BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Văn Bản

CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1963 – 1991 (QUA CÁC VĂN KIỆN NGOẠI GIAO)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Văn Bản

CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1963 – 1991 (QUA CÁC VĂN KIỆN NGOẠI GIAO) Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số:

60220311

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.

Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa

từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả

Nguyễn Văn Bản

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ

Chí Minh, Phòng Sau Đại học, các thầy cô Khoa Lịch Sử cùng tất cả các bạn

đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn Tiến sĩ Lê Phụng Hoàng,

Thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên

cứu và thực hiện luận văn này.

Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận

tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gắng hết sức

mình, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu

vô cùng quý báu.

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2014

Nguyễn Văn Bản

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

Chương 1. VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ

KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1945 – 1962 ................................ 6

1.1. Sự ra đời của vũ khí hạt nhân ........................................................................ 6

1.2. Chính sách vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 – 1962 ............................ 13

1.2.1. Dưới thời Tổng thống Truman (1945 - 1952) .......................................... 13

1.2.2. Dưới thời Tổng thống Eisenhower (1953 – 1960) ................................... 23

1.2.3. Dưới thời Tổng thống Kennedy ............................................................... 24

1.3. Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 đến trước

cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962) ............................................ 26

1.3.1. Những kiến nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân của các nhà khoa học

nguyên tử Hoa Kỳ ...................................................................................... 26

1.3.2. Chính sách của chính quyền Hoa Kỳ về kiểm soát vũ khí hạt nhân ........ 32

1.4. Cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962) ............................................. 37

Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 40

Chương 2. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA

KỲ TỪ 1963 ĐẾN 1976 .......................................................................................... 41

2.1. Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân một phần năm 1963 ( Limited Test

Ban Treaty -LTBT) .................................................................................... 41

2.2. Hiệp ước về Không gian vũ trụ năm 1967 (Outer Space Treaty Text –

OST ............................................................................................................ 49

2.3. Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 (Nuclear Non-

Proliferation Treaty – NPT) ....................................................................... 53

2.4. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1972 (Strategic

Arms Limitation Talks – SALT I) ............................................................. 60

2.5. Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 (TTBT -

Threshold Test Ban Treaty) và Hiệp ước về Nổ hạt nhân vì mục đích

hòa bình năm 1976 (PNET - Peaceful Nuclear Explosions Treaty) .......... 69

Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 74

Chương 3. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA

KỲ TỪ 1977 ĐẾN 1991 .......................................................................................... 75

3.1. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn II năm 1979 (Strategic

Arms Limitation Talks – SALT II) ............................................................ 75

3.2. Các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về kiểm soát vũ khí

chống vệ tinh (ASAT - Anti-Satellite) ....................................................... 80

3.3. Hiệp ước Hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn năm 1987

(INF - Intermediate-Range and Shorter-Range Nuclear Forces Treaty) .. 87

3.4. Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1991 (Strategic

Arms Reduction Treaty – START I) ......................................................... 99

Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 108

KẾT LUẬN ............................................................................................................ 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 112

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ABM: Anti-Ballistic Missille: Tên lửa chống tên lửa đạn đạo, Hiệp ước ABM

ACDA: Arms Control and Disarmament Agency: Cơ quan kiểm soát vũ khí và

giải trừ quân bị của Hoa Kỳ.

AEC: Atomic Energy Commission: Ủy ban năng lượng nguyên tử - Đây là cơ

quan phát triển năng lượng nguyên tử giành cho mục đích quân sự và

mục đích hòa bình của Hoa Kỳ từ năm 1946 đến 1975.

ALCM: Air-Launched Cruise Missile: Tên lửa hành trình phóng từ máy bay.

ASAT: Anti-Satellite: Vũ khí chống vệ tinh

ASBM: Air-to-Surface Ballistic Missile: Tên lửa hành trình không đối đất.

BMD: Ballistic Missile Defense: Phòng thủ tên lửa đạn đạo - Các biện pháp bảo

vệ nhằm chống lại một cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo.

CD: Committee on Disarmament: Ủy ban giải trừ quân bị - Một cơ quan đàm

phán của Liên Hợp Quốc được thành lập năm 1978 cho các hiệp ước đa

phương về giải trừ quân bị. Được đổi tên thành Hội đồng giải trừ quân bị

vào năm 1988 (Conference on Disarmament).

CTBT: Comprehensive Test Ban Treaty: Hiệp ước cấm thử toàn diện – Hiệp ước

cấm thử hạt nhân trong tất cả các môi trường.

ENDC: Eighteen Nation Disarmament Conference: Hội nghị giải trừ quân bị 18

quốc gia – Một cơ quan đàm phán đa phương về giải trừ quân bị được

thành lập năm 1961.

FBS: Forward-Based Systems: Hệ thống căn cứ chuyển tiếp – Đây là một thuật

ngữ của Liên Xô chỉ Hệ thống hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ đặt tại

một nước thứ ba hoặc trên các tàu sân bay mà có thể tấn công các mục

tiêu trên đất nước Liên Xô.

GLCM: Ground-Launched Cruise Missile: Tên lửa hành trình phóng từ mặt đất

IAEA: International Atomic Energy Agence: Cơ quan Năng lượng nguyên tử

quốc tế - Một tổ chức quốc tế thành lập năm 1956 để thúc đẩy sử dụng

hòa bình nguồn năng lượng nguyên tử.

ICBM: Intercontinental Ballistic Missile: Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, có tầm

bắn trên 5.500 km.

INF: Intermediate – Range Nuclear Forces: Lực lượng hạt nhân tầm trung,

Hiệp ước hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn.

LTBT: Limited Test Ban Treaty: Hiệp ước hạn chế thử vũ khí hạt nhân.

MAD: Mutual Assured Destruction: Các khái niệm về sự răn đe đối ứng sau khi

vượt qua được cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên của của 2 siêu cường Hoa

Kỳ và Liên Xô, nếu một trong hai siêu cường vượt qua được cuộc tấn

công hạt nhân đầu tiên của phía bên kia thì sẽ đáp trả không thương tiếc

và hủy diệt dựa trên sức mạnh hạt nhân của mình.

MIRV: Multiple Independently Targetable Reentry Vehicle: Tên lửa mang đầu

đạn tự tách, có thể tấn công nhiều mục tiêu độc lập.

MX: Missile Experimental: Tên lửa thực nghiệm – Một loại ICBM mới của

Hoa Kỳ với 10 đầu đạn hạt nhân.

NPT: Non-Proliferation: Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân

NTM: National Technical Means: Các phương tiện kỹ thuật quốc gia –Phương

tiện kỹ thuật tình báo của một quốc gia (nằm ngoài quốc gia đó, tức được

lắp đặc ở một quốc gia đồng minh) dùng để giám sát về việc thi hành

những thỏa thuận kiểm soát vũ khí của quốc gia khác đã được kí kết.

NTM bao gồm truyền hình vệ tinh dựa trên sự cảm biến để trinh sát hình

ảnh, hệ thống rada và hệ thống quang học trên biển, hệ thống rada và

ăngten trên mặt đất để thu thập thông tin từ xa.

NMD: Nation Missile Defense: Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia.

NATO: North Atlantic Treaty Organization: Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây dương

OST: Outer Space Treaty: Hiệp ước về không gian vũ trụ.

PD 59: Presidential Directive 59: Chỉ thị 59 của Tổng thống –Một chỉ thị của

chính quyền Carter nhằm hình thành học thuyết đối kháng chiến lược,

trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của những sự lựa chọn linh hoạt để

đảm bảo ngăn chặn chống lại một loạt các mối đe dọa.

PNET: Peaceful Nuclear Explosion Treaty: Hiệp ước nổ hạt nhân vì mục đích

hòa bình.

SAC: Strategic Air Command: Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược.

SALT: Strategic Arms Limitation Talks: Hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược.

SAM: Surface – to – Air Missile: Tên lửa đất đối không.

SDI: Strategic Defense Initiative: Sáng kiến phòng thủ chiến lược Hoa Kỳ.

SLBM: Submarine – Launched Ballistic Missile: Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu

ngầm.

START: Strategic Arms Reduction Treaty: Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược.

TTBT: Threshold Test Ban Treaty: Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân.

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1 Số lượng vũ khí hạt nhân trên thế giới giai đoạn 1945 - 1962 ................ 37

Bảng 2.1. Số lượng vũ khí hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ (kể cả đã cung cấp

cho các nước Tây Âu) và Liên Xô theo quan điểm cân bằng của hai

nước. ........................................................................................................ 88

Bảng 3.1. Số lượng đầu đạn hạt nhân trên các loại vũ khí hạt nhân chiến lược

của Hoa Kỳ và Liên Xô năm 1990 ........................................................ 105

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Hoa Kỳ là quốc gia đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ Chiến tranh

Lạnh. Ý thức về mối đe dọa đến an ninh, lợi ích và sự sống còn của mình và đồng

minh phát xuất từ đối thủ bên kia – phe xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô -

Hoa Kỳ đã không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của mình. Một trong

những biện pháp có tầm quan trọng quyết định là tăng cường sức mạnh quân sự

bằng việc xây dựng lực lượng vũ trang quy ước và hạt nhân hùng mạnh. Trong đó

vũ khí hạt nhân có ý nghĩa quyết định. Hoa Kỳ là nước sở hữu vũ khí hạt nhân sớm

nhất của thế giới và cũng là kho vũ khí hạt nhân khổng lồ lớn nhất thế giới. Cuộc

khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 đã đẩy nhân loại đến bên bờ vực của một cuộc

chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Ý thức được sự hủy diệt nếu chiến tranh hạt nhân xảy

ra Hoa Kỳ và Liên Xô đã kiềm chế và bắt đầu thấy cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa

đàm phán về vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân. Các cuộc đàm phán bắt đầu được

đẩy mạnh giữa hai nước từ năm 1963. Từ đó đến khi Liên Xô tan rã, chính sách

kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã đạt được nhiều kết quả, cụ thể là có rất

nhiều Hiệp định về kiểm soát vũ khí hạt nhân được kí kết.

Nghiên cứu “CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA

KỲ GIAI ĐOẠN 1963 – 1991 (QUA CÁC VĂN KIỆN NGOẠI GIAO)” mục đích

đặt ra là:

Hiểu rõ bối cảnh dẫn đến các cuộc đàm phán và kí kết các Hiệp ước về kiểm

soát vũ khí hạt nhân giữa Hoa Kỳ và các nước khác, đặc biệt là vớiLiên Xô.

Thấy được Hoa Kỳ luôn gắn vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề

chính trị khác trong quá trình đàm phán cũng như khi các hiệp ước đã được kí kết.

Phân tích nội dung Hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân đã được Hoa Kỳ kí kết.

Từ đó thấy được tác động của mối quan hệ về kiểm soát vũ khí hạt nhân tới

các mối quan hệ ngoại giao khác giữa Hoa Kỳ và các nước khác, đặc biệt là Liên Xô.

Cuối cùng thấy được tầm quan trọng của vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân đến

việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới nói chung và của Hoa Kỳ nói riêng, và

những nỗ lực của Hoa Kỳ để đạt được điều đó.

2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến vũ khí hạt nhân và chính sách

kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ thì có rất nhiều công trình nghiên cứu ở

ngoài nước:

Ủy ban Kiểm soát vũ khí và An ninh quốc tế (Committee on International

Security and Arms Control) của Học viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (National

Academy of Sciences) đã nghiên cứu và cho xuất bản cuốn sách “Nuclear Arms

Control: Background and Issues” (Kiểm soát vũ khí hạt nhân: Bối cảnh và các vấn

đề) xuất bản năm 1985, đây là nguồn tài liệu quý giá và được người viết luận văn

này tham khảo nhiều nhất. Cuốn sách gồm 8 phần chính, trong đó Phần 1 là phần

Tổng quan, cung cấp cho người đọc những hiểu biết tổng quan nhất về các mục tiêu

và phương pháp kiểm soát vũ khí hạt nhân, 7 phần còn lại các tác giả tập trung vào

các Hiệp ước đã được kí kết giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về vấn đề kiểm soát vũ khí

hạt nhân và các vấn đề của mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô quanh các Hiệp ước này.

Ngoài ra, phần phục lục của sách là những văn bản gốc về các một số Hiệp ước

kiểm soát vũ khí hạt nhân đã được Hoa Kỳ và Liên Xô kí kết.Tập thể tác giả của

cuốn sách đã trình bày các vấn đề về kiểm soát vũ khí hạt nhân không theo trình tự

thời gian mà theo phân loại các loại vũ khí hạt nhân được kiểm soát: vũ khí hạt

nhân tiến công chiến lược; vũ khí hạt nhân phòng thủ và theo phương pháp kiểm

soát vũ khí hạt nhân: giới hạn, cắt giảm, cấm thử, không phổ biến, đóng băng. Đây

là phương pháp trình bày rất khoa học, giúp cho người đọc và người nghiên cứu có

cái nhìn xuyên suốt và toàn diện về vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân.

John Lewis Gaddis, Philip H. Gordon, Ernest R. May, Jonathan Rosenberg

viết cuốn“Cold War Statesmen Confront the Bomb: Nuclear Diplomacy Since

1945” (Các chính trị gia thời Chiến tranh Lạnh đối đầu với bom: Ngoại giao hạt

nhân từ năm 1945) xuất bản năm 1999. Cuốn sách gồm hai phần, Phần 1: Siêu

cường và phần 2: Đồng minh. Các tác giả tập trung trình bày chính sách hạt nhân và

vai trò của vũ khí hạt nhân trong chính sách đối ngoại của các Tổng thống Mỹ:

Truman, Eisenhower, Kennedy; các nhà lãnh đạo Xô Viết: Stalin, Khrushev và các

chính trị gia của một số nước đồng minh của hai siêu cường này: Winson Churchill,

3

Chales De Gaulle, Mao Trạch Đông, Konrad Adenauer. Đây là nguồn tài liệu tác

giả tham khảo chính để viết Chương I của luận văn này.

Trung tâm lịch sử quân sự Quân đội Hoa Kỳ (US Army center of Military

History) có một công trình nghiên cứu rất công phu về “History of strategic air and

ballistic missile defense” (Lịch sử Không quân chiến lược và hệ thống phòng thủ

tên lửa đạn đạo) gồm hai tập :Vol 1 (1945 - 1955), Vol 2 (1956 - 1972) cung cấp

một cái nhìn toàn diện về lịch sử lực lượng này của Hoa Kỳ và Liên Xô.

Văn phòng Liên bang (Department of State) đã xuất bản cuốn “Foreign

Relations of The United States 1969 – 1976, Vol 32: SALT I (1969 - 1972)” (Quan

hệ đối ngoại của Hoa Kỳ 1969 – 1976, Tập 32: SALT 1), trình bày khá hoàn chỉnh

về tiến trình đàm phán và kí kết SALT I giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.

Cục lưu trữ An ninh quốc gia (National Security Archive) xuất bản cuốn “The

Secret History of The ABM Treaty, 1969-1972” (Lịch sử bí mật của Hiệp ước

ABM, 1969 - 1972) được William Burr đăng ngày 8 tháng 11 năm 2001 trên địa chỉ

Website:http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB60/.Cuốn sách phân

tích rất kỹ lưỡng tiến trình đàm phán rất phức tạp về ABM giữa Hoa Kỳ và Liên Xô

thông qua các nguồn tài liệu được giải mật. Cuốn sách dẫn nguyên gốc 39 tài liệu

mật là biên bản các cuộc họp đàm phán về ABM. Thông qua hệ thống tài liệu này,

các tác giả đã lí giải phần nào những vấn đề xung quanh ABM như: Tại sao Nhà

Trắng thời Nixon thấy được những lợi thế của Mỹ trong hệ thống ABM ( tài liệu 1);

Cách chấp nhận của Liên Xô về sự giới hạn của một hệ thống ABM trong việc bảo

vệ thủ đô Moscow và Washington (tài liệu 4);Sự khó khăn của tiến trình đàm phán

về những quy định của việc hạn chế một số loại vũ khí trong tương lai (ví dụ: laser

và vũ khí không gian) nằm trong hệ thống ABM ( tài liệu 11-13, 15, 16-18, 26, 27,

32 và 34-36);Tầm quan trọng của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hệ thống ABM

trong tương lai mà phía Mỹ đề xuất ( tài liệu 14, 20, 21, và 26); Mỹ sẵn sàng chấp

nhận về một đề nghị của Liên Xô rằng một thỏa thuận ABM rõ ràng cấm các hệ

thống phòng thủ tên lửa quốc gia ( tài liệu 24 và 25); Đề xuất về ABM của Mỹ bao

gồm các trận địa để bảo vệ ICBM, mặc dù Kissinger tự thừa nhận rằng ông “không

có lý do quân sự” cho đề xuất này ( tài liệu 19);Quá trình đàm phán phức tạp giữa

4

Mỹ và Liên Xô về việc đồng ý một thỏa thuận mỗi bên được để một vài trận địa

ABM ( đặc biệt là tài liệu 37-39).

Tài liệu tiếng Việt nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đề tài có:

Cuốn sách “Hoa Kỳ với vấn đề hạt nhân trong hơn nửa thế kỷ qua (1945 -

2010)” của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Cuốn sách có 4 chương theo 4 giai

đoạn (1956 – 1962; 1963 – 1976; 1977 – 1991; 1992 - 2010), tác giả trình bày chính

sách hạt nhân của Hoa Kỳ và vấn đề kiểm soát, hạn chế, cắt giảm vũ khí hạt nhân

của Hoa Kỳ qua từng giai đoạn. Trong quá trình nghiên cứu thì đây là nguồn tài liệu

tiếng Việt mà người viết luận văn này tham khảo nhiều nhất.

Cuốn sách “Lịch sử quan hệ quốc tế ở Châu Âu trong Chiến tranh Lạnh (1949

- 1991)” của TS. Lê Phụng Hoàng. Trong phần 7 “Giải trừ vũ khí (từ các cuộc đàm

phán về cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân tháng 10 năm 1958 đến cuộc gặp gỡ

Vladivostok tháng 11 năm 1974) tác giả trình bày khá khái quát về vấn đề giải trừ

vũ khí (chủ yếu là vũ khí hạt nhân) trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô.

Tác giả Đặng Thị Hoài thuộc khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm Thành

phố Hồ Chí Minh có đề tài khoa học cấp cơ sở “Vấn đề vũ khí hạt nhân trong chính

sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ 1954 – 2009”. Đề tài trình bày khác hoàn chỉnh vị trí

của vũ khí hạt nhân trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ qua các đời tổng thống

từ 1945 – 2009.

Công trình nghiên cứu này góp phần làm rõ hơn bối cảnh dẫn đến các cuộc

đàm phán và việc kí kết các hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ,

phân tích các điều khoản của các hiệp ước cũng như việc góp phần làm rõ tác động

của chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân đến các mối quan hệ ngoại giao khác giữa

Hoa Kỳ và các nước khác, đặc biệt là với Liên Xô.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của

Hoa Kỳ từ 1963 – 1991(Qua các văn kiện ngoại giao)”.

Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ năm 1963 – 1991. Mốc mở

đầu năm 1963, tức là sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba, đây cũng là năm Hoa Kỳ

và Liên Xô đẩy mạnh việc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Mốc kết thúc là

5

năm 1991, năm Liên Xô tan rã, thực ra khi Liên Xô tan rã vấn đề kiểm soát vũ khí

hạt nhân vẫn được tiếp tục giữa Hoa Kỳ và quốc gia thừa kế lớn nhất và hợp pháp

những di sản của Liên Xô là Liên bang Nga. Nhưng người viết vẫn quyết định dừng

lại ở mốc 1991 để nhằm mục đích thấy được tác động của vấn đề kiểm soát vũ khí

hạt nhân đến các mối quan hệ ngoại giao khác giữa hai nước đứng đầu hai khối

nước trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu nghiên cứu

- Sách: nguồn tiếng Anh và tiếng Việt

- Các văn bản gốc các hiệp ước từ trang Web: http://www.state.gov

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Kết hợp phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, đánh giá...

5. Đóng góp của luận văn

Trình bày có hệ thống về chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ

năm 1963 – 1991. Làm rõ bối cảnh dẫn đến đàm phán và kí kết các Hiệp ước về

kiểm soát vũ khí hạt nhân, tác động của mối quan hệ về kiểm soát vũ khí hạt nhân

đến các mối quan hệ ngoại giao khác giữa Hoa Kỳ và các nước khác (đặc biệt là với

Liên Xô).

Cung cấp nguồn tài liệu (nhất là văn bản gốc các Hiệp ước) về vấn đề kiểm

soát vũ khí hạt nhân giữa Hoa Kỳ và các nước khác (chủ yếu là với Liên Xô) nhằm

phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu lịch sử.

6. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục. Luận văn

được cấu trúc gồm ba chương như sau:

Chương I.Vũ khí hạt nhân và chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa

Kỳ giai đoạn 1945 – 1962

Chương II.Chính sáchkiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ giai đoạn 1963 -

1976

Chương III.Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ giai đoạn 1977

- 1991

6

Chương 1. VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ

KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1945 – 1962

1.1. Sự ra đời của vũ khí hạt nhân

Vật chất được cấu tạo từ những hạt vô cùng nhỏ bé gọi là nguyên tử. Những

nguyên tử nhỏ bé đã được con người nghĩ tới từ thế kỷ V trước Công nguyên. Đến

đầu thế kỷ XIX con người mới có những quan niệm đúng đắn về nguyên tử.

Nguyên tử được nghiên cứu mạnh mẽ vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Mới

đầu việc nghiên cứu nguyên tử chỉ thuần túy là vì mục đích khoa học, tuy nhiên từ

đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc, việc

đẩy mạnh nghiên cứu về nguyên tử còn mang mục đích chính trị và quân sự. Mô

hình cấu tạo nguyên tử được hai nhà vật lý học Ernest Rutherfor và Neils Bohr đưa

ra, theo đó một nguyên tử được cấu tạo bởi ba hạt là proton, neutron và electron.

Trung tâm của nguyên tử là hạt nhân, bao gồm proton (mang điện tích dương) và

neutron (không mang điện tích). Electron bay xung quanh hạt nhân và mang điện

tích âm. Số lượng các hạt bên trong nguyên tử ảnh hưởng đến tính chất của nguyên

tử đó. Nếu thay đổi số proton ta sẽ có một nguyên tử khác hoàn toàn. Nếu thay đổi

số neutron ta sẽ có một đồng vị mới của nguyên tố đó. Một số đồng vị của nguyên

tố là ổn định, một số khác không ổn định và dễ bị phân rã gọi là bức xạ. Hiện tượng

phong rã phóng xạ là hiện tượng các hạt nhân của các đồng vị không ổn định tự giải

phóng các hạt ra khỏi chính nó, gọi là bức xạ. Có ba loại phân rã phóng xạ đó là

phân rã Anpha, phân rã Beta và phân hạch. Phân rã phân hạch là hiện tượng một hạt

nhân bị chia thành hai phần, trong quá trình phân hạch nó có thể tạo ra một vụ nổ để

giải phóng nguồn năng lượng điện cực lớn được biết đến là tia gamma, đây là loại

tia duy nhất của bức xạ hạt nhân đến từ năng lượng thay vì các chuyển động. Đây là

cơ sở của phản ứng phân hạch, phản ứng phân hạch là cơ sở để chế tạo bom nguyên

tử (bom A). Phản ứng phân hạch được phát triển bởi nhà vật lý học người Ý Enrico

Fermi vào năm 1930. Ông đã chứng minh rằng việc bắn phá các neutron có thể làm

thay đổi tính chất hạt nhân và tạo nên các nguyên tố mới. Sau những nghiên cứu của

Fermi, các nhà khoa học Đức đã sử dụng các hạt neutron bắn phá nguyên tử

7

Uranium và tạo ra một đồng vị phóng xạ mới không ổn định. Sau đó các nhà khoa

học tại Đại học Princeton (Hoa Kỳ) đã phát hiện ra trong quá trình phân hạch đã dẫn

đến việc các neutron được sản xuất. Và các neutron tự do này có thể tiếp tục tạo ra

phản ứng phân hạch khác, như vậy nó sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền với năng

lượng nhiệt và bức xạ vô hạn. Đây chính là khởi đầu của loại vũ khí hủy diệt đáng

sợ nhất từ trước đến nay.Vào tháng 3 năm 1940, một nhóm các nhà khoa học tại Đại

học Colombia đã thử nghiệm một phản ứng dây chuyền với đồng vị uranium-235

nhưng không thành công. Sau đó, toàn bộ nghiên cứu được chuyển đến Đại học

Chicago, Fermi là người đã thành công trong việc tạo ra một phản ứng dây chuyền

có kiểm soát đầu tiên trên thế giới, sử dụng U-235 làm nguyên liệu. Trong khi

nguyên tử uranium thông thường cần tới 700 triệu năm để có thể phân rã, một sự tác

động từ neutron tự do sẽ làm hạt nhân trở nên bất ổn và có thể phân rã ngay lập tức.

Khi nguyên tử uranium nhận neutron tự do, nó sẽ phân rã thành hai nguyên tử đồng

vị nhẹ hơn và giải phóng khoảng 2 hoặc 3 neutron mới. Quá trình này đồng thời

phát ra các tia gamma bức xạ và giải phóng năng lượng. Đồng vị U-235 được lựa

chọn là do khả năng tiếp nhận neutron tự do rất cao. Quá trình tiếp nhận và phân rã

xảy ra vô cùng nhanh chóng, chỉ mất khoảng 1 phần tỉ giây. Để có thể hoạt động,

nguyên liệu uranium cần phải được “làm giàu”, nghĩa là làm tăng tỉ lệ của đồng vị

U-235. Ở cấp độ vũ khí hạt nhân, đồng vị U-235 phải chiếm trên 90% nguyên liệu

chính. Trong năm 1941, các nhà khoa học tại Đại học California đã tìm ra loại

nguyên tố thứ hai có thể làm nguyên liệu hạt nhân và đặt tên nó là plutonium. Sau

đó một năm, họ đã thử nghiệm thành công phản ứng phân hạch dây chuyền với loại

nguyên tố mới này. Trong một quả bom phân hạch, nhiên liệu phải được giữ ở mức

dưới khối lượng tới hạn, ngăn không cho phản ứng dây chuyền xảy ra và tránh các

vụ nổ sớm. Khối lượng tới hạn là mức khối lượng tối thiểu để đảm bảo phản ứng

phân hạch có thể xảy ra và duy trì phản ứng dây chuyền. Do đó có những thách thức

đặt ra khi thiết kế một quả bom phân hạch. Đầu tiên là phải chuyển các khối lượng

nhiên liệu tập trung lại với nhau để đạt mức khối lượng tới hạn. Sau đó phải có

neutron tự do để kích hoạt phản ứng phân hạch. Để làm được điều này các nhà khoa

học đã thiết kế một máy phát neutron nhỏ. Thiết kế cũng phải đảm bảo càng nhiều

8

nguyên liệu hạt nhân nén lại với nhau trước khi quả bom phát nổ, nhằm đảm bảo

phản ứng dây chuyển không bị ngắt quãng và tận dụng được hết số nguyên liệu. Để

làm được điều này, các nhà khoa học sử dụng một nguyên liệu can thiệp là U-238.

Vật liệu can thiệp sẽ được làm nóng và mở rộng bởi phản ứng phân hạch tại lõi,

chúng sẽ gây sức ép trở lại lõi và làm chậm quá trình phản ứng trong một thời gian

ngắn. Trong lúc này, các neutron cũng bị nén trở lại lõi và nâng cao hiệu quả của

phản ứng phân hạch. Cấu tạo của một quả bom phân hạch đơn giản bao gồm một

đầu đạn nhỏ U-235 và một khối nguyên liệu U-235 hình cầu, khi đầu đạn gặp khối

nguyên liệu nó sẽ tạo nên khối lượng tới hạn và kích hoạt quá trình phản ứng phân

hạch dây chuyền. Loại bom nguyên tử này được gọi là bom phân hạch Trigger, có

hai loại bom phân hạch với cơ chế hoạt động khác nhau là Little Boy và Fat Man.

Little Boy là quả bom đã thả xuống Hiroshima với sức công phá 15 kiloton, tương

đương 15.000 tấn thuốc nổ TNT. Hiệu suất của nó chỉ đạt 1,5%, tức là chỉ có 1,5%

nguyên liệu hạt nhân tham gia phản ứng. Cấu tạo của nó bao gồm một ống dài để

dẫn hướng cho đầu đạn U-235 đến khối nguyên liệu. Một thiết bị cảm biến độ cao

sẽ tính toán độ cao thích hợp, sau đó kích hoạt đầu đạn, đầu đạn kết hợp với khối

nguyên liệu đồng thời kích hoạt máy phát điện và phản ứng phân hạch xảy ra, tạo ra

một vụ nổ hủy diệt. Fat Man cũng có cùng nguyên lý hoạt động nhưng cấu tạo của

nó khác với Little Boy. Đây là quả bom đã thả xuống Nagasaki với sức công phá 23

kiloton và đạt hiệu suất 17%. Cấu tạo của nó bao gồm một lõi plutonium-239 bao

quanh là chất nổ đặc biệt và ngoài cùng là U-235. Cơ chế hoạt động của nó là kích

hoạt khối chất nổ trước, sau đó lực ép sẽ nén chặt lõi plutonium và tạo khối lượng

tới hạn kích hoạt phản ứng khiến quả bom phát nổ.

Đến năm 1943, nhà vật lý người Mỹ Edward Teller đã tìm ra loại phản ứng

nhiệt hạch có thể giải phóng neutron, để cung cấp cho phản ứng phân hạch với tốc

độ cao hơn. Sau này nó đã trở nên phổ biến, được áp dụng vào các loại vũ khí hạt

nhân hiện nay và được gọi là bom nhiệt hạch. Ở nhiệt độ cao, các hạt nhân Hydro

của đồng vị Đơteri và Triti có thể dễ dàng hợp nhất và giải phóng một lượng lớn

năng lượng trong quá trình này. Loại vũ khí sử dụng nguyên lý này được họi là bom

nhiệt hạch, hay bom Hydro (bom H) (do nguyên liệu chính là đồng vị của Hydro).

9

Việc chế tạo bom nhiệt hạch cũng gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, Đơteri và Triti là

hai loại khí và rất khó để dự trữ. Đồng vị Triti rất hiếm và không ổn định. Để phản

ứng xảy ra cần cung cấp một lượng nhiệt rất lớn, bên cạnh đó phải bổ sung nhiên

liệu liên tục. Để giải quyết vấn đề đầu tiên, các nhà khoa học sử dụng hợp chất Liti -

Đơteri, đây là hợp chất rắn không phân rã phóng xạ ở nhiệt độ bình thường. Các nhà

khoa học dựa trên một phản ứng phân hạch của Liti để tạo ra Triti, đồng thời phản

ứng phân hạch này cũng tạo ra lượng nhiệt cần thiết cho sự kết hợp giữa Triti và

Đơteri. Bên trong một quả bom nhiệt hạch bao gồm một quả bom phân hạch nhỏ,

một lõi nhiệt hạch bao gồm một ống U-238 để làm vật liệu can thiệp, bên trong là

lõi Liti - Đơteri làm nguyên liệu chính và một thanh plutoni-239 ở trung tâm.

- Khi kích hoạt sẽ làm nổ quả bom phân hạch trước, giải phóng tia X.

- Tia X cung cấp nhiệt cho lõi chính, tuy nhiên vật liệu can thiệp ngăn chặn vụ

nổ sớm và ép phần lõi vào khoảng 30 lần.

- Phần lõi plutoni-239 bị ép lại đạt mức khối lượng tới hạn và kích hoạt phản

ứng phân hạch tiếp theo.

- Phản ứng phân hạch này tạo ra nhiệt, bức xạ và neutron tự do.

- Các neutron này đi vào phần lõi Lithium - Đơteri, kết hợp với Liti tạo ra

Triti.

- Các điều kiện nhiệt độ và áp suất lúc này đủ để Đơteri và Triti kết hợp tạo

thành phản ứng nhiệt hạch, tạo ra nhiều nhiệt và neutron hơn.

- Các neutron này tiếp tục gây ra phản ứng phân hạch trong U-238 và quả bom

phát nổ.

Tất cả chỉ xảy ra trong vòng 1 phần 600 tỉ giây, tạo ra một vụ nổ với sức công

phá 10.000 kiloton, mạnh hơn 700 lần so với một quả bom Little Boy. Một vụ nổ

hạt nhân có sức tàn phá ghê gớm, nó có thể phá hủy toàn bộ một thành phố chỉ

trong vài phút. Tại tâm vụ nổ, nhiệt độ có thể lên đến 300 triệu độ C và làm mọi thứ

bốc hơi ngay lập tức. Áp lực từ vụ nổ thổi bay các mảnh vỡ từ các tòa nhà cũng gây

ra thiệt hại lớn cho các khu vực xung quanh bán kính trên 10 km. Tuy nhiên tác hại

lớn nhất từ một vụ nổ hạt nhân là do bụi phóng xạ gây ra. Bụi phóng xạ và các bức

xạ từ vụ nổ gây ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, tăng nguy cơ bị ung thư máu, vô

10

sinh và các dị tật bẩm sinh. Sự ảnh hưởng của bụi phóng xạ có thể kéo dài hàng

chục năm.

Trở lại với lịch sử phát triển của vũ khí hạt nhân, việc nghiên cứu nguyên tử

được diễn ra ở rất nhiều quốc gia. Trước khi Hitler lên cầm quyền ở Đức ngày

30.1.1933, trung tâm nghiên cứu của các nhà vật lí và hóa học nguyên tử là Đại học

Gottingen ở Đông Phổ thuộc Đức, trong số các nhà bác học ở đây có cả Robert

Oppenheimer – người sau này được xem là cha đẻ của bom nguyên tử. Khi Hitler

lên cầm quyền ở Đức, vì nhiều lí do khác nhau nhưng tựu trung lại là vì không thể

làm khoa học dưới một chính thể độc tài tàn bạo nên các nhà bác học nguyên tử của

các quốc gia đã rời Gottingen, trong đó có nhiều nhà khoa học gốc Đức. Nơi họ lựa

chọn đến đó là Hoa Kỳ, ở đó có những điều kiện làm việc và nghiên cứu rất tốt.

Trong số những nhà bác học Đức di cư sang Mỹ nổi tiếng nhất là nhà vật lý lý

thuyết Albert Einstein. Einstein là người Đức gốc Do Thái, do không thể chịu được

sự kỳ thị với những người Do Thái của chính quyền Hitler nên Einstein quyết định

đến Hoa Kỳ định cư. Leo Szillard – một nhà vật lý học nguyên tử người Hungaria –

cũng đến Hoa Kỳ, chính Szillard là người chủ xướng đề cập đến đến vấn đề chế tạo

vũ khí nguyên tử, ông lo sợ rằng nếu người Đức có bom nguyên tử trước Hoa Kỳ

thì quả là một thảm họa đối với thế giới. Szillard thấy rằng để thu hút sự chú ý của

chính phủ Hoa Kỳ về vấn đề vũ khí hạt nhân cần phải có những tác động của các

nhà bác học hàng đầu, và ông đã thuyết phục được Einstein viết thư trực tiếp lên

Tổng thống F.K.Roosevelt. Ngày 2.8.1939 Einstein đã gởi lên Tổng thống

Roosevelt một bức thư quan trọng. Phần đầu lá thư ông viết:

“ Thưa Ngài,

Một số nghiên cứu gần đây của E.Fermi và L.Szillard, với bản thảo đã được

gởi đến cho tôi, khiến tôi nghĩ rằng nguyên tố Urani có thể trở thành nguồn năng

lượng mới và quan trọng trong tương lai gần. Có vài khía cạnh trong vấn đề này

đòi hỏi chúng ta phải thận trọng và, nếu cần thiết, cần phải có hành động nhanh

chóng của chính phủ. Thế nên tôi tin rằng tôi có bổn phận phải kêu gọi sự chú ý của

Ngài đối với những việc sau đây:....Chúng ta có thể tạo ra một chuỗi phản ứng hạt

11

nhân với nguyên tố Urani. Giờ đây dường như chắc chắn chúng ta có thể làm được

điều này trong tương lai gần.

Hiện tượng mới này cũng sẽ dẫn đến việc kiến tạo bom nguyên tử, và chúng ta

có thể hình dung rằng những quả bom mới có sức mạnh khủng khiếp sẽ xuất hiện.

Chỉ cần một quả bom loại này, được vận chuyển bằng tàu thuyền và phát nổ tại bến

cảng, có thể hủy diệt toàn bộ bến cảng và các khu vực lân cận...

Trong trường hợp này, Ngài có thể nghĩ đến việc thiết lập mối quan hệ mật

thiết giữa Chính phủ và nhóm các nhà vật lý học đang nghiên cứu vấn đề này tại

Hoa Kỳ”. [44]

Sau đó ông kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ hãy cung cấp tài chính để đẩy nhanh

tốc độ nghiên cứu về bom nguyên tử. Lá thư được kết thúc bằng lời cảnh báo rằng

các nhà khoa học Đức đang nghiên cứu việc chế tạo bom nguyên tử. “ Đức đã

ngừng hẳn việc bán Uranium từ mỏ Chzech – Slovakian. Điều đó thật dễ hiểu vì

viện Kaiser Wilhelm ở Berlin cũng đang nghiên cứu về Uranium.” [44]. Bức thư

này mãi đến ngày 11.10.1939 mới đến tay Roosevelt, ngay sau đó Roosevelt đã viết

thư phúc đáp Einstein với lời cảm ơn sâu sắc. Trong thư Roosevelt viết: “Tôi đã

triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để nghiên cứu kỹ các khả năng có thể xảy ra theo

như đề xuất của anh liên quan đến nguyên tố Urani” [Dẫn lại theo 14, tr.459]. Cũng

trong bức thư này Roosevelt đã thông báo cho Einstein rằng ông đã cho thành lập

Ủy ban nghiên cứu Uranium (Uranium Commitee), Ủy ban này đã họp cuộc họp

đầu tiên vào ngày 21.10.1939.

Vào tháng 6.1940 Ủy ban Uranium đề nghị với tổng thống cần tăng ngân sách

cho chi phí nghiên cứu uranium. Cũng trong thời gian này, Tổng thống Roosevelt

đã ra quyết định thành lập Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng – National Defense

Research Commitee (NDRC) do Vannevar Bush làm chủ tịch. Ngày 6.12.1941 –

đúng một ngày trước khi Nhật tiến công vào Pearl Harbour, Tổng thống Roosevelt

đã phê chuẩn một kế hoạch tuyệt mật chế tạo bom nguyên tử. Và bắt đầu từ ngày

13.8.1942 toàn bộ kế hoạch chế tạo bom nguyên tử này được đặt tên là “Dự án

Manhattan” (Manhattan Project). Công việc nghiên cứu được tiến hành độc lập,

phân tán ở hải quân, các trường đại học, các viện nghiên cứu. Dự án Manhattan sau

12

khi thống nhất trực thuộc tổng thống, không ai được biết và can thiệp kể cả phó

tổng thống. Trong số 15.000 người làm việc trong đồ án Manhattan thì chưa đến 12

người biết hết toàn bộ kế hoạch [10, tr.116]. Trớ trêu thay, nhà bác học đã viết lá

thư thuyết phục Tổng thống Roosevelt – Albert Einstein – đã không được tham gia

vào dự án này. Sự kiểm soát tối cao các công tác nguyên tử đã chuyển từ tay các

nhà khoa học vào tay Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng gồm 3 đại diện của lực lượng

vũ trang: Tướng Lesley Richard Groves, Tướng Stayer, Đô đốc Parnell và chỉ có 2

đại diện của các nhà bác học là tiến sĩ Vannaver Bush và tiến sĩ James Conent [10,

tr.116]. Đến ngày 17.9.1942 tướng Groves được chỉ định lãnh đạo hành chính toàn

bộ Dự án Manhattan. Khu vực thực hiện Dự án Manhattan là vùng Ocridge thuộc

bang Tennessi, đây được gọi là “thành phố bí mật thứ nhất” chủ yếu là xây dựng

các nhà máy sản xuất chất nổ cho bom nguyên tử. Tướng Groves đã mời nhà vật lý

học nguyên tử gốc Đức xuất chúng là Robert Oppenheimer tham gia vào dự án

Manhattan. Theo đề nghị của Oppenheimer thì trung tâm đặt các nhà máy sản xuất

vật liệu phân hạch, được gọi là “thành phố bí mật thứ hai” được đặt tại vùng Los

Alamos thuộc bang New Mexico, đến tháng 7.1943 Oppenheimer được cử làm

giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos. Công việc nghiên cứu được tiến hành

khẩn trương, tích cực, đặc biệt là ở giai đoạn cuối của dự án Hoa Kỳ nhận được sự

giúp đỡ của nhiều nhà khoa học đến từ Anh, Canada. Tổng thống Roosevelt là

người đặt nền móng cho công trình vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ nhưng ông đã qua

đời trước khi bom nguyên tử được chế tạo thành công.

Quả bom đầu tiên được cho nổ thành công tại khu thử nghiệm Jornada de

Muerto (Miền chết) ở vùng Alamogordo thuộc bang New Mexico vào 5h30 ngày 16.7.1945. Cuộc thử nghiệm này được mang mật danh quy ước là Trinity1 (Ba

ngôi). Một quả cầu lửa không ngừng lớn lên, nó choáng hết cả bầu trời và mặt đất

[10, tr.194]. Tướng Groves viết: “Một vài người bị nổi kích động xâm chiếm đã

nhảy ra khỏi ô tô mà quên không đeo mặt nạ. Sau hai hay ba giây họ bị mù và mất

1 Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh thần

đi khả năng nhìn thấy quang cảnh mà họ đã đợi suốt ba năm” [Dẫn lại theo 10,

13

tr.194]. Farell, một vị tướng trong ban lãnh đạo Manhattan Project, chứng kiến vụ

nổ, đã viết: “Tất cả khu vực đều được chiếu rọi bằng một thứ ánh sáng chói chang,

cường độ của nó lớn rất nhiều lần cường độ mặt trời giữa trưa... Ba mươi giây sau

vụ nổ, con gió mạnh đầu tiên đập vào mọi người và mọi vật. Kèm theo nó là tiếng gào rú kéo dài khiến tôi kinh hoàng nghỉ đến ngày xử án cuối cùng2. Chúng tôi

nhận thấy mình là những sinh vật nhỏ mọn dã dám cả gan báng bổ Chúa mà động

vào những sức mạnh mà cho đến nay chưa từng ai động tới. Lời lẽ là một phương

tiện quá không hoàn chỉnh để diễn đạt nổi tất cả những gì mà chúng tôi đã xúc cảm

vào lúc đó” [Dẫn lại theo 10, tr.195]. Còn đối với Oppenheimer thì trong trí nhớ

của ông lúc này hiện lên một đoạn trong thiên sử Bhagabad Gita của Ấn Độ cổ

kính: “Với sức mạnh bất tử và khủng khiếp – Bầu trời sẽ chói lọi trên cõi trần” và

“Tôi đã trở thành thần chết, kẻ hủy diệt toàn bộ thế giới” [10, tr.194]. Tướng

Groves sau khi tự chủ lại đã nói với tướng Farell: “Chiến tranh phải chấm dứt. Chỉ

một hay hai cái của này là bọn Nhật đi đời” [Dẫn lại theo 10, tr.195]. Và hai “cái

của” đó đã giáng xuống Hiroshima ngày 6.8.1945 và Nagasaki ngày 9.8.1945 góp

phần làm Nhật đầu hàng để kết thúc Chiến tranh thế giới thứ Hai.

1.2. Chính sách vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 – 1962

1.2.1. Dưới thời Tổng thống Truman (1945 - 1952)

Khi Tổng thống đương nhiệm Roosevelt qua đời ngày 12.4.1945, người phó

của ông là Truman lên nắm quyền tổng thống, lúc này Truman mới biết về toàn bộ

Dự án Manhattan. Mặt dù Đức đã đầu hàng trước khi bom nguyên tử được chế tạo

thành công nhưng cuộc chiến khốc liệt vẫn đang diễn ra ở mặt trận Viễn Đông, điều

này sẽ tác động đến chính sách của Truman để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

Những ngày giữa tháng 7, Tổng thống Truman dự Hội nghị Postdam – một

thành phố gần Berlin của Đức. Hội nghị diễn ra giữa ba cường quốc Anh, Mỹ và

Liên Xô để thảo luận và đưa ra nhiều quyết định quan trọng trong đó có vấn đề Liên

Xô tham gia vào mặt trận chống Nhật. Trong ngày đầu tiên của Hội nghị (17.7),

2 Theo Thiên chúa giáo, Chúa sẽ xử nhân loại vào ngày tận thế

tổng thống nhận được tin bom nguyên tử đã được chế tạo thành công. Thủ tướng

14

Anh Winston S Churchill cũng biết tin này ngay sau đó. Churchill đã hồi tưởng lại

giây phút lịch sử ấy trong Hồi ký về chiến tranh của mình: “Ngày 17 tháng Bảy, có

một tin chấn động thế giới. Vào buổi chiều Stimson (Bộ trưởng Quốc phòng Hoa

Kỳ) đến chỗ tôi và đặt trước tôi một tờ giấy trên đó viết rằng “Những đứa trẻ được

sinh ra một cách mỹ mãn”. Cung cách của ông ta khiến tôi cảm thấy một cái gì đó

bất thường đã xảy ra. “Điều này có nghĩa”, ông ta nói “rằng thử nghiệm ở sa mạc

Mexico đã thành công. Bom nguyên tử đã trở thành sự thật”... Tuy nhiên không có

ai có thể lường trước được bất cứ điều gì khác về loại bom đó... Rồi từ đây là một

kết cục nhanh chóng cho Thế chiến thứ Hai, và có lẽ còn nhiều điều khác nữa” [15,

tr.725 - 726]. Tổng thống Truman đã quyết định báo tin này cho nhà lãnh đạo Liên

Xô I. Stalin. Ông đã bàn với Churchill cách thức báo tin này cho Stalin: “Ông nói:

tốt hơn hết là tôi sẽ nói với ông ta sau một trong những cuộc họp rằng chúng ta có

một loại bom hoàn toàn mới, một cái gì đó hoàn toàn phi thường, thứ mà chúng tôi

nghĩ sẽ có ảnh hưởng quyết đối với ý chí của Nhật Bản trong việc tiếp tục cuộc

chiến tranh” [15, tr.728].

Khi được Truman báo tin này thì Stalin không hề tỏ ra ngạc nhiên và ông cũng

“không hề biểu lộ niềm quan tâm đặc biệt nào. Ông chỉ trả lời rất ngắn gọn rằng ông rất vui được biết tin này và hy vọng chúng ta sẽ sử dụng nó để chống lại Nhật”3 [20,

tr.365]

Như vậy là nước Mỹ đã sở hữu được bom nguyên tử, một số nhân vật cốt cán

trong giới lãnh đạo nước Mỹ, trong đó có Tổng thống Truman, muốn sử dụng nó để

chống Nhật, kết thúc chiến tranh. Trong khoảng thời gian này vấn đề có hay không

nên sử dụng bom nguyên tử chống Nhật Bản đã được bàn luận khá sôi nổi và quyết

liệt từ giới lãnh đạo, nhà khoa học cho đến người dân. Những người ủng hộ ném

bom nguyên tử, trong đó có một số nhà bác học ở Los Alamos, cho rằng nó sẽ giảm

3

Phản ứng điềm tĩnh này của Stalin cho thấy có thể ông đã biết trước được sự kiện này nhờ vào khả năng tình báo của Nga [11; Tr.13].

bớt thương vong cho người Mỹ: “Ngay từ tháng 5, dân chúng Mỹ đã sống với

15

những ấn tượng sâu sắc của những thông báo về những trận đánh quá ư đẫm máu ở

đảo Okinawa. Mặc dù người Nhật đã biết rằng Đức đã thất bại, và tình hình của họ

cũng là tuyệt vọng, họ vẫn tiếp tục tự vệ với một sự bướng bỉnh không thể tưởng

tượng được. Chỉ riêng trên một hòn đảo Okinawa, quân Mỹ đã bị chết và bị thương

nặng nhiều hơn suốt toàn thể chiến dịch đánh chiếm Philippines. Tình hình đó khiến

người ta càng lo sợ hơn rằng việc tiến quân vào chính ngay đất Nhật sẽ phải trả giá

bằng hàng chục vạn người chết ở cả hai bên” [10, tr.198].

Luồng ý kiến thứ hai cho rằng vẫn tiếp tục tiến công Nhật nhưng không sử

dụng đến bom nguyên tử để đạt được mục đích. Cơ quan tình báo của Lục và Hải

quân Mỹ lúc đó cũng đã tin chắc rằng sự sụp đổ của Nhật Bản giờ chỉ còn là vấn đề

vài tuần lễ nữa [10, tr.199]. Viên sĩ quan chỉ huy Cơ quan tình báo Mỹ ở Mặt trận

Thái Bình Dương, Alfred Mac Cormac, sau này đã nhớ lại: “Chúng ta nắm vững

quyền kiểm soát trên không ở Nhật đến mức là đối với từng con tầu, chúng ta hoàn

toàn biết được nó đã rời cảng nào, và vào lúc nào để đi ra biển. Nhật đã sử dụng

hết dự trữ lương thực, và dự trữ nhiên liệu về thực tế cũng đã cạn. Chúng ta đã bắt

đầu một chiến dịch bí mật thả mìn xuống tất cả các vịnh và các bến cảng của họ,

điều đó tăng thêm không ngừng sự cô lập của họ đối với thế giới bên ngoài. Nếu

như chúng ta đưa chiến dịch này đến sự hoàn tất logic của nó thì việc phá hủy các

thành phố Nhật Bản bằng bom cháy và các loại bom khác sẽ là hoàn toàn không

cần thiết” [Dẫn lại theo 10, tr.199].

Luồng ý kiến thứ ba cho rằng có thể đạt đến mục đích bằng con đường ngoại

giao: “Có thể đạt tới sự đầu hàng của Nhật bằng con đường ngoại giao còn dễ hơn

là bằng cách tăng cường phong tỏa, vì cho tới lúc đó nước Nhật đã quá chín mùi để

đầu hàng. Tư tưởng đầu hàng đã lan tràn rộng rãi trong nước. Fujimura, tùy viên

Hải quân Nhật tại Đế chế thứ Ba, sau khi Đức sụp đổ đã chuyển sang Berne; vào

cuối tháng tư, ông đã được tiến sĩ Friedrich Haak, một người Đức chống Quốc xã,

giới thiệu với ba cộng tác viên thân cận của Allain Dulles. Dulles là thủ trưởng cơ

quan tình báo Mỹ OSS, đóng trụ sở ở thủ đô Thụy Sĩ. Fujimura tuyên bố với Dulles

rằng ông sẵn sàng gây áp lực với chính phủ của mình để thuyết phục chính phủ

nhận những điều kiện đầu hàng của Mỹ. Hầu như cũng vào thời gian đó và cũng

16

nhằm mục đích đó, tướng Okamoto, tùy viên quân sự, nhờ sự trung gian của ngân

hàng quốc tế Settlements Bank ở Basele, đã tiếp xúc được với tổ chức của Dulles.

Nhưng cả hai cố gắng này đều đã không thành công, vì Washington không muốn

trói buộc mình vào những điều kiện cụ thể, còn Tokyo thì không ủng hộ những cố

gắng của hai người Nhật này ở Thụy Sĩ.

Tuy nhiên, Washington từ lâu đã biết rõ được tất cả những mánh khóe của

người Nhật, vì người Mỹ đã giải được mật mã của Nhật. Ngay từ giữa tháng Bảy,

họ đã đọc được những chỉ thị khẩn khoản của Thủ tướng Tago gởi bằng vô tuyến

điện đến Moscow cho đại sứ Sato, cũng như là những điện trả lời của đại sứ, cùng

với những tin tức khác, họ đã đọc được những lời lẽ như sau: Nước Nhật đã bại

trận. Chúng ta đứng trước thực tế đó, và phải hành động cho phù hợp.

Nhưng Truman, đáng lẽ ra phải dùng đường lối ngoại giao để tận dụng những

dấu hiệu đầy ý nghĩa của sự yếu kém của Nhật, thì ngày 26 tháng 7 tại Hội nghị

Postdam lại phát biểu một lời tuyến bố cố tình gây khó khăn cho việc Nhật đầu

hàng mà không bị mất mặt....” [10, tr.199 - 200].

Như vậy, bất chấp những khả năng giải quyết khác để kết thúc chiến tranh,

Truman vẫn quyết định thả bom nguyên tử xuống Nhật. Theo một nhà báo Mỹ,

người rất thân với các nhà bác học nguyên tử, Robert Jungk thì: “Nguyên nhân chủ

yếu của việc Chính phủ Mỹ dửng dưng đối với việc tận dụng những cơ hội đó là ở

chỗ Chính phủ đó đã có bom nguyên tử. Đáng lẽ phải kiên nhẫn gỡ cái nút buộc ra,

[họ thấy] có vẽ thuận tiên hơn là chặt nó bằng một hai nhát của thứ vũ khí mới tuyệt

vời này... Họ sợ rằng tất cả đồ án Manhattan, đã ngốn hết gần 2 tỷ đô la, sau chiến

tranh sẽ có vẻ là một món tiền tiêu phí vô ích” [10, tr.201].

Một ủy ban lâm thời về kiểm soát vũ khí cũng được thành lập trong hội các

nhà bác học nguyên tử, nhưng bất chấp sự phản đối của ủy ban này về việc ném

bom nguyên tử xuống Nhật, kế hoạch ném bom của chính phủ Hoa Kỳ vẫn được

chuẩn bị và tiến hành. Việc ném bom nguyên tử còn đồng thời để tỏ rõ uy lực của

Hoa Kỳ trước thế giới, đặc biệt là trước Liên Xô.

Mười bảy mục tiêu ném bom đã được Bộ tham mưu Lục quân đề xuất để bàn

bạc và cuối cùng ba mục tiêu đã được lựa chọn. Một là thành phố Hiroshima, nơi

17

đặt Bộ tổng chỉ huy quân đội Nhật đồng thời là một hải cảng quan trọng vận chuyển

hàng hóa quân sự và là nơi tập kết đội bảo vệ đường biển hải quân. Đây cũng là

thành phố duy nhất không có tù binh chiến tranh người Mỹ. Địa điểm thứ hai là

Kokura, là một đầu mối giao thông đường sắt đồng thời cũng là công xưởng quốc

phòng lớn nhất của Nhật. Địa điểm thứ ba, địa điểm dự bị, là thành phố Nagasaki,

trung tâm đóng tàu lớn nhất của Nhật.

Ngày 25.7.1945 Tổng thống Truman đã ra lệnh ném bom cho Tư lệnh không

quân chiến lược – tướng Carl Andrew Spaatz.

Ngày 26.7.1945, Tổng thống Truman soạn tối hậu thư gởi các nhà lãnh đạo

Nhật Bản buộc phải đầu hàng ngay nếu không nước Nhật sẽ hứng chịu một trận tàn

phá triệt để [3, tr.14]. Ngày 29.7, phía Nhật Bản đã trả lời thư với nội dung không

chịu đầu hàng vô điều kiện.

Vào sáng sớm ngày 6.8.1945, máy bay B29 có tên là Elona Gay – tên mẹ

người phi công lái nó – đã cất cánh từ đảo Tinian thuộc quần đảo Marina, hướng tới

Nhật và thả quả bom mang tên Little Boy xuống thành phố Hiroshima làm chết

ngay lập tức 70.000 người [3, tr.14]. Ngay sau đó, Tổng thống Truman đã phát biểu

trên radio với toàn thế giới: “Thông điệp cuối cùng công bố ở Postdam ngày 26.7,

nhằm cứu vãn nhân dân Nhật Bản tránh được sự hủy diệt triệt để. Nhưng lãnh đạo

của họ đã cự tuyệt thông báo này một cách nhanh chóng. Nếu như hiện nay họ vẫn

không tiếp nhận điều kiện gì của chúng tôi, sự hủy diệt đối với họ sẽ từ trên trời

giáng xuống” [2, tr.30]. Bị Hoa Kỳ ném bom xuống Hiroshima, giới lãnh đạo Nhật

Bản tranh luận gây gắt về vấn đề có nên đầu hàng hay không. Phía chính phủ cho

rằng đó là cái cớ để đầu hàng nhưng nhiều tướng lĩnh trong Bộ Lục và Hải quân

không chấp nhận đầu hàng vô điều kiện [3, tr.15].

Ngày 7.8, Tổng thống Truman đã ra lệnh ném quả bom thứ hai như kế hoạch

đã định. Sáng sớm ngày 9.8, chiếc máy bay mang tên Bock’s Car chở quả bom

nguyên tử thứ hai Fat Man, cất cánh từ Tinian để hướng đến Kokura. Nhưng do thời

tiết xấu, nhân viên không thể nhìn mục tiêu ném bom bằng mắt thường nên đã

chuyển hướng đến mục tiêu dự bị, thành phố Nagasaki. Đúng 11h 01 phút giờ địa

phương, quả bom đã phát nổ gần nhà máy chế tạo binh khí Nagasaki của công ty

18

công nghiệp nặng Mitshubishi. Trông chốc lát đó đã trở thành một quả cầu lửa lớn

có sức công phá khổng lồ, giết chết ngay lập tức 40.000 người và 60.000 người bị

thương và nhiễm phóng xạ [3, tr.15].

Ngày 10.8, thông qua kênh ngoại giao Thụy Điển, Thiên hoàng Nhật Bản đã

chấp nhận đầu hàng nhưng phải đảm bảo ngôi vị của Thiên hoàng không bị lung

lay. Cũng thông qua kênh ngoại giao trung lập, Washington thông báo với chính

phủ Nhật Bản rằng Hoa Kỳ chấp nhận sự tại vị của Thiên hoàng nhưng phải đặt

dưới sự ủy trị của tư lệnh đồng minh – tướng Douglas McArthur. Ngày 14.8.1945,

chính phủ Nhật Bản tuyên bố đầu hàng. Ngày 2.9.1945 Nhật Bản đã chính thức kí

văn kiện đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri, chiến tranh thế giới thứ Hai kết

thúc.

Trong một bài phỏng vấn trên báo Le Monde ngày 29.4.1958, người ta hỏi

Oppenheimer: Trong thời gian ông là Ủy viên Ủy ban đặc biệt và có trách nhiệm

kiến nghị với Tổng thống Truman những vấn đề khoa học về việc sử dụng bom

nguyên tử ở Nhật, ông có cảm giác rằng một vài nhân vật nắm tình hình đầy đủ có

thể vì lí do chính trị đã gây tác động đến việc ra những quyết định nào đó không?

[10, tr.202]. Ông trả lời: “Người ta đòi hỏi ở ủy ban giám định trước hết là ý kiến về

những vấn đề kỹ thuật mới. Chúng ta đừng quên rằng chính phủ mới cần đến cái

đó. Họ là những người chưa học được cách sử dụng chính quyền và cũng chưa học

được cách giải quyết những vấn đề nguyên tử mà họ phải chịu trách nhiệm. Đa số

những người cần đến ý kiến của chúng tôi lại không có thời giờ để nghiên cứu vấn

đề. Mặt khác, tổng thống Truman và ngài Winston Churchill đã tỏ ra hoàn toàn

đồng ý rằng phải sử dụng bom nguyên tử để chấm dứt chiến tranh: Ý kiến đó đã làm

nặng đĩa cân. Không may là đã không có đủ thời gian. Chắc hẳn rằng một sự

nghiên cứu vấn đề toàn diện hơn và dài ngày hơn có thể dễ dẫn đến một quan niệm

chính xác hơn, hoặc thậm chí một quan niệm hoàn toàn khác về việc phải sử dụng

vũ khí mới như thế nào” [10, tr.202].

Trong hồi ký của mình, Tổng thống Truman đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về

việc sử dụng bom nguyên tử: “Mọi người cho rằng bom nguyên tử nên được sử

dụng chống lại kẻ thù càng sớm càng tốt...Tất nhiên tôi cũng biết rằng sức nổ của

19

bom nguyên tử có sức hủy diệt to lớn, ngoài sức tưởng tượng. Quyết định cuối cùng

về việc nên sử dụng chúng vào thời điểm nào và ở đâu thuộc về trách nhiệm của

tôi” [Dẫn lại theo 3, tr.16].

Trong bài phát biểu ngày 3.10.1945, ông giải thích lí do quyết định sử dụng

bom nguyên tử chống Nhật Bản là để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, giảm thiểu

tổn thất: “Tôi không khẳng định chắc chắn rằng bom nguyên tử sẽ mang thắng lợi

đến cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi thấy rằng sử dụng bom nguyên tử sẽ cứu sống

được hàng ngàn binh lính Mỹ và các đồng minh, nếu không thì họ còn phải sống

trong nỗi sợ hải” [43]. Thủ tướng Anh Winston Churchill cũng có lời giải thích

tương tự trong Hồi ký chiến tranh của mình: “Để khuất phục sự chống cự của từng

người Nhật Bản và xâm chiếm được từng mét đất trên đất nước này, đòi hỏi phải có

sự mất mát của cả triệu sinh mạng của người Mỹ và nửa con số đó là người

Anh...Giờ đây, toàn bộ bức tranh mang tính ác mộng đã tan biến. Thay cho nó là

một viễn cảnh – dường như thật sự công bằng và sáng sủa – của của cái kết cục

cho toàn bộ cuộc chiến này trong một hay hai cú sốc mạnh” [15, tr.726 - 727].

Quan hệ phức tạp giữa đồng minh Anh - Mỹ - Xô cũng là lí do tác động đến

việc ném bom nguyên tử xuống Nhật. Truman chia sẽ: “Chúng tôi sẽ cảm thấy căng

thẳng nếu người Nga tham gia vào mặt trận chống Nhật. Vì kinh nghiệm ở Postdam

cho chúng tôi thấy rằng không được để cho người Nga tham gia kiểm soát Nhật

Bản” [43].

Churchill chia sẽ: “Hơn nữa, chúng tôi không cần đến người Nga. Kết cục

cuộc chiến tranh [chống] Nhật Bản không còn phụ thuộc nữa vào việc đổ những

đạo quân của họ vào cuộc tàn sát cuối cùng và có lẽ sẽ kéo dài. Chúng tôi không

cần thiết phải xin họ ban đặc ân. Việc giải quyết các vấn đề Châu Âu vì vậy sẽ phải

được xem xét theo những công trạng xứng đáng của họ và theo nguyên tắc chung

của Liên Hiệp Quốc” [15, tr.727].

Ngoại trưởng Mỹ James Byrnes phát biểu: “Chúng tôi muốn hiện diện ở nước

Nhật trước khi người Nga vào... Không cần thiết phải ném bom nguyên tử xuống

thành phố của Nhật để giành chiến thắng, nhưng việc chúng tôi sở hữu và sử dụng

20

bom nguyên tử sẽ khiến người Nga biết điều hơn ở châu Âu... Việc ném bom có thể

sẽ giúp chúng tôi giành được vị trí xứng đáng khi chiến tranh kết thúc” [43].

Việc Hoa Kỳ chế tạo thành công bom nguyên tử và sử dụng nó trong chiến

tranh Thái Bình Dương đã tạo ra những phản ứng đặc biệt trong giới lãnh đạo Xô

Viết. Stalin bên ngoài thì phát biểu: “Tôi không cho rằng bom nguyên tử là một thứ

vũ khí ghê gớm như cách nghĩ của một nhóm chính trị gia. Bom nguyên tử chỉ là

thứ để đe dọa những người có thần kinh yếu, nhưng nó không thể quyết định được

kết quả của một cuộc chiến tranh, đơn giản vì nó không đủ sức mạnh” [21], nhưng

bên trong ông thực sự nôn nóng để có thứ vũ khí này. Năm 1945, Stalin đã nói với

Lavrenti Beria: “Tất nhiên, yếu tố bom nguyên tử đang thuộc về Truman. Nhưng

một chính sách gây áp lực và đe dọa là không thể chấp nhận được với chúng ta. Vì

vậy chúng ta không được nghĩ rằng có bất kỳ quốc gia nào có ưu thế mang tính

quyết định đối với mình. Hãy nói với đồng chí Kurchatov rằng ông ta phải khẩn

trương hơn với công việc của mình. Và hỏi ông ta rằng các nhà khoa học của chúng

ta cần những gì để tăng tốc công việc” [Dẫn lại theo 3, tr.18].

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều ra sức chạy

đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Khoảng giữa tháng 8 và tháng 12.1946,

tướng Groves đã đấu tranh để chính phủ tiếp tục giành ưu tiên cho chương trình hạt

nhân của Hoa Kỳ. Cuối thập niên 1940, Bộ Lục và Không quân Hoa Kỳ đã bắt đầu

hoạt động sản xuất vũ khí hạt nhân ở Manzano Base, đây là một cơ sở được đảm

bảo an ninh cao độ ở vùng núi Manzano. Ngày 1.8.1946, Truman ra quyết định

thành lập một tổ chức độc lập, tách khỏi quân đội về nghiên cứu nguyên tử gọi là

“Ủy Hội Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ” (United States Atomic Energy

Commision) đồng thời đạo luật về năng lượng nguyên tử (Atomic Energy Act) cũng

được phê chuẩn vào năm 1946 với mục đích hướng tới phúc lợi xã hội, tăng chất

lượng cuộc sống, cải thiện môi trường tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và

giữ gìn hòa bình thế giới [3, tr.19].

Bầu không khí căng thẳng, nghi ngờ lẫn nhau giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã bao

trùm lên quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh càng khiến cho cuộc chạy

đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí hạt nhân càng thêm quyết liệt.

21

Hoa kỳ tiếp tục thực hiện những cuộc thử nghiệm mới về hạt nhân. Chiến dịch

Sandstone là một chuỗi những cuộc thử hạt nhân trong không khí lần đầu tiên được

tiến hành bởi Hội Đồng Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ vào năm 1948 ở Pacific

Proving Ground trên đảo san hô Enewetak. Chiến dịch thử hạt nhân này đã huy

động 10.000 binh sĩ và thường dân tham gia. Cuộc thử nghiệm này mở đầu cho một

loạt các cuộc thử nghiệm hạt nhân được tiến hành bởi Ủy Hội Năng Lượng Nguyên

Tử Hoa Kỳ. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Ủy Hội đã tăng cường phát triển

nhân lực và đầu tư tài chính để phát triển nhiều loại vũ khí hạt nhân, vì thế kho chứa

vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ không ngừng được tăng lên. Năm 1947, Hoa Kỳ chỉ có

13 kho (0,26 megatons), đến năm 1952 con số này đã lên đến 841 kho (50

megatons) và đến năm 1961 là 22.229 kho (10.947 megatons) [Dẫn lại theo 3, tr.20].

Năm 1947, Tổng thống Truman ra đạo luật an ninh quốc gia (National

Security Act) và thành lập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security

Council) để xem xét các vấn đề an ninh trong thời đại hạt nhân. Hội đồng gồm 4

thành viên: tổng thống, phó tổng thống, ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng,

tham mưu trưởng liên quân và giám đốc cục tình báo làm cố vấn. Bắt đầu từ

Truman, các tổng thống Hoa Kỳ phải cân nhắc kỹ và chịu trách nhiệm vô cùng nặng

nề khi bấm nút kích hoạt vũ khí hạt nhân.

Ngày 23.9.1949 Liên Xô cho nổ thành công bom nguyên tử. Tổng thống

Truman tuyên bố trước sự bàng hoàng của nhân dân: “Chúng ta đã có bằng chứng

cho thấy trong những tuần gần đây, Liên Xô đã thử nghiệm vụ nổ hạt nhân thành

công” [Dẫn lại theo 3, tr.20]. Tin tức này đã thúc đẩy Hoa Kỳ tăng cường nghiên

cứu và chế tạo những loại vũ khí hạt nhân mới, cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng đã

thúc đẩy quá trình này nhanh hơn. Năm 1948 Hoa Kỳ có 110 đầu đạn hạt nhân, đến

1952 có 1005 đầu đạn hạt nhân [35].

Ngày 31.1.1950, Tổng thống Truman đã ra lệnh cho Ủy hội Năng lượng

nguyên tử đẩy mạnh nghiên cứu và chế tạo bom nhiệt hạch (bom Hidro – bom H).

Vụ thử bom H thành công vào ngày 1.11.1952 tại đảo san hô Eniwetok ở Thái Bình

Dương.

22

Ngày 22.5.1950, Truman đã phê chuẩn văn kiện NSC 68 của Hội đồng An

ninh Quốc gia, văn kiện kêu gọi xây dựng đồng thời vũ khí quy ước và vũ khí hạt

nhân để thu hẹp sự lệ thuộc vào vũ khí hạt nhân và giảm nguy cơ của một cuộc

chiến tranh hạt nhân: “Chúng ta không còn cách nào khác là phải đẩy nhanh tốc độ

sản xuất hạt nhân, đồng thời tăng cường xây dựng, phát huy các sức mạnh hải

quân, không quân và bộ binh. Điều đó khiến cho đồng minh của chúng ta hiểu rằng

sức mạnh quân đội của Hoa Kỳ không quá phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân” [33].

Như vậy chính sách của Tổng thống Truman là tránh để tình trạng an ninh quốc gia

phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân.

Chính sách tránh để tình trạng an ninh quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào vũ

khí hạt nhân không có nghĩa là chính phủ Truman từ bỏ cuộc chạy đua vũ trang hạt

nhân với Liên Xô. Chính sách này nhằm nhấn mạnh việc vũ trang cho quân đội phải

toàn diện cả vũ khí hạt nhân lẫn vũ khí quy ước. Hơn nữa, nó còn nhấn mạnh mục

tiêu của chính phủ Truman là trở thành siêu cường số một về vũ khí hạt nhân và giữ

quyền bá chủ trên không: “Khi chiến tranh tổng lực với Liên Xô nổ ra, vũ khí hạt

nhân sẽ được mỗi bên sử dụng để đạt được mục đích của mình. Để tránh bị tổn thất

trong trường hợp bị Liên Xô tấn công bằng vũ khí hạt nhân, chúng ta cần phải sở

hữu vũ khí hạt nhân có sức ngăn chặn. Bên cạnh đó, để đạt được mục đích của

mình, chúng ta còn cần phải xây dựng, phát triển quân đội phi hạt nhân và khai

thác các điểm yếu chính trị của Liên Xô....Chỉ khi chúng ta trở thành siêu cường về

hạt nhân và giành quyền bá chủ trên không thì chúng ta mới đảm bảo được khả

năng có thể ngăn chặn việc Liên Xô sử dụng vũ khí hạt nhân” [50]. Như vậy, việc

chính phủ Truman đặt mục tiêu Hoa Kỳ phải có khả năng hạt nhân vượt trội so với

Liên Xô chủ yếu là vì mục đích răn đe, ngăn chặn hơn là vì mục đích tấn công. Do

đó, ông chủ trương xây dựng quân đội mạnh toàn diện bên cạnh việc đẩy nhanh quá

trình chế tạo vũ khí hạt nhân [3, tr.22].

Tuy sở hữu ngày càng nhiều loại vũ khí hạt nhân nhưng từ sau Chiến tranh thế

giới thứ Hai, chính phủ Truman lại lúng túng trong việc sử dụng nó một lần nữa,

như trong chiến tranh Triều Tiên chẳng hạn. Nguyên nhân là vì sau vụ ném bom

nguyên tử thảm sát xuống Hiroshima và Nagasaki, dư luận thế giới và các nhà bác

23

học nguyên tử đã lên tiếng chỉ trích quyết định đó đồng thời kêu gọi chính phủ

Truman cần phải có trách nhiệm ngăn ngừa việc sử dụng loại vũ khí này trong

tương lai [3, tr.22 – 23]. Chính Tổng thống Truman năm 1949 hứa với tư cách cá

nhân: “Chúng tôi sẽ không bao giờ sử dụng quả bom đó một lần nữa nếu chúng tôi

có thể chịu đựng được nó” [Dẫn lại theo 3, Tr.23].

Mặc dù Truman không hề hối hận về quyết định ra lệnh ném bom xuống Nhật

Bản nhưng ông cũng không hề mong muốn có một quyết định tương tự.

1.2.2. Dưới thời Tổng thống Eisenhower (1953 – 1960)

Văn kiện NSC 162/2 được chính phủ Eisenhower ban hành vào tháng 10.1953

đã chỉ ra rằng trong những tình huống xung đột “vũ khí hạt nhân sẽ được xem xét sử

dụng như các loại vũ khí khác” [51]. Điều đó có nghĩa là, với Eisenhower, vũ khí

hạt nhân trở thành nhân tố quyết định trong Chiến tranh Lạnh, chiến lược an ninh

quốc gia Hoa Kỳ phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân. Như vậy, khác với Truman,

Eisenhower đã có một cái nhìn mới về mối quan hệ giữa chính trị và vũ khí hạt

nhân. Khi được hỏi khi nào thì sử dụng vũ khí hạt nhân, tổng thống trả lời rằng khi

nào an ninh quốc gia cần đến nó: “Vũ khí hạt nhân có thể được sử dụng trong một

cuộc chiến tranh nói chung. Tuy nhiên sẽ không sử dụng nó trong những trường

hợp nhỏ” [Dẫn lại theo 3, tr.24]. Ông phát biểu thêm trong một cuộc họp báo vào

tháng 3.1955 rằng “Do những thứ này chỉ được sử dụng ở những mục tiêu quân sự

và chỉ vì mục đích quân sự, cho nên tôi không thấy có lí do nào để không sử dụng

chúng như cách người ta sử viên đạn hay các loại vũ khí khác” [Dẫn lại theo 3,

tr.24]. Học thuyết ngoại giao “trả đũa ồ ạt” cũng được Eisenhower đưa ra với lời

cảnh báo sẽ thực hiện việc trả đũa không thương tiếc các khiêu khích của Liên Xô

bằng vũ khí hạt nhân.Tổng thống Eisenhower còn cho rằng chiến lược an ninh quốc

gia của Hoa Kỳ cần phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân trước hết là vì mục tiêu kinh tế.

Trong cuộc vận động tranh cử, ông từng phát biểu rằng an ninh và tài chính là hai

mặt của một vấn đề: “..Thực chất, cơ sở của an ninh chính là sức mạnh kinh tế. Chi

tiêu lớn nhất của chúng ta là 60 tỉ cho an ninh quốc phòng. Đó là mức tiết kiệm tối

đa. Để tiết kiệm được như thế, chúng ta cần phải cắt giảm chi phí quốc phòng”

[Dẫn lại theo 3, tr.25]. Như vậy, việc xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh trên

24

cơ sở vũ khí quy ước sẽ là một gánh nặng cho ngân sách Hoa Kỳ và có thể làm suy

yếu nền kinh tế, giải pháp cho vấn đề này, theo Eisenhower là trang bị vũ khí hạt

nhân để cắt giảm chi phí cho lực lượng quy ước và từ đó giảm bớt gánh nặng cho cả

nền kinh tế. Nhưng đầu tư cho vũ khí hạt nhân có thể dẫn đến sự tự hủy diệt chính

mình. Được thông báo vào đầu năm 1957, Hoa Kỳ có thể có 50 triệu nạn nhân trong

một cuộc chiến tranh hạt nhân, Eisenhower đáp lại một cách dứt khoát: “Điều duy

nhất đúng đắn mà chúng ta có thể làm là dồn toàn bộ tiềm lực của chúng ta cho Bộ

tự lệnh Không quân chiến lược (SAC) và vào việc chế tạo những quả bom Hydro”

[Dẫn lại theo 3, tr.25]. Như vậy, theo Eisenhower, phải đầu tư hơn nữa để phát triển

vũ khí hạt nhân, để có thể vượt trội hơn các đối thủ, từ đó các đối thủ tự thấy khiếp

sợ trước lực lượng hạt nhân hùng hậu của Hoa Kỳ mà không dám phát động chiến

tranh hạt nhân, và sẽ bảo vệ được công dân Hoa Kỳ. Với chính sách này, Chính

quyền Eisenhower đã cho nghiên cứu phát triển không ngừng các loại vũ khí hạt

nhân mới. Do đó, khi Eisenhower bước vào Nhà Trắng, kho vũ khí hạt nhân của

Hoa Kỳ mới chỉ có 841 (50 megatons), thì khi kết thúc hai nhiệm kỳ, kho vũ khí hạt

nhân của Hoa Kỳ đã là 22.229 (10.947 megatons), trong đó số đầu đạn tăng lên

tương ứng từ 1.005 đến 20.434 [3, tr.26]. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng vũ khí hạt nhân

thì Eisenhower cũng cân nhắc khá kỹ, lúc này Liên Xô cũng đang tăng dần kho vũ

khí hạt nhân của mình, tuy còn kém Hoa Kỳ nhưng chừng đó cũng đủ hủy diệt cả

đôi bên nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra, điều này giải thích tại sao Eisenhower

không sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên.

1.2.3. Dưới thời Tổng thống Kennedy

Thập niên 1960s, thường được gọi là thời đại “cân bằng của nỗi khiếp sợ”. Cả

hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô ra sức chạy đua vũ trang, chế tạo thành công

nhiều loại vũ khí hạt nhân hiện đại. Tổng thống mới đắc cử, J.F.Kennedy, từ thời

còn là Thượng nghị sĩ, đã luôn bị ám ảnh về một cuộc chiến tranh hạt nhân. Tại Hội

đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, ngày 25.9.1961, ông phát biểu: “Chiến tranh không

còn là giải pháp hữu hiệu...Nó không còn là biện pháp giải quyết tranh chấp. Thảm

họa hạt nhân lan truyền theo dòng nước, cơn gió và nổi sợ hãi có thể nhấn chìm

người lớn, trẻ nhỏ, người giàu, kẻ nghèo, kẻ có tội lẫn người vô tội. Nhân loại cần

25

phải chấm dứt chiến tranh hoặc chiến tranh sẽ kết thúc số phận nhân loại” [Dẫn lại

theo 3, tr.27]. Chính vì luôn bị ám ảnh bởi chiến tranh hạt nhân nên trong lời nói

hay cả trong hành động, Kennedy luôn tìm cách ngăn cản thảm họa chiến tranh hạt

nhân. Để ngăn cản được, ông luôn kêu gọi các quốc gia phải có trách nhiệm đối với

nền hòa bình thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên Xô – hai siêu cường vũ khí hạt

nhân: “cả hai phía đều cần phải nỗ lực hơn nữa đề gìn giữ hòa bình, trước khi sức

mạnh hủy diệt của khoa học hiện đại nhấn chìm cả nhân loại theo một kế hoạch

toan tính trước hay ngẫu nhiên” [Dẫn lại theo 3, tr.31]. Để tránh nguy cơ chiến

tranh hạt nhân, Kennedy chủ trương chung sống hòa bình với Liên Xô, ông không

phê phán chủ nghĩa cộng sản như các người tiền nhiệm. Trong một bức thư, ông nói

với Khrushev: “Chủ nghĩa mà chính phủ ngài tin tưởng là chuyện của các ngài,

nhưng những hành động của đất nước ngài mà ảnh hưởng tới thế giới lại là vấn đề

của thế giới” [Dẫn lại theo 3, tr.31]. Để giảm thiểu nguy cơ và đi đến ngăn chặn

hiểm họa chiến tranh hạt nhân, Tổng thống Kennedy đã tăng cường xây dựng lực

lượng quân sự quy ước để đảm bảo an ninh cho Hoa Kỳ thay vì gắn chặt vũ khí hạt

nhân với an ninh như chính sách của người tiền nhiệm Eisenhower. Ngay trong thời

gian tranh cử tổng thống, ông đã công kích chính sách “trả đũa ồ ạt” của

Eisenhower và đảng Cộng hòa: “Vấn đề trọng tâm mà chúng ta phải đối mặt đã rõ

ràng. Đó chính là: Liên Xô đang sở hữu vũ khí hạt nhân, đồng nghĩa với việc họ có

thể sử dụng nó ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này, và sẽ dẫn đến một cuộc chiến

tranh hạt nhân, hủy diệt cả đôi bên. Vì thế, lời đe dọa giản đơn “trả đũa ồ ạt” sẽ

không còn có giá trị bảo vệ thế giới tự do của chúng ta” [Dẫn lại theo 3, tr.33]. Khi

lên làm Tổng thống, ông đã đề ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” (Strategy of

Flexible Response) mà thực chất là để hạn chế việc sử dụng vũ khí hạt nhân. “Linh

hoạt” tức nhấn mạnh đến sự linh động lựa chọn nhiều giải pháp khác nhau khi đất

nước phải đối diện với những thử thách, chứ không phải chỉ có riêng giải pháp sử

dụng vũ khí hạt nhân. Chính sách hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ xảy ra chiến

tranh hạt nhân của Kennedy được thể hiện rõ trong những biện pháp giải quyết cuộc

khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10.1962.

26

1.3. Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 đến trước cuộc

Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962)

Giai đoạn 1945 – 1962, tuy không ghi nhận bất kỳ một hiệp ước nào về kiểm

soát vũ khí hạt nhân, nhưng cũng có khá nhiều tiếng nói từ các nhà bác học nguyên

tử và dân chúng đến các chính trị gia ở Hoa Kỳ kêu gọi phải hành động ngay lập tức

để tìm cách kiểm soát vũ khí hạt nhân. Những tiến nói đầu tiên đến từ các nhà bác

học nguyên tử Hoa Kỳ - những người luôn trăn trở vì đã nghĩ ra thứ vũ khí kinh

hoàng đó.

1.3.1. Những kiến nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân của các nhà khoa học

nguyên tử Hoa Kỳ

Hiểu rõ hơn ai hết sự hủy diệt của bom nguyên tử đối với thế giới loài người,

các nhà bác học nguyên tử, ngay từ những ngày đầu của dự án Manhattan đã, bằng

cách này hay cách khác, tác động vào quá trình kiểm soát nguồn năng lượng nguyên

tử. Nhà vật lí học nguyên tử nổi tiếng Neils Bohr đã phát biểu: “Nhân loại cần đến

nguồn năng lượng mà chúng ta phát minh và nghiên cứu và chúng ta cần phải chăm

lo sao cho trong tương lai nó được sử dụng nhằm mục đích hòa bình chứ không

phải phá hoại”[Dẫn lại theo 10, tr.169]. Bohr cũng cho rằng sự nhất trí giữa ba

cường quốc lớn – Mỹ, Anh và Nga Xô viết - về vấn đề tổng kiểm soát nguồn năng

lượng nguyên tử là dễ đạt được hơn vào lúc trước khi hoàn thành bom nguyên tử

hoặc trước khi sử dụng nó trong chiến tranh [10, tr.170]. Cũng chính các nhà bác

học nguyên tử là những người đầu tiên nghiên cứu toàn diện khả năng kiểm soát

quốc tế và khả năng sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình. Vài ngày

sau tin tức về cuộc thử nghiệm thành công đã lan tới mọi phòng thí nghiệm của đồ

án Manhattan, một trong những nhà nghiên cứu trẻ tuổi ở Los Alamos, Harrison

Brown, đã kể lại: “Chúng tôi đã biết được về quả cầu lửa, về đám mây hình nấm, về

bức xạ nhiệt mạnh. Sau sự kiện Alamogordo, nhiều người trong chúng tôi đã kí kiến

nghị kiên trì yêu cầu đừng dùng bom nguyên tử chống Nhật Bản mà không biểu

diễn trước và tạo ra cơ hội để Nhật đầu hàng. Chúng tôi cũng đòi hỏi chính phủ

phải bắt đầu ngay việc nghiên cứu khả năng lập ra sự kiểm soát quốc tế đối với thứ

vũ khí mới này” [Dẫn lại theo 10, tr.196].

27

Nhà bác học vật lí lý thuyết Albert Einstein cũng đã có phản ứng quyết liệt để

thực hiện việc kiểm soát nguồn năng lượng và vũ khí hạt nhân. Einstein đã không

tiếc sức mình thức tỉnh công chúng để ngăn chặn việc sử dụng bom nguyên tử, ngăn

chặn một cuộc chiến tranh thế giới mới, vì nếu nó xảy ra nó sẽ hủy diệt toàn bộ thế

giới, toàn bộ nhân loại. Ông nói: “Tôi không biết có thể ngăn chặn chiến tranh thế

giới thứ ba hay không, nhưng tôi có thể cả quyết rằng sẽ không có chiến tranh thế

giới thứ tư” [Dẫn lại theo 10, tr.1] hay “Tôi không biết thế chiến III sẽ ra sao nhưng

tối có thể nói rằng thế chiến IV người ta sẽ dùng đá và gậy để ném nhau” [Dẫn lại

theo 14, tr.473].

Một tháng sau khi quả bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nhật Bản, một

nhóm các nhà khoa học đã kí tên vào bản báo cáo thuyết phục các chính phủ thành

lập một hội đồng liên hiệp quốc để kiểm soát vũ khí hạt nhân. Trong một bức thư

gởi Robert Oppenheimer, Einstein nói: “Chúng ta không thể hình dung được rằng

chúng ta sẽ có nền hòa bình mà không cần đến một tổ chức quốc tế có thể kiểm soát

được mối quan hệ giữa các quốc gia” [Dẫn lại theo 14, tr.468]. Không chỉ có những

tiếng nói gần như riêng rẽ của các nhà bác học, họ còn tập hợp lại thành nhóm để

soạn thảo và đưa kiến nghị lên chính phủ Hoa Kỳ về việc sử dụng năng lượng và vũ

khí hạt nhân. Các nhà bác học Đại học Chicago đã lập ra một hội đồng để xem xét

và bàn bạc tỉ mỉ về “Những vấn đề chính trị và xã hội có liên quan đến năng lượng

nguyên tử” [10, tr.196]. Đứng đầu Hội đồng là James Franck, nguyên là giáo sư ở

Đại học Gottingen, ngoài ra Hội đồng còn có thêm 6 thành viên: Nhà vật lí học D.

Hughes, L. Szillard; các nhà hóa học T. Hogness, V. Rabinovich, G. Seaborg và nhà

sinh học K.T. Nixon. Hội đồng đã họp và ra bị vong lục gởi chính phủ, bị vong lục

này còn được gọi là “Bản báo cáo của Franck” [10, tr.181], [8, tr.29]. Sau này nhà

bác học Rabinovich nhớ lại: “Vào những ngày đó, Chicago nóng nực kinh khủng.

Khi tôi đi ngoài phố, lòng tôi u uất khi tôi nhìn thấy như trong giấc mơ bầu trời bốc

lửa và những tòa nhà chọc trời đang sụp đổ. Làm gì bây giờ để cảnh tỉnh cho nhân

loại biết cơn nguy hiểm? Hoặc giả do trời nóng nực, hoặc giả do bản thân tôi đang

bị kích động, đêm đó tôi không tài nào nhắm mắt được. Còn lâu nữa trời mới sáng,

tôi đã bắt tay viết bảng báo cáo của chúng tôi. James Franck đã đưa cho tôi phần

28

của ông viết, gồm một trang rưỡi. Phần trình bày vấn đề của tôi còn lại chi tiết

hơn” [Dẫn lại theo 10, tr.181 - 182]. Ngày 11.6.1945, báo cáo của các nhà bác học

Chicago được gởi tới Bộ trưởng Quốc phòng Stimson dưới hình thức một bản điều

trần trọng thể. Nó bắt đầu bằng một lời tuyên bố rằng các nhà bác học sẽ không

phán xét một cách am tường những vấn đề về chính sách đối nội và đối ngoại. Tuy

nhiên, họ coi rằng có trách nhiệm phải hành động, vì họ đã biết rõ một hiểm họa

nghiêm trọng mà bộ phận còn lại của nhân loại chưa hề ngờ đến. Một hoàn cảnh

như sau đã thúc đẩy họ hơn nữa phải hành động như vậy: các nhà bác học hiện nay,

khác hẳn với các nhà nghiên cứu các thế kỷ trước, không thể đề nghị được những

phương tiện bảo vệ đủ hiệu quả để chống lại loại vũ khí mới này, vì sức phá hoại

của nó vượt hơn hẳn mọi thứ đã được biết cho tới nay. Một phương tiện bảo vệ như

vậy, họ trình bày thêm, có thể được thực hiện không phải bằng những phát minh

khoa học, mà chỉ bằng một cách tổ chức chính trị mới của thế giới. Khẳng định này

có kèm theo một dự đoán chính xác đến ngạc nhiên về sự chạy đua vũ trang sẽ xảy

ra, và điều này quả thực đã xảy ra. Muốn tránh được điều đó, bản báo cáo nói tiếp,

cần phải có những biện pháp khẩn cấp để lập ra sự kiểm soát quốc tế về bom

nguyên tử, trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Nhưng sự tin cậy cần thiết đó sẽ bị tiêu diệt

ngay từ đầu nếu như Mỹ bất thần tấn công Nhật Bản bằng bom nguyên tử... Bom

này sẽ giết chết cả binh lính lẫn thường dân mà không có phân biệt. Bảy nhà khoa

học báo trước cho Bộ trưởng: Như vậy ưu thế quân sự đạt được bằng cách bất thần

dùng bom nguyên tử để đánh Nhật Bản sẽ bị thủ tiêu do sự mất lòng tin về sau này,

và do làn sóng sợ hãi và kinh tởm sẽ bao trùm thế giới, và chắc hẳn sẽ phân chia dư

luận xã hội [10, tr.1t82].

“Bản báo cáo của Franck” đã đề nghị thay thế việc ném bom nguyên tử xuống

Nhật Bản như đã hoạch định bằng việc biểu diễn sức mạnh của loại vũ khí mới

trước tất cả các đại biểu của Liên Hiệp quốc trong một hoang mạc, hoặc trên một

hòn đảo không có người ở. Trong bản báo cáo nói tiếp: sẽ tạo ra được một bầu

không khí tốt đẹp nhất để đạt tới một sự thỏa thuận quốc tế, nếu như nước Mỹ có

thể nói với thế giới: “Các bạn thấy đó, chúng tôi có thứ vũ khí như thế nào, nhưng

chúng tôi không sử dụng nó. Chúng tôi sẵn sàng từ bỏ không sử dụng nó cả trong

29

tương lai nữa, nếu như các nước khác đồng ý với chúng tôi và, tán thành lập ra một

sự kiểm soát quốc tế [về vũ khí hạt nhân] có hiệu quả” [Dẫn lại theo 10, tr.183].

Franck tới Washington, thông qua nhà bác học Compton, đã chuyển báo cáo

đến người phó của Stimson là George L. Harrison. Các lãnh đạo Bộ quốc phòng đã

nhanh chóng nghiên cứu tài liệu này. Tính khẩn cấp của lời kêu gọi này, và sự tôn

trọng lớn lao của mọi người đối với bảy thành viên của Hội đồng của Franck đã

khiến Stimson gởi ngay tài liệu này đến tay Ủy ban lâm thời các nhà bác học

nguyên tử ở Los Alamos. Bốn nhà bác học nổi tiếng của Ủy ban này ở Los Alamos

gồm Fermi, Oppenheimer, Compton và Lawrence đã bàn bạc và lên tiếng ủng hộ

bản báo cáo này của các đồng nghiệp ở Chicago. Sau này Oppenheimer nhớ lại:

“Người ta yêu cầu chúng tôi phát biểu ý kiến về vấn đề có cần sử dụng bom nguyên

tử không. Nguyên cớ là có bản điều trần của các nhà khoa học nổi tiếng và có uy

tín, họ đã đi đến kết luận không nên sử dụng bom nguyên tử... Chúng tôi không biết

gì về tình hình quân sự ở Nhật và vì vậy không biết được có thể bắt Nhật đầu hàng

bằng những phương tiện nào khác không. Nhưng trong tiềm thức, chúng tôi cảm

thấy rằng việc sử dụng bom nguyên tử là không thể tránh được” [Dẫn lại theo 10,

tr.183]. Như vậy là sáng kiến của bảy nhà khoa học ở Chicago đã bị bác bỏ, họ

không những không ngăn chặn được việc ném bom xuống Nhật mà đề nghị lập Ủy

ban kiểm soát quốc tế về bom nguyên tử cũng không thực hiện được.

Tháng 7.1949, sau khi Liên Xô thử thành công quả bom nguyên tử đầu tiên,

chính quyền Truman đã đẩy mạnh kế hoạch nghiên cứu và chế tạo bom nhiệt hạch

(bom H). Tổng thống Truman trịnh trọng tuyên bố: “Tôi đã ra lệnh cho Ủy ban

năng lượng nguyên tử tiếp tục nghiên cứu làm mọi loại vũ khí nguyên tử, bao gồm

cả vũ khí khinh khí (bom H), hay là bom siêu đẳng. Giống như mọi công trình khác

trong lĩnh vực vũ khí nguyên tử, việc sản xuất loại bom mới này sẽ được tiến hành

phù hợp với chương trình toàn diện của chúng ta về hòa bình và an ninh” [Dẫn lại

theo 10, Tr.270]. Bom H có sức hủy diệt mạnh gấp nhiều lần bom A. Kế hoạch này

của chính quyền Truman đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của các nhà bác học

nguyên tử Hoa Kỳ, trong đó có Oppenheimer. Oppenheimer cùng với các nhà bác

học khác đã gởi một báo cáo cho Ủy ban năng lượng nguyên tử Mỹ vào ngày

30

30.10.1949. Trong bản báo cáo này, các nhà khoa học đã cảnh báo khả năng tàn phá

của bom H mạnh từ 20 đến 100 lần so với bom A. Bản báo cáo cho rằng: “Việc sử

dụng loại vũ khí này sẽ đưa đến sự giết hại số lượng lớn sinh mạng con người. Thứ

vũ khí này không chỉ hủy diệt các mục tiêu quân sự và bán quân sự mà còn hơn cả

bom nguyên tử là tiêu diệt tất cả dân thường” [8;tr.31]. Họ gọi loại vũ khí này là

“mối đe dọa đối với tương lai loài người” và là “thứ vũ khí diệt chủng”.

Oppenheimer và các nhà bác học còn khuyến nghị Chính phủ Hoa Kỳ nên đàm

phán với Chính phủ Liên Xô về việc không phát triển loại vũ khí này. Họ cho rằng,

trong trường hợp không đạt được thỏa thuận với Liên Xô, Hoa Kỳ vẫn có đủ bom A

để đối phó với Liên Xô mà không cần phát triển bom H [8, tr.32]. Nhiều nhà bác

học khác cũng lên tiếng phản đối việc chế tạo và sử dụng bom khinh khí. Nhà vật lý

Bethe đã lên tiếng như một người cổ vũ cho chiến dịch chống bom khinh khí:

“Ngày nay khó mà loại trừ được bom nguyên tử ngoài kế hoạch vũ trang của chúng

ta, vì rằng chiến lược của chúng ta dựa vào nó là chủ yếu. Nhưng tôi không thể

bàng quan nếu như tình thế này cũng lại nẩy ra đối với bom khinh khí” [Dẫn lại

theo 10, tr.271]. Trong một bài báo đăng trên tạp chí Scientific American, Bethe đã

khẳng định: “Tôi tin chắc rằng quan trọng nhất đối với chúng ta là vấn đề đạo đức.

Chúng ta là những người luôn luôn kiên trì những nguyên tắc đạo lí và nhân đạo

cao cả, chúng ta có thể đưa vào thế giới một phương tiện kinh khủng để hủy diệt

toàn bộ được không? Chúng tôi tin vào hòa bình dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau.

Chúng ta có thể đạt được điều đó bằng cách sử dụng bom khinh khí hay không?

Nếu như chúng ta khai chiến, và chiến thắng được bằng bom khinh khí, thì lịch sử

sẽ ghi lại cho con cháu chúng ta nhớ không phải những lí tưởng mà chúng ta đã

đấu tranh bảo vệ, mà là những phương pháp chúng ta đã sử dụng để cố đạt tới lí

tưởng. Mà những phương pháp này thì chỉ có thể so sánh được với những cuộc

chiến tranh của Thành Cát Tư Hãn, giết hại không thương tiếc tất cả mọi người,

không trừ ai” [Dẫn lại theo 10, tr.271 - 272].

31

Ngày 4.2.1950, mười hai nhà vật lí nguyên tử Hoa Kỳ4, đứng đầu là Bethe, đã

lên án quyết định sản xuất bom khinh khí của Tổng thống Truman trong một bản

tuyên bố. Trong bản tuyên bố này, Bethe đã viết: “Chúng tôi tin chắc rằng không

một dân tộc nào có quyền sử dụng loại bom này, dù điều đó có vẻ chính đáng đến

đâu đi nữa. Bom nguyên tử không phải chỉ là một vũ khí dùng cho chiến tranh, nó

còn là phương tiện hủy diệt toàn thể dân cư. Tạo ra mối đe dọa như vậy đối với các

dân tộc trên thế giới...là điều đáng căm ghét đối với tất cả mọi nguyên tắc đạo lí và

nền văn minh gia tô giáo... Chúng tôi kiên trì đòi chính phủ Mỹ phải trịnh trọng

tuyên bố rằng chúng ta sẽ không bao giờ sử dụng vũ khí này trước tiên. Hoàn cảnh

duy nhất buộc chúng ta sử dụng vũ khí này là khi chúng ta hoặc đồng minh của

chúng ta bị tấn công bằng loại bom này. Chỉ một cái đó có thể là biện minh duy

nhất cho việc chế tạo bom khinh khí, và cái đó phải ngăn chặn việc sử dụng loại

bom này” [Dẫn lại theo 10, tr.272 - 273].

Những kiến nghị của các nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ đều bị tổng thống

Truman bác bỏ. Không những vậy, chính quyền Truman còn chống lại những nhà

khoa học kiên quyết phản đối việc chế tạo bom H. Vụ xét xử nhà bác học

Oppenheimer đầu những năm 50 thế kỷ XX là một trường hợp điển hình. Do phản

đối quyết liệt bom H, Oppenheimer đã bị chính quyền Truman buộc tội dính líu với

các tổ chức cánh tả, trong đó có Đảng Cộng sản Hoa Kỳ. Ông cũng bị buộc tội che

giấu cho gián điệp Liên Xô tìm kiếm kỹ thuật nguyên tử của Hoa Kỳ năm 1943, tội

trì hoãn chế tạo bom H và những tội khác [8, tr.32 - 33]. Với những lời buộc tội

này, chính quyền Truman đã từ chối đảm bảo an ninh cho Oppenheimer, sa thải ông

khỏi Ủy ban Năng lượng nguyên tử Hoa Kỳ và không cho phép ông tiếp cận với

công việc nghiên cứu và chế tạo vũ khí hạt nhân. Việc chính quyền Truman xét xử

Oppenheimer đã gây ra sự phản đối trong công luận Mỹ, các đồng nghiệp của

Oppenheimer lên tiếng ủng hộ và bào chữa cho ông, nhưng mọi cố gắng của họ đều

4 Bao gồm: H.S.Bethe, S.C.Allison, C.T.Beinbridge, R.B.Brede, S.S.Lawritsen, F.W.Lumis, G.B.Pegram, B.Rossi, F.Zeitz, M.A.Tuve, V.F.Weisskopf và M.G.White

không có kết quả.

32

Như vậy những nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ chính là những người Mỹ đầu

tiên lên tiếng phản đối sự sản xuất và sử dụng vũ khí hạt nhân, và cũng chính họ là

những người đầu tiên kiến nghị một sự kiểm soát với năng lượng và vũ khí hạt

nhân.

1.3.2. Chính sách của chính quyền Hoa Kỳ về kiểm soát vũ khí hạt nhân

Quan điểm của phần lớn giới chức Hoa Kỳ và một bộ phận không nhỏ công

chúng Hoa Kỳ về vũ khí hạt nhân với an ninh của nước Mỹ là “Chỉ có ưu thế về vũ

khí hạt nhân mới đảm bảo an ninh cho nước Mỹ” [16, tr.1], có lẽ giới chức Xô viết

cũng có quan điểm tương tự. Điều đó đã đẩy cuộc chạy đua vũ trang đến chỗ không

có hồi kết, và thập niên 1960, kho vũ khí hạt nhân của hai nước đã đạt đến tình

trạng “cân bằng của nổi khiếp sợ” (Balance of terror). Tuy vậy, vào giai đoạn đầu

của vũ khí hạt nhân, trong giới chức Mỹ vẫn có một số người phản đối chạy đua vũ

khí hạt nhân và đề xuất những sự kiểm soát đối với loại vũ khí này.

Trong các quan điểm của giới chức Mỹ dưới chính quyền Truman, đáng chú ý

là quan điểm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Stimson. Không lâu sau sự kiện Hoa

Kỳ ném bom xuống Nhật Bản, ngày 11.9.1945 Stimson đã gởi lên Tổng thống

Truman một lá thư để bày tỏ quan điểm về vũ khí nguyên tử. Trong thư, Stimson

viết rằng việc Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử trong chiến tranh đã có tác động lớn

đến các vấn đề chính trị của thế giới. Ông tin rằng việc Hoa Kỳ sử dụng bom

nguyên tử không gây được áp lực lên Liên Xô trong việc thay đổi chính sách của

nước này. Trái lại, theo Stimson, các nhà lãnh đạo Liên Xô càng quyết tâm có được

vũ khí nguyên tử trong thời gian sớm nhất và hơn thế nữa là cuộc chạy đua vũ trang

tuy diễn ra lặng lẽ nhưng không kém phần quyết liệt. Ông còn cho rằng vấn đề vũ

khí hạt nhân là vấn đề trọng yếu trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô sau Chiến

tranh thế giới thứ Hai. Và do vậy ông đề nghị chính quyền Truman cùng với Anh

cần đàm phán ngay với Liên Xô về việc kiểm soát và hạn chế sử dụng bom nguyên

tử trong chiến tranh cũng như khuyến khích việc phát triển năng lượng nguyên tử vì

mục đích hòa bình. Cũng theo ông, nếu đạt được một hiệp định như vậy sẽ làm

giảm sự nghi ngờ lẫn nhau giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, mở đường cho sự tham gia của

33

các cường quốc khác vào hiệp định trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc. Nhưng đề

nghị này của Stimson cũng không được Truman đồng ý.

Đầu năm 1946, chính quyền Truman tuyên bố kế hoạch đầu tiên về kiểm soát

quốc tế đối với năng lượng nguyên tử. Kế hoạch này được đề nghị trong bản báo

cáo mang tên Báo cáo Acheson – Lilienthal (Acheson là Quốc vụ khanh, còn

Lilienthal là Chủ tịch Ủy ban năng lượng nguyên tử). Trong báo cáo này chính

quyền Truman đề nghị các bước khác nhau trong việc hủy bỏ vũ khí hạt nhân của

các nước. Các nước khác đã không chấp nhận đề nghị này của chính quyền Truman

vì họ cho rằng nó chỉ có lợi cho Hoa Kỳ.

Ngày 15.6.1946, chính quyền Truman lại đưa ra một kế hoạch kiểm soát vũ

khí hạt nhân khác – Kế hoạch Baruch, kế hoạch này được đệ trình lên Liên Hiệp

Quốc. Kế hoạch kêu gọi thành lập một tổ chức phát triển nguyên tử quốc tế có khả

năng kiểm soát các hoạt động hạt nhân nguy hiểm đe dọa đến an ninh thế giới. Nếu

kế hoạch Baruch được thực hiện thì thế giới sẽ không chế tạo thêm quả bom nguyên

tử nào và những kho chứa bom hiện đang tồn tại sẽ bị phá hủy. Không khó hiểu khi

đại biểu của Liên Xô bỏ phiếu chống lại kế hoạch này, ông còn cho rằng cuộc đàm

phán về giải trừ quân bị sẽ chưa thể diễn ra công bằng nếu Hoa Kỳ còn độc quyền

về vũ khí hạt nhân và điều khiển thế giới theo mưu đồ có lợi cho họ [3, tr.19].

Tháng 10.1946, một nhà khoa học trong đoàn đại biểu Xô Viết đã nói với Beria và

Molotov rằng: “Nếu kế hoạch Baruch được chấp nhận thì mọi hoạt động độc lập

nhằm phát triển việc chế tạo nguyên tử ở các quốc gia đã kí hiệp ước phải bị rút

ngắn và chuyển tới một tổ chức quốc tế (trên thực tế, chắc chắn là tổ chức của Mỹ).

Tổ chức Quốc tế này sau đó sẽ tiến tới kiểm soát nguồn tài nguyên của chúng ta.

Chúng ta từ chối sự giúp đỡ đó và quyết tâm tiến hành toàn bộ nghiên cứu và công

việc chuẩn bị cần thiết để thiết lập sự chế tạo nguyên tử ở đất nước của chúng ta,

với những nổ lực của chính chúng ta như Mỹ đã làm trong những năm chiến tranh”

[Dẫn lại theo 3, tr.19].

Việc ngày 17.7.1949 Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử đã tác động

không nhỏ đến những quyết tâm của chính quyền Truman trong việc đạt được một

thỏa thuận về kiểm soát vũ khí hạt nhân quốc tế. Ngày 16.8.1949, Bộ Ngoại giao

34

Hoa Kỳ đưa ra một bản báo cáo khuyến nghị chính quyền Truman cần phải đánh

giá lại chính sách của Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc trong việc đạt được một cơ chế

kiểm soát quốc tế có hiệu quả đối với vũ khí hạt nhân. Ngày 23.9.1949, trong một

tuyên bố, Tổng thống Truman nói rằng: “Hoa Kỳ cần tăng cường hoạt động ở Liên

Hiệp Quốc để đạt được sự nhất trí của các thành viên Liên Hiệp Quốc đối với việc

thành lập cơ quan kiểm soát năng lượng nguyên tử quốc tế” [10, tr.38]. Việc Liên

Xô chế tạo thành công bom nguyên tử đã đẩy cuộc chạy đua vũ trang của hai nước

trở nên quyết liệt hơn và sự đối đầu của hai khối cũng trở nên căng thẳng hơn. Đứng

trước thực tế này, nhằm ngăn chặn những kỹ thuật quân sự được chuyển giao cho

các nước khối Xô viết, Hoa Kỳ đã chủ động khởi xướng, cùng với các nước đồng

minh Tây Âu, thành lập Ủy ban Phối hợp xuất khẩu đa phương, Ủy ban này còn

cấm xuất khẩu nguyên liệu nguyên tử và vũ khí hạt nhân, sau đó Australia và Nhật

Bản cũng tham gia vào ủy ban này. Như vậy, đây chính là hình thức đầu tiên về

kiểm soát vũ trang quốc tế do Hoa Kỳ lập ra để ngăn cản sự chuyển giao kỹ thuật

quân sự nói chung và kỹ thuật hạt nhân nói riêng cho các nước khối Xô Viết [10,

tr.39].

Chính sách vũ khí hạt nhân dưới thời Eisenhower được thể hiện rõ trong văn

kiện NSC 162/2 ngày 30.10.1953 của Hội đồng An ninh Quốc gia và trong học

thuyết “Trả đũa ồ ạt” của Eisenhower đã được trình bày ở mục 1.2.2. Trong giai

đoạn Eisenhower làm tổng thống, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ không ngừng

tăng lên, cuộc chạy đua vũ trang, đặc biệt là chạy đua vũ khí hạt nhân giữa các nước

trên thế giới ngày càng quyết liệt. Tuy vậy, chính quyền Eisenhower vẫn quan tâm

đến vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân, trong bài diễn văn tại Đại hội đồng Liên Hợp

Quốc, Tổng thống Eisenhower đã đề nghị thành lập Cơ quan Năng lượng nguyên tử

quốc tế (IAEA) dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Theo đề nghị của Eisenhower,

IAEA có chức năng quản lí các nước có nguyên liệu phân rã hạt nhân sử dụng vào

các mục đích hòa bình, chẳng hạn như trong lĩnh vực nông nghiệp và y tế. Tổng

thống Eisenhower cũng tuyên bố, Hoa Kỳ sẵn sàng cử các chuyên gia hạt nhân hỗ

trợ về kỹ thuật cho cơ quan này. Do những bất đồng quan điểm giữa các nước, việc

thành lập IAEA mãi đến năm 1957 mới thực hiện được [8, tr.41]. Trong thời gian

35

này, tuy Hoa Kỳ và Liên Xô một mặt tiếp tục chạy đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí

hạt nhân, nhưng một mặt hai nước đã có những cuộc đàm phán đầu tiên về kiểm

soát vũ khí hạt nhân, nhưng do nhiều bất đồng các cuộc đàm phán này đều không

đem lại kết quả gì. Ngày 21.7.1955, tại cuộc gặp gỡ với nguyên thủ các quốc gia

Anh, Pháp và Liên Xô, Tổng thống Eisenhower đã đưa ra kế hoạch Bầu trời mở

(Open Sky). Theo kế hoạch này, Eisenhower đã đề nghị Liên Xô và Hoa Kỳ trao

đổi các kế hoạch xây dựng quân đội của hai nước và tạo điều kiện cho mỗi bên thực

hiện việc do thám trên không để ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ và bắt đầu

thực hiện một hệ thống toàn diện có hiệu quả đối với việc thanh sát và giải trừ quân

bị, nhưng chính phủ Liên Xô đã không đồng ý với đề nghị này của Eisenhower [8,

tr.44]. Tiếp theo đó là một đề nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân được đại sứ Hoa

Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Henry Cabot Lodge, đưa ra. Đề nghị gồm những điểm

chính: 1. Thực hiện cắt giảm các kho vũ khí hạt nhân hiện có và hạn chế việc sản

xuất vũ khí hạt nhân; 2. Giám sát chặt chẽ các cuộc thử hạt nhân và việc sử dụng

năng lượng hạt nhân; 3. Thành lập một cơ quan kiểm soát vũ khí quốc tế [8, tr.45].

Tiếp sau đề nghị này, ngày 21.8.1957, Tổng thống Eisenhower tuyên bố Hoa Kỳ

sẵn sàng ngừng các cuộc thử vũ khí hạt nhân trong hai năm theo những điều kiện và

sự đảm bảo nhất định, coi đó là một phần của bước đi đầu tiên tiến tới một hiệp

định về giải trừ quân bị. Trong những năm cuối của nhiệm kỳ tổng thống của mình,

Eisenhower và chính phủ của ông xúc tiến nhiều cuộc gặp gỡ và đàm phán với các

nước, đặc biệt là với Liên Xô, về cấm thử vũ khí hạt nhân cả một phần lẫn toàn

diện, vấn đề này sẽ được đề cập kỹ hơn trong Chương 2 của luận văn này. Trong

khi các cuộc đàm phán về cấm thử vũ khí hạt nhân diễn ra mà chưa đạt được kết

quả thì Hoa Kỳ, Liên Xô và 12 nước khác đã đạt được một thỏa thuận về việc sử

dụng vùng Nam cực vào mục đích khoa học, đó là Hiệp ước Nam cực (Antarctic

Treaty) được kí kết ngày 1.12.1959. Hiệp ước quy định Nam cực là khu vực chỉ

giành riêng cho các nghiên cứu khoa học, cấm tất cả các nước thành viên hiệp ước

tiến hành các vụ thử hạt nhân cũng như việc đổ chất thải phóng xạ ở khu vực này

[8, tr.48]. Trong năm 1960, Hoa Kỳ tham gia nhiều hội nghị giải trừ quân bị, trong

đó có Hội nghị giải trừ quân bị họp ở Geneve ngày 15.3.1960, nhưng các nước cũng

36

không đạt được một thỏa thuận nào. Ngày 26.7.1960 Hoa Kỳ lại đưa ra thêm một kế

hoạch kiểm soát vũ khí, kế hoạch này gồm ba bước, kêu gọi việc thông báo trước về

các cuộc phóng tên lửa, thanh sát lẫn nhau các căn cứ không quân và nơi phóng tên

lửa, hạn chế sản xuất nguyên liệu phân rã hạt nhân và cắt giảm bước đầu các lực

lượng vũ khí thông thường. Tiếp đó, ngày 16.8.1960, Đại sứ Henry Cabot Lodge đã

thông báo cho Ủy ban Giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc biết, trên cơ sở có đi có

lại, Hoa Kỳ sẵn sàng chuyển 30.000kg Uranium dùng để sản xuất vũ khí hạt nhân

sang sử dụng cho các mục đích hòa bình nếu Liên Xô cũng đồng ý cắt giảm sản

xuất nguyên liệu phân rã hạt nhân dùng vào mục đích quân sự. Đại sứ Lodge cũng

cho rằng Hoa Kỳ sẽ lần lượt đóng cửa các nhà máy lớn sản xuất Uranium và

Plutonium được làm giàu nếu Liên Xô cũng làm tương tự [63, tr.14]. Khi Kennedy

lên làm Tổng thống thì các cuộc đàm phán về hạn chế vũ khí hạt nhân vẫn diễn ra

nhưng cũng không thu được kết quả gì. Sau đó chính quyền Kennedy lại đưa ra một

giải pháp toàn diện về kiểm soát vũ khí hạt nhân cho các cường quốc hạt nhân và đệ

trình lên Liên Hiệp Quốc. Giải pháp gồm sáu vấn đề lớn là: 1. Ký ngay một hiệp

ước cấm thử vũ khí hạt nhân; 2. Chấm dứt việc sản xuất vũ khí hạt nhân và ngăn

chặn việc chuyển giao vũ khí hạt nhân cho các quốc gia chưa có loại vũ khí này; 3.

Nghiêm cấm việc đưa vũ khí hạt nhân vào vũ trụ; 4. Từng bước phá hủy các loại vũ

khí hạt nhân hiện có và sử dụng các nguyên liệu phân rã hạt nhân cho mục đích hòa

bình; 5. Cắt giảm lực lượng vũ trang của các nước theo những bước khác nhau; 6.

Đóng góp lực lượng quốc gia cho quân đội gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc [8,

tr.52].

Như vậy, những đề nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, vì nhiều lí

do khác nhau, đã không được thực thi. Và song song với quá trình này, Hoa Kỳ đã

không ngừng phát triển kho vũ khí hạt nhân của mình. Bảng thống kê dưới đây đã

cho thấy điều đó.

37

Bảng 1.1 Số lượng vũ khí hạt nhân trên thế giới giai đoạn 1945 - 1962

Năm

1945 1949 1951 1952 1953 1960 1962 Nước

6 Hoa Kỳ 235 640 1005 1436 20434 27609

0 Liên Xô 1 25 50 120 1605 3322

0 Anh 0 0 0 1 30 205

0 Pháp 0 0 0 0 0 0

6 Tổng 236 665 1055 1557 22069 31136

cộng

Nguồn: [Dẫn lại theo 8, tr.28]

Trong khung cảnh của cuộc Chiến tranh Lạnh và sự đối đầu Hoa Kỳ - Liên Xô

tiếp tục gia tăng, sự chênh lệch về lực lượng hạt nhân như thế này đã khiến Liên Xô

tiếp tục lao vào cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân “Cũng chính vì thế mà Liên Xô và

Hoa Kỳ không đạt được những thỏa thuận đối với những đề nghị về kiểm soát và

cấm thử vũ khí hạt nhân của phía Mỹ” [1, tr.54 – 55 và tr.78 – 79]. Do những bất

đồng sâu sắc nên Hoa Kỳ và Liên Xô chưa thể ký được một hiệp ước song phương

về kiểm soát vũ khí hạt nhân ở thời điểm trước cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba nổ

ra.

1.4. Cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962)

Cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (Cuban Missile Crisis) hay còn được biết với

tên gọi Khủng hoảng tháng 10 tại Cuba là một cuộc đối đầu giữa Liên

Xô, Cuba với Hoa Kỳ vào tháng 10.1962 trong thời Chiến Tranh Lạnh. Tháng

9.1962, chính phủ Cuba và Liên Xô bắt đầu bí mật xây dựng các căn cứ trên đất

Cuba để khai triển một số tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm trung có khả năng đánh

trúng đa số các mục tiêu trên lục địa Hoa Kỳ. Hành động này xảy ra sau sự kiện

Hoa Kỳ triển khai tên lửa tầm trung Thor trên đất Vương quốc Anh vào năm 1958

và tên lửa tầm trung Jupiter trên đất Ý và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1961; tổng cộng có hơn

100 tên lửa do Hoa Kỳ chế tạo đã triển khai ở châu Âu có khả năng đánh

trúng Moscow bằng đầu đạn hạt nhân. Ngày 14.10.1962, phi cơ do thám U-2 của

38

Hoa Kỳ chụp được những bằng chứng không ảnh cho thấy các căn cứ tên lửa của

Liên Xô đang được xây dựng tại Cuba.

Cuộc khủng hoảng này có cấp bậc ngang tầm với cuộc phong tỏa Berlin vì đây

là một trong các vụ đối đầu chính của Chiến Tranh Lạnh và thường được xem là

khoảnh khắc mà Chiến tranh Lạnh tiến gần nhất để biến thành một cuộc xung đột

hạt nhân. Hoa Kỳ đã xem xét đến việc tấn công Cuba bằng không lực và hải lực và

tiến hành “phong tỏa” Cuba bằng quân sự. Hoa Kỳ thông báo rằng họ sẽ không cho

phép vũ khí tấn công được gởi đến Cuba và đòi hỏi rằng Liên Xô phải tháo bỏ các

căn cứ tên lửa đang được xây hay đã xây dựng xong tại Cuba và dẹp bỏ hết tất cả

các loại vũ khí tấn công. Chính phủ của Tổng thống Kennedy hy vọng mỏng manh

rằng Điện Kremlin sẽ đồng ý với những đòi hỏi của họ và chờ đợi một cuộc đối đầu

quân sự. Về phía Liên Xô, Nikita Khrushev viết một lá thư gửi cho Kennedy trong

đó nói rằng việc Kennedy ra lệnh phong tỏa “giao thông trong vùng biển và không

phận quốc tế là một hành động gây hấn đưa con người vào vực thẳm của một cuộc

chiến tranh bằng tên lửa hạt nhân toàn cầu” [Dẫn lại theo 3, tr.65]. Fidel

Castro khuyến khích Khrushev mở một cuộc tấn công hạt nhân đánh trước phủ đầu

chống Hoa Kỳ.

Ngoài mặt, cả Liên Xô lẫn Hoa Kỳ đều tỏ ra không nhân nhượng trước những

đòi hỏi công khai của nhau, nhưng tại các cuộc tiếp xúc bí mật sau hậu trường họ

đưa ra một đề nghị giải quyết cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kết thúc vào

ngày 28 tháng 10 năm 1962 khi Tổng thống John F. Kennedy và Tổng thư ký Liên

Hiệp Quốc U Thant đạt đến một thỏa thuận với vị lãnh đạo Liên Xô Nikita

Khrushchev trong việc Liên Xô tháo bỏ các vũ khí tấn công và đưa chúng trở về

nước mình dưới giám sát kiểm tra của Liên Hiệp Quốc để đổi lấy việc Hoa Kỳ đồng

ý sẽ không bao giờ xâm chiếm Cuba và thỏa thuận ngầm là sẽ rút các tên lửa tầm

trung Thor và Jupiter của Hoa Kỳ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Liên Xô tháo bỏ các hệ thống

tên lửa và các trang bị hỗ trợ, đưa chúng xuống tám chiếc tàu Liên Xô từ ngày 5 đến

ngày 9 tháng 11. Một tháng sau đó, ngày 5 và 6 tháng 12, các oanh tạc cơ Liên

Xô Il-28 được đưa xuống ba chiếc tàu Liên Xô và đưa trở về Liên Xô. Cuộc phong

tỏa chính thức kết thúc lúc 18h45 giờ miền Đông Hoa Kỳ ngày 20.11.1962. Một

39

phần trong thỏa thuận bí mật là tất cả các tên lửa đạn đạo tầm trung PGM-17

Thor và PGM-19 Jupiter đã được khai triển ở châu Âu phải bị tháo dỡ trước tháng

9.1963.Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã khai sinh ra thỏa hiệp đường dây nóng

(hotline agreement) và đường dây nóng Moscow - Washington, một đường dây

thông tin liên lạc trực tiếp giữa Moscow và Washington.

Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã gần như đẩy nhân loại đến một sự hủy diệt

hoàn toàn. Tuần lễ cuối tháng 10.1962 được sử gia Sheldon Stern ở Thư viện Tổng

thống Kennedy gọi một cách hình ảnh là tuần lễ “thế giới bất động” (the world

standing still). Theo ông “chưa bao giờ trước đó hay từ đó, sự thượng tồn của văn

minh nhân loại đã bị đe dọa suốt thời gian thảo luận cực kỳ nguy hiểm trong mấy

tuần lễ ngắn ngũi, lên đỉnh điểm trong tuần lễ thế giới bất động” (Never before or

since, has the survival of human civilization been at stake in a few short weeks of

dangerous deliberations, culminating in the week the world stood still) [53]. Từ sau

cuộc khủng hoảng này cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều tìm cách tránh một cuộc chiến

tranh hạt nhân [8, tr.65] và cũng từ sau cuộc khủng hoảng này vấn đề kiểm soát vũ

khí hạt nhân đã đạt được nhiều kết quả cụ thể.

40

Tiểu kết chương 1

Vũ khí hạt nhân ra đời, về bình diện trong nước, nó sẽ làm cho chính sách cả

đối nội lẫn đối ngoại của chính quyền Washington phải có những thay đổi. Vũ khí

hạt nhân đã chiếm một vị trí nhất định trong chính sách đối nội và đối ngoại của

Hoa Kỳ. Còn về bình diện quốc tế, nó làm cho những căng thẳng trong quan hệ

quốc tế vốn xuất hiện vào những năm cuối của cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai

càng thêm gia tăng. Đã có thời điểm thế giới đứng bên lề của một cuộc chiến tranh

hạt nhân hủy diệt lẫn nhau. Chính phủ Hoa Kỳ qua các đời Tổng thống Truman,

Eisenhower, Kennedy đã có những chính sách khác nhau trong việc chế tạo, sử

dụng và kiểm soát vũ khí này. Tuy nhiên có một điểm chung trong chính sách về vũ

khí hạt nhân của ba vị tổng thống này là thứ nhất họ vẫn coi trọng việc phát triển vũ

khí hạt nhân để đảm bảo tính vượt trội hơn so với Liên Xô, từ đó có thể đảm bảo an

ninh cho Hoa Kỳ, chính vì lẽ đó vào thời điểm Cuộc khủng hoảng tháng 10 tại

Cuba, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ là khổng lồ lớn nhất thế giới. Thứ hai, họ

cân nhắc thật kỹ lưỡng việc sử dụng vũ khí hạt nhân và luôn tìm cách tránh nguy cơ

nổ ra một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Thứ ba, là chính phủ của họ luôn có

những đề nghị và đề xuất những phương án để kiểm soát loại vũ khí này, nhưng vì

nhiều lí do khác nhau, các đề nghị và phương án này đã không thành công. Trong

nội bộ nước Mỹ, các tiếng nói riêng lẽ về kiểm soát vũ khí hạt nhân cũng vang lên

không ngớt, phần lớn là của các nhà bác học nguyên tử, nhưng chính phủ ở

Washington đã không hoan nghênh và ủng hộ các đề xuất này của họ. Đứng trước

nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt nảy sinh từ Cuộc khủng hoảng

tên lửa Cuba, các chính trị gia mới thấy cần phải thúc đẩy nhanh tiến trình đàm

phán để các thỏa thuận về kiểm soát vũ khí hạt nhân có kết quả thực tế, để góp phần

quan trọng giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân xảy ra trong tương lai. Cũng chính từ

thời điểm đó mà Hoa Kỳ đã chủ động đẩy nhanh các cuộc đàm phán với các nước

có vũ khí hạt nhân, đặc biệt với Liên Xô để đạt được những thỏa thuận về kiểm soát

vũ khí hạt nhân.

41

Chương 2. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA

HOA KỲ TỪ 1963 ĐẾN 1976

Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã cho thấy tình trạng vô cùng nguy hiểm của

cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô, và khiến các nhà lãnh đạo

nhận thức rõ hơn bao giờ hết nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ nổ ra.

Từ bài học này, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã tránh đối đầu trực tiếp trong quan hệ song

phương giữa hai nước, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều chấp nhận sự tồn tại của đối thủ

trong tư cách là một quốc gia có chế độ chính trị hoàn toàn đối lập về mọi mặt.

Cũng từ đó quan hệ hai nước trở nên hòa dịu hơn. Nhưng không vì thế mà cuộc

chạy đua vũ trang có dấu hiệu suy giảm. Trong khi đó tình hình thế giới lại phức tạp

hơn với việc xuất hiện nhiều điểm nóng, đặc biệt là Việt Nam. Cuộc chiến tranh

Việt Nam đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Hoa Kỳ. Cuộc

chạy đua vũ trang và các chi phí quân sự khác là một gánh nặng cho ngân sách của

chính phủ Hoa Kỳ và cho cả đất nước. Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ đã dần điều

chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng hòa dịu hơn trong quan hệ với các cường

quốc, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Hoa Kỳ đã chủ động đẩy mạnh tiến

trình đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân và đã đạt được kết quả đầu tiên về việc

ký kết các văn kiện hạn chế vũ khí hạt nhân.

2.1. Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân một phần năm 1963 ( Limited Test Ban

Treaty -LTBT)

Vấn đề cấm thử vũ khí hạt nhân được chính quyền của Tổng thống Eisenhower

đệ trình lên Liên Hiệp Quốc từ tháng 4.1954 và xúc tiến các cuộc đàm phán với các

cường quốc, nhất là với Liên Xô về vấn đề này. Tại các cuộc đàm phán, Liên Xô

kiên quyết đòi ngưng vô thời hạn toàn bộ các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân , kể

cả dưới mặt đất, và hiệp ước này đòi tất cả các cường quốc hạt nhân kí. Nhưng Pháp

bác bỏ vì coi đây không phải là hành động giải trừ quân bị thực sự mà chỉ là một cố

gắng của những nước đã có vũ khí hạt nhân ngăn không cho các nước khác có loại

vũ khí này. Hoa Kỳ cũng không đồng ý với quan điểm này của Liên Xô và cho rằng

chỉ cần cấm thử ở trong bầu khí quyển, dưới nước vì cho rằng khoa học hiện tại

42

không thể phân biệt được những chấn động trong lòng đất do thử hạt nhân với các

chấn động do động đất gây ra (có ý không tin tưởng Liên Xô chấp hành đúng nếu

Hiệp ước được kí kết) và phía Hoa Kỳ đưa ra đề nghị đòi được kiểm tra tại chỗ các

hiện tượng bị hồ nghi là vụ nổ hạt nhân trong lòng đất. Phái đoàn của Liên Xô đã

không xem xét đề nghị này của Hoa Kỳ vì cho rằng đây là âm mưu của Hoa Kỳ

nhằm do thám lãnh thổ của Liên Xô. Kết quả của nhiều bất đồng đó là sau 157

phiên họp từ ngày 23.4.1954 đến ngày 6.9.1957 không một tiến bộ nào được ghi

nhận [27, tr.37]. Ngày 31.10.1958, cuộc đàm phán về cấm thử vũ khí hạt nhân đã

được nối lại tại Geneva giữa Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh. Tại Hội nghị này ba nước

bàn về các vấn đề như con số các cuộc kiểm tra tại chỗ, thời hạn tạm ngưng thử

nghiệm, nhu cầu hợp tác cải tiến các phương pháp phát hiện. Sau đó hội nghị đã

xoay quanh trọng tâm là kiểm tra các cuộc thử hạt nhân vì sẽ không nước nào từ bỏ

các cuộc thử nghiệm, vốn là phương sách chính để cải tiến các loại vũ khí hạt nhân,

nếu không chắc chắn rằng đối phương cũng sẽ làm như vậy. Hoa Kỳ và Anh đồng ý

ký một thỏa ước từ bỏ thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, vốn rất dễ dàng phát

hiện, và các cuộc thử quy mô lớn trong lòng đất, cũng dễ dàng phát hiện so với các

chấn động do động đất được ghi trên địa chấn kế. Nhưng hai nước này không muốn

đưa vào thỏa ước những cuộc thử nghiệm nhỏ trong lòng đất nếu Liên Xô không

đồng tình với điều khoản quy định công tác kiểm tra thích đáng tại chỗ. Liên Xô thì

kiên trì chỉ kí một thỏa ước cấm toàn bộ việc thử nghiệm và khước từ mọi hoạt

động thanh sát tại chỗ [28, tr.37]. Những khác biệt này cùng với nhiều sự biến bất

ngờ xảy ra như vụ máy bay do thám U-2 của Hoa Kỳ bị bắn rơi trên lãnh thổ Liên

Xô, sự thất bại của Hội nghị thượng đỉnh Paris, Cuộc khủng hoảng Berlin đã là

những trở ngại không dễ vượt qua.

Giành chiến thắng trước Richard Nixon của Đảng Cộng hòa, J.F.Kennedy lên

làm tổng thống Hoa Kỳ. Kennedy tuy muốn tìm cách ngăn chặn nguy cơ nổ ra chiến

tranh hạt nhân nhưng do Liên Xô đang có những động thái mạnh mẽ để tăng cường

lực lượng hạt nhân của mình nên ông cũng không thể làm ngơ được. Kennedy đã

chú trọng xây dựng quân đội hùng mạnh để tăng cường sức mạnh ngăn chặn có quy

mô lớn, nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược. Trong thông cáo quốc phòng vào

43

tháng 3.1961, Kennedy quyết định tăng cường sản xuất và phát triển hệ thống tàu

ngầm mang tên lửa Polaris và các loại tên lửa dưới lòng đất Minuteman. Tuy vậy,

cũng giống như các tổng thống tiền nhiệm, song song với quá trình phát triển vũ khí

hạt nhân đó, chính quyền Kennedy cũng chú trọng đến vấn đề đàm phán kiểm soát

vũ khí hạt nhân. Ngày 21.3.1961, chính quyền Kennedy đã chủ động nối lại các

cuộc đàm về cấm thử vũ khí hạt nhân với Liên Xô và Anh tại Geneva. Vẫn là vấn

đề thanh sát các cuộc thử trong lòng đất, lúc này Liên Xô đã đồng ý thanh sát nhưng

bất đồng vẫn nảy sinh khiến các thỏa thuận không đạt được, trong khi Hoa Kỳ và

Anh đề nghị tổ chức 20 cuộc thanh sát một năm, còn Liên Xô chỉ khăn khăn đồng ý

3 [56]. Sau đó các cuộc thử hạt nhân trong lòng đất vẫn tiếp tục diễn ra. Ngày

5.9.1961, Liên Xô tiến hành một vụ thử hạt nhân trong lòng đất làm kinh hoàng cả

thế giới, Kennedy cũng đáp trả ngay lập tức bằng lệnh Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tiến hành

những vụ thử hạt nhân trong lòng đất. Khrushev đã nói với phóng viên tờ New York

Times Sulzbeger rằng sự phát triển của những loại bom mới có sức mạnh phi

thường khiến cho những kẻ hung hăng phải suy nghĩ kỹ trước khi hành động và

đảm bảo Liên Xô cũng có sức mạnh không thua kém gì Hoa Kỳ, Anh hay Pháp [3,

tr.73]. Khrushev đã lên tiếng chỉ trích các đề nghị của Hoa Kỳ và Anh về cấm thử

vũ khí hạt nhân và đề nghị một lệnh cấm thử toàn diện ở mọi môi trường. Tuy nhiên

hai nhà lãnh đạo hai cường quốc vẫn trao đổi thư từ cho nhau để bàn về vấn đề giải

trừ quân bị. Cả hai vẫn rất mong muốn vấn đề được giải quyết và sớm đạt được sự

đồng thuận. Trong một động thái nhằm tạo niềm tin trước một hội nghị mới về kiểm

soát vũ khí hạt nhân, Liên Xô đã ngừng các cuộc thử hạt nhân từ ngày 2.11.1961.

Hội nghị giải trừ quân bị, trong đó có vấn đề cấm thử vũ khí hạt nhân đã được

18 quốc gia (ENDC) đồng ý và sẽ chính thức khai mạc ngày 14.3.1962. Tổng thống

Kennedy và thủ tướng Anh MacMillan đề nghị Hội nghị chỉ nên tổ chức ở cấp bộ

trưởng, các nguyên thủ quốc gia sẽ tới khi hội nghị gần đạt được sự đồng thuận. Đề

nghị này khiến Khrushev cho rằng Hoa Kỳ và Anh không tích cực đàm phán, ông

đề nghị Hội nghị cần phải tổ chức ở cấp nguyên thủ quốc gia. Ông thuyết phục

Kennedy: “các vị nguyên thủ quốc gia cần phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với

số phận của các công dân, và phải hiểu rõ tình hình cuộc chạy đua vũ trang tên lửa

44

và hạt nhân đang diễn ra như thế nào và cuộc chạy đua đó sẽ đưa tới đâu” [Dẫn lại

theo 3, tr.74 – 75]. Trong cuộc họp với các cố vấn an ninh quốc gia ngày 27.2.1962,

Kennedy quyết định sẽ tiến hành các cuộc thử hạt nhân nếu hội nghị Geneva không

đạt kết quả nào. Ông tuyên bố: “Nếu Liên Xô sẵn sàng kí kết một bản hiệp ước

trong nửa đầu tháng 4 và cam kết thực hiện hiệp ước ngay lập tức, thì tất cả các

cuộc thử hạt nhân sẽ được dừng lại – cuộc chạy đua vũ trang kết thúc – An ninh

của Hoa Kỳ và những lời cam kết của Hoa Kỳ sẽ được đảm bảo. Chúng tôi sẽ không

cần phải khởi động lại chương trình thử hạt nhân trong không khí nữa” [Dẫn lại

theo 3, tr.75]. Quyết định này của Kennedy đã làm cho Khrushev phản đối quyết

liệt, ông đã gởi nhiều lá thư đến Kennedy thể hiện quan điểm và sự phản đối của

mình. Trong lá thư cuối cùng gởi cho Kennedy trước khi hội nghị diễn ra, Khrushev

đã đồng ý các cuộc đàm phán ở Geneva diễn ra ở cấp bộ trưởng, đồng thời ông cũng

khẳng định một thực tế là nếu Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên ý định thử hạt nhân thì cơ

hội thành công của hội nghị gần như không còn. Hội nghị Geneva khai mạc ngày

14.3.1962, các cuộc đàm phán diễn ra rất khó khăn do những quan điểm gần như

trái ngược nhau giữa một bên là Hoa Kỳ và Anh, bên kia là Liên Xô. Quan điểm

của Hoa Kỳ và Anh là các quan sát viên quốc tế sẽ giám sát, thẩm tra việc thi hành

lệnh cấm thử vũ khí hạt nhân của các nước tham gia kí kết Hiệp ước còn Liên Xô

thì cực lực phản đối quan sát viên quốc tế đến Liên Xô để kiểm chứng một số chấn

động xảy ra do động đất hay do thử hạt nhân, theo Liên Xô, hành động thanh sát

này của các quan sát viên quốc tế không chỉ dừng lại ở hành động thanh sát thử hạt

nhân thông thường mà còn nhằm do thám lãnh thổ Liên Xô. Do những bất đồng

không thể dung hòa được này mà cuộc đàm phán diễn ra hơn 10 ngày mà vẫn không

đạt được một thỏa thuận nào và Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành hàng loạt các cuộc thử

hạt nhân và nó kéo dài đến tận tháng 11 mới kết thúc. Các cuộc đàm phán tại

Geneva chưa đạt được một thỏa thuận nào và liên tục bị gián đoạn còn do bởi một

bất đồng khá lớn khác, quan điểm của Hoa Kỳ là chỉ cấm thử hạt nhân ở khí quyển,

ngoài không gian, dưới nước còn ở trong lòng đất thì bỏ ngỏ, quan điểm của Liên

Xô là cấm thử hạt nhân trong toàn bộ các môi trường, nghĩa là chấm dứt sản xuất

các loại vũ khí hạt nhân mới.

45

Sau Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, các cuộc đàm phán diễn ra với nhịp độ

nhanh hơn và lập trường của các bên xích lại gần nhau hơn. Ngày 2.7.1963, trong

một phát biểu tại Berlin, Khrushev nói rằng Liên Xô sẵn sàng chấp nhận một thỏa

ước cấm chỉ các cuộc thử nghiệm hạt nhân ở những nơi chúng có thể dễ bị phát hiện

– trong khí quyển, ngoài không gian, dưới mặt nước còn trong lòng đất thì bỏ ngỏ

[56]. Như vậy Khrushev đã có động thái nhượng bộ Kennedy. Ngày 15.7.1963,

đoàn đàm phán của ba nước đã chính thức đàm phán về hiệp ước cấm thử vũ khí hạt

nhân một phần tại Moscow. Sau 10 ngày đàm phán, Hội nghị đã đạt được một thỏa

thuận về hiệp ước và chờ ba vị bộ trưởng của ba cường quốc ký vào.

Nhận được tin tức tốt đẹp từ Moscow, ngày 26.7, Tổng thống Kennedy đã có

bài phát biểu trước toàn thể nhân dân qua đài phát thanh và truyền hình. Ông tỏ ra

phấn khởi và hi vọng một thế giới sẽ tốt đẹp hơn khi hiệp ước được kí kết: “Tôi

đang nói chuyện với các bạn trong niềm hy vọng ngập tràn. Cách đây 18 năm, sự

xuất hiện của vũ khí hạt nhân đã làm thay đổi thế giới và chiến tranh. Cũng từ đó,

loài người phải đấu tranh để tránh nguy cơ rơi vào một thảm kịch hủy diệt trên trái

đất này. Trong một thời đại mà cả hai phe đều sở hữu lực lượng hạt nhân đủ mạnh

để phá hủy nhân loại, thế giới cộng sản và thế giới tự do vẫn đang tiếp tục có

những xung đột về tư tưởng và lợi ích. Mâu thuẫn càng tăng thì cuộc chạy đua vũ

trang diễn ra càng dữ dội, và cuộc chạy đua vũ trang càng diễn ra mạnh mẽ càng

đẩy mâu thuẫn và xung đột lên cao.

Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ và Liên Xô thường xuyên nghi ngờ, chỉ

trích, cảnh cáo, đe dọa lẫn nhau; hiếm khi có niềm tin và hy vọng. Đại diện của cả

hai bên đã có những cuộc gặp gỡ thượng đỉnh ở Washington, Moscow, Geneva và

tại Liên Hiệp Quốc. Nhưng quá nhiều cuộc gặp gỡ ấy đã đi vào ngõ cụt, không đạt

được thỏa thuận nào và đầy thất vọng.

Ngày hôm qua, một luồng ánh sáng đã rọi chiếu trong bóng tối. Cuộc đàm

phán ở Moscow đã đạt được một hiệp ước cấm thử hạt nhân trong không khí, ngoài

không gian và dưới nước. Lần đầu tiên có một thỏa thuận buộc các lực lượng hạt

nhân phải nằm dưới tầm kiểm soát quốc tế, đó cũng là mục tiêu của Bernard

46

Baruch khi ông trình bày một kế hoạch kiểm soát trước Liên Hiệp Quốc năm 1946”

[24].

Kennedy cũng đã thấy được những hạn chế của Hiệp ước này, ông cho rằng

Hiệp ước chưa phải là giải pháp hoàn hảo để ngăn chặn mối đe dọa hủy diệt thế giới

từ vũ khí hạt nhân: “Đây chỉ là một hiệp ước cấm thử hạn chế, chỉ cấm thử trong

môi trường khí quyển, dưới mặt nước, ngoài không gian; vẫn cho phép thử hạt nhân

trong lòng đất. Ngoài ra, hiệp ước này vẫn còn nhiều hạn chế khác. Những nước đã

kí vào hiệp ước vẫn có quyền rút khỏi hiệp ước khi họ cảm thấy điều khoản của hiệp

ước ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Hiệp ước này không đồng nghĩa với việc mối

đe dọa chiến tranh hạt nhân đã chấm dứt. Nó không ngăn cản việc làm giàu hạt

nhân, nó cũng không cấm sản xuất các loại vũ khí hạt nhân và cũng không hạn chế

việc sử dụng vũ khí hạt nhân” [24].

Sau tám năm đàm phán đầy khó khăn, cuối cùng hiệp ước cũng được kí kết

ngày 5.8.1963 giữa đại diện ba cường quốc: Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk, Bộ

trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Gromyko và Ngoại trưởng Anh Lord Home.

Đến ngày 11.9.1963 đã có 77 chữ kí vào bản hiệp ước, bản hiệp ước có hiệu lực

ngày 10.10.1963. Trong tháng 10 đã có 102 nước đồng tình và kí vào hiệp ước

nhưng Pháp và Trung Quốc đã không kí vì cả hai quốc gia đang nổ lực xây dựng

lực lượng hạt nhân cho riêng mình và vì cho rằng mục đích của hiệp ước này là

không phải giải trừ quân bị mà để ngăn chặn các nước khác như Pháp và Trung

Quốc có lực lượng hạt nhân riêng [3, tr.79 – 80].

Hiệp ước có tên đầy đủ là Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển,

ngoài không gian, và dưới nước (Treaty Banning Nuclear Weapon Tests in the

Atmosphere, in Outer Space, and Under Water). Hiệp ước gồm 5 điều khoản, trong

phần mở của hiệp ước, các nước tham gia kí kết đã tuyên bố mục đích của họ là

“thực hiện việc kiểm soát quốc tế chặt chẽ đối với vấn đề giải trừ quân bị phù hợp

với những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc, tiến tới chấm dứt chạy đua vũ trang và xóa

bỏ việc sản xuất cũng như thử nghiệm tất cả các loại vũ khí, kể cả vũ khí hạt nhân”

(complete disarmament under strict international control in accordance with the

objectives of the United Nations which would put an end to the armaments race and

47

eliminate the incentive to the production and testing of all kinds of weapons,

including nuclear weapons) [56]. Nội dung chính của các điều khoản là cấm thử hạt

nhân trong khí quyển, ngoài không gian và dưới nước. Mặc dù LTBT không cấm

các vụ thử hạt nhân trong lòng đất nhưng lại cấm các vụ nổ hạt nhân dưới đất nếu

gây ra ô nhiễm phóng xạ vượt quá phạm vi lãnh thổ nước tiến hành vụ nổ. Bản hiệp

ước còn quy định, bất cứ sự sửa đổi nào về văn bản phải được sự chấp nhận của đa

số các quốc tham gia ký kết. Nội dung của bản hiệp ước phù hợp với Điều 102 của

Hiến chương Liên Hiệp Quốc, có nghĩa là nó được đăng kí với Ban thư kí của Liên

Hiệp Quốc và được viện dẫn ra trước một cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi cần

thiết, bản hiệp ước có giá trị vô thời hạn. Các nước tham gia kí kết có quyền rút

khỏi hiệp ước nếu quyền lợi tối thượng của quốc gia mình bị xâm hại nhưng phải

báo trước ba tháng, bản hiệp ước mở cửa cho tất cả các nước tham gia kí kết vào.

Vào thập niên 50, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ tăng lên không ngừng,

cuộc chạy đua vũ trang, nhất là vũ khí hạt nhân, diễn ra thật quyết liệt nhất là giữa

Hoa Kỳ và Liên Xô. Song song với quá trình tăng số lượng trong kho vũ khí hạt

nhân của mình, chính phủ Hoa Kỳ cũng đã quan tâm và có những chính sách nhằm

kiểm soát loại vũ khí này. Các cuộc đàm phán về hạn chế thử vũ khí hạt nhân giữa

các cường quốc đã được tiến hành từ năm 1955, tuy nhiên, do nhiều sự bất đồng

quan điểm nên đến trước cuộc đàm phán cuối cùng ở Moscow tháng 7.1963 các

vòng đàm phán đều thất bại, các nước lại ra sức chạy đua vũ khí hạt nhân.

Các cuộc đàm phán về hạn chế thử vũ khí hạt nhân được nối lại từ sau Cuộc

khủng hoảng tên lửa Cuba và đạt được kết quả khả quan. Sở dĩ đạt được điều này là

vì thứ nhất: do các nhà lãnh đạo, nhất là của hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô,

nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải làm dịu tình hình căng thẳng trong mối quan

hệ giữa các cường quốc sau Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Thứ hai là thời điểm

này có nhiều quốc gia đang tiến hành nghiên cứu và thử vũ khí hạt nhân, trong đó

đáng chú ý là Pháp với 7 vụ thử hạt nhân trước khi LTBT được kí kết và Trung

Quốc đã bắt đầu nghiên cứu vũ khí hạt nhân từ cuối thập niên 50. Sức ép từ sự phản

đối chạy đua vũ trang hạt nhân trong dư luận thế giới cũng tác động vào các nước

lớn để họ nối lại các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Nguyên nhân

48

quan trọng thứ ba là tại thời điểm năm 1963 cả Hoa Kỳ lẫn Liên Xô đã đạt nhiều

thành tựu trong chế tạo vũ khí hạt nhân. Với kỹ thuật tiên tiến hơn các nước còn lại,

cả Hoa Kỳ và Liên Xô có thể tiến hành các vụ thử hạt nhân trong lòng đất và do vậy

một hiệp ước cấm thử hạt nhân trong khí quyển, ngoài không gian và dưới nước sẽ

không còn ảnh hưởng đến cả hai nước nữa.

Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều đánh giá cao LTBT và coi đây là “bước đi hiện

thực đầu tiên trên con đường tiến tới kìm hãm cuộc chạy đua vũ trang” [1, tr.163].

Bản hiệp ước này trên thực tế đã không hề làm chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang, cả

Hoa Kỳ và Liên Xô vẫn thử được hạt nhân trong lòng đất và một số nước (như

Pháp, Trung Quốc) vẫn tiến hành thử hạt nhân ở tất cả các môi trường một cách

bình thường vì họ không kí kết. Tuy nhiên, việc kí kết hiệp ước nó cũng có một ý

nghĩa chính trị quan trọng, chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã có

kết quả thực tế. Là bước đi đầu tiên của quá trình kiểm soát vũ khí hạt nhân và hạn

chế cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, từ hạn chế thử sẽ tiến tới cấm thử toàn diện.

Hiệp ước LTBT có ý nghĩa quan trọng trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô, nó góp

phần cải thiện mối quan hệ giữa hai đối thủ chính trong Cuộc Chiến tranh Lạnh và

mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ quốc tế sau đó – giai đoạn cùng chung sống

hòa bình, đồng thời nó là động lực để thúc đẩy hai nước đàm phán cho những hiệp

ước tiếp theo về kiểm soát vũ khí hạt nhân.

Việc Hoa Kỳ và Liên Xô cùng nhau soạn thảo và kí kết Hiệp ước LTBT đã có

tác động đến quan hệ quốc tế lúc bấy giờ. Mối quan hệ Xô – Trung rạn nứt thêm.

Trung Quốc ngày càng nghi ngờ Liên Xô bắt tay với Hoa Kỳ và cho rằng LTBT là

âm mưu của ba nước kí kết nhằm củng cố sự độc quyền sở hữu vũ khí hạt nhân và

trói tay tất cả các nước yêu hòa bình đang bị vũ khí hạt nhân đe dọa [3, tr.81]. Mối

quan hệ giữa hai đồng minh trong khối NATO là Hoa Kỳ và Pháp càng thêm căng

thẳng. Chính sách đối ngoại độc lập của De Gaulle nhằm thoát sự ảnh hưởng của

Hoa Kỳ nay có dịp được củng cố, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan

trọng khiến De Gaulle quyết định rút Pháp khỏi hệ thống quân sự của NATO năm

1966.

49

Kể từ sau Hiệp ước LTBT năm 1963, Hoa Kỳ đã chủ động hơn, cùng với Liên

Xô, đi đầu trong đấu tranh để vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân có những kết quả cụ

thể. Mặc dù có những khó khăn trong quá trình đàm phán nhưng những hiệp ước về

kiểm soát vũ khí hạt nhân được Hoa Kỳ kí kết tiếp sau đó đã góp phần không nhỏ

vào tiến trình hòa dịu trong quan hệ quốc tế những năm đầu thập kỷ 1970s.

2.2. Hiệp ước về Không gian vũ trụ năm 1967 (Outer Space Treaty Text –OST)

Từ giữa thập niên 1950, cuộc chạy đua vào vũ trụ giữa hai siêu cường Hoa Kỳ

và Liên Xô diễn ra quyết liệt với những tiến bộ về kỹ thuật chế tạo tên lửa đưa thiết

bị vào thăm dò vũ trụ. Vào tháng 8.1957, các nước phương Tây, đứng đầu là Hoa

Kỳ đã đề nghị phát triển một hệ thống kiểm tra không gian vũ trụ như là một phần

của chương trình giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc nhằm ngăn cản việc chiếm

dụng vũ trụ để phục vụ cho các lợi ích riêng của các cường quốc [58]. Tuy nhiên,

Liên Xô, lúc này đang bắt đầu các cuộc thử nghiệm tên lửa ICBM và chuẩn bị đưa

vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào quỹ đạo trái đất, đã không chấp nhận đề nghị này [58].

Cũng trong tháng 8.1957 Liên Xô đã phóng thành công tên lửa ICBM thế hệ đầu

tiên và đến ngày 4.10.1957, Liên Xô tiếp tục phóng thành công vệ tinh nhân tạo

Sputnik đầu tiên vào quỹ đạo trái đất. Hoa Kỳ cũng không chịu thua kém trong cuộc

chạy đua vào vũ trụ, chỉ không lâu sau khi Liên Xô phóng thành công vệ tinh

Sputnik, ngày 1.2.1958 Hoa Kỳ phóng thành công vệ tinh Explorer I. Cuộc chạy

đua vào vũ trụ giữa hai siêu cường đã khiến thế giới lo lắng về nguy cơ vũ trụ bị

quân sự hóa với các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhất là vũ khí hạt nhân. Trong

thời kỳ từ năm 1959 đến 1962, các cường quốc phương Tây, đứng đầu là Hoa Kỳ,

đã thực hiện một loạt các đề xuất không sử dụng không gian vũ trụ cho các mục

đích quân sự và đề xuất các kế hoạch giải trừ quân bị đầy đủ bao gồm việc cấm đưa

vũ khí hủy diệt hàng loạt lên quỹ đạo trái đất và vào không gian vũ trụ [58]. Phát

biểu tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 22.9.1960, Tổng thống Eisenhower đã

đề xuất rằng các nguyên tắc của Hiệp ước Nam cực phải được áp dụng cho không

gian vũ trụ và các thiên thể [58], và một loạt các biện pháp đối với việc sử dụng vũ

trụ vào mục đích hòa bình cũng được ông đưa ra: Các nước không được tuyên bố

chủ quyền đối với bất kỳ hành tinh nào trong vũ trụ; Các nước không tiến hành bất

50

cứ hành động quân sự nào trên các hành tinh trong vũ trụ; Các nước không được

đưa vũ khí hủy diệt hàng loạt vào quỹ đạo hay vũ trụ và phải chịu sự giám sát quốc

tế; Xây dựng một chương trình hợp tác quốc tế trong việc sử dụng vũ trụ vào các

mục đích hòa bình dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc [8, tr.115]. Ngày 25.9.1961,

trong một bài phát biểu tại Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Kennedy kêu gọi giải trừ

vũ khí hạt nhân trong đó có việc ngăn cấm việc đưa vũ khí hạt nhân lên vũ trụ [8,

tr.115].

Như vậy, Hoa Kỳ liên tiếp đưa ra những đề nghị phi quân sự hóa vũ trụ, điều

đó cho thầy rằng, một mặt thể hiện sự lo ngại của họ về những ưu thế kỹ thuật vũ

trụ của Liên Xô, mặt khác nhằm tranh giành uy tín chính trị với Liên Xô trong vấn

đề giải trừ quân bị [3, tr.83]. Về phần Liên Xô, từ năm 1960 đến 1962 họ đưa ra

một kế hoạch đầy đủ về giải trừ quân bị trong đó có việc sử dụng không gian vũ trụ

cho các mục đích hòa bình [58]. Đề nghị của họ còn gắn với việc xóa bỏ các căn cứ

quân sự của Hoa Kỳ ở nước ngoài có trang bị tên lửa tầm ngắn và tầm trung nhưng

bị Hoa Kỳ và các nước phương Tây từ chối vì họ cho rằng điều đó sẽ làm mất thế

cân bằng chiến lược và ảnh hưởng đến an ninh của họ [3, tr.83]. Sau khi kí kết hiệp

ước LTBT ngày 5.8.1963 quan điểm của Liên Xô đã thay đổi, Liên Xô không còn

đòi một giải pháp về việc sử dụng hòa bình vũ trụ gắn với việc dỡ bỏ các căn cứ tên

lửa tầm ngắn và trung của các cường quốc phương Tây nữa. Ngày 19.9.1963, tại

một cuộc họp ở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô

Gromyko đã nói rằng Liên Xô muốn đạt được một thỏa thuận cấm các phương tiện

mang vũ khí hạt nhân vào vũ trụ, đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Stevenson nói rằng

Hoa Kỳ không có ý định đưa vũ khí hủy diệt hàng loạt lên không gian vũ trụ hoặc

cài đặt chúng trên các thiên thể ngoài vũ trụ. Như vậy là quan điểm của Hoa Kỳ và

Liên Xô đã gần nhau. Và Đại hội đồng đã nhất trí thông qua Nghị quyết ngày

16.10.1963 hoan nghênh các báo cáo của Hoa Kỳ và Liên Xô và kêu gọi tất cả các

nước không đưa vũ khí hủy diệt hàng loạt vào không gian vũ trụ [58]. Hoa Kỳ ngay

lập tức ủng hộ nghị quyết này mặc dù không có bất kỳ một quy định nào để xác

minh việc tuân thủ nghị quyết. Sở dĩ như vậy là vì với khả năng của hệ thống theo

dõi không gian vũ trụ của mình đã đủ và dễ dàng cho Hoa Kỳ phát hiện các thiết bị

51

trên không gian vũ trụ và quỹ đạo trái đất. Để duy trì động lực cho các Hiệp ước về

kiểm soát vũ khí hạt nhân, trong ba năm 1964, 1965 và 1966 Hoa Kỳ hối thúc Liên

Hiệp Quốc đưa ra các nghị quyết nhằm nhanh chóng đi đến một hiệp định về không

gian vũ trụ.

Vấn đề soạn thảo hiệp ước được Liên Hiệp Quốc giao cho Hoa Kỳ và Liên

Xô. Ngày 16.6.1966, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã gởi dự thảo Hiệp ước lên Liên Hiệp

Quốc, cả hai bên đạt được phần lớn sự đồng thuận, chỉ còn một số khác biệt nhỏ

chủ yếu liên quan đến vấn đề sử dụng các thiết bị quân sự và nhân viên trong việc

thăm dò không gian nhưng được giải quyết thỏa đáng trong một cuộc họp của Đại

hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 12.1966 [58]. Hiệp ước được kí kết ngày

27.1.1967 giữa Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và 61 nước khác. Ngày 25.4.1967 thượng

viện Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua hiệp ước. Hiệp ước có hiệu lực từ ngày

10.10.1967.

Hiệp ước có tên đầy đủ là “Hiệp ước về nguyên tắc điều chỉnh việc hoạt động

của các quốc gia trong thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ, bao gồm cả mặt trăng

và các thiên thể khác” (Treaty on Principles Governing the Activities of States in the

Exploration and Use of Outer Space, Including the Moon and Other Celestial

Bodies). Hiệp ước được xây dựng trên cơ sở Nghị quyết 110 (Điều 2) ngày

3.11.1947, Nghị quyết 1962 (Điều 18) ngày 13.12.1963 và Nghị quyết 1883 (Điều

18) ngày 17.10.1963 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc về các vấn đề nghiên cứu và

bảo vệ vũ trụ, phục vụ cho các lợi ích hòa bình của nhân loại. Lời mở đầu của Hiệp

ước OST khuyến khích sự hợp tác giữa các nước trong việc tiến hành nghiên cứu

khoa học về vũ trụ, phục vụ các mục đích hòa bình, đồng thời nêu lên sự tôn trọng

quyền lợi chung của các nước bất kể trình độ phát triển:

“Nhận thức được lợi ích chung của tất cả nhân loại trong quá trình thăm dò và

sử dụng không gian vũ trụ cho mục đích hòa bình,

Tin tưởng rằng việc thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ nên được tiến hành

vì lợi ích của tất cả các dân tộc không phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế, khoa

học của họ,

52

Với mong muốn đóng góp vào hợp tác quốc tế rộng rãi trong khoa học cũng

như các khía cạnh pháp lý của việc thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ cho mục

đích hòa bình,

Tin tưởng rằng hợp tác như vậy sẽ góp phần vào sự phát triển của sự hiểu biết

lẫn nhau và thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia và dân tộc,”

“Recognizing the common interest of all mankind in the progress of the

exploration and use of outer space for peaceful purposes,

Believing that the exploration and use of outer space should be carried on for

the benefit of all peoples irrespective of the degree of their economic or scientific

development,

Desiring to contribute to broad international co-operation in the scientific as

well as the legal aspects of the exploration and use of outer space for peaceful

purposes,

Believing that such co-operation will contribute to the development of mutual

understanding and to the strengthening of friendly relations between States and

peoples” [58].

Hiệp ước gồm 17 điều khoản với những nội dung chính như nghiêm cấm lắp

đặt các loại vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt trên quỹ đạo của trái đất,

trên mặt trăng hoặc bất cứ thiên thể nào trong vũ trụ; nghiêm cấm đưa các thiết bị

quân sự lên vũ trụ hoặc tiến hành bất cứ hoạt động quân sự gì trên vũ trụ; quy định

việc thăm dò và tiến hành nghiên cứu vũ trụ chỉ để phục vụ mục đích hòa bình;

khuyến khích tất cả các nước trên thế giới cùng tham gia nghiên cứu vũ trụ vì mục

đích hòa bình. Hiệp ước OST mở cho tất cả các nước tham gia kí kết. Những sửa

đổi về văn bản Hiệp ước OST phải được đa số các nước đồng ý. Các nước thành

viên muốn rút khỏi hiệp ước phải là thành viên của hiệp ước ít nhất một năm và

phải báo trước một năm. Hiệp ước OST phù hợp với Điều 102 của Hiến chương

Liên Hiệp Quốc, tức là được đăng kí với Ban thư kí và được viện dẫn ra trước một

cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi cần thiết.

Hiệp ước OST được kí kết trong bối cảnh chiến tranh Lạnh, khi Hoa Kỳ và

Liên Xô ra sức chạy đua vũ trang và chạy đua chinh phục vũ trụ với những kỹ thuật

53

nghiên cứu tiên tiến nhất và những tham vọng chinh phục vũ trụ để chiếm lĩnh nó

nhằm phục vụ cho những mục đích riêng của mình, thậm chí cho mục đích quân sự.

Hoa Kỳ rất sợ những kỹ thuật tiên tiến mà Liên Xô đang sở hữu, họ sẽ chinh phục

được vũ trụ và sử dụng nó vào mục đích quân sự để đe dọa an ninh của mình. Trước

nguy cơ này, Hoa Kỳ đã chủ động đẩy nhanh tiến trình đàm phán và kí kết OST.

Hiệp ước OST thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc phi quân sự hóa vũ trụ và phi

hạt nhân hóa vũ trụ. Xét ở một khía cạnh nào đó, Hiệp ước OST còn góp phần thúc

đẩy vào tiến trình hòa dịu giữa Liên Xô và Trung Quốc.

2.3. Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 (Nuclear Non-

Proliferation Treaty – NPT)

Sau cuộc khủng hoàng tên lửa Cuba, vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân được

Hoa Kỳ quan tâm mạnh mẽ, trong đó có việc hướng đến một hiệp định không phổ

biến vũ khí hạt nhân. Theo Hoa Kỳ, nếu như ngày càng có nhiều nước sở hữu vũ

khí hạt nhân thì sẽ đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh thế giới và trực tiếp

là đe dọa an ninh của chính mình. Và do đó, một trong những biện pháp quan trọng

để ngăn chặn hậu quả đó là kêu gọi các nước đang sở hữu vũ khí hạt nhân không

được chuyển giao vũ khí hạt nhân cho bất kỳ nước nào khác, nhất là các nước đồng

minh của mình, và chỉ có đạt được một hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân

giữa các nước đang sở hữu loại vũ khí này mới có thể ngăn chặn tình trạng đó.

Vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân được quan tâm từ thời Tổng thống

Kennedy và đặc biệt từ thời Tổng thống L.B.Johnson. Tháng 4.1963, thay mặt cho

các cường quốc Liên Xô, Anh, Pháp, chính quyền Kennedy đưa ra dự thảo của bản

tuyên bố chung về việc các cường quốc hạt nhân không chuyển giao vũ khí hạt nhân

cho các nước khác “không được chuyển giao bất kì loại vũ khí hạt nhân nào, một

cách trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các liên minh quân sự, dưới sự kiểm soát

riêng của mỗi nước mà hiện chưa có vũ khí hạt nhân và không giúp các nước khác

sản xuất ra loại vũ khí đó” [1, tr.155].

Khi đề nghị về hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ cũng đã rất

cân nhắc về tình trạng vũ khí hạt nhân trong khối NATO. Dưới thời tổng thống

Kennedy, kế hoạch hạt nhân đa phương trong khối NATO (MLF) – đó là một thỏa

54

thuận theo đó Hoa Kỳ cung cấp vũ khí hạt nhân để các quốc gia thành viên của

NATO phát triển và tồn trữ chúng - là một vấn đề gây tranh cãi giữa các thành viên

trong khối. Kennedy cho rằng MLF là lối thoát cho tham vọng hạt nhân của Cộng

hòa Liên bang Đức [3, tr.85]. Tháng 4.1965, Tổng thống Johnson khẳng định MLF

là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Hoa Kỳ và cần phải đạt được một thỏa

thuận với các đồng minh ở châu Âu vào cuối năm về vấn đề này [3, tr.85]. Khi kế

hoạch MLF được triển khai nó đã vấp phải sự phản đối của một số thành viên trong

Bộ Quốc phòng, Cơ quan Kiểm soát vũ khí và Giải trừ quân bị Hoa Kỳ (ACDA),

Hội đồng An ninh Quốc gia. Họ cho rằng MLF sẽ mở đường cho các quốc gia ngoài

châu Âu bước vào sân chơi hạt nhân và sẽ cản trở sự hợp tác về kiểm soát vũ khí

hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Như vậy, để đạt được một hiệp ước không phổ

biến vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ phải giải quyết khôn khéo vấn đề hạt nhân trong

NATO thông qua kế hoạch MLF. Một trong những vấn đề ảnh hưởng đến tương lai

của việc kí kết một hiệp ước như vậy là vấn đề các nước ngoài châu Âu đang tích

cực nghiên cứu để sở hữu vũ khí hạt nhân.

Việc Trung Quốc đã sở hữu vũ khí hạt nhân sau vụ thử bom nguyên tử đầu

tiên thành công ngày 15.10.1964 đã khiến các quan chức trong chính quyền Johnson

thật sự lo lắng, họ sợ rồi sớm muộn gì Ấn Độ, Nhật Bản và một số nước khác cũng

sẽ nhanh chóng có loại vũ khí này. Chương trình hạt nhân của các nước ngoài châu

Âu là một vấn đề mà chính phủ Hoa Kỳ không thể làm ngơ, Hoa Kỳ tìm cách giải

quyết hài hòa chương trình hạt nhân đa phương ở châu Âu và cố gắng hạn chế sự

phổ biến vũ khí hạt nhân của các nước ngoài châu Âu.

Một Ủy ban về không phổ biến vũ khí hạt nhân (The Committee on Nuclear

Non-Proliferation) được Tổng thống Johnson quyết định thành lập ngày 1.11.1964

do luật sư và là cựu thứ trưởng Bộ Quốc phòng Roswell Gilpatric đứng đầu.

Gilpatric ủng hộ lập trường của ACDA tức là để ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt

nhân trên thế giới thì không nên thực hiện kế hoạch MLF. Theo Gilpatric, Liên Xô

là một đối tác quan trọng trong mục tiêu ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt nhân.

Nếu Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi MLF thì Liên Xô sẽ không sẵn sàng hợp tác với Hoa

Kỳ trong chương trình ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí hạt nhân. Hơn nữa, việc

55

Hoa Kỳ triển khai chương trình MLF đồng nghĩa với việc hủy bỏ chương trình tiến

tới một hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Điều đó có nghĩa là sẽ khích lệ

các nước châu Á khác triển khai chương trình hạt nhân của mình nhằm cân bằng

sức mạnh đối với Trung Quốc. Do đó kế hoạch MLF không cần thiết phải triển khai

[3, tr.86].

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, nếu không thực hiện MLF thì có thể dẫn đến

phản ứng tiêu cực của Tây Đức, và biết đâu Tây Đức lại ngã về phía Liên Xô.

Nhưng phần lớn những ý kiến đều ủng hộ Gilpatric vì vấn đề kiểm soát vũ khí hạt

nhân là một vấn đề nghiêm túc và là một mục tiêu lâu dài. Sau nhiều cuộc thảo luận

trong ủy ban, cuối cùng một bản báo cáo cũng được chuyển đến cho Jonhson ngày

21.1.1965. Bản báo cáo cho rằng mặc dù có sự khác biệt về hệ tư tưởng,

Washington và Moscow vẫn chia sẽ những quan điểm chung về các vấn đề chiến

lược và kêu gọi chính phủ Johnson hạn chế cuộc chạy đua vũ trang bằng việc cam

kết các thỏa thuận cắt giảm kho vũ khí hạt nhân. Gilpatric cho rằng nên nhìn nhận

Liên Xô như là một đối tác hơn là một kẻ thù trong việc giữa ổn định trật tự thế giới

[3, tr.87]. Những đề nghị của Ủy ban Gilpatric được chấp thuận trong chính quyền

Johnson.

Ngày 17.8.1965, Hoa Kỳ lại đệ trình một Bản dự thảo Hiệp ước NPT lên Ủy

ban giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc. Bản dự thảo đề nghị cấm tất cả các nước

có vũ khí hạt nhân chuyển giao vũ khí hạt nhân cho các nước không có vũ khí hạt

nhân. Đồng thời các nước không có vũ khí hạt nhân phải tuân thủ những quy định

về sử dụng năng lượng hạt nhân vào các mục đích hòa bình mà IAEA đã đề ra. Các

cuộc đàm phán về không phổ biến vũ khí hạt nhân diễn ra tại Geneva cuối năm

1965. Ngày 1.7.1968 tại thủ đô ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh, ba nước cùng với

43 nước khác đã kí vào NPT. Hiệp ước có hiệu lực ngày 5.3.1970. Trong buổi kí kết

hiệp ước tại Washington, Johnson tuyên bố: “Chúng tôi đến đây, phòng phía Đông

của Nhà Trắng, để kí hiệp ước hạn chế việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Mục tiêu của

hiệp ước rất đơn giản: yêu cầu các quốc gia trên thế giới hiện không có vũ khí hạt

nhân cam kết không sản xuất hoặc tiếp nhận vũ khí hạt nhân trong tương lai và yêu

56

cầu các cường quốc hạt nhân hướng tới những biện pháp hữu hiệu để kiểm soát vũ

khí và giải trừ quân bị” [Dẫn lại theo 3, tr.88].

Hiệp ước có tên đầy đủ là “Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân”

(Treaty On The Non-Proliferation Of NuclearWeapons) viết tắt là NPT, gồm phần

mở đầu và 11 điều khoản. Trong Lời nói đầu của bản Hiệp ước, các nước tham gia

kí kết bày tỏ quan ngại về mối đe dọa của sự phổ biến vũ khí hạt nhân đối với nền

hòa bình và an ninh thế giới, mong muốn các bên tham gia Hiệp ước cấm hoàn toàn

các cuộc thử hạt nhân, tin tưởng rằng hiệp ước sẽ góp phần chấm dứt cuộc chạy đua

vũ trang hạt nhân, làm giảm tình hình căng thẳng trên thế giới và tiến tới xóa bỏ kho

vũ khí hạt nhân trên thế giới. Các nước thành viên Hiệp ước mong muốn cùng hợp

tác để sử dụng năng lượng hạt nhân vào các mục đích hòa bình.

“Xem xét sự tàn phá sẽ đến với tất cả nhân loại bằng một cuộc chiến tranh hạt

nhân và những nổ lực cần thiết để ngăn chặn nguy cơ một cuộc chiến tranh như vậy

và đưa đến những biện pháp để bảo đảm an toàn cho con người,

Tin tưởng rằng sự phổ biến của vũ khí hạt nhân sẽ làm tăng nghiêm trọng

nguy cơ của chiến tranh hạt nhân,

Phù hợp với nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc kêu gọi ký kết thỏa

thuận về phòng, chống sự phổ biến rộng rãi của vũ khí hạt nhân,

Cam kết hợp tác trong việc hỗ trợ các ứng dụng của Cơ quan Năng lượng

Nguyên tử Quốc tế bảo vệ các hoạt động hạt nhân hòa bình,

Bày tỏ sự ủng hộ dành cho nghiên cứu, phát triển và những nỗ lực khác để tiếp

tục ứng dụng, trong khuôn khổ của hệ thống bảo vệ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử

Quốc tế, nguyên tắc đảm bảo an toàn hiệu quả dòng chảy của nguồn và vật liệu

phân hạch đặc biệt bằng cách sử dụng các công cụ và kỹ thuật khác tại một số điểm

chiến lược,

Khẳng định nguyên tắc lợi ích của các ứng dụng hòa bình của công nghệ hạt

nhân, bao gồm cả công nghệ của sản phẩm có thể được bắt nguồn từ các quốc gia có

vũ khí hạt nhân từ sự phát triển của các thiết bị nổ hạt nhân, nên có sẵn cho các mục

đích hòa bình cho tất cả các bên của Hiệp ước, cho dù là nước có vũ khí hạt nhân

hoặc không có vũ khí hạt nhân,

57

Tin tưởng rằng, triển khai nguyên tắc này, tất cả các bên tham gia Hiệp ước

được tham gia vào việc trao đổi thông tin đầy đủ nhất của khoa học, và đơn phương

đóng góp hoặc phối hợp với các quốc gia khác, sự phát triển của các ứng dụng năng

lượng nguyên tử cho mục đích hòa bình,

Tuyên bố ý định của họ để đạt được tại thời điểm sớm nhất có thể chấm dứt

cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân và thực hiện các biện pháp hiệu quả theo hướng giải

trừ vũ khí hạt nhân,

Kêu gọi sự hợp tác của tất cả các nước trong việc đạt được mục tiêu này,

Nhắc lại quyết tâm thể hiện bởi các bên tham gia Hiệp ước 1963 về cấm thử

vũ khí hạt nhân trong khí quyển, trong không gian vũ trụ và dưới nước được thể

hiện trong Lời nói đầu của hiệp ước đó,

Mong muốn tiếp tục giảm căng thẳng quốc tế và tăng cường sự tin cậy giữa

các quốc gia để tạo điều kiện chấm dứt việc sản xuất vũ khí hạt nhân, việc giải trừ

tất cả các kho dự trữ hiện có của họ, và loại bỏ từ kho vũ khí quốc gia vũ khí hạt

nhân và các phương tiện sử dụng vũ khí hạt nhân của họ theo điều ước quốc tế về

giải trừ vũ khí nói chung và đầy đủ dưới sự kiểm soát quốc tế chặt chẽ và hiệu quả,

Nhắc lại rằng, theo quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc, các nước phải

kiềm chế trong quan hệ quốc tế, không sử dụng hoặc đe dọa vũ lực chống lại sự

toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của bất kỳ nước nào, hoặc trong bất kỳ cách

thức nào khác không phù hợp với mục đích của quốc gia, và rằng việc thành lập và

duy trì hòa bình và an ninh quốc tế đang được đẩy mạnh,”

(Considering the devastation that would be visited upon all mankind by a

nuclear war and the consequent need to make every effort to avert the danger of

such a war and to take measures to safeguard the security of peoples,

Believing that the proliferation of nuclear weapons would seriously enhance

the danger of nuclear war,

In conformity with resolutions of the United Nations General Assembly calling

for the conclusion of an agreement on the prevention of wider dissemination of

nuclear weapons,

58

Undertaking to cooperate in facilitating the application of International

Atomic Energy Agency safeguards on peaceful nuclear activities,

Expressing their support for research, development and other efforts to further

the application, within the framework of the International Atomic Energy Agency

safeguards system, of the principle of safeguarding effectively the flow of source

and special fissionable materials by use of instruments and other techniques at

certain strategic points,

Affirming the principle that the benefits of peaceful applications of nuclear

technology, including any technological by-products which may be derived by

nuclear-weapon States from the development of nuclear explosive devices, should

be available for peaceful purposes to all Parties of the Treaty, whether nuclear-

weapon or non-nuclear weapon States,

Convinced that, in furtherance of this principle, all Parties to the Treaty are

entitled to participate in the fullest possible exchange of scientific information for,

and to contribute alone or in cooperation with other States to, the further

development of the applications of atomic energy for peaceful purposes,

Declaring their intention to achieve at the earliest possible date the cessation

of the nuclear arms race and to undertake effective measures in the direction of

nuclear disarmament,

Urging the cooperation of all States in the attainment of this objective,

Recalling the determination expressed by the Parties to the 1963 Treaty

banning nuclear weapon tests in the atmosphere, in outer space and under water in

its Preamble to seek to achieve the discontinuance of all test explosions of nuclear

weapons for all time and to continue negotiations to this end,

Desiring to further the easing of international tension and the strengthening of

trust between States in order to facilitate the cessation of the manufacture of

nuclear weapons, the liquidation of all their existing stockpiles, and the elimination

from national arsenals of nuclear weapons and the means of their delivery pursuant

to a treaty on general and complete disarmament under strict and effective

international control,

59

Recalling that, in accordance with the Charter of the United Nations, States

must refrain in their international relations from the threat or use of force against

the territorial integrity or political independence of any State, or in any other

manner inconsistent with the Purposes of the United Nations, and that the

establishment and maintenance of international peace and security are to be

promoted with the least diversion for armaments of the world's human and

economic resources) [59].

Nội dung chính của Hiệp ước NPT quy định: 1. Các nước có vũ khí hạt nhân

tham gia hiệp ước không chuyển giao, giúp đỡ, khuyến khích các nước không có vũ

khí hạt nhân phát triển vũ khí hạt nhân; 2. Các nước là thành viên hiệp ước không

có vũ khí hạt nhân không được nhận chuyển giao và chế tạo vũ khí hạt nhân, không

được tìm kiếm kỹ thuật hạt nhân, vũ khí hạt nhân, phương tiện điều khiển vũ khí hạt

nhân, thiết bị nổ hạt nhân trực tiếp lẫn gián tiếp. Đồng thời, các nước không có vũ

khí hạt nhân phải tuân thủ sự giám sát quốc tế toàn diện thông qua các hiệp định kí

kết với IAEA để đảm bảo rằng nguyên liệu hạt nhân của họ không được sử dụng

vào mục đích chế tạo vũ khí; 3. Các nước thành viên hiệp ước được quyền chuyển

nhượng, hợp tác để phát triển nghiên cứu, sản xuất, sự dụng năng lượng nguyên tử

vào mục đích hòa bình, được kí hiệp ước khu vực không có vũ khí hạt nhân, đàm

phán các biện pháp chấm dứt chạy đua vũ trang hạt nhân; 4. Mọi sửa đổi văn bản

hiệp ước phải được đa số các nước thành viên đồng ý; 5. Các nước thành viên được

quyền rút khỏi hiệp ước nếu quyền lợi tối thượng của mình bị xâm hại nhưng phải

thông báo với các nước thành viên và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trước ba

tháng; 6. Hiệp ước có thời hạn 25 năm, sau đó nột hội nghị được triệu tập để quyết

định sự tồn tại tiếp theo của bản hiệp ước; 7. Hiệp ước NPT phù hợp với điều 102

của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, tức là được đăng kí với Ban thư kí và được viện

dẫn trước một cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi cần thiết [8, tr.125 – 126]. Do

những vấn đề đối ngoại mà chính quyền Johnson đang gặp phải mà mãi đến ngày

5.2.1969, Quốc hội Hoa Kỳ mới phê chuẩn NPT.

Như vậy, do nỗi lo sợ về việc các quốc gia trên thế giới sẽ lần lượt nỗ lực sở

hữu vũ khí hạt nhân và do chính sách đối ngoại hòa dịu với Liên Xô trong thời gian

60

này là những yếu tố quan trọng khiến chính quyền Johnson đi tới quyết định đặt

chương trình NPT lên cao hơn kế hoạch MLF.

2.4. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1972 (Strategic Arms

Limitation Talks – SALT I)

Trong những năm đầu thập niên 1970s, quá trình hòa dịu trong quan hệ quốc

tế là đặc điểm nổi bậc nhất. Đặc biệt sự hòa dịu trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên

Xô đã có nhiều tác động tích cực là giảm đáng kể những căng thẳng trong quan hệ

quốc tế lúc bấy giờ. Vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân cũng đã đạt nhiều kết quả,

nhất là giới hạn vũ khí hạt nhân chiến lược.

SALT I là tên gọi chung của Hiệp ước giới hạn hệ thống tên lửa chống tên lửa

(ABM – Anti – Ballicstic Missile Treaty) và Thỏa ước tạm thời (có giá trị trong

vòng 5 năm) về một số biện pháp trong lĩnh vực giới hạn vũ khí tiến công chiến

lược.

Trong những năm 1950, để đối phó lại với chương trình phát triển vũ khí hạt

nhân và máy bay ném bom tầm xa chiến lược của Liên Xô, Hoa Kỳ đã bắt tay vào

xây dựng một chương trình phòng không lớn trên toàn quốc. Đây là một hệ thống

phòng không hiện đại bao gồm máy bay đánh chặn và tên lửa đất đối không (SAM),

cùng với một hệ thống radar, máy tính, thông tin liên lạc cho việc kiểm soát mặt đất.

Tuy nhiên, với sự ra đời của tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) mà có thể dễ

dàng phá hủy hệ thống phòng không và hệ thống tên lửa phòng thủ đánh chặn nên

Hoa Kỳ đã cho ngưng chương trình này vào đầu năm 1960 [16, tr.136 – 137].

Trong khi Hoa Kỳ cho dừng chương trình này thì Liên Xô đang nỗ lực để xây

dựng nó, Liên Xô đã cho bố trí hơn 10.000 tên lửa đánh chặn đất đối không (SAM)

trên toàn lãnh thổ của họ, hệ thống này không ngừng được tăng thêm và nâng cấp.

Những nỗ lực này của Liên Xô không làm Hoa Kỳ quan ngại vì họ cho rằng máy

bay chiến lược của họ có thể dễ dàng xâm nhập vào hệ thống này và có thể ném

bom phá hủy nó. Không lâu sau đó, Liên Xô cũng đã sản xuất được tên lửa đạn đạo

xuyên lục địa, vấn đề này đã thúc đẩy Hoa Kỳ nghiên cứu các biện pháp phòng thủ

chống lại ICBM.

61

Vào những năm cuối nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Eisenhower, Quân đội

Hoa Kỳ đã đưa ra kế hoạch phát triển hệ thống phòng thủ chống tên lửa Nike –

Zeus, đây là tiền thân của hệ thống ABM nhưng Tổng thống Eisenhower đã không

phê duyệt vì cho rằng đây là một hệ thống chỉ có thể phá hủy một hoặc một vài đầu

đạn hạt nhân bay đến ở tốc độ thấp mà không có khả năng đánh chặn một cuộc tấn

công quy mô lớn và tốc độ cao [16, tr.137]. Khi Johnson lên làm tổng thống thì

chương trình phòng thủ chống tên lửa đạn đạo vẫn tiếp tục được nghiên cứu và phát

triển, hệ thống Nike – Zeus mà đã bị bác bỏ dưới thời Tổng thống Eisenhower nay

được thay thế bằng hệ thống Nike – X, với hệ thống tên lửa đánh chặn hiệu quả hơn

và hệ thống radar xử lí dữ liệu tiên tiến hơn.

Việc năm 1964 Liên Xô đã cho diễu hành một tên lửa đánh chặn ABM lớn tại

Moscow đã làm cho giới chức Hoa Kỳ thêm nôn nóng về chương trình ABM của

mình. Để có thể có đủ khả năng – như quan điểm của một số giới chức Hoa Kỳ -

đáp trả lại một cuộc tấn công hạt nhân ban đầu của Liên Xô thì Hoa Kỳ phải xây

dựng hệ thống tên lửa phòng thủ chống tên lửa đạn đạo (ABM) đủ mạnh để có thể

vượt qua cuộc tấn công phủ đầu đầu tiên từ phía Liên Xô. Nhưng nếu muốn đáp trả

Liên Xô thì Hoa Kỳ, ngoài việc xây dựng hệ thống ABM cho riêng mình, còn cần

phải có một hệ thống tên lửa tấn công hiệu quả. Do đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mc

Namara cho rằng cách tốt nhất để Hoa Kỳ thâm nhập và phá hủy hệ thống ABM của

Liên Xô là nâng cấp lực lượng tấn công của Hoa Kỳ bằng cách cài đặt những tên

lửa như Poseidon và Minuteman III trên những xe di động – được biết với tên

MIRV – Multiple Independently Targeted Re-entry Vehicles, tức là những tên lửa

được cài đặt di động trên các xe tải mà có thể mang nhiều đầu đạn hạt nhân đến các

mục tiêu độc lập [16, tr.138].

Việc phát triển hệ thống phòng thủ ABM, theo L.B.Johnson, có thể dẫn đến

một cuộc chạy đua vũ trang mới. Việc ông vẫn tiếp tục Nike – X chủ yếu là do áp

lực của Quốc hội từ việc Liên Xô cũng đang tăng cường xây dựng ABM. Tháng

1.1967, trong thông điệp về ngân sách cho năm 1967, Tổng thống Johnson kêu gọi

phát triển hệ thống Nike – X nhưng ông cũng nói rằng ông sẽ không có hành động

ngay bây giờ nếu Liên Xô sẵn sàng cho một sự bắt đầu về việc đàm phán hạn chế hệ

62

thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa đạn đạo (ABM) [16, tr.139]. Trong một lá

thư trả lời cho thông điệp của Johnson vào tháng 3.1967, Thủ tướng Alexei Kosygin

đã đồng ý thảo luận song phương nhưng trên cơ sở là hạn chế cả tên lửa hạt nhân

phòng thủ lẫn tấn công. Một thời gian ngắn sau đó, cả hai chính phủ Hoa Kỳ và

Liên Xô đã thông báo rằng họ đã đồng ý về nguyên tắc để bắt đầu thảo luận cả vũ

khí phòng thủ lẫn vũ khí tấn công vào một thời điểm chưa thể xác định trong tương

lai. Như vậy cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã nhất trí đàm phán về hệ thống phòng thủ

ABM và việc hạn chế vũ khí hạt nhân tiến công chiến lược. Các văn kiện này được

kí kết năm 1972 được gọi chung là Hiệp ước SALT I.

Trở lại với tiến trình chuẩn bị cho các cuộc đàm phán, vào tháng 6.1967, Tổng

thống Johnson và Thủ tướng Kosygin đã gặp nhau ở Glassboro, bang New Jersey,

Hoa Kỳ, để một lần nữa thiết lập thời gian biểu cho các cuộc đàm phán. Quan điểm

của Johnson và Mc Namara là việc đàm phán để hạn chế hệ thống phòng thủ ABM

là rất cần thiết và cấp bách, và nêu rõ mối quan hệ giữa hệ thống phòng thủ và sự

gia tăng chạy đua vũ khí hạt nhân tấn công. Còn Kosygin thì nhấn mạnh đến việc

hạn chế vũ khí tấn công mà không mấy mặn mà với đề xuất hạn chế hệ thống phòng

thủ tên lửa chống tên lửa. Các quan điểm hơi khác này của cả hai bên đã chưa thể

đưa hai cường quốc ngồi vào bàn đàm phán. Đối với Johnson, việc chưa thể thuyết

phục Liên Xô đàm phán cùng với áp lực từ Quốc hội cho việc nhanh chóng triển

khai hệ thống phòng thủ ABM để có thể bảo vệ công dân Hoa Kỳ đã dẫn ông tới

một quyết định gần như tạm thời – Cho triển khai hệ thống phòng thủ ABM

Sentinel.

Ngày 8.9.1967, Bộ trưởng Mac Namara công bố quyết định triển khai ABM

Sentinel. Hệ thống ABM Sentinel được thiết kế với sự hạn chế số tên lửa đánh chặn

tầm xa và được xem là rất “mỏng” và chỉ nhằm mục đích đánh chặn một tên lửa

tiềm năng nào đó được phóng ngẫu nhiên từ Trung Quốc (thập niên 1970 Trung

Quốc tăng cường nghiên cứu chế tạo các tên lửa tấn công tầm xa mang đầu đạn hạt

nhân). Trong một bài phát biểu vào cuối năm 1967, Mc Namara đã thông báo: “Về

tính bất khả thi của một hệ thống phòng thủ ABM “dày” được thiết kế để bảo vệ các

thành phố của Hoa Kỳ chống lại một cuộc tấn công tổng lực bằng tên lửa đạn đạo từ

63

Liên Xô”, ông cũng nhấn mạnh “Một sự thiết kế và lắp đặt hệ thống ABM trên toàn

quốc sẽ là rất tốn kém và chỉ làm gia tăng tốc độ cuộc chạy đua vũ trang giữa các

cường quốc” [16, tr.139]. Bài phát biểu này đã đánh dấu sự bắt đầu của những cuộc

tranh luận công khai về Học thuyết quân sự chiến lược của Hoa Kỳ, cuộc tranh luận

chỉ kết thúc khi SALT I được kí kết vào năm 1972.

Việc Hoa Kỳ cho triển khai hệ thống ABM Sentinel cũng đã tác động đến thái

độ về việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán về SALT I, chỉ chín tháng sau khi Hoa Kỳ

công bố quyết định triển khai ABM Sentinel, Liên Xô đã cho thấy họ đã sẵn sàng

tiến hành đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược – tức cả vũ khí phòng thủ và vũ

khí tiến công.

Trở lại với vấn đề vũ khí tiến công chiến lược, hai văn kiện LTBT (1963) và

NPT (1968) tuy đánh dấu những mốc lớn trong tiến trình giải trừ quân bị nhưng

chưa tác động đáng kể đến trung tâm của vấn đề - kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của

hai siêu cường [5, tr.39], kho vũ khí này chủ yếu là vũ khí hạt nhân tấn công chiến

lược. Những chi phí quá tốn kém của cuộc chạy đua vũ trang đã trở thành những

chướng ngại to lớn cản trở những nổ lực giải quyết những khó khăn của vấn đề đối

nội và đối ngoại mà hai nước đang đương đầu. Logic của “thế cân bằng trong nỗi

khiếp sợ” đã đẩy hai cường quốc vào một cuộc chạy đua vũ trang không có đích

đến. Đến đầu thập niên 1970, kho vũ khí hạt nhân của hai siêu cường đã đạt đến

những con số đáng kinh hoàng: Hoa Kỳ có 1.054 ICBM, 656 SLBM và 540 oanh

tạc cơ tầm xa, con số tương ứng của Liên Xô là 1.200, 200 và 200 [Dẫn lại theo 5,

tr.40]. Những con số này làm giới chức chính quyền Hoa Kỳ nhận thức rằng họ sẽ

khó lặp lại ưu thế về vũ khí hạt nhân trong thập niên 1950 và 1960. Về phần Liên

Xô, họ cũng đã quá mệt mỏi với cuộc chạy đua vũ trang, những khó khăn to lớn của

tình hình trong nước đã không cho phép họ tăng đầu tư ngân sách cho quốc phòng

nữa và hai bên đã đồng ý ngồi vào đàm phán về hạn chế hệ thống vũ khí phòng thủ

và tiến công chiến lược.

Ngày 1.7.1968, khi kí kết Hiệp ước NPT, Tổng thống Johnson đã loan báo

rằng cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề hạn chế và

cắt giảm vũ khí hạt nhân phòng thủ và tiến công chiến lược “trong tương lai gần

64

nhất” (in the nearest future). Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều loan báo rằng ngày

30.9.1968 sẽ là ngày bắt đầu đàm phán, thế nhưng, khi Liên Xô đưa quân vào Tiệp

Khắc ngày 21.8.1968, Hoa Kỳ đã tuyên bố hoãn các cuộc đàm phán vô thời hạn.

Điều này cho thấy Hoa Kỳ luôn gắn chặt vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các

vấn đề chính trị. Các cuộc họp sơ bộ giữa hai nước được bắt đầu từ ngày

17.11.1969 ở Helsinki (Phần Lan) và chính thức bắt đầu từ tháng 4.1970. Chính tân

Tổng thống Nixon đã chủ động thúc đẩy cùng nhau ngồi vào bàn đàm phán, quyết

định này được thúc đẩy bởi một chính sách mới “sau thời đại đối kháng giờ đã đến

thời đại đàm phán” [Dẫn lại theo 5, tr.40].

Quan điểm của Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán về SALT I là các thỏa thuận

đạt được phải là hạn chế cả vũ khí hạt nhân tấn công và phòng thủ. Trong nửa năm

đầu tiên của cuộc đàm phán (nửa năm cuối 1970), các bên đã đạt được thỏa thuận

về hạn chế hệ thống phòng thủ ABM, nhưng không thể đạt một thỏa thuận về vũ khí

tiến công chiến lược. Liên Xô sau đó đã tìm cách hạn chế các cuộc đàm phán về hệ

thống phòng thủ ABM và trì hoãn các cuộc đàm phán về vũ khí hạt nhân tấn công

chiến lược. Hoa Kỳ cho rằng việc hạn chế hệ thống ABM nhưng cho phép sự phát

triển không hạn chế của hệ thống vũ khí tấn công chiến lược sẽ là không phù hợp

với các mục tiêu cơ bản của SALT và ảnh hưởng đến những bước đi đầu tiên trong

tiến trình kiểm soát vũ khí hạt nhân tấn công chiến lược [16, tr.143]. Những bế tắt

này cuối cùng cũng đã được tháo gỡ với việc các bên đạt được thỏa thuận về hạn

chế vĩnh viễn hệ thống phòng thủ ABM và thống nhất về một số biện pháp hạn chế

tạm thời vũ khí tấn công chiến lược và sẽ tiếp tục đàm phán để đi đến một hiệp ước

dài hạn hơn cho vấn đề hạn chế vũ khí tấn công chiến lược.

Sau hai năm đàm phán, kết quả của SALT I đã được chuẩn bị sẵn sàng để kí

kết trong chuyến viếng thăm của Tổng thống Nixon đến Liên Xô vào cuối tháng

5.1972. Ngày 26.5.1972, cả hai nhà lãnh đạo đã kí cả thẩy 10 văn kiện chung. Ngoài

văn kiện SALT I là trọng tâm, còn có một văn kiện có ý nghĩa quan trọng, đó là văn

kiện “Các nền tảng cho mối quan hệ song phương giữa Liên bang CHXHCN Xô

Viết và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”. Văn kiện khẳng định rằng cả Hoa Kỳ và Liên Xô

“đều phát xuất từ một niềm tin chung rằng, trong thời đại hạt nhân, nền tảng cho

65

việc duy trì quan hệ giữa hai nước không thể nào khác hơn là chung sống hòa

bình”, rằng “những tiền đề cho việc duy trì và tăng cường quan hệ hoa bình giữa

Liên Xô và Hoa Kỳ là thừa nhận mối quan tâm về an ninh của hai bên, mà cơ sở là

nguyên tắc bình đẳng và khước từ dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực”. Hai nước

cam kết “làm tất cả sức mình để tránh những cuộc đối đầu quân sự và ngăn chặn

nguy cơ xuất hiện chiến tranh hạt nhân”, “tỏ rõ sự kiềm chế trong quan hệ song

phương, sẵn sàng tiến hành đàm phán và giải quyết các bất đồng bằng các phương

tiện hòa bình” [Dẫn lại theo 5, tr.41]. Đây là văn kiện lần đầu tiên công nhận

nguyên tắc cân bằng về lực lượng giữa hai siêu cường.

Với văn kiện SALT I, trong lần nói đầu, hiệp ước ABM nêu rõ rằng, việc Hoa

Kỳ và Liên Xô kí văn kiện này xuất phát từ nhận thức rằng “một cuộc chiến tranh

hạt nhân sẽ có hậu quả hủy diệt đối với tất cả loài người” (nuclear war would have

devastating consequences for all mankind) [54]. Vì vậy, hai nước cần phải có

“những biện pháp hiệu quả để hạn chế các hệ thống chống tên lửa đạn đạo nhằm

hạn chế cuộc chạy đua về vũ khí tiến công chiến lược và giảm thiểu nguy cơ của

một cuộc chiến tranh hạt nhân” (effective measures to limit anti – ballistic missile

systems would be substantial factor in curbing the race in strategic offensive arms

and would lead to a decrease in the risk of outbreak of war involving nuclear

weapons) [54].

Bản Hiệp ước gồm 16 điều khoản với những nội dung chính là: 1. Mỗi nước

chỉ được triển khai hai khu vực phóng tên lửa chống tên lửa với bán kính 150 km,

một ở trung tâm thủ đô, một ở khu vực bố trí trận địa tên lửa đạn đạo xuyên lục địa;

2. Số bệ phóng và số tên lửa trên mỗi bệ phóng ở từng khu vực không vượt quá 100;

3. Hai nước không thiết lập, thử nghiệm hoặc triển khai các hệ thống bệ phóng

chống tên lửa trên biển, trên không, trong vũ trụ và các căn cứ di động trên mặt đất.

Hai nước không được triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa bên ngoài lãnh

thổ của mình hoặc chuyển nhượng cho các nước khác; 4. Việc giám sát được thực

hiện bằng các phương tiện kỹ thuật riêng của mỗi nước theo nguyên tắc của luật

pháp quốc tế, không tiến hành kiểm tra tại chỗ; 5. Các thành viên của Hiệp ước

ABM không được có bất cứ sự cam kết quốc tế nào mâu thuẫn với Hiệp ước ABM;

66

6. Các thành viên của Hiệp ước ABM có thể đề nghị sửa đổi các điều khoản của

hiệp ước và cam kết tiếp tục đàm phán tích cực về vấn đề hạn chế vũ khí tiến công

chiến lược; 7. Hiệp ước ABM có giá trị vô thời hạn, cứ 5 năm được xem xét lại một

lần...

Một văn kiện thứ hai của SALT I là Hiệp định tạm thời, Hiệp định có tên đầy

đủ là Hiệp định tạm thời giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Liên bang Cộng hòa Xã

hội Chủ nghĩa Xô Viết về một số biện pháp hạn chế vũ khí tiến công chiến lược

(Interim Agreement between The United States of America and The Union of Soviet

Socialist Republics on certain measures with respect to The Limitation of Strategic

Offensive Arms). Trong lời nói đầu của bản hiệp định, hai nước cho rằng Hiệp ước

ABM và Hiệp định tạm thời sẽ “góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cuộc

đàm phán tích cực về hạn chế vũ khí chiến lược cũng như làm giảm bớt sự căng

thẳng trong tình hình quốc tế và tăng cường sự tin cậy giữa hai nước” (contribute to

the creation of more favorable conditions for active negotiations on limiting

strategic arms as well as to the relaxation of international tension and the

strengthening of trust between States) [63].

Bản hiệp định tạm thời có hiệu lực trong vòng 5 năm gồm 8 điều khoản kèm

theo một Nghị định thư và một Bản ghi nhớ. Theo Hiệp định, Liên Xô được phép có

từ 1408 đến 1607 tên lửa ICBM, 62 tàu ngầm nguyên tử, 740 tên lửa trên tàu ngầm

chạy bằng năng lượng nguyên tử SLBM. Các con số về phía Hoa Kỳ lần lượt là:

1000 đến 1054 ICBM, 44 tàu ngầm nguyên tử và 656 SLBM. Hai nước cam kết

ngưng tăng cường kho tên lửa chiến lược đặt ở những căn cứ trên bộ và ngoài biển.

Như vậy, trong lĩnh vực cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược, đây là lần đầu tiên

Hoa Kỳ và Liên Xô đã đạt được một hiệp ước mà theo đó kho vũ khí hạt chiến lược

của hai nước được cắt giảm một phần.

Ngay sau khi SALT I được kí kết, Tổng thống Nixon đã có một bài phát biểu

trên đài phát thanh và truyền hình Liên Xô, ông đã nói đến tính chất nguy hiểm của

một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân và bày tỏ lập trường của Hoa Kỳ muốn chung

sống hòa bình. Các chuyên gia Hoa Kỳ cho rằng, những cam kết của Hoa Kỳ và

Liên Xô trong Hiệp ước SALT I là một bước ngoặc lớn với sự nỗ lực chung để đưa

67

một vấn đề đối đầu có tính chiến lược vào tầm kiểm soát. Cựu Bộ trưởng Ngoại

giao Hoa Kỳ Henry Kissinger cho rằng Hiệp ước SALT I đã trở thành một phương

tiện để Hoa Kỳ và Liên Xô “củng cố sự ổn định” về cân bằng chiến lược hạt nhân

bằng biện pháp, chứ không phải bằng chạy đua vũ trang. Theo ông, hiệp ước này

còn làm giảm bớt sự căng thẳng trong quan hệ song phương Hoa Kỳ - Liên Xô.

Theo tính toán của các quan chức Hoa Kỳ, SALT I đã cắt giảm được 711 triệu USD

cho ngân sách quốc phòng Hoa Kỳ trong năm tài chính tiếp theo [8, tr.137 – 138].

Việc bàn về cái “mất” và “được” của Hoa Kỳ khi kí SALT I cũng diễn ra sôi nổi

trong công luận và chính giới Hoa Kỳ. Theo họ cái bất lợi cho Hoa Kỳ là hiệp ước

chỉ quy định cắt giảm số bệ phóng mà không quy định cắt giảm số đầu đạn trên một

bệ phóng và không cắt giảm loại tên lửa tiến công chiến lược MIRV, vì thế Liên Xô

sẽ có cơ sở để gia tăng số tên lửa tương ứng của họ là SS – 18 và SS – 19. Sự gia

tăng SS – 18 và SS – 19 không những sẽ giúp cho Liên Xô, nếu một cuộc chiến

tranh hạt nhân xảy ra, có thể tiêu diệt đến 90% số tên lửa tấn công của Hoa Kỳ ngay

trong cuộc tấn công đầu tiên mà còn đủ sức đáp trả bằng một cuộc tấn công hủy diệt

nước Mỹ. Cái “mất” tiếp theo của Hoa Kỳ là vì SALT I chỉ hạn chế các tên lửa

chiến lược mà không đụng đến các tên lửa tầm trung, vì thế Liên Xô đã phát triển

loại tên lửa tầm trung SS – 20 và đã giành được thế độc quyền về loại tên lửa này ở

châu Âu [8, tr.138 – 139].

Bên cạnh cái “mất” như vậy, việc kí kết SALT I cũng mang về những cái

“được” cho Hoa Kỳ. Thứ nhất, Hiệp ước SALT I không hạn chế số lượng đầu đạn

của loại tên lửa MIRV nên Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế hạt nhân vì lúc này họ có 5700

đầu đạn so với 2500 của Liên Xô; thứ hai, Hiệp ước SALT I không hạn chế số máy

bay ném bom tầm xa mà số lượng lúc đó là Hoa Kỳ 450, Liên Xô 200; thứ ba, Hiệp

ước SALT I không cấm loại vũ khí mới. Vì vậy, sau đó Hoa Kỳ tiếp tục phát triển

loại tên lửa Trident thay thế cho các tên lửa Polaris và Poseidon đang sử dụng, máy

bay ném bom B-1 thay thế cho B-52 [8, tr.139]. Riêng Hiệp ước ABM cũng đã tạo

nên niềm tin về sự đảm bảo an ninh cho Hoa Kỳ, cố vấn Henry Kissinger đã nói

trong một cuộc họp Quốc hội vào ngày 15.6.1972, “bằng cách kí kết một Hiệp ước

giới hạn hệ thống phòng thủ ABM không chỉ giúp loại bỏ một lĩnh vực cạnh tranh

68

phòng thủ có khả năng nguy hiểm [cho an ninh Hoa Kỳ], mà còn làm giảm động cơ

để tiếp tục triển khai các hệ thống tấn công” [43]. Như vậy, những cái “được” và

“mất” theo quan điểm của Hoa Kỳ trong việc ký Hiệp ước SALT I cho thấy Hoa Kỳ

đã lợi dụng những “kẻ hỡ” của SALT I để duy trì ưu thế hạt nhân của mình và do

vậy có thể đảm bảo được cho an ninh của Hoa Kỳ [8, tr.139].

Theo đánh giá của Liên Xô, Hiệp ước SALT I “là một trường hợp chưa hề có

tiền lệ về mặt kiểm tra, kiểm soát đối với các vũ khí chiến lược và là cơ sở đầu tiên

có tính chất cụ thể về pháp lý cho quá trình hòa dịu. Hơn nữa, Hoa Kỳ và Liên Xô

đã thỏa thuận đề ra những giới hạn nhất định đối với việc tăng thêm về số lượng các

loại tên lửa hạt nhân tiến công chiến lược của cả hai bên. Riêng đối với Hiệp ước

ABM, điều quan trọng của bản hiệp ước là nó có hiệu lực vô thời hạn vì thế Liên

Xô hi vọng sẽ khống chế việc xây dựng hệ thống phòng thủ chống tên lửa của mỗi

bên, tạo cơ sở cho sự cân bằng về lực lượng hạt nhân của hai nước” [1, tr.425]

Cho dù có những tính toán riêng của mỗi bên, nhưng việc kí kết SALT I có

một ý nghĩa quan trọng, nó là biểu hiện cụ thể của sự hòa dịu giữa hai cường quốc

và sau đó sẽ tạo đà cho việc cải thiện quan hệ song phương giữa hai nước. Thực tế

đã chứng minh cho nhận định trên, sau SALT I, cả Hoa Kỳ và Liên Xô tiếp tục đàm

phán và kí kết một loạt các văn kiện ngoại giao nhằm cải thiện quan hệ hai nước.

Việc đàm phán và kí kết hai văn kiện ngoại giao quan trọng về kiểm soát vũ khí hạt

nhân, thứ nhất là Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 và thứ hai

là Hiệp ước về nổ hạt nhân vì mục đích hòa bình năm 1976 cũng nằm trong một loạt

các văn kiện ngoại giao được kí kết sau SALT I (sẽ được lần lượt trình bày ở mục

2.5 của luận văn này ). Đặc biệt, hai nước đã ký kết Hiệp định về những nguyên tắc

cơ bản trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô (BPRUSA – USSR) do Liên Xô đề

xuất. Hiệp định này nhằm cải thiện quan hệ song phương Hoa Kỳ - Liên Xô, giảm

bớt những căng thẳng của tình hình thế giới, đồng thời củng cố an ninh và hợp tác

quốc tế cũng như sự hiểu biết và hợp tác của hai nước trên các lĩnh vực khác nhau.

Hiệp định này gồm 12 điều khoản với những nội dung chính sau: 1. [Thiết lập]

nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong kỷ nguyên của vũ

khí hạt nhân; 2. Sự cần thiết phải ngăn chặn mọi khả năng dẫn tới một cuộc chiến

69

tranh hạt nhân; 3. Nguyên tắc bình đẳng là cơ sở đảm bảo an ninh cho cả Hoa Kỳ và

Liên Xô...[4, tr.141 – 142]. Như vậy, Hiệp định BPRUSA – USSR tỏ ra có lợi cho

hòa dịu quốc tế và ngăn chặn khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân. Đại sứ Liên Xô

tại Hoa Kỳ Dobrynin cho rằng Hiệp định BRPUSA – USSR có “tầm quan trọng về

mặt chính trị, đặt nền móng cho quá trình mới trong quan hệ giữa hai nước – quá

trình hòa dịu, làm cho quan hệ giữa Liên Xô với Hoa Kỳ đặt trên cơ sở ổn định hơn

và có triển vọng hơn” [1, tr.422 – 423].

Như vậy, việc Hoa Kỳ kí kết các hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân trong

thập niên 60 đầu thập niên 70 trên cơ sở Hoa Kỳ đang chiếm ưu thế về vũ khí hạt

nhân và khả năng chi tiêu quân sự ở mức cao có tác dụng kìm chế sự phát triển vũ

khí hạt nhân ở các nước khác trên thế giới, trong khi đó vẫn duy trì ưu thế về vũ khí

hạt nhân của mình. Thực tế, sau khi kí kết các văn kiện này thì số lượng vũ khí hạt

nhân của Hoa Kỳ vẫn nhiều hơn Liên Xô và bỏ xa tổng số vũ khí hạt nhân của các

cường quốc hạt nhân khác (trừ Liên Xô) cộng lại. Ngoài ra, việc tham gia các hiệp

ước kiểm soát vũ khí hạt nhân còn mang lại những ưu thế nhất định cho Hoa Kỳ

trong quan hệ quốc tế.

2.5. Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 (TTBT -

Threshold Test Ban Treaty) và Hiệp ước về Nổ hạt nhân vì mục đích hòa bình

năm 1976 (PNET - Peaceful Nuclear Explosions Treaty)

Sau SALT I, các cuộc đàm phán để kiểm soát vũ khí hạt nhân vẫn tiếp tục diễn

ra. Việc kí kết SALT I đã có tác động tích cực đến các cuộc đàm phán này. Hiệp

ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 và Hiệp ước về Nổ hạt nhân vì

mục đích hòa bình năm 1976 là kết quả đáng mừng trong những nổ lực của Hoa Kỳ

và các cường quốc hạt nhân để kiểm soát vũ khí hạt nhân.

Hiệp ước thứ nhất có tên đầy đủ là Hiệp ước giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và

Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết về giới hạn các cuộc thử hạt nhân

ngầm dưới đất (Treaty Between the United States of America and the Union of

Soviet Socialist Republics on the Limitation of Underground Nuclear Weapon

Tests). Hiệp ước xác lập “ngưỡng” cấm thử vũ khí hạt nhân dưới lòng đất. Trong

các cuộc đàm phán về cấm thử hạt nhân năm 1963, cả Anh và Hoa Kỳ đều đề nghị

70

cho một lệnh cấm thử toàn diện trong tất cả các môi trường, nhưng phía Liên Xô

cho rằng khó phân biệt được các cuộc nổ hạt nhân trong lòng đất với các cuộc động

đất vì chưa có đủ các phương tiện để chứng minh. Nên Hiệp ước LTBT năm 1963

vẫn để ngõ khả năng thử hạt nhân dưới lòng đất và chỉ cấm các cuộc thử hạt nhân

dưới lòng đất mà các mãnh vở phóng xạ làm ảnh hưởng đến một nước khác bên

ngoài nước tiến hành vụ nổ. Sau đó, suốt trong những năm còn lại của thập niên 60,

cả Hoa Kỳ, Liên Xô và một số nước khác đã cho tiến hành các vụ nổ thử hạt nhân

mà sức công phá trên 150 kilotons [41]. Tuy thực hiện những vụ nổ này nhưng cả

hai bên đều quan ngại rằng nó sẽ ảnh hưởng đến các nổ lực đàm phán để kiểm soát

vũ khí hạt nhân. Tiến trình hòa dịu trong quan hệ quốc tế những năm đầu thập kỷ

1970, đặc biệt sau khi kí SALT I vào năm 1972, cả hai nước đẩy mạnh quá trình

tiếp xúc và đàm phán để đi đến một hiệp ước xác định ngưỡng của các vụ thử hạt

nhân trong lòng đất và những vấn đề có liên quan. Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý

trong mùa xuân năm 1974 sẽ tiến hành đàm phán về hiệp ước này, theo đó một

nhóm các chuyên gia hạt nhân Hoa Kỳ đã được gởi tới Moscow để đàm phán về các

mặt kỹ thuật.

Hiệp ước đã được kí kết trong Hội nghị thượng đỉnh gữa Hoa Kỳ và Liên Xô

do Tổng thống R.Nixon và Tổng bí thư L.Brezhnev đứng đầu ở Moscow vào ngày

3.7.1974. Mục đích của Hiệp ước TTBT là “chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang trong

thời gian sớm nhất và thực hiện các biện pháp có hiệu quả để cắt giảm vũ khí chiến

lược , tiến tới giải trừ quân bị triệt để và một sự kiểm soát quốc tế chặt chẽ và có

hiệu quả” (to achieve at the earliest possible date the cessation of the nuclear arms

race and to take effective measures toward reductions in strategic arms, nuclear

disarmament, and general and complete disarmament under strict and effective

international control) [41]. Hiệp ước có 5 điều khoản với nội dung chính là cấm các

cuộc thử vũ khí hạt nhân ngầm dưới đất vượt quá mức 150 kilotons (150 kilotons

tương đương với 150.000 tấn TNT). Đồng thời, Hiệp ước TTBT mở đường cho các

nước thành viên tiếp tục các cuộc đàm phán về cấm thử toàn diện đối với vũ khí hạt

nhân, quy định việc thanh tra bằng các phương tiện của từng nước, trao đổi những

thông tin về địa chất của các bãi thử hạt nhân và quy định các nước thành viên của

71

hiệp ước chỉ được thử ở những địa điểm đã công bố trên lãnh thổ của nước mình.

Ngoài ra, còn có một nghị định thư bổ sung cho Hiệp ước TTBT. Nội dung chính

của nghị định thư này quy định cụ thể việc trao đổi các thông số kỹ thuật của các

khu vực thử hạt nhân cũng như số liệu của các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất [8,

tr.145 – 146].

Hiệp ước thứ hai có liên quan chặt chẽ với Hiệp ước TTBT là Hiệp ước về Nổ

hạt nhân vì mục đích hòa bình năm 1976 (PNET - Peaceful Nuclear Explosions

Treaty). Trong ngày kí Hiệp ước TTBT, ngày 3.7.1974, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã

cùng công nhận về sự cần thiết phải thiết lập một thỏa thuận thích hợp để quản lí

các vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất vì mục đích hòa bình (PNE). Không có một sự

khác biệt căn bản giữa công nghệ của thiết bị nổ hạt nhân được sử dụng cho một vũ

khí và công nghệ của một thiết bị nổ hạt nhân cho mục đích hòa bình. Do đó, một

thỏa thuận đàm phán về PNE đã được ghi trong Điều III của Hiệp ước TTBT và

ngày bắt đầu đàm phán là ngày 7.10.1974 tại Moscow. Sau sáu phiên đàm phán

trong 18 tháng, Hiệp ước PNET được kí kết ở Washington và Moscow vào ngày

28.5.1976. Lời mở đầu của hiệp ước như sau:

“Căn cứ mong muốn thực hiện Điều III của Hiệp ước giữa Hợp chúng quốc

Hoa Kỳ và Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết về Giới hạn thử nghiệm vũ

khí hạt nhân ngầm dưới đất , trong đó kêu gọi kết thúc sớm nhất có thể của một thỏa

thuận về vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất cho các mục đích hòa bình ,

Khẳng định sự tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiệp ước Cấm thử vũ

khí hạt nhân trong khí quyển, ngoài không gian vũ trụ và dưới nước, Hiệp ước

Không phổ biến vũ khí hạt nhân, và Hiệp ước về Giới hạn thử nghiệm vũ khí hạt

nhâm ngầm dưới đất, và quyết tâm thực hiện đúng các quy định của các điều ước

quốc tế,

Mong muốn đảm bảo rằng các vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất cho các mục đích

hòa bình sẽ không được sử dụng cho các mục đích liên quan đến vũ khí hạt nhân,

Mong rằng sử dụng năng lượng hạt nhân được hướng dẫn chỉ hướng tới mục

đích hòa bình,

72

Với mong muốn phát triển một cách thích hợp hợp tác trong lĩnh vực vụ nổ

hạt nhân dưới lòng đất cho các mục đích hòa bình,”

(Proceeding from a desire to implement Article III of the Treaty between the

United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics on the

Limitation of Underground Nuclear Weapon Tests, which calls for the earliest

possible conclusion of an agreement on underground nuclear explosions for

peaceful purposes,

Reaffirming their adherence to the objectives and principles of the Treaty

Banning Nuclear Weapon Tests in the Atmosphere, in Outer Space and Under

Water, the Treaty on Non-Proliferation of Nuclear Weapons, and the Treaty on the

Limitation of Underground Nuclear Weapon Tests, and their determination to

observe strictly the provisions of these international agreements,

Desiring to assure that underground nuclear explosions for peaceful purposes

shall not be used for purposes related to nuclear weapons,

Desiring that utilization of nuclear energy be directed only toward peaceful

purposes,

Desiring to develop appropriately cooperation in the field of underground

nuclear explosions for peaceful purposes,)

Hiệp ước gồm 9 điều khoản với nội dung chính: quy định các vụ nổ hạt nhân

đơn lẻ ngầm dưới đất không vượt quá 150 kilotons, giống với quy định của Hiệp

ước TTBT; không thực hiện bất kỳ vụ nổ nhóm nào (bao gồm các vụ nổ đơn lẻ) có

tổng công suất trên 1.500 kilotons; các bên cũng tái khẳng định nghĩa vụ của mình

để thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những quy định của Hiệp ước LTBT năm 1963;

các bên có quyền thực hiện các vụ nổ hạt nhân vì mục đích hòa bình trên lãnh thổ

nước khác nếu được nước đó yêu cầu, nhưng phải tuân thủ quy định về công suất

trong hiệp ước này và phù hợp với những quy định của Hiệp ước Không phổ biến

NPT; Hiệp ước quy định những phương tiện để xác minh các vụ nổ, ngoài việc sử

dụng các phương tiện kỹ thuật quốc gia NTM (National Technical Means), Hiệp

ước quy định các bên có trách nhiệm thông tin về những vụ nổ của mình cho bên

kia và cam kết không can thiệp vào tiến trình xác minh các vụ nổ [42].

73

Hiệp ước PNET cùng với Hiệp ước TTBT đã góp phần hạn chế ô nhiễm môi

trường cả về mức độ, lẫn phạm vi do các cuộc thử hạt nhân gây ra. Việc Hoa Kỳ kí

Hiệp ước PNET năm 1976 thể hiện một cố gắng thật lớn của chính quyền Tổng

thống Gerald R. Ford. Khi lên thay Nixon , Nixon từ chức vì vụ Watergate, năm

1974, Tổng thống G. Ford vẫn duy trì chính sách hòa dịu với Liên Xô, vẫn tiếp tục

các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Nhưng vào lúc này, thế lực bảo

thủ trong chính trường Hoa Kỳ đang có những hoạt động chống lại chính sách hòa

dịu với Liên Xô, chống lại các Hiệp ước về kiểm soát vụ khí hạt nhân với Liên Xô.

Họ cho rằng chính sách hòa dịu đã không còn phù hợp nữa và dùng nó để tuyên

truyền nhằm giành ưu thế trước Tổng thống Ford trong cuộc vận động tranh cử vào

năm 1976.

74

Tiểu kết chương 2

Như vậy, từ sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Hoa Kỳ đã đạt được nhiều

hiệp ước song phương và đa phương về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Những Hiệp ước

này góp phần làm giảm đi cường độ của cuộc chạy đua vũ, nhất là chạy đua vũ khí

hạt nhân và cũng góp phần to lớn vào việc giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và

giải trừ quân bị. Ở một khía cạnh nào đó nó ngăn cản sự vượt trội hơn của Liên Xô

về vũ khí hạt nhân so với Hoa Kỳ và củng cố hơn nửa thế cân bằng ổn định chiến

lược giữa hai quốc gia. Việc kí kết Hiệp ước LTBT đã góp phần vào vệc ngăn cản

các quốc gia khác sở hữu vũ khí hạt nhân, lúc này chỉ có Hoa Kỳ và Liên Xô mới có

đủ kỹ thuật để thử hạt nhân trong lòng đất. Hiệp ước OST thì đem đến một sự an

toàn cho không gian vũ trụ trong thời đại hạt nhân. Còn Hiệp ước NPT đã góp phần

ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí hạt nhân trên toàn thế giới. Hiệp ước SALT I đã

cắt giảm được một phần kho vũ khí chiến lược của hai nước, đây là bước đi quan

trong trong quá trình kiểm soát vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị của hai nước và

từ sau SALT I quan hệ giữa hai nước đã tốt lên nhiều và hai nước đã tạo cơ sở cho

sự tin cậy lẫn nhau trong việc giải quyết những vấn đề quan hệ giữa hai nước và

những vấn đề quốc tế. Chính vì vậy, sau SALT I, hai nước đã kí nhiều văn kiện

chung nhằm cải thiện quan hệ, trong đó có các văn kiện về kiểm soát vũ khí hạt

nhân, hai Hiệp ước TTBT và PNE được kí kết trong bối cảnh đó. Hoa Kỳ cũng gắn

chặt vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề chính trị khác, điển hình như

ngày 1.7.1968, khi kí kết Hiệp ước NPT, Tổng thống Johnson đã loan báo rằng cả

Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề hạn chế và cắt

giảm vũ khí hạt nhân phòng thủ và tiến công chiến lược “trong tương lai gần nhất”

(in the nearest future). Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều loan báo rằng ngày 30.9.1968 sẽ

là ngày bắt đầu đàm phán, thế nhưng, khi Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc ngày

21.8.1968, Hoa Kỳ đã tuyên bố hoãn các cuộc đàm phán vô thời hạn. Tuy vậy, việc

Hoa Kỳ đàm phán và kí kết các hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn

này đã góp phần đáng kể vào sự hòa dịu trong quan hệ quốc tế, tạo điều kiện để tiếp

tục đàm phán và kí kết những hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn kế

tiếp.

75

Chương 3. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA

HOA KỲ TỪ 1977 ĐẾN 1991

Bắt đầu từ giữa thập kỷ 1970s, tình hình thế giới có những biến động sâu sắc.

Đặc biệt là Liên Xô và các nước CNXH khác ở Đông Âu bắt đầu lâm vào khủng

hoảng, và khủng hoảng sâu trong thập niên 1980s để rồi đi đến sụp đổ vào năm

1991. Sự tác động của tình hình này đến vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân là không

hề nhỏ. Tùy vào thời điểm mà Hoa Kỳ có những bước đi trong chính sách của mình

để tiến hành kiểm soát vũ khí hạt nhân nhưng vẫn đảm bảo an ninh cho nước mình.

3.1. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn II năm 1979 (Strategic Arms

Limitation Talks – SALT II)

Phù hợp với Hiệp định tạm thời, chỉ một tháng sau khi kí kết SALT I, các cuộc

đàm phán về Hạn chế vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn 2 (SALT II) đã chính

thức bắt đầu vào tháng 11.1972. Những “kẽ hở” trong các quy định của SALT I đã

tạo nên làn sóng phản đối không ít trong dư luận Hoa Kỳ, chính vì vậy Hoa Kỳ đã

tìm cách [trong quá trình đàm phán] đảm bảo rằng các quy định của Hiệp ước

SALT II sẽ được làm chi tiết để giảm thiểu tối đa những “kẽ hở”. Do vậy các mục

tiêu chính của Hoa Kỳ khi bước vào đàm phán SALT II là: thiết lập trần quân bình

cho cả hai bên về hệ thống tên lửa MIRV; kìm chế sự phát triển của những nguy cơ

gây mất ổn định trong tương lai và để bắt đầu giảm số lượng các bệ phóng di động –

tức các bệ phóng tên lửa trên các xe tải và tàu ngầm hạng nặng [16, tr.30].

Vào đầu năm 1973, Hoa Kỳ xúc tiến cho việc triệu tập một Hội nghị thượng

đỉnh lần thứ hai với mong muốn cùng với Liên Xô tổ chức một hội nghị ở cấp cao

nhất để kí hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược với mục tiêu đưa hiệp định

tạm thời mà hai bên đạt được thành hiệp định mang tính vĩnh viễn. Hội nghị thượng

đỉnh Hoa Kỳ - Liên Xô lần thứ hai diễn ra vào tháng 4.1974 nhưng không đạt được

một thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân chiến lượt do những bất đồng giữa hai

bên. Bất đồng lớn nhất là về giới hạn số tên lửa hạn nặng của Liên Xô, về hệ thống

phóng tên lửa của Hoa Kỳ và NATO, và về MIRVs. Tổng thống Nixon rất muốn

đạt ngay một hiệp định về vũ khí hạt nhân chiến lược với Liên Xô, sau này ông nhớ

76

lại: “Trong buổi sáng cuối cùng của tôi ở Moscow, Brejnev và tôi nói chuyện riêng

với nhau lần cuối trong phòng làm việc. Tôi nhắc lại với ông ta là tôi vẫn tin có thể

kí kết Hiệp ước SALT trước khi năm mới đến, để Hoa Kỳ không phải lao vào cố

gắng tăng cường nhịp điệu chạy đua vũ trang nữa” [11, tr.1283].

Cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Tổng thống Hoa Kỳ G.Ford và Chủ tịch Liên Xô

L.Brejnev tại Vladivostok vào tháng 11.1974 là nhằm tháo gỡ những bất đồng trong

đàm phán để nhanh chóng đi đến kí kết một hiệp định lâu dài về vũ khí hạt nhân

chiến lược. Hai bên đã ra thông cáo chung rằng thỏa thuận hiệp ước về vũ khí tiến

công chiến lược sẽ có những yếu tố sau: giới hạn mỗi bên có 2.400 vũ khí chiến

lược (gồm bệ phóng ICBM, bệ phóng SLBM và máy bay ném bom hạng nặng),

1320 tên lửa MIRV, cấm xây dựng mới hệ thống phóng tên lửa ICBM trên đất liền

(ngụ ý cấm Liên Xô bổ sung thêm tên lửa hạng nặng ICBM), giới hạn việc triển

khai sản xuất các vũ khí tiến công chiến lược mới. Tuy nhiên, hai bên cũng chưa

nhất trí được về chủng loại và số lượng vũ khí hạt nhân sẽ được cắt giảm, Hoa Kỳ

đề nghị đưa loại máy bay ném bom tầm xa Backfire của Liên Xô vào danh mục cắt

giảm, Liên Xô không đồng ý. Còn Liên Xô đề nghị Hoa Kỳ hủy bỏ loại tên lửa

hành trình nhưng Hoa Kỳ cũng không đồng ý. Sự không chịu nhượng bộ nhau này

và những vấn đề quốc tế như vấn đề Trung Đông, các cuộc xung đột ở vùng Sừng

châu Phi đã làm các cuộc đàm phán đi vào bế tắc.Trong khi các cuộc đàm phán về

SALT II bế tắc, hai nước tiếp tục cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân.

Năm 1977, số đầu đạn hạt nhân của Hoa Kỳ là 8.500 so với 5.700 trong năm

1972, còn số lượng tương ứng của Liên Xô là 4.000 so với 2.500. Đến năm 1978, số

lượng phương tiện điều khiển vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ là 2.059 so với của Liên

Xô là 2.440. Ngoài ra, ở thời điểm hai nước đang tiến hành đàm phán về SALT II

thì tổng số vũ khí hạt nhân của Liên Xô đã vượt tổng của Hoa Kỳ. Năm 1978 Liên

Xô có 25.393 vũ khí hạt nhân so với 24.424 của Hoa Kỳ. Năm 1979 Liên Xô có

27.935 so với 24.141 [8, tr.199]. Lên thay G.Ford, Tổng thống Jimmy Carter và

chính quyền của ông mong muốn nhanh chóng kí kết SALT II, và do đó ông đã xúc

tiến nối lại các cuộc đàm phán với Liên Xô.

77

Tháng 3.1977, Chính quyền Carter đã đưa ra một đề xuất toàn diện đối với

Liên Xô, và mong muốn lấy đó làm cơ sở để tiếp tục đàm phán về SALT II. Theo

đó, số vũ khí chiến lược đề ra ở Vladivostok từ 2.400 giảm xuống còn 1800, 1320

MIRV xuống còn 550, ICBM hạng nặng của Liên Xô cũng giảm từ 308 xuống 150.

Đề xuất cũng kêu gọi không thử nghiệm ICBM mới, không triển khai thêm hệ thống

phóng ICBM trên đất liền và di chuyển hệ thống phóng ICBM. Đồng thời, đề nghị

của Chính quyền Carter vẫn giữ như đề nghị ở Vladivostok về máy bay ném bom

Backfire của Liên Xô và tên lửa hành trình [16, tr.31].

Ban đầu Liên Xô không đồng ý, nhưng các cuộc đàm phán tiếp sau đó hai bên

đã đạt được sự đồng thuận căn bản và Hiệp ước được kí kết ngày 18.6.1979 tại

Vienna do Tổng thống Hoa Kỳ J.Carter và Chủ tịch Liên Xô L.Brejnev. Ngoài Hiệp

ước chính (có hiệu lực năm 1985), còn có một Nghị định thư có thời hạn 3 năm quy

định về việc xử lí tạm thời các vấn đề chưa được giải quyết trong SALT II, trong

khi chờ đợi ở các cuộc đàm phán tiếp tục trong SALT III, và một bản tuyên bố

chung hướng dẫn các nguyên tắc cho việc thiết lập các cuộc đàm phán cho SALT

III. Với hiệp ước chính, trong lời mở đầu hai nước khẳng định Hiệp ước SALT II là

sự tiếp nối của Hiệp ước SALT I kí năm 1972. Cả hai nước tham gia ký kết Hiệp

ước SALT II đều mong muốn “tiếp tục hạn chế vũ khí hạt nhân chiến lược, cải thiện

quan hệ song phương, giảm nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân, củng cố

hòa bình và an ninh thế giới” (limiting strategic offensive arms provided for in this

Treaty will contribute to the improvement of relations between the Parties, help to

reduce the risk of outbreak of nuclear war and strengthen international peace and

security) [55].

Nội dung chính của Hiệp ước SALT II là: 1. Giới hạn tổng số các phương tiện

điều khiển vũ khí hạt nhân chiến lược của mỗi bên lúc đầu là 2.400, sau sẽ giảm

xuống còn 2.250 vào tháng 1.1981. Các loại phương tiện này bao gồm bệ phóng tên

lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) và máy bay chiến lược mang tên lửa không đối

đất (ASBM) có tầm bắn xa hơn 5.500 km, bệ phóng tên lửa đạn đạo đặt trên tàu

ngầm (SLBM) và máy bay chiến lược mang tên lửa đạn đạo không đối đất (ASBM)

có tầm hoạt động lớn hơn 600 km; 2. Mỗi bên tham gia hiệp ước có tổng số các bệ

78

phóng ICBM, SLBM và ASBM được trang bị tên lửa mang đầu đạn tự tách (MIRV)

không vượt quá 1.200 km, trong đó có số bệ phóng ICBM lắp MIRV không vượt

quá 820; 3. Mỗi bên có tổng số các loại bệ phóng kể trên và số máy bay ném bom

hạng nặng trang bị tên lửa hành trình có tầm bắn hơn 600 km không vượt quá 1320;

4. Cấm thử và triển khai những loại bệ phóng ICBM mới hoặc di chuyển vị trí của

các loại bệ phóng ICBM. Các bên được quyền cải biến nhưng không vượt quá giới

hạn cải tiến 30% cấu trúc của loại bệ phóng ICBM; 5. Khống chế số đầu đạn của

mỗi loại bệ phóng : 10 đầu đạn cho một ICBM, 14 đầu đạn cho một SLBM, và 10

đầu đạn cho một ASBM; 6. Việc cắt giảm vũ các loại khí chiến lược ngoài mức quy

định của Hiệp ước SALT II sẽ được thực hiện từ khi hiệp ước có hiệu lực và sẽ tiếp

tục thực hiện đến 31.12.1981 để đạt được các mức hạn chế theo quy định của Hiệp

ước; 7. Hiệp ước SALT II phù hợp với Điều 192 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc,

tức được đăng ký với Ban thư kí của Liên Hiệp Quốc và được việc dẫn trước một cơ

quan của Liên Hiệp Qước khi cần thiết. Hiệp ước SALT I có hiệu lực đến ngày

31.12.1985; 8. Các bên kí kết phải có trách nhiệm thực hiện các điều khoản cũng

như không tham gia các hiệp ước quốc tế mâu thuẫn với Hiệp ước SALT II. Đồng

thời các thành vên của Hiệp ước SALT II tích cực tham gia các cuộc đàm phán để

nhanh chóng tìm ra các biện pháp hạn chế và cắt giảm hơn nữa vũ khí hạt nhân

chiến lược; 9. Các nước thành viên Hiệp ước SALT II có thể rút khỏi việc tham gia

Hiệp ước nếu quyền lợi tối thượng của mình bị vi phạm. Việc rút khỏi Hiệp ước

phải được thông báo trước 6 tháng [55].

Như vậy, so với SALT I thì SALT II quy định chi tiết và trên phạm vi rộng

hơn. Nó đặt ra trần giới hạn về số lượng vũ khí hạt nhân của hai nước, bao gồm

không chỉ những tên lửa có cơ sở trên mặt đất và trên biển mà còn trên máy bay

ném bao tầm xa. Hiệp ước còn đặt ra những giới hạn riêng biệt đối với loại máy bay

ném bom mang tên lửa ICBM. Ngoài ra, Hiệp ước còn bao gồm cả những giới hạn

về tính chất như cấm ICBM hạng nặng, giới hạn ICBM hạn nhẹ của mỗi bên, cấm

tên lửa SS – 16 của Liên Xô [3, tr.99]. Đây là lần đầu tiên trong quá trình đàm phán

thương lượng về giới hạn vũ khí hạt nhân chiến lược, Hoa Kỳ và Liên Xô đạt được

thỏa thuận về số vũ khí hạt nhân ngang bằng của hai nước. Hiệp ước SALT II còn

79

hạn chế việc thay thế và hoàn thiện các loại vũ khí hạt nhân, đồng thời đưa ra một

chế độ kiểm tra vũ khí hạt nhân một cách chi tiết. Do đó, những quy định của SALT

II có khả năng kiềm chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước, từ đó làm giảm dần

nguy cơ chiến tranh hạt nhân và cải thiện quan hệ giữa hai nước và hai khối nước

Tuy nhiên, tính đến gần hết năm 1985 mà Hiệp ước vẫn chưa có hiệu lực vì

Quốc hội Hoa Kỳ chưa phê chuẩn. Chính quyền Carter đệ trình Hiệp ước lên Quốc

hội vào cuối năm 1979 để phê chuẩn, nhưng Sự kiện Liên Xô đưa quân vào

Afganistan cũng vào cuối năm 1979 đã làm cho Quốc hội Hoa Kỳ ngừng phê chuẩn

vô thời hạn Hiệp ước SALT II. Trong một nổ lực làm dịu tình hình, Tổng thống

Carter tuyên bố rằng mặc dù Quốc hội chưa thông qua nhưng Hoa Kỳ vẫn tuân thủ

các điều khoản của hiệp ước nếu Liên Xô cũng tỏ rõ quyết tâm là họ cũng thực hiện

như vậy [16, tr.25]. Tuy nhiên, các diễn biến phức tạp sau đó đã làm tình hình xấu

đi, các điều khoản của Hiệp ước không được thực thi, quan hệ giữa hai nước và hai

khối nước trở nên căng thẳng, tình hình còn tồi tệ hơn khi cuộc chiến tranh hạt nhân

suýt nổ ra ở châu Âu vào năm 1983.

Hiệp ước SALT II không đề cập đến các loại tên lửa tầm trung ở châu Âu nên

cũng đã dẫn đến những bất đồng lớn về vấn đề này giữa hai nước. Hiệp ước SALT

II chỉ quy định tổng số vũ khí hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ và Liên Xô mà

không tính đến số lực vũ khí hạt nhân chiến lược của các nước đồng minh Tây Âu

của Hoa Kỳ. Tháng 9.1979, Hoa Kỳ đã chuyển giao tên lửa tầm trung cho các nước

NATO để triển khai ở Tây Âu. Ngày 12.12.1979, NATO chính thức quyết định bố

trí 464 tên lửa hành trình và 108 tên lửa Persing II của Hoa Kỳ ở Tây Âu. Như vậy,

tổng cộng lực lượng vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và NATO lớn hơn nhiều so với

Liên Xô, và điều này đã làm cho Liên Xô tiếp tục tăng kho vũ khí hạt nhân của

mình. Kết quả là cả Hoa Kỳ và Liên Xô không đạt được mục đích tiếp tục hạn chế

vũ khí hạt nhân chiến lược, tiến tới giải trừ quân bị triệt để như đã nêu trong Hiệp

ước SALT II.

Hiệp ước SALT II là kết quả của những nổ lực của Hoa Kỳ và Liên Xô nhằm

kiểm soát vũ khí hạt nhân chiến lược nhưng đã không làm giảm căng thẳng trong

mối quan hệ giữa hai nước. Những sự biến bất ngờ đã làm cho những điều khoản

80

không được thực thi, sau đó tình hình lại càng xấu hơn. Hiệp ước SALT II thất bại

làm cho cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân tái diễn và gia tăng sự căng thẳng của tình

hình quốc tế trong những năm đầu thập niên 1980.

3.2. Các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về kiểm soát vũ khí chống vệ

tinh (ASAT - Anti-Satellite)

Kể từ khi vệ tinh nhân tạo Sputnik được phóng vào vũ trụ năm 1957, vệ tinh

đóng một vai trò quan trọng trong các chương trình quân sự của Hoa Kỳ và Liên

Xô. Vệ tinh phục vụ một loạt chức năng bảo mật cực kỳ quan trọng, bao gồm việc

cảnh báo sớm một cuộc tấn công, thu thập những thông tin tình báo về mối đe dọa

quân sự hiện tại và trong tương lai, là đầu thông tin liên lạc cho các vấn đề kiểm

soát vũ khí, và là phương tiện để kiểm tra việc thực hiện các thỏa thuận kiểm soát

vũ khí của đối phương. Tầm quan trọng của vệ tinh đối với an ninh quốc gia của

Hoa Kỳ đã dẫn đến một sự quan tâm đặc biệt đến hệ thống chống vệ tinh (ASAT) –

một hệ thống được thiết kế gồm các tên lửa đạn đạo dùng để tấn công các vệ tinh.

Hoa kỳ cho rằng, sự phát triển của các hệ thống chống vệ tinh sẽ là một mối đe dọa

với các vệ tinh đang hoạt động ngoài không gian của Hoa Kỳ [16, tr.159].

Vấn đề càng rắc rối hơn khi có sự tương tác giữa một hệ thống phòng thủ tên

lửa chống tên lửa (ABM) với hệ thống tên lửa chống vệ tinh. Một hệ thống phòng

thủ tên lửa đạn đạo vốn có khả năng tấn công các vệ tinh, ngược lại, công nghệ

chống vệ tinh có thể đóng góp cho sự phát triển của một hệ thống ABM. Nhận thức

rằng để đạt được một hiệp ước về vấn đề hệ thống tên lửa chống vệ tinh với phía

bên kia là còn rất lâu dài, cả Hoa Kỳ và Liên Xô ra sức xây dựng hệ thống tên lửa

chống vệ tinh cho riêng mình.

Về phần Hoa Kỳ, vấn đề này được chính phủ giao cho lực lượng không quân

vào thập niên 1950, nhưng phải đến năm 1960, tức là 3 năm sau khi Liên Xô phóng

thành công vệ tinh Sputnik – Không quân Hoa Kỳ mới bắt đầu nghiên cứu và phát

triển các chương trình chống vệ tinh. Họ tập trung vào hai phương pháp tấn công cơ

bản: một là sẽ lắp đặt vệ tinh đánh chặn trên quỹ đạo, trên vệ tinh này có các tên lửa

sẽ được phóng để đánh phá vệ tinh đối phương và, hai là sẽ lắp đặt hệ thống trên

mặt đất sau đó các tên lửa sẽ được phóng đi để tấn công trực tiếp vệ tinh đối

81

phương khi vệ tinh đó đi vào không phận của mình. Nhưng chương trình này của

không quân đã bị hủy bỏ vào năm 1962 [16, tr.160]. Sau đó nó tạm thời được đưa

vào chương trình tên lửa đạn đạo của quân đội. Hệ thống phòng thủ ABM Nike –

Zeus được thử nghiệm trên đảo Kwajalein ở Thái Bình Dương cũng có công dụng

của một hệ thống chống vệ tinh với các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân có tầm bắn

vài trăm km. Từ năm 1964 đến năm 1967 một vài hệ thống đánh chặn Nike – Zeus

có công dụng như một hệ thống chống vệ tinh đã được triển khai trên lãnh thổ Hoa

Kỳ. Năm 1964, các tên lửa tầm trung Thor cũng được Hoa Kỳ sử đổi để lắp đặt vào

một hệ thống chống vệ tinh trên đảo Johnston ở Thái Bình Dương [16, tr.160]. Hệ

thống Thor này có quy mô tấn công rộng lớn hơn hệ thống Nike – Zeus. Nhưng

[Hoa Kỳ] nhận thức rằng hệ thống Thor sẽ có khả năng làm gia tăng cuộc chạy đua

vũ trang và khả năng đánh phá các vệ tinh của mình từ hệ thống ASAT của Liên Xô

là rất thấp, nên Hoa Kỳ đã cho dừng và gỡ bỏ hệ thống ASAT được lắp đặt bằng các

tên lửa Thor vào năm 1976.

Năm 1967, Liên Xô cho xây dựng hệ thống ASAT đầu tiên của mình với thiết

kế là các ICBM, mà Liên Xô gọi là SS – 9. Đến năm 1976, Liên Xô tiếp tục cho thử

nghiệm hệ thống ASAT với công nghệ hiện đại hơn, nó cho phép đánh chặn các tên

lửa tấn công vệ tinh Liên Xô của Hoa Kỳ trên quỹ đạo. Nhận thức rằng điều này sẽ

ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh của Hoa Kỳ, trong những ngày cuối cùng của

nhiệm kỳ của mình, Tổng thống G.Ford đã chỉ đạo cho các thành viên Bộ Quốc

phòng bắt đầu nghiên cứu một chương trình ASAT mới với mục đích ngăn chặn các

hệ thống ASAT của Liên Xô.

Lên thay Ford, Tổng thống Carter có một cách tiếp cận mới trong vấn đề xây

dựng hệ thống ASAT. Đó là vừa tìm cách đàm phán để đạt một thỏa thuận với Liên

Xô về hạn chế hệ thống ASAT và đồng thời vừa cho phát triển hệ thống ASAT mới

[6, tr. 161 – 162]. Tín hiệu đàm phán đã nhận được sự phản hồi khá tích cực từ Liên

Xô. Tháng 3.1977 hai nước đã thành lập một nhóm các chuyên gia về kiểm soát vũ

khí để nghiên cứu thiết lập một chương trình nghị sự cho các cuộc đàm phán về

ASAT.

82

Từ năm 1978 – 1979, hai nước đã tổ chức ba vòng đàm phán về ASAT. Vòng

đàm phán sơ bộ đầu tiên diễn ra vào tháng 5.1978 tại Helsinki (Phần Lan), vòng

đàm phán này xác định phạm vi của các thỏa thuận về ASAT có thể có giữa hai

nước. Hai vòng chính thức được tổ chức tại Bern (Thụy Sĩ) từ 23.1 – 16.2.1979 và

tại Vienna (Áo) từ 23.4 – 17.6.1979. Tại các cuộc đàm phán, phía Hoa Kỳ đề nghị

tìm kiếm một hiệp ước mà sẽ cấm các cuộc tấn công vào tất cả các vệ tinh bằng tên

lửa hạt nhân và một lệnh cấm có thời hạn một năm hoặc lâu hơn các thử nghiệm về

ASAT.

Nhưng các quan điểm quá khác nhau trong quá trình đàm phán cùng với

những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế mà các cuộc đàm phán về ASAT

dưới chính quyền Carter chỉ dừng lại ở dự thảo mà không đạt được một hiệp ước cụ

thể. Hai bên bàn thảo liệu một hiệp ước như vậy sẽ chỉ cấm hệ thống ASAT tấn

công các vệ tinh của hai nước thôi, hay cấm tấn công các vệ tinh của tất cả các

nước? Hoa Kỳ đặt biệt quan tâm đến một thỏa thuận bao gồm cả việc cấm tấn công

các vệ tinh của nước thứ ba, mục đích là nhằm bảo vệ các vệ tinh của các đồng

minh ở Tây Âu. Liên Xô thì cho rằng Hiệp ước chỉ có hiệu lực với các vệ tinh của

hai nước thôi [16, tr.162]. Các bên cũng không đồng ý về việc liệu ASAT có thể

được sử dụng trong các hành động tự vệ chống lại các hành vi được xem là thù địch.

Liên Xô cho rằng nên cấm luôn tàu con thoi, vì tàu con thoi có khả năng tiếp cận để

chụp ảnh và can thiệp vào các vệ tinh. Hoa Kỳ phản đối điều đó, vì Hoa Kỳ cho

rằng tàu con thoi không thuộc ASAT và cũng không thuộc loại vũ khí chống vệ tinh

nào cả. Các khác biệt này đã là những khó khăn không dễ vượt qua, do đó sau ba

vòng đàm phán mà không có kết quả gì.

Như đã đề cập ở trên, tổng thống Carter vừa tiến hành đàm phán về ASAT vừa

cho phát triển hệ thống ASAT. Tháng 6.1978, một năm sau khi Hoa Kỳ tuyên bố hệ

thống ASAT của mình đã hoạt động, Tổng thống Carter đã phát biểu tổng kết Chỉ

thị của tổng thống về Chính sách không gian vũ trụ quốc gia, ông nói: “trong lúc

Hoa Kỳ tìm cách thiết lập sự kiểm tra và giới hạn toàn diện hệ thống chống vệ tinh

[thông qua đàm phán], trong trường hợp không đạt được thỏa thuận như vậy, Hoa

83

Kỳ sẽ tiếp tục theo đuổi riêng khả năng phát triển [hệ thống chống vệ tinh] của

mình” [16, tr.162 – 163].

Trong khi các cuộc đàm phán về ASAT chưa có kết quả đáng kể nào, cả Hoa

Kỳ và Liên Xô ra sức hiện đại hóa hệ thống ASAT của mình. Các nổ lực hiện đại

hóa hệ thống ASAT của Liên Xô không đạt được kết quả khả quan, chính vì vậy

trong các cuộc đàm phán về SALT II, Liên Xô muốn đưa vào cuộc đàm phán về

vấn đề vũ khí chống vệ tinh. Nhưng kết quả đạt được chỉ là một thông cáo chung

được ghi nhận trong lễ kí kết SALT II vào tháng 6.1979. Mục đích của thông cáo

chung này là “để tiếp tục tìm kiếm những thỏa thuận, hai bện chấp nhận tiếp tục

đàm phán về hệ thống chống vệ tinh” [16, tr.163]. Khi Liên Xô đưa quân vào

Afganistan tháng 12.1979, Hoa Kỳ đã chủ động ngưng các cuộc đàm phán về

ASAT.

Chính phủ của Tổng thống Ronald Reagan muốn đánh giá lại một cách đầy đủ

về chính sách và mục tiêu kiểm soát vũ khí, sau đó sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến trình

này để đạt những hiệu quả cụ thể. Chương trình kiểm soát vũ khí chống vệ tinh

cũng được xem xét để nhanh chóng nối lại các cuộc đàm phán với Liên Xô. Nhưng

vào tháng 3.1981, việc Liên Xô thực hiện thành công hoạt động kiểm tra toàn bộ hệ

thống chống vệ tinh của họ bằng cách sử dụng thiết bị radar dẫn đường, đã gây ra

những tranh cãi trên các báo của Hoa Kỳ và cả ở chính phủ nữa, điều này làm giới

chức Hoa Kỳ quan ngại sẽ làm cuộc chạy đua vũ trang thêm căng thẳng và làm các

nổ lực nối lại các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân.

Như một cố gắng làm dịu tình hình do tác động của vấn đề trên, chỉ vài tháng

sau, ngày 11.8.1981, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Gromyko đã đệ trình

lên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc một dự thảo hiệp ước cấm việc triển khai bất kỳ

loại vũ khí nào ngoài không gian vũ trụ. Dự thảo này bao gồm việc cấm triển khai

hệ thống ASAT ngoài không gian nhưng không cấm triển khai nó ở dưới đất và

trong khí quyển (hàm ý không cấm các hệ thống ASAT mà Hoa Kỳ đang phát

triển).

Tuy vậy, đề nghị này của Liên Xô không được Hoa Kỳ hoan nghênh. Sau đó

Hoa Kỳ xây dựng một chương trình hoạt động để phát triển công nghệ tinh vi hơn

84

cho các hệ thống chống vệ tinh. Vào 23.3.1983, Tổng thống Ronald Reagan đã có

một bài phát biểu kêu gọi các nhà khoa học hỗ trợ nghiên cứu công nghệ để phát

triển hệ thống phòng thủ chiến lược dựa trên các tên lửa hạt nhân nhưng không mâu

thuẫn với các quy định của Hiệp ước SALT I. Như vậy Sáng kiến phòng thủ chiến

lược (SDI) của Ronald Reagan chủ trương xây dựng hệ thống phòng thủ dựa trên sự

phát triển của công nghệ mới trong việc nghiên cứu và phát triển hệ thống tên lửa

hạt nhân. Sáng kiến phòng thủ chiến lược không đồng ý với việc cấm một hệ thống

chống vệ tinh. Chủ tịch Liên Xô Yuri Andropov đã ngay lập tức phản ứng, Chủ tịch

Liên Xô cho rằng Hoa Kỳ và Liên Xô đang tiếp cận một thời điểm quan trọng khi

thất bại trong việc cấm vũ khí trong không gian vũ trụ [hàm ý chỉ SDI đã làm thất

bại dự thảo hiệp ước của Gromyko năm 1981] sẽ dẫn đến một sự không tránh khỏi

của sự mở rộng cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân giữa hai nước [16, tr.165].

Như vậy, vấn đề cơ bản dẫn đến các cuộc đàm phán về ASAT giữa Hoa Kỳ và

Liên Xô chưa được nối lại là vì những đề nghị khác nhau của hai bên về hệ thống

ASAT, Liên Xô thì đề nghị chỉ cấm ASAT trên vũ trụ, còn Hoa Kỳ muôn cấm tất cả

việc xây dựng hệ thống ASAT dưới đất, trong khí quyển và ngoài vũ trụ để đảm bảo

an toàn cho các vệ tinh của Hoa Kỳ và các đồng minh NATO của mình. Cuối tháng

8.1983, Chủ tịch Liên Xô Andropov bất ngờ tuyên bố rằng Liên Xô sẵn sàng đàm

phán về cấm tất cả các loại vũ khí chống vệ tinh. Trong một cuộc họp với các

Thượng nghị sĩ của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ tại điện Kremlin cũng vào cuối tháng

8.1983, Andropov kêu gọi Hoa Kỳ đàm phán về một lệnh cấm hoàn toàn các thử

nghiệm và triển khai bất kỳ loại vũ khí nào trên vũ trụ để đánh các mục tiêu trên

mặt đất, trong khí quyển và ngoài vũ trụ. Ông còn nói rằng Liên Xô đã sẵn sàng

đồng ý việc ngăn cấm việc thử nghiệm và phát triển của tất cả các hệ thống chống

vệ tinh mới và loại bỏ tất cả các hệ thống chống vệ tinh hiện có. Ngoài các đề xuất

đó, Andropov còn cam kết rằng Liên Xô sẽ không là quốc gia đầu tiên đưa vào vũ

trụ các loại vũ khí chống vệ tinh [16, tr.166]. Ngay sau thông báo này của

Andropov, Bộ trưởng ngoại giao Gromyko, trong một bức thử gởi Tổng thư ký Liện

Hiệp Quốc, công bố một dự thảo hiệp ước mới của Liên Xô về việc cấm lắp đặt vũ

khí trong vũ trụ để tấn công các mục tiêu trong vũ trụ, và từ vũ trụ chống các mục

tiêu dưới mặt đất.

85

Các cuộc đàm phán về hiệp ước này, theo Liên Xô, nên diễn ra trong các thành

viên của Liên Hiệp Quốc thông qua Ủy ban Giải trừ Quân bị. Nhưng Hoa Kỳ phản

đối đề xuất này, theo quan điểm của Hoa Kỳ chỉ nên thành lập một nhóm các

chuyên gia làm việc trên vũ trụ để kiểm tra các vấn đề về vũ khí các nước có trên vũ

trụ hay không, còn các cuộc đàm phán nên thực hiện song phương.

Trong khi các bất đồng chưa được giải quyết, thì ngày 24.1.1984 Hoa Kỳ thực

hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của loại máy bay chống vệ tinh F – 15 tại căn

cứ không quân Vandenberg ở California, F – 15 là loại máy bay chiến đấu được

trang bị các tên lửa hạt nhân nổ hai giai đoạn, các tên lửa này được hướng dẫn để

đánh trúng các vệ tinh bởi một hệ thống dẫn đường có các tham số quỹ đạo đã được

xác định bởi các thiết bị cảm biến trên mặt đất.

Liên Xô ngay lập tức thông qua hãng thông tấn Tass, lên tiếng chỉ trích Hoa

Kỳ về việc này, cho rẳng thử nghiệm này của Hoa Kỳ là một thách thức cho việc

Liên Hiệp Quốc ra các nghị quyết về kiểm soát vũ khí trên vũ trụ. Một tháng sau

thử nghiệm này của Hoa Kỳ, trong một buổi điều trần về ngân sách quốc phòng cho

năm tài chính 1985 trước Ủy ban Quân sự của Hạ viện, Thứ trưởng Bộ quốc phòng

Hoa Kỳ Richard DeLauer đã nói rằng các thử nghiệm đầy tham vọng đã được lên kế

hoạch trong năm tới để chứng minh khả năng của hệ thống chống vệ tinh F – 15

[16, tr.167]...và Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) cũng sẽ bao gồm thành phần

chống vệ tinh. Các thử nghiệm F – 15 và các khó khăn của cuộc đàm phán INF đã

làm cho triển vọng nối lại các cuộc đàm phán về ASAT gần như không còn. Vấn đề

này cũng đã tác động đến thái độ của các chính khách Hoa Kỳ muốn vấn đề kiểm

soát vũ khí chống vệ tinh nói riêng và vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân nói chung

có kết quả cụ thể, đặc biệt là ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ cho nhiệm kỳ

tiếp theo, Thượng nghị sĩ Walter Mondale.

Trong tháng 2.1984, ông đề nghị rằng Hoa Kỳ nên bắt đầu một lệnh cấm tạm

thời về việc thử nghiệm hệ thống chống vệ tinh cùng với một lệnh cấm sáu tháng

thử hạt nhân dưới lòng đất để phá vỡ các “rào cản” đang gặp phải trong các cuộc

đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô. Mondale cũng cam kết rằng, nếu ông

đắc cử ông sẽ mạnh dạn thúc đẩy để tiến trình đàm phán về ASAT nhanh chóng có

kết quả, tức là đạt một hiệp ước về ASAT với Liên Xô.

86

Tháng 3.1984, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô Konstantin Chernenko đã kêu

gọi thiết lập một cuộc đàm phán về cấm quân sự hóa không gian vũ trụ, trong một

bài trả lời phóng vấn hãng thông tấn Tass, Chernenko tuyên bố rằng Hoa Kỳ có thể

chứng tỏ “thiện chí hòa bình” của mình bằng việc kí kết một thỏa thuận về việc cấm

quân sự hóa không gian vũ trụ. Lời kêu gọi này đã được nhắc lại trong một chuyến

thăm của một Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến Moscow cũng trong tháng 3.1984. Trong

báo cáo chính thức của mình về ASAT gởi lên quốc hội vào ngày 31.3.1984, Tổng

thống Ronald Reagan đã bác bỏ hoàn toàn đề xuất này của Liên Xô. Bản báo cáo

nói rằng các yếu tố cản trở việc xác định các vũ khí chống vệ tinh là rất lớn và các

biện phán kiểm soát hiệu quả rất khó khăn để xác minh, sự đa dạng của các mối đe

dọa đến vệ tinh của Hoa Kỳ và các đồng minh, và sự đe dọa gây ra bởi các vệ tinh

do thám mục tiêu của Liên Xô sẽ làm yếu sự răn đe vũ khí thông thường và hạt

nhân của Hoa Kỳ. Cả Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ đều tin rằng Liên Xô đã có

một “lợi thế gây mất căng bằng” với vũ khí chống vệ tinh mà họ đang có, và do vậy

họ từ chối đàm phám về một lệnh cấm toàn diện lắp đặt vũ khí trong không gian vũ

trụ. Đáp lại bản báo cáo của Reagan, nhà lãnh đạo Liên Xô Chernenko, trong một

bài phỏng vấn đăng trên tờ Pravda ngày 9.5.1984 rằng: “thẳng thừng và thẳng thắn,

họ [Hoa Kỳ] không muốn đạt được một thỏa thuận. Nhưng [họ] còn đi xa hơn như

thể để thực hiện một sự nhạo báng ý thức hệ, họ bày tỏ sự sẵn sàn để nói chuyện với

chúng tôi với một mục đích duy nhất là vấn đề này là không thể...” [Dẫn lại theo 16,

tr.168]. Một lần nữa, ứng viên đảng Dân chủ Mondale đã lên tiếng chỉ trích chính

sách của chính quyền Reagan về không gian vũ trụ. Đồng thời ông cũng đề xuất

một kế hoạch tạm thời gồm năm điểm để ngưng việc thử nghiệm hệ thống ASAT và

tiến hành đàm phán với Liên Xô về vấn đề này, đề xuất còn bao gồm sự tái khẳng

định cam kết của Hoa Kỳ về các điều khoản của Hiệp ước ABM năm 1972.

Trong khi đó, một số nước thành viên của NATO cũng bày tỏ hoài nghi và

quan ngại về các kế hoạch quân sự trên không gian vũ trụ của Hoa Kỳ và kêu gọi

Hoa Kỳ nên cùng với Liên Xô tiến hành đàm phán để ngăn chặn một cuộc chạy đua

cũ trang trên không gian vũ trụ. Cuối cùng chính phủ Hoa Kỳ cũng chấp nhận ngồi

vào bàn đàm phán về vũ khí chống vệ tinh nhưng sẽ không đàm phán những nội

87

dung mà Hoa Kỳ cho rằng không có cơ hội để xác minh. Ngày 12.7.1984, Quốc hội

Hoa Kỳ họp để sửa đổi ngân sách quốc phòng cho năm tài chính 1985 theo hướng

cắt giảm bớt, tổng thống Reagan cũng phát biểu rằng Hoa Kỳ vẫn còn để ngõ một

cơ hội đàm phán vế hệ thống ASAT với Liên Xô và đề xuất các quy định để xem

xét đạt được một thỏa thuận về vũ khí chống vệ tinh: giới hạn mỗi quốc gia có một

loại máy bay đánh chặn vệ tinh; cấm các hệ thống ASAT tiêu diệt các vệ tinh ở trên

vũ trụ; các biện pháp xây dựng lòng tin lẫn nhau về trao đổi thông tin về các loại vũ

khí trong không gian; và một thỏa thuận rằng cả hai nước đều đồng ý không can

thiệp vào vệ tinh của bên kia. Sau cuộc họp của Tổng thống Reagan, Đại sứ Liên

Xô Anatoli Dobrynin ngày 29.6.1984 đã đề xuất với Ngoại trưởng Hoa Kỳ George

Shultz một cuộc đàm phán về không gian vũ trụ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô nên xúc

tiến sớm và đĩa điểm là thành phố Viena của Áo.

Tổng thống Reagan đồng ý đàm phán về hệ thống ASAT mà chưa muốn đề

cập đến vấn đề cấm quân sự hóa không gian vũ trụ. Ông còn tuyên bố rằng Hoa Kỳ

sẽ cũng nối lại các cuộc đàm phán về INF với Liên Xô. Liên Xô coi đề xuất đàm

phán của Hoa Kỳ là không đạt yêu cầu, và kiên quyết đàm phán cả về cấm quân sự

hóa không gian vũ trụ. Thời điểm tháng 9.1984, hai bên đều có những động thái

trao đổi các biên bản ghi nhớ để đi đến một sự đồng thuận nhanh chóng mở các

cuộc đàm phán về hệ thống ASAT và về cấm quân sự hóa không gian vũ trụ. Nhưng

đây cũng là thời gian các ứng cử viên tổng thống đang tiến hành các cuộc vận động

tranh cử nên Reagan đề nghị đàm phán chỉ nên bắt đầu từ sau bầu cử, ông không

muốn vấn đề này trở thành cuộc tranh luận của ứng viên đối thủ nhằm công kích và

hạ mức tín nhiệm mà cử tri giành cho ông. Sau đó các cuộc đàm phán đã không hề

được diễn ra, các bên đều chấp nhận một lệnh cấm đơn phương về hệ thống ASAT

và về hạn chế quân sự hóa vũ trụ.

3.3. Hiệp ước Hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn năm 1987 (INF -

Intermediate-Range and Shorter-Range Nuclear Forces Treaty)

Các cuộc đàm phán về lực lượng hạt nhân tầm trung (INF) giữa Hoa Kỳ và

Liên Xô bắt đầu tại Geneva, Thụy Sĩ, ngày 30.11.1981. Nguyên nhân trực tiếp dẫn

đến cuộc đàm phán là do quan hệ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô vào những

88

năm đầu thập niên 1980 khi NATO cho triển khai 572 tên lửa tầm trung của Hoa Kỳ

tại châu Âu vào tháng 12 năm 1979 để đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa tầm

trung thế hệ mới SS – 20 và máy bay ném bom và phóng tên lửa hành trình chiến

lược Backfire ở phần lãnh thổ châu Âu của mình trước đó. Ý thức rằng những hành

động như vậy sẽ làm gia tăng tình hình căng thẳng trong quan hệ quốc tế và nguy cơ

diễn ra một cuộc chiến tranh hạt nhân nên hai nước đã ngồi vào bàn đàm phán về

INF. Nhưng nguyên nhân sâu xa đó là vào thời điểm năm 1981, số lượng vũ khí hạt

nhân tầm trung trong kho vũ khí hạt nhân của hai nước đã đạt con số khổng lồ. Điều

này khiến hai nước muốn nhanh chóng đàm phán để cắt giảm nó, làm giảm nguy cơ

của cuộc chiến tranh hạt nhân và xoa dịu tình hình căng thẳng trong quan hệ quốc tế.

Bảng 2.1. Số lượng vũ khí hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ (kể cả đã cung

cấp cho các nước Tây Âu) và Liên Xô theo quan điểm cân bằng của hai nước.

Cách tính của Hoa Kỳ Hoa Kỳ

Missiles 0 F-111 fighter-bombers 164 F-4s 265 A-6s and A-7s 68 FB-111s(in U.S. for use in Europe) 63

Hoa Kỳ Liên Xô SS-20 missiles 250 SS-4s and SS-5s 350 SS-12s and SS-22s 100 SS-N-5s 30 TU-26 Backfire bombers 45 TU-16 Badgers and TU-223 50 Blinders SU-17,SU-24, and MIG 272 700 Fighter bombers 1.525 Liên Xô

Land-based missiles (SS-20s, SS-4s, SS-5s) 496 Submarine missiles (SS-N-5s) 18 Medium-range bombers 461 (Backfires, Badgers, Blinders)

Total: 560 Cách tính của Liên Xô Fighter-bombers 555 (F-111s, F-4s,A-6s, A-7s, FB-111s) Pershing IA missiles (in Bristish) 108 Polaris missiles 64 Vulcan bombers 56 Land-based intermediate-range 18 ballistic missiles Submarine missiles 80 Mirage 4 bombers 33 Pershing IA missiles (In West German) 72 Total: 986 975

Nguồn: [Dẫn lại theo 6, tr.125]

89

Như vậy, dù là cách tính của Hoa Kỳ hay Liên Xô thì ta đều thấy số lượng vũ

khí hạt nhân tầm trung của hai nước đều ở mức cao.

Kế hoạch phát triển vũ khí tầm trung của Hoa Kỳ và Liên Xô năm trong kế

hoạch phát triển vũ khí hạt nhân của cả hai nước. Đối với Hoa Kỳ, vũ khí hạt nhân

tầm trung sẽ góp phần vào sự ổn định chiến lược giữa hai siêu cường và sẽ giúp bảo

vệ các đồng minh NATO ở châu Âu của mình. Do đó, vào cuối thập niên 1940, vũ

khí hạt nhân (chủ yếu là vũ khí hạt nhân tầm trung) đã được Hoa Kỳ tài trợ và các

nước NATO cài đặt trên lãnh thổ Tây Âu để nhằm chặn một cuộc tấn công phát

xuất từ Liên Xô. Sự phụ thuộc của NATO vào việc phát triển một chiến lược răn đe

hạt nhân nhằm để thay thế cho chi phí cao và nhân lực nhiều trong việc duy trì một

lực lượng quân sự quy ước. Lợi dụng ưu thế hạt nhân của Hoa Kỳ, chiến lược của

NATO là còn dựa trên các mối răn đe trả đũa hạt nhân hủy diệt của Hoa Kỳ để ngăn

chặn một cuộc tấn công từ Liên Xô vào các nước Tây Âu. Các loại vũ khí hạt nhân

đầu tiên của Hoa Kỳ cài đặt ở châu Âu là các tên lửa trên máy bay ném bom chiến

lược được bố trí ở Anh. Trong đầu những năm 1950, Hoa Kỳ triển khai vũ khí hạt

nhân chiến thuật ở châu Âu, mục đích là chống lại sự tinh nhuệ của lực lượng quy

ước Liên Xô [16, tr.108]. Cũng trong đầu những năm 1950, Liên Xô bắt đầu phát

triển vũ khí hạt nhân tầm trung của mình để bảo vệ an ninh cho chính họ, và vào

cuối thập kỷ này Liên Xô cũng đã cài đặt các tên lửa tầm trung SS – 4 và SS – 5 với

tầm bắn tương ứng là 2000 km và 4000 km ở phần lãnh thổ châu Âu của mình. Đến

giữa những năm 1960, có khoảng 600 SS – 4 và 100 SS – 5 đã được Liên Xô triển

khai. Nhận thức rằng Liên Xô đang giữ ưu thế về ICBM và để đáp trả với việc Liên

Xô cho triển khai số lượng lớn tên lửa tầm trung SS – 4 và SS – 5, Hoa Kỳ đã cho

triển khai tên lửa Thor và Jupiter vào năm 1959 có tầm bắn 2.500 km ở châu Âu,

cũng là để trấn an các đồng minh châu Âu của mình rằng Hoa Kỳ sẵn sàng bảo vệ

các đồng minh. Tuy nhiên các tên lửa này đã được tháo dỡ để giải quyết vụ khủng

hoảng tên lửa ở Cuba năm 1962. Chính việc làm này đã làm cho các nước NATO

nổi lên các cuộc tranh luận về tương lai của liên minh chiến lược với Hoa Kỳ. Họ

thấy rằng, Hoa Kỳ sẵn sàng đánh đổi để đạt được mối quan hệ tốt hơn với Liên Xô

[16, tr.108]. Còn Hoa Kỳ thì muốn đặt sự phòng thủ châu Âu vào lực lượng quy ước

90

nhiều hơn là lực lượng hạt nhân, các đồng minh châu Âu thì cho rằng việc xây dựng

hệ thống phòng thủ bằng vũ khí quy ước là quá tốn kém và sẽ trở thành gánh nặng

tài chính cho ngân sách quốc gia của họ. Tổng thống Pháp Chales de Gaulle là một

trong những người chỉ trích gây gắt lập trường này của Hoa Kỳ, ông tin rằng một sự

thay đổi lực lượng hạt nhân tầm trung bằng lực lượng quy ước trong kế hoạch

phòng thủ châu Âu như vậy sẽ chỉ làm xói mòn niềm tin vào chiến lược răn đe hạt

nhân của Hoa Kỳ và nghi ngờ rằng Hoa Kỳ sẵn sàng hy sinh Paris [16, tr.109].

Cuộc tranh luận lên đến đỉnh điểm khi Pháp quyết định rút khỏi Ủy ban Quốc

phòng của NATO năm 1967.

Các chính trị gia ở châu Âu nói rằng Hoa Kỳ đang tiến hành chính sách “phản

ứng linh hoạt” ở Châu Âu, và chính sách này thực tế là một sự thỏa hiệp với Liên

Xô. Họ lo ngại một cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu và hủy diệt nhắm vào họ phát

xuất từ Liên Xô và các nước khác trong khối Warsaw. Để trấn an, chính phủ Hoa

Kỳ cam kết rằng sẽ trợ giúp phòng thủ châu Âu bằng lực lượng hạt nhân tầm xa và

có thể là tên lửa hạt nhân liên lục địa. Và Hoa Kỳ cam kết 400 đầu đạn hạt nhân trên

tên lửa đạn đạo Poseidon đã được lắp đặt trên tàu ngầm hoạt động ở khu vực Đại

Tây dương gần với châu Âu để bảo vệ các đồng minh này.

Việc Anh, Pháp và Trung Quốc cũng đang phát triển lực lượng hạt nhân của

mình nửa đầu thập kỷ 60 đã khiến Liên Xô lo lắng. Tuy Hoa Kỳ đã dỡ bỏ các tên

lửa tầm trung ở châu Âu, nhưng hệ thống vũ khí hạt nhân trên các căn cứ chuyển

tiếp (FBS) đang bảo vệ châu Âu và việc Anh, Pháp cũng sỡ hữu vũ khí hạt nhân đã

làm Liên Xô lo lắng về an ninh lãnh thổ ở phần phí tây của mình, bên cạnh đó và

những năm đầu thập kỷ 1960 mối quan hệ Xô – Trung xấu đi nhanh chóng cùng với

việc Trung Quốc cũng đã sở hữu vũ khí hạt nhân khiến Liên Xô chú ý đến việc triển

khai thêm hệ thống tên lửa phòng thủ ở phần lãnh thổ phía đông của minh. Điều này

đã thúc đẩy Liên Xô tiến hành hiện đại hóa các tên lửa SS – 4 và SS – 5 ở lãnh thổ

châu Âu của mình và cài đặt tên lửa SS – 11 ở cả châu Âu và Viễn Đông.

Vấn đề hiện đại hóa và tăng cường lực lượng hạt nhân tầm trung được cả hai

bên đẩy mạnh hơn khi các đề nghị về cắt giảm nó của Liên Xô trong các cuộc đàm

phán về SALT I thất bại. Trong các cuộc đàm phán về SALT I, Liên Xô cho rằng

91

các loại vũ khí như máy bay ném bom tầm trung và tên lửa Poseidon được Hoa Kỳ

bố trí trên các tàu ngầm neo đậu gần lãnh thổ châu Âu nên được đưa vào danh sách

các vũ khí hạt nhân tấn công chiến lược vả phải được cắt giảm. Hoa Kỳ phản đối vì

nó không phải là hệ thống tên lửa liên lục địa.

Năm 1974, Liên Xô bắt đầu cho triển khai loại máy bay ném bom Bachfire. Sự

phát triển loại máy bay này, ở thời điểm mà Liên Xô đã đạt được thế cân bằng về vũ

khí hạt nhân với Hoa Kỳ, đã làm các nước NATO lo ngại về sự mất cân bằng ở

châu Âu và nghi ngờ về chiến lược răn đe hạt nhân của Hoa Kỳ. Sự nghi ngờ và lo

ngại càng tăng lên khi Liên Xô thay thế các tên lửa tầm trung SS – 4, SS – 5 bằng

tên lửa SS – 20 có tầm bắn 4000km, SS – 20 là một loại MIRV của Liên Xô. Liên

Xô đã cho cài đặt SS – 20 trên khắp lãnh thổ của mình từ Âu sang Á. Thủ tướng

Cộng hòa Liên bang Đức Helmut Schmidt là nhà lãnh đạo châu Âu đầu tiên công

khai lên án các mối đe dọa từ việc Liên Xô triển khai tên lửa SS – 20 và ông kêu gọi

NATO tằng cường thêm lực lượng hạt nhân tầm trung của mình.

Ngày 12.12.1979, các nước NATO nhất trí triển khai 464 tên lửa hành trình

phóng từ mặt đất (GLCM) và 108 tên lửa đạn đạo Pershing II. Pershing II là tên lửa

đạn đạo tầm trung có độ chính xác cao với tầm bắn 1.800 km, cao hơn tên lửa

Pershing IA chỉ có tầm bắn 700 km. Pershing II có thể tấn công các mục tiêu của

Liên Xô ở phần lãnh thổ châu Âu chỉ trong vòng khoảng 10 phút. Các tên lửa

GLCM cũng có độ chính xác cao với tầm bắn 2.500 km, cho phép tấn công các mục

tiêu sâu hơn trong lãnh thổ Liên Xô. Song song với tiến trình triển khai các tên lửa

tầm trung thế hệ mới (Pershing II và GLCM), NATO còn quyết định triệt thoái

khoảng 1000 đầu đạn của các loại vũ khí chiến thuật tầm ngắn. Đồng thời NATO hi

vọng việc triển khai các vũ khí hạt nhân tầm trung thế hệ mới sẽ thúc đẩy Liên Xô

ngồi vào bàn đàm phán với NATO để kiểm soát vũ khí hạt nhân tầm trung. Nhưng

Liên Xô chỉ muốn đàm phán về kiểm soát INF với Hoa Kỳ, Liên Xô biết rằng các

tên lửa thế hệ mới mà NATO đã triển khai phần lớn là của Hoa Kỳ.

Tháng 10.1979, Tổng bí thư Brezhnev công bố một loạt các sáng kiến kiểm

soát vũ khí, trong đó có cả việc Liên Xô sẽ hạn chế triển khai tên lửa SS – 20 nếu

NATO trì hoãn quyết định triển khai hệ thống tên lửa mới. Các tín hiệu này đã

92

không được Hoa Kỳ và các nước NATO đón nhận, đặc biệt khi Liên Xô đưa quân

vào Afganistan cuối 1979 thì tình hình lại càng xấu hơn.

Đến tháng 7.1980, Tổng bí thư Brezhnev bất ngờ loan báo rằng đã sẵn sàng

đàm phán bất cứ lúc nào vế INF. Hoa Kỳ cũng ngay lập tức chấp thuận. Các cuộc

đàm phán sơ bộ về INF bắt đầu vào giữa tháng 10.1980. Quan điểm của Hoa Kỳ,

cũng phản ánh quan điểm của NATO là thiết lập một trần quân bình cho các tên lửa

chiến thuật tầm trung của cả hai bên, nó gồm các tên lửa GLCM và Pershing II của

Hoa Kỳ, SS – 4, SS – 5 cũ, và SS – 20 của Liên Xô. Còn quan điểm của Liên Xô là

đóng băng ngay lập tức các loại tên lửa tầm trung mới được triển khai, trong đó có

máy bay ném bom F – 111 được bố trí ở Anh và các tàu sân bay ngoài Đại Tây

dương gần lãnh thổ châu Âu, kể cả việc đóng băng vũ kí hạt nhân chiến lược của

Anh và Pháp.

Các cuộc đàm phán sơ bộ bị ngưng trệ khi Hoa Kỳ bước vào kỳ bầu cử Tổng

thống vào tháng 10.1980. Khi Reagan lên thay Carter đứng đầu Nhà Trắng, ở giai

đoạn đầu, cũng là lúc phong trào phản đối vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ cài đặt ở

châu Âu của người dân châu Âu và của người dân Hoa Kỳ tăng cao và yêu cầu

chính phủ nhanh chóng thúc đẩy các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân đi

đến những kết quả cụ thể, ông đưa ra những mục tiêu chiến lược linh hoạt cho giải

quyến những bất đồng nhưng vẫn giữ nguyên quan điểm cứng rắn về vấn đề kiểm

soát vũ khí hạt nhân dưới thời Carter (chỉ thị PD 59).

Trong một động thái được xem là đầy thiện chí, có thể tác động để vị tổng

thống mới của Hoa Kỳ có thể thay đổi quan điểm về kiểm soát vũ khí hạt nhân,

Tổng bí thư Brezhnev vào cuối tháng 2.1981 trong Đại hội XXVI Đảng Cộng sản

Liên Xô, kêu gọi Hoa Kỳ cùng với Liên Xô tham gia đàm phán về các lực lượng hạt

nhân tầm trung đang được triển khai ở Tây Âu và vùng lãnh thổ châu Âu của Liên

Xô [16, tr.112]. Brezhnev nói: “Lệnh cấm này có thể có hiệu lực lập tức ngay sau

khi các cuộc đàm phán diễn ra và sẽ có hiệu lức vĩnh viễn khi hiệp ước được kí

kết...” [Dẫn lại theo 16, tr.112]. Tín hiệu này nhận được phản ứng tích cực từ Hoa

Kỳ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Alexader Haig và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô

93

Andrei Gromyko trong một cuộc gặp gỡ ngày 24.9.1981 đã loan báo rằng Hoa Kỳ

và Liên Xô bắt đầu đàm phán về INF ngày 30.11.1981 tại Geneva (Thụy Sĩ).

Tuy nhiên, các bất đồng lại nảy sinh ngay trong phiên đàm phán đầu tiên.

Brezhnev cho rằng cả Liên Xô và Tây Âu đã đạt đến một sự cân bằng khoảng 1000

vũ khí hạt nhân tầm trung các loại. Nhưng Tổng thống Reagan lại cho rằng Liên Xô

đang áp đảo về số vũ khí loại này. Sau đó ông trình bày một dự thảo cho các cuộc

đàm phán đang diễn ra. Theo dự thảo này Reagan đề nghị Hoa Kỳ sẵn sàng dỡ bỏ

các tên lửa Pershing II nếu Liên Xô dỡ bỏ tất cả các tên lửa SS – 4, SS – 5 và SS –

20. Cũng tại vòng đàm phán đầu tiên này, Brezhnev đề nghị giảm 2/3 số lượng vũ

khí hạt nhân tầm trung của NATO và hệ thống hạt nhân của Liên Xô. Như vậy sẽ

cắt giảm 600 trong tổng số 1000 vũ khí hạt nhân tầm trung mà mỗi bên có theo cách

tính của Liên Xô.

Brezhnev sau đó còn kêu gọi Hoa Kỳ, NATO và Liên Xô cùng loại bỏ hết vũ

khí hạt nhân chiến thuật tầm ngắn và tầm trung, trong đó có cả Anh và Pháp.

Brezhnev còn tuyến bố nếu Hoa Kỳ không đồng ý thì Liên Xô vẫn chủ động cắt

giảm vũ khí tầm trung của mình. Ngay lập tức, Tổng thống Reagan đã bác bỏ kế

hoạch này của Liên Xô và thông báo rằng Hoa Kỳ đã trình bày dự thảo về vấn đề

cắt giảm vũ khí hạt nhân tầm trung và muốn Liên Xô xem xét các đề nghị trong dự

thảo một cách nghiêm túc. Thông qua hãng thông tấn Tass, Liên Xô gọi dự thảo của

Reagan là vô lí. Vấn đề gây tranh cãi còn ở chỗ Liên Xô đề nghị cắt giảm tên lửa

hạt nhân ở châu Âu tính từ phía tây dãy Ural theo từng giai đoạn để đến năm 1990

các bên chỉ còn khoảng 300 vũ khí hạt nhân tầm trung. Hoa Kỳ xem đề xuất này là

không thể chấp nhận được vì nó không ngăn chặn nhiều tên lửa SS – 20 ở phần lãnh

thổ chấu Âu, trong khi sẽ cho phép triển khai không hạn chế SS – 20 ở châu Á

(phần lãnh thổ phía đông dãy Ural).

Như vậy, đến cuối vòng đàm phán thứ nhất tại Geneva, quan điểm của hai bên

là rất khác nhau: Hoa Kỳ tìm cách loại bỏ tất cả các tên lửa hạt nhân tầm trung trong

khi Liên Xô tìm cách ngăn chặn Hoa Kỳ triển khai tên lửa tầm trung ở châu Âu

nhưng không sẵn sàng từ bỏ tất cả tên lửa tầm trung của mình; Hoa Kỳ tìm cách hạn

chế vũ khí hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ và Liên Xô trong khi Liên Xô tìm cách

94

hạn chế lực lượng tầm trung của cả Anh và Pháp; Hoa Kỳ tìm cách giới hạn trên

toàn thế giới tên lửa tầm trung trong khi Liên Xô tìm cách chỉ giới hạn ở châu Âu

và Hoa Kỳ tìm cách chỉ hạn chế tên lửa tầm trung còn Liên Xô muốn hạn chế bao

gồm cả máy bay ném bom và phóng tên lửa hạt nhân [16, tr.114]. Sự khác biệt còn

ở chỗ Hoa Kỳ muốn có một hiệp ước vĩnh viễn còn Liên Xô chỉ muốn hiệp ước có

thời hạn đến năm 1990 sau đó sẽ gia hạn nếu thấy cần thiết.

Như một động thái để tháo gỡ các bế tắt đang gặp phải và để tỏ thiện chí của

Liên Xô, vào tháng 3.1982, Tổng Bí thư Brezhnev đã tuyên bố đơn phương đóng

băng các tên lửa SS – 20 mới trong phần lãnh thổ châu Âu của mình và tuyên bố

rằng một số tên lửa cũng sẽ được tháo gỡ trong năm 1982. Nhà Trắng và NATO

không hoan nghênh động thái này của Brezhnev vì cho rằng các tên lửa SS – 20 cài

đặt ở phía Đông dãy Ural cũng có thể bắn tới các mục tiêu ở Tây Âu.

Vòng đàm phán thứ hai diễn ra từ ngày 2.5 đến ngày 20.7.1982, Liên Xô đã có

một số thay đổi nhỏ và cuộc đàm phán đạt chút ít tiến bộ. Song song với các cuộc

đàm phán chính thức, hai bên cũng xúc tiến các cuộc gặp bí mật. Cuộc gặp gỡ giữa

hai vị trưởng đoàn đàm phán là Paul Nitze và Yuri Kvitsinsky trong một cuộc đi bộ

trong rừng vào tháng 7.1982 đã đưa ra một công thức cho cuộc đàm phán chính

thức với những quy định sau: Hoa Kỳ và Liên Xô đồng ý duy trì 225 tên lửa tầm

trung và máy bay ném bom ở châu Âu (bao gồm sườn phía đông của dãy Ural); giới

hạn mỗi bên có 70 bệ phóng tên lửa tầm trung ở châu Âu (bao gồm những bệ phóng

SS – 20 trên sườn phía đông của dãy Ural tại Veknyaya mà có thể phóng tới châu

Âu); Hoa Kỳ chỉ được phép duy trì tên lửa GLCM, Liên Xô được giới hạn 90 tên

lửa tầm trung ở vùng lãnh thổ châu Á; mỗi tên lửa đạn đạo của Liên Xô không được

có quá 3 đầu đạn hạt nhân, mỗi bệ phóng GLCM của Hoa Kỳ không được quá 4 tên

lửa, mỗi tên lửa chỉ mang một đầu đạn hạt nhân; các tên lửa tầm trung cũ sẽ bị phá

hủy; hạn chế số máy bay F – 111, FB – 111 của Hoa Kỳ, Backfire, Badger và

Blinder của Liên Xô; giới hạn các tên lửa tầm ngắn [16, tr.114 – 115]. Nhưng

những thỏa thuận này không nhận được sự ủng hộ từ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Các

chủ nhân của tòa nhà Pentagon không đồng ý với thỏa thuận này, Tổng thống

95

Reagan cũng thấy không thể thực hiện theo những quy định đó vì an ninh và lợi ích

cốt lõi của Hoa Kỳ [16, tr.115].

Sự mất lòng tin tăng lên cùng với đó là mối quan hệ giữa hai siêu cường ngày

càng xấu đi khi Hoa Kỳ nói rằng đã thu được bằng chứng cho thấy Liên Xô đang

cho triển khai tên lửa SS – 20 mới ở sườn phía đông của dãy Ural. Liên Xô phản đối

các cáo buộc này của Hoa Kỳ.

Khi Yuri Andropov lên thay Brezhnev, Brezhnev đột ngột qua đời, thì tiến

trình đàm phán về INF đã có những tia sáng mới. Andropov đưa ra đề xuất Liên Xô

sẽ cắt giảm 160 tên lửa SS – 20 đã bố trí ở châu Âu, số này bằng số tên lửa GLCM

và Pershing II của châu Âu và Pháp, đổi lại Hoa Kỳ phải cam kết không triển khai

mới khoảng 572 tên lửa GLCM và Pershing II. Ông cũng nói thêm rằng cần có một

hiệp ước cắt giảm đến mức tương đương tên lửa tầm trung và máy bay ném bom

của cả hai bên đang cài đặt ở châu Âu. Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei

Gromyko còn cam kết phá dỡ hoặc gỡ bỏ các tên lửa tầm ngắn hơn các tên lửa SS –

20, SS – 21, SS – 22, SS – 23 hoặc có thể di chuyên nó tới cài đặt ở vùng Siberia,

nơi Liên Xô cho rằng sẽ không bắn tới các mục tiêu ở châu Âu. Tuy nhiên thiện chí

này của Liên Xô cũng không được Hoa Kỳ và NATO đón nhận với một thái độ tích

cực nhất.

Sự nghi ngại lẫn nhau cùng với những diễn biến phức tạp trong năm 1983 đã

làm gia tăng căng thẳng mối quan hệ giữa hai siêu cường nói riêng và hai khối nước

nói chung. Ngày 1.9.1983, chiếc máy bay phản lực Jet SU – 15 của Liên Xô đã bắn

rơi một máy bay dân dụng của Hàn Quốc trên đường bay từ Alaska đến Seoul. Tất

cả 269 người gồm hành khách cùng thành viên phi hành đoàn đều thiệt mạng, trong

đó có 61 công dân Hoa Kỳ. Chính phủ Reagan ngay lập tức chỉ trích đó là hành

động man rợ, nhưng các xác minh sau đó của CIA và Liên Xô cho thấy đây là một

sự nhầm lẫn nhưng cũng đã dấy lên mối lo ngại về mối nguy có thể bấm nhầm nút

vào vũ khí hạt nhân và hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc. Một sự kiện khác tác động

đến sự căng thẳng trong vấn đề vũ khí hạt nhân giữa hai khối nước là vào tháng

11.1983, NATO tiến hành một cuộc diễn tập quân sự lớn ở châu Âu được gọi tên là

Able Archer. Moscow đã hiểu nhầm rằng đó báo hiệu bước đi đầu tiên trong cuộc

96

tấn công chống lại họ và Liên Xô đã chuẩn bị lực lượng hạt nhân để sẵn sàng đáp

trả. Mặc dù không có một cuộc chiến tranh hạt nhân nào diễn ra nhưng Tổng thống

Reagan vẫn cho rằng đó như là một cuộc chiến tranh hạt nhân suýt diễn ra “a

nuclear near miss”. Ông cho rằng sự kiện này khiến thế giới đứng bên bờ vực của

một cuộc chiến tranh hạt nhân [3, tr.109].

Tổng thống Reagan luôn bị ám ảnh bởi một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ hủy

diệt toàn thế giới, cùng với những sự kiện diễn ra trong năm 1983 đã làm thay đổi

suy nghĩ của tổng thống, ông đã đưa ra chính sách hòa dịu hơn đối với Moscow,

ông cực lực phản đối MAD và mong muốn đạt được kết quả trong các cuộc đàm

phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân với Liên Xô.

Ngày 16.1.1984 Tổng thống Reagan đã có bài phát biểu về quan hệ Hoa Kỳ -

Liên Xô thể hiện sự thay đổi chiến lược trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Trong bài phát biểu này Hoa Kỳ không đề cập Liên Xô là đối thủ của Hoa Kỳ...

Ông nhấn mạnh về những điểm chung của hai cường quốc như là khát vọng hòa

bình, mối quan tâm đến đói nghèo, bệnh tật...Ông không còn nhắc đến chủ nghĩa

bành trướng và sức mạnh quân sự của Liên Xô là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ nữa.

Ông nhấn mạnh đến hiểm họa của chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hạt nhân. Ông

thể hiện Hoa Kỳ muốn thấu hiểu và hợp tác với Liên Xô để cùng vượt qua những

khó khăn và nắm bắt các cơ hội hòa bình và cùng nhau giải quyết các vấn đề quốc

tế. Bài phát biểu này của Reagan đánh dấu sự thay đổi cuối cùng trong chính sách

chiến lược của Hoa Kỳ đối với Liên Xô. Chính sách này được thể hiện trong hội

nghị thượng đỉnh Geneva năm 1985, Hội nghị này được đánh giá là sự bắt đầu của

quá trình kết thúc chiến tranh Lạnh [3, tr.103 – 104]. Sau đó Reagan xúc tiến quá

trình cắt giảm vũ khí hạt nhân, ông kêu gọi trong một cuộc họp báo ngày

14.12.1983 rằng “chúng ta cần cấm vũ khí hạt nhân trên khắp thế giới này” [Dẫn

lại theo 3, tr.115]. Quyết định điều chỉnh chính sách đối ngoại của Reagan đối với

Liên Xô và đối với vấn đề giải trừ quân bị khiến cho các cuộc đàm phán về cắt giảm

vũ khí hạt nhân có triển vọng hơn.

Ngày 6.8.1985, Liên Xô tuyên bố đơn phương chấm dứt thử vũ khí hạt nhân

và kêu gọi Hoa Kỳ cùng cam kết chấm dứt các cuộc thử hạt nhân. Từ ngày 19 –

97

22.11.1985 đã diễn ra cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa Tổng thống Reagan và Tổng bí

thư Gorbachev tại Geneva để thảo luận về các vấn đề cơ bản trong quan hệ Hoa Kỳ

- Liên Xô và tình hình quốc tế. Hai bên nhất trí về sự cần thiết phải cải thiện quan

hệ song phương cũng như giảm căng thẳng trong các vấn đề quốc tế, góp phần làm

giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân, ngăn chặn chạy đua vũ trang trong vũ trụ và

cùng cam kết chấm dứt các cuộc chạy đua vũ trang trên mặt đất. Cuộc gặp gỡ này

đã tạo tiền đề cho sự giảm bớt căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước và thúc đẩy

các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân.

Ngày 15.1.1986, Tổng bí thư Gorbachev ra tuyên bố về chương trình xây dựng

một thế giới không vũ khí hạt nhân và đưa ra kế hoạch cắt giảm vũ khí hạt nhân

gồm ba giai đoạn. Giai đoạn I, trong vòng từ 5 đến 8 năm, Liên Xô và Hoa Kỳ sẽ

giảm 50% vũ khí hạt nhân có thể uy hiếp lẫn nhau, cùng cam kết không chế tạo, thử

nghiệm và triển khai vũ khí tiến công trên vũ trụ. Cũng trong giai đoạn này, hai bên

phải thủ tiêu hoàn toàn tên lửa tầm trung của họ ở khu vực châu Âu. Giai đoạn II, từ

đầu năm 1990, những nước khác có vũ khí hạt nhân bắt đầu tham gia vào quá trình

giải trừ vũ khí hạt nhân. Tất cả các nước có vũ khí hạt nhân sẽ phải chấm dứt các

cuộc thử nghiệm loại vũ khí hủy diệt này. Giai đoạn II, sẽ bắt đầu từ năm 1995,

hoàn thành việc thủ tiêu tất cả các loại vũ khí hạt nhân còn lại. Đến cuối năm 1999

vũ khí hạt nhân không còn tồn tại trên trái đất nữa. Đặc biệt sau thảm họa hạt nhân

Chernobyl năm 1986, Liên Xô đơn phương quyết định chấm dứt triển khai thêm các

loại tên lửa tầm trung và ngừng các cuộc thử hạt nhân [3, tr.115 – 116].

Sau một quá trình đàm phán khó khăn, cuối cùng Hiệp ước INF đã được Hoa

Kỳ và Liên Xô kí kết ngày 8.12.1987. Bản Hiệp ước gồm 17 điều khoản kèm theo

một bản ghi nhớ về các số liệu vũ khí được nhất trí hủy bỏ và hai nghị định thư về

cơ chế giám sát thực hiện bản hiệp ước. Trong lời nói đầu của bản hiệp ước, Hoa

Kỳ và Liên Xô cùng nhất trí rằng việc kí kết Hiệp ước INF là nhằm “củng cố sự ổn

định chiến lược, củng cố hòa bình và an ninh quốc tế, và giảm nguy cơ của một

cuộc chiến tranh hạt nhân” và khẳng định Hiệp ước INF phù hợp với Điều VI của

Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, tức là chấm dứt chạy đua vũ trang và giải

trừ quân bị. Nội dung chính của Hiệp ước INF quy định: 1. Hai bên sẽ loại bỏ tất cả

98

tên lửa tầm trung và tầm ngắn. Liên Xô sẽ hủy bỏ 331 tên lửa SS – 12, 11 tên lửa

SS – 4 bố trí trên phần lãnh thổ châu Âu của Liên Xô và một phần ở châu Á và hủy

bỏ từ 300 đến 350 tên lửa SS – 12, SS – 20 bố trí ở một số nước Đông Âu. Hoa Kỳ

sẽ hủy bỏ 108 tên lửa Pershing II và tên lửa GLCM bố trí ở Cộng hòa Liên bang

Đức, Anh, Italia và Bỉ, hủy bỏ 72 tên lửa Pershing II bố trí ở Cộng hòa Liên bang

Đức; 2. Hai bên không chuyển những tên lửa và bệ phóng các tên lửa trên sang

những hệ thống vũ khí khác, không chuyển nhượng nó cho nước thứ ba, không tiếp

tục nghiên cứu, sản xuất và triển khai chúng trên mặt đất; 3. Hai nước thực hiện các

biện pháp thanh sát nghiêm ngặt và có hiệu quả, mỗi bên được tiến hành các cuộc

thanh sát trong vòng 13 năm và các biện pháp riêng để xác minh; 4. Thời gian phá

hủy vũ khí tầm trung là 3 năm, ten lửa tầm ngắn là 18 tháng sau khi hiệp ước có

hiệu lực; 5. Hiệp ước INF có hiệu lực vĩnh viễn. Tuy nhiên mỗi nước thành viên có

quyền rút khỏi Hiệp ước trong trường hợp cần bảo vệ chủ quyền của mình nhưng

phải thông báo việc rút khỏi hiệp ước trước 6 tháng.

Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều đánh giá cao Hiệp ước INF, thể hiện trong tuyên

bố chung cấp cao Hoa Kỳ - Liên Xô ngày 10.12.1987 “Hiệp ước INF là một hiệp

ước lịch sử xét cả về mục tiêu lẫn tính chất mới mẻ và quy mô của những biện pháp

kiểm soát được quy định trong hiệp ước. Thành tựu chung đó là đóng góp rất quan

trọng vào việc củng cố sự ổ định” [3, tr.117]. Theo đánh giá của các học giả Hoa Kỳ

thì Hiệp ước INF thực sự là một Hiệp ước giải trừ quâ bị đầu tiên trong kỷ nguyên

hạt nhân vì nó đã đạt được việc hủy bỏ cả một loại vũ khí hạt nhân của hai siêu

cường. Tuy nhiên cũng không ít ý kiến đánh giá Hiệp ước INF còn nhiều hạn chế,

nó chỉ là hiệp ước mang tính chất tượng trưng hơn là thực tiễn vì nó chỉ cắt giảm

4% trong tổng số 50.000 vũ khí hạt nhân các loại của hai siêu cường. Về phía Liên

Xô, có ý kiến cho rằng Hiệp ước INF là cái giá quá đắt của Liên Xô, không chỉ hủy

bỏ toàn bộ SS – 20 cả ở châu Âu và lãnh thổ châu Á (để làm đối trọng với Nhật và

Trung Quốc) mà còn phá hủy loại tên lửa đắt tiền mà Liên Xô đã dày công nghiên

cứu là SS – 23. Những quan chức trong chính quyền Xô viết cho là Gorbachev đã

nhượng bộ quá nhiều, và chính những nhượng bộ trong quá trình kiểm soát vũ khí

99

hạt nhân nói riêng và giải trừ quân bị nói chung càng làm mâu thuẫn trong nội bộ

chính quyền Xô viết thêm sâu sắc [3, Tr.118].

Hiệp ước INF đã góp phần cải thiện đáng kể mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô,

giúp hai bên trở lại thời kỳ hòa dịu và giảm bớt sự đối đầu ở châu Âu. Sau Hiệp ước

INF, các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước diễn ra thường xuyên hơn. Sự hòa dịu

Hoa Kỳ - Liên Xô đã có tác động tích cực đến tiến trình giải quyết những xung đột

quốc tế, nơi Hoa Kỳ và Liên Xô cùng can thiệp. Đó là sự chấm dứt xung đột ở

Angola, vốn được xem là cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa một bên là Hoa Kỳ và

Nam Phi và một bên là Liên Xô và Cuba. Liên Xô rút quân khỏi Afganistan và Hoa

Kỳ cũng chấm dứt sự can thiệp của mình vào vùng này. Hai nước đã cùng với Liên

Hiệp Quốc tác động để chấm dứt chiến tranh Iran – Iraq, đưa hai nước đi vào

thương lượng hòa bình, giảm căng thẳng ở vùng Trung Đông. Mặc dù có những

đánh giá khác nhau về Hiệp ước INF, việc hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô kí Hiệp ước

này đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình cắt giảm vũ khí hạt nhân

chiến lược, mở đường cho các cuộc đàm phán để cắt giảm hơn nữa kho vũ khí hạt

nhân của hai siêu cường hạt nhân hàng đầu thế giới.

Tuy bản hiệp ước vẫn còn nhiều hạn chế nhưng không thể phủ nhận rằng nó

đã góp phần làm giảm bớt tình hình căng thẳng trong quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô và

quan hệ quốc tế. Không giống như Hiệp ước SALT II, Hiệp ước INF nhanh chóng

được hai nước thi hành nghiêm túc vì vậy hiệp ước này đã phần nào đáp ứng được

đòi hỏi thủ tiêu vũ khí hạt nhân và tiến tới giải trừ quân bị tiệt để của nhân dân yêu

chuộng hòa bình thế giới.

3.4. Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1991 (Strategic Arms

Reduction Treaty – START I)

Các vòng đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I (START I) bắt

đầu từ tháng 6.1982 dưới thời tổng thống Ronald Reagan. Trong cuộc vận động

tranh cử năm 1980, ứng cử viên tổng thống Ronald Reagan đã phản đối Hiệp ước

SALT II vì cho rằng Hiệp ước này không hạn chế tổng khối lượng vũ khí hạt nhân

và không đóng băng các tên lửa ICBM của Liên Xô. Tuy nhiên, khi là chủ nhân của

Nhà trắng, ông đã thông báo rằng trong khi chờ đợi chính phủ mới xem xét lại toàn

100

bộ chính sách kiểm soát vũ khí thì ông vẫn tôn trọng và không vi phạm các quy

định của SALT II nếu Liên Xô cũng làm như vậy.

Trong thông điệp quốc phòng năm 1981, Reagan đã kêu gọi tăng thêm 10%

ngân sách quốc phòng cho năm tới để củng cố thêm hệ thống phòng thủ chiến lược

và để làm giảm những nguy cơ đối với an ninh Hoa Kỳ phát xuất từ sự trội hơn về

lực lượng hạt nhân của Liên Xô [16, tr.58] và ông cũng nhấn mạnh rằng sẽ nổ lực

để chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân có kết quả cụ thể, để những biện pháp xác

minh việc thực hiện các thỏa thuận về kiểm soát vũ khí, ông nghi ngờ Liên Xô

không tuân thủ các thỏa thuận đã kí kết. Trước các áp lực của dư luận trong nước và

từ các đồng minh NATO của mình về vấn đề kiểm soát vũ khí, Tổng thống Reagan

trong tháng 11.1981 đã công bố rằng các cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến

lược sẽ bắt đầu từ năm sau. Ông nói rằng START I sẽ có mục tiêu giảm đáng kể vũ

khí hạt nhân chiến lược.

Khi Cuộc khủng hoảng Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan diễn ra vào đầu năm

1982, chính phủ Hoa Kỳ cho rằng cần “liên kết” các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ

khí với tổng thể các vấn đề của mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Chính quan

điểm này đã ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến sự trì hoãn tiến trình đàm phán về

START I. Tuy nhiên, đến tháng ba thì chính phủ Hoa Kỳ đã bị dư luận trong nước

gia tăng các áp lực để bắt đầu đàm phán về START I, và các đề xuất đóng băng hạt

nhân được đệ trình lên cả lưỡng viện của Quốc hội Hoa Kỳ.

Cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I đã được bắt đầu vào

ngày 29.6.1982 tại Geneva (Thụy Sĩ), các diễn biến phức tạp của tình hình thế giới

đã làm cho các cuộc đàm phán bị ngưng trệ. Sau đó, vào tháng 9.1982, trong một

phát biểu tại trường Eureka College, Tổng thống Reagan đã đề nghị trong giai đoạn

đầu của START cả Hoa Kỳ và Liên Xô sẽ giảm số đầu đạn hạt nhân trên hệ thống

các tên lửa hạt nhân được cài đặt trên đất liền và trên biển khoảng từ 5000 đến 8000

đầu đạn xuống còn một nửa. Ở giai đoạn II, các bên thỏa thuận về một trần chung

cho tổng khối lượng của tất cả các loại vũ khí hạt nhân. Tổng thống Reagan cho biết

mục tiêu của Hoa Kỳ là tăng cường răn đe và đạt được sự ổn định khi giảm đáng kể

các hệ thống gây bất ổn nhất là tên lửa đạn đạo, tên lửa đạn đạo liên lục địa trong

101

khi vẫn duy trì một lực lượng hạt nhân đủ để ngăn chặn xung đột và bảo vệ các

đồng minh. Máy bay ném bom chiến lược không được Tổng thống Reagan đưa vào

các quy định cắt giảm của START vì theo ông, giữa hai giai đoạn của cuộc đàm

phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, Hoa Kỳ đã sẵn sàng chuẩn bị để đối phó với

máy bay ném bom và tên lửa hành trình của Liên Xô [16, tr.59].

Ngày 18.5.1982 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev tuyên bố rằng

Liên Xô đã sẵn sàng đàm phán với Hoa Kỳ về START, ông còn cho rằng các đề

xuất cắt giảm vũ khí chiến lược của Hoa Kỳ là còn quá đơn giản và còn đề nghị

mạnh dạng đưa vào lệnh cấm nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí chiến lược

mới. Và Brezhnev cũng kêu gọi đóng băng hạt nhân ngay khi các cuộc đàm phán

bắt đầu.

Trong khi các cuộc đàm phán về START I đang bắt đầu ở Geneva, các thành

viên lưỡng viện Hoa Kỳ thảo luận sôi nổi về các chương trình hiện đại hóa vũ khí

hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ và cách thức kiểm soát vũ khí hạt nhân mà làm sao

vẫn giữ được thế cân bằng chiến lược về hạt nhân với Liên Xô. Phần lớn các ý kiến

đều không đồng ý với việc đóng băng tên lửa hạt nhân chiến lược thế hệ mới MX

(một loại ICBM mới), thượng nghị sĩ William Cohen cũng bắt đầu những nổ lực

của mình để huy động các thành viên quốc hội Hoa Kỳ phản đối đề xuất đóng băng

hạt nhân và đưa ra các đề xuất kiểm soát vũ khí mà vẫn cho phép hiện đại hóa vũ

khí chiến lược của Hoa Kỳ, ông còn đề xuất một biện pháp vừa đảm bảo cắt giảm

vũ khí chiến lược vừa đảm bảo hiện đại hóa là đổi sự cắt giảm 2 đầu đạn hạt nhân

chiến lược cũ bằng việc bổ sung một đầu đạn hạt nhân chiến lược mới [16, tr.61].

Đề xuất này nhận được nhiều ý kiến trái chiều.

Trong một nỗ lực để nghiên cứu đưa ra các đề xuất kiểm soát vũ khí chiến

lược phù hợp với yêu cầu đảm bảo sự cân bằng hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ và

để xem xét các chương trình hiện đại hóa vũ khí hạt nhân chiến lược, đặt biệt là

tương lai của hệ thống ICBM trên mặt đất, tháng 1.1983, Tổng thống Reagan đã cho

thành lập Ủy ban đặt biệt về vũ khí chiến lược do Brent Scowcroft đứng đầu. Ngày

6.4.1983, Ủy ban đã trình lên Tổng thống Reagan một bản báo cáo, bản báo cáo đề

xuất triển khai 100 tên lửa MX để thay dần các ICBM thế hệ cũ; bắt đầu chương

102

trình thiết kế kỹ thuật một loại ICBM với đầu đạn hạt nhân nhỏ (gọi là

Midgetman); đề xuất các thỏa thuận kiểm soát vũ khí bằng cách giảm các đầu đạn

hạt nhân lắp đặt trên tên lửa. Báo cáo còn khuyến khích hai bên giảm kích thước

của các đầu đạn hạt nhân [16, tr.61]. Tổng thống Reagan mặc dù đề nghị sửa đổi

báo cáo cho phù hợp với những đề xuất đang thảo luận ở cuộc đàm phán về

START, ông đã thông qua báo cáo và thúc giục Quốc hội nhanh chóng cho triển

khai MX, các thành viên phản đối báo cáo trong quốc hội cho rằng họ sẽ cho triển

khai MX nếu chính phủ thúc đẩy nhanh hơn tiến trình đàm phán về START và tài

trợ cho chương trình Midgetman. Tổng thống Reagan sau đó cam kết tạo những

điều kiện thuận lợi để cuộc đàm phán START tiến triển nhanh, sau đó Quốc hội

cũng thông qua kinh phí cho việc nghiên cứu và phát triển tên lửa MX.

Về tên lửa MX trong đàm phán START, Tổng thống Reagan cũng nói rằng

ông đã chỉ đạo cho các nhà đàm phán Hoa Kỳ ở Geneva linh hoạt hơn trong nổ lực

để có một thỏa thuận mà MX không bị đưa vào danh mục các vũ khí hạt nhân bị cắt

giảm.

Ở cuộc đàm phán START, Liên Xô đề nghị mỗi bên cắt giảm xuống chỉ còn

850 tên lửa đạn đạo, còn quan điểm của Hoa Kỳ là duy trì ở mức trần là 1.250. Về

vấn đề tổng khối lượng vũ khí hạt nhân, Tổng thống Reagan cho rằng có thể xác

định được bằng cách đếm số tên lửa và đầu đạn hạt nhân.

Vào giữa tháng 7.1983, Hoa Kỳ đã đưa ra một dự thảo với những đề xuất mới

ở cuộc đàm phán về START, theo đó quy định mức trần số tên lửa các loại của mỗi

nước không quá 5000, trong đó số tên lửa cài đặt trên đất liền không quá 2.500,

khoảng 1.250 tên lửa đạn đạo, 400 máy bay ném bom chiến lược (trong đó có máy

bay Backfire của Liên Xô), giới hạn khoảng 20 tên lửa hành trình cho mỗi loại máy

bay ném bom chiến lược. Dự thảo cũng đưa ra phương pháp tiếp cận mới để hạn

chế tổng trọng lượng vũ khí hạt nhân của hai nước, theo đó ba cách tiếp cận mới là:

1. Hạn chế tên lửa hạng nặng và trung bình; 2. Quy định mức trần tổng khối lượng

tên lửa đạn đạo (Hoa Kỳ đưa ra mức 1.800 tấn so với 5.600 tấn của Liên Xô); 3. Có

thể đề nghị Liên Xô giảm tổng khối lượng vũ khí hạt nhân của mình [16, tr.62 –

63]. Báo cáo này sau đó được trình bày chi tiết hơn tại cuộc đàm phán START đang

103

diễn ra. Liên Xô cũng đề nghị cấm tên lửa Trident II của Mỹ, tên lửa hành trình trên

máy bay có tầm bắn khoảng 600 km, cho phép triển khai từ 4 đến 6 loại tên lửa

Trident mới và hạn chế số tên lửa trên mỗi tàu ngầm là 16. Liên Xô còn đề nghị vẫn

duy trì các tên lửa trên mặt đất và trên biển có tầm bắn 600km.

Các đề nghị của Hoa Kỳ và Liên Xô khiến cả hai bên đều không hài lòng, Liên

Xô cho rằng đó là một đề nghị bất bình đẳng. Còn Hoa Kỳ vẫn không muốn nhượng

bộ thêm trong đàm phán, sau đó cuộc đàm phán lâm vào bế tắc và tạm thời ngưng

lại. Sau đó Quốc hội Hoa Kỳ hoài nghi các cam kết của chính quyền về kiểm soát

vũ khí và triển khai MX, khi một máy bay dân dụng của Hàn Quốc bị Liên Xô bắn

rơi thì sự hoài nghi đó vẫn không giảm. Để xóa tan sự hoài nghi đó và để tháo gỡ

các khó khăn làm ngưng trệ các cuộc đàm phán về START, ngày 4.10.1983, Tổng

thống Reagan đã đưa ra các điều chỉnh theo hướng hạ xuống thêm các loại vũ khí

chiến lược được cắt giảm. Theo đó tổng số đầu đạn của tất cả các tên lửa giảm

xuống còn khoảng 5000 đầu đạn và hàng năm giảm khoảng 5% trong tổng số các

đầu đạntên lửa, cụ thể là giảm 2 đầu đạn cũ của tên lửa tự tách MIRV để tăng thêm

một đầu đạn mới, 3 đầu đạn hạt nhân cũ để đổi 2 đầu đạn hạt nhân mới của tên lửa

cài đặt trên tàu ngầm hạt nhân và một đổi một cho tên lửa ICBM trên đất liền [16,

tr.64]. Ngoài ra Tổng thống Reagan nói rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chuẩn bị để thảo luận

việc cắt giảm máy bay ném bom và hạn chế bổ sung các tên lửa hành trình trên máy

bay ném bom. Quốc hội Hoa Kỳ ngay lập tức lên tiếng ủng hộ và xem hành động

này của Tổng thống Reagan là một đỗng thái tích cực trong quá trình kiểm soát vũ

khí.

Ngày 31.10.1983, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối sửa đổi luật hỗ trợ đóng băng

hạt nhân toàn diện. Liên Xô ngay lập tức phản ứng, thông qua hãng thông tấn Tass,

Liên Xô cho rằng những đề xuất của Reagan và việc thượng viện bác bỏ dự luật hỗ

trợ đóng băng hạt nhân toàn diện là một mưu đồ để Hoa Kỳ triển khai tên lửa MX

và tên lửa tầm trung ở châu Âu. Sau đó đề nghị một giải pháp đóng băng hạt nhân

toàn diện tại Liên Hiệp Quốc, đề nghị này phù hợp với các đề xuất của Liên Xô tại

Geneva.

104

Pravda, trong một bài xã luận, đã cho rằng các đề xuất của Hoa Kỳ là hoàn

toàn một chiều vì nó chỉ nhằm mục đích chủ yếu là để giảm số lượng và sức mạnh

hủy diệt của tên lửa ICBM (loại tên lửa mà Liên Xô có ưu thế). Trong lực lượng hạt

nhân chiến lược của Liên Xô thì ICBM chiếm 70%, còn Hoa Kỳ chỉ chiến 20%, do

đó Pravda cho rằng đề xuất của Hoa Kỳ nhằm làm suy yếu Liên Xô mà trong khi

cho phép Hoa Kỳ phát triển hơn nữa hệ thống vũ khí hạt nhân chiến lược của mình.

Do đó, tại Geneva, phái đoàn Liên Xô không muốn tiếp tục đàm phán vì thấy ICBM

của Liên Xô bị cắt giảm quá mức.

Vào cuối vòng năm của cuộc đàm phán START, cùng với những bế tắc đàm

phán INF, phái đoàn Liên Xô đơn phương ngưng và không hẹn ngày nối lại các

cuộc đàm phán với Hoa Kỳ. Hành động này của Liên Xô còn bị tác động bởi việc

Hoa Kỳ cho triển khai tên lửa Pershing II ở châu Âu, Liên Xô gọi hành động này sẽ

làm thay đổi “tổng thể tình hình chiến lược” mà Liên Xô cần xem xét lại. Tổng

thống Reagan hi vọng các nhà đàm phán Liên Xô sẽ chủ động trở lại bàn đàm phán

vào năm 1984. Nhưng đã không có một cuộc gặp gỡ trở lại nào giữa hai nước trong

năm 1984 và đến trước tháng 11.1985.

Chỉ sau cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa Tổng thống Hoa Kỳ Reagan và Tổng bí

thư đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev tháng 11.1985 thì quan hệ Hoa Kỳ - Liên

Xô mới tốt đẹp hơn và triển vọng nối lại các cuộc đàm phán về START và INF mới

sáng sủa. Và chỉ cuối năm là hai nước đã nối lại đàm phán. Lần này nước chủ động

là Liên Xô. Là người trẻ nhất được bầu lên vị trí lãnh đạo tối cao của Đảng và Nhà

nước Xô Viết, Gorbachev được kỳ vọng sẽ đưa Liên Xô thoát khỏi tình trạng khủng

hoảng trong nước về mọi mặt và cải thiện quan hệ với phương Tây. Với tư duy và

nhận thức mới, Gorbachev đã đề ra quan điểm và chính sách đối ngoại có nhiều

điểm mới, kèm theo những khó khăn trong nước đang gặp phải Gorbachev mong

muốn nối lại các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân với Hoa Kỳ.

Ông đưa ra Chương trình giải trừ vũ khí hạt nhân đến năm 2000 và chương

trình này được công bố vào ngày 15.1.1985 [1, tr.1167- 1168]. Về phía Hoa Kỳ,

việc cắt giảm kho vũ khí hạt nhân chiến lược của Liên Xô ở giai đoạn này có một ý

nghĩa lớn lao. Liên Xô đang khủng hoảng và có nguy cơ tan rã, do đó nó sẽ làm cho

105

vũ khí hạt nhân chiến lược dễ phổ biến rộng rãi hơn, nếu kỹ thuận hạt nhân của Liên

Xô rơi vào nhiều nước cũng là đối thủ của Hoa Kỳ thì sẽ rất nguy hiểm và đe dọa

cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Do đó Hoa Kỳ cũng muốn nhanh chóng nối lại

các cuộc đàm phán và đi đến kí kết START I. Việc kí hiệp ước INF năm 1987 đã

thúc đẩy tiến trình đàm phán về START. Đến tháng 5.1989, hai bên đã tiến hành

được 11 vòng đàm phán, đạt được thỏa thuận về nguyên tắc giảm 50% vũ khí chiến

lược và ủy quyền cho các nhà thương lượng xây dựng hiệp ước về hạn chế và cắt

giảm loại vũ khí này. Các nhà thương lượng của hai nước đã dự thảo được 5 văn

kiện, bao gồm hiệp ước cắt giảm 50% kho vũ khí hạt nhân chiến lược; một bị vong

lục thỏa thuận về số liệu ban đầu của các loại vũ khí được đưa vào danh mục cắt

giảm; ba nghị định thư về giảm bớt trọng lượng của tên lửa đạn đạo, về thanh tra

việc thi hành hiệp ước và về việc chế tạo lại hoặc hủy bỏ các phương tiện điều khiển

vũ khí hạt nhân. Tại vòng đàm phán thứ 11, hai bên tiếp tục xác định giới hạn số

lượng tên lửa hành trình tầm xa đặt trên biển, vấn đề hạn chế máy bay ném bom

hạng nặng và tên lửa hành trình đặt trên máy bay. Điều đáng lưu ý là ở thời điểm

này, tuy số lượng vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Liên Xô đã được cắt giảm theo

Hiệp ước INF, nhưng tổng số vũ khí hạt nhân trong kho vũ khí hạt nhân của hai

nước tính đến năm 1990 vẫn còn trên 58.000, số lượng đầu đạn hạt nhân chiến lược

của Hoa Kỳ và Liên Xô vẫn còn rất lớn.

Bảng 3.1. Số lượng đầu đạn hạt nhân trên các loại vũ khí hạt nhân chiến

lược của Hoa Kỳ và Liên Xô năm 1990

Tên lửa đạn đạo Tên lửa Máy bay ném

liên lục địa phóng từ tàu bom hạng Tổng cộng

Nước (ICBM) ngầm nặng các loại

(SLBM)

Hoa Kỳ 2.450 5.760 2.350 10.563

Liên Xô 6.612 2.804 855 10.271

Nguồn: [Dẫn lại theo 31, tr.225]

106

Ngày 3.7.1991, Hoa Kỳ và Liên Xô kí hiệp ước START I tại Moscow. Hiệp

ước gồm 19 điều khoản, kèm theo một Bản ghi nhớ, các nghị định thư và phụ lục.

Sau khi lưu ý về tính chất hủy diệt của một cuộc chiên tranh hạt nhân đối với loài

người, Hiệp ước START I nêu rõ mục đích của văn kiện là đưa ra “các biện pháp

cắt giảm vũ khí hạt nhân tiến công chiến lược để giảm bớt nguy cơ chiến tranh hạt

nhân, củng cố hòa bình và an ninh của thế giới” (the measures for the reduction and

limitation of strategic offensive arms and the other obligations set forth in this

Treaty will help to reduce the risk of outbreak of nuclear war and strengthen

international peace and security) [61].

Nội dung chính của Hiệp ước START I bao gồm: 1. Sau khi cắt giảm, mỗi bên

được duy trí 1600 các loại tên lửa ICBM, SLBM, tên lửa hành trình trên máy bay

ném bom chiến lược, được phép duy trì 6000 đầu đạn hạt nhân các loại; 2. Thời hạn

cho việc cắt giảm các loại tên lửa và đầu đạn hạt nhân là 7 năm kể từ khi hiệp ước

có hiệu lực và được chia làm ba giai đoạn; 3. Tổng khối lượng các loại tên lửa đạn

đạo sau khi cắt gảm không vượt quá mức 3.600 tấn; 4. Hoa Kỳ được phép duy trì

150 máy bay ném bom hạng nặng, mỗi máy bay được trang bị 10 tên lửa hành trình

tầm xa, con số tương ứng của Liên Xô là 180 và 8; 5. Hai bên không được phép

hiện đại hóa hoặc thay thế các loại vũ khí hạt nhân tiến công chiến lược được quy

định trong Hiệp ước START I; 6. Các bên tham gia hiệp ước không được phép di

chuyển các bệ phóng tên lửa vượt quá giới hạn cho phép của khu vực triển khai tên

lửa là 125.000 km; 7. Các bên tham gia hiệp ước sử dụng các trung tâm hạn chế rủi

ro hạt nhân của mình để tiếp nhận và cung cấp thông tin cho đối tác của Hiệp ước

START I khi cần thiết; 8. Các bên tham gia hiệp ước trao đổi cho nhau những thông

tin kiểm tra việc hủy bỏ vũ khí hạt nhân của mình theo quy định về kiểm tra của

Hiệp ước START I; 9. Thành lập Ủy ban kiểm tra hỗn hợp để kiểm tra việc thực

hiện hiệp ước của các nước thành viên; 10. Hiệp ước START I có giá trị trong vòng

15 năm, có thể được xem xét lại năm năm một lần. Các nước thành viên có quyền

rút khoải Hiệp ước START I nhưng phải báo trước 6 tháng nếu thấy quyền lợi tối

thượng của quốc gia mình bị xâm hại.

107

Đại sứ Liên Xô tại Hoa Kỳ, Anatoli Dobrynin, Hiệp ước START I là sự

nhượng bộ của Gorbachev, việc ký kết văn kiện về cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến

lược đã góp phần gây tổn hại đến an ninh của Liên Xô [1, tr.1221 – 1222]. Trong

khi đó Hiệp ước START I có lợi rất nhiều cho Hoa Kỳ, cơ cấu lực lượng hạt nhân

của Hoa Kỳ với hạm đội tàu ngầm giữ vai trò chủ đạo vẫn giữ nguyên mặc dù tên

lửa ICBM có giảm đi...Hơn nữa, Hiệp ước START I không hề ràng buộc các bên

tham gia phải tuân thủ Hiệp ước ABM năm 1972, điều này đã tạo điều kiện cho Hoa

Kỳ tái triển khai chương trình Sáng kiến phòng thủ chiến lược [3, tr.227]. Mặc dù

vậy, việc kí kết Hiệp ước START I là một bước tiến mới trong kiểm soát vũ khí hạt

nhân và giải trừ quân bị trên thế giới. Tổng thống Hoa Kỳ G. Bush đánh giá rằng

“hiệp ước này sẽ không cho phép bên nào đơn phương chiếm ưu thế. Việc kí kết

hiệp ước này không chỉ có lợi cho Hoa Kỳ và Liên Xô mà cón có lợi cho cả ác dân

tộc trên thế giới” [Dẫn lại theo 3, tr.227].

Sau khi kí START I, Chính quyền Tổng thống G.Bush đã từng bước thực hiện

những cam kết trong bản Hiệp ước. Từ tháng 9.1991, Hoa Kỳ tiến hành rút vũ khí

hạt nhân đã được bố trí ở một số nước đồng minh. Ngày 27.9.1991, Tổng thống

G.Bush tuyên bố rút vũ khí hạt nhân được bố trí trên mặt đất khỏi Hàn Quốc và

đơn phương cắt giảm đại bộ phận vũ khí hạt nhân tầm ngắn, chủ yếu là đầu đạn và

tên lửa đặt tại châu Âu. Tổng thống Bush cũng đề nghị Hoa Kỳ và Liên Xô cùng

hủy bỏ phần lớn việc triển khai các loại tên lửa hạt nhân chiến thuật của hai nước.

Ông cũng tuyên bố Hoa Kỳ sẽ hủy bỏ tất cả các loại đạn pháo hạt nhân và đầu đạn

tên lửa hạt nhân tầm ngắn. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng sẽ dỡ bỏ các đầu đạn hạt nhân

không thuộc loại chiến lược được lắp đặt trên các tàu chiến, tàu ngầm và máy bay

của hải quân. Liên Xô hoan nghênh những đề nghị này của Hoa Kỳ. Ngày

5.11.1991, Tổng thống Liên Xô Gorbachev tuyên bố Liên Xô cũng sẽ hủy bỏ tấn cả

các loại đạn pháo hạt nhân, các đầu đạn hạt nhân dùng cho tên lửa chiến thuật và

các loại mìn hạt nhân [3, tr.229].

108

Tiểu kết chương 3

Như vậy, trong giai đoạn 1977 – 1991 chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân

của Hoa Kỳ cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Hoa Kỳ luôn gắn vấn đề

kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề chính trị khác, điều này dễ thấy khi Quốc

hội Hoa Kỳ đã không phê chuẩn Hiệp ước SALT II khi Liên Xô đưa quân vào

Afganistan, mãi đến năm 1985, SALT II mới được phê chuẩn. Hơn nữa, Hiệp ước

SALT II được đánh giá là có lợi nhiều cho Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã đạt được mục đích

giảm được những “kẽ hở” như ở Hiệp ước SALT I. Việc thất bại trong việc tìm

kiếm một hiệp ước chống vệ tinh là kết quả của những bất đồng mà hai nước không

giải quyết được. Tuy nhiên, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều tôn trọng một thỏa thuận

đơn phương để phi hạt nhân hóa vũ trụ và bảo vệ các vệ tinh đang hoạt động cho

các mục đích phi quân sự ngoài vũ trụ. Bên cạnh đó, việc kí kết Hiệp ước INF và

START I cũng là một thành công rất lớn trong chính sách của kiểm soát vũ khí hạt

nhân của Hoa Kỳ. Do những quan điểm đối ngoại mới mà Gorbachev đã thúc đẩy

nhanh tiến trình kí kết INF và START I, Hoa Kỳ đã hoan nghênh điều đó và cũng

sẵn sàng cùng Liên Xô cắt giảm kho vũ khí hạt nhân của mình.

109

KẾT LUẬN

Vào thời điểm từ khi vũ khí hạt nhân ra đời đến trước cuộc Khủng hoảng tên

lửa Cuba, những tiếng nói của các nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ đã không ngớt

vang lên nhằm kiểm soát loại vũ khí hủy diệt mà chính họ đã nghĩ ra – vũ khí hạt

nhân. Nhưng những tiếng nói đó không được chính quyền Washington lắng nghe và

thực hiện vì họ đang có những tính toán khác nhau cho loại vũ khí mới này trong

chiến lược an ninh của mình. Trong chính giới Hoa Kỳ cũng có nhiều đề nghị để

kiểm soát ngay vũ khí hạt nhân nhằm tránh cho nó tăng lên về số lượng và lan rộng

ra về sự sở hữu, nhưng họ cũng không nhận được những tín hiệu tích cực từ nước

đã cùng họ sở hữu vũ khí hạt nhân – Liên Xô. Hàng loạt các vấn đề phức tạp trong

quan hệ quốc tế phát sinh từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai đã làm tình hình quốc

tế trở nên khá căng thẳng, hậu quả là xuất hiện Chiến tranh Lạnh và hai khối nước

đối đầu với nhau. Sự căng thẳng này đã làm cho vấn đề kiểm soát vũ khí bị lu mờ

và chẳng có kết quả gì, thậm chí nó còn đẩy nhân loại đứng bên bờ vực của một

cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt từ Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.

Có lẽ đứng ở ngưỡng cửa của sự tự hủy diệt người ta mới điềm tĩnh và có

những suy nghĩ sáng suốt được. Ý thức về sự hủy diệt nếu một cuộc chiến tranh hạt

nhân diễn ra sau Cuộc khủng hoảng Cuba, các nhà lãnh đạo của hai siêu cường Hoa

Kỳ và Liên Xô mới thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt

nhân. Do đó, trong giai đoạn 1963 – 1976, hai bên đã đạt được nhiều hiệp ước về

kiểm soát vũ khí hạt nhân. Những Hiệp ước này góp phần làm giảm đi cường độ

của cuộc chạy đua vũ, nhất là chạy đua vũ khí hạt nhân và cũng góp phần to lớn vào

việc giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và giải trừ quân bị. Ở một khía cạnh nào đó

nó ngăn cản sự vượt trội hơn của Liên Xô về vũ khí hạt nhân so với Hoa Kỳ và

củng cố hơn nửa thế cân bằng ổn định chiến lược giữa hai quốc gia. Việc kí kết

Hiệp ước LTBT đã góp phần vào vệc ngăn cản các quốc gia khác sở hữu vũ khí hạt

nhân, lúc này chỉ có Hoa Kỳ và Liên Xô mới có đủ kỹ thuật để thử hạt nhân trong

lòng đất. Hiệp ước OST thì đem đến một sự an toàn cho không gian vũ trụ trong

thời đại hạt nhân. Còn Hiệp ước NPT đã góp phần ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí

110

hạt nhân trên toàn thế giới. Hiệp ước SALT I đã cắt giảm được một phần kho vũ khí

chiến lược của hai nước, đây là bước đi quan trong trong quá trình kiểm soát vũ khí

hạt nhân và giải trừ quân bị của hai nước và từ sau SALT I quan hệ giữa hai nước

đã tốt lên nhiều và hai nước đã tạo cơ sở cho sự tin cậy lẫn nhau trong việc giải

quyết những vấn đề quan hệ giữa hai nước và những vấn đề quốc tế. Chính vì vậy,

sau SALT I, hai nước đã kí nhiều văn kiện chung nhằm cải thiện quan hệ, trong đó

có các văn kiện về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hai Hiệp ước TTBT và PNE được kí

kết trong bối cảnh đó. Hoa Kỳ cũng gắn chặt vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với

các vấn đề chính trị khác, điển hình như ngày 1.7.1968, khi kí kết Hiệp ước NPT,

Tổng thống Johnson đã loan báo rằng cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý ngồi vào

bàn đàm phán về vấn đề hạn chế và cắt giảm vũ khí hạt nhân phòng thủ và tiến công

chiến lược “trong tương lai gần nhất” (in the nearest future). Cả Hoa Kỳ và Liên Xô

đều loan báo rằng ngày 30.9.1968 sẽ là ngày bắt đầu đàm phán, thế nhưng, khi Liên

Xô đưa quân vào Tiệp Khắc ngày 21.8.1968, Hoa Kỳ đã tuyên bố hoãn các cuộc

đàm phán vô thời hạn. Tuy vậy, việc Hoa Kỳ đàm phán và kí kết các hiệp ước về

kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn này đã góp phần đáng kể vào sự hòa dịu trong

quan hệ quốc tế, tạo điều kiện để tiếp tục đàm phán và kí kết những hiệp ước về

kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn kế tiếp.

Trong giai đoạn 1977 – 1991 chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa

Kỳ cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Thêm một lần nữa, Hoa Kỳ gắn vấn

đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề chính trị khác, khi Quốc hội Hoa Kỳ đã

không phê chuẩn Hiệp ước SALT II khi Liên Xô đưa quân vào Afganistan, mãi đến

năm 1985, SALT II mới được phê chuẩn. Hiệp ước SALT II được đánh giá là có lợi

nhiều cho Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã đạt được mục đích giảm được những “kẽ hở” như ở

Hiệp ước SALT I. Việc thất bại trong việc tìm kiếm một hiệp ước chống vệ tinh là

kết quả của những bất đồng mà hai nước không giải quyết được. Tuy nhiên, cả Hoa

Kỳ và Liên Xô đều tôn trọng một thỏa thuận đơn phương để phi hạt nhân hóa vũ trụ

và bảo vệ các vệ tinh đang hoạt động cho các mục đích phi quân sự ngoài vũ trụ.

Bên cạnh đó, việc kí kết Hiệp ước INF và START I cũng là một thành công rất lớn

trong chính sách của kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ. Do những quan điểm

111

đối ngoại mới mà Gorbachev đã thúc đẩy nhanh tiến trình kí kết INF và START I,

Hoa Kỳ đã hoan nghênh điều đó và cũng sẵn sàng cùng Liên Xô cắt giảm kho vũ

khí hạt nhân của mình.

Những hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân mà Hoa Kỳ đã kí kết với Liên Xô

trong giai đoạn 1963 – 1991 cũng góp phần rất lớn vào những cố gắng của nhân loại

nhằm hạn chế vũ khí hạt nhân, tiến đến giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và bảo

vệ nền hòa bình, an ninh cho nhân loại. Nó cũng là động lực để thúc đẩy Hoa Kỳ và

Liên bang Nga tiếp tục đàm phán để tiến tới thủ tiêu vũ khí hạt nhân trong các giai

đoạn tiếp theo.

112

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Anatôli Đôbrưnhin, Đặc biệt tin cậy : Vị đại sứ ở Oasinhtơn qua sáu đời tổng

thống Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2001.

2. Chu Vĩnh Tài, Tào Hồng, Thế giới sẽ ra sao, Nxb Công an nhân dân, H., 2001.

3. Đặng Thị Hoài, Vấn đề vũ khí hạt nhân trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ

1945 – 2009, Đề tài khoa học cấp trường, ĐHSPTPHCM, 2012.

4. Hugh Brogan, Hồ sơ quyền lực Kennedy, Nxb Tri thức, H., 2008.

5. Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu trong Chiến tranh Lạnh

(1949 - 1991), Khoa Lịch sử, ĐHSP TP.HCM, 2011.

6. Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ Hai

(Tập 1: 1945 - 1975), Nxb ĐHSP TPHCM, TPHCM., 2009.

7. Nguyễn Thế Tài, Marie Curie – Một đời hi sinh cho khoa học, Nxb Tổng hợp

TPHCM, TPHCM., 2011.

8. Nguyễn Thị Thanh Thủy , Hoa Kỳ với vấn đề vũkhí hạt nhân trong hơn nửa thế

kỷ qua (1945 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2012.

9. Peter Calvocoressi, (Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Bằng Giang, Nguyễn Ngọc

Hùng dịch), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao Động, H., 2007.

10. Robert Jungk, (Đào Văn Phúc dịch), Truyện kể về các nhà bác học nguyên tử,

Nxb Giáo dục, H., 1985.

11. Richard Nixon, Nguyễn Khắc Ân, Trần Văn Bình, Đặng Phú, Phạm Tùng Vĩnh

dịch, Hồi ký Richard Nixon (The Memoirs of Richard Nixon), Nxb Công an

nhân dân, H., 2004.

12. Roy Medvedev, Lê Phụng Hoàng dịch, N.S.Khrushev - Tiểu sử chính trị, Nxb

ĐHSP TPHCM, TPHCM., 2003.

13. Thomas J. Mc Cormick, (Thùy Dương, Thanh Thủy, Minh Long, Hồng Hạnh

dịch), Nước Mỹ nửa thế kỷ: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau

Chiến tranh Lạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2004.

14. Walter Isaacson, Lê Tuyên dịch, Einstein – Cuộc đời và vũ trụ, Nxb Tổng hợp

TPHCM, TPHCM., 2011.

113

15. Winston Churchill, Hồi ký về Chiến tranh thế giới thứ Hai, Nxb Văn hóa thông

tin, H., 2001.

Tiếng Anh

16. Committee on International Security and Arms Control, National Academy of

Sciences, Nuclear Arms Control :Background and Issues, National

Academy Press, Washington, D.C, 1985.

17. Committee on International Security and Arms Control, National Academy of

Sciences, The Future of the U.S.-Soviet Nuclear Relationship, National

Academy Press, Washington, D.C, 1991.

18. Cecil V. Crabb, American foreign policy in the nuclear age, New York: Harper

and Rous, 1965.

19. Henry W.Schaefer, Nuclear arms control: the process of developing positions,

Washington DC, 1986.

20. Henry A. Kissinger, Nuclear wepon and foreign policy, New York: Harper and

Brotherss, 1969.

21. John Lewis Gaddis, Philip H. Gordon, Ernest R. May, Jonathan Rosenberg,

Cold War Statesmen Confront the Bomb: Nuclear Diplomacy Since 1945,

Oxford University Press, 1999.

22. John van Oudenaren, Francis Conte, Understanding Soviet foreign policy: The

tradition of change in Soviet foreign policy, Two schools of Soviet

diplomacy, The institute for national strategic studies, National Defense

University, Washington DC, USA, 1990.

23. Dietrich Schroer, John Wiley, Science;Technology and nuclear arms race, New

York, 1994.

24. Erin R. Mahan,Volume XXXII: SALT I 1969 – 1972, Washington DC, 2010

25. E.H. Carr, A History of Soviet Russia, London: Macmillan, 1964.

26. Kenneth Jay, Nuclear power: Today and Tomorrow, London: English

Language in stitute, 1961.

114

27. Laurence Boisson de Chazournes, Philippe Sands, International law, the

international court of Justice and nuclear weapons, NY: Cambridge

University, 1999.

28. Michael L. Dockrill and Michael F. Hopkins, The Cold War 1945 – 1991

(second edition), Palgrave Macmillan, NY, USA, 2006.

29. Matthew J. Ouimet, The Rise and Fall of the Brezhnev Doctrine in Soviet

Foreign Policy, The University of North Carolina Press, USA, 2003.

30. Norman Polmar, John D. Gresham, Defcon – 2: Standing on the brink of

nuclear war during the Cuban rissile crisis, New Jesey, 2006.

31. Frederick H. Gareau, The balance of power and nuclear deterrence: A book of

readings, Boston, 1962.

32. Paul D. Craig, John A. Jungerman, Mc Graw Hill, Nuclear Arms Race:

Technology and Society, New York, 1970.

33. Phillip Mullenbach, Civillian nuclear power: Economic issues and policy

formation, Honolulu: East – West Center, 1966.

34. Peter Kenez, A History of the Soviet Union from the Beginning to the End,

(second edition), Cambridge University Press, 2006.

35. Stephen Lovell, The Shadow of War: Russia and the USSR, 1941 to the

Present, A John Wiley & Sons, Ltd., Publication, 2010

36. Taylor and Francis, Nuclear energy and nuclear weapon proliferation/SIPRI,

London Express, 1979.

37. The Annals of America, Vol 17: 1950 – 1960: Cold War in the nuclear age,

Chicago, 2003.

38. US Army center of Military History, History of strategic air and ballistic

missile defense, Vol 1 (1945 - 1955).

39. US Army center of Military History, History of strategic air and ballistic

missile defense, Vol 2 (1956 - 1972).

40. U.S. Department of State, Foreign Relations of The United States 1969 – 1976,

Vol 32: SALT I (1969 - 1972), United State Government Printing of

Washington DC, 2010.

115

Website

41. Arms Control Association,Treaties & Agreements, Threshold Test Ban Treaty

(TTBT), www.armscontrol.org/documents/ttbt

42. Arms Control Association, Treaties & Agreements, Peaceful Nuclear

Explosions Treaty (PNET), www.armscontrol.org/documents/pnet

43. Brian Mitchell, August 16, 2005, Hiroshima – The Real Reason for the Atom Bomb,

http://www.mukto-mona.com/Articles/Brian_Mitchell/hiroshima_reason.htm

44. Albert Einstein’s letterto president F. Roosevelt, 2 August 1939,

http://hypertextbook.com/eworld/eisntein.shtml#first

45. Eisenhower, President Eisenhower’s “Atoms for peace” Speech, 8 December

1953, http://www.atomicarchive.com/Docs/Deterrence/Atomsforpeace.shtml

46. Inaugural Address of President John F. Kennedy, Washington DC, January 20,

1961, http://www.jfklibrary.org/Historical+Resoirces

47. Kennedy, Telegram from President Kennedy to Chairmen Khrushchev and

Brezhnev, Washington, July 4, 1961, www.state.gov

48. Kennedy, Radio and Television Address to the American people on the Nuclear

TestBanTreaty.Jul26,1963,http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?p

id=9360&st=Geneva&stl=

49. National Security Archive,The Secret History of The ABM Treaty, 1969-

1972,Electronic Briefing Book No. 60 Edited by William Burr November 8,

2001

50. NSC 68: United States Objectives and Programs for National Security

(1956),http://www.fas.org/irp/offdocs/nsc-hst/nsc-68-8.htm

51. NSC 162/2: A report to national security council on basic national security

policy, Washington 23-October-1953, http://www.fas.org/irp/offdocs/nsc-

hts/nsc-162-2.pdf

52. NRDC, Table of Global Nuclear Weapons Stockpiles, 1945 –

2002,http://www.nrdc.org/nuclear/nudb/datab19.asp#notes.

53. The Cuban Missile Crisis, http://nguyentruong92606.wordpress.com/2013/03/15.

116

54. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance:Treaty Between The United States of America and The Union

of Soviet Socialist Republics on The Limitation of Anti-Ballistic Missile

Systems (ABM Treaty), www.state.gov/t/avc/trty/101888.htm

55. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance:Treaty Between The United States of America and The Union

of Soviet Socialist Republics on the Limitation of Strategic Offensive Arms

(SALT II),www.state.gov/t/isn/5195.htm

56. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance:Treaty Banning Nuclear Weapon Tests in the Atmosphere, in

Outer Space, and Under Water, www.state.gov/t/avc/trty/199116.htm

57. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance:Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons (NPT),

www.state.gov/t/isn/trty/16281.htm

58. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance:Treaty on Principles Governing the Activities of States in the

Exploration and Use of Outer Space, Including the Moon and Other

Celestial Bodies,www.state.gov/t/avc/trty/187157.htm

59. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance: Treaty Between The United States Of America And The Union

Of Soviet Socialist Republics On The Elimination Of Their Intermediate-

Range And Shorter-Range Missiles (INF

Treaty),www.state.gov/t/avc/trty/102360.htm

60. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance:Comprehensive Nuclear Test-Ban Treaty (CTBT),

www.state.gov/t/avc/trty/16411.htm

61. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance: The Treaty Between the United States of America and the

Union of Soviet Socialist Republics on the Reduction and Limitation of

Strategic Offensive Arms(START),www.state.gov/t/avc/trty/146007.htm

117

62. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and

Compliance: Strategic Arms Limitation Talks (SALT I),

www.state.gov/t/isn/5191.htm

63. U.S. Information Agency: Arms Control and Disarmament – The U.S.

Commitment, www.usia.gov/usis.html

PHỤ LỤC

SALT I TREATY

INTERIM AGREEMENT BETWEEN THE UNITED STATES OF

AMERICA AND THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS ON

CERTAIN MEASURES WITH RESPECT TO THE LIMITATION OF

STRATEGIC OFFENSIVE ARMS

Signed at Moscow May 26, 1972

Approval authorized by U.S. Congress September 30, 1972

Approved by U.S. President September 30, 1972

Notices of acceptance exchanged October 3, 1972

Entered into force October 3, 1972

The United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics,

hereinafter referred to as the Parties,

Convinced that the Treaty on the Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems

and this Interim Agreement on Certain Measures with Respect to the Limitation of

Strategic Offensive Arms will contribute to the creation of more favorable

conditions for active negotiations on limiting strategic arms as well as to the

relaxation of international tension and the strengthening of trust between States,

Taking into account the relationship between strategic offensive and defensive

arms,

Mindful of their obligations under Article VI of the Treaty on the

NonProliferation of Nuclear Weapons,

Have agreed as follows:

Article I

The Parties undertake not to start construction of additional fixed land-based

intercontinental ballistic missile (ICBM) launchers after July 1, 1972.

Article II

The Parties undertake not to convert land-based launchers for light ICBMs, or

for ICBMs of older types deployed prior to 1964, into land-based launchers for

heavy ICBMs of types deployed after that time.

Article III

The Parties undertake to limit submarine-launched ballistic missile (SLBM)

launchers and modern ballistic missile submarines to the numbers operational and

under construction on the date of signature of this Interim Agreement, and in

addition to launchers and submarines constructed under procedures established by

the Parties as replacements for an equal number of ICBM launchers of older types

deployed prior to 1964 or for launchers on older submarines.

Article IV

Subject to the provisions of this Interim Agreement, modernization and

replacement of strategic offensive ballistic missiles and launchers covered by this

Interim Agreement may be undertaken.

Article V

1. For the purpose of providing assurance of compliance with the provisions of

this Interim Agreement, each Party shall use national technical means of

verification at its disposal in a manner consistent with generally recognized

principles of international law.

2. Each party undertakes not to interfere with the national technical means of

verification of the other Party operating in accordance with paragraph I of this

Article.

3. Each Party undertakes not to use deliberate concealment measures which

impede verification by national technical means of compliance with the provisions

of this Interim Agreement. This obligation shall not require changes in current

construction, assembly, conversion, or overhaul practices.

Article VI

To promote the objectives and implementation of the provisions of this

Interim Agreement, the Parties shall use the Standing Consultative Commission

established under Article IX of the Treaty on the Limitation of Anti-Ballistic

Missile Systems in accordance with the provisions of that Article.

Article VII

The Parties undertake to continue active negotiations for limitations on

strategic offensive arms. The obligations provided for in this Interim Agreement

shall not prejudice the scope or terms of the limitations on strategic offensive arms

which may be worked out in the course of further negotiations.

Article VIII

1. This Interim Agreement shall enter into force upon exchange of written

notices of acceptance by each Party, which exchange shall take place

simultaneously with the exchange of instruments of ratification of the Treaty on the

Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems.

2. This Interim Agreement shall remain in force for a period of five years

unless replaced earlier by an agreement on more complete measures limiting

strategic offensive arms. It is the objective of the Parties to conduct active follow-on

negotiations with the aim of concluding such an agreement as soon as possible.

3. Each Party shall, in exercising its national sovereignty, have the right to

withdraw from this Interim Agreement if it decides that extraordinary events related

to the subject matter of this Interim Agreement have jeopardized its supreme

interests. It shall give notice of its decision to the other Party six months prior to

withdrawal from this Interim Agreement. Such notice shall include a statement of

the extraordinary events the notifying Party regards as having jeopardized its

supreme interests.

DONE at Moscow on May 26, 1972, in two copies, each in the English and

Russian languages, both texts being equally authentic.

FOR THE UNITED STATES OF AMERICA

President of the United States of America

RICHARD NIXON

FOR THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS

General Secretary of the Central Committee of the CPSU

L. I. BREZHNEV

TREATY BETWEEN THE UNITED STATES OF AMERICA AND

THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS ON THE

REDUCTION AND LIMITATION OF STRATEGIC OFFENSIVE

ARMS

The United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics,

hereinafter referred to as the Parties,

Conscious that nuclear war would have devastating consequences for all humanity,

that it cannot be won and must never be fought,

Convinced that the measures for the reduction and limitation of strategic offensive

arms and the other obligations set forth in this Treaty will help to reduce the risk of

outbreak of nuclear war and strengthen international peace and security,

Recognizing that the interests of the Parties and the interests of international

security require the strengthening of strategic stability,

Mindful of their undertakings with regard to strategic offensive arms in Article VI

of the Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons of July 1, 1968; Article

XI of the Treaty on the Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems of May 26,

Have agreed as follows:

1972; and the Washington Summit Joint Statement of June 1, 1990, [ABA]

ARTICLE I

Each Party shall reduce and limit its strategic offensive arms in accordance with the

provisions of this Treaty, and shall carry out the other obligations set forth in this

Treaty and its Annexes, Protocols, and Memorandum of Understanding.

ARTICLE II

1. Each Party shall reduce and limit its ICBMs and ICBM launchers, SLBMs and

SLBM launchers, heavy bombers, ICBM warheads, SLBM warheads, and heavy

bomber armaments, so that seven years after entry into force of this Treaty and

thereafter, the aggregate numbers, as counted in accordance with Article III of this

Treaty, do not exceed:

(a) 1600, for deployed ICBMs and their associated launchers, deployed SLBMs and

their associated launchers, and deployed heavy bombers, including 154 for

deployed heavy ICBMs and their associated launchers; [RF MOU, Section II] [US

MOU, Section II] [Agreed State 33]

(b) 6000, for warheads attributed to deployed ICBMs, deployed SLBMs, and

deployed heavy bombers, [RF MOU, Section II] [US MOU, Section II] including:

[Agreed State 33] [START II, Art. I,3]

(i) 4900, for warheads attributed to deployed ICBMs and deployed SLBMs; [RF

MOU, Section II][US MOU, Section II][START II, Art. I,4] [Agreed State 33]

(ii) 1100, for warheads attributed to deployed ICBMs on mobile launchers of

ICBMs;[RF MOU, Section II]

(iii) 1540, for warheads attributed to deployed heavy ICBMs. [phased heavy

reductions [RF MOU, Section II] ABA

2. Each Party shall implement the reductions pursuant to paragraph 1 of this Article

in three phases, so that its strategic offensive arms do not exceed:

(a) by the end of the first phase, that is, no later than 36 months after entry into

force of this Treaty, and thereafter, the following aggregate numbers:

(i) 2100, for deployed ICBMs and their associated launchers, deployed SLBMs and

their associated launchers, and deployed heavy bombers;

(ii) 9150, for warheads attributed to deployed ICBMs, deployed SLBMs, and

deployed heavy bombers;

(iii) 8050, warheads attributed to deployed ICBMs and deployed SLBMs;

(b) by the end of the second phase, that is, no later than 60 months after entry into

force of this Treaty, and thereafter, the following aggregate numbers:

(i) 1900, for deployed ICBMs and their associated launchers, deployed SLBMs and

their associated launchers, and deployed heavy bombers;

(ii) 7950, for warheads attributed to deployed ICBMs, deployed SLBMs, and

deployed heavy bombers;

(iii) 6750, warheads attributed to deployed ICBMs and deployed SLBMs;

(c) by the end of the third phase, that is, no later than 84 months after entry into

force of this Treaty: the aggregate numbers provided for in paragraph 1 of this

Article .ABA

3. Each Party shall limit the aggregate throw-weight [RF MOU, Section II] [US

MOU Section II]of its deployed ICBMs [RF MOU, Section I] [US MOU Section I]

and deployed SLBMs [RF MOU, Section I] [US MOU Section I] so that seven

years after entry into force of this Treaty and thereafter such aggregate throw-

weight does not exceed 3600 metric tons. ABA [Throw-weight Limits/Provisions

for Types of ICBMs and SLBMs]

ARTICLE III

1. For the purposes of counting toward the maximum aggregate limits provided for

in subparagraphs 1(a), 2(a)(i), and 2(b)(i) of Article II of this Treaty:

(a) Each deployed ICBM and its associated launcher shall be counted as one unit;

each deployed SLBM and its associated launcher; shall be counted as one unit.

(b) Each deployed heavy bombers shall be counted as one unit. ABA

2. For the purposes of counting deployed ICBMs and their associated launchers and

deployed SLBMs and their associated launchers

(a) Each deployed launcher of ICBMs and each deployed launcher of SLBMs shall

be considered to contain one deployed ICBM or one deployed SLBM, respectively.

ABA

(b) If a deployed ICBM has been removed from its launcher and another missile has

not been installed in that launcher, such an ICBM removed from its launcher and

located at that ICBM base shall continue to be considered to be contained in that

launcher. ABA

(c) If a deployed SLBM has been removed from its launcher and another missile has

not been installed in that launcher, such an SLBM removed from its launcher shall

be considered to be contained in that launcher. Such an SLBM removed from its

launcher shall be located only at a facility at which non-deployed SLBMs may be

located pursuant to subparagraph 9(a) of Article IV of this Treaty or be in

movement to such a facility. ABA

3. For the purposes of this Treaty, including counting ICBMs and SLBMs:

(a) For ICBMs or SLBMs that are maintained, stored, and transported in stages, the

first stage of an ICBM or SLBM of a particular type shall be considered to be an

ICBM or SLBM of that type. [US MOU Annex F][RF MOU, Annex F]

(b) For ICBMs or SLBMs that are maintained, stored, and transported as assembled

missiles without launch canisters, an assembled missile of a particular type shall be

considered to be an ICBM or SLBM of that type.[RF MOU, Annex F]

(c) For ICBMs that are maintained, stored, and transported as assembled missiles in

launch canisters, an assembled missile of a particular type, in its launch canister,

shall be considered to be an ICBM of that type.[RF MOU, Annex F]

(d) Each launch canister shall be considered to contain an ICBM from the time it

first leaves a facility at which an ICBM is installed in it until an ICBM has been

launched from it or until an ICBM has been removed from it for elimination. A

launch canisters shall not be considered to contain an ICBM if it contains a training

model of a missile or has been placed on static display. Launch canisters for

ICBMs of a particular type shall be distinguishable from launch canisters for

ICBMs of a different type.

4. For the purposes of counting warheads:

(a) The number of warheads attributed to an ICBM or SLBM of each existing type

shall be the number specified in the Memorandum of Understanding [RF MOU,

Section I] [US MOU, Section I]on the Establishment of the Data Base Relating to

this Treaty, hereinafter referred to as the Memorandum of Understanding.

(b) The number of warheads that will be attributed to an ICBM or SLBM of a new

type shall be the maximum number of reentry vehicles with which an ICBM or

SLBM of that type has been flight-tested. The number of warheads that will be

attributed to an ICBM or SLBM of a new type with a front section of an existing

design with multiple reentry vehicles, or to an ICBM or SLBM of a new type with

one reentry vehicle, shall be no less than the nearest integer that is smaller than the

result of dividing 40 percent of the accountable throw-weight of the ICBM or

SLBM by the weight of the lightest reentry vehicle flight-tested on an ICBM of

SLBM of a new type. In the case of an ICBM or SLBM of a new type with a of

warheads that will be attributed to an ICBM of SLBM of a new type with a front

section of a fundamentally new design, the question of the applicability of the 40-

percent rule to such an ICBM or SLBM shall be subject to agreement within the

framework of the Joint Compliance and Inspection Commission. Until agreement

has been reached regarding the rule that will apply to such an ICBM or SLBM, the

number of warheads that will be attributed to such an ICBM or SLBM shall be the

maximum number of reentry vehicles with which an ICBM or SLBM of that type

has been flight-tested. The number of new types of ICBMs or SLBMs with a front

section of a fundamentally new design shall not exceed two for each Party as long

as this Treaty remains in force.[Agreed State 24]

(c) The number of reentry vehicles with which an ICBM or SLBM has been flight-

tested shall be considered to be the sum of the number of reentry vehicles actually

released during the flight test, plus the number of procedures for dispensing reentry

vehicles performed during that same flight test when no reentry vehicle was

released. A procedure for dispensing penetration aids shall not be considered to be a

procedure for dispensing reentry vehicles, provided that the procedure for

dispensing penetration aids differs from a procedure for dispensing reentry vehicles.

(d) Each reentry vehicle of an ICBM or SLBM shall be considered to be one

warhead. [Agreed State 3]

(e) For the United States of America, each heavy bomber equipped for long-range

nuclear ALCMs, up to a total of 150 such heavy bombers, shall be attributed[MOU

US Section I] with ten warheads. Each heavy bomber equipped for long-range

nuclear ALCMs in excess of 150 such heavy bombers shall be attributed[MOU US

Section I] with a number of warheads equal to the number of long-range nuclear

ALCMs for which it is actually equipped. The United States of America shall

specify the heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs that are in

excess of 150 such heavy bombers by number, type, variant, and the air bases at

which they are based. The number of long-range nuclear ALCMs for which each

heavy bomber equipped for long-range nuclear ALCMs in excess of 150 such heavy

bombers is considered to be actually equipped shall be the maximum number of

long-range nuclear ALCMs for which a heavy bomber of the same type and variant

is actually equipped.[category]

(f) For the Union of Soviet Socialist Republics, each heavy bomber equipped for

long-range nuclear ALCMs, up to a total of 180 such heavy bombers, shall be

attributed[MOU RF Section I] with eight warheads. Each heavy bomber equipped

for long-range nuclear ALCMs in excess of 180 such heavy bombers shall be

attributed with a number of warheads equal to the number of long-range nuclear

ALCMs for which it is actually equipped. The Union of Soviet Socialist Republics

shall specify the heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs that are in

excess of 180 such heavy bombers by number, type, variant, and the air bases at

which they are based. The number of long-range nuclear ALCMs for which each

heavy bomber equipped for long-range nuclear ALCMs in excess of 180 such heavy

bombers is considered to be actually equipped shall be the maximum number of

long-range nuclear ALCMs for which a heavy bomber of the same type and variant

is actually equipped.[category]

(g) Each heavy bomber equipped for nuclear armaments other than long-range

nuclear ALCMs[MOU US Annex G][MOU RF Annex G] shall be attributed[MOU

US Section I] [MOU RF Section I] with one warhead. All heavy bombers not

equipped for long-range nuclear ALCMs shall be considered to be heavy bombers

equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear ALCMs, with the

exception of heavy bombers equipped for non-nuclear armaments, test heavy

bombers, and training heavy bombers. [category] [START II, Art. IV.1,2]

5. Each Party shall have the right to reduce the number of warheads attributed to

ICBMs and SLBMs only of existing types, up to an aggregate number of 1250 at

any one time.[START MOU, Section III][MOU RF Section III] [START II Art III.

2 (a)]

(a) Such aggregate number shall consist of the following:

(i) for the United States of America, the reduction in the number of warheads

attributed to the type of ICBM designated by the United States of America as, and

known to the Union of Soviet Socialist Republics as, Minuteman III, plus the

reduction in the number of warheads attributed to ICBMs and SLBMs of no more

than two other existing types; [START MOU, Section III]

(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, four multiplied by the number of

deployed SLBMs designated by the Union of Soviet Socialist Republics as RSM-

50, which is known to the United States of America as SS-N-18, [MOU RF Section

III]plus the reduction in the number of warheads attributed to ICBMs and SLBMs

of no more than two other existing types.

(b) Reductions in the number of warheads attributed to Minuteman III shall be

carried out subject to the following:

(i) Minuteman III to which different numbers of warheads are attributed shall not be

deployed at the same ICBM base.

(ii) Any such reductions shall be carried out no later than seven years after entry

into force of this Treaty.

(iii) The reentry vehicle platform of each Minuteman III to which a reduced number

of warheads is attributed shall be destroyed and replaced by a new reentry vehicle

platform. [START II Art III.2(d)]

(c) Reductions in the number of warheads attributed to ICBMs and SLBMs of types

other than Minuteman III shall be carried out subject to the following:

(i) Such reductions shall not exceed 500 warheads at any one time for each Party.

[START II Art III.2(b)]

(ii) After a Party has reduced the number of warheads attributed to ICBMs or

SLBMs of two existing types, that Party shall not have the right to reduce the

number of warheads attributed to ICBMs or SLBMs of any additional type.

(iii) The number of warheads attributed to an ICBM or SLBM shall be reduced by

no more than four below the number attributed as of the date of signature of this

Treaty. [START II Art III.2(c)]

(iv) ICBMs of the same type, but to which different numbers of warheads are

attributed, shall not be deployed at the same ICBM base.

(v) SLBMs of the same type, but to which different numbers of warheads are

attributed, shall not be deployed on submarines based at submarine bases adjacent

to the waters of the same ocean.

(vi) If the number of warheads attributed to an ICBM or SLBM of a particular type

is reduced by more than two, the reentry vehicle platform of each ICBM or SLBM

to which such a reduced number of warheads is attributed shall be destroyed and

replaced by a new reentry vehicle platform. [START II Art III.2(d)]

(d) A Party shall not have the right to attribute to ICBMs of a new type a number of

warheads greater than the smallest number of warheads attributed to any ICBM to

which that Party has attributed a reduced number of warheads pursuant to

subparagraph (c) of this paragraph. A Party shall not have the right to attribute to

SLBMs of a new type a number of warheads greater than the smallest number of

warheads attributed to any SLBM to which that Party has attributed a reduced

number of warheads pursuant to subparagraph (c) of this paragraph.

6. Newly constructed strategic offensive arms shall begin to be subject to the

limitations provided for in this Treaty as follows:

(a) an ICBM, when it first leaves a production facility;

(b) a mobile launcher of ICBMs, when it first leaves a production facility for mobile

launchers of ICBMs;

(c) a silo launcher of ICBMs, when excavation for that launcher has been completed

and the pouring of concrete for the silo has been completed, or 12 months after the

excavation begins, whichever occurs earlier;

(d) for the purpose of counting a deployed ICBM and its associated launcher, a silo

launchers of ICBMs shall be considered to contain a deployed ICBM when

excavation for that launcher has been completed and the pouring of concrete for the

silo has been completed, or 12 months after the excavation begins, whichever

occurs earlier, and a mobile launcher of ICBMs shall be considered to contain a

deployed ICBM when it arrives at a maintenance facility, [Def 19]except for the

non-deployed mobile launchers of ICBMs provided for in subparagraph 2(b) of

Article IV of this Treaty, or when it leaves an ICBM loading facility;

(e) an SLBM, when it first leaves a production facility;

(f) an SLBM launcher, when the submarine on which that launcher is installed is

first launched;

(g) for the purpose of counting a deployed SLBM and its associated launcher, an

SLBM launcher shall be considered to contain a deployed SLBM when the

submarine on which that launcher is installed is first launched; [Def 18]

(h) a heavy bomber or former heavy bomber, when its airframe is first brought out

of the shop, plant, or building in which components of a heavy bomber or former

heavy bomber are assembled to produce complete airframes; or when its airframe is

first brought out of the shop, plant, or building in which existing bomber airframes

are converted to heavy bomber or former heavy bomber airframes. [Def 14] [Def

82 (d)] [Agreed State 12]

7. ICBM launchers and SLBM launchers that have been converted to launch an

ICBM or SLBM, respectively, of a different type shall not be capable of launching

an ICBM or SLBM of the previous type. Such converted launchers shall be

considered to be launchers of ICBMs or SLBMs of that different type as follows:

(a) a silo launchers of ICBMs, when an ICBM of a different type or a training

model of a missile of a different type is first installed in that launcher, or when the

silo door is reinstalled, whichever occurs first; [Notocol IV.3]

(b) a mobile launcher of ICBMs, as agreed within the framework of the Joint

Compliance and Inspection Commission;

(c) an SLBM launcher, when all launchers on the submarine on which that launcher

is installed have been converted to launch an SLBM of that different type and that

submarine begins sea trials, that is, when that submarine first operates under its own

power away from the harbor or port in which the conversion of launchers was

performed. [Notocol V.4]

8. Heavy bombers that have been converted into heavy bombers of a different

category or into former heavy bombers shall be considered to be heavy bombers of

that different category or former heavy bombers as follows:

(a) a heavy bomber equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear

ALCMs converted into a heavy bomber equipped for long-range nuclear ALCMs,

when it is first brought out of the shop, plant, or building where it was equipped for

long-range nuclear ALCMs; [US MOU Annex G, (I), (II), (III) [RF MOU Annex

G, (i), (ii)]

(b) a heavy bomber of one category converted into a heavy bomber of another

category provided for in paragraph 9 of Section VI of the Protocol on Procedures

Governing the Conversion or Elimination of the Items Subject to this Treaty,

hereinafter referred to as the Conversion or Elimination Protocol, or into a former

heavy bomber, when the inspection conducted pursuant to paragraph 13 of Section

VI of the Conversion or Elimination Protocol is completed or, if such an inspection

is not conducted, when the 20-day period provided for in paragraph 13 of Section

VI of the Conversion or Elimination Protocol expires.

9. For the purposes of this Treaty:

(a) A ballistic missile of a type developed and tested solely to intercept and counter

objects not located on the surface of the Earth shall not be considered to be a

ballistic missile to which the limitations provided for in this Treaty apply.

(b) If a ballistic missile has been flight-tested or deployed for weapon delivery, all

ballistic missiles of that type shall be considered to be weapon-delivery vehicles.

(c) If a cruise missile has been flight-tested or deployed for weapon delivery, all

cruise missiles of that type shall be considered to be weapon-delivery vehicles.

(d) If a launcher, other than a soft-site launcher, has contained an ICBM or SLBM

of a particular type, it shall be considered to be a launcher of ICBMs or SLBMs of

that type. If a launcher, other than a soft-site launcher, has been converted into a

launcher of ICBMs or SLBMs of a different type, it shall be considered to be a

launcher of ICBMs or SLBMs of the type for which it has been converted.

(e) If a heavy bomber is equipped for long-range nuclear ALCMs, all heavy

bombers of that type shall be considered to be equipped for long-range nuclear

ALCMs, except those that are not so equipped and are distinguishable from heavy

bombers of the same type equipped for long-range nuclear ALCMs. If long-range

nuclear ALCMs have not been flight-tested from any heavy bomber of a particular

type, no heavy bomber of that type shall be considered to be equipped for long-

range nuclear ALCMs. Within the same type, a heavy bomber equipped for long-

range nuclear ALCMs, a heavy bomber equipped for nuclear armaments other than

long-range nuclear ALCMs, a heavy bomber equipped for non-nuclear armaments,

a training heavy bomber, and a former heavy bomber shall be distinguishable from

one another. [category][US MOU Annex G, (I), (II), (III)] [RF MOU Annex G, (i),

(ii)]

(f) Any long-range ALCM of a type, any one of which has been initially flight-

tested from a heavy bomber on or before December 31, 1988, shall be considered to

be a long-range nuclear ALCM. Any long-range ALCM of a type, any one of which

has been initially flight-tested from a heavy bomber after December 31, 1988, shall

not be considered to be a long-range nuclear ALCM if it is a long-range non-nuclear

ALCM and is distinguishable from long-range nuclear ALCMs. Long-range non-

nuclear ALCMs not so distinguishable shall be considered to be long-range nuclear

ALCMs. [TACIT RAINBOW] [TSSAM Statements]

(g) Mobile launchers of ICBMs of each new type of ICBM shall be distinguishable

from mobile launchers of ICBMs of existing types of ICBMs and from mobile

launchers of ICBMs of other new type of ICBMs. Such new launchers, with their

associated missiles installed, shall be distinguishable from mobile launchers of

ICBMs of existing types of ICBMs with their associated missiles installed, and

from mobile launchers of ICBMs of other new types of ICBMs with their associated

missiles installed. [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F] [Agreed State 19]

(h) Mobile launchers of ICBMs converted into launchers of ICBMs of another type

of ICBM shall be distinguishable from mobile launchers of ICBMs of the previous

type of ICBM. Such converted launchers, with their associated missiles installed,

shall be distinguishable from mobile launchers of ICBMs of the previous type of

ICBM with their associated missiles installed. Conversion of mobile launchers of

ICBMs shall be carried out in accordance with procedures to be agreed within the

framework of the Joint Compliance and Inspection Commission. [Agreed State 19]

10. As of the date of signature of this Treaty:

(a) Existing types of ICBMs and SLBMs are:

(i) for the United States of America, the types of missiles designated by the United

States of America as Minuteman II, Minuteman III, Peacekeeper, Poseidon, Trident

I, and Trident II, which are known to the Union of Soviet Socialist Republics as

Minuteman II, Minuteman III, MX, Poseidon, Trident I, and Trident II,

respectively; [US MOU Section I] [US MOU Annex F]

(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of missiles designated by

the Union of Soviet Socialist Republics as RS-10, RS-12, RS-16, RS-20, RS-18,

RS-22, RS-12M, RSM-25, RSM-40, RSM-50, RSM-52, and RSM-54, which are

known to the United States of America as SS-11, SS-13, SS-17, SS-18, SS-19, SS-

24, SS-25, SS-N-6, SS-N-8, SS-N-18, SS-N-20, and SS-N-23, respectively. [RF

MOU Section I] [RF MOU, Annex F] [RF MOU Annex I]

(b) Existing types of ICBMs for mobile launchers of ICBMs are:

(i) for the United States of America, the type of missile designated by the United

States of America as Peacekeeper, which is known to the Union of Soviet Socialist

Republics as MX; [US MOU Annex F]

(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of missiles designated by

the Union of Soviet Socialist Republics as RS-22 and RS-12M, which are known to

the United States of America as SS-24 and SS-25, respectively. [RF MOU, Annex

F]

(c) Former types of ICBMs and SLBMs are the types of missiles designated by the

United States of America as, and known to the Union of Soviet Socialist Republics

as, Minuteman I and Polaris A-3.

(d) Existing types of heavy bombers are:

(i) for the United States of America, the types of bombers designated by the United

States of America as, and known to the Union of Soviet Socialist Republics as, B-

52, B-1, and B-2; [US MOU Annex G]

(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of bombers designated by

the Union of Soviet Socialist Republics as Tu-95 and Tu-160, which are known to

the United States of America as Bear and Blackjack, respectively. [RF MOU,

Annex G] [Soviet TU-22M Declaration]

(e) Existing types of long-range nuclear ALCMs are:

(i) for the United States of America, the types of long-range nuclear ALCMs

designated by the United States of America as, and known to the Union of Soviet

Socialist Republics as, AGM-86B and AGM-129; [US MOU Annex H]

(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of long-range nuclear

ALCMs designated by the Union of Soviet Socialist Republics as RKV-500A and

RKV-500B, which are known to the United States of America as AS-15 A and AS-

15 B, respectively.[ RF MOU, Annex H] [Nuclear SLCM Policy Declarations]

ARTICLE IV

1. For ICBMs and SLBMs:

(a) Each Party shall limit the aggregate number of non-deployed ICBMs for mobile

launchers of ICBMs to no more than 250. Within this limit, the number of non-

deployed ICBMs for rail-mobile launchers of ICBMs shall not exceed 125.[RF

MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed State 37]

(b) Each Party shall limit the number of non-deployed ICBMs at a maintenance

facility of an ICBM base for mobile launchers of ICBMs to no more than two

ICBMs of each type specified for that ICBM base. Non-deployed ICBMs for mobile

launchers of ICBMs located at a maintenance facilityshall be stored separately from

non-deployed mobile launchers of ICBMs located at that maintenance facility.

(c) Each Party shall limit the number of non-deployed ICBMs and sets of ICBM

emplacement equipment at an ICBM base for silo launchers of ICBMs to no more

than:

(i) two ICBMs of each type specified for that ICBM base and six sets of ICBM

emplacement equipment for each type of ICBM specified for that ICBM base; or

[RF MOU Annex A] [US MOU, Annex A]

(ii) four ICBMs of each type specified for that ICBM base and two sets of ICBM

emplacement equipment for each type of ICBM specified for that ICBM base. [RF

MOU Annex A] [US MOU, Annex A]

(d) Each Party shall limit the aggregate number of ICBMs and SLBMs located at

test ranges to no more than 35 during the seven-year period after entry into force of

this Treaty. Thereafter, the aggregate number of ICBMs and SLBMs located at test

ranges shall not exceed 25. [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed

State 37]

2. For ICBM launchers and SLBM launchers:

(a) Each Party shall limit the aggregate number of non-deployed mobile launchers

of ICBMs to no more than 110. Within this limit, the number of non-deployed rail-

mobile launchers of ICBMs shall not exceed 18. [RF MOU, Section IV] [US

MOU Section IV]

(b) Each Party shall limit the number of non-deployed mobile launchers of ICBMs

located at the maintenance facility of each ICBM base for mobile launchers of

ICBMs to no more than two such ICBM launchers of each type of ICBM specified

for that ICBM base. [RF MOU Annex A]

(c) Each Party shall limit the number of non-deployed mobile launchers of ICBMs

located at training facilities for ICBMs to no more than 40. Each such launcher may

contain only a training model of a missile. Non-deployed mobile launchers of

ICBMs that contain training models of missiles shall not be located outside a

training facility.[RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV]

(d) Each Party shall limit the aggregate number of test launchers to no more than 45

during the seven-year period after entry into force of this Treaty. Within this limit,

the number of fixed test launchers shall not exceed 25, and the number of mobile

test launchers shall not exceed 20. Thereafter, the aggregate number of test

launchers shall not exceed 40. Within this limit, the number of fixed test launchers

shall not exceed 20, and the number of mobile test launchers shall not exceed

20.[RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed State 37(h)]

(e) Each Party shall limit the aggregate number of silo training launchers and

mobile training launchers to no more than 60. ICBMs shall not be launched from

training launchers. Each such launcher may contain only a training model of a

missile. Mobile training launchers shall not be capable of launching ICBMs, and

shall differ from mobile launchers of ICBMs and other road vehicles or railcars on

the basis of differences that are observable by national technical means of

verification. [Agreed State 13] [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV]

3. For heavy bombers and former heavy bombers:

(a) Each Party shall limit the aggregate number of heavy bombers equipped for non-

nuclear armaments, former heavy bombers, and training heavy bombers to no more

than 75. [category] [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed State 6]

[Agreed State 12]

(b) Each Party shall limit the number of test heavy bombers to no more than 20.

[category] [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV]

4. For ICBMs and SLBMs used for delivering objects into the upper atmosphere or

space: [JCIC Joint State 21]

(a) Each Party shall limit the number of space launch facilities to no more than five,

unless otherwise agreed. Space launch facilities shall not overlap ICBM bases.[RF

MOU, Annex D ] [US MOU Annex D]

(b)Each Party shall limit the aggregate number of ICBM launchers and SLBM

launchers located at space launch facilities to no more than 20, unless otherwise

agreed. Within this limit, the aggregate number of silo launchers of ICBMs and

mobile launchers of ICBMs located at space launch facilities shall not exceed ten,

unless otherwise agreed. [Agreed State 26][Agreed State 37(h)]

(c) Each Party shall limit the aggregate number of ICBMs and SLBMs located at a

space launch facility to no more than the number of ICBM launchers and SLBM

launchers located at that facility.[Agreed State 37]

5. Each Party shall limit the number of transporter-loaders for ICBMs for road-

mobile launchers of ICBMs located at each deployment area or test range to no

more than two for each type of ICBM for road-mobile launchers of ICBMs that is

attributed with one warhead and that is specified for that deployment area or test

range, and shall limit the number of such transporter-loaders located outside

deployment areas and test ranges to no more than six. The aggregate number of

transporter-loaders for ICBMs for road-mobile launchers of ICBMs shall not exceed

30.[RF MOU, Section IV]

6. Each Party shall limit the number of ballistic missile submarines in dry dock

within five kilometers of the boundary of each submarine base to no more than two.

7. For static displays and ground trainers:

(a) Each Party shall limit the number of ICBM launchers and SLBM launchers

placed on static displays after signature of this Treaty to no more than 20, the

number of ICBMs [RF MOU, Annex A] [US MOU, Annex A] [Uk MOU, Annex

A] and SLBMs [RF MOU, Annex B] [US MOU, Annex B] placed on static display

after signature of this Treaty to no more than 20, the number of launch canisters

placed on static display after signature of this Treaty to no more than 20, and the

number of heavy bombers and former heavy bombers placed on static display after

signature of this Treaty to no more than 20. Such items placed on static display

prior to signature of this Treaty shall be specified in Annex I to the Memorandum of

Understanding, but shall not be subject to the limitations provided for in this Treaty.

(b) Each Party shall limit the aggregate number of heavy bombers converted after

signature of this Treaty for use as ground trainers and former heavy bombers

converted after signature of this Treaty for use as ground trainers to no more than

five. Such items converted prior to signature of this Treaty for use as ground

trainers shall be specified in Annex I to the Memorandum of Understanding, but

shall not be subject to the limitations provided for in this Treaty.

8. Each Party shall limit the aggregate number of storage facilities for ICBMs or

SLBMs and repair facilities for ICBMs or SLBMs to no more than 50.

9. With respect to locational and related restrictions on strategic offensive arms:

(a) Each Party shall locate non-deployed ICBMs and non-deployed SLBMs only at

maintenance facilities of ICBM bases; submarine bases; ICBM loading facilities;

SLBM loading facilities; production facilities for ICBMs or SLBMs; repair

facilities for ICBMs or SLBMs; storage facilities for ICBMs or SLBMs; conversion

or elimination facilities for ICBMs or SLBMs; test ranges; or space launch

facilities. Prototype ICBMs and prototype SLBMs, however, shall not be located at

maintenance facilities of ICBM bases or at submarine bases. Non-deployed ICBMs

and non-deployed SLBMs may also be in transit. Non-deployed ICBMs for silo

launchers of ICBMs may also be transferred within an ICBM base for silo launchers

of ICBMs. Non-deployed SLBMs that are located on missile tenders and storage

cranes shall be considered to be located at the submarine base at which such missile

tenders and storage cranes are specified as based. [Agreed State 37] [Agreed State

19]

(b) Each Party shall locate non-deployed mobile launchers of ICBMs only at

maintenance facilities of ICBM bases for mobile launchers of ICBMs, production

facilities for mobile launchers of ICBMs, repair facilities for mobile launchers of

ICBMs, storage facilities for mobile launchers of ICBMs, ICBM loading facilities,

training facilities for ICBMs, conversion or elimination facilities for mobile

launchers of ICBMs, test ranges, or space launch facilities. Mobile launchers of

prototype ICBMs, however, shall not be located at maintenance facilities of ICBM

bases for mobile launchers of ICBMs. Non-deployed mobile launchers of ICBMs

may also be in transit. [Agreed State 19]

(c) Each Party shall locate test launchers only at test ranges, except that rail-mobile

test launchers may conduct movements for the purpose of testing outside a test

range, provided that:

(i) each such movement is completed no later than 30 days after it begins;

(ii) each such movement begins and ends at the same test ranges and does not

involve movement to any other facility;

(iii) movements of no more than six rail-mobile launchers of ICBMs are conducted

in each calendar year; and

(iv) no more than one train containing no more than three rail-mobile test launchers

is located outside test ranges at any one time.

(d) A deployed mobile launcher of ICBMs and its associated missile that relocates

to a test range may, at the discretion of the testing Party, either continue to be

counted toward the maximum aggregate limits provided for in Article II of this

Treaty, or be counted as a mobile test launchers pursuant to paragraph 2(d) of this

Article. If a deployed mobile launcher of ICBMs and its associated missile that

relocates to a test range continues to be counted toward the maximum aggregate

limits provided for in Article II of this Treaty, the period of time during which it

continuously remains at a test range shall not exceed 45 days. The number of such

deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles located at a

test range at any one time shall not exceed three, and the number of such deployed

rail-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles located at a test range

at any one time shall not exceed three.

(e) Each Party shall locate silo training launchers only at ICBM bases for silo

launchers of ICBMs and training facilities for ICBMs. The number of silo training

launchers located at each ICBM bases for silo launchers of ICBMs shall not exceed

one for each type of ICBM specified for that ICBM base.

(f) Test heavy bombersshall be based only at heavy bomber flight test centers and at

production facilities for heavy bombers. Training heavy bombers shall be based

only at training facilities for heavy bombers.

10. Each Party shall locate solid rocket motors for first stages of ICBMs for mobile

launchers of ICBMs only at locations where production and storage, or testing of

such motors occurs and at production facilities for ICBMs for mobile launchers of

ICBMs. Such solid rocket motors may also be moved between these locations. Solid

rocket motors with nozzles attached for the first stages of ICBMs for mobile

launchers of ICBMs shall only be located at production facilities for ICBMs for

mobile launchers of ICBMs and at locations where testing of such solid rocket

motors occurs. Locations where such solid rocket motors are permitted shall be

specified in Annex I to the Memorandum of Understanding. [RF MOU, Annex I]

[US MOU, Annex I] [Agreed State 28]

11. With respect to locational restrictions on facilities:

(a) Each Party shall locate production facilities for ICBMs of a particular type,

repair facilities for ICBMs of a particular type, storage facilities for ICBMs of a

particular type, ICBM loading facilities for ICBMs of a particular type, and

conversion or elimination facilities for ICBMs of a particular type no less than 100

kilometers from any ICBM base for silo launchers of ICBMs of that type of ICBM,

any ICBM base for rail-mobile launchers of ICBMs of that type of ICBM, any

deployment area for road-mobile launchers of ICBMs of that type of ICBM, any

test range from which ICBMs of that type are flight-tested, any production facility

for mobile launchers of ICBMs of that type of ICBM, any repair facility for mobile

launchers of ICBMs of that type of ICBM, any storage facility for mobile launchers

of ICBMs of that type of ICBM, and any training facility for ICBMs at which non-

deployed mobile launchers of ICBMs are located. New facilities at which non-

deployed ICBMs for silo launchers of ICBMs of ICBMs of any type of ICBM may

be located, and new storage facilities for ICBM emplacement equipment, shall be

located no less than 100 kilometers from any ICBM base for silo launchers of

ICBMs, except that existing storage facilities for intermediate-range missiles,

located less than 100 kilometers from an ICBM base for silo launchers of ICBMs or

from a test range, may be converted into storage facilities for ICBMs not specified

for that ICBM base or that test range. [Agreed State 14]

(b) Each Party shall locate production facilities for mobile launchers of ICBMs of a

particular type of ICBM, repair facilities for mobile launchers of ICBMs of a

particular type of ICBM, and storage facilities for mobile launchers of ICBMs of a

particular type of ICBM no less than 100 kilometers from any ICBMs for mobile

launchers of ICBMs of that type of ICBM and any test range from which ICBMs of

that type are flight-tested.

(c) Each Party shall locate test ranges and space launch facilities no less than 100

kilometers from any ICBM base for silo launchers of ICBMs, any ICBM base for

rail-mobile launchers of ICBMs, and any deployment area.[Agreed State 26]

(d) Each Party shall locate training facilities for ICBMs no less than 100 kilometers

from any test range.[Agreed State 15]

(e) Each Party shall locate storage areas for heavy bomber nuclear armaments no

less than 100 kilometers from any air base for heavy bombers equipped for non-

nuclear armaments and any training facility for heavy bombers. Each Party shall

locate storage areas for long-range nuclear ALCMs no less than 100 kilometers

from any air base for heavy bombers equipped for nuclear armaments other than

long-range nuclear ALCMs, any air base for heavy bombers equipped for non-

nuclear armaments, and any training facility for heavy bombers.

12. Each Party shall limit the duration of each transit to no more than 30 days.

ARTICLE V

< A>1. Except as prohibited by the provisions of this Treaty, modernization and

replacement of strategic offensive arms may be carried out.

2. Each Party undertakes not to:

(a) produce, flight-test, or deploy heavy ICBMs of a new type, or increase the

launch weight [RF MOU, Annex F] or throw-weight [RF MOU, Section I] of heavy

ICBMs of an existing type;

(b) produce, flight-test, or deploy heavy SLBMs;

(c) produce test, or deploy mobile launchers of heavy ICBMs;

(d) produce, test, or deploy additional silo launchers of ICBMs of heavy ICBMs,

except for silo launchers of heavy ICBMs that replace silo launchers of heavy

ICBMs that have been eliminated in accordance with Section II of the Conversion

or Elimination Protocol, provided that the limits provided for in Article II of this

Treaty are not exceeded; [Agreed State 5]

(e) convert launchers that are not launchers of heavy ICBMs into launchers of heavy

ICBMs;

(f) produce, test, or deploy launchers of heavy SLBMs;

(g) reduce the number of warheads attributed to a heavy ICBM of an existing type.

3. Each Party undertakes not to deploy ICBMs other than in silo launchers of

ICBMs, on road-mobile launchers of ICBMs, or on rail-mobile launchers of

ICBMs. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy ICBM launchers other

than silo launchers of ICBMs, road-mobile launchers of ICBMs, or rail-mobile

launchers of ICBMs.

4. Each Party undertakes not to deploy on a mobile launcher of ICBMs an ICBM of

a type that was not specified as a type of ICBM for mobile launchers of ICBMs in

accordance with paragraph 2 of Section VII of the Protocol on Notifications

Relating to this Treaty, hereinafter referred to as the Notification Protocol, unless it

is an ICBM to which no more than one warhead is attributed and the Parties have

agreed within the framework of the Joint Compliance and Inspection Commission

to permit deployment of such ICBMs on mobile launchers of ICBMs. A new type

of ICBM for mobile launchers of ICBMs may cease to be considered to be a type of

ICBM for mobile launchers of ICBMs if no ICBM of that type has been contained

on, or flight-tested from, a mobile launcher of ICBMs.

5. Each Party undertakes not to deploy ICBM launchers of a new type of ICBM and

not to deploy SLBM launchers of a new type of SLBM if such launchers are

capable of launching ICBMs or SLBMs, respectively, of other types. ICBM

launchers of existing types of ICBMs and SLBM launchers of existing types of

SLBMs shall be incapable, without conversion, of launching ICBMs or SLBMs,

respectively, of other types. [Agreed State 16]

6. Each Party undertakes not to convert SLBMs into ICBMs for mobile launchers of

ICBMs, or to load SLBMs on, or launch SLBMs from, mobile launchers of ICBMs.

7. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy transporter-loaders other

than transporter-loaders for ICBMs for road-mobile launchers of ICBMs attributed

with one warhead.

8. Each Party undertakes not to locate deployed silo launchers of ICBMs outside

ICBM bases for silo launchers of ICBMs.

9. Each Party undertakes not to locate soft-site launchers except at test ranges and

space launch facilities. All existing soft-site launchers not at test ranges or space

launch facilities shall be eliminated in accordance with the procedures provided for

in the Conversion or Elimination Protocol no later than 60 days after entry into

force of this Treaty. [Agreed State 27]

10. Each Party undertakes not to:

(a) flight-test ICBMs or SLBMs of a retired or former type from other than test

launchers specified for such use or launchers at space launch facilities. Except for

soft-site launchers, test launchers specified for such use shall not be used to flight-

test ICBMs or SLBMs of a type, any one of which is deployed; [III.10(c)]

(b) produce ICBMs for mobile launchers of ICBMs of a retired type.

11. Each Party undertakes not to convert silos used as launch control centers into

silo launchers of ICBMs. [Silo LCC Letters]

12. Each Party undertakes not to:

(a) produce, flight-test, or deploy an ICBM or SLBM with more than ten reentry

vehicles;

(b) flight-test an ICBM or SLBM with a number of reentry vehicles greater than the

number of warheads attributed to it, or, for an ICBM or SLBM of a retired type,

with a number of reentry vehicles greater than the largest number of warheads that

was attributed to any ICBM or SLBM of that type;

(c) deploy an ICBM or SLBM with a number of reentry vehicles greater than the

number of warheads attributed to it;

(d) increase the number of warheads attributed to an ICBM or SLBM of an existing

or new type. [III.4(b)]

13. Each Party undertakes not to flight-test or deploy an ICBM or SLBM with a

number of reentry vehicles greater than the number of warheads attributed to

it.[Agreed State 3]

14. Each Party undertakes not to flight-test from space launch facilities ICBMs or

SLBMs equipped with reentry vehicles.

15. Each Party undertakes not to use ICBMs or SLBMs for delivering objects into

the upper atmosphere or space for purposes inconsistent with existing international

obligations undertaken by the Parties.

16. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy systems for rapid reload

and not to conduct rapid reload.

17. Each Party undertakes not to install SLBM launchers on submarines that were

not originally constructed as ballistic missile submarines. [US MOU Annex I]

18. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy:

(a) ballistic missiles with a range in excess of 600 kilometers, or launchers of such

missiles, for installation on waterborne vehicles, including free-floating launchers,

other than submarines. This obligation shall not require changes in current ballistic

missile storage, transport, loading, or unloading practices;[Agreed State 9] [Agreed

State 30]

(b) launchers of ballistic or cruise missiles for emplacement on or for tethering to

the ocean floor, the seabed, or the beds of internal waters and inland waters, or for

emplacement in or for tethering to the subsoil thereof, or mobile launchers of such

missiles that move only in contact with the ocean floor, the seabed, or the beds of

internal waters and inland waters, or missiles for such launchers. This obligation

shall apply to all areas of the ocean floor and the seabed, including the seabed zone

referred to in Articles I and II of the Treaty on the Prohibition of the Emplacement

of Nuclear Weapons and Other Weapons of Mass Destruction on the Seabed and the

Ocean Floor and in the Subsoil Thereof of February 11, 1971;

(c) systems, including missiles, for placing nuclear weapons or any other kinds of

weapons of mass destruction into Earth orbit or a fraction of an Earth orbit;

(d) air-to-surface ballistic missiles (ASBMs); [Agreed State 4] [Agreed State 30]

(e) long-range nuclear ALCMs armed with two or more nuclear weapons. [ALCMs

with Multiple Weapons Letters]

19. Each Party undertakes not to:

(a) flight-test with nuclear armaments an aircraft that is not an airplane, but that has

a range of 8000 kilometers or more; equip such an aircraft for nuclear armaments;

or deploy such an aircraft with nuclear armaments;

(b) flight-test with nuclear armaments an airplane that was not initially constructed

as a bomber, but that has a range of 8000 kilometers or more, or an integrated

planform area in excess of 310 square meters; equip such an airplane for nuclear

armaments; or deploy such an airplane with nuclear armaments;

(c) flight-test with long-range nuclear ALCMs an aircraft that is not an airplane, or

an airplane that was not initially constructed as a bomber; equip such an aircraft or

such an airplane for long-range nuclear ALCMs; or deploy such an aircraft or such

an airplane with long-range nuclear ALCMs.

20. The United States of America undertakes not to equip existing or future heavy

bombers for more than 20 long-range nuclear ALCMs. [US MOU Annex G]

21. The Union of Soviet Socialist Republics undertakes not to equip existing or

future heavy bombers for more than 16 long-range nuclear ALCMs. [RF MOU

Annex G]

22. Each Party undertakes not to locate long-range nuclear ALCMs at air bases for

heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear

ALCMs, air bases for heavy bmbers equipped for non-nuclear armaments, air bases

for former heavy bombers, or training facilities for heavy bombers. [US MOU

Annex C] [RF MOU Annex C] [TSSAM Statements]

23. Each Party undertakes not to base heavy bombers equipped for long-range

nuclear ALCMs, heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-

range nuclear ALCMs, or heavy bombers equipped for non-nuclear armaments at

air bases at which heavy bombers of either of the other two categories are based.

[US MOU Annex C] [RF MOU Annex C]

24. Each Party undertakes not to convert:

(a) heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear

ALCMs into heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCM, if such heavy

bombers were previously equipped for long-range nuclear ALCMs;

(b) heavy bombers equipped for non-nuclear armaments into heavy bombers

equipped for long-range nuclear ALCM or into heavy bombers equipped for nuclear

armaments other than long-range nuclear ALCMs;

(c) training heavy bombers into heavy bombers of another category;

(d) former heavy bombers into heavy bombers.

25. Each Party undertakes not to have underground facilities accessible to ballistic

missile submarines. [Underground Submarine Facility Statements]

26. Each Party undertakes not to locate railcars at the site of a rail garrison that has

been eliminated in accordance with Section IX of the Conversion or Elimination

Protocol, unless such railcars have differences, observable by national technical

means of verification, in length, width, or height from rail-mobile launchers of

ICBMs or launch-associated railcars.

27. Each Party undertakes not to engage in any activities associated with strategic

offensive arms at eliminated facilities, notification of the elimination of which has

been provided in accordance with paragraph 3 of Section I of the Notification

Protocol, unless notification of a new facility at the same location has been provided

in accordance with paragraph 3 of Section I of the Notification Protocol. Strategic

offensive arms and support equipment shall not be located at eliminated facilities

except during their movement through such facilities and during visits of heavy

bombers or former heavy bombers at such facilities. Missile tenders may be located

at eliminated facilities only for purposes not associated with strategic offensive

arms. [Statement on Launch-Associated/Driver Training Vehicles]

28. Each Party undertakes not to base strategic offensive arms subject to the

limitations of this Treaty outside its national territory. [Agreed State 8][Agreed

State 18] [3rd Country Basing Letter]

29. Each Party undertakes not to use naval vessels that were formerly declared as

missile tenders to transport, store, or load SLBMs. Such naval vessels shall not be

tied to a ballistic missile submarines for the purpose of supporting such a submarine

if such a submarine is located within five kilometers of a submarine base.[US MOU

Annex B]

30. Each Party undertakes not to remove from production facilities for ICBMs for

mobile launchers of ICBMs, solid rocket motors with attached nozzles for the first

stages of ICBMs for mobile launchers of ICBMs, except for:

(a) the removal of such motors as part of assembled first stages of ICBMs for

ICBMs for mobile launchers of ICBMs that are maintained, stored, and transported

in stages; [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F]

(b) the removal of such motors as part of assembled ICBMs for mobile launchers of

ICBMs that are maintained, stored, and transported as assembled missiles in launch

canisters or without launch canisters; and[RF MOU Annex F] [US MOU Annex F]

[Agreed State 28]

(c) the removal of such motors as part of assembled first stages of ICBMs for

mobile launchers of ICBMs that are maintained, stored, and transported as

assembled missiles in launch canisters or without launch canisters, for the purpose

of technical characteristics exhibitions. [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F]

[Agreed State 28]

ARTICLE VI

1. Deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall be

based only in restricted areas. A restricted area shall not exceed five square

kilometers in size and shall not overlap another restricted area. No more than ten

deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles may be

based or located in a restricted area. A restricted area shall not contain deployed

ICBMs for road-mobile launchers of ICBMs of more than one type of ICBM. [RF

MOU Annex A] [Agreed State 19]

2. Each Party shall limit the number of fixed structures for road-mobile launchers of

ICBMs within each restricted areas so that these structures shall not be capable of

containing more road-mobile launchers of ICBMs than the number of road-mobile

launchers of ICBMs specified for that restricted area. [RF MOU Annex A]

3. Each restricted area shall be located within a deployment area. A deployment

area shall not exceed 125,000 square kilometers in size and shall not overlap

another deployment area. A deployment area shall contain no more than one ICBM

base for road-mobile launchers of ICBMs.[RF MOU Annex A]

4. Deployed rail-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall be

based only in rail garrisons. Each Party shall have no more than seven rail garrisons.

No point on a portion of track located inside a rail garrison shall be more than 20

kilometers from any entrance/exit for that rail garrison. This distance shall be

measured along the tracks. A rail garrison shall not overlap another rail

garrison.[RF MOU Annex A]

5. Each rail garrison shall have no more than two rail entrances/exits. Each such

entrance/exit shall have no more than two separate sets of tracks passing through it

(a total of four rails).[RF MOU Annex A]

6. Each Party shall limit the number of parking sites in each rail garrison to no more

than the number of trains of standard configuration specified for that rail garrison.

Each rail garrison shall have no more than five parking sites.[RF MOU Annex A]

[RF MOU Annex F]

7. Each Party shall limit the number of fixed structures for rail-mobile launchers of

ICBMs in each rail garrison to no more than the number of trains of standard

configuration specified for that rail garrison. Each such structure shall contain no

more than one train of standard configuration.[RF MOU Annex A] [RF MOU

Annex F]

8. Each rail garrison shall contain no more than one maintenance facility. [RF

MOU Annex A]

9. Deployed mobile launchers of ICBMs and their associated missiles may leave

restricted areas or rail garrisons only for routine movements, relocations, or

dispersals [XIII.1] [XIV.1]. Deployed road-mobile launchers of ICBMs and their

associated missiles may leave deployment areas only for relocations or operational

dispersals.

10. Relocations shall be completed within 25 days. No more than 15 percent of the

total number of deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated

missiles or five such launchers and their associated missiles, whichever is greater,

may be outside restricted areas at any one time for the purpose of relocation. No

more than 20 percent of the total number of deployed rail-mobile launchers of

ICBMs and their associated missiles or five such launchers and their associated

missiles, whichever is greater, may be outside rail garrisons at any one time for the

purpose of relocation.

11. No more than 50 percent of the total number of deployed rail-mobile launchers

of ICBMs and their associated missiles may be engaged in routine movements at

any one time.[RF MOU Annex A]

12. All trains with deployed rail-mobile launchers of ICBMs and their associated

missiles of a particular type shall be of one standard configuration. All such trains

shall conform to that standard configuration except those taking part in routine

movements, relocations, or dispersals, and except that portion of a train remaining

within a rail garrisons after the other portion of such a train has departed for the

maintenance facility associated with that rail garrison, has been relocated to another

facility, or has departed the rail garrison for routine movement. Except for

dispersals, notification of variations from standard configuration shall be provided

in accordance with paragraphs 13, 14, and 15 of Section II of the Notification

Protocol.[RF MOU Annex A] [RF MOU Annex F]

ARTICLE VII

1. Conversion and elimination of strategic offensive arms, fixed structures for

mobile launchers of ICBMs, and facilities shall be carried out pursuant to this

Article and in accordance with procedures provided for in the Conversion or

Elimination Protocol. Conversion and elimination shall be verified by national

technical means of verification and by inspection as provided for in Articles IX and

XI of this Treaty; in the Conversion or Elimination Protocol; and in the Protocol on

Inspections and Continuous Monitoring Activities Relating to this Treaty,

hereinafter referred to as the Inspection Protocol.

2. ICBMs for mobile launchers of ICBMs, ICBM launchers, SLBM launchers,

heavy bombers, former heavy bombers, and support equipment shall be subject to

the limitations provided for in this Treaty until they have been eliminated, or

otherwise cease to be subject to the limitations provided for in this Treaty, in

accordance with procedures provided for in the Conversion or Elimination

Protocol. [Agreed State 11] [Agreed State 37] [Joint State Missile Production

Technology]

3. ICBMs for silo launchers of ICBMs and SLBMs shall be subject to the

limitations provided for in this Treaty until they have been eliminated by rendering

them inoperable, precluding their use for their original purpose, using procedures at

the discretion of the Party possessing the ICBMs or SLBMs.

4.The elimination of ICBMs for mobile launchers of ICBMs, mobile launchers of

ICBMs, SLBM launchers, heavy bombers, and former heavy bombers [Agreed

State 10]shall be carried out at conversion or elimination facilities, except as

provided for in Sections VII and VIII of the Conversion or Elimination Protocol.

Fixed launchers of ICBMs and fixed structures for mobile launchers of ICBMs

subject to elimination shall be eliminated in situ. A launch canister [Launch

Canister Letters] [Agreed State 20]remaining at a test range or ICBM base after the

flight test of an ICBM for mobile launchers of ICBMs shall be eliminated in the

open in situ, or at a conversion or elimination facility, in accordance with

procedures provided for in the Conversion or Elimination Protocol.[Agreed State

37]

ARTICLE VIII

1. A data base pertaining to the obligations under this Treaty is set forth in the

Memorandum of Understanding, in which data with respect to items subject to the

limitations provided for in this Treaty are listed according to categories of data.

[MOU, Annex J] [Joint State Data Updates] [Agreed State 37]

2. In order to ensure the fulfillment of its obligations with respect to this Treaty,

each Party shall notify the other Party of changes in data, as provided for in

subparagraph 3(a) of this Article, and shall also provide other notifications required

by paragraph 3 of this Article, in accordance with the procedures provided for in

paragraphs 4, 5, and 6 of this Article, the Notification Protocol, and the Inspection

Protocol.

3. Each Party shall provide to the other Party, in accordance with the Notification

Protocol, and, for subparagraph (i) of this paragraph, in accordance with Section III

of the Inspection Protocol:[Agreed State 37]

(a) notifications concerning data with respect to items subject to the limitations

provided for in this Treaty, according to categories of data contained in the

Memorandum of Understanding and other agreed categories of data;[Agreed State

21]

(b) notifications concerning movement of items subject to the limitations provided

for in this Treaty;

(c) notifications concerning data on ICBM and SLBM throw-weight in connection

with the Protocol on ICBM and SLBM Throw-weight [MOU, Section I] Relating to

this Treaty, hereinafter referred to as the Throw-weight Protocol;

(d) notifications concerning conversion or elimination of items subject to the

limitations provided for in this Treaty or elimination of facilities subject to this

Treaty;

(e) notifications concerning cooperative measures to enhance the effectiveness of

national technical means of verification;

(f) notifications concerning flight tests of ICBMs or SLBMs and notifications

concerning telemetric information; [Launch Notification Agreement]

(g) notifications concerning strategic offensive arms of new types and new kinds;

[Agreed State 2]

(h) notifications concerning changes in the content of information provided

pursuant to this paragraph, including the rescheduling of activities;

(i) notifications concerning inspections and continuous monitoring activities; and

(j) notifications concerning operational dispersals.

4. Each Party shall use the Nuclear Risk Reduction Centers, which provide for

continuous communication between the Parties, to provide and receive notifications

in accordance with the Notification Protocol and the Inspection Protocol, unless

otherwise provided for in this Treaty, and to acknowledge receipt of such

notifications no later than one hour after receipt.

5. If a time is to be specified in a notification provided pursuant to this Article, that

time shall be expressed in Greenwich Mean Time. If only a date is to be specified in

a notification, that date shall be specified as the 24-hour period that corresponds to

the date in local time, expressed in Greenwich Mean Time.

6. Except as otherwise provided in this Article, each Party shall have the right to

release to the public all data current as of September 1, 1990, that are listed in the

Memorandum of Understanding, as well as the photographs that are appended

thereto. Geographic coordinates and site diagrams that are received pursuant to the

Agreement Between the Government of the United States of America and the

Government of the Union of Soviet Socialist Republics on Exchange of Geographic

Coordinates and Site Diagrams Relating to the Treaty of July 31, 1991, shall not be

released to the public unless otherwise agreed. The Parties shall hold consultations

on releasing to the public data and other information provided pursuant to this

Article or received otherwise in fulfilling the obligations provided for in this Treaty.

The provisions of this Article shall not affect the rights and obligations of the

Parties with respect to the communication of such data and other information to

those individuals who, because of their official responsibilities, require such data or

other information to carry out activities related to the fulfillment of the obligations

provided for in this Treaty. [Statements on Release to Public]

ARTICLE IX

1. For the purpose of ensuring verification of compliance with the provisions of this

Treaty, each Party shall use national technical means of verification at its disposal

in a manner consistent with generally recognized principles of international law.

2. Each Party undertakes not to interfere with the national technical means of

verification of the other Party operating in accordance with paragraph l of this

Article.

3. Each Party undertakes not to use concealment measures that impede verification,

by national technical means of verification, of compliance with the provisions of

this Treaty. In this connection, the obligation not to use concealment measures

includes the obligation not to use them at test ranges, including measures that result

in the concealment of ICBMs, SLBMs, mobile launchers of ICBMs, or the

association between ICBMs or SLBMs and their launchers during testing. The

obligation not to use concealment measures shall not apply to cover or concealment

practices at ICBM bases and deployment areas, or to the use of environmental

shelters for strategic offensive arms.

4. To aid verification, each ICBM for mobile launchers of ICBMs shall have a

unique identifier as provided for in the Inspection Protocol.

ARTICLE X

1. During each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test

shall make on-board technical measurements and shall broadcast all telemetric

information obtained from such measurements. The Party conducting the flight test

shall determine which technical parameters are to be measured during such flight

test, as well as the methods of processing and transmitting telemetric information.

2. During each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test

undertakes not to engage in any activity that denies full access to telemetric

information, including: [Statements on Encryption & Jamming]

(a) the use of encryption;

(b) the use of jamming;

(c) broadcasting telemetric information from an ICBM or SLBM using narrow

directional beaming; and

(d) encapsulation of telemetric information, including the use of ejectable capsules

or recoverable reentry vehicles..

3. During each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test

undertakes not to broadcast from a reentry vehicles. telemetric information that

pertains to the functioning of the stages or the self-contained dispensing mechanism

of the ICBM or SLBM.

4. After each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test

shall provide, in accordance with Section I of the Protocol on Telemetric

Information Relating to the Treaty, hereinafter referred to as the Telemetry

Protocol, tapes nthat contain a recording of all telemetric information that is

broadcast during the flight test.

5. After each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test

shall provide, in accordance with Section II of the Telemetry Protocol, data

associated with the analysis of the telemetric information.[Agreed State 35]

6. Notwithstanding the provisions of paragraphs 1 and 2 of this Article, each Party

shall have the right to encapsulate and encrypt on-board technical measurements

during no more than a total of eleven flight tests of ICBMs or SLBMs each year. Of

these eleven flight tests each year, no more than four shall be flight tests of ICBMs

or SLBMs of each type, any missile of which has been flight-tested with a self-

contained dispensing mechanism. Such encapsulation shall be carried out in

accordance with Section I and paragraph 1 of Section III of the Telemetry Protocol,

and such encryption shall be carried out in accordance with paragraph 2 of Section

III of the Telemetry Protocol. Encapsulation and encryption that are carried out on

the same flight test of an ICBM or SLBM shall count as two flight tests against the

quotas specified in this paragraph.[Agreed State 31]

ARTICLE XI

1. For the purpose of ensuring verification of compliance with the provisions of this

Treaty, each Party shall have the right to conduct inspections and continuous

monitoring activities and shall conduct exhibitions pursuant to this Article and the

Inspection Protocol. Inspections, continuous monitoring activities, and exhibitions

shall be conducted in accordance with the procedures provided for in the Inspection

Protocol and the Conversion or Elimination Protocol. [item of inspection] [size

criteria][Agreed State 36]

2. Each Party shall have the right to conduct baseline data inspections at facilities to

confirm the accuracy of data on the numbers and types of items specified for such

facilities in the initial exchange of data provided in accordance with paragraph 1 of

Section I of the Notification Protocol. [facility inspections at] [Agreed State 10]

3. Each Party shall have the right to conduct data update inspections at facilities to

confirm the accuracy of data on the numbers and types of items specified for such

facilities in the notifications and regular exchanges of updated data provided in

accordance with paragraphs 2 and 3 of Section I of the Notification

Protocol.[facility inspections at] [Agreed State 10]

4. Each Party shall have the right to conduct new facility inspections to confirm the

accuracy of data on the numbers and types of items specified in the notifications of

new facilities provided in accordance with paragraph 3 of Section I of the

Notification Protocol.[facility inspections at]

5. Each Party shall have the right to conduct suspect-site inspections to confirm that

covert assembly of ICBMs for mobile launchers of ICBMs or covert assembly of

first stages of such ICBMs is not occurring. [facility inspections at] [RF MOU

Annex I] [US MOU Annex I] [Joint State on Site Diagrams]

6. Each Party shall have the right to conduct reentry vehicle inspections of deployed

ICBMs and SLBMs to confirm that such ballistic missiles contain no more reentry

vehicles than the number of warheads attributed to them.[facility inspections at][RF

MOU Section I] [US MOU Section I]

7. Each Party shall have the right to conduct post-exercise dispersal inspections of

deployed mobile launchers of ICBMs and their associated missiles to confirm that

the number of mobile launchers of ICBMs and their associated missiles that are

located at the inspected ICBM bases and those that have not returned to it after

completion of the dispersal does not exceed the number specified for that ICBM

base.

8. Each Party shall conduct or shall have the right to conduct conversion or

elimination inspections to confirm the conversion or elimination of strategic

offensive arms.

9. Each Party shall have the right to conduct close-out inspections to confirm that

the elimination of facilities has been completed.

10. Each Party shall have the right to conduct formerly declared facility inspections

to confirm that facilities, notification of the elimination of which has been provided

in accordance with paragraph 3 of Section I of the Notification Protocol, are not

being used for purposes inconsistent with this Treaty.

11. Each Party shall conduct technical characteristics exhibitions, and shall have the

right during such exhibitions by the other Party to conduct inspections of an ICBM

and an SLBM of each type, and each variant thereof, and of a mobile launcher of

ICBMs and each version of such launcher for each type of ICBM for mobile

launchers of ICBMs. The purpose of such exhibitions shall be to permit the

inspecting Party to confirm that technical characteristics correspond to the data

specified for these items. [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F][Agreed State

25] [Early Exhibitions Agreement][Agreed State 28]

12. Each Party shall conduct distinguishability exhibitions for heavy bombers,

former heavy bombers, and long-range nuclear ALCMs, and shall have the right

during such exhibitions by the other Party to conduct inspections, of: [Agreed State

10]

(a) heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs. The purpose of such

exhibitions shall be to permit the inspecting Party to confirm that the technical

characteristics of each type and each variant of such heavy bombers correspond to

the data specified for these items in Annex G to the Memorandum of

Understanding; to demonstrate the maximum number of long-range nuclear ALCMs

for which a heavy bomber of each type and each variant is actually equipped; and to

demonstrate that this number does not exceed the number provided for in paragraph

20 or21 of Article V of this Treaty, as applicable; [RF MOU Annex G] [US MOU

Annex G]

(b) for each type of heavy bomber from any one of which a long-range nuclear

ALCM has been flight-tested, heavy bombers equipped for nuclear armaments other

than long-range nuclear ALCMs, heavy bombers equipped for non-nuclear

armaments, training heavy bombers, and former heavy bombers. If, for such a type

of heavy bomber, there are no heavy bombers equipped for long-range nuclear

ALCMs, a test heavy bomber from which a long-range nuclear ALCM has been

flight-tested shall be exhibited. The purpose of such exhibitions shall be to

demonstrate to the inspecting Party that, for each exhibited type of heavy bomber,

each variant of heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-

range nuclear ALCMs, each variant of heavy bombers equipped for non-nuclear

armaments, each variant of training heavy bombers, and a former heavy bomber are

distinguishable from one another and from each variant of heavy bombers of the

same type equipped for long-range nuclear ALCMs; and [RF MOU Annex G] [US

MOU Annex G]

(c) long-range nuclear ALCMs. The purpose of such exhibitions shall be to permit

the inspecting Party to confirm that the technical characteristics of each type and

each variant of such long-range ALCMs correspond to the data specified for these

items in Annex H to the Memorandum of Understanding. The further purpose of

such exhibitions shall be to demonstrate differences, notification of which has been

provided in accordance with paragraph 13, 14, or 15 of Section VII of the

Notification Protocol, that make long-range non-nuclear ALCMs distinguishable

from long-range nuclear ALCMs.[RF MOU Annex H] [US MOU Annex H]

13. Each Party shall conduct baseline exhibitions, and shall have the right during

such exhibitions by the other Party to conduct inspections, of all heavy bombers

equipped for long-range nuclear ALCMs equipped for non-nuclear armaments, all

training heavy bombers, and all former heavy bombers specified in the initial

exchange of data provided in accordance with paragraph 1 of Section I of the

Notification Protocol. The purpose of these exhibitions shall be to demonstrate to

the inspecting Party that such airplanes satisfy the requirements for conversion in

accordance with the Conversion or Elimination Protocol. After a long-range

nuclear ALCM has been flight-tested from a heavy bomber of a type, from none of

which a long-range nuclear ALCM had previously been flight-tested, the Party

conducting the flight test shall conduct baseline exhibitions, and the other Party

shall have the right during such exhibitions to conduct inspections, of 30 percent of

the heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs of such type equipped

for nuclear armaments other than long-range nuclear ALCMs at each air base

specified for such heavy bombers. The purpose of these exhibitions shall be to

demonstrate to the inspecting Party the presence of specified features that make

each exhibited heavy bomber distinguishable from heavy bombers of the same type

equipped for long-range nuclear ALCMs.

14. Each Party shall have the right to conduct continuous monitoring activities at

production facilities for ICBMs for mobile launchers of ICBMs to confirm the

number of ICBMs for mobile launchers of ICBMs produced.[Agreed State 22]

[facilities] [Site Surveys Letters]

ARTICLE XII

1. To enhance the effectiveness of national technical means of verification, each

Party shall, if the other Party makes a request in accordance with paragraph 1 of

Section V of the Notification Protocol, carry out the following cooperative

measures:

(a) a display in the open of the road-mobile launchers of ICBMs located within

restricted areas specified by the requesting Party. The number of road-mobile

launchers of ICBMs based at the restricted areas specified in each such request shall

not exceed ten percent of the total number of deployed road-mobile launchers of

ICBMs of the requested Party, and such launchers shall be contained within one

ICBM base for road-mobile launchers of ICBMs. For each specified restricted area,

the roofs of fixed structures for road-mobile launchers of ICBMs shall be open for

the duration of a display. The road-mobile launchers of ICBMs located within the

restricted area shall be displayed either located next to or moved halfway out of

such fixed structures; [RF MOU Annex A]

(b) a display in the open of the rail-mobile launchers of ICBMs located at parking

sites specified by the requesting Party. Such launchers shall be displayed by

removing the entire train from its fixed structure and locating the train within the

rail garrison. The number of rail-mobile launchers of ICBMs subject to display

pursuant to each such request shall include all such launchers located at no more

than eight parking sites, provided that no more than two parking sites may be

requested within any one rail garrison in any one request. Requests concerning

specific parking sites shall include the designation for each parking site as provided

for in Annex A to the Memorandum of Understanding; and[RF MOU Annex A]

(c) a display in the open of all heavy bombers and former heavy bombers located

within one air base specified by the requesting Party, except those heavy bombers

and former heavy bombers that are not readily movable due to maintenance or

operations. Such heavy bombers and former heavy bombers shall be displayed by

removing the entire airplane from its fixed structure, if any, and locating the

airplane within the air base. Those heavy bombers and former heavy bombers at the

air base specified by the requesting Party that are not readily movable due to

maintenance or operations shall be specified by the requested Party in a notification

provided in accordance with paragraph 2 of Section V of the Notification Protocol.

Such a notification shall be provided no later than 12 hours after the request for

display has been made.

2. Road-mobile launchers of ICBMs, rail-mobile launchers of ICBMs, heavy

bombers, and former heavy bombers subject to each request pursuant to paragraph 1

of this Article shall be displayed in open view without using concealment measures.

Each Party shall have the right to make seven such requests each year, but shall not

request a display at any particular ICBM base for road-mobile launchers of ICBMs,

any particular parking site, or any particular air base more than two times each year.

A Party shall have the right to request, in any single request, only a display of road-

mobile launchers of ICBMs, a display of rail-mobile launchers of ICBMs, or a

display of heavy bombers and former heavy bombers. A display shall begin no later

than 12 hours after the request is made and shall continue until 18 hours have

elapsed from the time that the request was made. If the requested Party cannot

conduct a display due to circumstances brought about by force majeure, it shall

provide notification to the requesting Party in accordance with paragraph 3 of

Section V of the Notification Protocol, and the display shall be cancelled. In such a

case, the number of requests to which the requesting Party is entitled shall not be

reduced.

3. A request for cooperative measures shall not be made for a facility that has been

designated for inspection until such an inspection has been completed and the

inspectors have departed the facility. A facility for which cooperative measures

have been requested shall not be designated for inspection until the cooperative

measures have been completed or until notification has been provided in accordance

with paragraph 3 of Section V of the Notification Protocol.

ARTICLE XIII

1. Each Party shall have the right to conduct exercise dispersal of deployed mobile

launchers of ICBMs and their associated missiles from restricted areas or rail

garrisons. Such an exercise dispersal may involve either road-mobile launchers of

ICBMs or rail-mobile launchers of ICBMs, or both road-mobile launchers of

ICBMs and rail-mobile launchers of ICBMs. Exercise dispersals of deployed

mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall be conducted as

provided for below:

(a) An exercise dispersal shall be considered to have begun as of the date and time

specified in the notification provided in accordance with paragraph 11 of Section II

of the Notification Protocol.

(b) An exercise dispersal shall be considered to be completed as of the date and time

specified in the notification provided in accordance with paragraph 12 of Section II

of the Notification Protocol.

(c) Those ICBM bases for mobile launchers of ICBMs specified in the notification

provided in accordance with paragraph 11 of Section II of the Notification Protocol

shall be considered to be involved in an exercise dispersal.

(d) When an exercise dispersal begins, deployed mobile launchers of ICBMs and

their associated missiles engaged in a routine movement from a restricted area or

rail garrison of an ICBM base for mobile launchers of ICBMs that is involved in

such a dispersal shall be considered to be part of the dispersal.

b(e) When an exercise dispersal begins, deployed mobile launchers of ICBMs and

their associated missiles engaged in a relocation from a restricted area or rail

garrisons of an ICBM base for mobile launchers of ICBMs that is involved in such a

dispersal shall continue to be considered to be engaged in a relocation. Notification

of the completion of the relocation shall be provided in accordance with paragraph

10 of Section II of the Notification Protocol, unless notification of the completion of

the relocation was provided in accordance with paragraph 12 of Section II of the

Notification Protocol.

(f) During an exercise dispersal, all deployed mobile launchers of ICBMs and their

associated missiles that depart a restricted area or rail garrison of an ICBM base for

mobile launchers of ICBMs involved in such a dispersal shall be considered to be

part of the dispersal, except for such launchers and missiles that relocate to a facility

outside their associated ICBM base during such a dispersal.

(g) An exercise dispersal shall be completed no later than 30 days after it begins.

(h) Exercise dispersals shall not be conducted:

(i) more than two times in any period of two calendar years;

(ii) during the entire period of time provided for baseline data inspections;

(iii) from a new ICBM base for mobile launchers of ICBMs until a new facility

inspection has been conducted or until the period of time provided for such an

inspection has expired; or

(iv) from an ICBM base for mobile launchers of ICBMs that has been designated

for a data update inspection or reentry vehicle inspection, until completion of such

an inspection.

(i) If a notification of an exercise dispersal has been provided in accordance with

paragraph 11 of Section II of the Notification Protocol, the other Party shall not

have the right to designate for data update inspection or reentry vehicle inspection

an ICBM base for mobile launchers of ICBMs involved in such a dispersal, or to

request cooperative measures for such an ICBM base, until the completion of such a

dispersal.

(j) When an exercise dispersal is completed, deployed mobile launchers of ICBMs

and their associated missiles involved in such a dispersal shall be located at their

restricted areas or rail garrisons, except for those otherwise accounted for in

accordance with paragraph 12 of Section II of the Notification Protocol.

2. A major strategic exercise involving heavy bombers, about which a notification

has been provided pursuant to the Agreement Between the Government of the

United States of America and the Government of the Union of Soviet Socialist

Republics on Reciprocal Advance Notification of Major Strategic Exercises of

September 23, 1989, shall be conducted as provided for below:

(a) Such exercise shall be considered to have begun as of the date and time specified

in the notification provided in accordance with paragraph 16 of Section II of the

Notification Protocol.

(b) Such exercise shall be considered to be completed as of the date and time

specified in the notification provided in accordance with paragraph 17 of Section II

of the Notification Protocol.

(c) The air bases for heavy bombers and air bases for former heavy bombers

specified in the notification provided in accordance with paragraph 16 of Section II

of the Notification Protocol shall be considered to be involved in such exercise.

(d) Such exercise shall begin no more than one time in any calendar year, and shall

be completed no later than 30 days after it begins.

(e) Such exercise shall not be conducted during the entire period of time provided

for baseline data inspections.

(f) During such exercise by a Party, the other Party shall not have the right to

conduct inspections of the air bases for heavy bombers and air bases for former

heavy bombers involved in the exercise. The right to conduct inspections of such air

bases shall resume three days after notification of the completion of a major

strategic exercise involving heavy bombers has been provided in accordance with

paragraph 17 of Section II of the Notification Protocol.

(g) Within the 30-day period following the receipt of the notification of the

completion of such exercise, the receiving Party may make a request for cooperative

measures to be carried out in accordance with subparagraph 1(c) of Article XII of

this Treaty at one of the air bases involved in the exercise. Such a request shall not

be counted toward the quota provided for in paragraph 2 of Article XII of this

Treaty.

ARTICLE XIV

1. Each Party shall have the right to conduct operational dispersals of deployed

mobile launchers of ICBMs and their associated missiles, ballistic missile

submarines, and heavy bombers. There shall be no limit on the number and duration

of operational dispersals, and there shall be no limit on the number of deployed

mobile launchers of ICBMs and their associated missiles, ballistic missile

submarines, or heavy bombers involved in such dispersals. When an operational

dispersal begins, all strategic offensive arms of a Party shall be considered to be part

of the dispersal. Operational dispersals shall be conducted as provided for

below:[Agreed State 7]

(a) An operational dispersal shall be considered to have begun as of the date and

time specified in the notification provided in accordance with paragraph 1 of

Section X of the Notification Protocol.

(b) An operational dispersal shall be considered to be completed as of the date and

time specified in the notification provided in accordance with paragraph 2 of

Section X of the Notification Protocol.

2. During an operational dispersal each Party shall have the right to:

(a) suspend notifications that it would otherwise provide in accordance with the

Notification Protocol except for notification of flight tests provided under the

Agreement Between the United States of America and the Union of Soviet Socialist

Republics on Notifications of Launches of Intercontinental Ballistic Missiles and

Submarine-Launched Ballistic Missiles of May 31, 1988; provided that, if any

conversion or elimination processes are not suspended pursuant to subparagraph (d)

of this paragraph, the relevant notifications shall be provided in accordance with

Section IV of the Notification Protocol;

(b) suspend the right of the other Party to conduct inspections;

(c) suspend the right of the other Party to request cooperative measures; and

(d) suspend conversion and elimination processes for its strategic offensive arms. In

such case, the number of converted and eliminated items shall correspond to the

number that has actually been converted and eliminated as of the date and time of

the beginning of the operational dispersal specified in the notification provided in

accordance with paragraph 1 of Section X of the Notification Protocol.

3. Notifications suspended pursuant to paragraph 2 of this Article shall resume no

later than three days after notification of the completion of the operational dispersal

has been provided in accordance with paragraph 2 of Section X of the Notification

Protocol. The right to conduct inspections and to request cooperative measures

suspended pursuant to paragraph 2 of this Article shall resume four days after

notification of the completion of the operational dispersal has been provided in

accordance with paragraph 2 of Section X of the Notification Protocol. Inspections

or cooperative measures being conducted at the time a Party provides notification

that it suspends inspections or cooperative measures during an operational dispersal

shall not count toward the appropriate annual quotas provided for by this Treaty.

4. When an operational dispersal is completed:

(a) All deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall

be located within their deployment areas or shall be engaged in relocations .

(b) All deployed rail-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall

be located within their rail garrisons or shall be engaged in routine movements or

relocations .

(c) All heavy bombers shall be located within national territory and shall have

resumed normal operations. If it is necessary for heavy bombers to be located

outside national territory for purposes not inconsistent with this Treaty, the Parties

will immediately engage in diplomatic consultations so that appropriate assurances

can be provided.

5. Within the 30 day period after the completion of an operational dispersal, the

Party not conducting the operational dispersal shall have the right to make no more

than two requests for cooperative measures, subject to the provisions of Article XII

of this Treaty, for ICBM bases for mobile launchers of ICBMs or air bases. Such

requests shall not count toward the quota of requests provided for in paragraph 2 of

Article XII of this Treaty.

ARTICLE XV

To promote the objectives and implementation of the provisions of this Treaty, the

Parties hereby establish the Joint Compliance and Inspection Commission. The

Parties agree that, if either Party so requests, they shall meet within the framework

of the Joint Compliance and Inspection Commission to: [Lisbon Protocol]

(a) resolve questions relating to compliance with the obligations assumed;

(b) agree upon such additional measures as may be necessary to improve the

viability and effectiveness of this Treaty; and

(c) resolve questions related to the application of relevant provisions of this Treaty

to a new kind of strategic offensive arm, after notification has been provided in

accordance with paragraph 16 of Section VII of the Notification Protocol.

ARTICLE XVI

To ensure the viability and effectiveness of this Treaty, each Party shall not assume

any international obligations or undertakings that would conflict with its provisions.

The Parties shall hold consultations in accordance with Article XV of this Treaty in

order to resolve any ambiguities that may arise in this regard. The Parties [Lisbon

Protocol] agree that this provision does not apply to any patterns of cooperation,

including obligations, in the area of strategic offensive arms, existing at the time of

signature of this Treaty, between a Party and a third State. [Agreed State 1] [Soviet

State on Non-Circumvention & Patterns of Coop]

ARTICLE XVII

1. This Treaty, including its Annexes, Protocols, and Memorandum of

Understanding, all of which form integral parts thereof, shall be subject to

ratification in accordance with the constitutional procedures of each Party. This

Treaty shall enter into force on the date of the exchange of instruments of

ratification.

2. This Treaty shall remain in force for 15 years unless superseded earlier by a

subsequent agreement on the reduction and limitation of strategic offensive arms.

No later than one year before the expiration of the 15-year period, the Parties shall

meet to consider whether this Treaty will be extended. If the Parties so decide, this

Treaty will be extended for a period of five years unless it is superseded before the

expiration of that period by a subsequent agreement on the reduction and limitation

of strategic offensive arms. This Treaty shall be extended for successive five-year

periods, if the Parties so decide, in accordance with the procedures governing the

initial extension, and it shall remain in force for each agreed five-year period of

extension unless it is superseded by a subsequent agreement on the reduction and

limitation of strategic offensive arms.

3. Each Party shall, in exercising its national sovereignty, have the right to withdraw

from this Treaty if it decides that extraordinary events related to the subject matter

of this Treaty have jeopardized its supreme interests. It shall give notice of its

decision to the other Party six months prior to withdrawal from this Treaty. Such

notice shall include a statement of the extraordinary events the notifying Party

regards as having jeopardized its supreme interests.

ARTICLE XVIII

Each Party may propose amendments to this Treaty. Agreed amendments shall enter

into force in accordance with the procedures governing entry into force of this

Treaty.

ARTICLE XIX

This Treaty shall be registered pursuant to Article 102 of the Charter of the United Nations.

Done at Moscow on July 31, 1991, in two copies, each in the English and Russian languages, both texts being equally authentic.

FOR THE UNITED STATES OF AMERICA: George Bush

President of the United States of America

FOR THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS: M. Gorbachev

President of the Union of Soviet Socialist Republics