LUẬN VĂN:

Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm

sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hỡnh sự

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cải cách tư pháp là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta rất quan

tâm, trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đề ra. Đảng ta đã có một số

văn bản định hướng cho công tác này: Đó là Chỉ thị 53-CT ngày 21/3/2000; Nghị quyết số

08-NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị.

Theo đó một trong những nội dung cơ bản là đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội,

hạn chế thấp nhất tình trạng Viện kiểm sát truy tố, Toà án tuyên bị cáo không phạm tội.

Để đạt được mục đích là không truy tố, xét xử oan người vô tội. Nhà nước phải tạo

ra cơ chế về tổ chức hoạt động cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố

tụng; cũng như đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tiến hành điều tra, truy

tố, xét xử đúng người đúng tội. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố

tụng với chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh

vực điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự; phải đảm bảo chất lượng của việc điều tra,

truy tố; không truy tố người không có hành vi phạm tội.

Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với một người để đưa ra tòa xét xử phải đảm

bảo các điều kiện theo luật định. Việc truy tố phải đảm bảo tính có căn cứ, có chứng cứ

đầy đủ, đảm bảo đúng quy định của pháp luật (là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự).

Một khi điều tra nhưng thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng, chính xác; không được thu

thập một cách hợp pháp hoặc với con người cụ thể, hành vi cụ thể của họ không đảm bảo các

quy định để xác định là một tội phạm quy định trong BLHS thì không thể bị truy tố xét xử.

Tuy nhiên trong quá trình tiến hành tố tụng một vụ án hình sự thì mỗi giai đoạn tố

tụng có vai trò, vị trí quan trọng khác nhau. Ví như để xét xử đúng thì trước hết việc điều tra

phải đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật... Tuy nhiên việc điều tra theo pháp luật mới chỉ là

giai đoạn đầu, việc có kết tội bị cáo hay không phải được tiến hành tại phiên tòa. Kết quả

điều tra xét hỏi tại phiên tòa là căn cứ, là cơ sở để kết tội bị cáo hay tuyên bố bị cáo không

phạm tội. Do vậy, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của

Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là rất quan trọng; đây là khâu quyết định của hoạt động tố tụng

để Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử ra các quyết định đúng pháp luật.

Mặt khác, quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì việc xét xử các vụ án hình sự

theo nguyên tắc xét xử hai cấp. Do đó, sau khi vụ án đã được xét xử sơ thẩm, nếu có

kháng cáo, kháng nghị vụ án sẽ được xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Nguyên tắc hai

cấp xét xử giúp cho việc xét xử của Toà án chính xác hơn, quyền và lợi ích hợp pháp của

bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác theo luật định được đảm bảo. Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của Toà án các cấp - Theo Điều

170 thì Toà án nhân dân cấp huyện và Toà án quân sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp

huyện) được xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội

phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Theo đó Toà án cấp huyện được xét xử

các tội phạm có khung hình phạt đến 15 năm. Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án quân

sự khu vực (gọi tắt là Toà án cấp tỉnh) xét xử những vụ án còn lại - cá biệt có thể xét xử

vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới khi thấy cần thiết. Như vậy, xét xử các vụ án thuộc cấp

tỉnh là những vụ án thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thường là những vụ án phức

tạp, có nhiều bị cáo tham gia và địa bàn hoạt động tội phạm rất rộng trong quốc gia hoặc

có thể là tội phạm xuyên quốc gia, do đó, khi có kháng án, kháng nghị thì xét xử phúc

thẩm của Toà án tối cao cũng đều là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp. Vì

vậy, đòi hỏi công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm của kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải không ngừng nâng cao chất lượng, đổi mới về

phương thức hoạt động, có tư duy mang tính chiến lược mới đáp ứng được yêu cầu,

nhiệm vụ trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay; đảm bảo cho việc xét xử chính xác,

đúng pháp luật, sửa chữa, khắc phục được các thiếu sót của sơ thẩm cấp tỉnh mà lý do có

thể do nhận thức chưa đầy đủ, trách nhiệm chưa cao hoặc có thể do quy định, hướng dẫn

áp dụng pháp luật chưa đầy đủ.

Do đó, việc nghiên cứu đề tài " Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm

sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hỡnh sự "

làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn

Theo tác giả được biết thì ngoài một số đề tài nghiên cứu và luận văn thạc sĩ có đề

cập đến việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nói chung.

Trong một vài năm qua ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có chuyên đề của Vụ thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đề cập đến việc "Nâng cao chất lượng công tác

thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự các vụ án hình sự có bị cáo Tòa án

tuyên không phạm tội". Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại

Hà Nội có đề tài "Nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự".

Các đề tài nghiên cứu liên quan đến chất lượng của cán bộ công chức nhà nước

nói chung có các công trình tiêu biểu sau đây:

- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền các xã miền núi đặc

biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Hà Giang (2005), Lê Đình Vĩ, Luận văn thạc sĩ.

- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong kiểm sát điều tra các vụ án hình

sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh (2006), Vũ Viết Tuấn, Luận văn thạc sĩ.

- Nâng cao chất lượng bồi dưỡng đại biểu Hội đồng nhân dân cấp xã ở tỉnh Kiên

Giang hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Võ Thị Mỹ Dung.

- Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh

Hà Tĩnh hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Trần ánh Dương.

- Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng

Yên giai đoạn hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Hòa.

- Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền

sử dụng đất tại Toà án nhân dân ở nước ta hiện nay (2006), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn

Thị Tú.

- Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng

hoà dân chủ nhân dân Lào (2006), Luận văn thạc sĩ của Suc Ni Lan Đon Kun Lạ Vông.

- Nâng cao chất lượng công tác pháp chế trong ngành công nghiệp ở nước ta hiện

nay (2007), Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Tiến Vỵ…

Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên mới đề cập đến những

khía cạnh nhất định hoặc đề cập những vấn đề chung nhất. Đề tài này chỉ tập trung đến

những vấn đề về chất lượng công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện

Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự các vụ án hình sự.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự nhằm đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật, không làm oan sai người vô tội.

- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản

liên quan đến chất lượng thực hành quyền công tố các vụ án hình sự ở cấp phúc thẩm

thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất việc Viện Kiểm

sát truy tố, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, đồng thời khắc phục được các sai sót của

cấp sơ thẩm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng pháp luật không làm oan sai. Đề tài không

nghiên cứu việc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nói chung ở những

giai đoạn tố tụng trước đó.

Thời gian nghiên cứu: Đề tài xác định nghiên cứu trong thời gian sau khi thi hành

bộ luật hình sự 1999 và bộ luật tố tụng hình sự 2003; việc áp dụng các quy định của 2 bộ

luật này (phần thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự

thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao); trong thực tiễn hoạt động của ngành kiểm sát nhân

dân trong thời gian qua.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những luận

cứ lý luận, các điều kiện - phương pháp bảo đảm việc truy tố, xét xử hình sự đúng người đúng

tội, đúng pháp luật - không làm oan người vô tội.

Quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta cũng như lý

luận chung về Nhà nước, pháp luật nhất là chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam. Từ đó xây dựng đề ra những quan điểm và một số giải pháp cơ bản để

nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật

của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong việc xét xử hình sự các vụ án hình sự, đảm

bảo cho việc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan, sai cho người

không phạm tội. Góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự

của bộ luật hình sự 1999; bộ luật tố tụng hình sự 2003; đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp

mà Nghị quyết 48, Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đề ra.

4.2. Nhiệm vụ của luận văn

Làm rõ một số vấn đề về lý luận cơ bản của việc thực hành quyền công tố và kiểm

sát xét xử các vụ án hình sự.

- Phân tích làm rõ những vấn đề trong hoạt động tố tụng hình sự để nâng cao hiệu

quả, chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự

nhằm hạn chế thấp nhất tình trạng sau khi đã được xét xử phúc thẩm nhưng tình trạng

khiếu nại oan sai vẫn còn phổ biến.

- Phân tích, đánh giá thực trạng, những thiếu sót tồn tại trong hoạt động thực hành

quyền công tố của lực lượng kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong công tác

kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.

- Đề xuất các quan điểm, luận chứng các giải pháp để nâng cao chất lượng thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, hạn chế đến mức

thấp nhất các sai sót trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở cấp tối cao.

- Chỉ ra những bất cập quy định trong bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự và

thực tiễn của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự liên

quan đến tình trạng án phúc thẩm còn oan sai.

- Đề ra các giải pháp cụ thể để thiết thực nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố của kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ

án hình sự.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh về Nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng ta trong xây dựng Nhà

nước pháp quyền XHCN và cải cách tư pháp hiện nay. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân. Bảo đảm không làm oan người vô tội và không để lọt kẻ phạm tội.

6. Đóng góp mới của luận văn

Là việc nghiên cứu chuyên sâu dưới góc độ lý luận chung về Nhà nước và pháp

luật. Đề cập trực tiếp và tương đối toàn diện các vấn đề về lý luận, thực tiễn trong thực

hiện pháp luật, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan

người vô tội.

Đề tài sẽ đặt ra một số vấn đề góp phần sửa đổi bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng

hình sự theo hướng cụ thể hơn, rõ ràng hơn để việc thực thi pháp luật của các cơ quan cũng

như người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng áp dụng thống nhất - hạn chế

việc xét xử không đúng pháp luật. Đồng thời chỉ ra các nguyên nhân: Khách quan, chủ quan

dẫn đến việc xét xử chưa đúng pháp luật ở cấp phúc thẩm. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn

luận văn đặt ra những giải pháp cụ thể nhất là các giải pháp trong quản lý chỉ đạo điều hành

nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án

hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

7. ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn

- Nghiên cứu một số khái niệm, phạm trù liên quan đến thực hành quyền công tố

của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát

xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Xác định những vấn đề liên quan

đến điều kiện đảm bảo chất lượng quyền công tố Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát

chống oan sai trong truy tố xét xử các vụ án hình sự.

- ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có ý nghĩa tham khảo cho các cơ quan có thẩm

quyền nói chung và cho ngành Kiểm sát nói riêng trong hoàn thiện pháp luật hình sự, tố

tụng hình sự cũng như đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của ngành Kiểm sát

đối với công tác này - góp phần làm tài liệu cho nghiên cứu, giảng dạy của các cơ sở đào

tạo của ngành luật.

8. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3

chương, 8 tiết.

Chương 1

cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên viện kiểm sát

nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự

1.1. khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của kiểm sát

viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình

sự

1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố

Quyền công tố trong quá trình tồn tại cùng chiều dài lịch sử, cho đến ngày nay vẫn

còn đang có nhiều quan điểm khác nhau. Tuy vậy, tựu chung lại chúng tôi thấy một số

quan điểm cơ bản, trước khi đưa ra khái niệm quyền công tố.

Quan điểm cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển khoa học pháp lý.

Khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con người được đề cao, đòi hỏi cần có một cơ

quan Nhà nước đứng ra bảo vệ quyền xét xử. Đại diện tư tưởng này phải kể tới F.

Fosthoft viết trong cuốn “Sự phát triển của các cơ quan tư pháp ở bang Bắc sông Ranh”

[16, tr.272].

Quan điểm thứ hai lại đưa ra quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội

dân chủ, nhằm bảo vệ các quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia quá trình tố

tụng tại phiên toà và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (điều này cho thấy,

quyền công tố có thể nằm trong cơ cấu của tối cao pháp viện). Cơ quan công tố là “mối liên lạc

giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm

phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật” [17, tr.169, 182-1990, 285-

300]. Trong cuốn sách này, Hessische và cộng sự đã định nghĩa quyền công tố là một loại

quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì

phải có một cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng “chống” lại quyền xét xử

nhằm bảo vệ các đạo luật và các thể nhân bị toà xét xử. Đó là quyền công tố.

Quan điểm thứ ba: Sau khi chế độ phong kiến tan rã, con người đã tách toà án ra

khỏi hệ thống các cơ quan hành pháp, cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật thì

lịch sử công tố mới xuất hiện. Tuy quyền công tố không xuất hiện cùng với Nhà nước

nhưng lịch sử của nó gắn liền với quá trình phát triển của Nhà nước và sự phân chia

quyền lực trong bộ máy Nhà nước, gắn với sự phát triển và văn minh của pháp luật. Còn

trước đó việc xét xử do các quan chức hành chính kiêm nhiệm và họ đại diện cho nhà vua

để xét xử, chứ không đại diện cho công quyền. Theo tác giả Vũ Mộc viết: Quyền công tố

là người đại diện cho Nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự

pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử (ra toà án). Quyền công tố không xuất hiện cùng với

Nhà nước mà nó chỉ xuất hiện cùng toà án với tư cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp

và độc lập [19, tr.118 - 119].

Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất

của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố

tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện

[28, tr.86].

Qua những quan điểm trên, tựu chung chúng tôi thấy ba quan điểm đầu các tác giả

đều dựa trên cơ sở chung khi xác định sự xuất hiện quyền công tố, gắn quyền công tố với

vấn đề dân chủ. Theo quan điểm này ta thấy quyền công tố là kết quả trực tiếp và tất yếu

của quá trình vận động xã hội ở thời điểm xuất hiện dân chủ với nghĩa là một thể chế. Từ

những kinh nghiệm thực tế và kết quả của sự tổng kết những lý thuyết chung cho thấy sự

xuất hiện của quyền công tố chưa có sức thuyết phục bởi tính thiếu căn cứ. Từ thực tế khi

nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện

quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế,

phi dân chủ, thực hiện sự chia quyền lực trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Tuy vậy, chúng

ta cũng không nên đồng nhất giữa sự ra đời cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công

tố (là một bộ phận thuộc cơ cấu bộ máy nhà nước) với sự ra đời của quyền công tố (khái

niệm pháp lý). Quan điểm thứ tư đã cho ta thấy quyền công tố luôn gắn với bản chất của

nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không thể tách rời của công quyền. Quan điểm

này coi quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước (nhân danh công quyền) thực hiện

việc buộc tội đối với những người đã thực hiện những hành vi phạm tội (theo quan điểm

của giai cấp thống trị xã hội). Như vậy, khi Nhà nước xuất hiện thì đồng thời cũng dẫn tới

sự ra đời của quyền công tố và Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý xã hội

nhằm đấu tranh với tội phạm theo quan điểm của giai cấp thống trị.

Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong

đó quy định tất cả các hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp nào

thống trị có được quyền lực Nhà nước đều hết sức quan tâm đến lĩnh vực pháp luật hình sự.

Bởi vì pháp luật hình sự là công cụ để chuyên chính giai cấp hữu hiệu nhất. Khi một hành

vi được coi là phạm tội được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa

một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này Nhà nước là

chủ thể sử dụng quyền của mình (quyền lực công) để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp

dụng hình phạt đối với người phạm tội. Người phạm tội là người bị truy cứu trách nhiệm

hình sự và gánh chịu những chế tài hình sự do Nhà nước quy định và áp dụng sự buộc tội

nhân danh Nhà nước được gọi là quyền công tố.

Quyền công tố là một khái niệm pháp lý gắn liền với bản chất của Nhà nước nó

xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, tồn tại khi còn Nhà nước và mất

đi khi không còn Nhà nước [26].

Khi nghiên cứu về khái niệm quyền công tố, chúng tôi thấy sự xuất hiện khái niệm

có mối liên hệ chặt chẽ với khái niệm quyền công tố, đó là tư tố. Cả hai khái niệm này

cùng xuất hiện, tồn tại và phát triển, có mối quan hệ mật thiết với nhau.

Trong quá trình tìm hiểu lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới cho chúng tôi

thấy, “công tố” và “tự tố” là khái niệm pháp lý xuất hiện rất sớm trong pháp luật của các

Nhà nước cổ đại. Tư tố là một chế định pháp lý thuộc loại cổ xưa nhất mà pháp luật cổ

đại cho phép người bị hại hoặc người thân thích của họ sử dụng để khởi kiện, khởi tố

chống lại người đã thực hiện những hành vi phạm tội xâm phạm tới các quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân. Quyền này của người bị hại (hoặc người thân thích của họ) được

gọi là “quyền tư tố”; người đứng ra khởi tố vụ án được gọi là “tư tố viên” và các vụ án

như thế này gọi là “án tư tố” [5, tr.171-179].

Những vụ án tư tố, các tư tố viên giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình

giải quyết vụ án. Họ không chỉ toàn quyền cung cấp các chứng cứ, thực hiện việc buộc

tội bị cáo trước tòa và đề nghị chế tài hình sự, bồi thường thiệt hại đối với người phạm tội

mà còn có thể kết thúc quá trình tố tụng bằng việc hòa giải (thỏa thuận) với người phạm

tội. Quyền tư tố do người bị hại trực tiếp thực hiện nhân danh cá nhân để bảo vệ của bản

thân trước tòa (hoặc có thể nhờ người khác thay mặt mình thực hiện quyền này).

Sự ra đời của chế định tư tố trong pháp luật xưa được xuất phát từ quan niệm của

mọi người cho rằng việc bảo vệ các quyền và lợi ích cá nhân bị người khác xâm hại là

việc riêng tư của từng người. Nhà nước không thấy cần thiết phải can thiệp vào những

việc đó. Còn nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế định đó là do sự phát triển yếu kém

của pháp luật và Nhà nước lúc bấy giờ. Trong điều kiện như vậy, quyền công tố chỉ được

sử dụng trong một phạm vi hẹp nhằm bảo vệ các lợi ích mang tính chất công cộng của

Nhà nước (của giai cấp thống trị và của các cộng đồng (xã hội). Do nhiều yếu tố nên tư tố

ngày càng bị thu hẹp. Điều này chúng ta cũng dễ hiểu vì: Khi người ta muốn thực hiện

một vụ án tư tố phải rất tốn kém về thời gian, tiền của, công sức cho quá trình thu thập

chứng cứ, đảm bảo sự có mặt của nhân chứng cho đến việc thực hiện việc buộc tội trước

Tòa án. Như thế, không phải ai cũng đủ điều kiện và khả năng làm việc trên, nếu thuê

luật sư thì rất tốn kém không phải ai cũng làm được. Mặt khác pháp luật lại cho hòa giải,

thỏa thuận với người phạm tội đã dẫn tới tình trạng nhiều vụ án nghiêm trọng (xét về trật

tự xã hội) không bị xét xử và trừng trị. Điều này làm cho pháp luật không nghiêm minh,

công bằng xã hội không được đảm bảo. Từ những nguyên nhân trên, dẫn đến Nhà nước

thấy cần thiết phải can thiệp và quá trình án tư tố trong những trường hợp người bị hại

không muốn thực hiện quyền tư tố, nhằm bảo đảm lợi ích công.

Như vậy, trong quá trình phát triển của xã hội cũng như của bộ máy Nhà nước và

pháp luật, cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp hình sự đã có những thay đổi căn bản.

Từ chỗ vận hành theo quyền tư tố là chủ yếu, tố tụng hình sự chuyển sang vận hành chủ

yếu dựa vào quyền công tố. Vai trò công tố càng trở nên quan trọng và đứng ra giải quyết

các vụ án hình sự ở hầu khắp các quốc gia như ngày nay. Như vậy, công tố viên vừa là

người đại diện cho công quyền (nhân danh Nhà nước), vừa thay mặt người bị hại đứng ra

buộc tội bị cáo, công tố viên hành động vì xã hội và bảo vệ không chỉ lợi ích của Nhà

nước, lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng, nhằm đảm bảo sự công bằng của xã

hội.

Trước những ưu việt trên, hầu hết các quốc gia trên thế giới, tư tố tồn tại song

song với công tố. Nhưng phạm vi và vai trò áp dụng của nó dần dần thu hẹp và chuyển

xuống hàng thứ hai sau công tố. Nội dung của quyền tư tố cũng dần dần bị thu hẹp và

thông thường chỉ bao gồm quyền yêu cầu khởi tố vụ án, cung cấp chứng cứ, yêu cầu bồi

thường thiệt hại và thực hiện buộc tội bị cáo trước Tòa án đối với bị cáo trong các vụ án

tư tố. Trong một số ít quốc gia theo hệ thống pháp luật lục địa, tư tố vẫn giữ vai trò quan

trọng trong việc giải quyết một số loại án tư tố. Tại các quốc gia này chỉ có người bị hại

mới có quyền khởi tố đối với các vụ án ít nghiêm trọng như tội vu khống, làm nhục người

khác, gây thương tích nhẹ hoặc gây thiệt hại không lớn về tài sản… Trong các vụ án này

các công tố viên được gọi là bên chính tố, người bị hại được gọi là bên phụ tố (người truy

tố phụ), thực hiện việc buộc tội bị cáo trước Tòa án hoàn toàn độc lập với công tố viên

(Bộ Tư pháp - đã dẫn).

Khái niệm quyền công tố được Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên

của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền

công tố” khi đề cập tới chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 138). Thuật ngữ này

lại được nhắc tới ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.

Như vậy, trong các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, bên cạnh khái niệm truyền

thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện “quyền công tố” và “thực hành

quyền công tố”. Từ đó đến nay đã có nhiều tài liệu giảng dạy, nhiều bài viết đăng trên các

tạp chí khoa học đề cập tới khái niệm này. Song cho tới nay, khi chúng ta đang trong quá

trình đẩy mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa đạt được sự thống nhất trong việc nhận thức

về vấn đề này. Từ năm 1960 đến nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau

về quyền công tố. Nhưng khái quát lại hiện có 7 quan điểm cơ bản. Trong luận văn này

chúng tôi không nhằm mục đích để tranh luận về các quan điểm cho nên các quan điểm

này chúng tôi sẽ dùng trong những đề tài tham luận sau. Trên mỗi quan điểm khác nhau

đều đưa ra những khái niệm khác nhau về quyền công tố. Mỗi quan điểm đều có những

hạt nhân hợp lý riêng của nó. Tuy vậy, xuất phát từ những căn cứ khoa học, các quy định

của pháp luật, thực tiễn hoạt động của cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và

hoạt động công tố ở các nước khác cho thấy những quan điểm trên đã bộc lộ một số vấn

đề cần phải nghiên cứu tiếp như:

- Có những quan điểm đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân

theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn tới tình trạng mở rộng phạm vi quyền công tố vượt

khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động,

hành chính.

- Những quan điểm coi quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện

chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đến việc xem nhẹ bản

chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền

lực công.

- Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện

kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra tòa và thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm.

Từ đó cho thấy, điểm hạn chế chung nhất của hầu hết các công trình nghiên cứu về

quyền công tố là không phân định rõ khái niệm, bản chất, nội dung, phạm vi của quyền

công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp

luật. Đa số các tác giả đều cho rằng hai chức năng của Viện kiểm sát (chức năng công tố

và chức kiểm sát việc tuân theo pháp luật) như pháp luật trước đây quy định vừa có tính

độc lập tương đối, vừa liên hệ chặt chẽ tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có

những nội dung hòa nhập vào nhau, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo nên sự

thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát.

Theo ý kiến chúng tôi, để làm rõ khái niệm quyền công tố, phải xuất phát từ lịch

sử Nhà nước và pháp luật thế giới nói chung cũng như lịch sử Nhà nước và pháp luật

Việt Nam nói riêng. Dù muốn hay không muốn chúng ta đều phải thừa nhận Nhà nước ra

đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội (xét về mọi phương diện).

Trong xã họi có giai cấp, bất kể xã hội nào, có nhiều loại quan hệ xã hội cùng tồn tại,

nhưng chung quy lại có hai nhóm quan hệ cơ bản, nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích

công cộng và nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích của từng công dân. Nhà nước nói

chung luôn bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội

chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội loại này. Điều này không

phải là vô lý khi các Nhà nước cổ đại và các Nhà nước tư sản hiện đại phân chia pháp

luật thành “công pháp” và “tư pháp”. Công pháp là pháp luật có liên quan đến lợi ích

chung của toàn xã hội còn tư pháp là luật pháp liên quan đến lợi ích của từng công dân.

Nhưng các luật gia Liên Xô và các Nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cho rằng

sự phân chia pháp luật thành công pháp và tư pháp chỉ có tính ước lệ về nguyên tắc

không thừa nhận nó với lập luận cho rằng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

cơ bản thì giữa lợi ích của từng cá nhân và lợi ích của Nhà nước không thể có sự đối lập

mà kết hợp hài hòa. Đồng thời, chính việc thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

đòi hỏi phải mở rộng can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ tư pháp. Mặc dù không

thừa nhận sự phân chia hệ thống pháp luật thành “công pháp” và “tư pháp”, nhưng khoa

học pháp lý của các nước xã hội chủ nghĩa đã phân chia hệ thống pháp luật thành các

ngành luật, trên cơ sở dựa vào tính chất của các quan hệ xã hội được quy phạm pháp luật

điều chỉnh như: Luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, tố tụng dân sự, hành chính, tố tụng

hành chính… Từ những lý thuyết trên, chúng tôi tán thành quan điểm cho rằng, quyền

công tố như bất kỳ quyền (hay nhóm quyền) nào của Viện kiểm sát luôn luôn phải được

xem xét trong mối liên hệ với tính đặc thù của lĩnh vực pháp luật cụ thể nào đó trong hoạt

động của Viện kiểm sát [20, tr.20].

Từ những vấn đề được đưa ra ở trên, chúng tôi cho rằng khái niệm quyền công tố

được thể hiện như sau:

Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách

nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà

nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát) để

phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để

làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách

nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định truy tố bị can

ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [26, tr.40].

1.1.2. Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự

1.1.2.1. Về tính chất của phúc thẩm các vụ án hình sự

Tính chất của phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là

việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Theo đó, phúc thẩm vụ án hình sự được coi là

một thủ tục tố tụng do luật định nhằm kiểm tra lại tính có căn cứ và tính hợp pháp của

bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.

Thông qua thủ tục phúc thẩm, Toà án cấp trên có nhiệm vụ sửa chữa những sai lầm trong

việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp dưới… Chính vì vậy, phần thứ tư của Bộ luật tố

tụng hình sự năm 1988 có tên gọi "Xét lại các bản án và quyết định chưa có hiệu lực

pháp luật theo thủ tục phúc thẩm".

Từ khi thực hiện đường lối cải cách tư pháp với các nội dung được nêu trong các

Nghị quyết của Đảng, hệ thống tư pháp Việt Nam đã có những chuyển đổi mạnh mẽ; nhất

là những vấn đề có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư

pháp trong tố tụng hình sự. Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Công hoà xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ tư đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, có hiệu

lực từ ngày 01/7/2004. Một trong những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

là chính thức ghi nhận nguyên tắc "Thực hiện chế độ hai cấp xét xử" tại Điều 20. Quy

định này khẳng định Toà án Việt Nam thực hiện chế độ hai cấp xét xử, phù hợp với thông

lệ chung trên thế giới và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam

đã tham gia ký kết.

Căn cứ để Toà án cấp phúc thẩm có thể mở phiên toà xét xử lại vụ án hoặc quyết

định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị. Nội dung kháng cáo và

quyết định kháng nghị là cơ sở để Toà án cấp phúc thẩm xác định phạm vi xét xử phúc

thẩm.

Thủ tục phúc thẩm là thủ tục xét xử lại những bản án, quyết định chưa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị (khác thủ tục giám đốc thẩm chỉ là xét lại bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật). Theo thủ tục phúc thẩm thì Toà án phải mở phiên

toà xét xử lại vụ án với sự tham gia đầy đủ thành phần như Kiểm sát viên, bị cáo, người

bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Khi đã có kháng cáo, kháng nghị theo

đúng trình tự luật định thì vụ án buộc phải đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Đảm bảo

chế độ hai cấp xét xử. Do đó, về tính chất xét xử phúc thẩm là việc Toà án xét xử lại bản

án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Việc xác định xét xử phúc thẩm là xét

xử cấp thư hai là một trong những nội dung rất quan trọng của Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003. Vì đây là căn cứ pháp lý để nhà làm luật quy định những vấn đề tiếp theo của

thủ tục này như: Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, nguyên tắc

hai cấp xét xử không có nghĩa là mọi vụ án hình sự đều phải thông qua xét xử sơ thẩm và

xét xử phúc thẩm mà xét xử phúc thẩm chỉ được tiến hành khi có kháng cáo, kháng nghị

bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án và quyết định sơ thẩm có hiệu lực

pháp luật khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không bị kháng cáo hay kháng nghị.

Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng

nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác

không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án, hoặc quyết định sơ thẩm. Khi xem xét các

phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm phải đảm bảo nguyên

tắc là chỉ được làm lợi cho bị cáo, không được quyết định bất lợi cho bị cáo hoặc thay đổi

bất lợi về quyền của các đương sự khác đã được Toà án cấp sơ thẩm quyết định. Trường

hợp xem xét thấy phần không bị kháng cáo kháng nghị có sai lầm nghiêm trọng thì phải

kiến nghị cấp giám đốc thẩm xem xét quyết định (Điều 241 Bộ luật tố tụng hình sự).

Như vậy, bản chất pháp lý của thủ tục phúc thẩm là thủ tục mà Toà án cấp trên xét xử

lại vụ án hoặc xét lại quyết định của Toà án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo

hoặc kháng nghị. Khi xét xử phúc thẩm Toà án cấp phúc thẩm có những quyền nhất định

như quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, nhất là biện pháp tạm giam.

Bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm. Sửa bản án, quyết

định sơ thẩm, huỷ bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại hoặc điều tra lại (Khoản

2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Xét xử phúc thẩm còn bảo đảm quyền lợi hợp

pháp của bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đồng thời đảm bảo

cho Viện kiểm sát thực hiện được nhiệm vụ, quyền hạn của mình do pháp luật quy định về

thực hành quyền công tố.

1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát - Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án

hình sự

a. Quyền kháng nghị phúc thẩm:

Khi thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, theo Bộ luật tố tụng

hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu

lực pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của Viện kiểm sát

nhân dân và chỉ Viện kiểm sát nhân dân mới có quyền kháng nghị.

Các quy định của pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát

nhân dân từ trước tới nay thấy rằng kháng nghị phúc thẩm là quyền riêng có của Viện

kiểm sát nhân dân. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Viện kiểm sát cùng cấp và

Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

Các Điều luật từ Điều 233 đến 240 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về thời

hạn, thủ tục kháng nghị phúc thẩm. Quy chế số 960 ngày 17/9/2007 về thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng

dẫn cụ thể về cách thức thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm. Đây là những căn cứ

pháp lý cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm của mình. Để

đảm bảo cho việc quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như bảo đảm cho việc xét xử

được đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm, Viện kiểm sát

có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại. Đây vừa là quyền,

vừa là trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân. Có thể nói, kháng nghị phúc thẩm là một

trong những biểu hiện rõ nhất quyền năng công tố của Viện kiểm sát. Khi có kháng nghị

phúc thẩm, Toà án cấp trên phải mở phiên toà xét xử phúc thẩm, thông qua đó khắc phục

những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp dưới. Mục

đích của kháng nghị phúc thẩm là nhằm khắc phục những vi phạm của bản án, quyết định

sơ thẩm, đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Toà án. Kháng

nghị khác kháng cáo ở chỗ người kháng cáo chỉ cần không đồng ý về một phần nào đó

của bản án, quyết định sơ thẩm là có thể thực hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát chỉ

thực hiện kháng nghị khi phát biện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật

có sai lầm trong đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố trong xét

xử phúc thẩm các vụ án hình sự theo luật định và theo sự phân công, phân cấp của Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Để nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền

công tố ở giai đoạn này Kiểm sát viên cần đảm bảo các yêu cầu sau đây:

Một là, thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm theo khoản 2, Điều 233 Bộ luật tố tụng

hình sự 2003 quy định Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã ra bản án, quyết định sơ

thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát cấp đó có quyền kháng nghị

đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Theo Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng các

cấp là người có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm. Điều 32 Quy chế 960/2007/VKSTC-

V3 về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự nêu cụ thể là: Viện

trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có quyền kháng nghị đối với

những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp

huyện; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng

nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của

Toà án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh. Đối với các Viện thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì theo Điều 32 của

Quy chế này: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho các Viện trưởng

Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại thành phố Hà Nội, thành

phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định

sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương theo khu vực được phân công. Kháng nghị phúc thẩm là thể hiện rõ nét nhất

quyền năng công tố của Viện kiểm sát. Thực hiện tốt việc kháng nghị phúc thẩm sẽ góp

phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát.

Hai là, căn cứ kháng nghị phúc thẩm Bộ luật tố tụng hình sự 1988 và 2003 chưa

quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm; có nghĩa là chưa có quy định cụ thể đối với một

bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm thì vi phạm như thế

nào, đến mức độ nào thì bị kháng nghị phúc thẩm. Tuy vậy, theo các Quy chế của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình

sự đã xác định các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm; Điều 32 Quy chế công tác kiểm sát

xét xử hình sự năm 1996 quy định các căn cứ kháng nghị phúc thẩm:

- Có những tình tiết qua cuộc điều tra và xét hỏi tại phiên toà không đầy đủ, chưa

rõ ràng.

- Kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với những tình tiết

khách quan của vụ án.

- Có những vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ luật hình sự.

- Có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự.

Theo Quy chế này, chưa quy định cụ thể vi phạm nghiêm trọng là như thế nào nên

cách hiểu khi áp dụng không thống nhất. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã xây

dựng Quy chế tạm thời về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự

năm 2004. Điều 33 Quy chế quy định:

- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.

- Kết luận của bản án, quyết định sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách

quan của vụ án.

- Có những vi phạm trong áp dụng Bộ luật hình sự.

- Có những vi phạm về thủ tục trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Sau thời gian thực hiện thấy quyết định nêu trên chưa đáp ứng yêu cầu của thực

tiễn. Nhiều kháng nghị bị cấp phúc thẩm bác hoặc rút. Do đó Quy chế năm 2007, theo

Điều 33 đã quy định các căn cứ:

- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ.

- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình

tiết khách quan của vụ án.

- Có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm

nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng.

Tóm lại, cả 3 Quy chế về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

hình sự đều đưa ra 4 căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Các căn cứ này về cơ bản giống

nhau, chỉ có điểm khác biệt là 2 Quy chế ban hành sau khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm

2003 xác định khi có vi phạm trong việc áp dụng Bộ luật hình sự là căn cứ để kháng nghị

phúc thẩm. còn Quy chế trước đó xác định là vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng Bộ

luật hình sự.

Hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cần thiết cho việc nâng cao hiệu

quả thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát các cấp trong đó có thực hành quyền

công tố trong xét xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên, quy định

nêu trên mới là của ngành Kiểm sát; nhiều trường hợp chưa có sự thống nhất giữa Toà án

và Viện kiểm sát trong nhận xét, đánh giá vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm; dẫn

đến có trường hợp Viện kiểm sát cho rằng có vi phạm nhưng Toà án lại cho rằng không

có vi phạm hay vi phạm không đáng kể. Do đó cần có quy định thống nhất trong Bộ luật

tố tụng hình sự.

Ba là, thời hạn kháng nghị phúc thẩm: Điều 234 và 239 Bộ luật tố tụng hình sự

quy định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Theo đó đối với Viện kiểm sát cùng cấp thì

thời hạn là 15 ngày, đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Toà án

sơ thẩm tuyên án. Kháng nghị đối với các quyết định của Toà án sơ thẩm của Viện kiểm

sát cùng cấp là 7 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày ra quyết

định.

Theo quy định tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà

án nhân dân tối cao thì thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là ngày tiếp theo của

ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hay quyết định. Thời

điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu là ngày nghỉ cuối

tuần hoặc nghỉ lễ thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp

theo ngày nghỉ đó.

Để đảm bảo cho việc kháng nghị của Viện kiểm sát (nhất là Viện kiểm sát cấp

trên) theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì quy định về việc gửi bản án (điều 229)

của Toà án cho Viện kiểm sát như sau: Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho Viện

kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án. Như vậy Viện kiểm sát

cùng cấp có thể chỉ còn có 5 ngày nghiên cứu để kháng nghị phúc thẩm. Đối với Viện

kiểm sát cấp trên thì Bộ luật tố tụng hình sự không quy định Toà án cấp sơ thẩm phải gửi

bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Do đó, việc kháng nghị phúc thẩm của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao đối với án sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh gặp rất nhiều khó khăn

và thiếu tính khả thi. Trước mắt để khắc phục khó khăn này, theo Quy chế 960/KSXXHS

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định Viện kiểm sát cùng cấp nhận được án văn

phải sao gửi ngay cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để xem xét kháng nghị phúc thẩm

theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Bốn là, việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị theo quy định của Điều 238 Bộ luật

tố tụng hình sự: trước khi bắt đầu hoặc tại phiên toà, Viện kiểm sát có quyền bổ sung,

thay đổi kháng nghị nhưng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo; rút một phần hay toàn

bộ kháng nghị. Quy định này tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cân nhắc để có

được bản kháng nghị đúng pháp luật, có chất lượng. Vì vậy, mặc dù Viện kiểm sát đã có

kháng nghị, nhưng trong thời gian chờ mở phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát vẫn có

quyền xét xét hoàn thiện bản kháng nghị của mình.

Chú ý, nếu bổ sung, thay đổi kháng nghị cần phân biệt các trường hợp: Nếu thay

đổi một phần hay toàn bộ kháng nghị được thực hiện trong thời gian mà thời hạn kháng

nghị vẫn còn thì có thể bổ sung, thay đổi theo cả hai hướng: Có lợi hoặc không có lợi cho

bị cáo. Kể cả trường hợp đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị, sau đó lại kháng nghị

lại thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp đã hết tời hạn kháng

nghị phúc thẩm thì Viện kiểm sát chỉ được bổ sung, thay đổi kháng nghị theo hướng

không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Vì nếu thay đổi theo hướng không có lợi cho bị

cáo thì thời hạn kháng nghị đã hết thì bị cáo không thể hoặc khó khăn cho việc thực hiện

quyền bào chữa của mình, đồng thời quy định này cũng nhằm đảm bảo quyền, lợi ích của

bị cáo.

Năm là, sự phối hợp giữa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện

kiểm sát cấp dưới trong bảo vệ, rút kháng nghị.

Theo thống kê một số năm cho thấy số bị cáo bị kháng nghị phúc thẩm, khi xét xử

Viện kiểm sát nhân dân cấp trên rút kháng nghị khoảng 20%; Toà án cấp phúc thẩm bác

kháng nghị khoảng 30%. Tổng cộng kháng nghị phúc thẩm bị rút và bác kháng nghị

khoảng 50%. Đây là hạn chế của công tác kháng nghị phúc thẩm. Chính là hạn chế của

việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Hạn chế này có nhiều nguyên

nhân, trong đó có nguyên nhân về sự phối hợp của Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm

sát cấp dưới trong công tác kháng nghị phúc thẩm [35].

Khi có kháng nghị của Viện kiểm sát tức là có sự khác biệt giữa đánh giá và nhận

định hoặc áp dụng pháp luật của Hội đồng xét xử sơ thẩm với Viện kiểm sát về toàn bộ

hay một phần cáo trạng của Viện kiểm sát. Vấn đề đặt ra trong kháng nghị và xét xử phúc

thẩm hình sự là Viện kiểm sát cấp dưới kháng nghị (thông thường) nhưng bảo vệ kháng

nghị lại là Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Do đó, để có được quyết định đúng pháp luật

thì giữa Viện kiểm sát cấp trên và Viện kiểm sát cấp dưới phải có sự phối hợp chặt chẽ.

Sau khi kháng nghị, Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo Viện kiểm sát cấp trên. Cụ thể

đối với các kháng nghị mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương, sau khi kháng nghị Viện kiểm sát tỉnh phải báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố

ở cấp phúc thẩm phải là người trực tiếp nghiên cứu các kháng nghị và nắm bắt các thông

tin mà Viện kiểm sát cấp tỉnh báo cáo. Trên cơ sở đó có thể bổ sung những căn cứ để bảo

vệ quan điểm kháng nghị hoặc bổ sung, rút kháng nghị nếu thấy có căn cứ. Viện kiểm sát

cấp trên có thể đề nghị Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm bổ sung, rút kháng nghị

hoặc tự mình quyết định kháng nghị bổ sung, rút kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới.

b. Thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm

Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trước

hết thể hiện là sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên toà. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì

phiên toà không thể xét xử. Những người tham gia tố tụng khác được triệu tập theo quy

định của pháp luật đó là quyền và nghĩa vụ của họ có liên quan đến kháng cáo, kháng

nghị.

Khi thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm, đòi hỏi Kiểm sát viên phải

tiến hành những hoạt động:

Trước hết Kiểm sát viên phải chuẩn bị và chủ động xét hỏi những tình tiết của vụ

án có liên quan đến kháng cáo kháng nghị. Nhất là đối với kháng nghị của Viện kiểm sát,

vì bảo vệ thành công kháng nghị chính là thể hiện rõ nét chất lượng quyền công tố của

Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Thông qua kết quả xét hỏi tại phiên toà, Kiểm sát

viên bổ sung vào bài phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên toà khi đề xuất giải

quyết vụ án.

Kiểm sát viên tiến hành kết luận vụ án và trực tiếp tranh luận với người bào chữa,

bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự… tại phiên toà bảo đảm nguyên tắc dân chủ và bình

đẳng. Kiểm sát viên phải tranh luận với các ý kiến phản biện, bào chữa của những người

tham gia tố tụng. Tuy nhiên không tranh luận trùng lặp, Chủ toạ phiên toà phải tạo điều

kiện và bảo đảm cho việc tranh tụng được bình đẳng, dân chủ trước toà.

Với tư tưởng chỉ đạo về cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW và

đã thể chế hoá trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong đó xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ,

quyền hạn của Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố nói chung, thực hành quyền

công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng. Điểm nhấn chính là việc thực hiện

nguyên tắc tranh tụng; theo đó, Viện kiểm sát với tư cách là một bên đại diện cho Nhà

nước thực hiện chức năng buộc tội. Đồng thời thực hiện việc gỡ tội và làm rõ các chứng

cứ, tình tiết của vụ án có lợi cho bị cáo và bảo đảm quyền, nghĩa vụ cho những người

tham gia tố tụng phúc thẩm.

Thực hiện quyền công tố trong xét xử phúc thẩm hình sự mà mục đích chung là

đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan

người vô tội. Theo quy định của Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và việc triển

khai thực hiện Điều 170 này đến tháng 6/2009 tất cả các Toà án cấp huyện, Toà án Quân

sự cấp tỉnh, quân đoàn… đã được tăng thẩm quyền xét xử với mức hình phạt bị truy tố tới

15 năm tù. Với thực tế này, án sơ thẩm của cấp tỉnh xét xử sẽ giảm đáng kể. Do đó án

phúc thẩm mà Toà án nhân dân tối cao phải xét xử do có kháng cáo kháng nghị cũng sẽ

giảm nhiều. Vấn đề đặt ra cho Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi tham gia

xét xử phúc thẩm là phải nâng cao hơn nữa chất lượng thực hành quyền công tố; tăng

cường cả chất lượng và số lượng các kháng nghị phúc thẩm, khi tham gia phiên toà phải

đảm bảo thực sự chất lượng. Nhất là việc bảo đảm cho kháng nghị của Viện kiểm sát

phải được xem xét, kiểm tra, tổ chức, giải quyết tại phiên toà có hiệu quả nhất.

c. Những vấn đề cần hoàn thiện trong các chế định của thủ tục xét xử phúc thẩm:

- Về quyền kháng cáo kháng nghị:

+ Kháng cáo:

Quyền kháng cáo quy định cho nhiều người tham gia tố tụng khác nhau, đồng thời

phạm vi kháng cáo của những người có quyền kháng cáo cũng được quy định khác nhau,

tuỳ thuộc vào vai trò, tư cách tham gia tố tụng của họ và sự liên quan của bản án, quyết

định sơ thẩm đối với quyền lợi ích hợp pháp của những người này.

Theo quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì: bị cáo , người bị

hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo về tất cả những vấn đề trong bản

án sơ thẩm như: tội danh, hình phạt (bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung),

các biện pháp tư pháp; mức bồi thường thiệt hại, án phí, các quyết định về xử lý tài sản,

vật chứng v. v…đối với quyết định sơ thẩm: bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp

pháp của họ chỉ được kháng cáo hai loại quyết định là quyết định đình chỉ hoặc tạm đình

chỉ vụ án. Về nguyên tắc, khác với quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước

chỉ quy định cho phép người bị hại kháng cáo phần trách nhiệm dân sự; luật tố tụng hình

sự Việt Nam cho phép người bị hại và đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo theo

hướng tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự của bị cáo.

Đối với nguyên đơn dân sự và bị đơn dân, do quyền và lợi ích của họ chỉ liên quan

đến phần bồi thường thiệt hại trong bản án, quyết định sơ thẩm hình sự nên luật tố tụng

hình sự quy định họ và đại diện hợp pháp của họ chỉ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm

liên quan đến bồi thường thiệt hại như mức bồi thường, phương thức, thời hạn, các biện

pháp đảm bảo việc bồi thường, án phí dân sự… Tương tự như vậy, những người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ chỉ có quyền

kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự đó,

mà thông thường là các quyết định liên quan đến việc xử lý tài sản.

Đối với những người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần;

nhất là đối với người chưa thành niên không có người bảo vệ quyền lợi cho họ do mồ côi

cha mẹ, không nơi nương tựa, lang thang cơ nhỡ… cần có quy định trong Bộ luật tố tụng

hình sự về chủ thể có quyền kháng cáo phúc thẩm trong giới hạn phạm vi nhất định nhằm

bảo vệ cho quyền lợi của một số đối tượng nêu trên như các tổ chức: Đoàn thanh niên

cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ v.v…

- Kháng nghị phúc thẩm:

+ Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm:

Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định cụ thể là Viện kiểm sát kháng nghị bản án,

quyết định sơ thẩm khi phát hiện thấy có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật như: Bản

án xử không đúng tội danh; mức hình phạt quá nhẹ hoặc quá nặng; cho hưởng án treo hay

áp dụng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng với quy định

của Bộ luật hình sự, quyết định mức bồi thường không thoả đáng, quyết định xử lý tài sản

để đảm bảo thi hành án không chính xác v.v… có vi phạm thủ tục tố tụng hình sự như:

Thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự. Không triệu

tập nhân chứng quan trọng mà thiếu người đó sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án một

cách đúng đắn đến chứng minh làm rõ sự thật vụ án; không có người bào chữa trong những

trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; việc xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc

không đầy đủ; kết luận của bản án, quyết định của cấp sơ thẩm không phù hợp với các

tình tiết khách quan của vụ án.

+ Về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm:

Để tăng cường chất lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân và

phù hợp với chủ trương cải cách tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp theo tinh thần

cải cách tư pháp. Việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định Viện kiểm sát cấp

huyện, quận (hay khu vực) có quyền kháng nghị phúc thẩm – Viện kiểm sát ngang cấp

với Toà phúc thẩm khi Toà phúc thẩm xét xử lại các vụ án sơ thẩm có quyền kháng nghị

phúc thẩm các vụ án này. Viện kiểm sát cấp trên của cấp Toà xét xử sơ thẩm (có thể là

Toà phúc thẩm hay Toà thượng thẩm) có quyền kháng nghị phúc thẩm bản án sơ thẩm

của Toà án cấp khu vực, quận, huyện hay Toà phúc thẩm.

- Về thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm.

+ Thẩm quyền sửa án sơ thẩm:

Về nguyên tắc, Toà án cấp phúc thẩm không được làm xấu đi tình trạng của bị

cáo; tuy nhiên Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án, quyết định sơ thẩm theo

hướng bất lợi cho bị cáo trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị, người bị hại kháng

cáo theo hướng tăng hình phạt và tăng bồi thường… đối với bị cáo. Tuy nhiên trên thực

tế vấn đề này vẫn còn vướng mắc như trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị tăng mức

hình phạt, nhưng khi xét xử phúc thẩm – Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để

xác định bị cáo về tội danh khác nặng hơn tội danh mà Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử thì

có trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm cho rằng do có kháng nghị theo hướng tăng

nặng nên đã áp dụng điều, khoản nặng hơn để xử phạt bị cáo; cũng có Hội đồng xét xử

phúc thẩm lại tuyên huỷ án để giải quyết lại từ giai đoạn điều tra; có trường hợp Toà án

cấp phúc thẩm giữ nguyên án sơ thẩm và kiến nghị giám đốc thẩm. Có thể thấy rằng toà

án cấp phúc thẩm tuyên phạt theo tội danh nặng hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát

truy tố và Toà án cấp sơ thẩm áp dụng là không phù hợp với Điều 196 Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003 về giới hạn của việc xét xử; còn huỷ án để điều tra lại thì Bộ luật tố

tụng hình sự hiện tại không quy định huỷ án trong trường hợp này. Trường hợp giữ y các

quyết định của án sơ thẩm và kiến nghị giám đốc thẩm để thực hiện thủ tục tố tụng phá

án thì vụ án kéo dài, ít hiệu quả về giáo dục phòng ngừa cũng như hiệu quả kinh tế kém.

Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự cần quy định cụ thể trường hợp có kháng cáo, kháng nghị

theo hướng tăng nặng nếu có căn cứ để xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện

kiểm sát truy tố, Toà sơ thẩm đã quyết định, Toà án cấp phúc thẩm được quyền tuyên huỷ

án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án từ giai đoạn điều tra.

Trường hợp Toà án cấp phúc thẩm thấy không có căn cứ để chứng minh bị cáo có

tội thì hiện tại có Hội đồng xét xử tuyên ngay bị cáo không phạm tội, nhưng cũng có Hội

đồng xét xử lại tuyên huỷ án để điều tra lại làm cho việc áp dụng pháp luật không thống

nhất. Nguyên nhân do pháp luật tố tụng hình sự còn chưa quy định rõ ràng. Do vậy để

hoàn thiện chế định này, cần quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Nếu Toà án cấp

phúc thẩm cho rằng không đủ căn cứ để chứng minh bị cáo phạm tội thì Toà án cấp phúc

thẩm phải tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ án.

+ Thẩm quyền huỷ án sơ thẩm:

Theo quy định tại Điều 250 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Toà án phúc thẩm

có quyền huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không

đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Huỷ án sơ thẩm để xét xử lại khi Hội

đồng xét xử không đúng luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng hoặc

khi người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên không phạm tội nhưng có căn cứ cho rằng

người đó đã phạm tội. Quy định như vậy là tương đối đầy đủ nhưng cần có thêm bổ sung

để hoàn thiện hơn nữa thẩm quyền này; tránh việc áp dụng pháp luật không thống nhất.

Ví dụ trường hợp để lọt tội phạm không truy tố thì có Hội đồng xét xử cho rằng do việc

điều tra không đầy đủ nên huỷ án sơ thẩm để điều tra lại; có Hội đồng xét xử phúc thẩm

cho rằng trường hợp này cấp phúc thẩm không có quyền huỷ án sơ thẩm vì án sơ thẩm

xét xử theo cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát đúng giới hạn và không có vi phạm gì đối

với các bị cáo đã xét xử sơ thẩm.

Có trường hợp chỉ có một số bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt – số bị cáo

không kháng cáo đã được Toà án cấp sơ thẩm ra quyết định thi hành án. Nhưng Hội đồng

xét xử phúc thẩm thấy việc điều tra, xét xử sơ thẩm không đầy đủ và lẽ ra nếu điều tra

đầy đủ thì bị cáo có thể bị truy tố với tội danh nặng hơn hoặc khung hình phạt cao hơn thì

có Hội đồng xét xử chỉ tuyên huỷ án sơ thẩm đối với số bị cáo kháng cáo để điều tra lại,

số bị cáo không kháng cáo án đã có hiệu lực pháp luật thì Toà án cấp phúc thẩm kiến

nghị giám đốc thẩm huỷ án để điều tra lại; có Hội đồng xét xử thì tuyên huỷ toàn bộ án sơ

thẩm để điều tra lại. Vì quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự không đầy đủ, rõ ràng nên

trong thực tiễn xét xử phúc thẩm còn nhiều lúng túng áp dụng pháp luật không thống

nhất; cần sửa đổi bổ sung.

- Về thẩm quyền xét xử phúc thẩm bút lục.

Thủ tục xét xử phúc thẩm bút lục không phải là thủ tục mới đối với các quốc gia

có nền tư pháp tiên tiến cũng như có những điểm tương đồng với truyền thống pháp luật

của Việt Nam. Thực chất thủ tục này được áp dụng khi vụ án có những tình tiết đáp ứng

một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, ví dụ ở Pháp,

Italy đều có thủ tục này dưới dạng khi xét xử phúc thẩm không cần triệu tập bị cáo đến

Toà án do bị cáo có đơn xin vắng mặt tại toà; bị cáo nhận tội ở cấp sơ thẩm và làm đơn

kháng cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt, giảm mức bồi thường. Ưu điểm của thủ tục này là

không cần triệu tập nhiều người ra phiên toà xét xử, đơn giản được các thủ tục tố tụng;

tiết kiệm và giảm chi phí của các cơ quan tiến hành tố tụng. Nhưng việc xét xử phúc

thẩm vẫn đảm bảo đúng pháp luật. Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự của nhà nước ta

chưa có quy định này vì quá trình xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự chưa được sự đồng

thuận cao. Hiện nay trong tiến trình cải cách tư pháp cần nhìn nhận vấn đề này vì thủ tục

này có nhiều ưu điểm song cũng có sự nhìn nhận nhược điểm của nó chưa khách quan:

coi thủ tục này như một dạng của thủ tục rút gọn, nhìn nhận sai lệch bản chất của thủ tục

xét xử phúc thẩm bút lục – coi việc xét xử dựa trên hồ sơ mà không có nhân chứng, bị

cáo sẽ làm mất đi tính khách quan của giai đoạn xét xử phúc thẩm. Do vậy cần bổ sung

Bộ luật tố tụng hình sự với nội dung:

Toà án cấp phúc thẩm chỉ xét xử theo thủ tục bút lục những vụ án hình sự khi có

những điều kiện sau:

Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng trừ các tội xâm phạm an ninh

quốc gia, tội phạm về ma tuý hoặc các tội phạm có yếu tố nước ngoài hoặc các vụ án có

tính chất phức tạp.

Chứng cứ rõ ràng, bị cáo nhận tội.

Bị hại không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.

Bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, giảm nhẹ trách nhiệm bồi thường.

Người tham gia phiên toà phúc thẩm theo thủ tục bút lục cần xác định: Việc xét xử

phúc thẩm theo thủ tục bút lục không cần thiết phải triệu tập bị cáo và những người tham

gia tố tụng khác đến phiên toà. Chỉ khi xét thấy cần thiết Toà án mới triệu tập bị cáo và

những người tham gia tố tụng khác. Trường hợp những người này vắng mặt thì Hội đồng

xét xử vẫn có thể tiến hành xét xử.

Về thủ tục xét xử phúc thẩm theo bút lục cần xác định: Sau khi Chủ tọa phiên toà

khai mạc phiên toà, một thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của án sơ

thẩm và nội dung kháng cáo. Tại phiên toà Kiểm sát viên đọc kết luận của Viện kiểm sát,

các thành viên hội đồng phát biểu ý kiến, sau đó nghị án và tuyên án. Trường hợp có triệu

tập bị cáo, người tham gia tố tụng khác, người bào chữa thì những người này trình bày ý

kiến trước khi Viện kiểm sát đọc kết luận.

1.2. Khái niệm tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng thực hành

quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao

1.2.1. Khái niệm chất lượng thực hành quyền công tố

Khái niệm chất lượng dùng để đánh giá định tính và định lượng của việc thực hiện

một công việc nào đó. Như Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như ý chủ biên coi chất

lượng "1. là cái làm nên phẩm chất, giá trị của con người, sự vật. 2. Cái tạo nên bản chất

của sự vật, làm cho sự vật này khác với sự vật khác, phân biệt với số lượng: tăng trưởng

số lượng đến mức nào thì làm thay đổi chất lượng" [43, tr.331]. Chất lượng khác với số

lượng song mối quan hệ lượng chất, số lượng ở mức độ nhất định có thể biến thành chất.

Công vụ mà kiểm sát viên thực hiện là thực hiện quyền công tố, chất lượng thực hiện

quyền công tố phải tính đến không chỉ trong một vụ án mà cả các vụ án mà công tố viên

thực hiện.

Chất lượng theo nghĩa rộng như Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa,

chất lượng là:

Phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó

là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất

lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài

qua các thuộc tính. Nó là cái liên kết các thuộc tính của sự vật lại làm một gắn

bó với sự vật như một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật và không tách khỏi sự vật,

sự vật trong khi vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự

thay đổi chất lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự

vật bao giờ cũng gắn liền với tính quy định về số lượng của nó và không thể tồn

tại ngoài tính quy định ấy. Mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất

lượng và số lượng [27, tr.419].

Với định nghĩa trên bằng phương pháp ngoại suy có thể thấy chất lượng thực hiện

quyền công tố luôn luôn có sự gắn kết của năng lực con người của kiểm sát viên với số

lượng bị cáo mà công tố viên luận tội; công việc ấy, con người ấy thực hiện trong thời

gian bao lâu, kết quả, hiệu quả như thế nào. Chất lượng còn phải tính đến hiệu quả công

việc ở mức độ đạt được so với chỉ tiêu đặt ra với chi phí thời gian, tiền của, sức lực bỏ

thấp nhất. "Thuộc tính" để nói lên chất lượng ở đây là hiệu quả có tính định tính, như việc

đánh giá kết quả điều tra. Sự đánh giá toàn diện, đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm;

chủ thể tội phạm có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự hay không; hành vi tội phạm

phải là hành vi trái với pháp luật hình sự không; và đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa

hành vi tội phạm và hậu quả; mức độ lỗi của chủ thể tội phạm và khách thể của tội phạm.

Sự đánh giá trên của Kiểm sát viên là hoạt động áp dụng pháp luật và phải được

kiểm chứng qua năng lực tranh tụng tại toà và sự phán xét cuối cùng của Hội đồng xét

xử. Chất lượng thực hành quyền công tố không chỉ được đánh giá qua một vụ án mà còn

phải được đánh giá cả quá trình công tác của họ, qua nhiều vụ án mà Kiểm sát viên được

giao thực hiện quyền công tố. Mục tiêu chung để so sánh đối chiếu nhằm xác định chất

lượng thực hành quyền công tố là: Hoạt động áp dụng pháp luật của kiểm sát viên nhằm

thực hành quyền công tố. Mục tiêu cụ thể thể hiện trong bản cáo trạng đối với các bị cáo

là: luận tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Không để oan người ngay, không bỏ lọt

tội phạm. Tội danh và mức hình phạt phải phù hợp với quy định của luật hình sự và luật

tố tụng hình sự. Với những trình bày trên có thể nêu khái niệm chất lượng thực hành

quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự nói chung và chất lượng thực hành quyền

công tố của Kiểm sát viên trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng như sau:

Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên trong xét xử các vụ án hình sự là

chỉ tiêu tổng hợp đánh giá mức độ áp dụng đúng đắn pháp luật tố tụng hình sự và luật

hình sự trong đánh giá kết quả điều tra, luận tội, bảo vệ ý kiến của mình trong tranh tụng

tại phiên toà xét xử theo pháp luật. Tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật.

1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nói chung là

tập trung tất cả các hoạt động về hình sự nhân danh nhà nước đều thực hiện một nhiệm

vụ chung nhất là thông qua các hoạt động cụ thể của mình theo luật định, đảm bảo cho

việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội một cách chính xác đúng pháp

luật – Mục đích là mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý

nghiêm minh; không bỏ lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội. Đảm bảo

pháp chế trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử hình sự. Để đạt được mục đích này,

Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được nhà nước giao cho trách nhiệm thực hành quyền

công tố, phải đảm bảo việc thu thập đầy đủ, đúng đắn các tài liệu, chứng cứ để xác định

theo pháp luật hình sự, truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội trước toà.

Chính vì vậy, sau khi Viện kiểm sát truy tố, Toà án đã đưa bị cáo ra xét xử và ra

bản án quyết định về các mặt: xác định tội phạm: có hay không có đủ các căn cứ kết tội

bị cáo và áp dụng pháp luật hình sự tuyên hình phạt đối với bị cáo hoặc tuyên bố bị cáo

không phạm tội theo truy tố của Viện kiểm sát nhân dân. Bất luận trường hợp Toà án sơ

thẩm quyết định trong bản án hình sự sơ thẩm như thế nào đối với bị cáo, với người bị

hại hay người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án… thì họ, luật sư của họ hay

người đại diện hợp pháp của họ cũng như Viện kiểm sát có quyền kháng cáo, kháng nghị

tất cả các quyết định của bản án sơ thẩm. Khi có kháng cáo kháng nghị thì hậu quả pháp

lý là Toà án cấp trên phải đưa ra xét xử lại vụ án theo nội dung của các kháng cáo, kháng

nghị. Trong thủ tục phúc thẩm, trách nhiệm chung của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân là tiến hành các hoạt động theo luật định nhằm đảm bảo trước hết là việc truy cứu

trách nhiệm hình sự đúng pháp luật đồng thời xem xét các tình tiết của vụ án để đề xuất

việc áp dụng pháp luật ở cấp phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp luật hình sự

bao gồm việc quyết định về tội phạm và hình phạt cũng như chính sách hình sự – phục vụ

nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng thời kỳ.

Tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự phải căn cứ vào mức

độ hoàn thành các nhiệm vụ và với mục tiêu của công tác giải quyết một vụ án hình sự.

Như thế có thể xác định các tiêu chí đánh giá sau đây:

Một là: Xem xét việc kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát. Theo đó, trước hết

là xem xét kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới

(Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương) còn gọi là xem xét kháng

nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Kiểm sát

viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, đối chiếu nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát cấp

dưới. Nếu thấy kháng nghị có căn cứ, đúng pháp luật thì phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu, chứng

cứ. Xây dựng lập luận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao bảo đảm cho kháng

nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới được chấp nhận tại phiên toà phúc

thẩm của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao.

Tiếp theo là Kiểm sát viên phải kiểm tra đầy đủ đối với các bản án hình sự sơ

thẩm của Toà án nhân dân cấp dưới xét xử sơ thẩm, phối hợp với các Viện kiểm sát nhân

dân địa phương và các thông tin khác: báo chí, dư luận nhân dân v.v… Trên cơ sở đó

phát hiện những bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm có vi phạm

pháp luật về hình sự, từ đó tham mưu với lãnh đạo đơn vị thực hiện việc kháng nghị phúc

thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh (gọi là kháng nghị trên một

cấp).

Hai là: Xem xét kháng cáo của bị cáo; bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên

quan đến vụ án… Kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ vụ án, trước hết theo nội dung

kháng cáo; đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đối chiếu với pháp luật

và quyết định của án sơ thẩm… từ đó xây dựng quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân

tối cao về xử lý vụ án theo kháng cáo của các đương sự: chấp nhận hay không chấp nhận

kháng cáo, chấp nhận một phần hay toàn bộ v.v… lý do của việc chấp nhận hay không

chấp nhận kháng cáo trên cơ sở pháp lý và chính sách về pháp luật của Nhà nước.

Ba là: Chuẩn bị các nội dung để tham gia phiên toà phúc thẩm cũng như tiến hành

việc thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm. Đây là hoạt động rất quan trọng

của Kiểm sát viên. Mọi việc trước đó như xem xét kháng cáo, kháng nghị hoặc tự mình

kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mới là bước mở

đầu. Tiến hành xét xử tại phiên toà phúc thẩm hình sự mới là khâu quyết định đến hiệu

quả việc thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Để đạt được chất lượng và hiệu quả của việc thực hành quyền công tố của Kiểm

sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Trước hết Kiểm sát viên phải có bước chuẩn bị thật chu

đáo, đầy đủ và có căn cứ pháp luật để bảo vệ, trước hết là các quyết định truy cứu trách

nhiệm hình sự của Viện kiểm sát cấp dưới cũng như kháng nghị của Viện kiểm sát đối

với vụ án và quan điểm xử lý với các kháng cáo của bị cáo, người tham gia tố tụng khác

theo luật.

Tại phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải chủ động tham gia xét hỏi, tranh

luận công khai, dân chủ với những ý kiến của bị cáo, người bào chữa v.v… về kháng

cáo, kháng nghị; chủ động lập luận, đưa ra quan điểm giải quyết kháng cáo, kháng

nghị đối với vụ án. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ chân lý, đảm bảo sự thật của vụ án

được xác định chính xác tại toà. Trên cơ sở đó đảm bảo một cách chắc chắn việc truy

tố của Viện kiểm sát nhân dân đối với bị cáo là đúng đắn. Đồng thời thông qua phiên

toà phúc thẩm cũng làm rõ và nếu có căn cứ người đó không phạm tội thì đề nghị Hội

đồng xét xử phúc thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội - đình chỉ vụ án. Hiện nay

toàn bộ hoạt động tư pháp của chúng ta đang rất nỗ lực để không xảy ra trường hợp

truy tố sau đó Toà án tuyên bị cáo không phạm tội; nơi nào để xảy ra việc Toà án

tuyên bị cáo không phạm tội thì bị coi là yếu kém, thiếu trách nhiệm v.v.. phải kiểm

điểm, xử lý cán bộ, đơn vị, phải bồi thường v.v… Tuy nhiên vấn đề này cần có nhận

thức lại cho đúng và phù hợp với tiêu chí xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa. Phải coi việc Toà án tuyên bị cáo không phạm tội càng nhiều thì chứng tỏ hoạt

động tư pháp càng khách quan, minh bạch và đáng khen ngợi. Đây cũng là tiêu chí

đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân tối cao mới thoả đáng.

Bốn là: Bảo vệ lời luận tội của công tố viên (Kiểm sát viên thực hiện quyền công tố)

trong giai đoạn tranh tụng tại phiên toà xét xử phúc thẩm hình sự.

Với tư cách là người buộc tội, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà xét

xử có trách nhiệm tranh tụng với người bị cáo, người bào chữa, luật sư của bị cáo và

người bị hại. Như vậy, Kiểm sát viên phải bảo vệ được các quan điểm, nêu ra được các lý

lẽ, căn cứ buộc tội; bác bỏ các lý lẽ gỡ tội không có căn cứ pháp lý. Tuy nhiên Kiểm sát

viên phải có đủ nhận thức về lời bào chữa của luật sư, khi ý kiến của họ là phù hợp với

pháp luật. Vì vậy phải chấp nhận những ý kiến đó để điều chỉnh lời buộc tội của mình,

nhất là tội danh, những tình tiết giảm nhẹ và nhân thân người phạm tội; và không phải vì

thế mà giảm chất lượng xét xử một vụ án hình sự.

1.2.3. Các yếu tố bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Yếu tố bảo đảm hay các điều cần và đủ cho hoạt động thực hành quyền công tố

được hiểu như nhau. Yếu tố bảo đảm là các điều kiện được xem là công cụ cho hoạt động

thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nói chung và thực hành quyền công tố của Kiểm

sát viên nói riêng. Đồng thời môi trường, hoàn cảnh, năng lực, trình độ của Kiểm sát

viên, của đội ngũ Kiểm sát viên, và mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Viện kiểm sát

cũng tạo nên những điều kiện bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố. Ngay cả

trong điều kiện số lượng Kiểm sát viên có hạn nhưng phải tham gia nhiều vụ án (số lượng

án phúc thẩm gia tăng) cũng ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện quyền công tố. Có thể

xác định các bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố sau đây:

Thứ nhất: Bảo đảm về chính trị.

Chính trị và pháp lý có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính trị trước hết là sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước. Đường lối, chủ trương của Đảng là cơ sở

nội dung quy định pháp luật. Chính sách hình sự của Đảng có vai trò quyết định trong lập

pháp hình sự và trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án

hình sự đặc biệt là các tội phạm kinh tế, chức vụ; tội phạm tham nhũng và các tội xâm

phạm an ninh quốc gia chính sách, quan điểm xử lý tội phạm là hết sức quan trọng. Đấu

tranh với tội phạm là hoạt động thực tế theo pháp luật nhưng phải dựa trên quyết tâm

chính trị của Đảng cầm quyền. Và trở thành ý chí quyết tâm và động cơ mạnh mẽ của các

cơ quan và người tiến hành tố tụng.

Trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm là của toàn dân song trước hết là của

cả hệ thống chính trị, các đoàn thể xã hội và vấn đề dân chủ hoá trong quá trình tố tụng…

Sao cho việc thực hiện quyền công tố không ở vào tình thế "đơn thương độc mã" hoặc

đấu tranh kiên quyết với tội phạm nhưng lại không được bảo vệ về những quyền lợi chính

trị của bản thân mình.

Thứ hai: Bảo đảm về mặt pháp lý.

Trong tổ chức hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân

dân, do nhân dân, vì nhân dân, điều kiện bắt buộc là phải theo pháp luật. Viện kiểm sát,

Kiểm sát viên chỉ được làm những gì mà pháp luật đã quy định. Đó là những quy định về

chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn trong thực hành quyền công tố. Các căn cứ

pháp lý về thực hành quyền công tố được quy định trong các luật. Đó là Bộ luật hình sự,

Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát, pháp lệnh kiểm sát viên và pháp luật

nói chung. Như vậy đòi hỏi pháp luật phải đầy đủ, ổn định và khả thi. Hiện nay ở nước ta

đang tiến hành cải cách nền tư pháp. Các luật nêu trên còn được sửa đổi bổ sung theo các

nội dung của cải cách nền tư pháp do Đảng vạch ra. Pháp luật sớm hoàn thiện sẽ là những

bảo đảm pháp lý vững chắc nhất cho việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố

nói riêng và chất lượng giải quyết các vụ án hình sự nói chung.

Đáng chú ý là cải cách bộ máy các cơ quan tư pháp sao cho việc tăng thẩm quyền

xét xử của các toà án cấp dưới để số lượng án phúc thẩm của Toà án tối cao giảm đi, theo

đó thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự sẽ có chất lượng

hiệu quả cao hơn.

Ba là: Bảo đảm về số lượng Kiểm sát viên và năng lực Kiểm sát viên. Để có

bảo đảm này, cần có một hệ thống cơ sở đào tạo Kiểm sát viên cùng với chương trình

nội dung đào tạo nghề Kiểm sát viên. Đồng thời có nội dung chương trình bồi dưỡng

kỹ năng nghiệp vụ công tác thực hành quyền công tố. Phải tăng cường giáo dục chính

trị, tư tưởng cho Kiểm sát viên. Làm cho họ nhận thức đúng đắn đường lối, quan điểm

của Đảng; nâng cao phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực tư duy biện chứng, phẩm

chất đạo đức nghề nghiệp… Có thể nói rằng, năng lực thực hiện quyền công tố của

đội ngũ Kiểm sát viên và của cá nhân Kiểm sát viên được cấu thành bởi các yếu tố về

phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh

nghề nghiệp.

Bốn là: Bảo đảm về tổ chức và sự hoàn thiện cơ chế phân công phối hợp giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, cơ quan công tố, cơ quan xét xử).

Về công tác tổ chức, V.I.Lênin đã nói đại ý: "cho tôi một tổ chức những người

cộng sản tôi sẽ làm đảo lộn nước Nga". Công tác tổ chức để giải quyết các vụ án hình sự

đối với các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và đối với cơ quan Viện kiểm sát thực

hành quyền công tố nói riêng là đặc biệt quan trọng và có tính tiên quyết, trong đó có

việc sử dụng con người, bố trí Kiểm sát viên đúng với năng lực của họ là yếu tố bảo đảm

cho họ hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hoạt động thực hiện quyền tư pháp hình sự ở nước ta, cơ quan điều tra, cơ quan

Viện kiểm sát và toà án cần có cơ chế phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ mới có

thể tạo ra những yếu tố cần thiết cho việc nâng cao chất lượng điều tra, chất lượng thực

hiện quyền công tố và chất lượng xét xử.

Năm là: ý thức pháp luật của công dân và vấn đề phát huy dân chủ trong quá

trình tố tụng.

ý thức pháp luật của cán bộ công chức và ý thức pháp luật của công dân cao thì sẽ

ít vi phạm pháp luật và tội phạm. Thậm chí hầu như là không có tội phạm. Nhưng đó chỉ

là không tưởng. Vấn đề tội phạm là hiện tượng của các chế độ chính trị - xã hội. Cho nên

việc nâng cao ý thức pháp luật là nhu cầu của xã hội và của cuộc đấu tranh phòng chống

tội phạm. Ngay cả những người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo cũng cần có nhận

thức pháp luật để tự bảo vệ quyền của mình. Việc phát huy dân chủ trong hoạt động tố

tụng hình sự là điều kiện cần thiết để bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và người bị hại.

Tăng cường tranh tụng trong hoạt động xét xử sẽ tạo ra "sức ép" đối với các cơ quan và

người tiến hành tố tụng. Để ngăn chặn những sự lạm dụng quyền lực, hoặc chủ quan duy

ý chí trong luận tội và trong việc ra các quyết định và bản án. Các bảo đảm này sẽ nâng

cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố.

Chương 2

Thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố

của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án

hình sự

ở Việt Nam từ 2003 đến nay

2.1. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng

nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

2.1.1. Tình hình thụ lý, xét xử phúc thẩm các vụ án có kháng cáo, kháng nghị

từ năm 2003 đến năm 2008 trong toàn quốc

a. Tình hình thụ lý và xét xử sơ thẩm án hình sự từ năm 2003 đến năm 2008:

Trong những năm qua, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Theo thống kê thì số vụ

án Toà án trong toàn quốc phải xét xử sơ thẩm hàng năm đều tăng. so sánh số vụ thụ lý

thì năm 2008 tăng khoảng 10.000 vụ so với năm 2003; theo đó số bị cáo năm 2008 tăng

khoảng trên 30.000 bị cáo so với năm 2003. Với số lượng như vậy, thấy rằng tình hình tội

phạm đưa ra xét xử sơ thẩm tăng cả về số lượng vụ án và số lượng bị cáo. Tuy nhiên, số

vụ án chỉ tăng khoảng 10.000 vụ nhưng số bị cáo tăng trên 30.000 bị cáo; cho thấy các vụ

án có nhiều người tham gia tăng đáng kể. Phản ảnh tình trạng các vụ án có nhiều đồng

phạm tăng lên, tính chất của tội phạm có tổ chức tăng, diễn biến của vụ án phức tạp hơn

và hậu quả của tội phạm gây ra cũng nặng nề hơn.

Số lượng án hình sự phải xét xử sơ thẩm tăng lên thì việc tiến hành xét xử và kết

quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự cũng được Toà án các cấp giải quyết tăng lên (xem

bảng 2.1).

b. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự sơ thẩm có kháng cáo,

kháng nghị trong toàn quốc từ năm 2003 đến năm 2008:

Mặc dù tình hình thụ lý và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trong toàn quốc từ

năm 2003 đến năm 2008 hàng năm đều tăng cả về số vụ và số bị cáo; song số án có

kháng cáo, kháng nghị phải thụ lý để xét xử phúc thẩm trong toàn quốc từ năm 2003 đến

năm 2008 có sự dao động không đáng kể. Hàng năm số án có kháng cáo, kháng nghị

trung bình từ 14 ngàn đến 15 ngàn vụ và từ 20 ngàn đến 23 ngàn bị cáo. Tổng số vụ án có

kháng cáo, kháng nghị chiếm 29% số vụ đã xét xử sơ thẩm (90.275 vụ/316.282 vụ =

29%) và 25% số bị cáo đã xét xử sơ thẩm (128.374 bị cáo/510.327 bị cáo = 25 %).

Riêng số án Viện kiểm sát kháng nghị chỉ chiếm 0,5% trong tổng số án có kháng

cáo, kháng nghị phải xét xử phúc thẩm (4462 vụ/90.275 vụ = 0,5%).

Kết quả xét xử phúc thẩm: Hàng năm Toà án phúc thẩm các cấp đã xét xử trung

bình đạt từ 80 đến 87% số vụ và số bị cáo có kháng cáo, kháng nghị. Trung bình tỷ lệ xét

xử phúc thẩm của 6 năm từ năm 2003 đến năm 2008 là 81% số vụ (73.201 vụ/ 90.275 vụ

= 81%), và 83% số bị cáo (106.228 bị cáo/128.374 bị cáo = 83%).

Bảng 2.1: Tình hình số án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm

trong toàn quốc

Số vụ/bị cáo Số vụ/bị cáo Số vụ/bị cáo Ghi Năm thụ lý xét xử sơ đã xét xử sơ có kháng cáo, chú thẩm thẩm kháng nghị

2003 55.554/85.460 47.912/71.916 14.662/20.428

2004 56.259/89.999 48.497/76.562 15.119/21.541

2005 57.032/92.877 48.828/77.752 13.868/19.715

2006 64.090/106.431 55.766/90.507 15.173/21.237

2007 65.128/111.071 56.541/94.291 15.974/23.274

2008 68.345/118.511 58.738/99/299 15.479/22.179

Tổng cộng 366.408/604.349 316.282/510.327 90.275/128.374

Nguồn: Thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân.

2.1.2. Tình hình án hình sự xét xử phúc thẩm do có kháng cáo và kháng nghị

ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2003 đến năm 2008

a. Chế độ và thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự:

Theo quy định tại Điều 20 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, việc xét xử các

vụ án hình sự vẫn đảm bảo và thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Theo đó, về thẩm quyền

xét xử phúc thẩm được quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm các vụ án hình

sự thuộc thẩm quyền của mình và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự do cấp quận, huyện

xét xử sơ thẩm nhưng có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát. Toà án nhân dân

tối cao không xét xử sơ thẩm; chỉ xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự do cấp tỉnh đã xét

xử sơ thẩm mà có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát.

Đối với bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi

phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm.

Trong tiến trình thực hiện chủ trương cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết

49/NQ-BCT của Bộ Chính trị xác định cải cách tư pháp lấy Toà án làm Trung tâm. Theo

đó có một số đề án được đưa ra xem xét về tổ chức bộ máy của Toà án và tổ chức xét xử

trong thời gian tới. Như mô hình Toà án khu vực (cho một số Toà án cấp huyện), Toà

thượng thẩm (chuyên xét xử phúc thẩm đối với án sơ thẩm cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng

nghị) Toà thượng thẩm không thuộc Toà án nhân dân tối cao. Đối với Toà án nhân dân

tối cao thì là cấp quản lý và giám đốc thẩm, tái thẩm v.v… Tuy các đề án đang được xây

dựng, có đề án đã trình Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương. Song chưa có đề án

nào được chấp nhận để trình Quốc hội xét, quyết định và tổ chức thực hiện. Đối với tổ

chức bộ máy, hoạt động của ngành Kiểm sát, sẽ tiến hành cải cách cho phù hợp với mô

hình Toà án trong xét xử các vụ án hình sự; đảm bảo quyền công tố của Nhà nước được

thực hiện đầy đủ và có hiệu quả.

b. Tình hình các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao thực hành quyền công tố đã xét xử ở cấp phúc thẩm:

+ Tình hình các vụ án hình sự có kháng cáo, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân

dân trong toàn quốc:

Trong những năm từ năm 2003 đến nay, số án hình sự có kháng cáo, kháng nghị

trong toàn quốc và số án đã xét xử phúc thẩm hàng năm không có sự chênh lệch, tăng giảm

lớn về số lượng tuyệt đối. Riêng số vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát vẫn còn hạn chế

so với tổng số án phúc thẩm phải xét xử.

Bảng 2.2: Số án có kháng cáo, kháng nghị toàn quốc

Trong đó Số án đã xét xử Số án có kháng cáo, Ghi Năm kháng nghị chú Vụ Bị cáo Kháng Kháng

cáo nghị

2003 14.662v/20.428b/c 13.691 971 12.338 17.419

2004 15.119/21.541 14.097 1.022 13.051 18.840

2005 13.868/19.715 12.947 11.139 16.449 921

2006 15.173/21.237 14.628 11.975 16.997 545

2007 15.974/23.274 15.429 12.652 18.763 545

2008 15.479/22.179 15.021 11.846 17.760 458

Cộng 90.275/128.374 85.813 4.462 73.201 106.228

5% 81% 82,7%

Nguồn: Thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân.

Theo số liệu thống kê hàng năm thì toàn quốc có khoảng từ 14 ngàn đến trên 15

ngàn vụ án có kháng cáo, kháng nghị; khoảng trên 19 ngàn đến 23 ngàn bị cáo có kháng

cáo, kháng nghị bản án quyết định sơ thẩm hình sự của Toà án cấp sơ thẩm. Các cơ quan

tiến hành tố tụng đã giải quyết (xét xử phúc thẩm) trung bình đạt 81% số vụ và 83% số bị

cáo.

+ Tình hình án có kháng cáo, kháng nghị ở cấp phúc thẩm tối cao.

Trong những năm qua, thực hiện chương trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết

08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị, Ban cải cách tư pháp Trung ương đã đề ra nhiều

biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử phúc thẩm ở cấp Trung ương. Trong

đó vấn đề nổi bật là đã được Quốc hội thể chế hoá Nghị quyết của Đảng vào pháp luật tố

tụng hình sự. Cụ thể là Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội khoá XI sửa

đổi theo hướng tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện được xét xử các vụ án có khung

hình phạt đến 15 năm (Bộ luật tố tụng hình sự năm 1985 Toà án cấp huyện được xét

xử các vụ án có khung hình phạt đến 7 năm). Tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp

huyện chính là chuyển một lượng lớn án của cấp tỉnh chuyển về cho cấp huyện xét xử.

Toà án cấp tỉnh chỉ xét xử các vụ án bị truy tố có khung hình phạt trên 15 năm. Do đó,

án sơ thẩm của cấp tỉnh giảm đáng kể và đương nhiên số lượng án cấp phúc thẩm tối

cao cũng giảm theo. Cụ thể là: Tổng số án thụ lý xét xử phúc thẩm năm 2004 là 7.700

vụ; năm 2005: 5.600 vụ; năm 2006: 5.500 vụ; năm 2007: 5.000 vụ; năm 2008: 3.500

vụ. Số lượng án phúc thẩm tối cao giảm dần cùng với lộ trình tăng thẩm quyền xét xử

cho Toà án cấp huyện. Kết quả là sau khi Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực pháp luật

và các ngành tư pháp Trung ương xây dựng, triển khai lộ trình tăng thẩm quyền xét xử

cho cấp huyện từ năm 2004 đến năm 2009 kết thúc việc thực hiện Điều 170 Bộ luật tố

tụng hình sự tăng thẩm quyền xét xử cho tất cả các Toà án cấp huyện thì án phúc thẩm

tối cao giảm 50% số vụ việc. Hiện tượng quá tải ở cấp xét xử Toà án nhân dân tối cao

được khắc phục triệt để, tạo điều kiện cho cấp tối cao nâng cao chất lượng xét xử các vụ

án hình sự cũng như nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2.2. Khái quát chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân

trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự

Như phần khái niệm đã nêu rõ: Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc

thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân chính là việc sử dụng đầy đủ, toàn diện các

quyền năng pháp lý nhân danh Nhà nước để thực hiện việc truy tố ra trước Toà án đối với

người phạm tội. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình

sự không phân biệt quyền năng pháp lý nhân danh Nhà nước trao cho Viện kiểm sát nhân

dân trong xét xử phúc thẩm thuộc cấp tỉnh hay cấp tối cao mà là ở hai cấp thì quyền năng

pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân được quy định chung. Theo đó, Viện kiểm sát nhân

dân có các quyền năng trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm như

sau:

Ngoài các quy định về quyền kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định của

Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm

của Toà án cấp trên. Viện kiểm sát nhân dân (đại diện thực hành quyền năng của Viện

kiểm sát nhân dân là các Kiểm sát viên) còn có những quyền năng nhằm đảm bảo việc

truy tố người phạm tội ở giai đoạn xét xử phúc thẩm: Nhằm đảm bảo việc truy tố đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan

người vô tội. Các quyền năng đó theo pháp luật tố tụng quy định và Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện những năm gần đây như sau:

2.2.1. Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao trong kháng nghị phúc thẩm

Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; trước hết thể hiện ở việc thực hiện các

nhiệm vụ trong công tác kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm

chưa có hiệu lực pháp luật. Xem xét đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong kháng nghị phúc thẩm, được thể hiện

ở hai nhiệm vụ chính: Đó là thực hành quyền công tố đối với các kháng nghị phúc thẩm

của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và thực hành

quyền công tố đối với việc kháng nghị phúc thẩm trên một cấp…. là kháng nghị phúc

thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án

cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với hai nhiệm vụ này được thể hiện như sau:

a. Thực hành quyền công tố đối với kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh

Số lượng án kháng nghị phúc thẩm của ngành kiểm sát nhìn chung vẫn chiếm tỷ lệ

rất thấp so với tổng số án cấp phúc thẩm thụ lý (gồm kháng cáo và kháng nghị). Theo số liệu của ngành kiểm sát1 thì hàng năm việc kháng nghị của Viện kiểm sát chỉ chiếm khoảng

5% số vụ án và bị cáo đã xét xử sơ thẩm và chiếm khoảng 15% số bị cáo đã được Toà án cấp

phúc thẩm cải sửa án sơ thẩm.

Năm 2003 và 2004 có khoảng 1.000 vụ được kháng nghị phúc thẩm thì năm 2007

đến năm 2008 chỉ có khoảng 450 đến 500 vụ được Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm.

Riêng kháng nghị phúc thẩm của các Viện kiểm sát địa phương đối với án sơ thẩm cấp

tỉnh, thành phố thuộc thẩm quyền thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân tối cao thì hàng năm chỉ trung bình từ 250 đến 320 vụ án.

Bảng 2.3: Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm

2004 2005 2006 2007 2008

VK VK VK VK VK

Chấ Chấ Chấ Châ Chấ S S S S S Đơn khá Đã p khá Đã p khá Đã p khá Đã p khá Đã p vị ng xử nhậ ng xử nhậ ng xử nhậ ng xử nhậ ng xử nhậ

ngh n ngh n ngh n ngh n ngh n

ị ị ị ị ị

Phú

c 150 147 117 88 88 77 77 40 79 78 33 73 71 thẩ

m 1

Phú

c

thẩ 93 91 73 73 61 37 75 57 40 62 50 33 59 44 25

m 2

Phú

c 207 178 130 162 146 77 142 119 67 136 120 55 121 108 49 thẩ

m 3

450 416 320 323 295 294 253 147 277 258 121 253 223

Nguồn: Thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm sát nhân dân.

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với các kháng nghị của Viện

kiểm sát cấp dưới; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm nhiệm vụ thực hành

quyền công tố phải đặc biệt chú ý đến một số điểm của kháng nghị:

- Kiểm tra tính có căn cứ của kháng nghị phúc thẩm: Trước hết kiểm tra về thủ

tục: Kháng nghị có đảm bảo các quy định về các căn cứ để kháng nghị phúc thẩm theo

quy định của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án

hình sự hay không (Điều 33, Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự

ban hành kèm theo quyết định 960 ngày 17/9/2007 xem trang: 12.

- Kiểm tra về thẩm quyền và thời hạn kháng nghị: Về thẩm quyền kháng nghị

phúc thẩm của quyết định kháng nghị có đảm bảo đúng theo quy định tại khoản 2, Điều

232 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 32 Quy chế số

960/2007/VKSTC-V3 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.

Đối với thời hạn kháng nghị, cần kiểm tra đối chiếu với các quy định tại Điều 234,

Điều 239 Bộ luật tố tụng hình sự.

Sau khi kiểm tra, Kiểm sát viên phải xác định được kháng nghị phúc thẩm đó có

đảm bảo các quy định của pháp luật về hình thức hay không. Đồng thời nghiên cứu nội

dung kháng nghị để chuẩn bị cho việc bảo vệ kháng nghị tại phiên toà phúc thẩm.

- Nghiên cứu vụ án và kiểm tra nội dung kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ kháng

nghị tại phiên toà. Đây là điểm mấu chốt, quan trọng nhất. Nếu qua nghiên cứu nội dung

vụ án, kiểm tra các căn cứ của kháng nghị phúc thẩm thấy kháng nghị không chính xác

thì kiên quyết thực hiện thẩm quyền của mình là rút kháng nghị phúc thẩm của cấp dưới

trước khi xét xử phúc thẩm. Nếu kháng nghị có căn cứ, phù hợp với chứng cứ, tài liệu

trong hồ sơ vụ án thì chuẩn bị đầy đủ các tài liệu và tiến hành các bước chuẩn bị tham gia

phiên toà, thực hành quyền công tố do Nhà nước trao cho để bảo vệ kháng nghị phúc

thẩm của cấp dưới. Chính là bảo vệ việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại

phiên toà nếu có chứng cứ, tình tiết mới mà nội dung kháng nghị là không cần thiết thì

Kiểm sát viên có thẩm quyền rút kháng nghị phúc thẩm tại phiên toà.

b. Thực hành quyền công tố đối với kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân

dân tối cao:

Thực tế, hiện nay các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân

dân tối cao kháng nghị phúc thẩm (kháng nghị trên 1 cấp) là rất ít; mỗi năm trung bình là

3 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm (tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh) chỉ

kháng nghị từ 10 đến 15 vụ thông qua số lượng kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao thấy rằng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao đối với việc kháng nghị phúc thẩm trên một cấp là chưa đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ nhất là trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay [4].

Sở dĩ có tình trạng trên là do: Thứ nhất pháp luật tố tụng hình sự chưa quy định

Toà án cấp dưới phải gửi bản án sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Toà án chỉ

phải gửi bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp, sau đó Viện kiểm sát cùng cấp sao gửi bản

án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (theo quy định của Quy chế thực hành quyền công

tố - xét xử hình sự) do đó hầu hết bản án khi đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao là rất

chậm không còn đủ thời gian để nghiên cứu, phát hiện vi phạm và kháng nghị phúc thẩm.

Thứ hai là do những khó khăn về công tác cán bộ, về lượng án phúc thẩm lớn nên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao mới chỉ tập trung giải quyết án có kháng cáo, kháng nghị của

địa phương, chưa tổ chức bộ phận chuyên trách nhằm quản lý, kiểm tra các bản án sơ

thẩm của cấp tỉnh để phát hiện vi phạm và kháng nghị phúc thẩm. Viện kiểm sát nhân

dân tối cao có kháng nghị được một số vụ, hầu hết là dựa vào báo cáo đề nghị của địa

phương, vào dư luận trên báo chí. Vấn đề quan trọng nhất là Viện kiểm sát nhân dân tối

cao chưa chú trọng đúng mức đối với công tác này. Các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm

thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới chỉ tập trung vào nâng cao chất lượng tham gia

xét xử các vụ án phúc thẩm. Việc tổ chức, quản lý, điều hành để kháng nghị phúc thẩm

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao hực sự là một công cụ đắc lực trong thực hành quyền

công tố của Viện kiểm sát ở cấp phúc thẩm các vụ án hình sự còn rất hạn chế. Vấn đề này

thể hiện ngay trong tổng kết công tác kháng nghị phúc thẩm 3 năm 2004-2006 và sơ kết 1

năm thực hiện Chỉ thị 03 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường

công tác kháng nghị phúc thẩm - việc sơ kết chỉ kiểm điểm đánh giá việc thực hiện kháng

nghị phúc thẩm đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện (thường được gọi

là tắm từ vai trở xuống).

c. Một số tồn tại đáng lưu ý của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao khi

thực hành quyền công tố với kháng nghị phúc thẩm:

- Về hình thức và nội dung kháng nghị: Mặc dù Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã

có ban hành mẫu kháng nghị phúc thẩm trong đó viện dẫn các Điều luật làm căn cứ

kháng nghị, nhưng nhiều kháng nghị của địa phương và cả kháng nghị phúc thẩm của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng không đảm bảo quy định. Ví dụ như tiêu đề: Theo

quy định là "kháng nghị phúc thẩm" nhưng nhiều kháng nghị lại ghi "quyết định kháng

nghị phúc thẩm". Căn cứ để kháng nghị phúc thẩm là Điều 36 + 232 Bộ luật tố tụng hình

sự nhưng nhiều kháng nghị lại thêm Điều 233. Cá biệt có kháng nghị phúc thẩm lại căn

cứ cả vào cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân …

Việc kháng nghị bổ sung theo quy định của Quy chế 960 thì chỉ cần ra quyết định

kháng nghị bổ sung nhưng nhiều địa phương lại ra kháng nghị phúc thẩm mới thay thế

kháng nghị trước đó. Đáng chú ý là đối với kháng nghị phúc thẩm của 3 Viện thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao được

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho kháng nghị phúc thẩm nhưng khi

ký kháng nghị phúc thẩm lại không đảm bảo quy định là ký thừa uỷ quyền. Dẫn đến kháng

nghị phúc thẩm không đúng thẩm quyền và bị bác kháng nghị vì sai luật.

- Về nội dung: Kháng nghị phúc thẩm chưa thực sự bám sát vào các căn cứ kháng

nghị phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Kháng nghị còn chung chung: Như án sơ

thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội; hình phạt với

bị cáo là chưa tương xứng… mức hình phạt là chưa thoả đáng mà không phân rõ cơ sở,

căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Do đó khi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

thực hành quyền công tố rất khó bảo vệ thành công các kháng nghị phúc thẩm như vậy.

Kháng nghị phúc thẩm đối với các trường hợp bị cáo được Toà án cấp sơ thẩm tuyên

không phạm tội: Phần đề nghị cấp phúc thẩm trong kháng nghị phúc thẩm chỉ có thể đề

nghị cấp phúc thẩm huỷ án để xét xử sơ thẩm lại nhưng có những kháng nghị lại đề nghị

cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội (trái quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 250 Bộ luật tố

tụng hình sự).

- Việc rút kháng nghị phúc thẩm: Việc rút kháng nghị tuy phần lớn do kháng nghị

phúc thẩm thiếu căn cứ hoặc phát sinh những tình tiết mới ở giai đoạn phúc thẩm; song

còn một số trường hợp rút kháng nghị phúc thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân tối cao chưa chính xác.

Theo thống kê hàng năm thì việc rút kháng nghị phúc thẩm của Kiểm sát viên cấp

trên với kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp dưới chiếm khoảng 25% số kháng

nghị. Tỷ lệ này có thể cao hơn vì nhiều trường hợp tuy thấy kháng nghị phúc thẩm của

Viện kiểm sát cấp dưới thiếu căn cứ nhưng Kiểm sát viên vẫn bảo vệ kháng nghị thì những

trường hợp này đều bị Toà án cấp phúc thẩm bác kháng nghị. Tuy nhiên có một số trường

hợp kháng nghị phúc thẩm về mặt đường lối: như do xử quá nhẹ, cho án treo không đúng, áp

dụng sai Điều khoản hoặc sai tội danh (thường trong các loại tội ghép trong 1 Điều luật)

kháng nghị phúc thẩm là có căn cứ nhưng lại rút kháng nghị không đúng.

Đối với các kháng nghị phúc thẩm tuy có căn cứ nhưng bị Toà án cấp phúc thẩm

bác kháng nghị. Theo quy định pháp luật thì Viện kiểm sát cấp phúc thẩm, Kiểm sát

viên… có quyền đề nghị giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật. Đồng

thời cũng chính là nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên do căn cứ để kháng nghị

giám đốc thẩm chặt chẽ và yêu cầu khác căn cứ kháng nghị phúc thẩm nên việc đề nghị

giám đốc thẩm còn bị hạn chế hoặc có đề nghị giám đốc thẩm nhưng hiệu quả không cao

vì giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt không phải là một cấp xét xử của Toà án. Tuy nhiên,

trong những năm qua, thực hiện cải cách tư pháp theo chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; Viện

kiểm sát đã báo cáo, đề xuất kháng nghị giám đốc thẩm hầu hết các vụ án mà cấp phúc

thẩm tuyên bị cáo không phạm tội; đồng thời được kháng nghị giám đốc thẩm trên 50%

và Toà án xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm chấp nhận huỷ án để giải quyết lại

theo hướng có tội.

2.2.2. Chuẩn bị tham gia phiên toà phúc thẩm

a. Nghiên cứu hồ sơ vụ án bị kháng cáo, kháng nghị:

Điều 36 Quy chế số 960/2007/QĐ-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố

và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự ngày 17/9/2007 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

quy định: Kiểm sát viên tham gia phiên toà xét xử phúc thẩm phải trực tiếp nghiên cứu

hồ sơ vụ án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên kiểm tra xem xét lý do yêu cầu

của kháng cáo, kháng nghị và thủ tục kháng cáo, kháng nghị; nghiên cứu kỹ tình tiết,

chứng cứ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị… Nếu thấy cần thiết thì xem xét các phần

khác không bị kháng cáo, kháng nghị để giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp

luật.

Như vậy, nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc thực hành quyền công tố tại phiên

toà phúc thẩm là quá trình nghiên cứu, thu thập các tài liệu, phân tích đánh giá và dự thảo

đề xuất quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc giải quyết yêu cầu kháng cáo,

kháng nghị. Thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên nắm vững các tình tiết của

vụ án, nội dung vụ án, nội dung kháng cáo, kháng nghị; nghiên cứu các chứng cứ, các

tình tiết có liên quan, các căn cứ của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Quan điểm của

Luật sư, các tài liệu chứng cứ được bổ sung ở giai đoạn phúc thẩm, dư luận của nhân dân,

báo chí sau phiên toà sơ thẩm… và chuẩn bị quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tại

phiên toà phúc thẩm; chuẩn bị đề cương xét hỏi cũng như kế hoạch tranh luận tại phiên

toà phúc thẩm. Tuy đây là bước chuẩn bị cho phiên toà phúc thẩm nhưng có ý nghĩa hết

sức quan trọng, có tính quyết định đến thành công trong thực hành quyền công tố tại

phiên toà phúc thẩm của Kiểm sát viên. Kiểm sát viên có nắm chắc hồ sơ vụ án, tình tiết

của hồ sơ vụ án, nắm vững các căn cứ pháp luật, nắm vững nội dung kháng cáo, kháng nghị

nhất là các ý kiến của bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng sau khi xét xử

sơ thẩm thì mới chủ động trong thực hành quyền công tô tại phiên toà phúc thẩm; đặc biệt là

trong tranh luận đối đáp với Luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm làm

sáng tỏ sự thật của vụ án…

b. Nghiên cứu các quy định của pháp luật:

Nghiên cứu các quy định của pháp luật là một trong những nội dung hết sức quan

trọng để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong việc áp dụng pháp luật của cấp sơ

thẩm. Các quy định của pháp luật là khá rộng, tuỳ theo từng vụ án chúng ta phải tìm hiểu,

nghiên cứu những quy định của pháp luật liên quan đến đối tượng cần nghiên cứu. Khi

nghiên cứu cần chú ý: Về phạm vi nghiên cứu: chỉ cần nghiên cứu các quy định của pháp

luật có liên quan trước hết đến kháng cáo, kháng nghị; trường hợp cần thiết thì nghiên

cứu toàn diện. Nghiên cứu về pháp luật tố tụng: Bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng

ngi ở phần thủ tục tố tụng nào thì tập trung nghiên cứu những quy định pháp luật tố tụng

ở phần đó. Nghiên cứu các quy định về hình sự: Kháng cáo, kháng nghị về quyết định

nào thì tập trung vào phần quyết định đó.

Bộ luật hình sự là căn cứ pháp luật chủ yếu khi giải quyết vụ án hình sự. Việc

nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự là việc làm thường xuyên của bất kỳ Kiểm

sát viên nào làm công tác giải quyết các vụ án hình sự. Khi nghiên cứu các Điều luật cần

nghiên cứu các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán,

Thông tư liên tịch. Khi nghiên cứu cần đối chiếu từng trường hợp với từng Điều luật cụ

thể. Khi nghiên cứu kháng cáo kêu oan thì mối quan tâm hàng đầu là hành vi đó có hội

đủ các yếu tố cấu thành cơ bản của tội đó hay không. Ngược lại với kháng cáo, kháng

nghị về tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vấn đề quan tâm lại là cấu thành tăng

nặng hay giảm nhẹ của tội phạm đó, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

được quy định trong Bộ luật hình sự (Điều 46 + 48) và các văn bản hướng dẫn thi hành

Điều 46 + 48 Bộ luật hình sự.

khi nghiên cứu cần chú ý nghiên cứu các văn bản quản lý Nhà nước có liên quan

đến vụ án. Trong thực tiễn có rất nhiều văn bản hướng dẫn; do đó tuỳ theo kháng cáo,

kháng nghị cụ thể mà nghiên cứu chọn lọc. Cấp phúc thẩm có thuận lợi căn bản là các

văn bản này thường đã được cấp sơ thẩm xem xét, áp dụng, đề cập đến trong các tài liệu

điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong các luận cứ bào chữa của Luật sư… Vấn đề là cấp sơ

thẩm đã áp dụng đúng hay chưa ? Chú ý những vấn đề có quan điểm trái ngược nhau ở

cấp sơ thẩm hay phát sinh khi tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm.

c. Chuẩn bị đề cương xét hỏi và dự kiến những tình huống đối đáp:

Điều 247 Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tại phiên toà phúc thẩm có quy định:

Phiên toà phúc thẩm cũng tiến hành như phiên toà sơ thẩm. Như vậy, việc xét hỏi tại

phiên toà phúc thẩm thực hiện theo trình tự chủ toạ và các thành viên Hội đồng xét xử hỏi

trước sau đó đến Kiểm sát viên. Để cho việc xét hỏi có trọng tâm, Kiểm sát viên phải xây

dựng đề cương xét hỏi cho phù hợp. Trên cơ sở nội dung kháng cáo, kháng nghị Kiểm sát

viên phải xác định đề cương xét hỏi, đề cương xét hỏi ngoài việc tập trung giải quyết nội

dung kháng cáo, kháng nghị còn cần dự kiến các tình huống có thể xảy ra khi xét xử phúc

thẩm. Nội dung đề cương xét hỏi cần tập trung làm rõ những mâu thuẫn của vụ án chưa được

giải quyết như lời khai còn mâu thuẫn, những tình tiết của vụ án còn mâu thuẫn mà phiên toà

sơ thẩm chưa làm rõ. Yêu cầu của việc xây dựng đề cương phải chặt chẽ, toàn diện về vụ án.

Song nếu kháng cáo, kháng nghị chỉ với nội dung tăng nặng hay giảm nhẹ án sơ thẩm thì chỉ

cần tập trung làm rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bồi thường…

Trường hợp bị cáo kháng cáo kêu oan thì yêu cầu của đề cương xét hỏi phải kỹ

lưỡng hơn. Vấn đề là làm rõ các chứng cứ buộc tội bị cáo. Đề cương xét hỏi phải chuẩn

bị cho từng đối tượng bị cáo, bị hại, nhân chứng… chọn cách hỏi cho phù hợp, câu hỏi

cần ngắn gọn dễ hiểu và không được đặt câu hỏi không liên quan đến vụ án, ngoài nội

dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu kháng cáo không có căn cứ thì cần đặt câu hỏi làm rõ

tính không có căn cứ của kháng cáo để bác kháng cáo và ngược lại.

Khi chuẩn bị đề cương xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm cần nghiên cứu kỹ từng đối

tượng về cả thân nhân, tính cách, mức độ tham gia vụ án… để dự kiến phương pháp hỏi:

Hỏi thẳng, hỏi vòng quanh hay cách hỏi thăm dò… hỏi vấn đề gì trước, sau cần có dự

kiến thì xét hỏi mới có hiệu quả, nhất là đối với trường hợp bị cáo ngoan cố. Cần chuẩn

bị sẵn các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn sơ thẩm hay điều tra bổ sung ở

cấp phúc thẩm để phục vụ cho việc chứng minh khi xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm.

Kiểm sát viên cần dự kiến những người cần được triệu tập ra phiên toà phúc thẩm để

phục vụ cho việc xét hỏi. Trong trường hợp cần thiết có thể trao đổi cùng Thẩm phán chủ

toạ phiên toà về trình tự xét hỏi các bị cáo, trường hợp cần cách ly để bảo đảm tính hiệu

quả trong xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm.

d. Xây dựng kế hoạch tranh luận tại phiên toà phúc thẩm:

Khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên cũng phải xây

dựng kế hoạch tranh luận như khi tham gia phiên toà sơ thẩm. Tranh luận ở phiên toà phúc

thẩm giống như tranh luận ở phiên toà sơ thẩm song có giới hạn hơn là chỉ trong phạm vi

kháng cáo, kháng nghị và chủ động hơn vì thông qua phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên cấp

phúc thẩm đã nắm bắt được quan điểm của Luật sư, người bào chữa cũng như những căn cứ,

lý lẽ mà người bào chữa, bị cáo… đã đưa ra. Do đó, Kiểm sát viên cần đọc kỹ hồ sơ nhất là

phần đối đáp tranh luận giữa Kiểm sát viên với người bào chữa, bị cáo tại phiên toà sơ thẩm; ý

kiến của bị cáo, Luật sư khi kháng cáo án sơ thẩm; từ đó dự kiến các luận cứ của người bào

chữa, của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm để bác bỏ các căn cứ, hoặc dẫn chứng các tình tiết

nào của vụ án để tranh luận tại phiên toà phúc thẩm.

đ. Chuẩn bị quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tại phiên toà phúc thẩm:

Điều 247 Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi tranh luận Kiểm sát viên phát biểu

quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Điều 40 của Quy chế số 960 ngày

17/9/2007 về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự quy định trước khi

tham gia phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải viết bản dự thảo quan điểm của Viện

kiểm sát về tính hợp pháp, tính có căn cứ của kháng cáo, kháng nghị; đưa ra quan điểm

giải quyết đối với bản án hoặc quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.

Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm là sự thể hiện tập trung nhất

kết quả của quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như qua thẩm vấn và diễn biến tại

phiên toà phúc thẩm. Bài phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên phải thể hiện đầy đủ và

xúc tích nhất các vấn đề mà kháng cáo, kháng nghị yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết.

Đây là sự khởi đầu quá trình tranh luận để làm rõ các vấn đề đưa ra trong kháng cáo,

kháng nghị và đồng thời cũng là quan điểm của Viện kiểm sát về hướng giải quyết vụ án

để Hội đồng xét xử xem xét quyết định. Sự thành công của Kiểm sát viên tại phiên toà

phụ thuộc rất lớn và chất lượng của bài phát biểu. Thực tiễn công tác giải quyết án ở cấp

phúc thẩm thấy không có một khuôn mẫu nào chung nhất cho việc chuẩn bị bài phát biểu

quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà. Vì mỗi vụ án là một vụ việc khác nhau đồng thời

xét xử phúc thẩm phụ thuộc và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, mặc dù bài phát

biểu tuy được chuẩn bị trước nhưng cần được bổ sung, sửa đổi thông qua diễn biến tại phiên

toà phúc thẩm.

2.2.3. Thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm của Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

a. Kiểm sát viên tham gia phiên toà phúc thẩm:

Điều 245 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự năm

1988) đều quy định thống nhất tại phiên toà phúc thẩm, phải có sự tham gia của Kiểm sát

viên Viện kiểm sát cùng cấp, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên toà. Với

quy định này khẳng định khi tiến hành xét xử phúc thẩm các vụ án, quyết định của Toà

án cấp phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát là bắt buộc, không có

ngoại lệ. Song điều lưu ý phải là Kiểm sát viên cùng cấp. Theo Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân năm 2002 thì Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân có 3 cấp đó là

Kiểm sát viên cấp huyện, Kiểm sát viên cấp tỉnh và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

tối cao. Với quy định này nếu vụ án được xét xử phúc thẩm ở cấp tỉnh thì chỉ có Kiểm sát

viên cấp tỉnh được tham gia, vụ án xét xử phúc thẩm ở Toà án tối cao thì Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao được tham gia. Tuy nhiên cũng hiểu rằng không thể Kiểm sát viên

cấp tỉnh thuộc tỉnh A có quyền tham gia phiên toà phúc thẩm ở tỉnh B. Trừ trường hợp Kiểm

sát viên ở tỉnh A (Kiểm sát viên Nguyễn Văn C) được điều động sang công tác tại tỉnh B.

Về số lượng Kiểm sát viên tham gia các phiên toà phúc thẩm. Để phù hợp và đảm

bảo việc thực hành quyền công tố ở tất cả các vụ án xét xử phúc thẩm đảm bảo được yêu

cầu nhiệm vụ. Điều 5 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành theo Quyết định đố 960 ngày 17/9/2007 quy

định: Đối với các vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì 02 Kiểm sát viên có thể

cùng tham gia phiên toà. Trong trường hợp cần thiết thì có thể có Kiểm sát viên dự

khuyết.

b. Bổ sung, xem xét chứng cứ tại Toà án cấp phúc thẩm:

Khoản 1, Điều 246 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: "Trước khi xét xử hoặc trong

khi xét hỏi tại phiên toà, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Toà án bổ

sung chứng cứ mới…".

Điều 38 Quy chế số 960/2007/QĐ-VKSTC về công tác thực hành quyền công tố

và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm

sát cấp tỉnh quyết định việc xác minh theo thủ tục phúc thẩm của cấp mình.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền cho Viện trưởng, Phó Viện

trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm quyết định việc xác

minh theo thủ tục phúc thẩm của cấp mình.

Kiểm sát viên có thể tự mình hoặc yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới điều tra xác

minh bổ sung những chứng cứ mới như: Hỏi cung bị cáo, lấy lời khai của người có liên

quan, tổ chức đối chất, xem xét lại hiện trường để làm rõ các tình tiết của vụ án trong thời

hạn xét xử phúc thẩm, việc xác minh phải được Kiểm sát viên ghi biên bản, trong trường

hợp cần thiết có thể ghi âm, chụp ảnh, ghi hình để lưu hồ sơ vụ án.

Trên thực tế cho thấy việc xác minh bổ sung chứng cứ ở cấp phúc thẩm là một trong

những nội dung cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng, nhằm bảo đảm cho việc xét xử vụ

án có căn cứ và đúng pháp luật. Những vấn đề cần xác minh bổ sung trước hết phải trên cơ

sở nghiên cứu tổng thể hồ sơ vụ án và đánh giá hệ thống các chứng cứ liên quan đến nội

dung kháng cáo, kháng nghị. Thông thường việc xác minh bổ sung thường sử dụng đối với

những vụ án có vấn đề phức tạp, có khiếu nại hoặc dấu hiệu oan sai hoặc cần xác minh bổ

sung một số vấn đề về nhân thân của bị cáo, bị hại, những vấn đề cần giám định bổ sung.

Về phạm vi xác minh của cấp phúc thẩm: Khoản 1, Điều 250 Bộ luật tố tụng hình

sự quy định: "Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi thấy việc điều

tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Như vậy,

việc xác minh ở cấp phúc thẩm của Viện kiểm sát chỉ tiến hành trong các trường hợp có

thể điều tra bổ sung được mà không cần trả hồ sơ điều tra bổ sung. Đây là những trường

hợp tự Kiểm sát viên tiến hành hoạt động điều tra, xác minh bổ sung (hoặc uỷ quyền cho

Viện kiểm sát cấp dưới). Ví dụ như thu thập các tài liệu liên quan đến lý lịch tư pháp,

nhân thân bị cáo, bị hại; các tài liệu liên quan đến việc khen thưởng, kỷ luật hoặc lấy lời

khai của bị cáo, nhân chứng, người bị hại… mà còn mâu thuẫn với nhau… các tình tiết

có ý nghĩa đến đánh giá chứng cứ buộc tội, gỡ tội, xác định tội danh, xác định hình

phạt… thì phải yêu cầu cấp sơ thẩm đến trả lại. Tóm lại, Kiểm sát viên chỉ điều tra xác

minh bổ sung ở cấp phúc thẩm trong các trường hợp có đủ điều kiện thực hiện.

c. Thực hành quyền công tố trong phần thủ tục tại phiên toà phúc thẩm:

Về phần thủ tục tại phiên toà phúc thẩm, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm chắc các

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; nắm chắc danh sách những người được triệu tập ra

phiên toà, chú ý xem xét còn thiếu ai không có mặt, việc vắng mặt của người đó có ảnh

hưởng tới việc xét xử hay không. Tức là có ảnh hưởng tới việc xem xét, đối chứng tại

phiên toà nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án đối với những nội dung kháng cáo, kháng

nghị mà Kiểm sát viên cần kết luận. Ví dụ vụ án Lã Thị Kim Oanh phạm tội Tham ô tài

sản. Khi xét xử phúc thẩm ông Nguyễn Công Tạn (nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ);

ông Lê Huy Ngọ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vắng mặt. Đây là 2

nhân chứng rất quan trọng trong kết luận tội trạng của Lã Thị Kim Oanh. bị cáo Oanh

trong kháng cáo có yêu cầu, đề nghị được đối chứng trước Toà, dư luận xã hội rất quan

tâm đến tình tiết này. Do Kiểm sát viên đã chủ động nắm bắt trước tình huống này nên tại

phiên toà Kiểm sát viên đã thông báo ông Lê Huy Ngọ do đang bận công tác nên không

dự phiên toà dài ngày mà ông sẽ có mặt tại Toà khi Toà cần đến. Đề nghị này của ông Lê

Huy Ngọ là hợp lý, không vi phạm tố tụng và vẫn đạt được việc làm rõ sự thật của vụ án.

Kiểm sát viên đề nghị phiên toà tiếp tục xét xử vắng mặt tạm thời của ông. Về sự vắng

mặt của ông Nguyễn Công Tạn do lý do sức khoẻ có y chứng của Bác sỹ, sự vắng mặt

của ông Tạn là chắc chắn. Song Kiểm sát viên đã có bước chuẩn bị là ngoài lời khai của

ông trong quá trình điều tra, Kiểm sát viên đã lấy lời khai, tiến hành đối chất bổ sung của

ông với bị cáo trước khi xét xử phúc thẩm. Các lời khai đều được ghi âm ghi hình tại

phiên toà phúc thẩm có thể sẽ công bố công khai khi cần thiết. Do vậy, Hội đồng xét xử

cũng như người bào chữa cho bị can và các đương sự đều nhất trí.

d. Thực hành quyền công tố trong tham gia xét hỏi:

Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử; việc xét hỏi tại phiên toà phúc

thẩm là nhằm đánh giá đúng sự thật, khách quan, toàn diện của vụ án mà kháng cáo,

kháng nghị đã đề cập. qua đó Kiểm sát viên cùng Hội đồng xét xử đánh giá các tình tiết

của vụ án một cách thận trọng, góp phần để bản án phúc thẩm quyết định được chính xác.

Việc xét hỏi của Kiểm sát viên chính là cơ sở để bổ sung cho kết luận và đưa ra các quan

điểm xem xét kháng cáo, kháng nghị.

Như vậy việc xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm. Xét hỏi tốt sẽ là cơ sở để kết luận của Kiểm sát viên tại phiên

toà có tính thuyết phục cao. Ngược lại nếu không chuẩn bị, chủ động xét hỏi, xét hỏi

không có trọng tâm, trọng điểm… thì kết luận của Kiểm sát viên sẽ thiếu tính thuyết

phục.

Trình tự xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm: Căn cứ khoản 2, Điều 207 Bộ luật tố tụng

hình sự thì trình tự xét hỏi là chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến Thẩm phán sau đó đến

Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích của đương sự. Quá trình sửa

đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư

pháp, có ý kiến cho rằng việc xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm phải do Kiểm sát viên hỏi là

chính. Có vậy, mới nâng cao được trách nhiệm thực hành quyền công tố, trách nhiệm

tranh tụng tại phiên toà của Kiểm sát viên. ý kiến này đang được xem xét trong sửa đổi

Bộ luật tố tụng hình sự hiện nay.

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định và trong thực tiễn cũng rất đa dạng, phong

phú về trình tự xét hỏi của từng vụ án. Theo đó, mỗi vụ án có thể có cách hỏi khác nhau. Đây

là sự cần thiết để phát huy tính chủ động, sáng tạo trong xét hỏi của Hội đồng xét xử cũng

như Kiểm sát viên. Vấn đề là hiệu quả, là làm rõ được sự thật các tình tiết của vụ án có liên

quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Vấn đề chú ý của Kiểm sát viên khi tham gia xét

hỏi là mặc dù đã có đề cương xét hỏi nhưng phải tập trung cao độ nghe việc xét hỏi của Hội

đồng xét xử để giải quyết các vấn đề: Bổ sung những vấn đề mà đề cương chưa có, hoặc bỏ

các câu hỏi mà đề cương đã chuẩn bị nhưng nếu hỏi sẽ bị thừa vì Hội đồng xét xử đã làm rõ.

Do đó, không cứng nhắc vào đề cương đã chuẩn bị.

Nội dung xét hỏi tại phiên toà phúc thẩm: Do tính chất của phúc thẩm là việc Toà án

cấp phúc thẩm xem xét kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án sơ thẩm thông qua

việc xét xử lại vụ án khi có kháng cáo, kháng nghị. Nên nội dung xét hỏi tại phiên toà phúc

thẩm tập trung vào yêu cầu kháng cáo, kháng nghị. Đối với Kiểm sát viên thực hành quyền

công tố tại phiên toà phúc thẩm cần có kỹ năng xử lý tình huống trong xét hỏi các vụ án cụ

thể, cách hỏi đối với các vụ án cũng có thể khác nhau như: Xét hỏi trực tiếp, xét hỏi gián

tiếp, hỏi vòng quanh… tuỳ từng vụ án mà có phương pháp hỏi cho phù hợp.

Để nâng cao được chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, đòi hỏi các Kiểm

sát viên phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ đồng

thời cập nhật thường xuyên các thông tin có liên quan đến quá trình phát triển kinh tế,

xã hội. Nhất là tình hình hiện nay, nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, được chuyển

đổi từ kinh tế quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều

chính sách pháp luật về kinh tế, xã hội thay đổi; tội phạm cũng phát triển thay đổi

theo sự phát triển của nền kinh tế. Nhiều loại tội phạm đã sử dụng thủ đoạn, cách thức

phạm tội mới như sử dụng công nghệ cao, tội phạm lợi dụng chính sách mới về kinh

tế như cổ phần hoá, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước

v.v… Kiểm sát viên nếu không tìm hiểu nắm vững từng lĩnh vực liên quan đến vụ án

cụ thể thì không thể thực hành quyền công tố đạt hiệu quả cao. Nhất là các loại án kinh

tế, án có liên quan đến sử dụng công nghệ cao v.v…

đ. Thực hành quyền công tố trong tranh luận tại phiên toà phúc thẩm:

Cải cách tư pháp là yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc

tế. Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh: "Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực

hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư

pháp… Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng

với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác".

Tuy không xác định tranh tụng là một nguyên tắc trong Bộ luật tố tụng hình sự

nhưng nhiều Điều luật quy định về quyền bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong

việc đưa ra các chứng cứ của vụ án. Hội đồng xét xử không phải là một bên trong tranh tụng

nhưng có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ tranh tụng

(Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự).

Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm là nhiệm vụ quan trọng của Kiểm sát viên

đồng thời là nhiệm vụ trọng tâm của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm. Đây là giai

đoạn tập trung nhất về ý kiến tranh luận của Kiểm sát viên và những người tham gia

phiên toà. Tranh luận thể hiện tính công khai, dân chủ, công bằng của quá trình cải cách

tư pháp hiện nay. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp trong

thời gian tới là "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu

đột phá của hoạt động tư pháp" [4].

Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm của Kiểm sát viên trước hết thể hiện trên bài

phát biểu của Kiểm sát viên về vụ án, xoay quanh những nội dung của kháng cáo, kháng

nghị và có thể ở những phần khác xét thấy cần thiết. Tranh luận là giai đoạn thể hiện sâu sắc

nhất vị trí, vai trò của Kiểm sát viên thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phúc

thẩm phúc thẩm. Vì vậy, Kiểm sát viên không được lảng tránh bất cứ lập luận nào của Luật

sư. Mọi vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án do Luật sư đưa ra, Kiểm sát viên đều

phải đối đáp đầy đủ, thể hiện rõ quan điểm, thái độ của Viện kiểm sát về giải quyết vụ án.

Thể hiện rõ vị trí là nhân danh Nhà nước thực hành quyền công tố tại phiên toà. Đây vừa là

quyền và vừa là nghĩa vụ của Kiểm sát viên. Vấn đề là để làm tốt công tác này Kiểm sát viên

phải nắm vững các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, những tài liệu, chứng cứ mới bổ

sung, những chứng cứ được đánh giá công khai tại phiên toà. Đồng thời am hiểu các chính

sách kinh tế, xã hội có liên quan đến vụ án. Đòi hỏi với Kiểm sát viên là khi tranh luận phải

nghiêm túc, sử dụng đúng các thuật ngữ pháp lý. Đối đáp cần tập trung vào vấn đề chính liên

quan trực tiếp đến kháng cáo, kháng nghị. Chú ý là cần giữ vững vai trò của Viện kiểm sát

trong đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong xét xử hình

sự, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, đấu tranh kiên quyết với tội phạm, không bỏ lọt tội

phạm và không làm oan người vô tội.

Những năm qua, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã nắm bắt kịp thời

chủ trương cải cách tư pháp, yêu cầu của thực hành quyền công tố tại phiên toà trong phần

tranh luận. Do đó đã đạt được các kết quả khả quan. Là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân tối cao ngoài việc trau dồi kiến thức, gương mẫu đi đầu trong thực hiện tích cực việc

tranh luận tại phiên toà, xây dựng một hình ảnh mới của người công tố viên thuộc Viện kiểm

sát nhân dân tối cao là công minh, khách quan. Hầu hết các vụ án xét xử theo thủ tục phúc

thẩm được các Kiểm sát viên chú trọng nhiều nhất đến phần tranh luận tại phiên toà. Các

phiên toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được thể hiện bình đẳng hơn, dân chủ hơn,

biểu hiện rõ nét nhất là ý kiến của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự

hoặc các ý kiến tự bào chữa của bị cáo đều được Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao tôn trọng đối đáp, tranh luận đầy đủ. Không còn tình trạng bỏ mặc ý kiến của Luật sư, bị

cáo … khi họ có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên, không còn tình trạng Kiểm sát viên

không tranh luận mà chỉ nêu chung chung giữ nguyên quan điểm trong kết luận vụ án. Sở dĩ

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm được việc đó vì ngoài việc thực hiện các

yêu cầu cải cách tư pháp, thực hiện chức năng, nhiệm vụ luật định, thực hiện Chỉ thị công tác

của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với công tác thực hành quyền công tố tại

phiên toà phúc thẩm; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn là tấm gương cho

Kiểm sát viên các cấp noi theo đồng thời có trách nhiệm đúc rút kinh nghiệm, sơ tổng kết

việc thực hành quyền công tố ở cấp phúc thẩm, hướng dẫn, kiểm tra Kiểm sát viên cấp dưới

thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm.

Thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao những

năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần cùng các Hội đồng xét xử phúc thẩm

mà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định trong các bản án hình sự phúc

thẩm đảm bảo nguyên tắc xét xử công bằng, dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội, đúng

pháp luật.

c. Thực hành quyền công tố sau phiên toà phúc thẩm:

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với phiên toà phúc thẩm của

Kiểm sát viên; sau khi kết thúc phiên toà phúc thẩm, Kiểm sát viên phải tổng hợp đánh

giá kết quả phiên toà. Xem xét một cách khách quan các quy định của Toà phúc thẩm về

những khách quan giữa đề nghị của Kiểm sát viên và quyết định của Toà phúc thẩm về

vụ án để nếu thiếu sót về việc không toàn diện, đầy đủ các Kiểm sát viên thì rút kinh

nghiệm. Trường hợp quyết định của Toà phúc thẩm không đúng thì xem xét đối chiếu với

quy định của phúc thẩm để có thể đề xuất kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Những năm qua, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều đã phát hiện

bản án, quyết định của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao không đúng pháp luật. Có

vi phạm pháp luật nghiêm trọng và báo cáo kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Kết

quả thực hành quyền công tố sau xét xử phúc thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, những năm qua nhìn chung đã làm được khá tốt, tuy nhiên việc phát hiện đề

xuất kháng nghị giám đốc vẫn còn ít. Theo thống kê số án phúc thẩm của Toà án nhân

dân tối cao được đề nghị cấp giám đốc thẩm xem xét như sau:

Bảng 2.4: Số án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được đề nghị

cấp giám đốc thẩm xem xét (2003-2008)

Đơn vị tính: Vụ án

Đơn Phúc thẩm Phúc thẩm tại Phúc thẩm tại vị tại tp.Hồ Chí Tổng số Hà Nội Đà Nẵng Minh Năm

2003 1 2 6 3

2004 5 4 17 26

2005 6 5 9 20

2006 9 5 13 24

2007 3 4 16 22

2008 4 8 9 21

Tổng cộng 28 28 67 119

Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác và thống kê công tác hàng năm của ngành kiểm

sát nhân dân.

2.2.4. Khái quát về chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát

nhân dân tối cao Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử các vụ án hình sự

a. Kết quả

Như các phần nêu trên đã cho thấy yêu cầu nhiệm vụ của công tác thực hành

quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm đối với Kiểm sát viên là rất lớn. Từng khâu, từng

việc đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật, nhất là các quy định tại Bộ luật hình sự

và Bộ luật tố tụng hình sự. Thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố của Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao được đánh giá qua tổng kết hàng năm cho thấy hoạt

động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã cơ

bản đảm bảo được các yêu cầu của công tác này là: Đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng

người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội và không làm

oan người vô tội. Trong những năm gần đây (từ 2004 - 2008) mặc dù phải giải quyết một

lượng án phúc thẩm rất lớn 27.292 vụ/37.577 bị cáo; với nhiều loại tội phạm phức tạp

nhưng Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hành quyền công tố đảm bảo

không làm oan người vô tội. Suốt những năm qua chỉ có 2 bị cáo/37.577 bị cáo cấp phúc

thẩm tối cao đã xét xử sau đó vụ án được giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm tuyên bị

cao không phạm tội (vụ Nguyễn Văn Cường ở Nam Định phạm tội Lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản, Toà giám đốc thẩm xử năm 2005 và vụ Nguyễn Thị Liên ở Thái Bình,

phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản). Đồng thời Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

tối cao đã kết luận đề nghị và được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm của Toà án nhân dân

tối cao tuyên 7 trường hợp bị cáo không phạm tội trên tổng số 37.577 bị cáo cấp phúc

thẩm tối cao đã xét xử. Đây là một thành công rất lớn của công tác thực hành quyền công

tố tại phiên toà phúc thẩm. Đáng lưu ý là mặc dù Toà án cấp tỉnh xét xử sơ thẩm tuyên bị

cáo không phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân kháng nghị phúc thẩm theo hướng có tội,

kết quả phúc thẩm đạt được như sau: Trong các năm từ 2003 đến 2008 Viện kiểm sát

kháng nghị phúc thẩm tổng cộng là 80 vụ/112 bị cáo. Cấp phúc thẩm đã xét xử huỷ án để giải quyết lại theo kháng nghị của Viện kiểm sát 103 bị cáo chiếm tỷ lệ 92% 2. Kết quả

nêu trên thể hiện chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao đối với việc bảo vệ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân nhất là các

kháng nghị đối với các vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không phạm tội.

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự; những năm gần đây Viện

kiểm sát nhân dân tối cao đã xây dựng nhiều chuyên đề cấp bộ về nâng cao chất lượng

kháng nghị phúc thẩm, chuyên đề nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử phúc thẩm án hình sự. Chuyên đề rút

kinh nghiệm công tác thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm và xây dựng kỹ

năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm v.v… Thông qua đó tổ chức

các Hội thảo, Hội nghị rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công

tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân trong thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm nói riêng.

Năm 2007, để nâng cao một bước về chất lượng thực hành quyền công tố tại phiên

toà phúc thẩm; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 03 ngày

19/6/2008 về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của

Toà án nhân dân các cấp. Trong đó chú trọng kháng nghị phúc thẩm cùng cấp và coi trọng

kháng nghị trên một cấp của các Viện kiểm sát nhân dân ; đặc biệt là tổ chức thực hành

quyền công tố thật tốt đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Trong đó tập trung

nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm mà

trọng tâm là khâu tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên toà.

b. Tồn tại

Đi sâu phân tích vào các hoạt động cụ thể thấy rằng đánh giá toàn diện thì hoạt

động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên

toà phúc thẩm còn một số tồn tại, yếu kém chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ

đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay theo tinh thần cải cải tư pháp.

- Đối với kháng nghị phúc thẩm: Như phần trên đã phân tích, những năm qua công

tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân đã được chú ý song số lượng

kháng nghị còn hạn chế, thể hiện qua kết quả xét xử phúc thẩm của Toà án các cấp nói

chung và Toà án cấp phúc thẩm nói riêng, đã cải sửa án sơ thẩm chiếm 34% số án có

kháng cáo, kháng nghị. Trong khi đó việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

chỉ chiếm 0,5 % trên tổng số án có kháng cáo, kháng nghị.

- Thực hành quyền công tố ở giai đoạn chuẩn bị phiên toà phúc thẩm:

Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của một số Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao chưa sâu, nắm bắt chứng cứ không đầy đủ, nhất là những vụ án do Kiểm tra viên

(giúp Kiểm sát viên) nghiên cứu, đề xuất thường không được Kiểm sát viên kiểm tra lại

đầy đủ kỹ càng, làm hạn chế chất lượng tham mưu, đề xuất xử lý kháng cáo, kháng nghị

đối với vụ án. Việc chuẩn bị đề cương xét hỏi tại phiên toà chưa được thật sự chú ý và

chuẩn bị đầy đủ trước khi tham gia phiên toà phúc thẩm. Do đó, hàng năm tỷ lệ số vụ án

việc đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên toà khác với quan điểm xử lý của Hội đồng xét

xử trung bình tới 20%. Sự khác biệt về quan điểm xử lý vụ án ở phiên toà phúc thẩm

thông thường thì quan điểm của Hội đồng xét xử là đúng vì Kiểm sát viên không đề xuất

được việc xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm (chỉ đề xuất được khoảng 20 vụ án/năm so

với số lượng Toà án bác kháng nghị của Viện kiểm sát . Toà án bác kháng nghị trong 5

năm là 880 vụ/1.435 vụ, kiểm sát chỉ đề xuất giám đốc thẩm được 119 vụ = 13%).

Việc chuẩn bị đề cương tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, tuy đã được các Kiểm

sát viên tích cực thực hiện để phục vụ các yêu cầu về xét xử đối với vụ án cũng như yêu

cầu cải cách tư pháp… Song chỉ đối với những vụ án có Luật sư tham gia thì được chú ý

hơn, các vụ án không có Luật sư, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự thì việc chuẩn bị

đề cương tranh luận với bị cáo, đương sự còn xem nhẹ.

Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phúc thẩm chuẩn bị cho phiên toà, Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao mới chú ý phần thủ tục tố tụng, nội dung vụ án. Phần triệu tập

bị cáo, đương sự, người tham gia tố tụng khác ra phiên toà phúc thẩm thông thường do

Thẩm phán chủ toạ phiên toà phúc thẩm quyết định. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

tối cao hầu như không đề nghị, yêu cầu triệu tập cụ thể những người tham gia tố tụng khác

ra phiên toà để làm rõ và bảo vệ quan điểm truy tố cũng như kháng nghị phúc thẩm của

Viện kiểm sát .

- Tồn tại trong hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm:

Kiểm sát viên là chủ thể của mọi hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên toà

hình sự nói chung và tại phiên toà phúc thẩm hình sự nói riêng. Tuy đã có nhiều cố gắng

thực hiện theo tinh thần và yêu cầu về cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả hoạt động của

Kiểm sát viên tại phiên toà, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và đảm bảo chức năng

theo Luật định, song vẫn còn nhiều khiếm khuyết, yếu kém thẻ hiện trên một số mặt sau:

Thứ nhất, chưa chủ động xét hỏi tại phiên toà để bảo vệ quan điểm mà Kiểm sát

viên trình bày tại phiên toà đối với kháng cáo, kháng nghị. Xét hỏi còn trùng lặp, không

cần thiết về những vấn đề không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, điểm yếu nhất

trong giai đoạn này là kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên và xử lý các tình huống phát

sinh tại phiên toà. Theo quy định về trình tự xét hỏi thì Kiểm sát viên hỏi sau khi các

thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm đã hỏi. Do đó, để hỏi Kiểm sát viên phải nắm

bắt, theo dõi chặt chẽ cụ thể quá trình xét hỏi để chuẩn bị cho mình hỏi ai, hỏi vấn đề

nào, hỏi như thế nào? cho mỗi loại kháng cáo, kháng nghị, cho phù hợp từng đối tượng.

Đây là vấn đề còn rất mới với Kiểm sát viên vì về lý luận chưa có trường lớp nào có giáo

trình giảng dạy về kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên toà. Ngành Kiểm sát đến

nay cũng chưa có tài liệu nào quy định, hướng dẫn cho Kiểm sát viên tham gia phiên toà,

thực hành quyền công tố trong xét hỏi tại phiên toà phải làm những gì? làm như thế nào.

Năm 2008, tiến sỹ Dương Thanh Biểu Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao

có viết cuốn "Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm" song cũng mới là "bước đầu đề cập đến

một số khía cạnh pháp lý về tính chất của xét xử phúc thẩm… những kinh nghiệm thực

tiễn gắn với các ví dụ để chuyển tải một phần về kỹ năng nghiệp vụ trong công tác thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm" [1, tr.5]. Đối với các tình tiết phát sinh

tại phiên toà phúc thẩm, khác với dự kiến hoặc với đường lối chỉ đạo của lãnh đạo Viện

kiểm sát nhân dân: như tình tiết mới hoặc gặp vấn đề phức tạp thì Kiểm sát viên thường

lúng túng, không đưa ra được ý kiến phù hợp hoặc có trường hợp buông xuôi "Tuỳ Hội

đồng xét xử". Mặt khác, theo quy định của Pháp luật tố tụng hình sự thì Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham dự phiên toà phúc thẩm là đại diện cho Viện kiểm

sát. Do đó, tại phiên toà phúc thẩm nếu có những tình tiết làm thay đổi, quan điểm trong

kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

tối cao không có quyền tự ý rút hay thay đổi kháng nghị mà buộc phải xin hoãn phiên toà

và báo cáo lãnh đạo để xem xét quyết định.

Do còn hạn chế về năng lực trong khi xét hỏi, mặt khác có vụ án nắm không chắc

chứng cứ trong hồ sơ vụ án, không theo dõi sát các diễn biến tại phiên tòa nên kiểm sát

viên thường thiếu tự tin và độc lập về quan điểm giải quyết kháng cáo, kháng nghị;

thường có xu hướng ngả theo quan điểm của hội đồng xét xử. Đồng thời một số kiểm sát

viên còn có tâm lý ngại va chạm thiếu kiên quyết và trình bày thẳng thắn các quan điểm

trong tranh luận với luật sư, người bào chữa; né tránh những vấn đề mà luật sư, người

bào chữa nêu lên để tranh luận nhất là những tố cáo kiến nghị, dẫn chứng về việc điều tra,

xét xử ở cấp sơ thẩm không khách quan, toàn diện vi phạm quy định của pháp luật về

cấm các hành vi bức cung, dụ cung, mớm cung, nhục hình…

Tóm lại điểm yếu nhất của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao hiện nay

trong các phiên tòa phúc thẩm hình sự là kỹ năng xét hỏi để làm rõ hành vi phạm tội,

nguyên nhân, điều kiện phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, những đặc trưng của

từng tội phạm cụ thể… thể hiện ở cách thức phương pháp xét hỏi. Hỏi người làm chứng,

người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án giống như hỏi bị cáo, bị hại… hỏi cả

những vấn đề Hội đồng xét xử đã xét hỏi làm rõ… Đáng chú ý là việc tranh luận với luật

sư… kiểm sát viên hay bị lôi kéo vào các vấn đề mà luật sư đưa ra tranh luận mặc dù

những vấn đề đó không là trọng tâm, không là những vấn đề để liên quan đến việc xét

kháng cáo, kháng nghị; dễ lúng túng làm giảm chất lượng thực hành quyền công tố của

kiểm sát viên tại phiên tòa.

- Tồn tại trong việc thực hành quyền công tố sau phiên tòa phúc thẩm.

Sau phiên tòa phúc thẩm, khi nhận được bản án phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa

án nhân dân tối cao, kiểm sát viên thường ít kiểm tra lại bản án. Trừ những trường hợp

quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm tại phiên tòa có sai lầm trong áp dụng pháp

luật hoặc vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự thì kiểm sát viên mới nghiên cứu, kiểm

tra bản án để có căn cứ đề xuất cấp giám đốc thẩm xem xét kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm. Tuy nhiên số lượng đề nghị lên cấp giám đốc thẩm của kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao trong những năm qua còn rất khiêm tốn (từ năm 2003 đến năm

2008 các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm - Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đề nghị

119 vụ án lên cấp giám đốc thẩm xem xét).

2.3. Nguyên nhân và vấn đề pháp lý đặt ra

Đánh giá đầy đủ, đúng đắn thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố của

kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một vấn đề quan trọng để tìm ra nguyên

nhân của những thành tựu cũng như những tồn tại, làm cơ sở cho việc xác định những

giải pháp mang tính pháp lý và đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng

thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên tòa

phúc thẩm hình sự.

Như các phần trên đã đánh giá tình hình các bản án sơ thẩm hình sự có kháng cáo,

kháng nghị và đã xét xử ở cấp phúc thẩm tối cao, cũng như đánh giá chất lượng thực

hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong những năm

gần đây.

2.3.1. Nguyên nhân của những kết quả

Để có được những kết quả, thành tích trong công tác thực hành quyền công tố đối với

các vụ án xét xử theo tố tụng phúc thẩm là do các nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân địa

phương (cấp tỉnh) đã có nhận thức khá đầy đủ vai trò vị trí của công tác thực hành quyền

công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trong việc thực hiện chức năng nhiệm

vụ của ngành, bám sát yêu cầu nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước trong mỗi thời kỳ. Từ đó

đã có kế hoạch bố trí, sắp xếp cán bộ, sử dụng cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chú trọng chăm lo và xây dựng đội ngũ cán bộ làm

công tác thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Đối với lực lượng kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố ở cả 3

Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm (Hà Nội, Đà Nẵng và TP.

Hồ Chí Minh) đã được kiện toàn một bước. Nhất là sau khi thực hiện Điều 170 BLTTHS

về tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện, số án kháng cáo, kháng nghị

ở cấp phúc thẩm tối cao giảm đáng kể; Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã sắp xếp, bố trí

lại số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo hướng nâng cao chất lượng, bố

trí kiểm sát viên phù hợp với năng lực, trình độ. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao trong thực hành quyền công tố các phiên tòa phúc thẩm hình sự thường là các kiểm

sát viên có bề dày kinh nghiệm công tác, nhất là công tác thực hành quyền công tố tại

phiên tòa. Có quan điểm chính trị vững vàng, nắm vững pháp luật. Trong điều hành

(phân công kiểm sát viên tham dự phiên tòa) đã chú trọng phân bổ án phúc thẩm theo loại

án và bố trí kiểm sát viên phù hợp với từng loại án, từng vụ án cụ thể; đảm bảo tính

chuyên sâu trong thực hành quyền công tố. Hàng năm chú trọng đúc rút kinh nghiệm

nghiệp vụ, sơ kết theo các chuyên đề nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố

của kiểm sát viên. Kịp thời phát hiện những vướng mắc trong nhận thức pháp luật cũng như

trong việc tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố góp phần đảm bảo công tác hướng

dẫn chỉ đạo nghiệp vụ chuyên sâu đến từng loại án cụ thể.

Thứ hai: Để hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao tại phiên tòa phúc thẩm đạt chất lượng, hiệu quả cao: một vấn đề rất

quan trọng là phải đảm bảo đầy đủ các căn cứ pháp lý cho hoạt động này. Kiểm sát viên

thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm không những phải nắm vững pháp luật

hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác có liên quan mà còn phải nắm

vững các quy định hướng dẫn về nghiệp vụ của ngành. Nhất là các hướng dẫn về công tác

kháng nghị phúc thẩm, các kỹ năng của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Việc

hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm được Viện kiểm

sát nhân dân tối cao quan tâm, đã tổng kết và xây dựng thành quy chế thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử hình sự; trong đó quy định khá đầy đủ những hoạt động

nghiệp vụ cần thiết mà kiểm sát viên thực hành quyền công tố trong xét xử hình sự phúc

thẩm các vụ án hình sự phải tiến hành; về mối quan hệ giữa Viện trưởng với các kiểm sát

viên, giữa các khâu nghiệp vụ với nhau v.v… Hàng năm, Viện kiểm sát nhân dân tối cao

còn chú trọng tập huấn nghiệp vụ cho kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và

kiểm sát viên Viện kiểm sát cấp tỉnh về thực hành quyền công tố các vụ án hình sự, các

chuyên đề nghiệp vụ về thực hành quyền công tố các vụ án hình sự xét xử theo thủ tục

phúc thẩm để quán triệt và nâng cao hiệu quả công tác: như chuyên đề rút kinh nghiệp về

xét xử phúc thẩm theo tinh thần Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị; chuyên đề về nâng cao chất

lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Viện trưởng

Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng ban hành Chỉ thị về công tác kháng nghị phúc thẩm các

vụ án hình sự cho toàn ngành Kiểm sát (Chỉ thị 03 ngày 19/6/2008). Đây là những hoạt động

thiết thực góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các

vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Thứ ba: công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình

sự đã xây dựng được mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Viện thực hành quyền công tố

kiểm sát xét xử phúc thẩm với Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Đảm bảo cho việc

áp dụng pháp luật được chính xác trong xét xử phúc thẩm các vụ án, nhất là các vụ án có

liên quan đến thủ đoạn, phương thức tội phạm mới, những tội phạm nghiêm trọng, đặc

biệt nghiêm trọng, tội phạm xâm phạm đến an ninh quốc gia. Mối quan hệ này thường

xuyên được kiểm nghiệm, bổ sung hoàn thiện trên cơ sở pháp luật. Đảm bảo cho việc xét

xử phúc thẩm đúng pháp luật. Những vướng mắc về nhận thức pháp luật được nhanh

chóng kết luận trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn theo luật định giữa hai bên, do vậy đảm

bảo tính đúng đắn và thống nhất cao trong xét xử các vụ án hình sự.

Thứ tư: Thực hiện Nghị quyết 08, Nghị quyết 48 và 49 của Bộ Chính trị, các Nghị

quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy (giải thể một số đơn vị làm

công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật) để tăng cường cán bộ cho công tác thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó có công tác thực hành quyền công

tố tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.

Trên cơ sở đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao kết hợp với tình hình thụ lý án phúc

thẩm của Tòa án nhân dân tối cao giảm dần (do phân cấp thẩm quyền xét xử theo Điều

170 BLTTHS) Viện kiểm sát đã cơ cấu lại đội ngũ kiểm sát viên làm công tác này và

hoạt động đã ngày càng ổn định vàữtngf bước đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư

pháp hiện nay.

Thứ năm: Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong ngành kiểm sát được tăng

cường.

Quán triệt các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, Nhà nước về cải cách tư pháp

với tiêu chí lấy hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm của hoạt động tư pháp. Viện kiểm

sát nhân dân tối cao đã tổ chức cho 3 Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc

thẩm liên hệ với thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong thời gian qua để xây

dựng kế hoạch, đề ra các biện pháp cụ thể để khắc phục tồn tại, phát huy hiệu quả và chất

lượng thực hành quyền công tố tại phiên tòa hình sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối

cao.

2.3.2. Nguyên nhân của những thiếu sót, tồn tại

Mặc dù có nhiều cố gắng song công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm còn bộc lộ nhiều tồn tại thiếu sót

trên các mặt: Tổ chức quản lý, chỉ đạo và trực tiếp thực hiện việc kháng nghị phúc thẩm

các bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm cấp tỉnh còn hạn chế… như phần khái quát

chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm của kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân tối cao đã nêu. Những tồn tại đó có nguyên nhân chủ quan và khách quan.

Tổng quát lại có thể thấy là do những nguyên nhân chính sau đây:

Thứ nhất: Không ít kiểm sát viên chưa nhận thức được đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai

trò, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và

trong thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở cấp Tòa án tối

cao nói riêng. Theo quy định của pháp luật và yêu cầu của cải cách tư pháp thì phiên tòa

phúc thẩm hình sự nói chung phải tiến hành theo xu hướng là phiên tòa tranh tụng, lấy

kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở cho phán quyết của Tòa án, theo đó phân tranh

luận của kiểm sát viên là phần quan trọng nhất để kiểm sát viên bảo vệ quan điểm truy tố

của Viện kiểm sát nhân dân. Phiên tòa không đảm bảo tranh luận một cách khách quan,

đầy đủ, dân chủ là phiên tòa không đạt yêu cầu.

Thứ hai: Hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự còn có những kiểm sát viên

chưa thực hiện nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao. Thực tiễn hoạt động cho thấy

nhiều vụ án phúc thẩm bị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm ra Hội đồng thẩm phán và bị

cấp giám đốc hủy án để điều tra hoặc xét xử lại, những vụ án này không phải là những vụ

án quá khó khăn về đánh giá chứng cứ, về áp dụng pháp luật hoặc thực hiện chính sách

hình sự; mà do kiểm sát viên đã không thực hiện đầy đủ các quy định tại quy chế thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét sử các vụ án hình sự. ý thức trách nhiệm chưa cao;

một số kiểm sát viên thiếu chủ động, sáng tạo, thiếu quyết tâm bảo vệ chân lý, sự thật vụ

án. Hạn chế trong nghiên cứu nắm chắc vụ án, thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho xét hỏi và

tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm. Do nghiên cứu hồ sơ không kỹ nên không nắm được

đầy đủ các tình tiết, các chứng cứ vụ án; không phát hiện được thiếu sót của cấp sơ thẩm

trong áp dụng pháp luật cũng như đánh giá chứng cứ. Không thấy được những mâu thuẫn

của chứng cứ buộc tội, gỡ tội để có đề xuất Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định chính

xác đúng pháp luật. Không ít trường hợp kiểm sát viên chỉ chú trọng về xác định chứng

cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ (thực hành quyền công tố) mà không

kết hợp với chức năng kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Dẫn đến một số trường hợp

vi phạm tố tụng nghiêm trọng, cấp giám đốc thẩm phải hủy để xét xử lại, gây khó khăn,

hạn chế hiệu quả, chất lượng thực hành quyền công tố.

Thứ ba: Qua hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự cho thấy trình độ năng lực

chuyên môn nghiệp vụ của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn hạn chế

nhất định. Một số kiểm sát viên chưa thường xuyên cập nhật chính sách pháp luật mới

liên quan trực tiếp đến xác định trách nhiệm hình sự của bị cáo. Nhất là các chính sách

liên quan đến quản lý kinh tế, xã hội (định tính, định lượng để xác định giới hạn chịu

trách nhiệm hình sự). Do đó, áp dụng pháp luật còn lúng túng hoặc đề xuất quan điểm xử

lý vụ án không chính xác. Đánh giá chứng cứ còn phiến diện, dẫn đến không làm rõ được

bản chất của vụ án liên quan đến xét kháng cáo, kháng nghị. Năng lực phân tích, tổng

hợp các chứng cứ buộc tội, gỡ tội có trong hồ sơ còn yếu; còn có kiểm sát viên còn biểu

hiện thiếu tự học hỏi để nâng cao trình độ, năng lực nghiệp vụ, pháp luật… hoạt động

nặng về thói quen, kinh nghiệm hoặc thiếu bản lĩnh trong đấu tranh, nhất là các vụ án có

nhiều phức tạp, liên quan nhiều cấp, nhiều ngành.

Thứ tư: Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo của Viện kiểm sát xét xử

phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao (bộ phận trực tiếp đối với các kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố đối với án phúc thẩm hình

sự) còn có những bất cập nhất định. Qua kết quả thực hành quyền công tố của kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở giai đoạn phúc thẩm các vụ án hình sự những năm

qua cho thấy chất lượng hiệu quả của các hoạt động này chưa thật cao. Lý do là còn

nhiều hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các Viện thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Trước hết việc kiểm tra chỉ đạo điều

hành các kiểm sát viên thực hiện các thao tác nghiệp vụ theo quy chế thực hành quyền

công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự cũng như lập hồ sơ kiểm sát theo quy định

của ngành kiểm sát chưa tốt. Do đó, những thiếu sót không được phát hiện, chấn chỉnh,

khắc phục kịp thời. Chưa có cơ chế xem xét trách nhiệm của kiểm sát viên khi vụ án bị

kháng nghị giám đốc thẩm và bị cấp giám đốc thẩm hủy án. Mặt khác còn có trường hợp

lãnh đạo nghe báo cáo án không kỹ, không sâu, không tỷ mỷ, thiếu khách quan và thân

trọng trong xem xét đánh giá chứng cứ buộc tội, gỡ tội, còn có tâm trạng thỏa mãn với

báo cáo của kiểm sát viên; dẫn đến có quan điểm không chính xác khi xét kháng cáo,

kháng nghị.

Thứ năm: Việc hướng dẫn, giải thích những quy định của Bộ luật hình sự, tố tụng

hình sự được thực hiện chậm, không đầy đủ và đồng bộ. Điều này gây rất nhiều khó khăn

cho tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Trong đó có các

Việnớthcj hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm và kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân tối cao làm công tác thực hành quyền công tố các vụ án hình sự phúc thẩm.

Điều đó dẫn đến hiểu và áp dụng pháp luật không thống nhất. Do không có sự hướng dẫn

thống nhất, nên dẫn đến xuất hiện tình trạng các hướng dẫn đơn ngành làm cho quá trình

thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự gặp nhiều khó khăn.

Thứ sáu: Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc thực hành quyền công

tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử các vụ án hình sự còn

yếu và thiếu. Biểu hiện rõ nét trong trang bị các phương tiện làm việc, thông tin liên lạc,

ghi âm, ghi hình phục vụ cho thực hành quyền công tố tại phiên tòa; chưa đáp ứng được

yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác đúng pháp luật và kịp thời trong đấu tranh phòng chống

tội phạm.

Chương 3

Yêu cầu, giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt

Nam hiện nay

3.1. Những yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng thực hành

quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay

3.1.1. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố vừa là mục đích vừa là

yêu cầu của cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay

Để tiếp tục tiến hành đường lối cải cách tư pháp, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã

ra Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới”. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị có Nghị quyết về cải cách công tác tư pháp;

trong đó có công tác của Viện kiểm sát, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, vì

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Góp phần tích cực

vào quá trình hội nhập nền kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới…

Theo Nghị quyết số 08-NQ/TW thì tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các

tranh chấp xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp. Nhưng công tác tư pháp đã đạt nhiều

kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân; bảo vệ pháp

chế XHCN, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới; phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp

giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ; nhiều

cán bộ đã tận tụy với công việc, hy sinh trong công cuộc đấu tranh chống tội phạm.

Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với đòi hỏi của

nhân dân; còn bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm quyền tự do, dân chủ của

công dân; làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư

pháp.

Để khắc phục các tồn tại, khuyết điểm nêu trên, tạo ra những chuyển biến mạnh

mẽ trong công tác tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW đã nêu ra các quan điểm chỉ đạo:

- Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát

và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực

Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, phát huy dân chủ, tăng cường pháp

chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,

do nhân dân và vì nhân dân.

- Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời nghiêm minh các

loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các

loại tội có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền lợi

ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.

- Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ

quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là

chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm

pháp luật và giải quyết tranh chấp.

- Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp

phần xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước.

Nghị quyết 08-NQ/TW yêu cầu: Viện kiểm sát phải thực hiện tốt chức năng công

tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện trong suốt quá

trình tố tụng đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô

tội… Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng

dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác [2]…

Các cơ quan tư pháp phải tạo điều kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng:

tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa.

Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt

động thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm nói riêng được thể hiện cụ

thể, đầy đủ qua các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Để làm rõ được vai trò của kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân nói chung và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng

trong hoạt động thực hành quyền công tố đối với công tác xét xử phúc thẩm các vụ án

hình sự. Để làm rõ được sự cần thiếu tăng cường hiệu quả, chất lượng thực hành quyền

công tố của kiểm sát viên trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự, trước hết phải tìm

hiểu và làm rõ các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

kiểm sát viên trong các hoạt động trên.

3.1.2. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố là yêu cầu của việc thực

hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự

+ Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử các vụ án hình sự:

Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002,

Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng. Viện trưởng, Phó Viện

trưởng, kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng (Điều 33 BLTTHS) Viện kiểm sát thực

hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định truy tố người phạm tội ra trước tòa.

Viện kiểm sát thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều được phát

hiện xử lý nghiêm minh. Việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người

đúng tội đúng pháp luật, không làm oan người vô tội (Điều 23 BLTTHS). ở giai đoạn xét

xử phúc thẩm Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố đảm bảo cho việc

truy tố của Viện kiểm sát đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mọi

người tham gia tố tụng. Đảm bảo cho việc xét xử vụ án theo nội dung kháng cáo, kháng

nghị đúng quy định pháp luật.

Theo đó tất cả các trường hợp Viện kiểm sát truy tố Tòa án sơ thẩm tuyên không

phạm tội, Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm

tuyên bố bị cáo không phạm tội thì đều thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát của kiểm sát

viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa.

Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát luôn giữ

vai trò chủ động, tích cực trong phối hợp với cơ quan xét xử; chủ động trong xem xét,

đánh giá và đưa ra quan điểm trước Hội đồng xét xử phúc thẩm về kháng cáo, kháng

nghị. Trong giai đoạn này Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo

đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người

phạm tội (Điều 16 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Những yêu cầu trên

cho ta thấy rõ vai trò quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công

tố ở giai đoạn xét xử phúc thẩm.

+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát, kiểm sát viên khi thực hành quyền

công tố các vụ án xét xử phúc thẩm hình sự:

Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử phúc

thẩm được thể hiện cụ thể, rõ nét và đầy đủ theo các quy định của pháp luật về nhiệm vụ,

quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát. Theo quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003 (Điều 232) thì khi thực hành quyền công tố Viện kiểm sát cùng cấp và

Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

Nhà nước chỉ giao duy nhất quyền kháng nghị các bản án, quyết định sơ thẩm hình sự

cho một cơ quan là Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy, đối với các bản án, quyết định của

Tòa án cấp sơ thẩm khi chưa có hiệu lực pháp luật thì Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm

sát cấp trên có quyền kháng nghị phúc thẩm, đồng thời kiểm sát viên có quyền thay đổi, bổ

sung rút kháng nghị. Khi có kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát thì vụ án đó phải được

đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Khi tiến hành hoạt động thực hành quyền công tố theo thủ tục phúc thẩm các bản

án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị, kiểm sát viên có quyền yêu cầu Viện

kiểm sát nhân dân cấp dưới báo cáo về vụ án và những vấn đề có liên quan đến kháng

cáo, kháng nghị. Kiểm sát viên có thể tự mình hoặc yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân cấp

dưới xác minh theo thủ tục phúc thẩm để bổ sung những chứng cứ như: hỏi cung bị cáo,

lấy lời khai của những người liên quan, tổ chức đối chất, xem xét lại hiện trường để làm

rõ những tình tiết của vụ án. Những trường hợp không thể điều tra xác minh bổ sung

được thì kiểm sát viên kết luận đề nghị hủy án giao về cấp sơ thẩm để điều tra lại theo

quy định của pháp luật (Điều 250 BLTTHS). Tại phiên tòa kiểm sát viên được quyền

tham gia xét hỏi về toàn bộ các vấn đề, các tình tiết có liên quan đến xét kháng cáo kháng

nghị nhằm kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm

đối với những vấn đề có kháng cáo, kháng nghị.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên tham gia phiên

tòa phúc thẩm vừa là quyền vừa là nghĩa vụ bắt buộc theo luật định (Điều 245 BLTTHS).

Tại phiên tòa kiểm sát viên căn cứ vào các tình tiết của hồ sơ vụ án, căn cứ vào các chứng

cứ, tài liệu đã được kiểm tra, xét hỏi tại phiên tòa để phát biểu quan điểm của Viện kiểm

sát về việc giải quyết vụ án. Trường hợp có tình tiết mới làm thay đổi quan điểm giải

quyết vụ án đã được cân nhắc báo cáo thì kiểm sát viên tự quyết định cho phù hợp với

thực tế vụ án và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Thực hiện việc tranh luận dân chủ,

công khai đầy đủ các ý kiến có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị (Điều 41

Quy chế thực hành quyền công tố, xét xử các vụ án hình sự số 960 ngày 17/9/2007 của

Viện kiểm sát nhân dân tối cao). Sau khi xét xử phúc thẩm, kiểm sát viên có nhiệm vụ

kiểm tra bản án phúc thẩm và có thể báo cáo vụ án lên cấp giám đốc thẩm để xem xét

theo thủ tục giám đốc thẩm nếu xác định án phúc thẩm có vi phạm nghiêm trọng pháp

luật.

Như vậy, với nội dung được trình bày trên đây cho thấy, theo quy định của pháp

luật trong thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại các phiên tòa phúc thẩm thì Viện

kiểm sát, kiểm sát viên là cơ quan và người tiến hành tố tụng có vai trò rất quan trọng và

chỉ riêng có trong hệ thống cơ quan tư pháp, đó là quyền công tố Nhà nước. Thực tiễn

hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự cũng có những đòi hỏi riêng, xuất phát từ vị trí,

trách nhiệm, yêu cầu của xét xử phúc thẩm ở Tòa án nhân dân tối cao.

3.1.3. Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố là yêu cầu trước mắt và

yêu cầu lâu dài của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc

thẩm hình sự

Theo quy định tại Điều 170 BLTTHS năm 2003 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh chỉ

xét xử những vụ án xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài

người và tội phạm chiến tranh; các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng hoặc vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử. Như vậy, Tòa án

cấp phúc thẩm tối cao cũng chỉ xét xử lại những vụ án mà cấp tỉnh xét xử sơ thẩm nếu có

kháng cáo, kháng nghị là những vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng; có ảnh hưởng

to lớn đến đời sống xã hội, cá biệt có ảnh hưởng rất lớn, đặc biệt lớn liên quan đến an

ninh quốc gia, đến chế độ XHCN đến sự sống còn của Nhà nước… Do đó, đòi hỏi chất

lượng công tác thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

là rất cao. Phúc thẩm ở cấp tối cao phải đảm bảo tính chính xác và đúng pháp luật cho tất

cả các vụ án. Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố phải hết sức thận trọng, tỷ mỷ,

chính xác, yêu cầu bảo đảm mọi quyết định phải chính xác. Xét xử phải đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, kiên quyết không làm oan người vô tội.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm tốt công tác thực hành quyền

công tố các vụ án phúc thẩm hình sự mới chỉ đảm bảo các quy định của pháp luật. Thông

qua công tác thực hành quyền công tố của mình, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao còn có trách nhiệm tổ chức rút kinh nghiệm, sơ kết, tổng kết theo từng chuyên đề

nghiệp vụ của công tác này (chuyên đề về kháng nghị phúc thẩm hình sự, chuyên đề về

xác minh phúc thẩm, chuyên đề kỹ năng thực hành quyền công tố trong chuẩn bị xét xử

phúc thẩm, chuyên đề về kỹ năng xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm…) để hướng

dẫn, tập huấn, rút kinh nghiệm cho kiểm sát viên trong toàn ngành kiểm sát làm nhiệm vụ

thực hành quyền công tố đối với các vụ án xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Góp phần nâng

cao chất lượng, hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố tại các phiên tòa hình sự

trong toàn ngành Kiểm sát.

3.2. Giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở

Việt Nam hiện nay

Trên cơ sở lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự; qua đánh giá pháp luật thực định cũng như thực trạng các hoạt

động thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong

xét xử các vụ án hình sự những năm vừa qua. Để Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà đại

diện là các Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm tốt vai trò của mình trong

thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự; nâng cao hơn nữa chất lượng,

hiệu quả của các hoạt động này; cần phải thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:

3.2.1. Tiếp tục thực hiện việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, đáp ứng yêu

cầu của công cuộc cải cách tư pháp

Tăng cường cán bộ có năng lực, kinh nghiệm cho các đơn vị thực hành quyền công tố

trong xét xử phúc thẩm án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cán bộ là cái gốc của

mọi công việc, công việc có thành hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém; Nghị quyết 08-

NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu việc đổi mới công tác tổ chức và cán bộ là

một trong những biện pháp đặc biệt quan trọng để Viện kiểm sát có thể làm tốt các chức

năng của mình.

Những năm vừa qua công tác tổ chức cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

đã có nhiều đổi mới. Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã sắp xếp lại tổ chức của ngành.

Nhất là sau khi giải thể đơn vị làm công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh

vực hành chính, kinh tế (kiểm sát chung). Số cán bộ ở đơn vị này được tăng cường cho

các khâu công tác khác mà Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong đó có các Viện thực

hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Đồng thời Viện kiểm sát nhân dân tối

cao đã xây dựng quy hoạch công tác cán bộ cho cả 3 Viện thực hành quyền công tố ở cả

3 miền (Bắc, Trung, Nam). Song việc quy hoạch mới tiến hành được đối với số cán bộ

quản lý còn kế hoạch tổng thể nhằm sắp xếp bố trí lại cán bộ cho thật sự phù hợp thì còn

nhiều bất cập. Một số Kiểm sát viên còn hạn chế về trình độ nghiệp vụ chính trị, làm việc

còn nặng về kinh nghiệm, số Kiểm sát viên giỏi trong thực hành quyền công tố, nhất là

giỏi về kỹ năng thực hành quyền công tố tại phiên toà còn ít. Hoạt động thực hành quyền

công tố mới tập trung chủ yếu vào giải quyết sự vụ, chưa chú trọng đến đúc rút kinh

nghiệm, xây dựng kỹ năng, tăng cường kiểm tra hướng dẫn Kiểm sát viên cấp dưới về

công tác thực hành quyền công tố cũng như phổ biến những kinh nghiệm tốt trong công

tác thực hành quyền công tố các vụ án xét xử ở thủ tục phúc thẩm. Về hình thức của

người Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trước các phiên toà phúc thẩm chưa được

chú ý đầy đủ nên còn hạn chế đến công tác thực hành quyền công tố. Do vậy, để nâng cao

chất lượng thực hành quyền công tố trong các phiên toà xét xử phúc thẩm của Kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì cần tiếp tục đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo

hướng tăng cường cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn cao… phù hợp

với công tác thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm.

3.2.2. Nắm vững, quán triệt đầy đủ tư tưởng, quan điểm và thực hiện đúng

đường lối, chính sách đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong cải cách tư

pháp vào quá trình thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình

sự Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là một yêu

cầu khách quan và bắt buộc trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên ngành kiểm sát nói chung và Kiểm sát

viên làm công tác này ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng. Bản chất của thực hành

quyền công tố là đòi hỏi các Kiểm sát viên phải đảm bảo tính có căn cứ, tính hợp pháp

trong xem xét việc kháng nghị các bản án, quyết định của Toà án cấp tỉnh đã xét xử sơ

thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; xem xét việc nghiên cứu hồ sơ vụ án chuẩn bị phiên toà

và nhất là hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm. Đảm bảo cho việc

xét xử ở cấp phúc thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để làm được điều đó Kiểm

sát viên phải nắm vững pháp luật, quán triệt đường lối, chính sách đổi mới của Đảng nói

chung và đổi mới trong hoạt động tư pháp nói riêng. Trước hết là lĩnh vực đấu tranh

phòng, chống tội phạm. Bản chất của thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc

thẩm nói chung và phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao nói riêng là đảm bảo cho việc

xét xử của các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được tiến hành đúng quy định của

pháp luật. Viện kiểm sát và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao không thể thực

hiện tốt công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự khi

không nắm vững, quán triệt đầy đủ, thấu đáo quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng

trong khi giải quyết từng vụ việc cụ thể. Góp phần phục vụ các nhiệm vụ chính trị đặt ra

cho từng giai đoạn khác nhau và góp phần đảm bảo pháp chế. Đó là yêu cầu khách quan, do

đó Kiểm sát viên phải cập nhật thường xuyên, đầy đủ và kịp thời các văn bản pháp luật mới

để áp dụng trong hoạt động thực tiễn. Khi thực hiện việc thực hành quyền công tố Kiểm sát

viên cần nắm vững các quy định của pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau có liên quan đến

từng vụ án cụ thể. Để thực hiện được giải pháp trách nhiệm trước hết thuộc về Lãnh đạo

Viện kiểm sát nhân dân tối cao và của mỗi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

trách nhiệm này còn thuộc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong ban hành pháp luật,

giải thích hướng dẫn áp dụng pháp luật. Trên thực tế cho thấy có nhiều văn bản pháp luật

chậm được hướng dẫn, giải thích nhất là việc mang tính định lượng, định tính cho việc xử lý,

làm cho việc áp dụng pháp luật thiếu chính xác, thiếu thống nhất hoặc không thực hiện được.

Đây là vấn đề mang tính phổ biến hiện nay. Đòi hỏi trong hướng dẫn áp dụng pháp luật cần

chấm dứt tình trạng hướng dẫn đơn phương (cho riêng ngành mình) mà cần được hướng dẫn

liên ngành để nhận thức, áp dụng …. thống nhất trong xử lý các vụ án hình sự ở các cấp. Uỷ

ban Thường vụ Quốc hội phải thực sự là cơ quan đi đầu trong giải thích pháp luật theo quy

định của pháp luật.

3.3.3. Nắm vững và thực hiện đúng đắn, đầy đủ vai trò, chức năng, nhiệm vụ

của ngành kiểm sát trong thực hành quyền công tố, xét xử phúc thẩm hình sự

Đây là bài học được rút ra trong quá trình hoạt động và phát triển của ngành kiểm

sát; trong giai đoạn hiện nay vẫn còn là vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn sâu

sắc, không chỉ vì có sự thay đổi quan trọng về chức năng của Viện kiểm sát theo hướng là

Viện kiểm sát chỉ thực hiện một chức năng là thực hành quyền công tố (Viện kiểm sát sẽ

chuyển thành mô hình Viện công tố) như tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính

trị, mà còn vì đây là thời kỳ đã và đang tiếp tục đặt ra những vấn đề về lý luận và thực

tiễn có liên quan không chỉ là thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát mà còn là đảm

bảo cho việc cải cách hệ thống tư pháp nói chung theo tinh thần đổi mới nhưng phải xem

xét đến tính lịch sử, truyền thống của hoạt động tư pháp nói chung. Do đó, Nghị quyết

của Trung ương là định hướng song vận dụng vào thực tế còn phải xem xét một cách toàn

diện. Trên cơ sở đảm bảo pháp luật được thực thi một cách đầy đủ, thống nhất, đảm bảo

dân chủ, bình đẳng và công khai, minh bạch. Chúng tôi cho rằng ngành Kiểm sát nhân

dân cần tập trung tham mưu với Đảng, Nhà nước giải quyết đầy đủ toàn diện vấn đề nêu

trên, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động của ngành. Bên cạnh việc giải quyết về

lý luận các vấn đề liên quan đến vị trí, vai trò, chức năng của Viện kiểm sát; ngành Kiểm

sát cần quán triệt đầy đủ những quy định của pháp luật hiện hành về vị trí, vai trò, chức

năng, nhiệm vụ của ngành.

Vấn đề là phải hiểu, nắm vững không chỉ về nội dung mà cả tinh thần Điều luật,

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm

2002 đã nhấn mạnh chức năng thực hành quyền công tố trong quan hệ với chức năng

kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây là quy định nhằm khẳng định vị trí trọng tâm, có tính ưu

tiên của chức năng thực hành quyền công tố, nhằm bảo đảm tính có căn cứ, tính hợp pháp

trong việc Viện kiểm sát xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

Nắm vững và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát có ý nghĩa là

Viện kiểm sát phải xác định được rõ ràng nhiệm vụ cụ thể của mỗi cấp Kiểm sát, mỗi

chức danh để có kế hoạch công tác cụ thể, đề cao tinh thần trách nhiệm, phát huy năng

động, sáng tạo của mỗi Kiểm sát viên, khắc phục tâm lý ỷ lại vào các quy định của Lãnh

đạo. Để chuẩn bị cho việc thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm hình sự; đòi hỏi ngành

Kiểm sát không chỉ được đầu tư về cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm việc mà

quan trọng là phải có sự chuẩn bị về con người, về năng lực, trình độ của các Kiểm sát

viên mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải

cách tư pháp hiện nay.

3.3.4. Tích cực giáo dục, rèn luyện nâng cao ý thức trách nhiệm, phẩm chất

đạo đức nâng cao trình độ về chính trị, chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên

Đây không phải là đòi hỏi riêng của quá trình cải cách tư pháp mà là đòi hỏi có

tính thường xuyên liên tục đối với người cán bộ Kiểm sát nói cung và các Kiểm sát viên

nói riêng. Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đánh giá về công tác cán bộ của

các cơ quan tư pháp "Phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị,

có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đồng chí đã tận tụy với công

việc, có những trường hợp đã hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội

phạm". Tuy nhiên về thiếu sót thì Nghị quyết 08-NQ/TW cũng đánh giá "Công tác cán bộ

của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán

bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận

tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề

nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của bộ máy Nhà

nước".

Để nâng cao chất lượng cán bộ trước hết đòi hỏi mỗi cán bộ, Kiểm sát viên phải tự

rèn luyện ý thức chính trị. Bên cạnh đòi hỏi Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

làm công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự phải đảm

bảo tính pháp lý và nghiệp vụ cao, đồng thời Kiểm sát viên phải nhận thức được tính

chính trị trong công việc của mình. Xa rời tính chính trị sẽ làm cho hoạt động kiểm sát

trở nên pháp lý đơn thuần. Rèn luyện ý thức chính trị chính là việc thường xuyên nắm

vững các chủ trương Nghị quyết của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Rèn

luyện nâng cao ý thức chính trị giúp Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố đảm bảo có

lý, có tình được nhân dân tin tưởng, đồng tình. Rèn luyện ý thức chính trị phải đi đôi với việc

rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ Kiểm sát theo tinh thần lời dạy của Chủ tịch

Hồ Chí Minh "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn". Thực hành quyền

công tố ở các phiên toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là thường xuyên tiếp xúc với mặt

trái xã hội, tiếp xúc nhiều loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu Kiểm sát viên không

thường xuyên trau dồi đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị thì dễ bị mặt trái xã hội, mặt trái

của nền kinh tế thị trường cám dỗ. Trong điều kiện đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN, việc rèn luyện ý thức chính trị cho lực lượng Kiểm sát viên

ngành Kiểm sát nói chung và Kiểm sát viên thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử phúc

thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao càng đòi hỏi cấp bách. Hàng năm trong Chỉ thị

công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều nêu yêu cầu: Thông qua hoạt

động Kiểm sát, thông qua các vụ án cụ thể cần tổ chức nghiên cứu rút ra những bài học về

công tác quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ; giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức để giáo

dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong ngành Kiểm sát.

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ

án hình sự của Kiểm sát viên nói chung và Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối

cao nói riêng, đòi hỏi khách quan nữa đó là không ngừng nâng cao trình độ pháp lý,

nghiệp vụ cho Kiểm sát viên để Kiểm sát viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo thực hiện

nhiệm vụ được giao; đảm bảo tính đúng đắn của pháp luật trong thực thi nhiệm vụ. Kiểm

sát viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ nghiệp vụ và trau dồi kỹ năng thực

hành quyền công tố trong khâu kiểm sát xét xử phúc thẩm. Để đáp ứng được yêu cầu nêu

trên Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến

thức cho Kiểm sát viên. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cần đổi mới nội dung,

chương trình theo hướng tập trung đào tạo bồi dưỡng kỹ năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên cần được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu

theo loại tội… để kịp thời đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, đảm bảo cho

các quyết định ở cấp phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao được chính xác, đúng pháp luật.

3.3.5. Tăng cường vai trò Lãnh đạo của Viện trưởng các Viện thực hành

quyền công tố kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và

tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công

tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự thì việc tăng cường vai trò

lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm thuộc Viện kiểm

sát nhân dân tối cao là yêu cầu khách quan. Xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của ngành Kiểm sát được quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức Viện

kiểm sát nhân dân năm 2002 và quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 36) quy

định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát trong thực hành quyền công tố

ở giai đoạn xét xử phúc thẩm đó là quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án,

quyết định của Toà án; tổ chức chỉ đạo các hoạt động thực hành quyền công tố trong hoạt

động tố tụng hình sự ở giai đoạn xét xử phúc thẩm. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Viện

trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét

xử phúc thẩm. Trước hết là việc trực tiếp thực hiện các hoạt động thực hành quyền công

tố. Tồn tại lâu nay là việc kháng nghi phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đổi

với án sơ thẩm của tỉnh còn rất hạn chế. Các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm chưa chú

trọng xây dựng, tổ chức thực hiện cơ chế yêu cầu gửi bản án, quyết định sơ thẩm kiểm tra

bản án quyết định sơ thẩm, của Toà án cấp tỉnh. Mặc dù trong nhiều năm Viện kiểm sát

cấp dưới không gửi đầy đủ, kịp thời các bản án để Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm kiểm

tra, xem xét việc kháng nghị phúc thẩm. Nhưng chậm được khắc phục. Tuy năm 2008,

Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm có tham mưu và được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao ban hành Chỉ thị (Chỉ thị số 03 ngày 19/6/2008) về công tác kháng ngị phúc

thẩm nhưng mới tập trung chỉ đạo công tác này đối với Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện, cấp tỉnh. Do đó, số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối

với bản án, quyết định sơ thẩm của cấp tỉnh còn rất hạn chế. Để công tác kháng nghị phúc

thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao có hiệu quả thì việc sơ kết 1 năm thực hiện Chỉ thị

số 03 ngày 19/6/2008 về kháng nghị phúc thẩm hình sự; cần sơ kết đánh giá đúng, đầy đủ

những ưu điểm và tồn tại trong tổ chức thực hiện công tác này của từng đơn vị Viện kiểm sát

xét xử phúc thẩm; có như vậy mới rút ra được bài học, tìm biện pháp khắc phục tình trạng

yếu kém trong kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Do đó, tăng cường

trách nhiệm của Viện trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm trong thực hành quyền

công tố chính là tư tưởng chỉ đạo của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao những năm

qua. Với việc ban hành Chỉ thị số 03/19/6/2008 về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự,

Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu Viện trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm

cũng như các Viện trưởng các cấp tập trụng chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành

quyền công tố thông qua công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát góp phần tích

cực vào việc nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của

ngành Kiểm sát nhân dân.

Yêu cầu của Chỉ thị 03 là: "Thường xuyên quan tâm, coi trọng công tác kháng

nghị phúc thẩm, còn đây là một trong những công việc trọng tâm của công tác thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong kế hoạch, chương trình công tác

hàng năm phải đề ra các chỉ tiêu phát hiện những bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm

về áp dụng pháp luật, về thủ tục tố tụng để kháng nghị phúc thẩm… Viện trưởng các đơn

vị phải trực tiếp nghe báo cáo và duyệt nội dung kháng nghị. Trước khi mở phiên toà,

việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phải do Lãnh đạo Viện quyết định…", "Khi ban

hành kháng nghị phải bảo đảm chặt chẽ từ hình thức đến nội dung và thủ tục, thời hạn

pháp luật quy định…".

Các Viện phúc thẩm (thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao) phải có bộ phận

chuyên trách theo dõi, quản lý, kiểm tra bản án, quyết định sơ thẩm, thu thập thông tin về

việc xét xử của Toà án cấp sơ thẩm để phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi

phạm… định kỳ kiểm tra việc thực hiện gửi bản án, quyết định sơ thẩm của Viện kiểm

sát cấp tỉnh… Tăng cường công tác sơ tổng kết để rút kháng nghị về công tác kháng nghị

phúc thẩm, chú trọng đề xuất giám đốc thẩm những vụ án cần thiết. Các Viện kiểm sát

xét xử phúc thẩm có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện công tác kháng nghị

phúc thẩm theo địa bàn được phân công…

Tăng cường sự Lãnh đạo của Viện trưởng các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đòi

hỏi tăng cường hơn nữa công tác quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động thực hành quyền

công tố trong xét xử phúc thẩm mà tập trung trong hoạt động của Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân tối cao tại các phiên toà. Yêu cầu là tăng cường chỉ đạo để các hoạt

động của Kiểm sát viên trong nghiên cứu, chuẩn bị xét xử phúc thẩm kỹ lưỡng có chất

lượng với tất cả các vụ án có kháng cáo, kháng nghị. Những vụ án phức tạp, liên quan

đến nhiều chính sách kinh tế, xã hội, khi chuẩn bị và tham gia phiên toà phúc thẩm yêu

cầu Viện trưởng Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phải chỉ đạo chặt chẽ, xem xét kháng

nghị kịp thời và chính xác. Có cơ chế duyệt án phù hợp để tất cả các vụ án khi tham gia

xét xử phúc thẩm thì Kiểm sát viên phải nắm chắc hồ sơ chuẩn bị tốt các phương án xét

hỏi, tranh luận tại phiên toà - nhằm mục đích đảm bảo việc truy tố xét xử đúng người,

đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Những trường hợp kháng nghị

phúc thẩm của Viện kiểm sát là đúng và chính xác theo quy định của pháp luật cần được

báo cáo đầy đủ và kiến nghị cấp giám đốc thẩm nên Toà án cấp phúc thẩm không chấp

nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Đây là vấn đề đòi hỏi lãnh đạo các Viện

kiểm sát xét xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải thường xuyên quán

triệt và kiểm tra thực hiện có hiệu quả.

Nâng cao vai trò lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm còn

đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa vai trò chỉ đạo đối với các Viện kiểm sát nhân dân cấp

dưới về công tác thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự. Theo sự uỷ

quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 32 - Quy chế thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự số 960 ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân tối cao) các Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét

xử phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các

quy định của pháp luật đối với Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh về công tác

kháng nghị phúc thẩm. Đồng thời ký thừa uỷ quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao đối với các kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đòi

hỏi kháng nghị phải đảm bảo đúng pháp luật cả về hình thức và có căn cứ pháp lý về nội

dung.

Việc nâng cao trách nhiệm của Viện trưởng các Viện thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử hình sự không đồng nghĩa với việc Viện trưởng các Viện thực hành

quyền công tố này làm thay các công việc của Kiểm sát viên. Đều quan trọng là trên cơ

sở Quy chế hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm chung của

ngành, các Viện thực hành quyền công tố và xét xử phúc thẩm phải xây dựng Quy chế cụ

thể về tổ chức hoạt động củađơn vị mình để phân định cũng như phát huy quyền hạn,

trách nhiệm của Viện trưởng với các Kiểm sát viên theo hướng mạnh dạn tăng quyền

hạn, trách nhiệm pháp lý cho Kiểm sát viên thi thực hành quyền công tố và xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự. Tạo điều kiện pháp lý để Kiểm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ

của mình với vai trò là người tiến hành tố tụng, có đầy đủ quyền hạn, nghĩa vụ của người

tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật.

3.3.6. Xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ giữa Viện thực hành quyền công

tố và kiểm sát xét xử hình sự phúc thẩm với các Viện kiểm sát nhân dân địa phương,

giữa Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm với các cơ quan hữu

quan; các đơn vị, tổ chức và công dân

Quan hệ phối hợp trong và ngoài ngành Kiểm sát không chỉ là giải pháp nâng cao

chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành Kiểm sát

mà còn là nguyên tắc tổ chức hoạt động của ngành Kiểm sát trong hoạt động thực tiễn về

thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

tối cao đối với xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự. Việc xây dựng mối quan hệ phối hợp

trong và ngoài ngành có ý nghĩa to lớn, giúp cho việc khắc phục tình trạng "việc ai nấy

làm". Xây dựng mối quan hệ phối hợp sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cấp,

các ngành trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và hoạt động xét xử phúc

thẩm của cấp tối cao đạt hiệu quả tích cực.

Quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các Viện kiểm sát nhân

dân cấp tỉnh trong khâu phúc thẩm chính là phối hợp trong hoạt động nghiệp vụ cũng như

chỉ đạo, điều hành. Trên cơ sở quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp cần xây dựng mối

quan hệ trên dưới và ngược lại. Nhất là phối hợp trong công tác kháng nghị phúc thẩm

cũng như bảo vệ quan điểm của hoạt động thực hành quyền công tố của ngành Kiểm sát.

Theo đó, để đảm bảo cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện quyền kháng nghị

theo quy định của pháp luật, các Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, phải sao gửi bản cáo

trạng và bản án quyết định của Toà án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao kèm theo báo

cáo kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm cùng quan điểm của

Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh để Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu xem xét,

chỉ đạo Viện kiểm sát cấp tỉnh kháng nghị hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng

nghị trên một cấp. Trường hợp cấp tỉnh thấy cần phải kháng nghị phúc thẩm nhưng thời

hạn kháng nghị phúc thẩm không còn thì phải báo cáo đầy đủ các căn cứ kháng nghị phúc

thẩm lên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đề xuất kháng nghị phúc thẩm. Khi Kiểm sát

viên thực hành quyền công tố bảo vệ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh nếu xét

thấy cần rút một phần hay toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thì cần

thiết phải có sự trao đổi trước khi thực hiện để tham khảo thêm ý kiến của địa phương.

Có như vậy kháng nghị và bảo vệ kháng nghị phúc thẩm trong thực hành quyền công tố

của Viện kiểm sát nhân dân tối cao mới có chất lượng và hiệu quả cao.

Mối quan hệ phối hợp giữa Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc

thẩm cũng như quan hệ của các Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao với các cơ

quan, đơn vị, tổ chức có liên quan trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự (các Toà

phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao) cần đảm bảo nguyên tắc việc phối hợp phải trên cơ

sở tôn trọng chức năng, nhiệm vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Quan hệ phối

hợp cần chú ý khắc phục hai biểu hiện đó là: Quá nhấn mạnh quan hệ phối hợp mà hạn

chế tính độc lập trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi Ngành. Biểu hiện là

thương quy định theo kết luận của Liên ngành hoặc là quá nhấn mạnh quyền hạn, trách

nhiệm của mỗi bên. Quan hệ phối hợp trước hết thể hiện qua việc thống nhất phương

hướng đấu tranh phòng, chống tội phạm và đảm bảo việc nói chung và xét xử ở cấp phúc

thẩm tối cao nói riêng phải công khai, dân chủ, minh bạch, đúng pháp luật. Những trường

hợp phức tạp liên quan đến an ninh quốc gia, đến các chính sách của Đảng, Nhà nước về

kinh tế, xã hội… cần chủ động họp Liên ngành để trao đổi và tổ chức phiên toà phúc

thẩm xét xử được chính xác, đúng pháp luật; đảm bảo các yêu cầu nhiệm vụ chính trị.

3.3.7. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang bị phục vụ cho công tác thực

hành quyền công tố tại các phiên toà phúc thẩm thuộc Toà án nhân dân tối cao

Khi đánh giá nguyên nhân của những tồn tại trong công tác tư pháp thời gian qua,

Nghị quyết 08-NQ/TW đã đánh giá "Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan

tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật

chội, phương tiện làm việc vừa thiếu lại vừa lạc hậu; chính sách đối với cán bộ tư pháp

chưa tương xứng với niệm vụ và trách nhiệm được giao. Trong điều kiện cải cách tư

pháp, với việc thực hiện tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện nói riêng và các

cơ quan tư pháp cấp huyện nói chung. Đến tháng 6/2009 đã kết thúc lộ trình thực hiện

việc tăng thẩm quyền này theo Điều 170 Bộ luật hình sự. Đòi hỏi cần có sự đầu tư mạnh

hơn về cơ sở vật chất và trang bị làm việc cho Viện kiểm sát. Đi đôi với lộ trình tăng

thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện thì lượng án hình sự bị kháng cáo, kháng nghị

lên Toà án nhân dân tối cao để xét xử phúc thẩm cũng giảm dần về số lượng (vì án hình

sự sẽ chủ yếu do Toà án cấp huyện xét xử sơ thẩm). Đòi hỏi các Kiểm sát viên Viện kiểm

sát nhân dân tối cao một mặt nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong kháng nghị phúc

thẩm (trên một cấp) và chú trọng hơn đến công tác kiểm tra, hướng dẫn cấp tỉnh, huyện

về công tác kháng nghị phúc thẩm; kỹ năng thực hành quyền công tố, tranh luận tại phiên

toà phúc thẩm của Kiểm sát viên; đồng thời chú trọng công tác xác minh phúc thẩm góp

phần nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc

thẩm. Những công việc này đòi hỏi phải tăng cường đầu tư về trang thiết bị làm việc, về

cơ sở vật chất cho ngành Kiểm sát nói chung và các Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm nói

riêng; cụ thể là các phương tiện đi lại, trang thiết bị khoa học, công nghệ là hết sức cần

thiết, bảo đảm cho hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp

trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao đạt chất lượng hiệu quả cao hơn.

3.3. Một số kiến nghị

Để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát

nhân dân nói chung và của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự nói riêng; từng bước đáp ứng yêu cầu của quá trình cải cách

tư pháp trong công cuộc đổi mới mà Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Trên cơ sở các quy

định của pháp luật hiện hữu và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự những năm

qua, thấy có một số vấn đề cần sớm được khắc phục.

1. Cần nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung trong dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa

đổi) sắp tới như sau:

- Về thực hành quyền công tố trong kháng nghị phúc thẩm. Như các phần nêu trên

đã cho thấy theo thông lệ chung của các pháp luật truyền thống trên thế giới, tuy với

những giới hạn khác nhau nhưng hầu hết các quốc gia đều quy định Viện công tố có

quyền kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm. Đối với

nước ta từ ngày lập nước cho đến nay, quyền kháng nghị phúc thẩm luôn là quyền năng

pháp lý duy nhất mà Nhà nước chỉ giao cho Viện kiểm sát. Hiện nay đang có những quan

điểm khác nhau xung quanh việc giới hạn quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm

sát cũng như thẩm quyền kháng nghị, căn cứ kháng nghị phúc thẩm.

Có quan điểm cho rằng, cần giới hạn quyền kháng nghị của Viện kiểm sát đối với

những trường hợp Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội như quy định của một số nước

theo truyền thống tố tụng tranh tụng. Như vậy, mới đảm bảo quyền phán quyết độc lập

của Tòa án. Tuy nhiên, thấy rằng không nên giới hạn quyền kháng nghị phúc thẩm đối

với những phán quyết vô tội. Điều này phù hợp với việc Viện kiểm sát là cơ quan duy

nhất được trao quyền thay mặt Nhà nước buộc tội một người trước Tòa án. Kháng nghị

của Viện kiểm sát là sự tiếp tục duy trì lời buộc tội của Viện kiểm sát nhưng được xem

xét ở thủ tục phúc thẩm với sự tham gia xem xét của nhiều thẩm phán chuyên nghiệp.

Trường hợp xét thấy có tội thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng chỉ có quyền hủy án sơ thẩm

để điều tra hoặc xét xử sơ thẩm lại (Điều 250 BLTTHS năm 2003). Thực tiễn những năm

qua, từ 2004 đến 2008 Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử 158 trường hợp Tòa án cấp sơ

thẩm tuyên bị cáo không phạm tội bị Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm. Qua xét xử

phúc thẩm, Tòa án đã tuyên hủy án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo hướng có tội là

113 bị cáo (chiếm 72%). Riêng ở cấp phúc thẩm tối cao sơ bộ các Tòa án đã tuyên hủy án

sơ thẩm của cấp tỉnh để điều tra, xét xử lại theo hướng có tội là 38/51 bị cao (chiếm 75%)

(theo các chuyên đề thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, các vụ

án Toà tuyên bị cáo không phạm tội - các năm từ 2003-2008 của Viện kiểm sát nhân dân

tối cao). Như vậy, thông qua kháng nghị phúc thẩm đã đáp ứng được yêu cầu chống làm

oan người vô tội cũng như chống bỏ lọt tội phạm. Đây là quy định cần được giữ nguyên

trong sửa đổi BLTTHS .

- Về thẩm quyền kháng nghị: Có ý kiến nêu rằng cần bỏ thẩm quyền kháng nghị

của Viện kiểm sát cấp trên đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới. Lý

do là xét về thẩm quyền là hợp lý, song thực tế không hợp lý vì: Viện kiểm sát cấp trên

không đủ lực lượng để theo dõi, kiểm tra tất cả các vụ án cấp dưới đã xét xử, quyết định

sơ thẩm; Viện kiểm sát cấp trên không trực tiếp theo dõi quá trình điều tra, truy tố, xét xử

ở cấp sơ thảm. Luật quy định chỉ có 30 ngày để kháng nghị phúc thẩm thì cũng không đủ

thời gian nghiên cứu kỹ hồ sơ để quyết định kháng nghị hay không. Do đó quy định này

là không hiện thực, cần bỏ. Tuy nhiên, thấy rằng pháp luật tố tụng hình sự trao thẩm quyền

kháng nghị phúc thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm sự thống

nhất của pháp chế, chống lại các biểu hiện cục bộ, địa phương chủ nghĩa và phù hợp với

truyền thống tố tụng của nước ta. Đồng thời việc trao quyền này là hoàn toàn mang tính

khả thi và có hiệu quả tích cực.

Song quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định Tòa án cấp

sơ thẩm phải gửi báo án, quyết định sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp trong

khi lại quy định thời gian kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên là 30 ngày kể từ ngày

tuyên án sơ thẩm. Đây là những vấn đề còn thiếu và chưa hợp lý để đảm bảo quyền

kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Hiện nay, để tạm thời khắc

phục khó khăn này, quy chế 960 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định Viện kiểm

sát nhân dân cấp dưới phải sao gửi bản án, quyết định sơ thẩm lên Viện kiểm sát nhân

dân cấp trên để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Cách làm này chỉ khắc phục

được một phần (đối với các bản án, quyết định Tòa án cấp sơ thẩm gửi đúng thời hạn cho

Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát sao gửi đúng quy định về thời gian cho Viện

kiểm sát cấp trên) còn hầu hết khi bản án, quyết định sơ thẩm gửi đến Viện kiểm sát cấp

trên thì thời gian còn rất ít hoặc đã quá thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát

nhân dân cấp trên.

Như vậy, thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên

trực tiếp cần được giữ nguyên và có quy định bổ sung để Tòa án đã xét xử sơ thẩm gửi

trực tiếp bản án, quyết định cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. (Sửa Điều 229 BLTTHS

Tòa án cấp sơ thẩm gửi bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trong thời hạn 10 ngày kể từ

ngày tuyên án sơ thẩm; sửa Điều 182 BLTTHS theo hướng Tòa án gửi ngay các quyết

định sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp).

- Về căn cứ kháng nghị phúc thẩm. Hiện tại BLTTHS không có quy định về căn

cứ kháng nghị phúc thẩm. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm là tiêu chí để Viện kiểm sát tiến

hành kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, theo tố tụng

phúc thẩm; đồng thời đánh giá kháng nghị có căn cứ hay không; việc chấp nhận hay

không chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của Tòa phúc thẩm có đúng hay không. Hiện tại,

căn cứ kháng nghị phúc thẩm mới được quy định trong quy chế số 960 về thực hành

quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tuy nhiên,

trong sửa đổi bổ sung BLTTHS cũng có ý kiến khác nhau, có ý kiến cho rằng không nên

quy định căn cứ kháng nghị cụ thể trong BLTTHS vì khi khái quát được mà cụ thể thì

công cụ thể càng thiếu, hơn nữa kháng nghị phúc thẩm không giống kháng nghị giám đốc

thẩm về tính chất. Có quan điểm cần có quy định trong BLTTHS vì chúng ta đang xây

dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị cũng đã đặt ra yêu

cầu về xây dựng pháp luật trong tiến trình cải cách tư pháp… đồng thời tránh kháng nghị

tùy tiện hoặc không kháng nghị phúc thẩm khi có căn cứ, do đó cần xây dựng thành Điều

luật cụ thể. Trên cơ sở đó đảm bảo tính thống nhất của pháp chế.

- Về việc chuyển hồ sơ vụ án giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong xét xử phúc

thẩm:

Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể khi hồ sơ vụ án có kháng cáo,

kháng nghị thì sau khi Tòa phúc thẩm nhận được hồ sơ vụ án phải chuyển giao cho Viện

kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu, chuẩn bị cho việc tham gia xét xử phúc thẩm. Hiện tại,

để khắc phục tạm thời, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có

Thông tư liên ngành từ năm 1988 quy định sau khi Tòa án phúc thẩm nhận được hồ sơ vụ

án thì trong vòng 7 ngày phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để nghiên cứu. Trong vòng

10 ngày (cấp tỉnh) và 20 ngày (cấp tối cao) Viện kiểm sát nhân dân phải nghiên cứu xong

và trả hồ sơ cho Tòa án để chuẩn bị xét xử phúc thẩm… Quy định này xuất phát từ quy

định tại khoản 2 Điều 237 “Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng

nghị cho Tòa án cấp phúc thẩm trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng

nghị”. Quy định này cần sớm được sửa đổi vì: ở cấp phúc thẩm việc Viện kiểm sát tham

gia phiên tòa là bắt buộc, do đó nếu hồ sơ vụ án có kháng cáo, kháng nghị Tòa án chuyển

lên Tòa phúc thẩm, Tòa phúc thẩm chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu, sau đó Viện

kiểm sát lại chuyển hồ sơ lại cho Tòa án để thụ lý, nghiên cứu và chuẩn bị xét xử. Với cách

chuyển này hồ sơ vụ án vòng đi, vòng lại tốn nhiều thời gian và tiền của, công sức. Do đó,

khi có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ trực tiếp cho Viện kiểm

sát cấp trên thụ lý nghiên cứu theo thời gian quy định, sau đó Viện kiểm sát chuyển cho

Tòa án cùng cấp để thụ lý nghiên cứu và xét xử. Cách chuyển hồ sơ này vừa kịp thời, đỡ

tốn kém và tạo cơ chế để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp

trong việc các Tòa án thực hiện lập và chuyển hồ sơ có kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của pháp luật.

Về việc kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, BLTTHS năm 2003 quy định

sự tham gia của kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc (Điều 245). Quy định

như vậy là cần thiết song BLTTHS không quy định về số lượng kiểm sát viên tham gia

phiên tòa phúc thẩm. Trên thực tế, đối với những vụ án lớn, phức tạp và rất đông bị cáo,

thời ian xét xử kéo dài hàng tháng. Đòi hỏi kiểm sát viên phải tham gia liên tục, vừa đảm

bảo tham gia xét hỏi các bị cáo, đương sự, vừa đòi hỏi việc tranh tụng tại phiên tòa theo

yêu cầu của cải cách tư pháp. Do đó, Viện kiểm sát thường cử 2 hoặc 3 kiểm sát viên

tham dự phiên tòa, ngoài ra còn một số kiểm tra viên giúp việc. Nhưng sự tham gia của

kiểm tra viên không được chính thức. Do đó cần quy định bổ sung quy định tại phiên tòa

phúc thẩm đối với vụ án phức tạp, nghiêm trọng… thì có thể cử nhiều kiểm sát viên tham

gia phiên tòa, trường hợp cần thiết có kiểm tra viên giúp việc kiểm sát viên tại phiên tòa.

2. Về công tác tổ chức cán bộ.

- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm

chất chính trị đối với lãnh đạo và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công

tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.

Như chúng ta đã biết, yếu tố con người luôn luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu để

nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và tổ

chức lực lượng cán bộ, kiểm sát viên có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ là việc làm hết sức cần thiết.

Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao luôn phải quán triệt được tầm quan trọng

của công tác thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm hình sự của kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân tối cao, coi đây là một công tác quan trọng trong thực hiện quyền

công tố mà Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát. Đảm bảo cho việc điều tra, truy tố của

Viện kiểm sát là đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội và không để lọt kẻ

phạm tội, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trong xét xử các vụ án hình sự. Ngoài

việc quản lý điều hành, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (theo Luật) là người

quyết định việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm

của cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Theo quy chế 960 thì Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao có ủy quyền cho Viện trưởng các Viện thực hành quyền công tố và kiểm

sát xét xử phúc thẩm Viện kiểm sát nhân dân tối cao ký các kháng nghị phúc thẩm. Song

việc chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là rất cần thiết, nhất là

những vụ án lớn, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp và liên quan đến chính

sách lớn của Đảng, Nhà nước. Lãnh đạo các Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét

xử phúc thẩm là người trực tiếp thay mặt lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định

việc kháng nghị phúc thẩm cũng như tổ chức cho kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án,

chuẩn bị và tham gia phiên tòa phúc thẩm nên phải có phẩm chất chính trị vững vàng, năng

lực chuyên môn nghiệp vụ cao và có thái độ công tâm, có bản lĩnh nghề nghiệp đồng thời

phải khách quan và thận trọng.

Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố đối với các vụ án

phúc thẩm cần có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong thực hành

quyền công tố tại phiên tòa. Phải được chuẩn hóa trình độ chuyên môn (Đại học Luật) và

chính trị (cao cấp chính trị). Hiện nay, số án có kháng cáo, kháng nghị phải xét xử phúc

thẩm ở cấp Trung ương hầu hết là các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp (do thực

hiện Điều 170 BLTTHS phân cấp xét xử cho Tòa án huyện); có khung hình phạt trên 15

năm đến tử hình. Do đó, việc tăng cường lực lượng kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân

tối cao cho công tác này là đòi hỏi khách quan và cần được quan tâm đúng mức.

Việc lựa chọn kiểm sát viên cho công tác thực hành quyền công tố tại các phiên

tòa nói chung và tại các phiên tòa phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao có những đòi

hỏi riêng, về hình thức không bị khiếm khuyết vì kiểm sát viên nếu bị khiếm khuyết,

không có dị tật trong lời nói, về hình thức sẽ dễ gây phản cảm và làm giảm chất lượng

thực hành quyền công tố.

Vấn đề đào tạo lại và bổ sung những kiến thức pháp luật nhất là kiến thức về kỹ

năng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là đòi hỏi bức thiết. Cho đến

nay trong các trường giảng dạy chưa có trường nào có giáo trình đầy đủ và giảng dạy

chuyên sâu về kỹ năng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự

nói chung và tại phiên tòa phúc thẩm nói riêng. Vừa qua Vụ thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử Viện kiểm sát nhân dân tối cao có xây dựng chuyên đề “Kỹ năng xét hỏi

đối đáp của kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự” song chuyên đề mới ở cấp bộ, phạm vi,

hiệu quả còn hạn chế. Mới đặt ra những vấn đề và kỹ năng chung nhất. Đây là vấn đề cần

tập trung chỉ đạo, nghiên cứu và tổng hợp thành lý luận và thực tiễn cụ thể để bổ sung

kiến thức cho kiểm sát viên làm công tác này.

Ngoài việc nâng cao kiến thức mọi mặt, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ kiểm sát

viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm công tác này, cần có các đợt tập huấn chuyên

sâu, tháo gỡ những vướng mắc trong nhận thức pháp luật, áp dụng pháp luật trong công

tác này, từng bước nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm.

Để nâng cao trách nhiệm của các Kiểm sát viên một vấn đề đặt ra là cần xây dựng

cơ chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại với kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố và

kiểm sát xét xử hình sự để không ngừng nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố

của đội ngũ kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nhất là kiểm sát viên trong

khâu xét xử phúc thẩm hình sự.

3. Công tác kiểm tra, chỉ đạo:

Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra; kịp thời bồi dưỡng, phổ biến kinh nghiệm

tốt trong thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao ở các

Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự. Nhất là những kinh nghiệm

trong quản lý, kiểm tra và phát hiện để kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án,

quyết định sơ thẩm của cấp tỉnh chưa có hiệu lực pháp luật. Những kinh nghiệm và các

kỹ năng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng thời

rút kinh nghiệm những đề xuất của kiểm sát viên trong kháng nghị phúc thẩm không

đúng, yếu chứng lý cũng như thiếu sót tồn tại, yếu kém của kiểm sát viên khi tham gia

phiên tòa phúc thẩm do nghiên cứu không kỹ hồ sơ, chuẩn bị không đầy đủ, trách nhiệm

chưa cao, đề xuất xử lý tại phiên tòa thiếu chính xác, không phát huy được vai trò của

kiểm sát viên trước phiên tòa phúc thẩm.

Kết luận

Trong nhiều hoạt động thực hành quyền công tố của kiểm sát viên ngành Kiểm sát

nhân dân, thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao

trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có một vị trí hết sức quan trọng. Việc thực hiện

tốt chức năng thực hành quyền công tố theo quy định của pháp luật hình sự, tố tụng

hình sự… Trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao

có tác dụng rất lớn đến đấu tranh phòng chống tội phạm, nâng cao hiệu quả công tác

kiểm sát, đảm bảo nguyên tắc xét xử 2 cấp đúng pháp luật, không làm oan người vô

tội và không bỏ lọt kẻ phạm tội, đảm bảo pháp chế trong hoạt động tố tụng hình sự.

Ngược lại, hoạt đông thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân tối cao không tốt sẽ hạn chế đến tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm, xâm

phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xã hội.

Một trong các yếu tố đảm bảo cho chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là các kiểm sát viên phải nâng cao trách nhiệm

nghề nghiệp, thực hiện đúng các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả chất lượng

thực hành quyền công tố mà Nhà nước giao cho ngành Kiểm sát.

Trong những năm qua, ngành Kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân

dân tối cao nói riêng đã có nhiều cố gắng để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực

hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự. Đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất;

góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm quyền dân

chủ của công dân, tăng cường pháp chế XHCN.

Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số hoạt động thực hành quyền công tố còn hạn

chế. Nhất là tổ chức việc quản lý, theo dõi, kiểm tra việc xét xử của cấp sơ thẩm. Trên cơ

sở đó tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm; các kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân tối cao còn nhiều hạn chế trong kỹ năng tham gia phiên tòa phúc thẩm, trong đó chủ

yếu là kỹ năng xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa của kiểm sát viên dẫn đến chất lượng thực

hành quyền công tố bị hạn chế. Yếu kém này có nguyên nhân khách quan, chủ quan,

song chủ yếu là nguyên nhân chủ quan và ý thức trách nhiệm, năng lực trình độ. Mặt

khác một số quy định của pháp luật liên quan đến đảm bảo chức năng của Viện kiểm sát

trong thực hành quyền công tố còn bất cập, hướng dẫn, giải thích để áp dụng pháp luật

thống nhất còn chậm và thiếu; khi vận dụng vào thực tiễn còn nhiều khó khăn.

Xuất phát từ yêu cầu cải cách tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng thực hành

quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm

vụ án hình sự nói riêng. Luận văn nêu lên một số kiến nghị để góp phần nâng cao hiệu

quả, chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối

cao trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự./.

Danh mục các công trình khoa học của tác giả

đã công bố có liên quan đến đề tài luận văn

1. Hà Như Khuê (2003), Những vi phạm Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự trong

xét xử của Tòa án nhân dân các cấp, Chuyên đề cấp bộ.

2. Hà Như Khuê (2006), Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002

của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới về công tác

tư pháp, Chuyên đề cấp bộ.

3. Hà Như Khuê (2007), Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra giám đốc thẩm - tái

thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Chuyên đề cấp bộ.

4. Hà Như Khuê, Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự đối với

các vụ án Viện kiểm sát truy tố Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội các năm:

2004-2005, 2006-2007, 2008-2009, Chuyên đề cấp bộ.

5. Hà Như Khuê (tham gia soạn thảo), Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2009-2010

do Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì.

Danh mục Tài liệu tham khảo

1. Th.S Dương Thanh Biểu (2008), Tranh luận tại phiên toà, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

2. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/01/2002 (khóa IX) về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 (khóa IX) về chiến

lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật tại Việt Nam đến năm 2010,

Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 (khóa IX) về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Tư pháp (1999), Tư pháp hình sự so sánh, Thông tin khoa học pháp lý, Hà Nội.

6. Lê Cảm (2001), Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố, Kỷ yếu đề tài khoa

học cấp bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện

quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Hà Nội.

7. Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3 về việc triển khai thực hiện

Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Hà Nội.

8. Đào Hữu Dân (2005), "Những đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa cơ quan điều

tra với Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án hình sự", Tạp chí Công

an nhân dân, (2).

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,

Nxb Sự thật, Hà Nội.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung

ương khóa VII,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ Chính trị

(khóa IX) về một số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện

trong năm 2000, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. F.Fosthoft (1990), Sự phát triển của các cơ quan tư pháp ở bang Bắc sông Ranh,

Nxb Benhard (bản tiếng Đức).

17. F.Hermann và tập thể tác giả (1990), Quyền công tố trong cơ cấu hành chính - chính

trị, Nxb Pháp lý bang Hessische (bản tiếng Đức).

18. Hồ Chí Minh (1986), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý.

19. TS. Vũ Mộc (1995), Về thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân trong tố

tụng hình sự, thực tiễn và kiến nghị, Kỷ yếu đề tài cấp bộ "Những vấn đề lý

luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam", Hà Nội.

20. Nguyễn Thái Phúc (1999), Một số vấn đề về quyền công tố của Viện kiểm sát, Kỷ yếu đề

tài cấp bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công

tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay", Hà Nội.

21. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1985), Bộ luật hình sự 1985 được

sửa đổi bổ sung 1988, 1992, 1999.

22. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988), Bộ luật tố tụng hình sự 1988

sửa đổi 1999, 2003.

23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Hiến pháp 1992.

24. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật Tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân 2002.

25. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Pháp lệnh Kiểm sát viên

Viện kiểm sát nhân dân năm 2003.

26. TS. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp

trong hoạt động điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

27. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển bách khoa toàn thư

Việt Nam, Hà Nội.

28. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội (1996), Giáo trình công tác kiểm sát, tập 1, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

29. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

30. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

(sửa đổi) (số729/UBPL ngày 14/3), Hà Nội.

31. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân

dân, Hà Nội.

32. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2003), Nghị quyết số 388/NQ/UBTVQH10 ngày

17/3/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền

trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, Hà Nội.

33. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Quyết định số 120/2004/QĐ-VKSNDTC ngày

14/9 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối vao về việc ban hành Quy

chế tạm thời về công tác thực hành quyền công tố, Hà Nội.

34. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Sổ tay Kiểm sát viên, Hà Nội.

35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác kháng nghị phúc

thẩm 3 năm 2004-2006.

36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Các chuyên đề nghiệp vụ từ 2003-2008.

37. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Tổng kết công tác ngành Kiểm sát 25 năm, 30

năm và 40 năm.

38. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Báo cáo tổng kết công tác ngành kiểm sát

2003-2008.

39. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), "Các quy chế quản lý nghiệp vụ của Viện

kiểm sát nhân dân tối cao", Tạp chí Kiểm sát.

40. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Chỉ thị số 03/CT ngày 19/6/2008 của Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về kháng nghị phúc thẩm hình sự.

41. Viện Nghiên cứu Pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận về Nhà nước và pháp luật,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Nguyễn Tất Viễn (2002), Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Kỷ

yếu đề tài cấp bộ: "Những giải pháp nâng cao thực hành quyền công tố và

kiểm sát các hoạt động tư pháp", Hà Nội.

43. Nguyễn Như ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

Mục lục

Trang

1 Mở đầu

7 Chương 1: cơ sở lý luận về chất lượng thực hành quyền công tố của

kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử

phúc thẩm các vụ án hình sự

1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố và nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm

sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự 7

1.2. Khái niệm tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng thực

hành quyền công tố trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự của

Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tối cao 29

Chương 2: thực trạng chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm

sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc

thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam từ 2003 đến nay 38

2.1. Tình hình thụ lý và xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có kháng cáo,

kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao 38

2.2. Khái quát chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân

dân trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự 42

2.3. Nguyên nhân và vấn đề pháp lý đặt ra 66

Chương 3: Yêu cầu, giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công

tố của kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc

73 xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay

3.1. Những yêu cầu khách quan của việc nâng cao chất lượng thực hành quyền

công tố của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xét

xử phúc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay 73

3.2. Giải pháp bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của

Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trong xét xử phúc thẩm

các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay 79

3.3. Một số kiến nghị 91

99 kết luận

101 danh mục các công trình của tác giả

102 Danh mục tài liệu tham khảo

44.

45.

46. Danh mục các bảng trong luận văn

47.

Trang

Bảng 2.1: Tình hình số án có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm trong toàn

quốc 39

Bảng 2.2: Số án có kháng cáo, kháng nghị toàn quốc 41

Bảng 2.3: Số vụ Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm 44

Bảng 2.4: Số án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao được đề nghị cấp

giám đốc thẩm xem xét (2003-2008) 60