại (Khoản
2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Xét xử phúc thẩm còn bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đồng thời đảm bảo
cho Viện kiểm sát thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định về
thực hành quyền công tố.
1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát - Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự
a. Quyền kháng nghị phúc thẩm:
Khi thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, theo Bộ luật tố tụng
hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của Viện kiểm sát
nhân dân và chỉ Viện kiểm sát nhân dân mới có quyền kháng nghị.
Các quy định của pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân từ trước tới nay thấy rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền riêng có của Viện
kiểm sát nhân dân. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Viện kiểm sát cùng cấp và
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Các Điều luật từ Điều 233 đến 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thời
hạn, thủ tục kháng nghị phúc thẩm. Quy chế số 960 ngày 17/9/2007 về thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng
dẫn cụ thể về cách thức thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm. Đây là những căn cứ
pháp lý cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm của mình. Để
đảm bảo cho việc quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như bảo đảm cho việc xét xử
được đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, Viện kiểm sát
có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại. Đây vừa là quyền,
vừa là trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Có thể nói, kháng nghị phúc thẩm là một
trong những biểu hiện rõ nhất quyền năng công tố của Viện kiểm sát. Khi có kháng nghị
phúc thẩm, Toà án cấp trên phải mở phiên toà xét xử phúc thẩm, thông qua đó khắc phục
những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp dưới. Mục
đích của kháng nghị phúc thẩm là nhằm khắc phục những vi phạm của bản án, quyết định
sơ thẩm, đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Toà án. Kháng
nghị khác kháng cáo ở chỗ người kháng cáo chỉ cần không đồng ý về một phần nào đó
của bản án, quyết định sơ thẩm là có thể thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát chỉ
thực hiện kháng nghị khi phát biện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
có sai lầm trong đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố trong xét
xử phúc thẩm các vụ án hình sự theo luật định và theo sự phân công, phân cấp của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Để nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền
công tố ở giai đoạn này Kiểm sát viên cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:
Một là, thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm theo khoản 2, Điều 233 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 quy định Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã ra bản án, quyết định sơ
thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cấp đó có quyền kháng nghị
đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Theo Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng các
cấp là người có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Điều 32 Quy chế 960/2007/VKSTC-
V3 về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nêu cụ thể là: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có quyền kháng nghị đối với
những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp
huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng
nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của
Toà án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh. Đối với các Viện thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì theo Điều 32 của
Quy chế này: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho các Viện trưởng
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hà Nội, thành
phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương theo khu vực được phân công. Kháng nghị phúc thẩm là thể hiện rõ nét nhất
quyền năng công tố của Viện kiểm sát. Thực hiện tốt việc kháng nghị phúc thẩm sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát.
Hai là, căn cứ kháng nghị phúc thẩm Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và 2003 chưa
quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm; có nghĩa là chưa có quy định cụ thể đối với một
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm thì vi phạm như thế
nào, đến mức độ nào thì bị kháng nghị phúc thẩm. Tuy vậy, theo các Quy chế của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự đã xác định các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm; Điều 32 Quy chế công tác kiểm sát
xét xử hình sự năm 1996 quy định các căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
- Có những tình tiết qua cuộc điều tra và xét hỏi tại phiên toà không đầy đủ, chưa
rõ ràng.
- Kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án.
- Có những vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ luật hình sự.
- Có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự.
Theo Quy chế này, chưa quy định cụ thể vi phạm nghiêm trọng là như thế nào nên
cách hiểu khi áp dụng không thống nhất. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây
dựng Quy chế tạm thời về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự
năm 2004. Điều 33 Quy chế quy định:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.
- Kết luận của bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách
quan của vụ án.
- Có những vi phạm trong áp dụng Bộ luật hình sự.
- Có những vi phạm về thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Sau thời gian thực hiện thấy quyết định nêu trên chưa đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn. Nhiều kháng nghị bị cấp phúc thẩm bác hoặc rút. Do đó Quy chế năm 2007, theo
Điều 33 đã quy định các căn cứ:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.
- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình
tiết khách quan của vụ án.
- Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm
nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.
Tóm lại, cả 3 Quy chế về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự đều đưa ra 4 căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Các căn cứ này về cơ bản giống
nhau, chỉ có điểm khác biệt là 2 Quy chế ban hành sau khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 xác định khi có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự là căn cứ để kháng nghị
phúc thẩm. còn Quy chế trước đó xác định là vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ
luật hình sự.
Hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cần thiết cho việc nâng cao hiệu
quả thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát các cấp trong đó có thực hành quyền
công tố trong xét xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, quy định
nêu trên mới là của ngành Kiểm sát; nhiều trường hợp chưa có sự thống nhất giữa Toà án
và Viện kiểm sát trong nhận xét, đánh giá vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm; dẫn
đến có trường hợp Viện kiểm sát cho rằng có vi phạm nhưng Toà án lại cho rằng không
có vi phạm hay vi phạm không đáng kể. Do đó cần có quy định thống nhất trong Bộ luật
tố tụng hình sự.
Ba là, thời hạn kháng nghị phúc thẩm: Điều 234 và 239 Bộ luật tố tụng hình sự
quy định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Theo đó đối với Viện kiểm sát cùng cấp thì
thời hạn là 15 ngày, đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Toà án
sơ thẩm tuyên án. Kháng nghị đối với các quyết định của Toà án sơ thẩm của Viện kiểm
sát cùng cấp là 7 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày ra quyết
định.
Theo quy định tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là ngày tiếp theo của
ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hay quyết định. Thời
điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu là ngày nghỉ cuối
tuần hoặc nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp
theo ngày nghỉ đó.
Để đảm bảo cho việc kháng nghị của Viện kiểm sát (nhất là Viện kiểm sát cấp
trên) theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì quy định về việc gửi bản án (điều 229)
của Toà án cho Viện kiểm sát như sau: Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho Viện
kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án. Như vậy Viện kiểm sát
cùng cấp có thể chỉ còn có 5 ngày nghiên cứu để kháng nghị phúc thẩm. Đối với Viện
kiểm sát cấp trên thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định Toà án cấp sơ thẩm phải gửi
bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Do đó, việc kháng nghị phúc thẩm của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đối với án sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh gặp rất nhiều khó khăn
và thiếu tính khả thi. Trước mắt để khắc phục khó khăn này, theo Quy chế 960/KSXXHS
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định Viện kiểm sát cùng cấp nhận được án văn
phải sao gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xem xét kháng nghị phúc thẩm
theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Bốn là, việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị theo quy định của Điều 238 Bộ luật
tố tụng hình sự: trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toà, Viện kiểm sát có quyền bổ sung,
thay đổi kháng nghị nhưng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo; rút một phần hay toàn
bộ kháng nghị. Quy định này tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cân nhắc để có
được bản kháng nghị đúng pháp luật, có chất lượng. Vì vậy, mặc dù Viện kiểm sát đã có
kháng nghị, nhưng trong thời gian chờ mở phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát vẫn có
quyền xét xét hoàn thiện bản kháng nghị của mình.
Chú ý, nếu bổ sung, thay đổi kháng nghị cần phân biệt các trường hợp: Nếu thay
đổi một phần hay toàn bộ kháng nghị được thực hiện trong thời gian mà thời hạn kháng
nghị vẫn còn thì có thể bổ sung, thay đổi theo cả hai hướng: Có lợi hoặc không có lợi cho
bị cáo. Kể cả trường hợp đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị, sau đó lại kháng nghị
lại thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp đã hết tời hạn kháng
nghị phúc thẩm thì Viện kiểm sát chỉ được bổ sung, thay đổi kháng nghị theo hướng
không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Vì nếu thay đổi theo hướng không có lợi cho bị
cáo thì thời hạn kháng nghị đã hết thì bị cáo không thể hoặc khó khăn cho việc thực hiện
quyền bào chữa của mình, đồng thời quy định này cũng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của
bị cáo.
Năm là, sự phối hợp giữa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát cấp dưới trong bảo vệ, rút kháng nghị.
Theo thống kê một số năm cho thấy số bị cáo bị kháng nghị phúc thẩm, khi xét xử
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên rút kháng nghị khoảng 20%; Toà án cấp phúc thẩm bác
kháng nghị khoảng 30%. Tổng cộng kháng nghị phúc thẩm bị rút và bác kháng nghị
khoảng 50%. Đây là hạn chế của công tác kháng nghị phúc thẩm. Chính là hạn chế của
việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Hạn chế này có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân về sự phối hợp của Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm
sát cấp dưới trong công tác kháng nghị phúc thẩm [35].
Khi có kháng nghị của Viện kiểm sát tức là có sự khác biệt giữa đánh giá và nhận
định hoặc áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử sơ thẩm với Viện kiểm sát về toàn bộ
hay một phần cáo trạng của Viện kiểm sát. Vấn đề đặt ra trong kháng nghị và xét xử phúc
thẩm hình sự là Viện kiểm sát cấp dưới kháng nghị (thông thường) nhưng bảo vệ kháng
nghị lại là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Do đó, để có được quyết định đúng pháp luật
thì giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới phải có sự phối hợp chặt chẽ.
Sau khi kháng nghị, Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo Viện kiểm sát cấp trên. Cụ thể
đối với các kháng nghị mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, sau khi kháng nghị Viện kiểm sát tỉnh phải báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố
ở cấp phúc thẩm phải là người trực tiếp nghiên cứu các kháng nghị và nắm bắt các thông
tin mà Viện kiểm sát cấp tỉnh báo cáo. Trên cơ sở đó có thể bổ sung những căn cứ để bảo
vệ quan điểm kháng nghị hoặc bổ sung, rút kháng nghị nếu thấy có căn cứ. Viện kiểm sát
cấp trên có thể đề nghị Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm bổ sung, rút kháng nghị
hoặc tự mình quyết định kháng nghị bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới.
b. Thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm
Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước
hết thể hiện là sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên toà. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì
phiên toà không thể xét xử. Những người tham gia tố tụng khác được triệu tập theo quy
định của pháp luật đó là quyền và nghĩa vụ của họ có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị.
Khi thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm, đòi hỏi Kiểm sát viên phải
tiến hành những hoạt động:
Trước hết Kiểm sát viên phải chuẩn bị và chủ động xét hỏi những tình tiết của vụ
án có liên quan đến kháng cáo kháng nghị. Nhất là đối với kháng nghị của Viện kiểm sát,
vì bảo vệ thành công kháng nghị chính là thể hiện rõ nét chất lượng quyền công tố của
Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Thông qua kết quả xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát
viên bổ sung vào bài phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà khi đề xuất giải
quyết vụ án.
Kiểm sát viên tiến hành kết luận vụ án và trực tiếp tranh luận với người bào chữa,
bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự… tại phiên toà bảo đảm nguyên tắc dân chủ và bình
đẳng. Kiểm sát viên phải tranh luận với các ý kiến phản biện, bào chữa của những người
tham gia tố tụng. Tuy nhiên không tranh luận trùng lặp, Chủ toạ phiên toà phải tạo điều
kiện và bảo đảm cho việc tranh tụng được bình đẳng, dân chủ trước toà.
Với tư tưởng chỉ đạo về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW và
đã thể chế hoá trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong đó xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố nói chung, thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng. Điểm nhấn chính là việc thực hiện
nguyên tắc tranh tụng; theo đó, Viện kiểm sát với tư cách là một bên đại diện cho Nhà
nước thực hiện chức năng buộc tội. Đồng thời thực hiện việc gỡ tội và làm rõ các chứng
cứ, tình tiết của vụ án có lợi cho bị cáo và bảo đảm quyền, nghĩa vụ cho những người
tham gia tố tụng phúc thẩm.
Thực hiện quyền công tố trong xét xử phúc thẩm hình sự mà mục đích chung là
đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan
người vô tội. Theo quy định của Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và việc triển
khai thực hiện Điều 170 này đến tháng 6/2009 tất cả các Toà án cấp huyện, Toà án Quân
sự cấp tỉnh, quân đoàn… đã được tăng thẩm quyền xét xử với mức hình phạt bị truy tố tới
15 năm tù. Với thực tế này, án sơ thẩm của cấp tỉnh xét xử sẽ giảm đáng kể. Do đó án
phúc thẩm mà Toà án nhân dân tối cao phải xét xử do có kháng cáo kháng nghị cũng sẽ
giảm nhiều. Vấn đề đặt ra cho Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi tham gia
xét xử phúc thẩm là phải nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố; tăng
cường cả chất lượng và số lượng các kháng nghị phúc thẩm, khi tham gia phiên toà phải
đảm bảo thực sự chất lượng. Nhất là việc bảo đảm cho kháng nghị của Viện kiểm sát
phải được xem xét, kiểm tra, tổ chức, giải quyết tại phiên toà có hiệu quả nhất.
c. Những vấn đề cần hoàn thiện trong các chế định của thủ tục xét xử phúc thẩm:
- Về quyền kháng cáo kháng nghị:
+ Kháng cáo:
Quyền kháng cáo quy định cho nhiều người tham gia tố tụng khác nhau, đồng thời
phạm vi kháng cáo của những người có quyền kháng cáo cũng được quy định khác nhau,
tuỳ thuộc vào vai trò, tư cách tham gia tố tụng của họ và sự liên quan của bản án, quyết
định sơ thẩm đối với quyền lợi ích hợp pháp của những người này.
Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: bị cáo , người bị
hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo về tất cả những vấn đề trong bản
án sơ thẩm như: tội danh, hình phạt (bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung),
các biện pháp tư pháp; mức bồi thường thiệt hại, án phí, các quyết định về xử lý tài sản,
vật chứng v. v…đối với quyết định sơ thẩm: bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp
pháp của họ chỉ được kháng cáo hai loại quyết định là quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án. Về nguyên tắc, khác với quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước
chỉ quy định cho phép người bị hại kháng cáo phần trách nhiệm dân sự; luật tố tụng hình
sự Việt Nam cho phép người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo theo
hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự của bị cáo.
Đối với nguyên đơn dân sự và bị đơn dân, do quyền và lợi ích của họ chỉ liên quan
đến phần bồi thường thiệt hại trong bản án, quyết định sơ thẩm hình sự nên luật tố tụng
hình sự quy định họ và đại diện hợp pháp của họ chỉ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
liên quan đến bồi thường thiệt hại như mức bồi thường, phương thức, thời hạn, các biện
pháp đảm bảo việc bồi thường, án phí dân sự… Tương tự như vậy, những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ chỉ có quyền
kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự đó,
mà thông thường là các quyết định liên quan đến việc xử lý tài sản.
Đối với những người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần;
nhất là đối với người chưa thành niên không có người bảo vệ quyền lợi cho họ do mồ côi
cha mẹ, không nơi nương tựa, lang thang cơ nhỡ… cần có quy định trong Bộ luật tố tụng
hình sự về chủ thể có quyền kháng cáo phúc thẩm trong giới hạn phạm vi nhất định nhằm
bảo vệ cho quyền lợi của một số đối tượng nêu trên như các tổ chức: Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ v.v…
- Kháng nghị phúc thẩm:
+ Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm:
Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định cụ thể là Viện kiểm sát kháng nghị bản án,
quyết định sơ thẩm khi phát hiện thấy có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật như: Bản
án xử không đúng tội danh; mức hình phạt quá nhẹ hoặc quá nặng; cho hưởng án treo hay
áp dụng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng với quy định
của Bộ luật hình sự, quyết định mức bồi thường không thoả đáng, quyết định xử lý tài sản
để đảm bảo thi hành án không chính xác v.v… có vi phạm thủ tục tố tụng hình sự như:
Thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự. Không triệu
tập nhân chứng quan trọng mà thiếu người đó sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án một
cách đúng đắn đến chứng minh làm rõ sự thật vụ án; không có người bào chữa trong những
trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; việc xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc
không đầy đủ; kết luận của bản án, quyết định của cấp sơ thẩm không phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án.
+ Về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm:
Để tăng cường chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân và
phù hợp với chủ trương cải cách tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp theo tinh thần
cải cách tư pháp. Việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định Viện kiểm sát cấp
huyện, quận (hay khu vực) có quyền kháng nghị phúc thẩm – Viện kiểm sát ngang cấp
với Toà phúc thẩm khi Toà phúc thẩm xét xử lại các vụ án sơ thẩm có quyền kháng nghị
phúc thẩm các vụ án này. Viện kiểm sát cấp trên của cấp Toà xét xử sơ thẩm (có thể là
Toà phúc thẩm hay Toà thượng thẩm) có quyền kháng nghị phúc thẩm bản án sơ thẩm
của Toà án cấp khu vực, quận, huyện hay Toà phúc thẩm.
- Về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm.
+ Thẩm quyền sửa án sơ thẩm:
Về nguyên tắc, Toà án cấp phúc thẩm không được làm xấu đi tình trạng của bị
cáo; tuy nhiên Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định sơ thẩm theo
hướng bất lợi cho bị cáo trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị, người bị hại kháng
cáo theo hướng tăng hình phạt và tăng bồi thường… đối với bị cáo. Tuy nhiên trên thực
tế vấn đề này vẫn còn vướng mắc như trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị tăng mức
hình phạt, nhưng khi xét xử phúc thẩm – Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để
xác định bị cáo về tội danh khác nặng hơn tội danh mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử thì
có trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm cho rằng do có kháng nghị theo hướng tăng
nặng nên đã áp dụng điều, khoản nặng hơn để xử phạt bị cáo; cũng có Hội đồng xét xử
phúc thẩm lại tuyên huỷ án để giải quyết lại từ giai đoạn điều tra; có trường hợp Toà án
cấp phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm và kiến nghị giám đốc thẩm. Có thể thấy rằng toà
án cấp phúc thẩm tuyên phạt theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố và Toà án cấp sơ thẩm áp dụng là không phù hợp với Điều 196 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 về giới hạn của việc xét xử; còn huỷ án để điều tra lại thì Bộ luật tố
tụng hình sự hiện tại không quy định huỷ án trong trường hợp này. Trường hợp giữ y các
quyết định của án sơ thẩm và kiến nghị giám đốc thẩm để thực hiện thủ tục tố tụng phá
án thì vụ án kéo dài, ít hiệu quả về giáo dục phòng ngừa cũng như hiệu quả kinh tế kém.
Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định cụ thể trường hợp có kháng cáo, kháng nghị
theo hướng tăng nặng nếu có căn cứ để xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện
kiểm sát truy tố, Toà sơ thẩm đã quyết định, Toà án cấp phúc thẩm được quyền tuyên huỷ
án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án từ giai đoạn điều tra.
Trường hợp Toà án cấp phúc thẩm thấy không có căn cứ để chứng minh bị cáo có
tội thì hiện tại có Hội đồng xét xử tuyên ngay bị cáo không phạm tội, nhưng cũng có Hội
đồng xét xử lại tuyên huỷ án để điều tra lại làm cho việc áp dụng pháp luật không thống
nhất. Nguyên nhân do pháp luật tố tụng hình sự còn chưa quy định rõ ràng. Do vậy để
hoàn thiện chế định này, cần quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu Toà án cấp
phúc thẩm cho rằng không đủ căn cứ để chứng minh bị cáo phạm tội thì Toà án cấp phúc
thẩm phải tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.
+ Thẩm quyền huỷ án sơ thẩm:
Theo quy định tại Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Toà án phúc thẩm
có quyền huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không
đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Huỷ án sơ thẩm để xét xử lại khi Hội
đồng xét xử không đúng luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng hoặc
khi người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên không phạm tội nhưng có căn cứ cho rằng
người đó đã phạm tội. Quy định như vậy là tương đối đầy đủ nhưng cần có thêm bổ sung
để hoàn thiện hơn nữa thẩm quyền này; tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất.
Ví dụ trường hợp để lọt tội phạm không truy tố thì có Hội đồng xét xử cho rằng do việc
điều tra không đầy đủ nên huỷ án sơ thẩm để điều tra lại; có Hội đồng xét xử phúc thẩm
cho rằng trường hợp này cấp phúc thẩm không có quyền huỷ án sơ thẩm vì án sơ thẩm
xét xử theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát đúng giới hạn và không có vi phạm gì đối
với các bị cáo đã xét xử sơ thẩm.
Có trường hợp chỉ có một số bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt – số bị cáo
không kháng cáo đã được Toà án cấp sơ thẩm ra quyết định thi hành án. Nhưng Hội đồng
xét xử phúc thẩm thấy việc điều tra, xét xử sơ thẩm không đầy đủ và lẽ ra nếu điều tra
đầy đủ thì bị cáo có thể bị truy tố với tội danh nặng hơn hoặc khung hình phạt cao hơn thì
có Hội đồng xét xử chỉ tuyên huỷ án sơ thẩm đối với số bị cáo kháng cáo để điều tra lại,
số bị cáo không kháng cáo án đã có hiệu lực pháp luật thì Toà án cấp phúc thẩm kiến
nghị giám đốc thẩm huỷ án để điều tra lại; có Hội đồng xét xử thì tuyên huỷ toàn bộ án sơ
thẩm để điều tra lại. Vì quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự không đầy đủ, rõ ràng nên
trong thực tiễn xét xử phúc thẩm còn nhiều lúng túng áp dụng pháp luật không thống
nhất; cần sửa đổi bổ sung.
- Về thẩm quyền xét xử phúc thẩm bút lục.
Thủ tục xét xử phúc thẩm bút lục không phải là thủ tục mới đối với các quốc gia
có nền tư pháp tiên tiến cũng như có những điểm tương đồng với truyền thống pháp luật
của Việt Nam. Thực chất thủ tục này được áp dụng khi vụ án có những tình tiết đáp ứng
một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, ví dụ ở Pháp,
Italy đều có thủ tục này dưới dạng khi xét xử phúc thẩm không cần triệu tập bị cáo đến
Toà án do bị cáo có đơn xin vắng mặt tại toà; bị cáo nhận tội ở cấp sơ thẩm và làm đơn
kháng cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt, giảm mức bồi thường. Ưu điểm của thủ tục này là
không cần triệu tập nhiều người ra phiên toà xét xử, đơn giản được các thủ tục tố tụng;
tiết kiệm và giảm chi phí của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng việc xét xử phúc
thẩm vẫn đảm bảo đúng pháp luật. Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự của nhà nước ta
chưa có quy định này vì quá trình xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự chưa được sự đồng
thuận cao. Hiện nay trong tiến trình cải cách tư pháp cần nhìn nhận vấn đề này vì thủ tục
này có nhiều ưu điểm song cũng có sự nhìn nhận nhược điểm của nó chưa khách quan:
coi thủ tục này như một dạng của thủ tục rút gọn, nhìn nhận sai lệch bản chất của thủ tục
xét xử phúc thẩm bút lục – coi việc xét xử dựa trên hồ sơ mà không có nhân chứng, bị
cáo sẽ làm mất đi tính khách quan của giai đoạn xét xử phúc thẩm. Do vậy cần bổ sung
Bộ luật tố tụng hình sự với nội dung:
Toà án cấp phúc thẩm chỉ xét xử theo thủ tục bút lục những vụ án hình sự khi có
những điều kiện sau:
Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng trừ các tội xâm phạm an ninh
quốc gia, tội phạm về ma tuý hoặc các tội phạm có yếu tố nước ngoài hoặc các vụ án có
tính chất phức tạp.
Chứng cứ rõ ràng, bị cáo nhận tội.
Bị hại không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.
Bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, giảm nhẹ trách nhiệm bồi thường.
Người tham gia phiên toà phúc thẩm theo thủ tục bút lục cần xác định: Việc xét xử
phúc thẩm theo thủ tục bút lục không cần thiết phải triệu tập bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác đến phiên toà. Chỉ khi xét thấy cần thiết Toà án mới triệu tập bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác. Trường hợp những người này vắng mặt thì Hội đồng
xét xử vẫn có thể tiến hành xét xử.
Về thủ tục xét xử phúc thẩm theo bút lục cần xác định: Sau khi Chủ tọa phiên toà
khai mạc phiên toà, một thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của án sơ
thẩm và nội dung kháng cáo. Tại phiên toà Kiểm sát viên đọc kết luận của Viện kiểm sát,
các thành viên hội đồng phát biểu ý kiến, sau đó nghị án và tuyên án. Trường hợp có triệu
tập bị cáo, người tham gia tố tụng khác, người bào chữa thì những người này trình bày ý
kiến trước khi Viện kiểm sát đọc kết luận.
1.2. Khái niệm tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng thực hành
quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao
1.2.1. Khái niệm chất lượng thực hành quyền công tố
Khái niệm chất lượng dùng để đánh giá định tính và định lượng của việc thực hiện
một công việc nào đó. Như Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như ý chủ biên coi chất
lượng "1. là cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật. 2. Cái tạo nên bản chất
của sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật khác, phân biệt với số lượng: tăng trưởng
số lượng đến mức nào thì làm thay đổi chất lượng" [43, tr.331]. Chất lượng khác với số
lượng song mối quan hệ lượng chất, số lượng ở mức độ nhất định có thể biến thành chất.
Công vụ mà kiểm sát viên thực hiện là thực hiện quyền công tố, chất lượng thực hiện
quyền công tố phải tính đến không chỉ trong một vụ án mà cả các vụ án mà công tố viên
thực hiện.
Chất lượng theo nghĩa rộng như Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa,
chất lượng là:
Phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó
là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất
lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài
qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một gắn
bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật,
sự vật trong khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự
thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự
vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn
tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất
lượng và số lượng [27, tr.419].
Với định nghĩa trên bằng phương pháp ngoại suy có thể thấy chất lượng thực hiện
quyền công tố luôn luôn có sự gắn kết của năng lực con người của kiểm sát viên với số
lượng bị cáo mà công tố viên luận tội; công việc ấy, con người ấy thực hiện trong thời
gian bao lâu, kết quả, hiệu quả như thế nào. Chất lượng còn phải tính đến hiệu quả công
việc ở mức độ đạt được so với chỉ tiêu đặt ra với chi phí thời gian, tiền của, sức lực bỏ
thấp nhất. "Thuộc tính" để nói lên chất lượng ở đây là hiệu quả có tính định tính, như việc
đánh giá kết quả điều tra. Sự đánh giá toàn diện, đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm;
chủ thể tội phạm có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay không; hành vi tội phạm
phải là hành vi trái với pháp luật hình sự không; và đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi tội phạm và hậu quả; mức độ lỗi của chủ thể tội phạm và khách thể của tội phạm.
Sự đánh giá trên của Kiểm sát viên là hoạt động áp dụng pháp luật và phải được
kiểm chứng qua năng lực tranh tụng tại toà và sự phán xét cuối cùng của Hội đồng xét
xử. Chất lượng thực hành quyền công tố không chỉ được đánh giá qua một vụ án mà còn
phải được đánh giá cả quá trình công tác của họ, qua nhiều vụ án mà Kiểm sát viên được
giao thực hiện quyền công tố. Mục tiêu chung để so sánh đối chiếu nhằm xác định chất
lượng thực hành quyền công tố là: Hoạt động áp dụng pháp luật của kiểm sát viên nhằm
thực hành quyền công tố. Mục tiêu cụ thể thể hiện trong bản cáo trạng đối với các bị cáo
là: luận tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không để oan người ngay, không bỏ lọt
tội phạm. Tội danh và mức hình phạt phải phù hợp với quy định của luật hình sự và luật
tố tụng hình sự. Với những trình bày trên có thể nêu khái niệm chất lượng thực hành
quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và chất lượng thực hành quyền
công tố của Kiểm sát viên trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng như sau:
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong xét xử các vụ án hình sự là
chỉ tiêu tổng hợp đánh giá mức độ áp dụng đúng đắn pháp luật tố tụng hình sự và luật
hình sự trong đánh giá kết quả điều tra, luận tội, bảo vệ ý kiến của mình trong tranh tụng
tại phiên toà xét xử theo pháp luật. Tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nói chung là
tập trung tất cả các hoạt động về hình sự nhân danh nhà nước đều thực hiện một nhiệm
vụ chung nhất là thông qua các hoạt động cụ thể của mình theo luật định, đảm bảo cho
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội một cách chính xác đúng pháp
luật – Mục đích là mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý
nghiêm minh; không bỏ lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội. Đảm bảo
pháp chế trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử hình sự. Để đạt được mục đích này,
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được nhà nước giao cho trách nhiệm thực hành quyền
công tố, phải đảm bảo việc thu thập đầy đủ, đúng đắn các tài liệu, chứng cứ để xác định
theo pháp luật hình sự, truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội trước toà.
Chính vì vậy, sau khi Viện kiểm sát truy tố, Toà án đã đưa bị cáo ra xét xử và ra
bản án quyết định về các mặt: xác định tội phạm: có hay không có đủ các căn cứ kết tội
bị cáo và áp dụng pháp luật hình sự tuyên hình phạt đối với bị cáo hoặc tuyên bố bị cáo
không phạm tội theo truy tố của Viện kiểm sát nhân dân. Bất luận trường hợp Toà án sơ
thẩm quyết định trong bản án hình sự sơ thẩm như thế nào đối với bị cáo, với người bị
hại hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án… thì họ, luật sư của họ hay
người đại diện hợp pháp của họ cũng như Viện kiểm sát có quyền kháng cáo, kháng nghị
tất cả các quyết định của bản án sơ thẩm. Khi có kháng cáo kháng nghị thì hậu quả pháp
lý là Toà án cấp trên phải đưa ra xét xử lại vụ án theo nội dung của các kháng cáo, kháng
nghị. Trong thủ tục phúc thẩm, trách nhiệm chung của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân là tiến hành các hoạt động theo luật định nhằm đảm bảo trước hết là việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đúng pháp luật đồng thời xem xét các tình tiết của vụ án để đề xuất
việc áp dụng pháp luật ở cấp phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp luật hình sự
bao gồm việc quyết định về tội phạm và hình phạt cũng như chính sách hình sự – phục vụ
nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng thời kỳ.
Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự phải căn cứ vào mức
độ hoàn thành các nhiệm vụ và với mục tiêu của công tác giải quyết một vụ án hình sự.
Như thế có thể xác định các tiêu chí đánh giá sau đây:
Một là: Xem xét việc kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát. Theo đó, trước hết
là xem xét kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới
(Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương) còn gọi là xem xét kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Kiểm sát
viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, đối chiếu nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát cấp
dưới. Nếu thấy kháng nghị có căn cứ, đúng pháp luật thì phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu, chứng
cứ. Xây dựng lập luận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao bảo đảm cho kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới được chấp nhận tại phiên toà phúc
thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.
Tiếp theo là Kiểm sát viên phải kiểm tra đầy đủ đối với các bản án hình sự sơ
thẩm của Toà án nhân dân cấp dưới xét xử sơ thẩm, phối hợp với các Viện kiểm sát nhân
dân địa phương và các thông tin khác: báo chí, dư luận nhân dân v.v… Trên cơ sở đó
phát hiện những bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm có vi phạm
pháp luật về hình sự, từ đó tham mưu với lãnh đạo đơn vị thực hiện việc kháng nghị phúc
thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh (gọi là kháng nghị trên một
cấp).
Hai là: Xem xét kháng cáo của bị cáo; bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến vụ án… Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, trước hết theo nội dung
kháng cáo; đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đối chiếu với pháp luật
và quyết định của án sơ thẩm… từ đó xây dựng quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao về xử lý vụ án theo kháng cáo của các đương sự: chấp nhận hay không chấp nhận
kháng cáo, chấp nhận một phần hay toàn bộ v.v… lý do của việc chấp nhận hay không
chấp nhận kháng cáo trên cơ sở pháp lý và chính sách về pháp luật của Nhà nước.
Ba là: Chuẩn bị các nội dung để tham gia phiên toà phúc thẩm cũng như tiến hành
việc thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm. Đây là hoạt động rất quan trọng
của Kiểm sát viên. Mọi việc trước đó như xem xét kháng cáo, kháng nghị hoặc tự mình
kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mới là bước mở
đầu. Tiến hành xét xử tại phiên toà phúc thẩm hình sự mới là khâu quyết định đến hiệu
quả việc thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Để đạt được chất lượng và hiệu quả của việc thực hành quyền công tố của Kiểm
sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Trước hết Kiểm sát viên phải có bước chuẩn bị thật chu
đáo, đầy đủ và có căn cứ pháp luật để bảo vệ, trước hết là các quyết định truy cứu trách
nhiệm hình sự của Viện kiểm sát cấp dưới cũng như kháng nghị của Viện kiểm sát đối
với vụ án và quan điểm xử lý với các kháng cáo của bị cáo, người tham gia tố tụng khác
theo luật.
Tại phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải chủ động tham gia xét hỏi, tranh
luận công khai, dân chủ với những ý kiến của bị cáo, người bào chữa v.v… về kháng
cáo, kháng nghị; chủ động lập luận, đưa ra quan điểm giải quyết kháng cáo, kháng
nghị đối với vụ án. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chân lý, đảm bảo sự thật của vụ án
được xác định chính xác tại toà. Trên cơ sở đó đảm bảo một cách chắc chắn việc truy
tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với bị cáo là đúng đắn. Đồng thời thông qua phiên
toà phúc thẩm cũng làm rõ và nếu có căn cứ người đó không phạm tội thì đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội - đình chỉ vụ án. Hiện nay
toàn bộ hoạt động tư pháp của chúng ta đang rất nỗ lực để không xảy ra trường hợp
truy tố sau đó Toà án tuyên bị cáo không phạm tội; nơi nào để xảy ra việc Toà án
tuyên bị cáo không phạm tội thì bị coi là yếu kém, thiếu trách nhiệm v.v.. phải kiểm
điểm, xử lý cán bộ, đơn vị, phải bồi thường v.v… Tuy nhiên vấn đề này cần có nhận
thức lại cho đúng và phù hợp với tiêu chí xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Phải coi việc Toà án tuyên bị cáo không phạm tội càng nhiều thì chứng tỏ hoạt
động tư pháp càng khách quan, minh bạch và đáng khen ngợi. Đây cũng là tiêu chí
đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao mới thoả đáng.
Bốn là: Bảo vệ lời luận tội của công tố viên (Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố)
trong giai đoạn tranh tụng tại phiên toà xét xử phúc thẩm hình sự.
Với tư cách là người buộc tội, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà xét
xử có trách nhiệm tranh tụng với người bị cáo, người bào chữa, luật sư của bị cáo và
người bị hại. Như vậy, Kiểm sát viên phải bảo vệ được các quan điểm, nêu ra được các lý
lẽ, căn cứ buộc tội; bác bỏ các lý lẽ gỡ tội không có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên Kiểm sát
viên phải có đủ nhận thức về lời bào chữa của luật sư, khi ý kiến của họ là phù hợp với
pháp luật. Vì vậy phải chấp nhận những ý kiến đó để điều chỉnh lời buộc tội của mình,
nhất là tội danh, những tình tiết giảm nhẹ và nhân thân người phạm tội; và không phải vì
thế mà giảm chất lượng xét xử một vụ án hình sự.
1.2.3. Các yếu tố bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Yếu tố bảo đảm hay các điều cần và đủ cho hoạt động thực hành quyền công tố
được hiểu như nhau. Yếu tố bảo đảm là các điều kiện được xem là công cụ cho hoạt động
thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nói chung và thực hành quyền công tố của Kiểm
sát viên nói riêng. Đồng thời môi trường, hoàn cảnh, năng lực, trình độ của Kiểm sát
viên, của đội ngũ Kiểm sát viên, và mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát
cũng tạo nên những điều kiện bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố. Ngay cả
trong điều kiện số lượng Kiểm sát viên có hạn nhưng phải tham gia nhiều vụ án (số lượng
án phúc thẩm gia tăng) cũng ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện quyền công tố. Có thể
xác định các bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố sau đây:
Thứ nhất: Bảo đảm về chính trị.
Chính trị và pháp lý có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính trị trước hết là sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước. Đường lối, chủ trương của Đảng là cơ sở
nội dung quy định pháp luật. Chính sách hình sự của Đảng có vai trò quyết định trong lập
pháp hình sự và trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đặc biệt là các tội phạm kinh tế, chức vụ; tội phạm tham nhũng và các tội xâm
phạm an ninh quốc gia chính sách, quan điểm xử lý tội phạm là hết sức quan trọng. Đấu
tranh với tội phạm là hoạt động thực tế theo pháp luật nhưng phải dựa trên quyết tâm
chính trị của Đảng cầm quyền. Và trở thành ý chí quyết tâm và động cơ mạnh mẽ của các
cơ quan và người tiến hành tố tụng.
Trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm là của toàn dân song trước hết là của
cả hệ thống chính trị, các đoàn thể xã hội và vấn đề dân chủ hoá trong quá trình tố tụng…
Sao cho việc thực hiện quyền công tố không ở vào tình thế "đơn thương độc mã" hoặc
đấu tranh kiên quyết với tội phạm nhưng lại không được bảo vệ về những quyền lợi chính
trị của bản thân mình.
Thứ hai: Bảo đảm về mặt pháp lý.
Trong tổ chức hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, điều kiện bắt buộc là phải theo pháp luật. Viện kiểm sát,
Kiểm sát viên chỉ được làm những gì mà pháp luật đã quy định. Đó là những quy định về
chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn trong thực hành quyền công tố. Các căn cứ
pháp lý về thực hành quyền công tố được quy định trong các luật. Đó là Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát, pháp lệnh kiểm sát viên và pháp luật
nói chung. Như vậy đòi hỏi pháp luật phải đầy đủ, ổn định và khả thi. Hiện nay ở nước ta
đang tiến hành cải cách nền tư pháp. Các luật nêu trên còn được sửa đổi bổ sung theo các
nội dung của cải cách nền tư pháp do Đảng vạch ra. Pháp luật sớm hoàn thiện sẽ là những
bảo đảm pháp lý vững chắc nhất cho việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
nói riêng và chất lượng giải quyết các vụ án hình sự nói chung.
Đáng chú ý là cải cách bộ máy các cơ quan tư pháp sao cho việc tăng thẩm quyền
xét xử của các toà án cấp dưới để số lượng án phúc thẩm của Toà án tối cao giảm đi, theo
đó thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự sẽ có chất lượng
hiệu quả cao hơn.
Ba là: Bảo đảm về số lượng Kiểm sát viên và năng lực Kiểm sát viên. Để có
bảo đảm này, cần có một hệ thống cơ sở đào tạo Kiểm sát viên cùng với chương trình
nội dung đào tạo nghề Kiểm sát viên. Đồng thời có nội dung chương trình bồi dưỡng
kỹ năng nghiệp vụ công tác thực hành quyền công tố. Phải tăng cường giáo dục chính
trị, tư tưởng cho Kiểm sát viên. Làm cho họ nhận thức đúng đắn đường lối, quan điểm
của Đảng; nâng cao phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực tư duy biện chứng, phẩm
chất đạo đức nghề nghiệp… Có thể nói rằng, năng lực thực hiện quyền công tố của
đội ngũ Kiểm sát viên và của cá nhân Kiểm sát viên được cấu thành bởi các yếu tố về
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh
nghề nghiệp.
Bốn là: Bảo đảm về tổ chức và sự hoàn thiện cơ chế phân công phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, cơ quan công tố, cơ quan xét xử).
Về công tác tổ chức, V.I.Lênin đã nói đại ý: "cho tôi một tổ chức những người
cộng sản tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga". Công tác tổ chức để giải quyết các vụ án hình sự
đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và đối với cơ quan Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố nói riêng là đặc biệt quan trọng và có tính tiên quyết, trong đó có
việc sử dụng con người, bố trí Kiểm sát viên đúng với năng lực của họ là yếu tố bảo đảm
cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Hoạt động thực hiện quyền tư pháp hình sự ở nước ta, cơ quan điều tra, cơ quan
Viện kiểm sát và toà án cần có cơ chế phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ mới có
thể tạo ra những yếu tố cần thiết cho việc nâng cao chất lượng điều tra, chất lượng thực
hiện quyền công tố và chất lượng xét xử.
Năm là: ý thức pháp luật của công dân và vấn đề phát huy dân chủ trong quá
trình tố tụng.
ý thức pháp luật của cán bộ công chức và ý thức pháp luật của công dân cao thì sẽ
ít vi phạm pháp luật và tội phạm. Thậm chí hầu như là không có tội phạm. Nhưng đó chỉ
là không tưởng. Vấn đề tội phạm là hiện tượng của các chế độ chính trị - xã hội. Cho nên
việc nâng cao ý thức pháp luật là nhu cầu của xã hội và của cuộc đấu tranh phòng chống
tội phạm. Ngay cả những người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo cũng cần có nhận
thức pháp luật để tự bảo vệ quyền của mình. Việc phát huy dân chủ trong hoạt động tố
tụng hình sự là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và người bị hại.
Tăng cường tranh tụng trong hoạt động xét xử sẽ tạo ra "sức ép" đối với các cơ quan và
người tiến hành tố tụng. Để ngăn chặn những sự lạm dụng quyền lực, hoặc chủ quan duy
ý chí trong luận tội và trong việc ra các quyết định và bản án. Các bảo đảm này sẽ nâng
cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố.
Chương 2
Thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố
của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự
ở Việt Nam từ 2003 đến nay
2.1. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng
nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
2.1.1. Tình hình thụ lý, xét xử phúc thẩm các vụ án có kháng cáo, kháng nghị
từ năm 2003 đến năm 2008 trong toàn quốc
a. Tình hình thụ lý và xét xử sơ thẩm án hình sự từ năm 2003 đến năm 2008:
Trong những năm qua, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Theo thống kê thì số vụ
án Toà án trong toàn quốc phải xét xử sơ thẩm hàng năm đều tăng. so sánh số vụ thụ lý
thì năm 2008 tăng khoảng 10.000 vụ so với năm 2003; theo đó số bị cáo năm 2008 tăng
khoảng trên 30.000 bị cáo so với năm 2003. Với số lượng như vậy, thấy rằng tình hình tội
phạm đưa ra xét xử sơ thẩm tăng cả về số lượng vụ án và số lượng bị cáo. Tuy nhiên, số
vụ án chỉ tăng khoảng 10.000 vụ nhưng số bị cáo tăng trên 30.000 bị cáo; cho thấy các vụ
án có nhiều người tham gia tăng đáng kể. Phản ảnh tình trạng các vụ án có nhiều đồng
phạm tăng lên, tính chất của tội phạm có tổ chức tăng, diễn biến của vụ án phức tạp hơn
và hậu quả của tội phạm gây ra cũng nặng nề hơn.
Số lượng án hình sự phải xét xử sơ thẩm tăng lên thì việc tiến hành xét xử và kết
quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cũng được Toà án các cấp giải quyết tăng lên (xem
bảng 2.1).
b. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự sơ thẩm có kháng cáo,
kháng nghị trong toàn quốc từ năm 2003 đến năm 2008:
Mặc dù tình hình thụ lý và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong toàn quốc từ
năm 2003 đến năm 2008 hàng năm đều tăng cả về số vụ và số bị cáo; song số án có
kháng cáo, kháng nghị phải thụ lý để xét xử phúc thẩm trong toàn quốc từ năm 2003 đến
năm 2008 có sự dao động không đáng kể. Hàng năm số án có kháng cáo, kháng nghị
trung bình từ 14 ngàn đến 15 ngàn vụ và từ 20 ngàn đến 23 ngàn bị cáo. Tổng số vụ án có
kháng cáo, kháng nghị chiếm 29% số vụ đã xét xử sơ thẩm (90.275 vụ/316.282 vụ =
29%) và 25% số bị cáo đã xét xử sơ thẩm (128.374 bị cáo/510.327 bị cáo = 25 %).
Riêng số án Viện kiểm sát kháng nghị chỉ chiếm 0,5% trong tổng số án có kháng
cáo, kháng nghị phải xét xử phúc thẩm (4462 vụ/90.275 vụ = 0,5%).
Kết quả xét xử phúc thẩm: Hàng năm Toà án phúc thẩm các cấp đã xét xử trung
bình đạt từ 80 đến 87% số vụ và số bị cáo có kháng cáo, kháng nghị. Trung bình tỷ lệ xét
xử phúc thẩm của 6 năm từ năm 2003 đến năm 2008 là 81% số vụ (73.201 vụ/ 90.275 vụ
= 81%), và 83% số bị cáo (106.228 bị cáo/128.374 bị cáo = 83%).
Bảng 2.1: Tình hình số án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
trong toàn quốc
Số vụ/bị cáo Số vụ/bị cáo Số vụ/bị cáo Ghi Năm thụ lý xét xử sơ đã xét xử sơ có kháng cáo, chú thẩm thẩm kháng nghị
2003 55.554/85.460 47.912/71.916 14.662/20.428
2004 56.259/89.999 48.497/76.562 15.119/21.541
2005 57.032/92.877 48.828/77.752 13.868/19.715
2006 64.090/106.431 55.766/90.507 15.173/21.237
2007 65.128/111.071 56.541/94.291 15.974/23.274
2008 68.345/118.511 58.738/99/299 15.479/22.179
Tổng cộng 366.408/604.349 316.282/510.327 90.275/128.374
Nguồn: Thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân.
2.1.2. Tình hình án hình sự xét xử phúc thẩm do có kháng cáo và kháng nghị
ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2003 đến năm 2008
a. Chế độ và thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự:
Theo quy định tại Điều 20 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, việc xét xử các
vụ án hình sự vẫn đảm bảo và thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Theo đó, về thẩm quyền
xét xử phúc thẩm được quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự thuộc thẩm quyền của mình và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự do cấp quận, huyện
xét xử sơ thẩm nhưng có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát. Toà án nhân dân
tối cao không xét xử sơ thẩm; chỉ xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự do cấp tỉnh đã xét
xử sơ thẩm mà có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát.
Đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm.
Trong tiến trình thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết
49/NQ-BCT của Bộ Chính trị xác định cải cách tư pháp lấy Toà án làm Trung tâm. Theo
đó có một số đề án được đưa ra xem xét về tổ chức bộ máy của Toà án và tổ chức xét xử
trong thời gian tới. Như mô hình Toà án khu vực (cho một số Toà án cấp huyện), Toà
thượng thẩm (chuyên xét xử phúc thẩm đối với án sơ thẩm cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng
nghị) Toà thượng thẩm không thuộc Toà án nhân dân tối cao. Đối với Toà án nhân dân
tối cao thì là cấp quản lý và giám đốc thẩm, tái thẩm v.v… Tuy các đề án đang được xây
dựng, có đề án đã trình Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Song chưa có đề án
nào được chấp nhận để trình Quốc hội xét, quyết định và tổ chức thực hiện. Đối với tổ
chức bộ máy, hoạt động của ngành Kiểm sát, sẽ tiến hành cải cách cho phù hợp với mô
hình Toà án trong xét xử các vụ án hình sự; đảm bảo quyền công tố của Nhà nước được
thực hiện đầy đủ và có hiệu quả.
b. Tình hình các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao thực hành quyền công tố đã xét xử ở cấp phúc thẩm:
+ Tình hình các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân trong toàn quốc:
Trong những năm từ năm 2003 đến nay, số án hình sự có kháng cáo, kháng nghị
trong toàn quốc và số án đã xét xử phúc thẩm hàng năm không có sự chênh lệch, tăng giảm
lớn về số lượng tuyệt đối. Riêng số vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát vẫn còn hạn chế
so với tổng số án phúc thẩm phải xét xử.
Bảng 2.2: Số án có kháng cáo, kháng nghị toàn quốc
Trong đó Số án đã xét xử Số án có kháng cáo, Ghi Năm kháng nghị chú Vụ Bị cáo Kháng Kháng
cáo nghị
2003 14.662v/20.428b/c 13.691 971 12.338 17.419
2004 15.119/21.541 14.097 1.022 13.051 18.840
2005 13.868/19.715 12.947 11.139 16.449 921
2006 15.173/21.237 14.628 11.975 16.997 545
2007 15.974/23.274 15.429 12.652 18.763 545
2008 15.479/22.179 15.021 11.846 17.760 458
Cộng 90.275/128.374 85.813 4.462 73.201 106.228
5% 81% 82,7%
Nguồn: Thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân.
Theo số liệu thống kê hàng năm thì toàn quốc có khoảng từ 14 ngàn đến trên 15
ngàn vụ án có kháng cáo, kháng nghị; khoảng trên 19 ngàn đến 23 ngàn bị cáo có kháng
cáo, kháng nghị bản án quyết định sơ thẩm hình sự của Toà án cấp sơ thẩm. Các cơ quan
tiến hành tố tụng đã giải quyết (xét xử phúc thẩm) trung bình đạt 81% số vụ và 83% số bị
cáo.
+ Tình hình án có kháng cáo, kháng nghị ở cấp phúc thẩm tối cao.
Trong những năm qua, thực hiện chương trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết
08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, Ban cải cách tư pháp Trung ương đã đề ra nhiều
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử phúc thẩm ở cấp Trung ương. Trong
đó vấn đề nổi bật là đã được Quốc hội thể chế hoá Nghị quyết của Đảng vào pháp luật tố
tụng hình sự. Cụ thể là Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội khoá XI sửa
đổi theo hướng tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện được xét xử các vụ án có khung
hình phạt đến 15 năm (Bộ luật tố tụng hình sự năm 1985 Toà án cấp huyện được xét
xử các vụ án có khung hình phạt đến 7 năm). Tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp
huyện chính là chuyển một lượng lớn án của cấp tỉnh chuyển về cho cấp huyện xét xử.
Toà án cấp tỉnh chỉ xét xử các vụ án bị truy tố có khung hình phạt trên 15 năm. Do đó,
án sơ thẩm của cấp tỉnh giảm đáng kể và đương nhiên số lượng án cấp phúc thẩm tối
cao cũng giảm theo. Cụ thể là: Tổng số án thụ lý xét xử phúc thẩm năm 2004 là 7.700
vụ; năm 2005: 5.600 vụ; năm 2006: 5.500 vụ; năm 2007: 5.000 vụ; năm 2008: 3.500
vụ. Số lượng án phúc thẩm tối cao giảm dần cùng với lộ trình tăng thẩm quyền xét xử
cho Toà án cấp huyện. Kết quả là sau khi Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực pháp luật
và các ngành tư pháp Trung ương xây dựng, triển khai lộ trình tăng thẩm quyền xét xử
cho cấp huyện từ năm 2004 đến năm 2009 kết thúc việc thực hiện Điều 170 Bộ luật tố
tụng hình sự tăng thẩm quyền xét xử cho tất cả các Toà án cấp huyện thì án phúc thẩm
tối cao giảm 50% số vụ việc. Hiện tượng quá tải ở cấp xét xử Toà án nhân dân tối cao
được khắc phục triệt để, tạo điều kiện cho cấp tối cao nâng cao chất lượng xét xử các vụ
án hình sự cũng như nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2.2. Khái quát chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
Như phần khái niệm đã nêu rõ: Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân chính là việc sử dụng đầy đủ, toàn diện các
quyền năng pháp lý nhân danh Nhà nước để thực hiện việc truy tố ra trước Toà án đối với
người phạm tội. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình
sự không phân biệt quyền năng pháp lý nhân danh Nhà nước trao cho Viện kiểm sát nhân
dân trong xét xử phúc thẩm thuộc cấp tỉnh hay cấp tối cao mà là ở hai cấp thì quyền năng
pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân được quy định chung. Theo đó, Viện kiểm sát nhân
dân có các quyền năng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm như
sau:
Ngoài các quy định về quyền kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm
của Toà án cấp trên. Viện kiểm sát nhân dân (đại diện thực hành quyền năng của Viện
kiểm sát nhân dân là các Kiểm sát viên) còn có những quyền năng nhằm đảm bảo việc
truy tố người phạm tội ở giai đoạn xét xử phúc thẩm: Nhằm đảm bảo việc truy tố đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Các quyền năng đó theo pháp luật tố tụng quy định và Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện những năm gần đây như sau:
2.2.1. Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong kháng nghị phúc thẩm
Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trước hết thể hiện ở việc thực hiện các
nhiệm vụ trong công tác kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật. Xem xét đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong kháng nghị phúc thẩm, được thể hiện
ở hai nhiệm vụ chính: Đó là thực hành quyền công tố đối với các kháng nghị phúc thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và thực hành
quyền công tố đối với việc kháng nghị phúc thẩm trên một cấp…. là kháng nghị phúc
thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án
cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với hai nhiệm vụ này được thể hiện như sau:
a. Thực hành quyền công tố đối với kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh
Số lượng án kháng nghị phúc thẩm của ngành kiểm sát nhìn chung vẫn chiếm tỷ lệ
rất thấp so với tổng số án cấp phúc thẩm thụ lý (gồm kháng cáo và kháng nghị). Theo số liệu của ngành kiểm sát1 thì hàng năm việc kháng nghị của Viện kiểm sát chỉ chiếm khoảng
5% số vụ án và bị cáo đã xét xử sơ thẩm và chiếm khoảng 15% số bị cáo đã được Toà án cấp
phúc thẩm cải sửa án sơ thẩm.
Năm 2003 và 2004 có khoảng 1.000 vụ được kháng nghị phúc thẩm thì năm 2007
đến năm 2008 chỉ có khoảng 450 đến 500 vụ được Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm.
Riêng kháng nghị phúc thẩm của các Viện kiểm sát địa phương đối với án sơ thẩm cấp
tỉnh, thành phố thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao thì hàng năm chỉ trung bình từ 250 đến 320 vụ án.
Bảng 2.3: Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm
2004 2005 2006 2007 2008
VK VK VK VK VK
Chấ Chấ Chấ Châ Chấ S S S S S Đơn khá Đã p khá Đã p khá Đã p khá Đã p khá Đã p vị ng xử nhậ ng xử nhậ ng xử nhậ ng xử nhậ ng xử nhậ
ngh n ngh n ngh n ngh n ngh n
ị ị ị ị ị
Phú
c 150 147 117 88 88 77 77 40 79 78 33 73 71 thẩ
m 1
Phú
c
thẩ 93 91 73 73 61 37 75 57 40 62 50 33 59 44 25
m 2
Phú
c 207 178 130 162 146 77 142 119 67 136 120 55 121 108 49 thẩ
m 3
450 416 320 323 295 294 253 147 277 258 121 253 223
Nguồn: Thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân.
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với các kháng nghị của Viện
kiểm sát cấp dưới; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm nhiệm vụ thực hành
quyền công tố phải đặc biệt chú ý đến một số điểm của kháng nghị:
- Kiểm tra tính có căn cứ của kháng nghị phúc thẩm: Trước hết kiểm tra về thủ
tục: Kháng nghị có đảm bảo các quy định về các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm theo
quy định của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự hay không (Điều 33, Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự
ban hành kèm theo quyết định 960 ngày 17/9/2007 xem trang: 12.
- Kiểm tra về thẩm quyền và thời hạn kháng nghị: Về thẩm quyền kháng nghị
phúc thẩm của quyết định kháng nghị có đảm bảo đúng theo quy định tại khoản 2, Điều
232 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 32 Quy chế số
960/2007/VKSTC-V3 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Đối với thời hạn kháng nghị, cần kiểm tra đối chiếu với các quy định tại Điều 234,
Điều 239 Bộ luật tố tụng hình sự.
Sau khi kiểm tra, Kiểm sát viên phải xác định được kháng nghị phúc thẩm đó có
đảm bảo các quy định của pháp luật về hình thức hay không. Đồng thời nghiên cứu nội
dung kháng nghị để chuẩn bị cho việc bảo vệ kháng nghị tại phiên toà phúc thẩm.
- Nghiên cứu vụ án và kiểm tra nội dung kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ kháng
nghị tại phiên toà. Đây là điểm mấu chốt, quan trọng nhất. Nếu qua nghiên cứu nội dung
vụ án, kiểm tra các căn cứ của kháng nghị phúc thẩm thấy kháng nghị không chính xác
thì kiên quyết thực hiện thẩm quyền của mình là rút kháng nghị phúc thẩm của cấp dưới
trước khi xét xử phúc thẩm. Nếu kháng nghị có căn cứ, phù hợp với chứng cứ, tài liệu
trong hồ sơ vụ án thì chuẩn bị đầy đủ các tài liệu và tiến hành các bước chuẩn bị tham gia
phiên toà, thực hành quyền công tố do Nhà nước trao cho để bảo vệ kháng nghị phúc
thẩm của cấp dưới. Chính là bảo vệ việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại
phiên toà nếu có chứng cứ, tình tiết mới mà nội dung kháng nghị là không cần thiết thì
Kiểm sát viên có thẩm quyền rút kháng nghị phúc thẩm tại phiên toà.
b. Thực hành quyền công tố đối với kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao:
Thực tế, hiện nay các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao kháng nghị phúc thẩm (kháng nghị trên 1 cấp) là rất ít; mỗi năm trung bình là
3 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm (tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh) chỉ
kháng nghị từ 10 đến 15 vụ thông qua số lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thấy rằng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đối với việc kháng nghị phúc thẩm trên một cấp là chưa đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay [4].
Sở dĩ có tình trạng trên là do: Thứ nhất pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định
Toà án cấp dưới phải gửi bản án sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Toà án chỉ
phải gửi bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp, sau đó Viện kiểm sát cùng cấp sao gửi bản
án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (theo quy định của Quy chế thực hành quyền công
tố - xét xử hình sự) do đó hầu hết bản án khi đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao là rất
chậm không còn đủ thời gian để nghiên cứu, phát hiện vi phạm và kháng nghị phúc thẩm.
Thứ hai là do những khó khăn về công tác cán bộ, về lượng án phúc thẩm lớn nên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao mới chỉ tập trung giải quyết án có kháng cáo, kháng nghị của
địa phương, chưa tổ chức bộ phận chuyên trách nhằm quản lý, kiểm tra các bản án sơ
thẩm của cấp tỉnh để phát hiện vi phạm và kháng nghị phúc thẩm. Viện kiểm sát nhân
dân tối cao có kháng nghị được một số vụ, hầu hết là dựa vào báo cáo đề nghị của địa
phương, vào dư luận trên báo chí. Vấn đề quan trọng nhất là Viện kiểm sát nhân dân tối
cao chưa chú trọng đúng mức đối với công tác này. Các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới chỉ tập trung vào nâng cao chất lượng tham gia
xét xử các vụ án phúc thẩm. Việc tổ chức, quản lý, điều hành để kháng nghị phúc thẩm
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hực sự là một công cụ đắc lực trong thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát ở cấp phúc thẩm các vụ án hình sự còn rất hạn chế. Vấn đề này
thể hiện ngay trong tổng kết công tác kháng nghị phúc thẩm 3 năm 2004-2006 và sơ kết 1
năm thực hiện Chỉ thị 03 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường
công tác kháng nghị phúc thẩm - việc sơ kết chỉ kiểm điểm đánh giá việc thực hiện kháng
nghị phúc thẩm đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện (thường được gọi
là tắm từ vai trở xuống).
c. Một số tồn tại đáng lưu ý của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi
thực hành quyền công tố với kháng nghị phúc thẩm:
- Về hình thức và nội dung kháng nghị: Mặc dù Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã
có ban hành mẫu kháng nghị phúc thẩm trong đó viện dẫn các Điều luật làm căn cứ
kháng nghị, nhưng nhiều kháng nghị của địa phương và cả kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng không đảm bảo quy định. Ví dụ như tiêu đề: Theo
quy định là "kháng nghị phúc thẩm" nhưng nhiều kháng nghị lại ghi "quyết định kháng
nghị phúc thẩm". Căn cứ để kháng nghị phúc thẩm là Điều 36 + 232 Bộ luật tố tụng hình
sự nhưng nhiều kháng nghị lại thêm Điều 233. Cá biệt có kháng nghị phúc thẩm lại căn
cứ cả vào cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân …
Việc kháng nghị bổ sung theo quy định của Quy chế 960 thì chỉ cần ra quyết định
kháng nghị bổ sung nhưng nhiều địa phương lại ra kháng nghị phúc thẩm mới thay thế
kháng nghị trước đó. Đáng chú ý là đối với kháng nghị phúc thẩm của 3 Viện thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho kháng nghị phúc thẩm nhưng khi
ký kháng nghị phúc thẩm lại không đảm bảo quy định là ký thừa uỷ quyền. Dẫn đến kháng
nghị phúc thẩm không đúng thẩm quyền và bị bác kháng nghị vì sai luật.
- Về nội dung: Kháng nghị phúc thẩm chưa thực sự bám sát vào các căn cứ kháng
nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Kháng nghị còn chung chung: Như án sơ
thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội; hình phạt với
bị cáo là chưa tương xứng… mức hình phạt là chưa thoả đáng mà không phân rõ cơ sở,
căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Do đó khi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
thực hành quyền công tố rất khó bảo vệ thành công các kháng nghị phúc thẩm như vậy.
Kháng nghị phúc thẩm đối với các trường hợp bị cáo được Toà án cấp sơ thẩm tuyên
không phạm tội: Phần đề nghị cấp phúc thẩm trong kháng nghị phúc thẩm chỉ có thể đề
nghị cấp phúc thẩm huỷ án để xét xử sơ thẩm lại nhưng có những kháng nghị lại đề nghị
cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội (trái quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 250 Bộ luật tố
tụng hình sự).
- Việc rút kháng nghị phúc thẩm: Việc rút kháng nghị tuy phần lớn do kháng nghị
phúc thẩm thiếu căn cứ hoặc phát sinh những tình tiết mới ở giai đoạn phúc thẩm; song
còn một số trường hợp rút kháng nghị phúc thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chưa chính xác.
Theo thống kê hàng năm thì việc rút kháng nghị phúc thẩm của Kiểm sát viên cấp
trên với kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp dưới chiếm khoảng 25% số kháng
nghị. Tỷ lệ này có thể cao hơn vì nhiều trường hợp tuy thấy kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát cấp dưới thiếu căn cứ nhưng Kiểm sát viên vẫn bảo vệ kháng nghị thì những
trường hợp này đều bị Toà án cấp phúc thẩm bác kháng nghị. Tuy nhiên có một số trường
hợp kháng nghị phúc thẩm về mặt đường lối: như do xử quá nhẹ, cho án treo không đúng, áp
dụng sai Điều khoản hoặc sai tội danh (thường trong các loại tội ghép trong 1 Điều luật)
kháng nghị phúc thẩm là có căn cứ nhưng lại rút kháng nghị không đúng.
Đối với các kháng nghị phúc thẩm tuy có căn cứ nhưng bị Toà án cấp phúc thẩm
bác kháng nghị. Theo quy định pháp luật thì Viện kiểm sát cấp phúc thẩm, Kiểm sát
viên… có quyền đề nghị giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật. Đồng
thời cũng chính là nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên do căn cứ để kháng nghị
giám đốc thẩm chặt chẽ và yêu cầu khác căn cứ kháng nghị phúc thẩm nên việc đề nghị
giám đốc thẩm còn bị hạn chế hoặc có đề nghị giám đốc thẩm nhưng hiệu quả không cao
vì giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt không phải là một cấp xét xử của Toà án. Tuy nhiên,
trong những năm qua, thực hiện cải cách tư pháp theo chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; Viện
kiểm sát đã báo cáo, đề xuất kháng nghị giám đốc thẩm hầu hết các vụ án mà cấp phúc
thẩm tuyên bị cáo không phạm tội; đồng thời được kháng nghị giám đốc thẩm trên 50%
và Toà án xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm chấp nhận huỷ án để giải quyết lại
theo hướng có tội.
2.2.2. Chuẩn bị tham gia phiên toà phúc thẩm
a. Nghiên cứu hồ sơ vụ án bị kháng cáo, kháng nghị:
Điều 36 Quy chế số 960/2007/QĐ-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ngày 17/9/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
quy định: Kiểm sát viên tham gia phiên toà xét xử phúc thẩm phải trực tiếp nghiên cứu
hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra xem xét lý do yêu cầu
của kháng cáo, kháng nghị và thủ tục kháng cáo, kháng nghị; nghiên cứu kỹ tình tiết,
chứng cứ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị… Nếu thấy cần thiết thì xem xét các phần
khác không bị kháng cáo, kháng nghị để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp
luật.
Như vậy, nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc thực hành quyền công tố tại phiên
toà phúc thẩm là quá trình nghiên cứu, thu thập các tài liệu, phân tích đánh giá và dự thảo
đề xuất quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc giải quyết yêu cầu kháng cáo,
kháng nghị. Thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên nắm vững các tình tiết của
vụ án, nội dung vụ án, nội dung kháng cáo, kháng nghị; nghiên cứu các chứng cứ, các
tình tiết có liên quan, các căn cứ của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Quan điểm của
Luật sư, các tài liệu chứng cứ được bổ sung ở giai đoạn phúc thẩm, dư luận của nhân dân,
báo chí sau phiên toà sơ thẩm… và chuẩn bị quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tại
phiên toà phúc thẩm; chuẩn bị đề cương xét hỏi cũng như kế hoạch tranh luận tại phiên
toà phúc thẩm. Tuy đây là bước chuẩn bị cho phiên toà phúc thẩm nhưng có ý nghĩa hết
sức quan trọng, có tính quyết định đến thành công trong thực hành quyền công tố tại
phiên toà phúc thẩm của Kiểm sát viên. Kiểm sát viên có nắm chắc hồ sơ vụ án, tình tiết
của hồ sơ vụ án, nắm vững các căn cứ pháp luật, nắm vững nội dung kháng cáo, kháng nghị
nhất là các ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng sau khi xét xử
sơ thẩm thì mới chủ động trong thực hành quyền công tô tại phiên toà phúc thẩm; đặc biệt là
trong tranh luận đối đáp với Luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm làm
sáng tỏ sự thật của vụ án…
b. Nghiên cứu các quy định của pháp luật:
Nghiên cứu các quy định của pháp luật là một trong những nội dung hết sức quan
trọng để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong việc áp dụng pháp luật của cấp sơ
thẩm. Các quy định của pháp luật là khá rộng, tuỳ theo từng vụ án chúng ta phải tìm hiểu,
nghiên cứu những quy định của pháp luật liên quan đến đối tượng cần nghiên cứu. Khi
nghiên cứu cần chú ý: Về phạm vi nghiên cứu: chỉ cần nghiên cứu các quy định của pháp
luật có liên quan trước hết đến kháng cáo, kháng nghị; trường hợp cần thiết thì nghiên
cứu toàn diện. Nghiên cứu về pháp luật tố tụng: Bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng
ngi ở phần thủ tục tố tụng nào thì tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật tố tụng
ở phần đó. Nghiên cứu các quy định về hình sự: Kháng cáo, kháng nghị về quyết định
nào thì tập trung vào phần quyết định đó.
Bộ luật hình sự là căn cứ pháp luật chủ yếu khi giải quyết vụ án hình sự. Việc
nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự là việc làm thường xuyên của bất kỳ Kiểm
sát viên nào làm công tác giải quyết các vụ án hình sự. Khi nghiên cứu các Điều luật cần
nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán,
Thông tư liên tịch. Khi nghiên cứu cần đối chiếu từng trường hợp với từng Điều luật cụ
thể. Khi nghiên cứu kháng cáo kêu oan thì mối quan tâm hàng đầu là hành vi đó có hội
đủ các yếu tố cấu thành cơ bản của tội đó hay không. Ngược lại với kháng cáo, kháng
nghị về tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vấn đề quan tâm lại là cấu thành tăng
nặng hay giảm nhẹ của tội phạm đó, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được quy định trong Bộ luật hình sự (Điều 46 + 48) và các văn bản hướng dẫn thi hành
Điều 46 + 48 Bộ luật hình sự.
khi nghiên cứu cần chú ý nghiên cứu các văn bản quản lý Nhà nước có liên quan
đến vụ án. Trong thực tiễn có rất nhiều văn bản hướng dẫn; do đó tuỳ theo kháng cáo,
kháng nghị cụ thể mà nghiên cứu chọn lọc. Cấp phúc thẩm có thuận lợi căn bản là các
văn bản này thường đã được cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng, đề cập đến trong các tài liệu
điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong các luận cứ bào chữa của Luật sư… Vấn đề là cấp sơ
thẩm đã áp dụng đúng hay chưa ? Chú ý những vấn đề có quan điểm trái ngược nhau ở
cấp sơ thẩm hay phát sinh khi tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm.
c. Chuẩn bị đề cương xét hỏi và dự kiến những tình huống đối đáp:
Điều 247 Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tại phiên toà phúc thẩm có quy định:
Phiên toà phúc thẩm cũng tiến hành như phiên toà sơ thẩm. Như vậy, việc xét hỏi tại
phiên toà phúc thẩm thực hiện theo trình tự chủ toạ và các thành viên Hội đồng xét xử hỏi
trước sau đó đến Kiểm sát viên. Để cho việc xét hỏi có trọng tâm, Kiểm sát viên phải xây
dựng đề cương xét hỏi cho phù hợp. Trên cơ sở nội dung kháng cáo, kháng nghị Kiểm sát
viên phải xác định đề cương xét hỏi, đề cương xét hỏi ngoài việc tập trung giải quyết nội
dung kháng cáo, kháng nghị còn cần dự kiến các tình huống có thể xảy ra khi xét xử phúc
thẩm. Nội dung đề cương xét hỏi cần tập trung làm rõ những mâu thuẫn của vụ án chưa được
giải quyết như lời khai còn mâu thuẫn, những tình tiết của vụ án còn mâu thuẫn mà phiên toà
sơ thẩm chưa làm rõ. Yêu cầu của việc xây dựng đề cương phải chặt chẽ, toàn diện về vụ án.
Song nếu kháng cáo, kháng nghị chỉ với nội dung tăng nặng hay giảm nhẹ án sơ thẩm thì chỉ
cần tập trung làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bồi thường…
Trường hợp bị cáo kháng cáo kêu oan thì yêu cầu của đề cương xét hỏi phải kỹ
lưỡng hơn. Vấn đề là làm rõ các chứng cứ buộc tội bị cáo. Đề cương xét hỏi phải chuẩn
bị cho từng đối tượng bị cáo, bị hại, nhân chứng… chọn cách hỏi cho phù hợp, câu hỏi
cần ngắn gọn dễ hiểu và không được đặt câu hỏi không liên quan đến vụ án, ngoài nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu kháng cáo không có căn cứ thì cần đặt câu hỏi làm rõ
tính không có căn cứ của kháng cáo để bác kháng cáo và ngược lại.
Khi chuẩn bị đề cương xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm cần nghiên cứu kỹ từng đối
tượng về cả thân nhân, tính cách, mức độ tham gia vụ án… để dự kiến phương pháp hỏi:
Hỏi thẳng, hỏi vòng quanh hay cách hỏi thăm dò… hỏi vấn đề gì trước, sau cần có dự
kiến thì xét hỏi mới có hiệu quả, nhất là đối với trường hợp bị cáo ngoan cố. Cần chuẩn
bị sẵn các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn sơ thẩm hay điều tra bổ sung ở
cấp phúc thẩm để phục vụ cho việc chứng minh khi xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm.
Kiểm sát viên cần dự kiến những người cần được triệu tập ra phiên toà phúc thẩm để
phục vụ cho việc xét hỏi. Trong trường hợp cần thiết có thể trao đổi cùng Thẩm phán chủ
toạ phiên toà về trình tự xét hỏi các bị cáo, trường hợp cần cách ly để bảo đảm tính hiệu
quả trong xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm.
d. Xây dựng kế hoạch tranh luận tại phiên toà phúc thẩm:
Khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên cũng phải xây
dựng kế hoạch tranh luận như khi tham gia phiên toà sơ thẩm. Tranh luận ở phiên toà phúc
thẩm giống như tranh luận ở phiên toà sơ thẩm song có giới hạn hơn là chỉ trong phạm vi
kháng cáo, kháng nghị và chủ động hơn vì thông qua phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên cấp
phúc thẩm đã nắm bắt được quan điểm của Luật sư, người bào chữa cũng như những căn cứ,
lý lẽ mà người bào chữa, bị cáo… đã đưa ra. Do đó, Kiểm sát viên cần đọc kỹ hồ sơ nhất là
phần đối đáp tranh luận giữa Kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo tại phiên toà sơ thẩm; ý
kiến của bị cáo, Luật sư khi kháng cáo án sơ thẩm; từ đó dự kiến các luận cứ của người bào
chữa, của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm để bác bỏ các căn cứ, hoặc dẫn chứng các tình tiết
nào của vụ án để tranh luận tại phiên toà phúc thẩm.
đ. Chuẩn bị quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên toà phúc thẩm:
Điều 247 Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi tranh luận Kiểm sát viên phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Điều 40 của Quy chế số 960 ngày
17/9/2007 về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự quy định trước khi
tham gia phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo quan điểm của Viện
kiểm sát về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng cáo, kháng nghị; đưa ra quan điểm
giải quyết đối với bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.
Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm là sự thể hiện tập trung nhất
kết quả của quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như qua thẩm vấn và diễn biến tại
phiên toà phúc thẩm. Bài phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên phải thể hiện đầy đủ và
xúc tích nhất các vấn đề mà kháng cáo, kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết.
Đây là sự khởi đầu quá trình tranh luận để làm rõ các vấn đề đưa ra trong kháng cáo,
kháng nghị và đồng thời cũng là quan điểm của Viện kiểm sát về hướng giải quyết vụ án
để Hội đồng xét xử xem xét quyết định. Sự thành công của Kiểm sát viên tại phiên toà
phụ thuộc rất lớn và chất lượng của bài phát biểu. Thực tiễn công tác giải quyết án ở cấp
phúc thẩm thấy không có một khuôn mẫu nào chung nhất cho việc chuẩn bị bài phát biểu
quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà. Vì mỗi vụ án là một vụ việc khác nhau đồng thời
xét xử phúc thẩm phụ thuộc và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, mặc dù bài phát
biểu tuy được chuẩn bị trước nhưng cần được bổ sung, sửa đổi thông qua diễn biến tại phiên
toà phúc thẩm.
2.2.3. Thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm của Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
a. Kiểm sát viên tham gia phiên toà phúc thẩm:
Điều 245 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988) đều quy định thống nhất tại phiên toà phúc thẩm, phải có sự tham gia của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên toà. Với
quy định này khẳng định khi tiến hành xét xử phúc thẩm các vụ án, quyết định của Toà
án cấp phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát là bắt buộc, không có
ngoại lệ. Song điều lưu ý phải là Kiểm sát viên cùng cấp. Theo Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002 thì Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân có 3 cấp đó là
Kiểm sát viên cấp huyện, Kiểm sát viên cấp tỉnh và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao. Với quy định này nếu vụ án được xét xử phúc thẩm ở cấp tỉnh thì chỉ có Kiểm sát
viên cấp tỉnh được tham gia, vụ án xét xử phúc thẩm ở Toà án tối cao thì Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao được tham gia. Tuy nhiên cũng hiểu rằng không thể Kiểm sát viên
cấp tỉnh thuộc tỉnh A có quyền tham gia phiên toà phúc thẩm ở tỉnh B. Trừ trường hợp Kiểm
sát viên ở tỉnh A (Kiểm sát viên Nguyễn Văn C) được điều động sang công tác tại tỉnh B.
Về số lượng Kiểm sát viên tham gia các phiên toà phúc thẩm. Để phù hợp và đảm
bảo việc thực hành quyền công tố ở tất cả các vụ án xét xử phúc thẩm đảm bảo được yêu
cầu nhiệm vụ. Điều 5 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành theo Quyết định đố 960 ngày 17/9/2007 quy
định: Đối với các vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì 02 Kiểm sát viên có thể
cùng tham gia phiên toà. Trong trường hợp cần thiết thì có thể có Kiểm sát viên dự
khuyết.
b. Bổ sung, xem xét chứng cứ tại Toà án cấp phúc thẩm:
Khoản 1, Điều 246 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Trước khi xét xử hoặc trong
khi xét hỏi tại phiên toà, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Toà án bổ
sung chứng cứ mới…".
Điều 38 Quy chế số 960/2007/QĐ-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát cấp tỉnh quyết định việc xác minh theo thủ tục phúc thẩm của cấp mình.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm quyết định việc xác
minh theo thủ tục phúc thẩm của cấp mình.
Kiểm sát viên có thể tự mình hoặc yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới điều tra xác
minh bổ sung những chứng cứ mới như: Hỏi cung bị cáo, lấy lời khai của người có liên
quan, tổ chức đối chất, xem xét lại hiện trường để làm rõ các tình tiết của vụ án trong thời
hạn xét xử phúc thẩm, việc xác minh phải được Kiểm sát viên ghi biên bản, trong trường
hợp cần thiết có thể ghi âm, chụp ảnh, ghi hình để lưu hồ sơ vụ án.
Trên thực tế cho thấy việc xác minh bổ sung chứng cứ ở cấp phúc thẩm là một trong
những nội dung cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm bảo đảm cho việc xét xử vụ
án có căn cứ và đúng pháp luật. Những vấn đề cần xác minh bổ sung trước hết phải trên cơ
sở nghiên cứu tổng thể hồ sơ vụ án và đánh giá hệ thống các chứng cứ liên quan đến nội
dung kháng cáo, kháng nghị. Thông thường việc xác minh bổ sung thường sử dụng đối với
những vụ án có vấn đề phức tạp, có khiếu nại hoặc dấu hiệu oan sai hoặc cần xác minh bổ
sung một số vấn đề về nhân thân của bị cáo, bị hại, những vấn đề cần giám định bổ sung.
Về phạm vi xác minh của cấp phúc thẩm: Khoản 1, Điều 250 Bộ luật tố tụng hình
sự quy định: "Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi thấy việc điều
tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Như vậy,
việc xác minh ở cấp phúc thẩm của Viện kiểm sát chỉ tiến hành trong các trường hợp có
thể điều tra bổ sung được mà không cần trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đây là những trường
hợp tự Kiểm sát viên tiến hành hoạt động điều tra, xác minh bổ sung (hoặc uỷ quyền cho
Viện kiểm sát cấp dưới). Ví dụ như thu thập các tài liệu liên quan đến lý lịch tư pháp,
nhân thân bị cáo, bị hại; các tài liệu liên quan đến việc khen thưởng, kỷ luật hoặc lấy lời
khai của bị cáo, nhân chứng, người bị hại… mà còn mâu thuẫn với nhau… các tình tiết
có ý nghĩa đến đánh giá chứng cứ buộc tội, gỡ tội, xác định tội danh, xác định hình
phạt… thì phải yêu cầu cấp sơ thẩm đến trả lại. Tóm lại, Kiểm sát viên chỉ điều tra xác
minh bổ sung ở cấp phúc thẩm trong các trường hợp có đủ điều kiện thực hiện.
c. Thực hành quyền công tố trong phần thủ tục tại phiên toà phúc thẩm:
Về phần thủ tục tại phiên toà phúc thẩm, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm chắc các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; nắm chắc danh sách những người được triệu tập ra
phiên toà, chú ý xem xét còn thiếu ai không có mặt, việc vắng mặt của người đó có ảnh
hưởng tới việc xét xử hay không. Tức là có ảnh hưởng tới việc xem xét, đối chứng tại
phiên toà nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án đối với những nội dung kháng cáo, kháng
nghị mà Kiểm sát viên cần kết luận. Ví dụ vụ án Lã Thị Kim Oanh phạm tội Tham ô tài
sản. Khi xét xử phúc thẩm ông Nguyễn Công Tạn (nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ);
ông Lê Huy Ngọ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vắng mặt. Đây là 2
nhân chứng rất quan trọng trong kết luận tội trạng của Lã Thị Kim Oanh. bị cáo Oanh
trong kháng cáo có yêu cầu, đề nghị được đối chứng trước Toà, dư luận xã hội rất quan
tâm đến tình tiết này. Do Kiểm sát viên đã chủ động nắm bắt trước tình huống này nên tại
phiên toà Kiểm sát viên đã thông báo ông Lê Huy Ngọ do đang bận công tác nên không
dự phiên toà dài ngày mà ông sẽ có mặt tại Toà khi Toà cần đến. Đề nghị này của ông Lê
Huy Ngọ là hợp lý, không vi phạm tố tụng và vẫn đạt được việc làm rõ sự thật của vụ án.
Kiểm sát viên đề nghị phiên toà tiếp tục xét xử vắng mặt tạm thời của ông. Về sự vắng
mặt của ông Nguyễn Công Tạn do lý do sức khoẻ có y chứng của Bác sỹ, sự vắng mặt
của ông Tạn là chắc chắn. Song Kiểm sát viên đã có bước chuẩn bị là ngoài lời khai của
ông trong quá trình điều tra, Kiểm sát viên đã lấy lời khai, tiến hành đối chất bổ sung của
ông với bị cáo trước khi xét xử phúc thẩm. Các lời khai đều được ghi âm ghi hình tại
phiên toà phúc thẩm có thể sẽ công bố công khai khi cần thiết. Do vậy, Hội đồng xét xử
cũng như người bào chữa cho bị can và các đương sự đều nhất trí.
d. Thực hành quyền công tố trong tham gia xét hỏi:
Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử; việc xét hỏi tại phiên toà phúc
thẩm là nhằm đánh giá đúng sự thật, khách quan, toàn diện của vụ án mà kháng cáo,
kháng nghị đã đề cập. qua đó Kiểm sát viên cùng Hội đồng xét xử đánh giá các tình tiết
của vụ án một cách thận trọng, góp phần để bản án phúc thẩm quyết định được chính xác.
Việc xét hỏi của Kiểm sát viên chính là cơ sở để bổ sung cho kết luận và đưa ra các quan
điểm xem xét kháng cáo, kháng nghị.
Như vậy việc xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm. Xét hỏi tốt sẽ là cơ sở để kết luận của Kiểm sát viên tại phiên
toà có tính thuyết phục cao. Ngược lại nếu không chuẩn bị, chủ động xét hỏi, xét hỏi
không có trọng tâm, trọng điểm… thì kết luận của Kiểm sát viên sẽ thiếu tính thuyết
phục.
Trình tự xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm: Căn cứ khoản 2, Điều 207 Bộ luật tố tụng
hình sự thì trình tự xét hỏi là chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Thẩm phán sau đó đến
Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích của đương sự. Quá trình sửa
đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư
pháp, có ý kiến cho rằng việc xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm phải do Kiểm sát viên hỏi là
chính. Có vậy, mới nâng cao được trách nhiệm thực hành quyền công tố, trách nhiệm
tranh tụng tại phiên toà của Kiểm sát viên. ý kiến này đang được xem xét trong sửa đổi
Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay.
Bộ luật tố tụng hình sự không quy định và trong thực tiễn cũng rất đa dạng, phong
phú về trình tự xét hỏi của từng vụ án. Theo đó, mỗi vụ án có thể có cách hỏi khác nhau. Đây
là sự cần thiết để phát huy tính chủ động, sáng tạo trong xét hỏi của Hội đồng xét xử cũng
như Kiểm sát viên. Vấn đề là hiệu quả, là làm rõ được sự thật các tình tiết của vụ án có liên
quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Vấn đề chú ý của Kiểm sát viên khi tham gia xét
hỏi là mặc dù đã có đề cương xét hỏi nhưng phải tập trung cao độ nghe việc xét hỏi của Hội
đồng xét xử để giải quyết các vấn đề: Bổ sung những vấn đề mà đề cương chưa có, hoặc bỏ
các câu hỏi mà đề cương đã chuẩn bị nhưng nếu hỏi sẽ bị thừa vì Hội đồng xét xử đã làm rõ.
Do đó, không cứng nhắc vào đề cương đã chuẩn bị.
Nội dung xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm: Do tính chất của phúc thẩm là việc Toà án
cấp phúc thẩm xem xét kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm thông qua
việc xét xử lại vụ án khi có kháng cáo, kháng nghị. Nên nội dung xét hỏi tại phiên toà phúc
thẩm tập trung vào yêu cầu kháng cáo, kháng nghị. Đối với Kiểm sát viên thực hành quyền
công tố tại phiên toà phúc thẩm cần có kỹ năng xử lý tình huống trong xét hỏi các vụ án cụ
thể, cách hỏi đối với các vụ án cũng có thể khác nhau như: Xét hỏi trực tiếp, xét hỏi gián
tiếp, hỏi vòng quanh… tuỳ từng vụ án mà có phương pháp hỏi cho phù hợp.
Để nâng cao được chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, đòi hỏi các Kiểm
sát viên phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ đồng
thời cập nhật thường xuyên các thông tin có liên quan đến quá trình phát triển kinh tế,
xã hội. Nhất là tình hình hiện nay, nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, được chuyển
đổi từ kinh tế quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều
chính sách pháp luật về kinh tế, xã hội thay đổi; tội phạm cũng phát triển thay đổi
theo sự phát triển của nền kinh tế. Nhiều loại tội phạm đã sử dụng thủ đoạn, cách thức
phạm tội mới như sử dụng công nghệ cao, tội phạm lợi dụng chính sách mới về kinh
tế như cổ phần hoá, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước
v.v… Kiểm sát viên nếu không tìm hiểu nắm vững từng lĩnh vực liên quan đến vụ án
cụ thể thì không thể thực hành quyền công tố đạt hiệu quả cao. Nhất là các loại án kinh
tế, án có liên quan đến sử dụng công nghệ cao v.v…
đ. Thực hành quyền công tố trong tranh luận tại phiên toà phúc thẩm:
Cải cách tư pháp là yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc
tế. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh: "Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư
pháp… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng
với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác".
Tuy không xác định tranh tụng là một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự
nhưng nhiều Điều luật quy định về quyền bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong
việc đưa ra các chứng cứ của vụ án. Hội đồng xét xử không phải là một bên trong tranh tụng
nhưng có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ tranh tụng
(Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự).
Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm là nhiệm vụ quan trọng của Kiểm sát viên
đồng thời là nhiệm vụ trọng tâm của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Đây là giai
đoạn tập trung nhất về ý kiến tranh luận của Kiểm sát viên và những người tham gia
phiên toà. Tranh luận thể hiện tính công khai, dân chủ, công bằng của quá trình cải cách
tư pháp hiện nay. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp trong
thời gian tới là "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu
đột phá của hoạt động tư pháp" [4].
Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm của Kiểm sát viên trước hết thể hiện trên bài
phát biểu của Kiểm sát viên về vụ án, xoay quanh những nội dung của kháng cáo, kháng
nghị và có thể ở những phần khác xét thấy cần thiết. Tranh luận là giai đoạn thể hiện sâu sắc
nhất vị trí, vai trò của Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phúc
thẩm phúc thẩm. Vì vậy, Kiểm sát viên không được lảng tránh bất cứ lập luận nào của Luật
sư. Mọi vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án do Luật sư đưa ra, Kiểm sát viên đều
phải đối đáp đầy đủ, thể hiện rõ quan điểm, thái độ của Viện kiểm sát về giải quyết vụ án.
Thể hiện rõ vị trí là nhân danh Nhà nước thực hành quyền công tố tại phiên toà. Đây vừa là
quyền và vừa là nghĩa vụ của Kiểm sát viên. Vấn đề là để làm tốt công tác này Kiểm sát viên
phải nắm vững các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, những tài liệu, chứng cứ mới bổ
sung, những chứng cứ được đánh giá công khai tại phiên toà. Đồng thời am hiểu các chính
sách kinh tế, xã hội có liên quan đến vụ án. Đòi hỏi với Kiểm sát viên là khi tranh luận phải
nghiêm túc, sử dụng đúng các thuật ngữ pháp lý. Đối đáp cần tập trung vào vấn đề chính liên
quan trực tiếp đến kháng cáo, kháng nghị. Chú ý là cần giữ vững vai trò của Viện kiểm sát
trong đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong xét xử hình
sự, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, đấu tranh kiên quyết với tội phạm, không bỏ lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội.
Những năm qua, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nắm bắt kịp thời
chủ trương cải cách tư pháp, yêu cầu của thực hành quyền công tố tại phiên toà trong phần
tranh luận. Do đó đã đạt được các kết quả khả quan. Là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ngoài việc trau dồi kiến thức, gương mẫu đi đầu trong thực hiện tích cực việc
tranh luận tại phiên toà, xây dựng một hình ảnh mới của người công tố viên thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao là công minh, khách quan. Hầu hết các vụ án xét xử theo thủ tục phúc
thẩm được các Kiểm sát viên chú trọng nhiều nhất đến phần tranh luận tại phiên toà. Các
phiên toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được thể hiện bình đẳng hơn, dân chủ hơn,
biểu hiện rõ nét nhất là ý kiến của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự
hoặc các ý kiến tự bào chữa của bị cáo đều được Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao tôn trọng đối đáp, tranh luận đầy đủ. Không còn tình trạng bỏ mặc ý kiến của Luật sư, bị
cáo … khi họ có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên, không còn tình trạng Kiểm sát viên
không tranh luận mà chỉ nêu chung chung giữ nguyên quan điểm trong kết luận vụ án. Sở dĩ
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm được việc đó vì ngoài việc thực hiện các
yêu cầu cải cách tư pháp, thực hiện chức năng, nhiệm vụ luật định, thực hiện Chỉ thị công tác
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với công tác thực hành quyền công tố tại
phiên toà phúc thẩm; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn là tấm gương cho
Kiểm sát viên các cấp noi theo đồng thời có trách nhiệm đúc rút kinh nghiệm, sơ tổng kết
việc thực hành quyền công tố ở cấp phúc thẩm, hướng dẫn, kiểm tra Kiểm sát viên cấp dưới
thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm.
Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao những
năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần cùng các Hội đồng xét xử phúc thẩm
mà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định trong các bản án hình sự phúc
thẩm đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng, dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
c. Thực hành quyền công tố sau phiên toà phúc thẩm:
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với phiên toà phúc thẩm của
Kiểm sát viên; sau khi kết thúc phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải tổng hợp đánh
giá kết quả phiên toà. Xem xét một cách khách quan các quy định của Toà phúc thẩm về
những khách quan giữa đề nghị của Kiểm sát viên và quyết định của Toà phúc thẩm về
vụ án để nếu thiếu sót về việc không toàn diện, đầy đủ các Kiểm sát viên thì rút kinh
nghiệm. Trường hợp quyết định của Toà phúc thẩm không đúng thì xem xét đối chiếu với
quy định của phúc thẩm để có thể đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Những năm qua, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều đã phát hiện
bản án, quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao không đúng pháp luật. Có
vi phạm pháp luật nghiêm trọng và báo cáo kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Kết
quả thực hành quyền công tố sau xét xử phúc thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, những năm qua nhìn chung đã làm được khá tốt, tuy nhiên việc phát hiện đề
xuất kháng nghị giám đốc vẫn còn ít. Theo thống kê số án phúc thẩm của Toà án nhân
dân tối cao được đề nghị cấp giám đốc thẩm xem xét như sau:
Bảng 2.4: Số án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được đề nghị
cấp giám đốc thẩm xem xét (2003-2008)
Đơn vị tính: Vụ án
Đơn Phúc thẩm Phúc thẩm tại Phúc thẩm tại vị tại tp.Hồ Chí Tổng số Hà Nội Đà Nẵng Minh Năm
2003 1 2 6 3
2004 5 4 17 26
2005 6 5 9 20
2006 9 5 13 24
2007 3 4 16 22
2008 4 8 9 21
Tổng cộng 28 28 67 119
Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác và thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm
sát nhân dân.
2.2.4. Khái quát về chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử các vụ án hình sự
a. Kết quả
Như các phần nêu trên đã cho thấy yêu cầu nhiệm vụ của công tác thực hành
quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm đối với Kiểm sát viên là rất lớn. Từng khâu, từng
việc đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nhất là các quy định tại Bộ luật hình sự
và Bộ luật tố tụng hình sự. Thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao được đánh giá qua tổng kết hàng năm cho thấy hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã cơ
bản đảm bảo được các yêu cầu của công tác này là: Đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội và không làm
oan người vô tội. Trong những năm gần đây (từ 2004 - 2008) mặc dù phải giải quyết một
lượng án phúc thẩm rất lớn 27.292 vụ/37.577 bị cáo; với nhiều loại tội phạm phức tạp
nhưng Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hành quyền công tố đảm bảo
không làm oan người vô tội. Suốt những năm qua chỉ có 2 bị cáo/37.577 bị cáo cấp phúc
thẩm tối cao đã xét xử sau đó vụ án được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm tuyên bị
cao không phạm tội (vụ Nguyễn Văn Cường ở Nam Định phạm tội Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, Toà giám đốc thẩm xử năm 2005 và vụ Nguyễn Thị Liên ở Thái Bình,
phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Đồng thời Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao đã kết luận đề nghị và được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm của Toà án nhân dân
tối cao tuyên 7 trường hợp bị cáo không phạm tội trên tổng số 37.577 bị cáo cấp phúc
thẩm tối cao đã xét xử. Đây là một thành công rất lớn của công tác thực hành quyền công
tố tại phiên toà phúc thẩm. Đáng lưu ý là mặc dù Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm tuyên bị
cáo không phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị phúc thẩm theo hướng có tội,
kết quả phúc thẩm đạt được như sau: Trong các năm từ 2003 đến 2008 Viện kiểm sát
kháng nghị phúc thẩm tổng cộng là 80 vụ/112 bị cáo. Cấp phúc thẩm đã xét xử huỷ án để giải quyết lại theo kháng nghị của Viện kiểm sát 103 bị cáo chiếm tỷ lệ 92% 2. Kết quả
nêu trên thể hiện chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao đối với việc bảo vệ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân nhất là các
kháng nghị đối với các vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội.
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự; những năm gần đây Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng nhiều chuyên đề cấp bộ về nâng cao chất lượng
kháng nghị phúc thẩm, chuyên đề nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử phúc thẩm án hình sự. Chuyên đề rút
kinh nghiệm công tác thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm và xây dựng kỹ
năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm v.v… Thông qua đó tổ chức
các Hội thảo, Hội nghị rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân trong thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm nói riêng.
Năm 2007, để nâng cao một bước về chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên
toà phúc thẩm; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 03 ngày
19/6/2008 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của
Toà án nhân dân các cấp. Trong đó chú trọng kháng nghị phúc thẩm cùng cấp và coi trọng
kháng nghị trên một cấp của các Viện kiểm sát nhân dân ; đặc biệt là tổ chức thực hành
quyền công tố thật tốt đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó tập trung
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm mà
trọng tâm là khâu tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà.
b. Tồn tại
Đi sâu phân tích vào các hoạt động cụ thể thấy rằng đánh giá toàn diện thì hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên
toà phúc thẩm còn một số tồn tại, yếu kém chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ
đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay theo tinh thần cải cải tư pháp.
- Đối với kháng nghị phúc thẩm: Như phần trên đã phân tích, những năm qua công
tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đã được chú ý song số lượng
kháng nghị còn hạn chế, thể hiện qua kết quả xét xử phúc thẩm của Toà án các cấp nói
chung và Toà án cấp phúc thẩm nói riêng, đã cải sửa án sơ thẩm chiếm 34% số án có
kháng cáo, kháng nghị. Trong khi đó việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
chỉ chiếm 0,5 % trên tổng số án có kháng cáo, kháng nghị.
- Thực hành quyền công tố ở giai đoạn chuẩn bị phiên toà phúc thẩm:
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của một số Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao chưa sâu, nắm bắt chứng cứ không đầy đủ, nhất là những vụ án do Kiểm tra viên
(giúp Kiểm sát viên) nghiên cứu, đề xuất thường không được Kiểm sát viên kiểm tra lại
đầy đủ kỹ càng, làm hạn chế chất lượng tham mưu, đề xuất xử lý kháng cáo, kháng nghị
đối với vụ án. Việc chuẩn bị đề cương xét hỏi tại phiên toà chưa được thật sự chú ý và
chuẩn bị đầy đủ trước khi tham gia phiên toà phúc thẩm. Do đó, hàng năm tỷ lệ số vụ án
việc đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên toà khác với quan điểm xử lý của Hội đồng xét
xử trung bình tới 20%. Sự khác biệt về quan điểm xử lý vụ án ở phiên toà phúc thẩm
thông thường thì quan điểm của Hội đồng xét xử là đúng vì Kiểm sát viên không đề xuất
được việc xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm (chỉ đề xuất được khoảng 20 vụ án/năm so
với số lượng Toà án bác kháng nghị của Viện kiểm sát . Toà án bác kháng nghị trong 5
năm là 880 vụ/1.435 vụ, kiểm sát chỉ đề xuất giám đốc thẩm được 119 vụ = 13%).
Việc chuẩn bị đề cương tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, tuy đã được các Kiểm
sát viên tích cực thực hiện để phục vụ các yêu cầu về xét xử đối với vụ án cũng như yêu
cầu cải cách tư pháp… Song chỉ đối với những vụ án có Luật sư tham gia thì được chú ý
hơn, các vụ án không có Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự thì việc chuẩn bị
đề cương tranh luận với bị cáo, đương sự còn xem nhẹ.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phúc thẩm chuẩn bị cho phiên toà, Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao mới chú ý phần thủ tục tố tụng, nội dung vụ án. Phần triệu tập
bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác ra phiên toà phúc thẩm thông thường do
Thẩm phán chủ toạ phiên toà phúc thẩm quyết định. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao hầu như không đề nghị, yêu cầu triệu tập cụ thể những người tham gia tố tụng khác
ra phiên toà để làm rõ và bảo vệ quan điểm truy tố cũng như kháng nghị phúc thẩm của
Viện kiểm sát .
- Tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm:
Kiểm sát viên là chủ thể của mọi hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên toà
hình sự nói chung và tại phiên toà phúc thẩm hình sự nói riêng. Tuy đã có nhiều cố gắng
thực hiện theo tinh thần và yêu cầu về cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động của
Kiểm sát viên tại phiên toà, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và đảm bảo chức năng
theo Luật định, song vẫn còn nhiều khiếm khuyết, yếu kém thẻ hiện trên một số mặt sau:
Thứ nhất, chưa chủ động xét hỏi tại phiên toà để bảo vệ quan điểm mà Kiểm sát
viên trình bày tại phiên toà đối với kháng cáo, kháng nghị. Xét hỏi còn trùng lặp, không
cần thiết về những vấn đề không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, điểm yếu nhất
trong giai đoạn này là kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên và xử lý các tình huống phát
sinh tại phiên toà. Theo quy định về trình tự xét hỏi thì Kiểm sát viên hỏi sau khi các
thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm đã hỏi. Do đó, để hỏi Kiểm sát viên phải nắm
bắt, theo dõi chặt chẽ cụ thể quá trình xét hỏi để chuẩn bị cho mình hỏi ai, hỏi vấn đề
nào, hỏi như thế nào? cho mỗi loại kháng cáo, kháng nghị, cho phù hợp từng đối tượng.
Đây là vấn đề còn rất mới với Kiểm sát viên vì về lý luận chưa có trường lớp nào có giáo
trình giảng dạy về kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên toà. Ngành Kiểm sát đến
nay cũng chưa có tài liệu nào quy định, hướng dẫn cho Kiểm sát viên tham gia phiên toà,
thực hành quyền công tố trong xét hỏi tại phiên toà phải làm những gì? làm như thế nào.
Năm 2008, tiến sỹ Dương Thanh Biểu Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có viết cuốn "Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm" song cũng mới là "bước đầu đề cập đến
một số khía cạnh pháp lý về tính chất của xét xử phúc thẩm… những kinh nghiệm thực
tiễn gắn với các ví dụ để chuyển tải một phần về kỹ năng nghiệp vụ trong công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm" [1, tr.5]. Đối với các tình tiết phát sinh
tại phiên toà phúc thẩm, khác với dự kiến hoặc với đường lối chỉ đạo của lãnh đạo Viện
kiểm sát nhân dân: như tình tiết mới hoặc gặp vấn đề phức tạp thì Kiểm sát viên thường
lúng túng, không đưa ra được ý kiến phù hợp hoặc có trường hợp buông xuôi "Tuỳ Hội
đồng xét xử". Mặt khác, theo quy định của Pháp luật tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự phiên toà phúc thẩm là đại diện cho Viện kiểm
sát. Do đó, tại phiên toà phúc thẩm nếu có những tình tiết làm thay đổi, quan điểm trong
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao không có quyền tự ý rút hay thay đổi kháng nghị mà buộc phải xin hoãn phiên toà
và báo cáo lãnh đạo để xem xét quyết định.
Do còn hạn chế về năng lực trong khi xét hỏi, mặt khác có vụ án nắm không chắc
chứng cứ trong hồ sơ vụ án, không theo dõi sát các diễn biến tại phiên tòa nên kiểm sát
viên thường thiếu tự tin và độc lập về quan điểm giải quyết kháng cáo, kháng nghị;
thường có xu hướng ngả theo quan điểm của hội đồng xét xử. Đồng thời một số kiểm sát
viên còn có tâm lý ngại va chạm thiếu kiên quyết và trình bày thẳng thắn các quan điểm
trong tranh luận với luật sư, người bào chữa; né tránh những vấn đề mà luật sư, người
bào chữa nêu lên để tranh luận nhất là những tố cáo kiến nghị, dẫn chứng về việc điều tra,
xét xử ở cấp sơ thẩm không khách quan, toàn diện vi phạm quy định của pháp luật về
cấm các hành vi bức cung, dụ cung, mớm cung, nhục hình…
Tóm lại điểm yếu nhất của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay
trong các phiên tòa phúc thẩm hình sự là kỹ năng xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội,
nguyên nhân, điều kiện phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, những đặc trưng của
từng tội phạm cụ thể… thể hiện ở cách thức phương pháp xét hỏi. Hỏi người làm chứng,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án giống như hỏi bị cáo, bị hại… hỏi cả
những vấn đề Hội đồng xét xử đã xét hỏi làm rõ… Đáng chú ý là việc tranh luận với luật
sư… kiểm sát viên hay bị lôi kéo vào các vấn đề mà luật sư đưa ra tranh luận mặc dù
những vấn đề đó không là trọng tâm, không là những vấn đề để liên quan đến việc xét
kháng cáo, kháng nghị; dễ lúng túng làm giảm chất lượng thực hành quyền công tố của
kiểm sát viên tại phiên tòa.
- Tồn tại trong việc thực hành quyền công tố sau phiên tòa phúc thẩm.
Sau phiên tòa phúc thẩm, khi nhận được bản án phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao, kiểm sát viên thường ít kiểm tra lại bản án. Trừ những trường hợp
quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm tại phiên tòa có sai lầm trong áp dụng pháp
luật hoặc vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự thì kiểm sát viên mới nghiên cứu, kiểm
tra bản án để có căn cứ đề xuất cấp giám đốc thẩm xem xét kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm. Tuy nhiên số lượng đề nghị lên cấp giám đốc thẩm của kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong những năm qua còn rất khiêm tốn (từ năm 2003 đến năm
2008 các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm - Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đề nghị
119 vụ án lên cấp giám đốc thẩm xem xét).
2.3. Nguyên nhân và vấn đề pháp lý đặt ra
Đánh giá đầy đủ, đúng đắn thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố của
kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một vấn đề quan trọng để tìm ra nguyên
nhân của những thành tựu cũng như những tồn tại, làm cơ sở cho việc xác định những
giải pháp mang tính pháp lý và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng
thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên tòa
phúc thẩm hình sự.
Như các phần trên đã đánh giá tình hình các bản án sơ thẩm hình sự có kháng cáo,
kháng nghị và đã xét xử ở cấp phúc thẩm tối cao, cũng như đánh giá chất lượng thực
hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong những năm
gần đây.
2.3.1. Nguyên nhân của những kết quả
Để có được những kết quả, thành tích trong công tác thực hành quyền công tố đối với
các vụ án xét xử theo tố tụng phúc thẩm là do các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương (cấp tỉnh) đã có nhận thức khá đầy đủ vai trò vị trí của công tác thực hành quyền
công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trong việc thực hiện chức năng nhiệm
vụ của ngành, bám sát yêu cầu nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ. Từ đó
đã có kế hoạch bố trí, sắp xếp cán bộ, sử dụng cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chú trọng chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ làm
công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Đối với lực lượng kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố ở cả 3
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm (Hà Nội, Đà Nẵng và TP.
Hồ Chí Minh) đã được kiện toàn một bước. Nhất là sau khi thực hiện Điều 170 BLTTHS
về tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện, số án kháng cáo, kháng nghị
ở cấp phúc thẩm tối cao giảm đáng kể; Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã sắp xếp, bố trí
lại số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo hướng nâng cao chất lượng, bố
trí kiểm sát viên phù hợp với năng lực, trình độ. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong thực hành quyền công tố các phiên tòa phúc thẩm hình sự thường là các kiểm
sát viên có bề dày kinh nghiệm công tác, nhất là công tác thực hành quyền công tố tại
phiên tòa. Có quan điểm chính trị vững vàng, nắm vững pháp luật. Trong điều hành
(phân công kiểm sát viên tham dự phiên tòa) đã chú trọng phân bổ án phúc thẩm theo loại
án và bố trí kiểm sát viên phù hợp với từng loại án, từng vụ án cụ thể; đảm bảo tính
chuyên sâu trong thực hành quyền công tố. Hàng năm chú trọng đúc rút kinh nghiệm
nghiệp vụ, sơ kết theo các chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
của kiểm sát viên. Kịp thời phát hiện những vướng mắc trong nhận thức pháp luật cũng như
trong việc tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố góp phần đảm bảo công tác hướng
dẫn chỉ đạo nghiệp vụ chuyên sâu đến từng loại án cụ thể.
Thứ hai: Để hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tại phiên tòa phúc thẩm đạt chất lượng, hiệu quả cao: một vấn đề rất
quan trọng là phải đảm bảo đầy đủ các căn cứ pháp lý cho hoạt động này. Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm không những phải nắm vững pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác có liên quan mà còn phải nắm
vững các quy định hướng dẫn về nghiệp vụ của ngành. Nhất là các hướng dẫn về công tác
kháng nghị phúc thẩm, các kỹ năng của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Việc
hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm được Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quan tâm, đã tổng kết và xây dựng thành quy chế thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử hình sự; trong đó quy định khá đầy đủ những hoạt động
nghiệp vụ cần thiết mà kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong xét xử hình sự phúc
thẩm các vụ án hình sự phải tiến hành; về mối quan hệ giữa Viện trưởng với các kiểm sát
viên, giữa các khâu nghiệp vụ với nhau v.v… Hàng năm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
còn chú trọng tập huấn nghiệp vụ cho kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp tỉnh về thực hành quyền công tố các vụ án hình sự, các
chuyên đề nghiệp vụ về thực hành quyền công tố các vụ án hình sự xét xử theo thủ tục
phúc thẩm để quán triệt và nâng cao hiệu quả công tác: như chuyên đề rút kinh nghiệp về
xét xử phúc thẩm theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị; chuyên đề về nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng ban hành Chỉ thị về công tác kháng nghị phúc thẩm các
vụ án hình sự cho toàn ngành Kiểm sát (Chỉ thị 03 ngày 19/6/2008). Đây là những hoạt động
thiết thực góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các
vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Thứ ba: công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình
sự đã xây dựng được mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Viện thực hành quyền công tố
kiểm sát xét xử phúc thẩm với Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Đảm bảo cho việc
áp dụng pháp luật được chính xác trong xét xử phúc thẩm các vụ án, nhất là các vụ án có
liên quan đến thủ đoạn, phương thức tội phạm mới, những tội phạm nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng, tội phạm xâm phạm đến an ninh quốc gia. Mối quan hệ này thường
xuyên được kiểm nghiệm, bổ sung hoàn thiện trên cơ sở pháp luật. Đảm bảo cho việc xét
xử phúc thẩm đúng pháp luật. Những vướng mắc về nhận thức pháp luật được nhanh
chóng kết luận trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định giữa hai bên, do vậy đảm
bảo tính đúng đắn và thống nhất cao trong xét xử các vụ án hình sự.
Thứ tư: Thực hiện Nghị quyết 08, Nghị quyết 48 và 49 của Bộ Chính trị, các Nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy (giải thể một số đơn vị làm
công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật) để tăng cường cán bộ cho công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có công tác thực hành quyền công
tố tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
Trên cơ sở đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao kết hợp với tình hình thụ lý án phúc
thẩm của Tòa án nhân dân tối cao giảm dần (do phân cấp thẩm quyền xét xử theo Điều
170 BLTTHS) Viện kiểm sát đã cơ cấu lại đội ngũ kiểm sát viên làm công tác này và
hoạt động đã ngày càng ổn định vàữtngf bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư
pháp hiện nay.
Thứ năm: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong ngành kiểm sát được tăng
cường.
Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Nhà nước về cải cách tư pháp
với tiêu chí lấy hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp. Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã tổ chức cho 3 Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc
thẩm liên hệ với thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong thời gian qua để xây
dựng kế hoạch, đề ra các biện pháp cụ thể để khắc phục tồn tại, phát huy hiệu quả và chất
lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối
cao.
2.3.2. Nguyên nhân của những thiếu sót, tồn tại
Mặc dù có nhiều cố gắng song công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm còn bộc lộ nhiều tồn tại thiếu sót
trên các mặt: Tổ chức quản lý, chỉ đạo và trực tiếp thực hiện việc kháng nghị phúc thẩm
các bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm cấp tỉnh còn hạn chế… như phần khái quát
chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm của kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã nêu. Những tồn tại đó có nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Tổng quát lại có thể thấy là do những nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất: Không ít kiểm sát viên chưa nhận thức được đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai
trò, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và
trong thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở cấp Tòa án tối
cao nói riêng. Theo quy định của pháp luật và yêu cầu của cải cách tư pháp thì phiên tòa
phúc thẩm hình sự nói chung phải tiến hành theo xu hướng là phiên tòa tranh tụng, lấy
kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho phán quyết của Tòa án, theo đó phân tranh
luận của kiểm sát viên là phần quan trọng nhất để kiểm sát viên bảo vệ quan điểm truy tố
của Viện kiểm sát nhân dân. Phiên tòa không đảm bảo tranh luận một cách khách quan,
đầy đủ, dân chủ là phiên tòa không đạt yêu cầu.
Thứ hai: Hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự còn có những kiểm sát viên
chưa thực hiện nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao. Thực tiễn hoạt động cho thấy
nhiều vụ án phúc thẩm bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ra Hội đồng thẩm phán và bị
cấp giám đốc hủy án để điều tra hoặc xét xử lại, những vụ án này không phải là những vụ
án quá khó khăn về đánh giá chứng cứ, về áp dụng pháp luật hoặc thực hiện chính sách
hình sự; mà do kiểm sát viên đã không thực hiện đầy đủ các quy định tại quy chế thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét sử các vụ án hình sự. ý thức trách nhiệm chưa cao;
một số kiểm sát viên thiếu chủ động, sáng tạo, thiếu quyết tâm bảo vệ chân lý, sự thật vụ
án. Hạn chế trong nghiên cứu nắm chắc vụ án, thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho xét hỏi và
tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm. Do nghiên cứu hồ sơ không kỹ nên không nắm được
đầy đủ các tình tiết, các chứng cứ vụ án; không phát hiện được thiếu sót của cấp sơ thẩm
trong áp dụng pháp luật cũng như đánh giá chứng cứ. Không thấy được những mâu thuẫn
của chứng cứ buộc tội, gỡ tội để có đề xuất Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định chính
xác đúng pháp luật. Không ít trường hợp kiểm sát viên chỉ chú trọng về xác định chứng
cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ (thực hành quyền công tố) mà không
kết hợp với chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Dẫn đến một số trường hợp
vi phạm tố tụng nghiêm trọng, cấp giám đốc thẩm phải hủy để xét xử lại, gây khó khăn,
hạn chế hiệu quả, chất lượng thực hành quyền công tố.
Thứ ba: Qua hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự cho thấy trình độ năng lực
chuyên môn nghiệp vụ của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế
nhất định. Một số kiểm sát viên chưa thường xuyên cập nhật chính sách pháp luật mới
liên quan trực tiếp đến xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo. Nhất là các chính sách
liên quan đến quản lý kinh tế, xã hội (định tính, định lượng để xác định giới hạn chịu
trách nhiệm hình sự). Do đó, áp dụng pháp luật còn lúng túng hoặc đề xuất quan điểm xử
lý vụ án không chính xác. Đánh giá chứng cứ còn phiến diện, dẫn đến không làm rõ được
bản chất của vụ án liên quan đến xét kháng cáo, kháng nghị. Năng lực phân tích, tổng
hợp các chứng cứ buộc tội, gỡ tội có trong hồ sơ còn yếu; còn có kiểm sát viên còn biểu
hiện thiếu tự học hỏi để nâng cao trình độ, năng lực nghiệp vụ, pháp luật… hoạt động
nặng về thói quen, kinh nghiệm hoặc thiếu bản lĩnh trong đấu tranh, nhất là các vụ án có
nhiều phức tạp, liên quan nhiều cấp, nhiều ngành.
Thứ tư: Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo của Viện kiểm sát xét xử
phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (bộ phận trực tiếp đối với các kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố đối với án phúc thẩm hình
sự) còn có những bất cập nhất định. Qua kết quả thực hành quyền công tố của kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở giai đoạn phúc thẩm các vụ án hình sự những năm
qua cho thấy chất lượng hiệu quả của các hoạt động này chưa thật cao. Lý do là còn
nhiều hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các Viện thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Trước hết việc kiểm tra chỉ đạo điều
hành các kiểm sát viên thực hiện các thao tác nghiệp vụ theo quy chế thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự cũng như lập hồ sơ kiểm sát theo quy định
của ngành kiểm sát chưa tốt. Do đó, những thiếu sót không được phát hiện, chấn chỉnh,
khắc phục kịp thời. Chưa có cơ chế xem xét trách nhiệm của kiểm sát viên khi vụ án bị
kháng nghị giám đốc thẩm và bị cấp giám đốc thẩm hủy án. Mặt khác còn có trường hợp
lãnh đạo nghe báo cáo án không kỹ, không sâu, không tỷ mỷ, thiếu khách quan và thân
trọng trong xem xét đánh giá chứng cứ buộc tội, gỡ tội, còn có tâm trạng thỏa mãn với
báo cáo của kiểm sát viên; dẫn đến có quan điểm không chính xác khi xét kháng cáo,
kháng nghị.
Thứ năm: Việc hướng dẫn, giải thích những quy định của Bộ luật hình sự, tố tụng
hình sự được thực hiện chậm, không đầy đủ và đồng bộ. Điều này gây rất nhiều khó khăn
cho tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Trong đó có các
Việnớthcj hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm và kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố các vụ án hình sự phúc thẩm.
Điều đó dẫn đến hiểu và áp dụng pháp luật không thống nhất. Do không có sự hướng dẫn
thống nhất, nên dẫn đến xuất hiện tình trạng các hướng dẫn đơn ngành làm cho quá trình
thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự gặp nhiều khó khăn.
Thứ sáu: Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc thực hành quyền công
tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử các vụ án hình sự còn
yếu và thiếu. Biểu hiện rõ nét trong trang bị các phương tiện làm việc, thông tin liên lạc,
ghi âm, ghi hình phục vụ cho thực hành quyền công tố tại phiên tòa; chưa đáp ứng được
yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác đúng pháp luật và kịp thời trong đấu tranh phòng chống
tội phạm.
Chương 3
Yêu cầu, giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt
Nam hiện nay
3.1. Những yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố vừa là mục đích vừa là
yêu cầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
Để tiếp tục tiến hành đường lối cải cách tư pháp, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới”. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị có Nghị quyết về cải cách công tác tư pháp;
trong đó có công tác của Viện kiểm sát, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Góp phần tích cực
vào quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới…
Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW thì tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các
tranh chấp xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp. Nhưng công tác tư pháp đã đạt nhiều
kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; bảo vệ pháp
chế XHCN, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới; phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp
giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ; nhiều
cán bộ đã tận tụy với công việc, hy sinh trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với đòi hỏi của
nhân dân; còn bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm quyền tự do, dân chủ của
công dân; làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư
pháp.
Để khắc phục các tồn tại, khuyết điểm nêu trên, tạo ra những chuyển biến mạnh
mẽ trong công tác tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW đã nêu ra các quan điểm chỉ đạo:
- Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát
và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực
Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, phát huy dân chủ, tăng cường pháp
chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân.
- Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời nghiêm minh các
loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các
loại tội có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền lợi
ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ
quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là
chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm
pháp luật và giải quyết tranh chấp.
- Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp
phần xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước.
Nghị quyết 08-NQ/TW yêu cầu: Viện kiểm sát phải thực hiện tốt chức năng công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện trong suốt quá
trình tố tụng đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội… Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng
dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác [2]…
Các cơ quan tư pháp phải tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng:
tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt
động thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng được thể hiện cụ
thể, đầy đủ qua các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Để làm rõ được vai trò của kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân nói chung và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng
trong hoạt động thực hành quyền công tố đối với công tác xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự. Để làm rõ được sự cần thiếu tăng cường hiệu quả, chất lượng thực hành quyền
công tố của kiểm sát viên trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, trước hết phải tìm
hiểu và làm rõ các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
kiểm sát viên trong các hoạt động trên.
3.1.2. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố là yêu cầu của việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự
+ Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử các vụ án hình sự:
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,
Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng. Viện trưởng, Phó Viện
trưởng, kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng (Điều 33 BLTTHS) Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định truy tố người phạm tội ra trước tòa.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát
hiện xử lý nghiêm minh. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người
đúng tội đúng pháp luật, không làm oan người vô tội (Điều 23 BLTTHS). ở giai đoạn xét
xử phúc thẩm Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố đảm bảo cho việc
truy tố của Viện kiểm sát đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi
người tham gia tố tụng. Đảm bảo cho việc xét xử vụ án theo nội dung kháng cáo, kháng
nghị đúng quy định pháp luật.
Theo đó tất cả các trường hợp Viện kiểm sát truy tố Tòa án sơ thẩm tuyên không
phạm tội, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
tuyên bố bị cáo không phạm tội thì đều thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát của kiểm sát
viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa.
Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát luôn giữ
vai trò chủ động, tích cực trong phối hợp với cơ quan xét xử; chủ động trong xem xét,
đánh giá và đưa ra quan điểm trước Hội đồng xét xử phúc thẩm về kháng cáo, kháng
nghị. Trong giai đoạn này Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo
đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người
phạm tội (Điều 16 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Những yêu cầu trên
cho ta thấy rõ vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát, kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố các vụ án xét xử phúc thẩm hình sự:
Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm được thể hiện cụ thể, rõ nét và đầy đủ theo các quy định của pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát. Theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 (Điều 232) thì khi thực hành quyền công tố Viện kiểm sát cùng cấp và
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Nhà nước chỉ giao duy nhất quyền kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm hình sự
cho một cơ quan là Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy, đối với các bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm khi chưa có hiệu lực pháp luật thì Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm
sát cấp trên có quyền kháng nghị phúc thẩm, đồng thời kiểm sát viên có quyền thay đổi, bổ
sung rút kháng nghị. Khi có kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát thì vụ án đó phải được
đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Khi tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố theo thủ tục phúc thẩm các bản
án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị, kiểm sát viên có quyền yêu cầu Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới báo cáo về vụ án và những vấn đề có liên quan đến kháng
cáo, kháng nghị. Kiểm sát viên có thể tự mình hoặc yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới xác minh theo thủ tục phúc thẩm để bổ sung những chứng cứ như: hỏi cung bị cáo,
lấy lời khai của những người liên quan, tổ chức đối chất, xem xét lại hiện trường để làm
rõ những tình tiết của vụ án. Những trường hợp không thể điều tra xác minh bổ sung
được thì kiểm sát viên kết luận đề nghị hủy án giao về cấp sơ thẩm để điều tra lại theo
quy định của pháp luật (Điều 250 BLTTHS). Tại phiên tòa kiểm sát viên được quyền
tham gia xét hỏi về toàn bộ các vấn đề, các tình tiết có liên quan đến xét kháng cáo kháng
nghị nhằm kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm
đối với những vấn đề có kháng cáo, kháng nghị.
Thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa phúc thẩm vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc theo luật định (Điều 245 BLTTHS).
Tại phiên tòa kiểm sát viên căn cứ vào các tình tiết của hồ sơ vụ án, căn cứ vào các chứng
cứ, tài liệu đã được kiểm tra, xét hỏi tại phiên tòa để phát biểu quan điểm của Viện kiểm
sát về việc giải quyết vụ án. Trường hợp có tình tiết mới làm thay đổi quan điểm giải
quyết vụ án đã được cân nhắc báo cáo thì kiểm sát viên tự quyết định cho phù hợp với
thực tế vụ án và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Thực hiện việc tranh luận dân chủ,
công khai đầy đủ các ý kiến có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị (Điều 41
Quy chế thực hành quyền công tố, xét xử các vụ án hình sự số 960 ngày 17/9/2007 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Sau khi xét xử phúc thẩm, kiểm sát viên có nhiệm vụ
kiểm tra bản án phúc thẩm và có thể báo cáo vụ án lên cấp giám đốc thẩm để xem xét
theo thủ tục giám đốc thẩm nếu xác định án phúc thẩm có vi phạm nghiêm trọng pháp
luật.
Như vậy, với nội dung được trình bày trên đây cho thấy, theo quy định của pháp
luật trong thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại các phiên tòa phúc thẩm thì Viện
kiểm sát, kiểm sát viên là cơ quan và người tiến hành tố tụng có vai trò rất quan trọng và
chỉ riêng có trong hệ thống cơ quan tư pháp, đó là quyền công tố Nhà nước. Thực tiễn
hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự cũng có những đòi hỏi riêng, xuất phát từ vị trí,
trách nhiệm, yêu cầu của xét xử phúc thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao.
3.1.3. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố là yêu cầu trước mắt và
yêu cầu lâu dài của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc
thẩm hình sự
Theo quy định tại Điều 170 BLTTHS năm 2003 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ
xét xử những vụ án xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài
người và tội phạm chiến tranh; các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng hoặc vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Như vậy, Tòa án
cấp phúc thẩm tối cao cũng chỉ xét xử lại những vụ án mà cấp tỉnh xét xử sơ thẩm nếu có
kháng cáo, kháng nghị là những vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng; có ảnh hưởng
to lớn đến đời sống xã hội, cá biệt có ảnh hưởng rất lớn, đặc biệt lớn liên quan đến an
ninh quốc gia, đến chế độ XHCN đến sự sống còn của Nhà nước… Do đó, đòi hỏi chất
lượng công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
là rất cao. Phúc thẩm ở cấp tối cao phải đảm bảo tính chính xác và đúng pháp luật cho tất
cả các vụ án. Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố phải hết sức thận trọng, tỷ mỷ,
chính xác, yêu cầu bảo đảm mọi quyết định phải chính xác. Xét xử phải đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, kiên quyết không làm oan người vô tội.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm tốt công tác thực hành quyền
công tố các vụ án phúc thẩm hình sự mới chỉ đảm bảo các quy định của pháp luật. Thông
qua công tác thực hành quyền công tố của mình, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao còn có trách nhiệm tổ chức rút kinh nghiệm, sơ kết, tổng kết theo từng chuyên đề
nghiệp vụ của công tác này (chuyên đề về kháng nghị phúc thẩm hình sự, chuyên đề về
xác minh phúc thẩm, chuyên đề kỹ năng thực hành quyền công tố trong chuẩn bị xét xử
phúc thẩm, chuyên đề về kỹ năng xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm…) để hướng
dẫn, tập huấn, rút kinh nghiệm cho kiểm sát viên trong toàn ngành kiểm sát làm nhiệm vụ
thực hành quyền công tố đối với các vụ án xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố tại các phiên tòa hình sự
trong toàn ngành Kiểm sát.
3.2. Giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở
Việt Nam hiện nay
Trên cơ sở lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự; qua đánh giá pháp luật thực định cũng như thực trạng các hoạt
động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
xét xử các vụ án hình sự những năm vừa qua. Để Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà đại
diện là các Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm tốt vai trò của mình trong
thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự; nâng cao hơn nữa chất lượng,
hiệu quả của các hoạt động này; cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
3.2.1. Tiếp tục thực hiện việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đáp ứng yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp
Tăng cường cán bộ có năng lực, kinh nghiệm cho các đơn vị thực hành quyền công tố
trong xét xử phúc thẩm án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc, công việc có thành hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém; Nghị quyết 08-
NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ là
một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để Viện kiểm sát có thể làm tốt các chức
năng của mình.
Những năm vừa qua công tác tổ chức cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
đã có nhiều đổi mới. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã sắp xếp lại tổ chức của ngành.
Nhất là sau khi giải thể đơn vị làm công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh
vực hành chính, kinh tế (kiểm sát chung). Số cán bộ ở đơn vị này được tăng cường cho
các khâu công tác khác mà Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong đó có các Viện thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Đồng thời Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã xây dựng quy hoạch công tác cán bộ cho cả 3 Viện thực hành quyền công tố ở cả
3 miền (Bắc, Trung, Nam). Song việc quy hoạch mới tiến hành được đối với số cán bộ
quản lý còn kế hoạch tổng thể nhằm sắp xếp bố trí lại cán bộ cho thật sự phù hợp thì còn
nhiều bất cập. Một số Kiểm sát viên còn hạn chế về trình độ nghiệp vụ chính trị, làm việc
còn nặng về kinh nghiệm, số Kiểm sát viên giỏi trong thực hành quyền công tố, nhất là
giỏi về kỹ năng thực hành quyền công tố tại phiên toà còn ít. Hoạt động thực hành quyền
công tố mới tập trung chủ yếu vào giải quyết sự vụ, chưa chú trọng đến đúc rút kinh
nghiệm, xây dựng kỹ năng, tăng cường kiểm tra hướng dẫn Kiểm sát viên cấp dưới về
công tác thực hành quyền công tố cũng như phổ biến những kinh nghiệm tốt trong công
tác thực hành quyền công tố các vụ án xét xử ở thủ tục phúc thẩm. Về hình thức của
người Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trước các phiên toà phúc thẩm chưa được
chú ý đầy đủ nên còn hạn chế đến công tác thực hành quyền công tố. Do vậy, để nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố trong các phiên toà xét xử phúc thẩm của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì cần tiếp tục đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo
hướng tăng cường cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn cao… phù hợp
với công tác thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm.
3.2.2. Nắm vững, quán triệt đầy đủ tư tưởng, quan điểm và thực hiện đúng
đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cải cách tư
pháp vào quá trình thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình
sự Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là một yêu
cầu khách quan và bắt buộc trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên ngành kiểm sát nói chung và Kiểm sát
viên làm công tác này ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng. Bản chất của thực hành
quyền công tố là đòi hỏi các Kiểm sát viên phải đảm bảo tính có căn cứ, tính hợp pháp
trong xem xét việc kháng nghị các bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh đã xét xử sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; xem xét việc nghiên cứu hồ sơ vụ án chuẩn bị phiên toà
và nhất là hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm. Đảm bảo cho việc
xét xử ở cấp phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để làm được điều đó Kiểm
sát viên phải nắm vững pháp luật, quán triệt đường lối, chính sách đổi mới của Đảng nói
chung và đổi mới trong hoạt động tư pháp nói riêng. Trước hết là lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Bản chất của thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm nói chung và phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao nói riêng là đảm bảo cho việc
xét xử của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được tiến hành đúng quy định của
pháp luật. Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao không thể thực
hiện tốt công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự khi
không nắm vững, quán triệt đầy đủ, thấu đáo quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng
trong khi giải quyết từng vụ việc cụ thể. Góp phần phục vụ các nhiệm vụ chính trị đặt ra
cho từng giai đoạn khác nhau và góp phần đảm bảo pháp chế. Đó là yêu cầu khách quan, do
đó Kiểm sát viên phải cập nhật thường xuyên, đầy đủ và kịp thời các văn bản pháp luật mới
để áp dụng trong hoạt động thực tiễn. Khi thực hiện việc thực hành quyền công tố Kiểm sát
viên cần nắm vững các quy định của pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau có liên quan đến
từng vụ án cụ thể. Để thực hiện được giải pháp trách nhiệm trước hết thuộc về Lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và của mỗi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
trách nhiệm này còn thuộc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong ban hành pháp luật,
giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật. Trên thực tế cho thấy có nhiều văn bản pháp luật
chậm được hướng dẫn, giải thích nhất là việc mang tính định lượng, định tính cho việc xử lý,
làm cho việc áp dụng pháp luật thiếu chính xác, thiếu thống nhất hoặc không thực hiện được.
Đây là vấn đề mang tính phổ biến hiện nay. Đòi hỏi trong hướng dẫn áp dụng pháp luật cần
chấm dứt tình trạng hướng dẫn đơn phương (cho riêng ngành mình) mà cần được hướng dẫn
liên ngành để nhận thức, áp dụng …. thống nhất trong xử lý các vụ án hình sự ở các cấp. Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội phải thực sự là cơ quan đi đầu trong giải thích pháp luật theo quy
định của pháp luật.
3.3.3. Nắm vững và thực hiện đúng đắn, đầy đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của ngành kiểm sát trong thực hành quyền công tố, xét xử phúc thẩm hình sự
Đây là bài học được rút ra trong quá trình hoạt động và phát triển của ngành kiểm
sát; trong giai đoạn hiện nay vẫn còn là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc, không chỉ vì có sự thay đổi quan trọng về chức năng của Viện kiểm sát theo hướng là
Viện kiểm sát chỉ thực hiện một chức năng là thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát sẽ
chuyển thành mô hình Viện công tố) như tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính
trị, mà còn vì đây là thời kỳ đã và đang tiếp tục đặt ra những vấn đề về lý luận và thực
tiễn có liên quan không chỉ là thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát mà còn là đảm
bảo cho việc cải cách hệ thống tư pháp nói chung theo tinh thần đổi mới nhưng phải xem
xét đến tính lịch sử, truyền thống của hoạt động tư pháp nói chung. Do đó, Nghị quyết
của Trung ương là định hướng song vận dụng vào thực tế còn phải xem xét một cách toàn
diện. Trên cơ sở đảm bảo pháp luật được thực thi một cách đầy đủ, thống nhất, đảm bảo
dân chủ, bình đẳng và công khai, minh bạch. Chúng tôi cho rằng ngành Kiểm sát nhân
dân cần tập trung tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết đầy đủ toàn diện vấn đề nêu
trên, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động của ngành. Bên cạnh việc giải quyết về
lý luận các vấn đề liên quan đến vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát; ngành Kiểm
sát cần quán triệt đầy đủ những quy định của pháp luật hiện hành về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của ngành.
Vấn đề là phải hiểu, nắm vững không chỉ về nội dung mà cả tinh thần Điều luật,
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 đã nhấn mạnh chức năng thực hành quyền công tố trong quan hệ với chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là quy định nhằm khẳng định vị trí trọng tâm, có tính ưu
tiên của chức năng thực hành quyền công tố, nhằm bảo đảm tính có căn cứ, tính hợp pháp
trong việc Viện kiểm sát xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Nắm vững và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát có ý nghĩa là
Viện kiểm sát phải xác định được rõ ràng nhiệm vụ cụ thể của mỗi cấp Kiểm sát, mỗi
chức danh để có kế hoạch công tác cụ thể, đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy năng
động, sáng tạo của mỗi Kiểm sát viên, khắc phục tâm lý ỷ lại vào các quy định của Lãnh
đạo. Để chuẩn bị cho việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm hình sự; đòi hỏi ngành
Kiểm sát không chỉ được đầu tư về cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc mà
quan trọng là phải có sự chuẩn bị về con người, về năng lực, trình độ của các Kiểm sát
viên mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp hiện nay.
3.3.4. Tích cực giáo dục, rèn luyện nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất
đạo đức nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên
Đây không phải là đòi hỏi riêng của quá trình cải cách tư pháp mà là đòi hỏi có
tính thường xuyên liên tục đối với người cán bộ Kiểm sát nói cung và các Kiểm sát viên
nói riêng. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đánh giá về công tác cán bộ của
các cơ quan tư pháp "Phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị,
có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với công
việc, có những trường hợp đã hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội
phạm". Tuy nhiên về thiếu sót thì Nghị quyết 08-NQ/TW cũng đánh giá "Công tác cán bộ
của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán
bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận
tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề
nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy Nhà
nước".
Để nâng cao chất lượng cán bộ trước hết đòi hỏi mỗi cán bộ, Kiểm sát viên phải tự
rèn luyện ý thức chính trị. Bên cạnh đòi hỏi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
làm công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự phải đảm
bảo tính pháp lý và nghiệp vụ cao, đồng thời Kiểm sát viên phải nhận thức được tính
chính trị trong công việc của mình. Xa rời tính chính trị sẽ làm cho hoạt động kiểm sát
trở nên pháp lý đơn thuần. Rèn luyện ý thức chính trị chính là việc thường xuyên nắm
vững các chủ trương Nghị quyết của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Rèn
luyện nâng cao ý thức chính trị giúp Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố đảm bảo có
lý, có tình được nhân dân tin tưởng, đồng tình. Rèn luyện ý thức chính trị phải đi đôi với việc
rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ Kiểm sát theo tinh thần lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn". Thực hành quyền
công tố ở các phiên toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là thường xuyên tiếp xúc với mặt
trái xã hội, tiếp xúc nhiều loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu Kiểm sát viên không
thường xuyên trau dồi đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị thì dễ bị mặt trái xã hội, mặt trái
của nền kinh tế thị trường cám dỗ. Trong điều kiện đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, việc rèn luyện ý thức chính trị cho lực lượng Kiểm sát viên
ngành Kiểm sát nói chung và Kiểm sát viên thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc
thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao càng đòi hỏi cấp bách. Hàng năm trong Chỉ thị
công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều nêu yêu cầu: Thông qua hoạt
động Kiểm sát, thông qua các vụ án cụ thể cần tổ chức nghiên cứu rút ra những bài học về
công tác quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ; giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức để giáo
dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong ngành Kiểm sát.
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự của Kiểm sát viên nói chung và Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao nói riêng, đòi hỏi khách quan nữa đó là không ngừng nâng cao trình độ pháp lý,
nghiệp vụ cho Kiểm sát viên để Kiểm sát viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo thực hiện
nhiệm vụ được giao; đảm bảo tính đúng đắn của pháp luật trong thực thi nhiệm vụ. Kiểm
sát viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ và trau dồi kỹ năng thực
hành quyền công tố trong khâu kiểm sát xét xử phúc thẩm. Để đáp ứng được yêu cầu nêu
trên Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến
thức cho Kiểm sát viên. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cần đổi mới nội dung,
chương trình theo hướng tập trung đào tạo bồi dưỡng kỹ năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên cần được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu
theo loại tội… để kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, đảm bảo cho
các quyết định ở cấp phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được chính xác, đúng pháp luật.
3.3.5. Tăng cường vai trò Lãnh đạo của Viện trưởng các Viện thực hành
quyền công tố kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công
tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự thì việc tăng cường vai trò
lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao là yêu cầu khách quan. Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của ngành Kiểm sát được quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 và quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 36) quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố
ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đó là quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án,
quyết định của Toà án; tổ chức chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt
động tố tụng hình sự ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Viện
trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét
xử phúc thẩm. Trước hết là việc trực tiếp thực hiện các hoạt động thực hành quyền công
tố. Tồn tại lâu nay là việc kháng nghi phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đổi
với án sơ thẩm của tỉnh còn rất hạn chế. Các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm chưa chú
trọng xây dựng, tổ chức thực hiện cơ chế yêu cầu gửi bản án, quyết định sơ thẩm kiểm tra
bản án quyết định sơ thẩm, của Toà án cấp tỉnh. Mặc dù trong nhiều năm Viện kiểm sát
cấp dưới không gửi đầy đủ, kịp thời các bản án để Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm kiểm
tra, xem xét việc kháng nghị phúc thẩm. Nhưng chậm được khắc phục. Tuy năm 2008,
Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm có tham mưu và được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao ban hành Chỉ thị (Chỉ thị số 03 ngày 19/6/2008) về công tác kháng ngị phúc
thẩm nhưng mới tập trung chỉ đạo công tác này đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện, cấp tỉnh. Do đó, số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối
với bản án, quyết định sơ thẩm của cấp tỉnh còn rất hạn chế. Để công tác kháng nghị phúc
thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có hiệu quả thì việc sơ kết 1 năm thực hiện Chỉ thị
số 03 ngày 19/6/2008 về kháng nghị phúc thẩm hình sự; cần sơ kết đánh giá đúng, đầy đủ
những ưu điểm và tồn tại trong tổ chức thực hiện công tác này của từng đơn vị Viện kiểm sát
xét xử phúc thẩm; có như vậy mới rút ra được bài học, tìm biện pháp khắc phục tình trạng
yếu kém trong kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, tăng cường
trách nhiệm của Viện trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm trong thực hành quyền
công tố chính là tư tưởng chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao những năm
qua. Với việc ban hành Chỉ thị số 03/19/6/2008 về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Viện trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm
cũng như các Viện trưởng các cấp tập trụng chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành
quyền công tố thông qua công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát góp phần tích
cực vào việc nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của
ngành Kiểm sát nhân dân.
Yêu cầu của Chỉ thị 03 là: "Thường xuyên quan tâm, coi trọng công tác kháng
nghị phúc thẩm, còn đây là một trong những công việc trọng tâm của công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong kế hoạch, chương trình công tác
hàng năm phải đề ra các chỉ tiêu phát hiện những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm
về áp dụng pháp luật, về thủ tục tố tụng để kháng nghị phúc thẩm… Viện trưởng các đơn
vị phải trực tiếp nghe báo cáo và duyệt nội dung kháng nghị. Trước khi mở phiên toà,
việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phải do Lãnh đạo Viện quyết định…", "Khi ban
hành kháng nghị phải bảo đảm chặt chẽ từ hình thức đến nội dung và thủ tục, thời hạn
pháp luật quy định…".
Các Viện phúc thẩm (thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao) phải có bộ phận
chuyên trách theo dõi, quản lý, kiểm tra bản án, quyết định sơ thẩm, thu thập thông tin về
việc xét xử của Toà án cấp sơ thẩm để phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi
phạm… định kỳ kiểm tra việc thực hiện gửi bản án, quyết định sơ thẩm của Viện kiểm
sát cấp tỉnh… Tăng cường công tác sơ tổng kết để rút kháng nghị về công tác kháng nghị
phúc thẩm, chú trọng đề xuất giám đốc thẩm những vụ án cần thiết. Các Viện kiểm sát
xét xử phúc thẩm có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác kháng nghị
phúc thẩm theo địa bàn được phân công…
Tăng cường sự Lãnh đạo của Viện trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đòi
hỏi tăng cường hơn nữa công tác quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động thực hành quyền
công tố trong xét xử phúc thẩm mà tập trung trong hoạt động của Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân tối cao tại các phiên toà. Yêu cầu là tăng cường chỉ đạo để các hoạt
động của Kiểm sát viên trong nghiên cứu, chuẩn bị xét xử phúc thẩm kỹ lưỡng có chất
lượng với tất cả các vụ án có kháng cáo, kháng nghị. Những vụ án phức tạp, liên quan
đến nhiều chính sách kinh tế, xã hội, khi chuẩn bị và tham gia phiên toà phúc thẩm yêu
cầu Viện trưởng Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phải chỉ đạo chặt chẽ, xem xét kháng
nghị kịp thời và chính xác. Có cơ chế duyệt án phù hợp để tất cả các vụ án khi tham gia
xét xử phúc thẩm thì Kiểm sát viên phải nắm chắc hồ sơ chuẩn bị tốt các phương án xét
hỏi, tranh luận tại phiên toà - nhằm mục đích đảm bảo việc truy tố xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Những trường hợp kháng nghị
phúc thẩm của Viện kiểm sát là đúng và chính xác theo quy định của pháp luật cần được
báo cáo đầy đủ và kiến nghị cấp giám đốc thẩm nên Toà án cấp phúc thẩm không chấp
nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Đây là vấn đề đòi hỏi lãnh đạo các Viện
kiểm sát xét xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải thường xuyên quán
triệt và kiểm tra thực hiện có hiệu quả.
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm còn
đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò chỉ đạo đối với các Viện kiểm sát nhân dân cấp
dưới về công tác thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự. Theo sự uỷ
quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 32 - Quy chế thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự số 960 ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao) các Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các
quy định của pháp luật đối với Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh về công tác
kháng nghị phúc thẩm. Đồng thời ký thừa uỷ quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao đối với các kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đòi
hỏi kháng nghị phải đảm bảo đúng pháp luật cả về hình thức và có căn cứ pháp lý về nội
dung.
Việc nâng cao trách nhiệm của Viện trưởng các Viện thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử hình sự không đồng nghĩa với việc Viện trưởng các Viện thực hành
quyền công tố này làm thay các công việc của Kiểm sát viên. Đều quan trọng là trên cơ
sở Quy chế hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm chung của
ngành, các Viện thực hành quyền công tố và xét xử phúc thẩm phải xây dựng Quy chế cụ
thể về tổ chức hoạt động củađơn vị mình để phân định cũng như phát huy quyền hạn,
trách nhiệm của Viện trưởng với các Kiểm sát viên theo hướng mạnh dạn tăng quyền
hạn, trách nhiệm pháp lý cho Kiểm sát viên thi thực hành quyền công tố và xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự. Tạo điều kiện pháp lý để Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình với vai trò là người tiến hành tố tụng, có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ của người
tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật.
3.3.6. Xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Viện thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm với các Viện kiểm sát nhân dân địa phương,
giữa Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm với các cơ quan hữu
quan; các đơn vị, tổ chức và công dân
Quan hệ phối hợp trong và ngoài ngành Kiểm sát không chỉ là giải pháp nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát
mà còn là nguyên tắc tổ chức hoạt động của ngành Kiểm sát trong hoạt động thực tiễn về
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao đối với xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Việc xây dựng mối quan hệ phối hợp
trong và ngoài ngành có ý nghĩa to lớn, giúp cho việc khắc phục tình trạng "việc ai nấy
làm". Xây dựng mối quan hệ phối hợp sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cấp,
các ngành trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và hoạt động xét xử phúc
thẩm của cấp tối cao đạt hiệu quả tích cực.
Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh trong khâu phúc thẩm chính là phối hợp trong hoạt động nghiệp vụ cũng như
chỉ đạo, điều hành. Trên cơ sở quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp cần xây dựng mối
quan hệ trên dưới và ngược lại. Nhất là phối hợp trong công tác kháng nghị phúc thẩm
cũng như bảo vệ quan điểm của hoạt động thực hành quyền công tố của ngành Kiểm sát.
Theo đó, để đảm bảo cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền kháng nghị
theo quy định của pháp luật, các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, phải sao gửi bản cáo
trạng và bản án quyết định của Toà án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao kèm theo báo
cáo kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm cùng quan điểm của
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh để Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu xem xét,
chỉ đạo Viện kiểm sát cấp tỉnh kháng nghị hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng
nghị trên một cấp. Trường hợp cấp tỉnh thấy cần phải kháng nghị phúc thẩm nhưng thời
hạn kháng nghị phúc thẩm không còn thì phải báo cáo đầy đủ các căn cứ kháng nghị phúc
thẩm lên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đề xuất kháng nghị phúc thẩm. Khi Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố bảo vệ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh nếu xét
thấy cần rút một phần hay toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thì cần
thiết phải có sự trao đổi trước khi thực hiện để tham khảo thêm ý kiến của địa phương.
Có như vậy kháng nghị và bảo vệ kháng nghị phúc thẩm trong thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có chất lượng và hiệu quả cao.
Mối quan hệ phối hợp giữa Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc
thẩm cũng như quan hệ của các Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các cơ
quan, đơn vị, tổ chức có liên quan trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự (các Toà
phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao) cần đảm bảo nguyên tắc việc phối hợp phải trên cơ
sở tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Quan hệ phối
hợp cần chú ý khắc phục hai biểu hiện đó là: Quá nhấn mạnh quan hệ phối hợp mà hạn
chế tính độc lập trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi Ngành. Biểu hiện là
thương quy định theo kết luận của Liên ngành hoặc là quá nhấn mạnh quyền hạn, trách
nhiệm của mỗi bên. Quan hệ phối hợp trước hết thể hiện qua việc thống nhất phương
hướng đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo việc nói chung và xét xử ở cấp phúc
thẩm tối cao nói riêng phải công khai, dân chủ, minh bạch, đúng pháp luật. Những trường
hợp phức tạp liên quan đến an ninh quốc gia, đến các chính sách của Đảng, Nhà nước về
kinh tế, xã hội… cần chủ động họp Liên ngành để trao đổi và tổ chức phiên toà phúc
thẩm xét xử được chính xác, đúng pháp luật; đảm bảo các yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
3.3.7. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phục vụ cho công tác thực
hành quyền công tố tại các phiên toà phúc thẩm thuộc Toà án nhân dân tối cao
Khi đánh giá nguyên nhân của những tồn tại trong công tác tư pháp thời gian qua,
Nghị quyết 08-NQ/TW đã đánh giá "Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan
tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật
chội, phương tiện làm việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ tư pháp
chưa tương xứng với niệm vụ và trách nhiệm được giao. Trong điều kiện cải cách tư
pháp, với việc thực hiện tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện nói riêng và các
cơ quan tư pháp cấp huyện nói chung. Đến tháng 6/2009 đã kết thúc lộ trình thực hiện
việc tăng thẩm quyền này theo Điều 170 Bộ luật hình sự. Đòi hỏi cần có sự đầu tư mạnh
hơn về cơ sở vật chất và trang bị làm việc cho Viện kiểm sát. Đi đôi với lộ trình tăng
thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện thì lượng án hình sự bị kháng cáo, kháng nghị
lên Toà án nhân dân tối cao để xét xử phúc thẩm cũng giảm dần về số lượng (vì án hình
sự sẽ chủ yếu do Toà án cấp huyện xét xử sơ thẩm). Đòi hỏi các Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân tối cao một mặt nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong kháng nghị phúc
thẩm (trên một cấp) và chú trọng hơn đến công tác kiểm tra, hướng dẫn cấp tỉnh, huyện
về công tác kháng nghị phúc thẩm; kỹ năng thực hành quyền công tố, tranh luận tại phiên
toà phúc thẩm của Kiểm sát viên; đồng thời chú trọng công tác xác minh phúc thẩm góp
phần nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc
thẩm. Những công việc này đòi hỏi phải tăng cường đầu tư về trang thiết bị làm việc, về
cơ sở vật chất cho ngành Kiểm sát nói chung và các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm nói
riêng; cụ thể là các phương tiện đi lại, trang thiết bị khoa học, công nghệ là hết sức cần
thiết, bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đạt chất lượng hiệu quả cao hơn.
3.3. Một số kiến nghị
Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân nói chung và của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng; từng bước đáp ứng yêu cầu của quá trình cải cách
tư pháp trong công cuộc đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Trên cơ sở các quy
định của pháp luật hiện hữu và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự những năm
qua, thấy có một số vấn đề cần sớm được khắc phục.
1. Cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa
đổi) sắp tới như sau:
- Về thực hành quyền công tố trong kháng nghị phúc thẩm. Như các phần nêu trên
đã cho thấy theo thông lệ chung của các pháp luật truyền thống trên thế giới, tuy với
những giới hạn khác nhau nhưng hầu hết các quốc gia đều quy định Viện công tố có
quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm. Đối với
nước ta từ ngày lập nước cho đến nay, quyền kháng nghị phúc thẩm luôn là quyền năng
pháp lý duy nhất mà Nhà nước chỉ giao cho Viện kiểm sát. Hiện nay đang có những quan
điểm khác nhau xung quanh việc giới hạn quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm
sát cũng như thẩm quyền kháng nghị, căn cứ kháng nghị phúc thẩm.
Có quan điểm cho rằng, cần giới hạn quyền kháng nghị của Viện kiểm sát đối với
những trường hợp Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội như quy định của một số nước
theo truyền thống tố tụng tranh tụng. Như vậy, mới đảm bảo quyền phán quyết độc lập
của Tòa án. Tuy nhiên, thấy rằng không nên giới hạn quyền kháng nghị phúc thẩm đối
với những phán quyết vô tội. Điều này phù hợp với việc Viện kiểm sát là cơ quan duy
nhất được trao quyền thay mặt Nhà nước buộc tội một người trước Tòa án. Kháng nghị
của Viện kiểm sát là sự tiếp tục duy trì lời buộc tội của Viện kiểm sát nhưng được xem
xét ở thủ tục phúc thẩm với sự tham gia xem xét của nhiều thẩm phán chuyên nghiệp.
Trường hợp xét thấy có tội thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng chỉ có quyền hủy án sơ thẩm
để điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại (Điều 250 BLTTHS năm 2003). Thực tiễn những năm
qua, từ 2004 đến 2008 Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử 158 trường hợp Tòa án cấp sơ
thẩm tuyên bị cáo không phạm tội bị Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm. Qua xét xử
phúc thẩm, Tòa án đã tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo hướng có tội là
113 bị cáo (chiếm 72%). Riêng ở cấp phúc thẩm tối cao sơ bộ các Tòa án đã tuyên hủy án
sơ thẩm của cấp tỉnh để điều tra, xét xử lại theo hướng có tội là 38/51 bị cao (chiếm 75%)
(theo các chuyên đề thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, các vụ
án Toà tuyên bị cáo không phạm tội - các năm từ 2003-2008 của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao). Như vậy, thông qua kháng nghị phúc thẩm đã đáp ứng được yêu cầu chống làm
oan người vô tội cũng như chống bỏ lọt tội phạm. Đây là quy định cần được giữ nguyên
trong sửa đổi BLTTHS .
- Về thẩm quyền kháng nghị: Có ý kiến nêu rằng cần bỏ thẩm quyền kháng nghị
của Viện kiểm sát cấp trên đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới. Lý
do là xét về thẩm quyền là hợp lý, song thực tế không hợp lý vì: Viện kiểm sát cấp trên
không đủ lực lượng để theo dõi, kiểm tra tất cả các vụ án cấp dưới đã xét xử, quyết định
sơ thẩm; Viện kiểm sát cấp trên không trực tiếp theo dõi quá trình điều tra, truy tố, xét xử
ở cấp sơ thảm. Luật quy định chỉ có 30 ngày để kháng nghị phúc thẩm thì cũng không đủ
thời gian nghiên cứu kỹ hồ sơ để quyết định kháng nghị hay không. Do đó quy định này
là không hiện thực, cần bỏ. Tuy nhiên, thấy rằng pháp luật tố tụng hình sự trao thẩm quyền
kháng nghị phúc thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm sự thống
nhất của pháp chế, chống lại các biểu hiện cục bộ, địa phương chủ nghĩa và phù hợp với
truyền thống tố tụng của nước ta. Đồng thời việc trao quyền này là hoàn toàn mang tính
khả thi và có hiệu quả tích cực.
Song quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định Tòa án cấp
sơ thẩm phải gửi báo án, quyết định sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp trong
khi lại quy định thời gian kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên là 30 ngày kể từ ngày
tuyên án sơ thẩm. Đây là những vấn đề còn thiếu và chưa hợp lý để đảm bảo quyền
kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Hiện nay, để tạm thời khắc
phục khó khăn này, quy chế 960 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định Viện kiểm
sát nhân dân cấp dưới phải sao gửi bản án, quyết định sơ thẩm lên Viện kiểm sát nhân
dân cấp trên để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Cách làm này chỉ khắc phục
được một phần (đối với các bản án, quyết định Tòa án cấp sơ thẩm gửi đúng thời hạn cho
Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát sao gửi đúng quy định về thời gian cho Viện
kiểm sát cấp trên) còn hầu hết khi bản án, quyết định sơ thẩm gửi đến Viện kiểm sát cấp
trên thì thời gian còn rất ít hoặc đã quá thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên.
Như vậy, thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên
trực tiếp cần được giữ nguyên và có quy định bổ sung để Tòa án đã xét xử sơ thẩm gửi
trực tiếp bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. (Sửa Điều 229 BLTTHS
Tòa án cấp sơ thẩm gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm; sửa Điều 182 BLTTHS theo hướng Tòa án gửi ngay các quyết
định sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp).
- Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Hiện tại BLTTHS không có quy định về căn
cứ kháng nghị phúc thẩm. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm là tiêu chí để Viện kiểm sát tiến
hành kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, theo tố tụng
phúc thẩm; đồng thời đánh giá kháng nghị có căn cứ hay không; việc chấp nhận hay
không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của Tòa phúc thẩm có đúng hay không. Hiện tại,
căn cứ kháng nghị phúc thẩm mới được quy định trong quy chế số 960 về thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên,
trong sửa đổi bổ sung BLTTHS cũng có ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng không nên
quy định căn cứ kháng nghị cụ thể trong BLTTHS vì khi khái quát được mà cụ thể thì
công cụ thể càng thiếu, hơn nữa kháng nghị phúc thẩm không giống kháng nghị giám đốc
thẩm về tính chất. Có quan điểm cần có quy định trong BLTTHS vì chúng ta đang xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị cũng đã đặt ra yêu
cầu về xây dựng pháp luật trong tiến trình cải cách tư pháp… đồng thời tránh kháng nghị
tùy tiện hoặc không kháng nghị phúc thẩm khi có căn cứ, do đó cần xây dựng thành Điều
luật cụ thể. Trên cơ sở đó đảm bảo tính thống nhất của pháp chế.
- Về việc chuyển hồ sơ vụ án giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử phúc
thẩm:
Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể khi hồ sơ vụ án có kháng cáo,
kháng nghị thì sau khi Tòa phúc thẩm nhận được hồ sơ vụ án phải chuyển giao cho Viện
kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu, chuẩn bị cho việc tham gia xét xử phúc thẩm. Hiện tại,
để khắc phục tạm thời, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
Thông tư liên ngành từ năm 1988 quy định sau khi Tòa án phúc thẩm nhận được hồ sơ vụ
án thì trong vòng 7 ngày phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để nghiên cứu. Trong vòng
10 ngày (cấp tỉnh) và 20 ngày (cấp tối cao) Viện kiểm sát nhân dân phải nghiên cứu xong
và trả hồ sơ cho Tòa án để chuẩn bị xét xử phúc thẩm… Quy định này xuất phát từ quy
định tại khoản 2 Điều 237 “Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng
nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng
nghị”. Quy định này cần sớm được sửa đổi vì: ở cấp phúc thẩm việc Viện kiểm sát tham
gia phiên tòa là bắt buộc, do đó nếu hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị Tòa án chuyển
lên Tòa phúc thẩm, Tòa phúc thẩm chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu, sau đó Viện
kiểm sát lại chuyển hồ sơ lại cho Tòa án để thụ lý, nghiên cứu và chuẩn bị xét xử. Với cách
chuyển này hồ sơ vụ án vòng đi, vòng lại tốn nhiều thời gian và tiền của, công sức. Do đó,
khi có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ trực tiếp cho Viện kiểm
sát cấp trên thụ lý nghiên cứu theo thời gian quy định, sau đó Viện kiểm sát chuyển cho
Tòa án cùng cấp để thụ lý nghiên cứu và xét xử. Cách chuyển hồ sơ này vừa kịp thời, đỡ
tốn kém và tạo cơ chế để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong việc các Tòa án thực hiện lập và chuyển hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật.
Về việc kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, BLTTHS năm 2003 quy định
sự tham gia của kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc (Điều 245). Quy định
như vậy là cần thiết song BLTTHS không quy định về số lượng kiểm sát viên tham gia
phiên tòa phúc thẩm. Trên thực tế, đối với những vụ án lớn, phức tạp và rất đông bị cáo,
thời ian xét xử kéo dài hàng tháng. Đòi hỏi kiểm sát viên phải tham gia liên tục, vừa đảm
bảo tham gia xét hỏi các bị cáo, đương sự, vừa đòi hỏi việc tranh tụng tại phiên tòa theo
yêu cầu của cải cách tư pháp. Do đó, Viện kiểm sát thường cử 2 hoặc 3 kiểm sát viên
tham dự phiên tòa, ngoài ra còn một số kiểm tra viên giúp việc. Nhưng sự tham gia của
kiểm tra viên không được chính thức. Do đó cần quy định bổ sung quy định tại phiên tòa
phúc thẩm đối với vụ án phức tạp, nghiêm trọng… thì có thể cử nhiều kiểm sát viên tham
gia phiên tòa, trường hợp cần thiết có kiểm tra viên giúp việc kiểm sát viên tại phiên tòa.
2. Về công tác tổ chức cán bộ.
- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm
chất chính trị đối với lãnh đạo và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Như chúng ta đã biết, yếu tố con người luôn luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và tổ
chức lực lượng cán bộ, kiểm sát viên có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ là việc làm hết sức cần thiết.
Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao luôn phải quán triệt được tầm quan trọng
của công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm hình sự của kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, coi đây là một công tác quan trọng trong thực hiện quyền
công tố mà Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát. Đảm bảo cho việc điều tra, truy tố của
Viện kiểm sát là đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không để lọt kẻ
phạm tội, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trong xét xử các vụ án hình sự. Ngoài
việc quản lý điều hành, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (theo Luật) là người
quyết định việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm
của cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Theo quy chế 960 thì Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có ủy quyền cho Viện trưởng các Viện thực hành quyền công tố và kiểm
sát xét xử phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao ký các kháng nghị phúc thẩm. Song
việc chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là rất cần thiết, nhất là
những vụ án lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp và liên quan đến chính
sách lớn của Đảng, Nhà nước. Lãnh đạo các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử phúc thẩm là người trực tiếp thay mặt lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định
việc kháng nghị phúc thẩm cũng như tổ chức cho kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án,
chuẩn bị và tham gia phiên tòa phúc thẩm nên phải có phẩm chất chính trị vững vàng, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cao và có thái độ công tâm, có bản lĩnh nghề nghiệp đồng thời
phải khách quan và thận trọng.
Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố đối với các vụ án
phúc thẩm cần có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong thực hành
quyền công tố tại phiên tòa. Phải được chuẩn hóa trình độ chuyên môn (Đại học Luật) và
chính trị (cao cấp chính trị). Hiện nay, số án có kháng cáo, kháng nghị phải xét xử phúc
thẩm ở cấp Trung ương hầu hết là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp (do thực
hiện Điều 170 BLTTHS phân cấp xét xử cho Tòa án huyện); có khung hình phạt trên 15
năm đến tử hình. Do đó, việc tăng cường lực lượng kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao cho công tác này là đòi hỏi khách quan và cần được quan tâm đúng mức.
Việc lựa chọn kiểm sát viên cho công tác thực hành quyền công tố tại các phiên
tòa nói chung và tại các phiên tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao có những đòi
hỏi riêng, về hình thức không bị khiếm khuyết vì kiểm sát viên nếu bị khiếm khuyết,
không có dị tật trong lời nói, về hình thức sẽ dễ gây phản cảm và làm giảm chất lượng
thực hành quyền công tố.
Vấn đề đào tạo lại và bổ sung những kiến thức pháp luật nhất là kiến thức về kỹ
năng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là đòi hỏi bức thiết. Cho đến
nay trong các trường giảng dạy chưa có trường nào có giáo trình đầy đủ và giảng dạy
chuyên sâu về kỹ năng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự
nói chung và tại phiên tòa phúc thẩm nói riêng. Vừa qua Vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử Viện kiểm sát nhân dân tối cao có xây dựng chuyên đề “Kỹ năng xét hỏi
đối đáp của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự” song chuyên đề mới ở cấp bộ, phạm vi,
hiệu quả còn hạn chế. Mới đặt ra những vấn đề và kỹ năng chung nhất. Đây là vấn đề cần
tập trung chỉ đạo, nghiên cứu và tổng hợp thành lý luận và thực tiễn cụ thể để bổ sung
kiến thức cho kiểm sát viên làm công tác này.
Ngoài việc nâng cao kiến thức mọi mặt, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác này, cần có các đợt tập huấn chuyên
sâu, tháo gỡ những vướng mắc trong nhận thức pháp luật, áp dụng pháp luật trong công
tác này, từng bước nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm.
Để nâng cao trách nhiệm của các Kiểm sát viên một vấn đề đặt ra là cần xây dựng
cơ chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại với kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử hình sự để không ngừng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
của đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhất là kiểm sát viên trong
khâu xét xử phúc thẩm hình sự.
3. Công tác kiểm tra, chỉ đạo:
Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra; kịp thời bồi dưỡng, phổ biến kinh nghiệm
tốt trong thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở các
Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự. Nhất là những kinh nghiệm
trong quản lý, kiểm tra và phát hiện để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án,
quyết định sơ thẩm của cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Những kinh nghiệm và các
kỹ năng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng thời
rút kinh nghiệm những đề xuất của kiểm sát viên trong kháng nghị phúc thẩm không
đúng, yếu chứng lý cũng như thiếu sót tồn tại, yếu kém của kiểm sát viên khi tham gia
phiên tòa phúc thẩm do nghiên cứu không kỹ hồ sơ, chuẩn bị không đầy đủ, trách nhiệm
chưa cao, đề xuất xử lý tại phiên tòa thiếu chính xác, không phát huy được vai trò của
kiểm sát viên trước phiên tòa phúc thẩm.
Kết luận
Trong nhiều hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên ngành Kiểm sát
nhân dân, thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có một vị trí hết sức quan trọng. Việc thực hiện
tốt chức năng thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật hình sự, tố tụng
hình sự… Trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có tác dụng rất lớn đến đấu tranh phòng chống tội phạm, nâng cao hiệu quả công tác
kiểm sát, đảm bảo nguyên tắc xét xử 2 cấp đúng pháp luật, không làm oan người vô
tội và không bỏ lọt kẻ phạm tội, đảm bảo pháp chế trong hoạt động tố tụng hình sự.
Ngược lại, hoạt đông thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao không tốt sẽ hạn chế đến tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm, xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xã hội.
Một trong các yếu tố đảm bảo cho chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các kiểm sát viên phải nâng cao trách nhiệm
nghề nghiệp, thực hiện đúng các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả chất lượng
thực hành quyền công tố mà Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát.
Trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân
dân tối cao nói riêng đã có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực
hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự. Đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất;
góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm quyền dân
chủ của công dân, tăng cường pháp chế XHCN.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số hoạt động thực hành quyền công tố còn hạn
chế. Nhất là tổ chức việc quản lý, theo dõi, kiểm tra việc xét xử của cấp sơ thẩm. Trên cơ
sở đó tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm; các kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao còn nhiều hạn chế trong kỹ năng tham gia phiên tòa phúc thẩm, trong đó chủ
yếu là kỹ năng xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa của kiểm sát viên dẫn đến chất lượng thực
hành quyền công tố bị hạn chế. Yếu kém này có nguyên nhân khách quan, chủ quan,
song chủ yếu là nguyên nhân chủ quan và ý thức trách nhiệm, năng lực trình độ. Mặt
khác một số quy định của pháp luật liên quan đến đảm bảo chức năng của Viện kiểm sát
trong thực hành quyền công tố còn bất cập, hướng dẫn, giải thích để áp dụng pháp luật
thống nhất còn chậm và thiếu; khi vận dụng vào thực tiễn còn nhiều khó khăn.
Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự nói riêng. Luận văn nêu lên một số kiến nghị để góp phần nâng cao hiệu
quả, chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự./.
Danh mục các công trình khoa học của tác giả
đã công bố có liên quan đến đề tài luận văn
1. Hà Như Khuê (2003), Những vi phạm Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự trong
xét xử của Tòa án nhân dân các cấp, Chuyên đề cấp bộ.
2. Hà Như Khuê (2006), Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002
của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới về công tác
tư pháp, Chuyên đề cấp bộ.
3. Hà Như Khuê (2007), Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám đốc thẩm - tái
thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Chuyên đề cấp bộ.
4. Hà Như Khuê, Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đối với
các vụ án Viện kiểm sát truy tố Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội các năm:
2004-2005, 2006-2007, 2008-2009, Chuyên đề cấp bộ.
5. Hà Như Khuê (tham gia soạn thảo), Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2009-2010
do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì.
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Th.S Dương Thanh Biểu (2008), Tranh luận tại phiên toà, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/01/2002 (khóa IX) về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 (khóa IX) về chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam đến năm 2010,
Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 (khóa IX) về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (1999), Tư pháp hình sự so sánh, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.
6. Lê Cảm (2001), Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài khoa
học cấp bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện
quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Hà Nội.
7. Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3 về việc triển khai thực hiện
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội.
8. Đào Hữu Dân (2005), "Những đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa cơ quan điều
tra với Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự", Tạp chí Công
an nhân dân, (2).
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ Chính trị
(khóa IX) về một số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện
trong năm 2000, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. F.Fosthoft (1990), Sự phát triển của các cơ quan tư pháp ở bang Bắc sông Ranh,
Nxb Benhard (bản tiếng Đức).
17. F.Hermann và tập thể tác giả (1990), Quyền công tố trong cơ cấu hành chính - chính
trị, Nxb Pháp lý bang Hessische (bản tiếng Đức).
18. Hồ Chí Minh (1986), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý.
19. TS. Vũ Mộc (1995), Về thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị, Kỷ yếu đề tài cấp bộ "Những vấn đề lý
luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam", Hà Nội.
20. Nguyễn Thái Phúc (1999), Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ yếu đề
tài cấp bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công
tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay", Hà Nội.
21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật hình sự 1985 được
sửa đổi bổ sung 1988, 1992, 1999.
22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988), Bộ luật tố tụng hình sự 1988
sửa đổi 1999, 2003.
23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992.
24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân 2002.
25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Pháp lệnh Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân năm 2003.
26. TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong hoạt động điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
27. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa toàn thư
Việt Nam, Hà Nội.
28. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình công tác kiểm sát, tập 1, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
30. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
(sửa đổi) (số729/UBPL ngày 14/3), Hà Nội.
31. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân, Hà Nội.
32. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/NQ/UBTVQH10 ngày
17/3/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.
33. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Quyết định số 120/2004/QĐ-VKSNDTC ngày
14/9 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối vao về việc ban hành Quy
chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố, Hà Nội.
34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Sổ tay Kiểm sát viên, Hà Nội.
35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác kháng nghị phúc
thẩm 3 năm 2004-2006.
36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Các chuyên đề nghiệp vụ từ 2003-2008.
37. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Tổng kết công tác ngành Kiểm sát 25 năm, 30
năm và 40 năm.
38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác ngành kiểm sát
2003-2008.
39. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), "Các quy chế quản lý nghiệp vụ của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao", Tạp chí Kiểm sát.
40. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Chỉ thị số 03/CT ngày 19/6/2008 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về kháng nghị phúc thẩm hình sự.
41. Viện Nghiên cứu Pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận về Nhà nước và pháp luật,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Tất Viễn (2002), Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Kỷ
yếu đề tài cấp bộ: "Những giải pháp nâng cao thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp", Hà Nội.
43. Nguyễn Như ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
Mục lục
Trang
1 Mở đầu
7 Chương 1: cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của
kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự
1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự 7
1.2. Khái niệm tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng thực
hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của
Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao 29
Chương 2: thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm
sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam từ 2003 đến nay 38
2.1. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có kháng cáo,
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 38
2.2. Khái quát chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân
dân trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự 42
2.3. Nguyên nhân và vấn đề pháp lý đặt ra 66
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công
tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc
73 xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay
3.1. Những yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét
xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay 73
3.2. Giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của
Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm
các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay 79
3.3. Một số kiến nghị 91
99 kết luận
101 danh mục các công trình của tác giả
102 Danh mục tài liệu tham khảo
44.
45.
46. Danh mục các bảng trong luận văn
47.
Trang
Bảng 2.1: Tình hình số án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong toàn
quốc 39
Bảng 2.2: Số án có kháng cáo, kháng nghị toàn quốc 41
Bảng 2.3: Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm 44
Bảng 2.4: Số án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được đề nghị cấp
giám đốc thẩm xem xét (2003-2008) 60