BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Văn Bản
CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1963 – 1991 (QUA CÁC VĂN KIỆN NGOẠI GIAO)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Văn Bản
CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1963 – 1991 (QUA CÁC VĂN KIỆN NGOẠI GIAO) Chuyên ngành: Lịch sử thế giới Mã số:
60220311
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ PHỤNG HOÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa
từng công bố ở các công trình nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả
Nguyễn Văn Bản
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Phòng Sau Đại học, các thầy cô Khoa Lịch Sử cùng tất cả các bạn
đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn Tiến sĩ Lê Phụng Hoàng,
Thầy đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện luận văn này.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận
tình của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gắng hết sức
mình, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu
vô cùng quý báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh tháng 9 năm 2014
Nguyễn Văn Bản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1. VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ
KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1945 – 1962 ................................ 6
1.1. Sự ra đời của vũ khí hạt nhân ........................................................................ 6
1.2. Chính sách vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 – 1962 ............................ 13
1.2.1. Dưới thời Tổng thống Truman (1945 - 1952) .......................................... 13
1.2.2. Dưới thời Tổng thống Eisenhower (1953 – 1960) ................................... 23
1.2.3. Dưới thời Tổng thống Kennedy ............................................................... 24
1.3. Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 đến trước
cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962) ............................................ 26
1.3.1. Những kiến nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân của các nhà khoa học
nguyên tử Hoa Kỳ ...................................................................................... 26
1.3.2. Chính sách của chính quyền Hoa Kỳ về kiểm soát vũ khí hạt nhân ........ 32
1.4. Cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962) ............................................. 37
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 40
Chương 2. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA
KỲ TỪ 1963 ĐẾN 1976 .......................................................................................... 41
2.1. Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân một phần năm 1963 ( Limited Test
Ban Treaty -LTBT) .................................................................................... 41
2.2. Hiệp ước về Không gian vũ trụ năm 1967 (Outer Space Treaty Text –
OST ............................................................................................................ 49
2.3. Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 (Nuclear Non-
Proliferation Treaty – NPT) ....................................................................... 53
2.4. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1972 (Strategic
Arms Limitation Talks – SALT I) ............................................................. 60
2.5. Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 (TTBT -
Threshold Test Ban Treaty) và Hiệp ước về Nổ hạt nhân vì mục đích
hòa bình năm 1976 (PNET - Peaceful Nuclear Explosions Treaty) .......... 69
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 74
Chương 3. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA
KỲ TỪ 1977 ĐẾN 1991 .......................................................................................... 75
3.1. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn II năm 1979 (Strategic
Arms Limitation Talks – SALT II) ............................................................ 75
3.2. Các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về kiểm soát vũ khí
chống vệ tinh (ASAT - Anti-Satellite) ....................................................... 80
3.3. Hiệp ước Hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn năm 1987
(INF - Intermediate-Range and Shorter-Range Nuclear Forces Treaty) .. 87
3.4. Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1991 (Strategic
Arms Reduction Treaty – START I) ......................................................... 99
Tiểu kết chương 3.................................................................................................... 108
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 112
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ABM: Anti-Ballistic Missille: Tên lửa chống tên lửa đạn đạo, Hiệp ước ABM
ACDA: Arms Control and Disarmament Agency: Cơ quan kiểm soát vũ khí và
giải trừ quân bị của Hoa Kỳ.
AEC: Atomic Energy Commission: Ủy ban năng lượng nguyên tử - Đây là cơ
quan phát triển năng lượng nguyên tử giành cho mục đích quân sự và
mục đích hòa bình của Hoa Kỳ từ năm 1946 đến 1975.
ALCM: Air-Launched Cruise Missile: Tên lửa hành trình phóng từ máy bay.
ASAT: Anti-Satellite: Vũ khí chống vệ tinh
ASBM: Air-to-Surface Ballistic Missile: Tên lửa hành trình không đối đất.
BMD: Ballistic Missile Defense: Phòng thủ tên lửa đạn đạo - Các biện pháp bảo
vệ nhằm chống lại một cuộc tấn công bằng tên lửa đạn đạo.
CD: Committee on Disarmament: Ủy ban giải trừ quân bị - Một cơ quan đàm
phán của Liên Hợp Quốc được thành lập năm 1978 cho các hiệp ước đa
phương về giải trừ quân bị. Được đổi tên thành Hội đồng giải trừ quân bị
vào năm 1988 (Conference on Disarmament).
CTBT: Comprehensive Test Ban Treaty: Hiệp ước cấm thử toàn diện – Hiệp ước
cấm thử hạt nhân trong tất cả các môi trường.
ENDC: Eighteen Nation Disarmament Conference: Hội nghị giải trừ quân bị 18
quốc gia – Một cơ quan đàm phán đa phương về giải trừ quân bị được
thành lập năm 1961.
FBS: Forward-Based Systems: Hệ thống căn cứ chuyển tiếp – Đây là một thuật
ngữ của Liên Xô chỉ Hệ thống hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ đặt tại
một nước thứ ba hoặc trên các tàu sân bay mà có thể tấn công các mục
tiêu trên đất nước Liên Xô.
GLCM: Ground-Launched Cruise Missile: Tên lửa hành trình phóng từ mặt đất
IAEA: International Atomic Energy Agence: Cơ quan Năng lượng nguyên tử
quốc tế - Một tổ chức quốc tế thành lập năm 1956 để thúc đẩy sử dụng
hòa bình nguồn năng lượng nguyên tử.
ICBM: Intercontinental Ballistic Missile: Tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, có tầm
bắn trên 5.500 km.
INF: Intermediate – Range Nuclear Forces: Lực lượng hạt nhân tầm trung,
Hiệp ước hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn.
LTBT: Limited Test Ban Treaty: Hiệp ước hạn chế thử vũ khí hạt nhân.
MAD: Mutual Assured Destruction: Các khái niệm về sự răn đe đối ứng sau khi
vượt qua được cuộc tấn công hạt nhân đầu tiên của của 2 siêu cường Hoa
Kỳ và Liên Xô, nếu một trong hai siêu cường vượt qua được cuộc tấn
công hạt nhân đầu tiên của phía bên kia thì sẽ đáp trả không thương tiếc
và hủy diệt dựa trên sức mạnh hạt nhân của mình.
MIRV: Multiple Independently Targetable Reentry Vehicle: Tên lửa mang đầu
đạn tự tách, có thể tấn công nhiều mục tiêu độc lập.
MX: Missile Experimental: Tên lửa thực nghiệm – Một loại ICBM mới của
Hoa Kỳ với 10 đầu đạn hạt nhân.
NPT: Non-Proliferation: Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
NTM: National Technical Means: Các phương tiện kỹ thuật quốc gia –Phương
tiện kỹ thuật tình báo của một quốc gia (nằm ngoài quốc gia đó, tức được
lắp đặc ở một quốc gia đồng minh) dùng để giám sát về việc thi hành
những thỏa thuận kiểm soát vũ khí của quốc gia khác đã được kí kết.
NTM bao gồm truyền hình vệ tinh dựa trên sự cảm biến để trinh sát hình
ảnh, hệ thống rada và hệ thống quang học trên biển, hệ thống rada và
ăngten trên mặt đất để thu thập thông tin từ xa.
NMD: Nation Missile Defense: Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia.
NATO: North Atlantic Treaty Organization: Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây dương
OST: Outer Space Treaty: Hiệp ước về không gian vũ trụ.
PD 59: Presidential Directive 59: Chỉ thị 59 của Tổng thống –Một chỉ thị của
chính quyền Carter nhằm hình thành học thuyết đối kháng chiến lược,
trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của những sự lựa chọn linh hoạt để
đảm bảo ngăn chặn chống lại một loạt các mối đe dọa.
PNET: Peaceful Nuclear Explosion Treaty: Hiệp ước nổ hạt nhân vì mục đích
hòa bình.
SAC: Strategic Air Command: Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược.
SALT: Strategic Arms Limitation Talks: Hiệp ước hạn chế vũ khí chiến lược.
SAM: Surface – to – Air Missile: Tên lửa đất đối không.
SDI: Strategic Defense Initiative: Sáng kiến phòng thủ chiến lược Hoa Kỳ.
SLBM: Submarine – Launched Ballistic Missile: Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu
ngầm.
START: Strategic Arms Reduction Treaty: Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược.
TTBT: Threshold Test Ban Treaty: Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân.
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Số lượng vũ khí hạt nhân trên thế giới giai đoạn 1945 - 1962 ................ 37
Bảng 2.1. Số lượng vũ khí hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ (kể cả đã cung cấp
cho các nước Tây Âu) và Liên Xô theo quan điểm cân bằng của hai
nước. ........................................................................................................ 88
Bảng 3.1. Số lượng đầu đạn hạt nhân trên các loại vũ khí hạt nhân chiến lược
của Hoa Kỳ và Liên Xô năm 1990 ........................................................ 105
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoa Kỳ là quốc gia đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ Chiến tranh
Lạnh. Ý thức về mối đe dọa đến an ninh, lợi ích và sự sống còn của mình và đồng
minh phát xuất từ đối thủ bên kia – phe xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô -
Hoa Kỳ đã không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của mình. Một trong
những biện pháp có tầm quan trọng quyết định là tăng cường sức mạnh quân sự
bằng việc xây dựng lực lượng vũ trang quy ước và hạt nhân hùng mạnh. Trong đó
vũ khí hạt nhân có ý nghĩa quyết định. Hoa Kỳ là nước sở hữu vũ khí hạt nhân sớm
nhất của thế giới và cũng là kho vũ khí hạt nhân khổng lồ lớn nhất thế giới. Cuộc
khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962 đã đẩy nhân loại đến bên bờ vực của một cuộc
chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Ý thức được sự hủy diệt nếu chiến tranh hạt nhân xảy
ra Hoa Kỳ và Liên Xô đã kiềm chế và bắt đầu thấy cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa
đàm phán về vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân. Các cuộc đàm phán bắt đầu được
đẩy mạnh giữa hai nước từ năm 1963. Từ đó đến khi Liên Xô tan rã, chính sách
kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã đạt được nhiều kết quả, cụ thể là có rất
nhiều Hiệp định về kiểm soát vũ khí hạt nhân được kí kết.
Nghiên cứu “CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA
KỲ GIAI ĐOẠN 1963 – 1991 (QUA CÁC VĂN KIỆN NGOẠI GIAO)” mục đích
đặt ra là:
Hiểu rõ bối cảnh dẫn đến các cuộc đàm phán và kí kết các Hiệp ước về kiểm
soát vũ khí hạt nhân giữa Hoa Kỳ và các nước khác, đặc biệt là vớiLiên Xô.
Thấy được Hoa Kỳ luôn gắn vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề
chính trị khác trong quá trình đàm phán cũng như khi các hiệp ước đã được kí kết.
Phân tích nội dung Hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân đã được Hoa Kỳ kí kết.
Từ đó thấy được tác động của mối quan hệ về kiểm soát vũ khí hạt nhân tới
các mối quan hệ ngoại giao khác giữa Hoa Kỳ và các nước khác, đặc biệt là Liên Xô.
Cuối cùng thấy được tầm quan trọng của vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân đến
việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới nói chung và của Hoa Kỳ nói riêng, và
những nỗ lực của Hoa Kỳ để đạt được điều đó.
2
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến vũ khí hạt nhân và chính sách
kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ thì có rất nhiều công trình nghiên cứu ở
ngoài nước:
Ủy ban Kiểm soát vũ khí và An ninh quốc tế (Committee on International
Security and Arms Control) của Học viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (National
Academy of Sciences) đã nghiên cứu và cho xuất bản cuốn sách “Nuclear Arms
Control: Background and Issues” (Kiểm soát vũ khí hạt nhân: Bối cảnh và các vấn
đề) xuất bản năm 1985, đây là nguồn tài liệu quý giá và được người viết luận văn
này tham khảo nhiều nhất. Cuốn sách gồm 8 phần chính, trong đó Phần 1 là phần
Tổng quan, cung cấp cho người đọc những hiểu biết tổng quan nhất về các mục tiêu
và phương pháp kiểm soát vũ khí hạt nhân, 7 phần còn lại các tác giả tập trung vào
các Hiệp ước đã được kí kết giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về vấn đề kiểm soát vũ khí
hạt nhân và các vấn đề của mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô quanh các Hiệp ước này.
Ngoài ra, phần phục lục của sách là những văn bản gốc về các một số Hiệp ước
kiểm soát vũ khí hạt nhân đã được Hoa Kỳ và Liên Xô kí kết.Tập thể tác giả của
cuốn sách đã trình bày các vấn đề về kiểm soát vũ khí hạt nhân không theo trình tự
thời gian mà theo phân loại các loại vũ khí hạt nhân được kiểm soát: vũ khí hạt
nhân tiến công chiến lược; vũ khí hạt nhân phòng thủ và theo phương pháp kiểm
soát vũ khí hạt nhân: giới hạn, cắt giảm, cấm thử, không phổ biến, đóng băng. Đây
là phương pháp trình bày rất khoa học, giúp cho người đọc và người nghiên cứu có
cái nhìn xuyên suốt và toàn diện về vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân.
John Lewis Gaddis, Philip H. Gordon, Ernest R. May, Jonathan Rosenberg
viết cuốn“Cold War Statesmen Confront the Bomb: Nuclear Diplomacy Since
1945” (Các chính trị gia thời Chiến tranh Lạnh đối đầu với bom: Ngoại giao hạt
nhân từ năm 1945) xuất bản năm 1999. Cuốn sách gồm hai phần, Phần 1: Siêu
cường và phần 2: Đồng minh. Các tác giả tập trung trình bày chính sách hạt nhân và
vai trò của vũ khí hạt nhân trong chính sách đối ngoại của các Tổng thống Mỹ:
Truman, Eisenhower, Kennedy; các nhà lãnh đạo Xô Viết: Stalin, Khrushev và các
chính trị gia của một số nước đồng minh của hai siêu cường này: Winson Churchill,
3
Chales De Gaulle, Mao Trạch Đông, Konrad Adenauer. Đây là nguồn tài liệu tác
giả tham khảo chính để viết Chương I của luận văn này.
Trung tâm lịch sử quân sự Quân đội Hoa Kỳ (US Army center of Military
History) có một công trình nghiên cứu rất công phu về “History of strategic air and
ballistic missile defense” (Lịch sử Không quân chiến lược và hệ thống phòng thủ
tên lửa đạn đạo) gồm hai tập :Vol 1 (1945 - 1955), Vol 2 (1956 - 1972) cung cấp
một cái nhìn toàn diện về lịch sử lực lượng này của Hoa Kỳ và Liên Xô.
Văn phòng Liên bang (Department of State) đã xuất bản cuốn “Foreign
Relations of The United States 1969 – 1976, Vol 32: SALT I (1969 - 1972)” (Quan
hệ đối ngoại của Hoa Kỳ 1969 – 1976, Tập 32: SALT 1), trình bày khá hoàn chỉnh
về tiến trình đàm phán và kí kết SALT I giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.
Cục lưu trữ An ninh quốc gia (National Security Archive) xuất bản cuốn “The
Secret History of The ABM Treaty, 1969-1972” (Lịch sử bí mật của Hiệp ước
ABM, 1969 - 1972) được William Burr đăng ngày 8 tháng 11 năm 2001 trên địa chỉ
Website:http://www2.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB60/.Cuốn sách phân
tích rất kỹ lưỡng tiến trình đàm phán rất phức tạp về ABM giữa Hoa Kỳ và Liên Xô
thông qua các nguồn tài liệu được giải mật. Cuốn sách dẫn nguyên gốc 39 tài liệu
mật là biên bản các cuộc họp đàm phán về ABM. Thông qua hệ thống tài liệu này,
các tác giả đã lí giải phần nào những vấn đề xung quanh ABM như: Tại sao Nhà
Trắng thời Nixon thấy được những lợi thế của Mỹ trong hệ thống ABM ( tài liệu 1);
Cách chấp nhận của Liên Xô về sự giới hạn của một hệ thống ABM trong việc bảo
vệ thủ đô Moscow và Washington (tài liệu 4);Sự khó khăn của tiến trình đàm phán
về những quy định của việc hạn chế một số loại vũ khí trong tương lai (ví dụ: laser
và vũ khí không gian) nằm trong hệ thống ABM ( tài liệu 11-13, 15, 16-18, 26, 27,
32 và 34-36);Tầm quan trọng của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hệ thống ABM
trong tương lai mà phía Mỹ đề xuất ( tài liệu 14, 20, 21, và 26); Mỹ sẵn sàng chấp
nhận về một đề nghị của Liên Xô rằng một thỏa thuận ABM rõ ràng cấm các hệ
thống phòng thủ tên lửa quốc gia ( tài liệu 24 và 25); Đề xuất về ABM của Mỹ bao
gồm các trận địa để bảo vệ ICBM, mặc dù Kissinger tự thừa nhận rằng ông “không
có lý do quân sự” cho đề xuất này ( tài liệu 19);Quá trình đàm phán phức tạp giữa
4
Mỹ và Liên Xô về việc đồng ý một thỏa thuận mỗi bên được để một vài trận địa
ABM ( đặc biệt là tài liệu 37-39).
Tài liệu tiếng Việt nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đề tài có:
Cuốn sách “Hoa Kỳ với vấn đề hạt nhân trong hơn nửa thế kỷ qua (1945 -
2010)” của PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Cuốn sách có 4 chương theo 4 giai
đoạn (1956 – 1962; 1963 – 1976; 1977 – 1991; 1992 - 2010), tác giả trình bày chính
sách hạt nhân của Hoa Kỳ và vấn đề kiểm soát, hạn chế, cắt giảm vũ khí hạt nhân
của Hoa Kỳ qua từng giai đoạn. Trong quá trình nghiên cứu thì đây là nguồn tài liệu
tiếng Việt mà người viết luận văn này tham khảo nhiều nhất.
Cuốn sách “Lịch sử quan hệ quốc tế ở Châu Âu trong Chiến tranh Lạnh (1949
- 1991)” của TS. Lê Phụng Hoàng. Trong phần 7 “Giải trừ vũ khí (từ các cuộc đàm
phán về cấm thử nghiệm vũ khí hạt nhân tháng 10 năm 1958 đến cuộc gặp gỡ
Vladivostok tháng 11 năm 1974) tác giả trình bày khá khái quát về vấn đề giải trừ
vũ khí (chủ yếu là vũ khí hạt nhân) trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô.
Tác giả Đặng Thị Hoài thuộc khoa Lịch sử Trường Đại học Sư phạm Thành
phố Hồ Chí Minh có đề tài khoa học cấp cơ sở “Vấn đề vũ khí hạt nhân trong chính
sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ 1954 – 2009”. Đề tài trình bày khác hoàn chỉnh vị trí
của vũ khí hạt nhân trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ qua các đời tổng thống
từ 1945 – 2009.
Công trình nghiên cứu này góp phần làm rõ hơn bối cảnh dẫn đến các cuộc
đàm phán và việc kí kết các hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ,
phân tích các điều khoản của các hiệp ước cũng như việc góp phần làm rõ tác động
của chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân đến các mối quan hệ ngoại giao khác giữa
Hoa Kỳ và các nước khác, đặc biệt là với Liên Xô.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của
Hoa Kỳ từ 1963 – 1991(Qua các văn kiện ngoại giao)”.
Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn từ năm 1963 – 1991. Mốc mở
đầu năm 1963, tức là sau cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba, đây cũng là năm Hoa Kỳ
và Liên Xô đẩy mạnh việc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Mốc kết thúc là
5
năm 1991, năm Liên Xô tan rã, thực ra khi Liên Xô tan rã vấn đề kiểm soát vũ khí
hạt nhân vẫn được tiếp tục giữa Hoa Kỳ và quốc gia thừa kế lớn nhất và hợp pháp
những di sản của Liên Xô là Liên bang Nga. Nhưng người viết vẫn quyết định dừng
lại ở mốc 1991 để nhằm mục đích thấy được tác động của vấn đề kiểm soát vũ khí
hạt nhân đến các mối quan hệ ngoại giao khác giữa hai nước đứng đầu hai khối
nước trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu nghiên cứu
- Sách: nguồn tiếng Anh và tiếng Việt
- Các văn bản gốc các hiệp ước từ trang Web: http://www.state.gov
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, đánh giá...
5. Đóng góp của luận văn
Trình bày có hệ thống về chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ
năm 1963 – 1991. Làm rõ bối cảnh dẫn đến đàm phán và kí kết các Hiệp ước về
kiểm soát vũ khí hạt nhân, tác động của mối quan hệ về kiểm soát vũ khí hạt nhân
đến các mối quan hệ ngoại giao khác giữa Hoa Kỳ và các nước khác (đặc biệt là với
Liên Xô).
Cung cấp nguồn tài liệu (nhất là văn bản gốc các Hiệp ước) về vấn đề kiểm
soát vũ khí hạt nhân giữa Hoa Kỳ và các nước khác (chủ yếu là với Liên Xô) nhằm
phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu lịch sử.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục. Luận văn
được cấu trúc gồm ba chương như sau:
Chương I.Vũ khí hạt nhân và chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa
Kỳ giai đoạn 1945 – 1962
Chương II.Chính sáchkiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ giai đoạn 1963 -
1976
Chương III.Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ giai đoạn 1977
- 1991
6
Chương 1. VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ
KHÍ HẠT NHÂN CỦA HOA KỲ GIAI ĐOẠN 1945 – 1962
1.1. Sự ra đời của vũ khí hạt nhân
Vật chất được cấu tạo từ những hạt vô cùng nhỏ bé gọi là nguyên tử. Những
nguyên tử nhỏ bé đã được con người nghĩ tới từ thế kỷ V trước Công nguyên. Đến
đầu thế kỷ XIX con người mới có những quan niệm đúng đắn về nguyên tử.
Nguyên tử được nghiên cứu mạnh mẽ vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Mới
đầu việc nghiên cứu nguyên tử chỉ thuần túy là vì mục đích khoa học, tuy nhiên từ
đầu thập niên 30 của thế kỷ XX, trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc, việc
đẩy mạnh nghiên cứu về nguyên tử còn mang mục đích chính trị và quân sự. Mô
hình cấu tạo nguyên tử được hai nhà vật lý học Ernest Rutherfor và Neils Bohr đưa
ra, theo đó một nguyên tử được cấu tạo bởi ba hạt là proton, neutron và electron.
Trung tâm của nguyên tử là hạt nhân, bao gồm proton (mang điện tích dương) và
neutron (không mang điện tích). Electron bay xung quanh hạt nhân và mang điện
tích âm. Số lượng các hạt bên trong nguyên tử ảnh hưởng đến tính chất của nguyên
tử đó. Nếu thay đổi số proton ta sẽ có một nguyên tử khác hoàn toàn. Nếu thay đổi
số neutron ta sẽ có một đồng vị mới của nguyên tố đó. Một số đồng vị của nguyên
tố là ổn định, một số khác không ổn định và dễ bị phân rã gọi là bức xạ. Hiện tượng
phong rã phóng xạ là hiện tượng các hạt nhân của các đồng vị không ổn định tự giải
phóng các hạt ra khỏi chính nó, gọi là bức xạ. Có ba loại phân rã phóng xạ đó là
phân rã Anpha, phân rã Beta và phân hạch. Phân rã phân hạch là hiện tượng một hạt
nhân bị chia thành hai phần, trong quá trình phân hạch nó có thể tạo ra một vụ nổ để
giải phóng nguồn năng lượng điện cực lớn được biết đến là tia gamma, đây là loại
tia duy nhất của bức xạ hạt nhân đến từ năng lượng thay vì các chuyển động. Đây là
cơ sở của phản ứng phân hạch, phản ứng phân hạch là cơ sở để chế tạo bom nguyên
tử (bom A). Phản ứng phân hạch được phát triển bởi nhà vật lý học người Ý Enrico
Fermi vào năm 1930. Ông đã chứng minh rằng việc bắn phá các neutron có thể làm
thay đổi tính chất hạt nhân và tạo nên các nguyên tố mới. Sau những nghiên cứu của
Fermi, các nhà khoa học Đức đã sử dụng các hạt neutron bắn phá nguyên tử
7
Uranium và tạo ra một đồng vị phóng xạ mới không ổn định. Sau đó các nhà khoa
học tại Đại học Princeton (Hoa Kỳ) đã phát hiện ra trong quá trình phân hạch đã dẫn
đến việc các neutron được sản xuất. Và các neutron tự do này có thể tiếp tục tạo ra
phản ứng phân hạch khác, như vậy nó sẽ tạo ra một phản ứng dây chuyền với năng
lượng nhiệt và bức xạ vô hạn. Đây chính là khởi đầu của loại vũ khí hủy diệt đáng
sợ nhất từ trước đến nay.Vào tháng 3 năm 1940, một nhóm các nhà khoa học tại Đại
học Colombia đã thử nghiệm một phản ứng dây chuyền với đồng vị uranium-235
nhưng không thành công. Sau đó, toàn bộ nghiên cứu được chuyển đến Đại học
Chicago, Fermi là người đã thành công trong việc tạo ra một phản ứng dây chuyền
có kiểm soát đầu tiên trên thế giới, sử dụng U-235 làm nguyên liệu. Trong khi
nguyên tử uranium thông thường cần tới 700 triệu năm để có thể phân rã, một sự tác
động từ neutron tự do sẽ làm hạt nhân trở nên bất ổn và có thể phân rã ngay lập tức.
Khi nguyên tử uranium nhận neutron tự do, nó sẽ phân rã thành hai nguyên tử đồng
vị nhẹ hơn và giải phóng khoảng 2 hoặc 3 neutron mới. Quá trình này đồng thời
phát ra các tia gamma bức xạ và giải phóng năng lượng. Đồng vị U-235 được lựa
chọn là do khả năng tiếp nhận neutron tự do rất cao. Quá trình tiếp nhận và phân rã
xảy ra vô cùng nhanh chóng, chỉ mất khoảng 1 phần tỉ giây. Để có thể hoạt động,
nguyên liệu uranium cần phải được “làm giàu”, nghĩa là làm tăng tỉ lệ của đồng vị
U-235. Ở cấp độ vũ khí hạt nhân, đồng vị U-235 phải chiếm trên 90% nguyên liệu
chính. Trong năm 1941, các nhà khoa học tại Đại học California đã tìm ra loại
nguyên tố thứ hai có thể làm nguyên liệu hạt nhân và đặt tên nó là plutonium. Sau
đó một năm, họ đã thử nghiệm thành công phản ứng phân hạch dây chuyền với loại
nguyên tố mới này. Trong một quả bom phân hạch, nhiên liệu phải được giữ ở mức
dưới khối lượng tới hạn, ngăn không cho phản ứng dây chuyền xảy ra và tránh các
vụ nổ sớm. Khối lượng tới hạn là mức khối lượng tối thiểu để đảm bảo phản ứng
phân hạch có thể xảy ra và duy trì phản ứng dây chuyền. Do đó có những thách thức
đặt ra khi thiết kế một quả bom phân hạch. Đầu tiên là phải chuyển các khối lượng
nhiên liệu tập trung lại với nhau để đạt mức khối lượng tới hạn. Sau đó phải có
neutron tự do để kích hoạt phản ứng phân hạch. Để làm được điều này các nhà khoa
học đã thiết kế một máy phát neutron nhỏ. Thiết kế cũng phải đảm bảo càng nhiều
8
nguyên liệu hạt nhân nén lại với nhau trước khi quả bom phát nổ, nhằm đảm bảo
phản ứng dây chuyển không bị ngắt quãng và tận dụng được hết số nguyên liệu. Để
làm được điều này, các nhà khoa học sử dụng một nguyên liệu can thiệp là U-238.
Vật liệu can thiệp sẽ được làm nóng và mở rộng bởi phản ứng phân hạch tại lõi,
chúng sẽ gây sức ép trở lại lõi và làm chậm quá trình phản ứng trong một thời gian
ngắn. Trong lúc này, các neutron cũng bị nén trở lại lõi và nâng cao hiệu quả của
phản ứng phân hạch. Cấu tạo của một quả bom phân hạch đơn giản bao gồm một
đầu đạn nhỏ U-235 và một khối nguyên liệu U-235 hình cầu, khi đầu đạn gặp khối
nguyên liệu nó sẽ tạo nên khối lượng tới hạn và kích hoạt quá trình phản ứng phân
hạch dây chuyền. Loại bom nguyên tử này được gọi là bom phân hạch Trigger, có
hai loại bom phân hạch với cơ chế hoạt động khác nhau là Little Boy và Fat Man.
Little Boy là quả bom đã thả xuống Hiroshima với sức công phá 15 kiloton, tương
đương 15.000 tấn thuốc nổ TNT. Hiệu suất của nó chỉ đạt 1,5%, tức là chỉ có 1,5%
nguyên liệu hạt nhân tham gia phản ứng. Cấu tạo của nó bao gồm một ống dài để
dẫn hướng cho đầu đạn U-235 đến khối nguyên liệu. Một thiết bị cảm biến độ cao
sẽ tính toán độ cao thích hợp, sau đó kích hoạt đầu đạn, đầu đạn kết hợp với khối
nguyên liệu đồng thời kích hoạt máy phát điện và phản ứng phân hạch xảy ra, tạo ra
một vụ nổ hủy diệt. Fat Man cũng có cùng nguyên lý hoạt động nhưng cấu tạo của
nó khác với Little Boy. Đây là quả bom đã thả xuống Nagasaki với sức công phá 23
kiloton và đạt hiệu suất 17%. Cấu tạo của nó bao gồm một lõi plutonium-239 bao
quanh là chất nổ đặc biệt và ngoài cùng là U-235. Cơ chế hoạt động của nó là kích
hoạt khối chất nổ trước, sau đó lực ép sẽ nén chặt lõi plutonium và tạo khối lượng
tới hạn kích hoạt phản ứng khiến quả bom phát nổ.
Đến năm 1943, nhà vật lý người Mỹ Edward Teller đã tìm ra loại phản ứng
nhiệt hạch có thể giải phóng neutron, để cung cấp cho phản ứng phân hạch với tốc
độ cao hơn. Sau này nó đã trở nên phổ biến, được áp dụng vào các loại vũ khí hạt
nhân hiện nay và được gọi là bom nhiệt hạch. Ở nhiệt độ cao, các hạt nhân Hydro
của đồng vị Đơteri và Triti có thể dễ dàng hợp nhất và giải phóng một lượng lớn
năng lượng trong quá trình này. Loại vũ khí sử dụng nguyên lý này được họi là bom
nhiệt hạch, hay bom Hydro (bom H) (do nguyên liệu chính là đồng vị của Hydro).
9
Việc chế tạo bom nhiệt hạch cũng gặp nhiều khó khăn. Thứ nhất, Đơteri và Triti là
hai loại khí và rất khó để dự trữ. Đồng vị Triti rất hiếm và không ổn định. Để phản
ứng xảy ra cần cung cấp một lượng nhiệt rất lớn, bên cạnh đó phải bổ sung nhiên
liệu liên tục. Để giải quyết vấn đề đầu tiên, các nhà khoa học sử dụng hợp chất Liti -
Đơteri, đây là hợp chất rắn không phân rã phóng xạ ở nhiệt độ bình thường. Các nhà
khoa học dựa trên một phản ứng phân hạch của Liti để tạo ra Triti, đồng thời phản
ứng phân hạch này cũng tạo ra lượng nhiệt cần thiết cho sự kết hợp giữa Triti và
Đơteri. Bên trong một quả bom nhiệt hạch bao gồm một quả bom phân hạch nhỏ,
một lõi nhiệt hạch bao gồm một ống U-238 để làm vật liệu can thiệp, bên trong là
lõi Liti - Đơteri làm nguyên liệu chính và một thanh plutoni-239 ở trung tâm.
- Khi kích hoạt sẽ làm nổ quả bom phân hạch trước, giải phóng tia X.
- Tia X cung cấp nhiệt cho lõi chính, tuy nhiên vật liệu can thiệp ngăn chặn vụ
nổ sớm và ép phần lõi vào khoảng 30 lần.
- Phần lõi plutoni-239 bị ép lại đạt mức khối lượng tới hạn và kích hoạt phản
ứng phân hạch tiếp theo.
- Phản ứng phân hạch này tạo ra nhiệt, bức xạ và neutron tự do.
- Các neutron này đi vào phần lõi Lithium - Đơteri, kết hợp với Liti tạo ra
Triti.
- Các điều kiện nhiệt độ và áp suất lúc này đủ để Đơteri và Triti kết hợp tạo
thành phản ứng nhiệt hạch, tạo ra nhiều nhiệt và neutron hơn.
- Các neutron này tiếp tục gây ra phản ứng phân hạch trong U-238 và quả bom
phát nổ.
Tất cả chỉ xảy ra trong vòng 1 phần 600 tỉ giây, tạo ra một vụ nổ với sức công
phá 10.000 kiloton, mạnh hơn 700 lần so với một quả bom Little Boy. Một vụ nổ
hạt nhân có sức tàn phá ghê gớm, nó có thể phá hủy toàn bộ một thành phố chỉ
trong vài phút. Tại tâm vụ nổ, nhiệt độ có thể lên đến 300 triệu độ C và làm mọi thứ
bốc hơi ngay lập tức. Áp lực từ vụ nổ thổi bay các mảnh vỡ từ các tòa nhà cũng gây
ra thiệt hại lớn cho các khu vực xung quanh bán kính trên 10 km. Tuy nhiên tác hại
lớn nhất từ một vụ nổ hạt nhân là do bụi phóng xạ gây ra. Bụi phóng xạ và các bức
xạ từ vụ nổ gây ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, tăng nguy cơ bị ung thư máu, vô
10
sinh và các dị tật bẩm sinh. Sự ảnh hưởng của bụi phóng xạ có thể kéo dài hàng
chục năm.
Trở lại với lịch sử phát triển của vũ khí hạt nhân, việc nghiên cứu nguyên tử
được diễn ra ở rất nhiều quốc gia. Trước khi Hitler lên cầm quyền ở Đức ngày
30.1.1933, trung tâm nghiên cứu của các nhà vật lí và hóa học nguyên tử là Đại học
Gottingen ở Đông Phổ thuộc Đức, trong số các nhà bác học ở đây có cả Robert
Oppenheimer – người sau này được xem là cha đẻ của bom nguyên tử. Khi Hitler
lên cầm quyền ở Đức, vì nhiều lí do khác nhau nhưng tựu trung lại là vì không thể
làm khoa học dưới một chính thể độc tài tàn bạo nên các nhà bác học nguyên tử của
các quốc gia đã rời Gottingen, trong đó có nhiều nhà khoa học gốc Đức. Nơi họ lựa
chọn đến đó là Hoa Kỳ, ở đó có những điều kiện làm việc và nghiên cứu rất tốt.
Trong số những nhà bác học Đức di cư sang Mỹ nổi tiếng nhất là nhà vật lý lý
thuyết Albert Einstein. Einstein là người Đức gốc Do Thái, do không thể chịu được
sự kỳ thị với những người Do Thái của chính quyền Hitler nên Einstein quyết định
đến Hoa Kỳ định cư. Leo Szillard – một nhà vật lý học nguyên tử người Hungaria –
cũng đến Hoa Kỳ, chính Szillard là người chủ xướng đề cập đến đến vấn đề chế tạo
vũ khí nguyên tử, ông lo sợ rằng nếu người Đức có bom nguyên tử trước Hoa Kỳ
thì quả là một thảm họa đối với thế giới. Szillard thấy rằng để thu hút sự chú ý của
chính phủ Hoa Kỳ về vấn đề vũ khí hạt nhân cần phải có những tác động của các
nhà bác học hàng đầu, và ông đã thuyết phục được Einstein viết thư trực tiếp lên
Tổng thống F.K.Roosevelt. Ngày 2.8.1939 Einstein đã gởi lên Tổng thống
Roosevelt một bức thư quan trọng. Phần đầu lá thư ông viết:
“ Thưa Ngài,
Một số nghiên cứu gần đây của E.Fermi và L.Szillard, với bản thảo đã được
gởi đến cho tôi, khiến tôi nghĩ rằng nguyên tố Urani có thể trở thành nguồn năng
lượng mới và quan trọng trong tương lai gần. Có vài khía cạnh trong vấn đề này
đòi hỏi chúng ta phải thận trọng và, nếu cần thiết, cần phải có hành động nhanh
chóng của chính phủ. Thế nên tôi tin rằng tôi có bổn phận phải kêu gọi sự chú ý của
Ngài đối với những việc sau đây:....Chúng ta có thể tạo ra một chuỗi phản ứng hạt
11
nhân với nguyên tố Urani. Giờ đây dường như chắc chắn chúng ta có thể làm được
điều này trong tương lai gần.
Hiện tượng mới này cũng sẽ dẫn đến việc kiến tạo bom nguyên tử, và chúng ta
có thể hình dung rằng những quả bom mới có sức mạnh khủng khiếp sẽ xuất hiện.
Chỉ cần một quả bom loại này, được vận chuyển bằng tàu thuyền và phát nổ tại bến
cảng, có thể hủy diệt toàn bộ bến cảng và các khu vực lân cận...
Trong trường hợp này, Ngài có thể nghĩ đến việc thiết lập mối quan hệ mật
thiết giữa Chính phủ và nhóm các nhà vật lý học đang nghiên cứu vấn đề này tại
Hoa Kỳ”. [44]
Sau đó ông kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ hãy cung cấp tài chính để đẩy nhanh
tốc độ nghiên cứu về bom nguyên tử. Lá thư được kết thúc bằng lời cảnh báo rằng
các nhà khoa học Đức đang nghiên cứu việc chế tạo bom nguyên tử. “ Đức đã
ngừng hẳn việc bán Uranium từ mỏ Chzech – Slovakian. Điều đó thật dễ hiểu vì
viện Kaiser Wilhelm ở Berlin cũng đang nghiên cứu về Uranium.” [44]. Bức thư
này mãi đến ngày 11.10.1939 mới đến tay Roosevelt, ngay sau đó Roosevelt đã viết
thư phúc đáp Einstein với lời cảm ơn sâu sắc. Trong thư Roosevelt viết: “Tôi đã
triệu tập một cuộc họp khẩn cấp để nghiên cứu kỹ các khả năng có thể xảy ra theo
như đề xuất của anh liên quan đến nguyên tố Urani” [Dẫn lại theo 14, tr.459]. Cũng
trong bức thư này Roosevelt đã thông báo cho Einstein rằng ông đã cho thành lập
Ủy ban nghiên cứu Uranium (Uranium Commitee), Ủy ban này đã họp cuộc họp
đầu tiên vào ngày 21.10.1939.
Vào tháng 6.1940 Ủy ban Uranium đề nghị với tổng thống cần tăng ngân sách
cho chi phí nghiên cứu uranium. Cũng trong thời gian này, Tổng thống Roosevelt
đã ra quyết định thành lập Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng – National Defense
Research Commitee (NDRC) do Vannevar Bush làm chủ tịch. Ngày 6.12.1941 –
đúng một ngày trước khi Nhật tiến công vào Pearl Harbour, Tổng thống Roosevelt
đã phê chuẩn một kế hoạch tuyệt mật chế tạo bom nguyên tử. Và bắt đầu từ ngày
13.8.1942 toàn bộ kế hoạch chế tạo bom nguyên tử này được đặt tên là “Dự án
Manhattan” (Manhattan Project). Công việc nghiên cứu được tiến hành độc lập,
phân tán ở hải quân, các trường đại học, các viện nghiên cứu. Dự án Manhattan sau
12
khi thống nhất trực thuộc tổng thống, không ai được biết và can thiệp kể cả phó
tổng thống. Trong số 15.000 người làm việc trong đồ án Manhattan thì chưa đến 12
người biết hết toàn bộ kế hoạch [10, tr.116]. Trớ trêu thay, nhà bác học đã viết lá
thư thuyết phục Tổng thống Roosevelt – Albert Einstein – đã không được tham gia
vào dự án này. Sự kiểm soát tối cao các công tác nguyên tử đã chuyển từ tay các
nhà khoa học vào tay Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng gồm 3 đại diện của lực lượng
vũ trang: Tướng Lesley Richard Groves, Tướng Stayer, Đô đốc Parnell và chỉ có 2
đại diện của các nhà bác học là tiến sĩ Vannaver Bush và tiến sĩ James Conent [10,
tr.116]. Đến ngày 17.9.1942 tướng Groves được chỉ định lãnh đạo hành chính toàn
bộ Dự án Manhattan. Khu vực thực hiện Dự án Manhattan là vùng Ocridge thuộc
bang Tennessi, đây được gọi là “thành phố bí mật thứ nhất” chủ yếu là xây dựng
các nhà máy sản xuất chất nổ cho bom nguyên tử. Tướng Groves đã mời nhà vật lý
học nguyên tử gốc Đức xuất chúng là Robert Oppenheimer tham gia vào dự án
Manhattan. Theo đề nghị của Oppenheimer thì trung tâm đặt các nhà máy sản xuất
vật liệu phân hạch, được gọi là “thành phố bí mật thứ hai” được đặt tại vùng Los
Alamos thuộc bang New Mexico, đến tháng 7.1943 Oppenheimer được cử làm
giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos. Công việc nghiên cứu được tiến hành
khẩn trương, tích cực, đặc biệt là ở giai đoạn cuối của dự án Hoa Kỳ nhận được sự
giúp đỡ của nhiều nhà khoa học đến từ Anh, Canada. Tổng thống Roosevelt là
người đặt nền móng cho công trình vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ nhưng ông đã qua
đời trước khi bom nguyên tử được chế tạo thành công.
Quả bom đầu tiên được cho nổ thành công tại khu thử nghiệm Jornada de
Muerto (Miền chết) ở vùng Alamogordo thuộc bang New Mexico vào 5h30 ngày 16.7.1945. Cuộc thử nghiệm này được mang mật danh quy ước là Trinity1 (Ba
ngôi). Một quả cầu lửa không ngừng lớn lên, nó choáng hết cả bầu trời và mặt đất
[10, tr.194]. Tướng Groves viết: “Một vài người bị nổi kích động xâm chiếm đã
nhảy ra khỏi ô tô mà quên không đeo mặt nạ. Sau hai hay ba giây họ bị mù và mất
1 Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh thần
đi khả năng nhìn thấy quang cảnh mà họ đã đợi suốt ba năm” [Dẫn lại theo 10,
13
tr.194]. Farell, một vị tướng trong ban lãnh đạo Manhattan Project, chứng kiến vụ
nổ, đã viết: “Tất cả khu vực đều được chiếu rọi bằng một thứ ánh sáng chói chang,
cường độ của nó lớn rất nhiều lần cường độ mặt trời giữa trưa... Ba mươi giây sau
vụ nổ, con gió mạnh đầu tiên đập vào mọi người và mọi vật. Kèm theo nó là tiếng gào rú kéo dài khiến tôi kinh hoàng nghỉ đến ngày xử án cuối cùng2. Chúng tôi
nhận thấy mình là những sinh vật nhỏ mọn dã dám cả gan báng bổ Chúa mà động
vào những sức mạnh mà cho đến nay chưa từng ai động tới. Lời lẽ là một phương
tiện quá không hoàn chỉnh để diễn đạt nổi tất cả những gì mà chúng tôi đã xúc cảm
vào lúc đó” [Dẫn lại theo 10, tr.195]. Còn đối với Oppenheimer thì trong trí nhớ
của ông lúc này hiện lên một đoạn trong thiên sử Bhagabad Gita của Ấn Độ cổ
kính: “Với sức mạnh bất tử và khủng khiếp – Bầu trời sẽ chói lọi trên cõi trần” và
“Tôi đã trở thành thần chết, kẻ hủy diệt toàn bộ thế giới” [10, tr.194]. Tướng
Groves sau khi tự chủ lại đã nói với tướng Farell: “Chiến tranh phải chấm dứt. Chỉ
một hay hai cái của này là bọn Nhật đi đời” [Dẫn lại theo 10, tr.195]. Và hai “cái
của” đó đã giáng xuống Hiroshima ngày 6.8.1945 và Nagasaki ngày 9.8.1945 góp
phần làm Nhật đầu hàng để kết thúc Chiến tranh thế giới thứ Hai.
1.2. Chính sách vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 – 1962
1.2.1. Dưới thời Tổng thống Truman (1945 - 1952)
Khi Tổng thống đương nhiệm Roosevelt qua đời ngày 12.4.1945, người phó
của ông là Truman lên nắm quyền tổng thống, lúc này Truman mới biết về toàn bộ
Dự án Manhattan. Mặt dù Đức đã đầu hàng trước khi bom nguyên tử được chế tạo
thành công nhưng cuộc chiến khốc liệt vẫn đang diễn ra ở mặt trận Viễn Đông, điều
này sẽ tác động đến chính sách của Truman để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Những ngày giữa tháng 7, Tổng thống Truman dự Hội nghị Postdam – một
thành phố gần Berlin của Đức. Hội nghị diễn ra giữa ba cường quốc Anh, Mỹ và
Liên Xô để thảo luận và đưa ra nhiều quyết định quan trọng trong đó có vấn đề Liên
Xô tham gia vào mặt trận chống Nhật. Trong ngày đầu tiên của Hội nghị (17.7),
2 Theo Thiên chúa giáo, Chúa sẽ xử nhân loại vào ngày tận thế
tổng thống nhận được tin bom nguyên tử đã được chế tạo thành công. Thủ tướng
14
Anh Winston S Churchill cũng biết tin này ngay sau đó. Churchill đã hồi tưởng lại
giây phút lịch sử ấy trong Hồi ký về chiến tranh của mình: “Ngày 17 tháng Bảy, có
một tin chấn động thế giới. Vào buổi chiều Stimson (Bộ trưởng Quốc phòng Hoa
Kỳ) đến chỗ tôi và đặt trước tôi một tờ giấy trên đó viết rằng “Những đứa trẻ được
sinh ra một cách mỹ mãn”. Cung cách của ông ta khiến tôi cảm thấy một cái gì đó
bất thường đã xảy ra. “Điều này có nghĩa”, ông ta nói “rằng thử nghiệm ở sa mạc
Mexico đã thành công. Bom nguyên tử đã trở thành sự thật”... Tuy nhiên không có
ai có thể lường trước được bất cứ điều gì khác về loại bom đó... Rồi từ đây là một
kết cục nhanh chóng cho Thế chiến thứ Hai, và có lẽ còn nhiều điều khác nữa” [15,
tr.725 - 726]. Tổng thống Truman đã quyết định báo tin này cho nhà lãnh đạo Liên
Xô I. Stalin. Ông đã bàn với Churchill cách thức báo tin này cho Stalin: “Ông nói:
tốt hơn hết là tôi sẽ nói với ông ta sau một trong những cuộc họp rằng chúng ta có
một loại bom hoàn toàn mới, một cái gì đó hoàn toàn phi thường, thứ mà chúng tôi
nghĩ sẽ có ảnh hưởng quyết đối với ý chí của Nhật Bản trong việc tiếp tục cuộc
chiến tranh” [15, tr.728].
Khi được Truman báo tin này thì Stalin không hề tỏ ra ngạc nhiên và ông cũng
“không hề biểu lộ niềm quan tâm đặc biệt nào. Ông chỉ trả lời rất ngắn gọn rằng ông rất vui được biết tin này và hy vọng chúng ta sẽ sử dụng nó để chống lại Nhật”3 [20,
tr.365]
Như vậy là nước Mỹ đã sở hữu được bom nguyên tử, một số nhân vật cốt cán
trong giới lãnh đạo nước Mỹ, trong đó có Tổng thống Truman, muốn sử dụng nó để
chống Nhật, kết thúc chiến tranh. Trong khoảng thời gian này vấn đề có hay không
nên sử dụng bom nguyên tử chống Nhật Bản đã được bàn luận khá sôi nổi và quyết
liệt từ giới lãnh đạo, nhà khoa học cho đến người dân. Những người ủng hộ ném
bom nguyên tử, trong đó có một số nhà bác học ở Los Alamos, cho rằng nó sẽ giảm
3
Phản ứng điềm tĩnh này của Stalin cho thấy có thể ông đã biết trước được sự kiện này nhờ vào khả năng tình báo của Nga [11; Tr.13].
bớt thương vong cho người Mỹ: “Ngay từ tháng 5, dân chúng Mỹ đã sống với
15
những ấn tượng sâu sắc của những thông báo về những trận đánh quá ư đẫm máu ở
đảo Okinawa. Mặc dù người Nhật đã biết rằng Đức đã thất bại, và tình hình của họ
cũng là tuyệt vọng, họ vẫn tiếp tục tự vệ với một sự bướng bỉnh không thể tưởng
tượng được. Chỉ riêng trên một hòn đảo Okinawa, quân Mỹ đã bị chết và bị thương
nặng nhiều hơn suốt toàn thể chiến dịch đánh chiếm Philippines. Tình hình đó khiến
người ta càng lo sợ hơn rằng việc tiến quân vào chính ngay đất Nhật sẽ phải trả giá
bằng hàng chục vạn người chết ở cả hai bên” [10, tr.198].
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng vẫn tiếp tục tiến công Nhật nhưng không sử
dụng đến bom nguyên tử để đạt được mục đích. Cơ quan tình báo của Lục và Hải
quân Mỹ lúc đó cũng đã tin chắc rằng sự sụp đổ của Nhật Bản giờ chỉ còn là vấn đề
vài tuần lễ nữa [10, tr.199]. Viên sĩ quan chỉ huy Cơ quan tình báo Mỹ ở Mặt trận
Thái Bình Dương, Alfred Mac Cormac, sau này đã nhớ lại: “Chúng ta nắm vững
quyền kiểm soát trên không ở Nhật đến mức là đối với từng con tầu, chúng ta hoàn
toàn biết được nó đã rời cảng nào, và vào lúc nào để đi ra biển. Nhật đã sử dụng
hết dự trữ lương thực, và dự trữ nhiên liệu về thực tế cũng đã cạn. Chúng ta đã bắt
đầu một chiến dịch bí mật thả mìn xuống tất cả các vịnh và các bến cảng của họ,
điều đó tăng thêm không ngừng sự cô lập của họ đối với thế giới bên ngoài. Nếu
như chúng ta đưa chiến dịch này đến sự hoàn tất logic của nó thì việc phá hủy các
thành phố Nhật Bản bằng bom cháy và các loại bom khác sẽ là hoàn toàn không
cần thiết” [Dẫn lại theo 10, tr.199].
Luồng ý kiến thứ ba cho rằng có thể đạt đến mục đích bằng con đường ngoại
giao: “Có thể đạt tới sự đầu hàng của Nhật bằng con đường ngoại giao còn dễ hơn
là bằng cách tăng cường phong tỏa, vì cho tới lúc đó nước Nhật đã quá chín mùi để
đầu hàng. Tư tưởng đầu hàng đã lan tràn rộng rãi trong nước. Fujimura, tùy viên
Hải quân Nhật tại Đế chế thứ Ba, sau khi Đức sụp đổ đã chuyển sang Berne; vào
cuối tháng tư, ông đã được tiến sĩ Friedrich Haak, một người Đức chống Quốc xã,
giới thiệu với ba cộng tác viên thân cận của Allain Dulles. Dulles là thủ trưởng cơ
quan tình báo Mỹ OSS, đóng trụ sở ở thủ đô Thụy Sĩ. Fujimura tuyên bố với Dulles
rằng ông sẵn sàng gây áp lực với chính phủ của mình để thuyết phục chính phủ
nhận những điều kiện đầu hàng của Mỹ. Hầu như cũng vào thời gian đó và cũng
16
nhằm mục đích đó, tướng Okamoto, tùy viên quân sự, nhờ sự trung gian của ngân
hàng quốc tế Settlements Bank ở Basele, đã tiếp xúc được với tổ chức của Dulles.
Nhưng cả hai cố gắng này đều đã không thành công, vì Washington không muốn
trói buộc mình vào những điều kiện cụ thể, còn Tokyo thì không ủng hộ những cố
gắng của hai người Nhật này ở Thụy Sĩ.
Tuy nhiên, Washington từ lâu đã biết rõ được tất cả những mánh khóe của
người Nhật, vì người Mỹ đã giải được mật mã của Nhật. Ngay từ giữa tháng Bảy,
họ đã đọc được những chỉ thị khẩn khoản của Thủ tướng Tago gởi bằng vô tuyến
điện đến Moscow cho đại sứ Sato, cũng như là những điện trả lời của đại sứ, cùng
với những tin tức khác, họ đã đọc được những lời lẽ như sau: Nước Nhật đã bại
trận. Chúng ta đứng trước thực tế đó, và phải hành động cho phù hợp.
Nhưng Truman, đáng lẽ ra phải dùng đường lối ngoại giao để tận dụng những
dấu hiệu đầy ý nghĩa của sự yếu kém của Nhật, thì ngày 26 tháng 7 tại Hội nghị
Postdam lại phát biểu một lời tuyến bố cố tình gây khó khăn cho việc Nhật đầu
hàng mà không bị mất mặt....” [10, tr.199 - 200].
Như vậy, bất chấp những khả năng giải quyết khác để kết thúc chiến tranh,
Truman vẫn quyết định thả bom nguyên tử xuống Nhật. Theo một nhà báo Mỹ,
người rất thân với các nhà bác học nguyên tử, Robert Jungk thì: “Nguyên nhân chủ
yếu của việc Chính phủ Mỹ dửng dưng đối với việc tận dụng những cơ hội đó là ở
chỗ Chính phủ đó đã có bom nguyên tử. Đáng lẽ phải kiên nhẫn gỡ cái nút buộc ra,
[họ thấy] có vẽ thuận tiên hơn là chặt nó bằng một hai nhát của thứ vũ khí mới tuyệt
vời này... Họ sợ rằng tất cả đồ án Manhattan, đã ngốn hết gần 2 tỷ đô la, sau chiến
tranh sẽ có vẻ là một món tiền tiêu phí vô ích” [10, tr.201].
Một ủy ban lâm thời về kiểm soát vũ khí cũng được thành lập trong hội các
nhà bác học nguyên tử, nhưng bất chấp sự phản đối của ủy ban này về việc ném
bom nguyên tử xuống Nhật, kế hoạch ném bom của chính phủ Hoa Kỳ vẫn được
chuẩn bị và tiến hành. Việc ném bom nguyên tử còn đồng thời để tỏ rõ uy lực của
Hoa Kỳ trước thế giới, đặc biệt là trước Liên Xô.
Mười bảy mục tiêu ném bom đã được Bộ tham mưu Lục quân đề xuất để bàn
bạc và cuối cùng ba mục tiêu đã được lựa chọn. Một là thành phố Hiroshima, nơi
17
đặt Bộ tổng chỉ huy quân đội Nhật đồng thời là một hải cảng quan trọng vận chuyển
hàng hóa quân sự và là nơi tập kết đội bảo vệ đường biển hải quân. Đây cũng là
thành phố duy nhất không có tù binh chiến tranh người Mỹ. Địa điểm thứ hai là
Kokura, là một đầu mối giao thông đường sắt đồng thời cũng là công xưởng quốc
phòng lớn nhất của Nhật. Địa điểm thứ ba, địa điểm dự bị, là thành phố Nagasaki,
trung tâm đóng tàu lớn nhất của Nhật.
Ngày 25.7.1945 Tổng thống Truman đã ra lệnh ném bom cho Tư lệnh không
quân chiến lược – tướng Carl Andrew Spaatz.
Ngày 26.7.1945, Tổng thống Truman soạn tối hậu thư gởi các nhà lãnh đạo
Nhật Bản buộc phải đầu hàng ngay nếu không nước Nhật sẽ hứng chịu một trận tàn
phá triệt để [3, tr.14]. Ngày 29.7, phía Nhật Bản đã trả lời thư với nội dung không
chịu đầu hàng vô điều kiện.
Vào sáng sớm ngày 6.8.1945, máy bay B29 có tên là Elona Gay – tên mẹ
người phi công lái nó – đã cất cánh từ đảo Tinian thuộc quần đảo Marina, hướng tới
Nhật và thả quả bom mang tên Little Boy xuống thành phố Hiroshima làm chết
ngay lập tức 70.000 người [3, tr.14]. Ngay sau đó, Tổng thống Truman đã phát biểu
trên radio với toàn thế giới: “Thông điệp cuối cùng công bố ở Postdam ngày 26.7,
nhằm cứu vãn nhân dân Nhật Bản tránh được sự hủy diệt triệt để. Nhưng lãnh đạo
của họ đã cự tuyệt thông báo này một cách nhanh chóng. Nếu như hiện nay họ vẫn
không tiếp nhận điều kiện gì của chúng tôi, sự hủy diệt đối với họ sẽ từ trên trời
giáng xuống” [2, tr.30]. Bị Hoa Kỳ ném bom xuống Hiroshima, giới lãnh đạo Nhật
Bản tranh luận gây gắt về vấn đề có nên đầu hàng hay không. Phía chính phủ cho
rằng đó là cái cớ để đầu hàng nhưng nhiều tướng lĩnh trong Bộ Lục và Hải quân
không chấp nhận đầu hàng vô điều kiện [3, tr.15].
Ngày 7.8, Tổng thống Truman đã ra lệnh ném quả bom thứ hai như kế hoạch
đã định. Sáng sớm ngày 9.8, chiếc máy bay mang tên Bock’s Car chở quả bom
nguyên tử thứ hai Fat Man, cất cánh từ Tinian để hướng đến Kokura. Nhưng do thời
tiết xấu, nhân viên không thể nhìn mục tiêu ném bom bằng mắt thường nên đã
chuyển hướng đến mục tiêu dự bị, thành phố Nagasaki. Đúng 11h 01 phút giờ địa
phương, quả bom đã phát nổ gần nhà máy chế tạo binh khí Nagasaki của công ty
18
công nghiệp nặng Mitshubishi. Trông chốc lát đó đã trở thành một quả cầu lửa lớn
có sức công phá khổng lồ, giết chết ngay lập tức 40.000 người và 60.000 người bị
thương và nhiễm phóng xạ [3, tr.15].
Ngày 10.8, thông qua kênh ngoại giao Thụy Điển, Thiên hoàng Nhật Bản đã
chấp nhận đầu hàng nhưng phải đảm bảo ngôi vị của Thiên hoàng không bị lung
lay. Cũng thông qua kênh ngoại giao trung lập, Washington thông báo với chính
phủ Nhật Bản rằng Hoa Kỳ chấp nhận sự tại vị của Thiên hoàng nhưng phải đặt
dưới sự ủy trị của tư lệnh đồng minh – tướng Douglas McArthur. Ngày 14.8.1945,
chính phủ Nhật Bản tuyên bố đầu hàng. Ngày 2.9.1945 Nhật Bản đã chính thức kí
văn kiện đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri, chiến tranh thế giới thứ Hai kết
thúc.
Trong một bài phỏng vấn trên báo Le Monde ngày 29.4.1958, người ta hỏi
Oppenheimer: Trong thời gian ông là Ủy viên Ủy ban đặc biệt và có trách nhiệm
kiến nghị với Tổng thống Truman những vấn đề khoa học về việc sử dụng bom
nguyên tử ở Nhật, ông có cảm giác rằng một vài nhân vật nắm tình hình đầy đủ có
thể vì lí do chính trị đã gây tác động đến việc ra những quyết định nào đó không?
[10, tr.202]. Ông trả lời: “Người ta đòi hỏi ở ủy ban giám định trước hết là ý kiến về
những vấn đề kỹ thuật mới. Chúng ta đừng quên rằng chính phủ mới cần đến cái
đó. Họ là những người chưa học được cách sử dụng chính quyền và cũng chưa học
được cách giải quyết những vấn đề nguyên tử mà họ phải chịu trách nhiệm. Đa số
những người cần đến ý kiến của chúng tôi lại không có thời giờ để nghiên cứu vấn
đề. Mặt khác, tổng thống Truman và ngài Winston Churchill đã tỏ ra hoàn toàn
đồng ý rằng phải sử dụng bom nguyên tử để chấm dứt chiến tranh: Ý kiến đó đã làm
nặng đĩa cân. Không may là đã không có đủ thời gian. Chắc hẳn rằng một sự
nghiên cứu vấn đề toàn diện hơn và dài ngày hơn có thể dễ dẫn đến một quan niệm
chính xác hơn, hoặc thậm chí một quan niệm hoàn toàn khác về việc phải sử dụng
vũ khí mới như thế nào” [10, tr.202].
Trong hồi ký của mình, Tổng thống Truman đã nhận hoàn toàn trách nhiệm về
việc sử dụng bom nguyên tử: “Mọi người cho rằng bom nguyên tử nên được sử
dụng chống lại kẻ thù càng sớm càng tốt...Tất nhiên tôi cũng biết rằng sức nổ của
19
bom nguyên tử có sức hủy diệt to lớn, ngoài sức tưởng tượng. Quyết định cuối cùng
về việc nên sử dụng chúng vào thời điểm nào và ở đâu thuộc về trách nhiệm của
tôi” [Dẫn lại theo 3, tr.16].
Trong bài phát biểu ngày 3.10.1945, ông giải thích lí do quyết định sử dụng
bom nguyên tử chống Nhật Bản là để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, giảm thiểu
tổn thất: “Tôi không khẳng định chắc chắn rằng bom nguyên tử sẽ mang thắng lợi
đến cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi thấy rằng sử dụng bom nguyên tử sẽ cứu sống
được hàng ngàn binh lính Mỹ và các đồng minh, nếu không thì họ còn phải sống
trong nỗi sợ hải” [43]. Thủ tướng Anh Winston Churchill cũng có lời giải thích
tương tự trong Hồi ký chiến tranh của mình: “Để khuất phục sự chống cự của từng
người Nhật Bản và xâm chiếm được từng mét đất trên đất nước này, đòi hỏi phải có
sự mất mát của cả triệu sinh mạng của người Mỹ và nửa con số đó là người
Anh...Giờ đây, toàn bộ bức tranh mang tính ác mộng đã tan biến. Thay cho nó là
một viễn cảnh – dường như thật sự công bằng và sáng sủa – của của cái kết cục
cho toàn bộ cuộc chiến này trong một hay hai cú sốc mạnh” [15, tr.726 - 727].
Quan hệ phức tạp giữa đồng minh Anh - Mỹ - Xô cũng là lí do tác động đến
việc ném bom nguyên tử xuống Nhật. Truman chia sẽ: “Chúng tôi sẽ cảm thấy căng
thẳng nếu người Nga tham gia vào mặt trận chống Nhật. Vì kinh nghiệm ở Postdam
cho chúng tôi thấy rằng không được để cho người Nga tham gia kiểm soát Nhật
Bản” [43].
Churchill chia sẽ: “Hơn nữa, chúng tôi không cần đến người Nga. Kết cục
cuộc chiến tranh [chống] Nhật Bản không còn phụ thuộc nữa vào việc đổ những
đạo quân của họ vào cuộc tàn sát cuối cùng và có lẽ sẽ kéo dài. Chúng tôi không
cần thiết phải xin họ ban đặc ân. Việc giải quyết các vấn đề Châu Âu vì vậy sẽ phải
được xem xét theo những công trạng xứng đáng của họ và theo nguyên tắc chung
của Liên Hiệp Quốc” [15, tr.727].
Ngoại trưởng Mỹ James Byrnes phát biểu: “Chúng tôi muốn hiện diện ở nước
Nhật trước khi người Nga vào... Không cần thiết phải ném bom nguyên tử xuống
thành phố của Nhật để giành chiến thắng, nhưng việc chúng tôi sở hữu và sử dụng
20
bom nguyên tử sẽ khiến người Nga biết điều hơn ở châu Âu... Việc ném bom có thể
sẽ giúp chúng tôi giành được vị trí xứng đáng khi chiến tranh kết thúc” [43].
Việc Hoa Kỳ chế tạo thành công bom nguyên tử và sử dụng nó trong chiến
tranh Thái Bình Dương đã tạo ra những phản ứng đặc biệt trong giới lãnh đạo Xô
Viết. Stalin bên ngoài thì phát biểu: “Tôi không cho rằng bom nguyên tử là một thứ
vũ khí ghê gớm như cách nghĩ của một nhóm chính trị gia. Bom nguyên tử chỉ là
thứ để đe dọa những người có thần kinh yếu, nhưng nó không thể quyết định được
kết quả của một cuộc chiến tranh, đơn giản vì nó không đủ sức mạnh” [21], nhưng
bên trong ông thực sự nôn nóng để có thứ vũ khí này. Năm 1945, Stalin đã nói với
Lavrenti Beria: “Tất nhiên, yếu tố bom nguyên tử đang thuộc về Truman. Nhưng
một chính sách gây áp lực và đe dọa là không thể chấp nhận được với chúng ta. Vì
vậy chúng ta không được nghĩ rằng có bất kỳ quốc gia nào có ưu thế mang tính
quyết định đối với mình. Hãy nói với đồng chí Kurchatov rằng ông ta phải khẩn
trương hơn với công việc của mình. Và hỏi ông ta rằng các nhà khoa học của chúng
ta cần những gì để tăng tốc công việc” [Dẫn lại theo 3, tr.18].
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều ra sức chạy
đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí hạt nhân. Khoảng giữa tháng 8 và tháng 12.1946,
tướng Groves đã đấu tranh để chính phủ tiếp tục giành ưu tiên cho chương trình hạt
nhân của Hoa Kỳ. Cuối thập niên 1940, Bộ Lục và Không quân Hoa Kỳ đã bắt đầu
hoạt động sản xuất vũ khí hạt nhân ở Manzano Base, đây là một cơ sở được đảm
bảo an ninh cao độ ở vùng núi Manzano. Ngày 1.8.1946, Truman ra quyết định
thành lập một tổ chức độc lập, tách khỏi quân đội về nghiên cứu nguyên tử gọi là
“Ủy Hội Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ” (United States Atomic Energy
Commision) đồng thời đạo luật về năng lượng nguyên tử (Atomic Energy Act) cũng
được phê chuẩn vào năm 1946 với mục đích hướng tới phúc lợi xã hội, tăng chất
lượng cuộc sống, cải thiện môi trường tự do cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và
giữ gìn hòa bình thế giới [3, tr.19].
Bầu không khí căng thẳng, nghi ngờ lẫn nhau giữa Liên Xô và Hoa Kỳ đã bao
trùm lên quan hệ quốc tế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh càng khiến cho cuộc chạy
đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí hạt nhân càng thêm quyết liệt.
21
Hoa kỳ tiếp tục thực hiện những cuộc thử nghiệm mới về hạt nhân. Chiến dịch
Sandstone là một chuỗi những cuộc thử hạt nhân trong không khí lần đầu tiên được
tiến hành bởi Hội Đồng Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ vào năm 1948 ở Pacific
Proving Ground trên đảo san hô Enewetak. Chiến dịch thử hạt nhân này đã huy
động 10.000 binh sĩ và thường dân tham gia. Cuộc thử nghiệm này mở đầu cho một
loạt các cuộc thử nghiệm hạt nhân được tiến hành bởi Ủy Hội Năng Lượng Nguyên
Tử Hoa Kỳ. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Ủy Hội đã tăng cường phát triển
nhân lực và đầu tư tài chính để phát triển nhiều loại vũ khí hạt nhân, vì thế kho chứa
vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ không ngừng được tăng lên. Năm 1947, Hoa Kỳ chỉ có
13 kho (0,26 megatons), đến năm 1952 con số này đã lên đến 841 kho (50
megatons) và đến năm 1961 là 22.229 kho (10.947 megatons) [Dẫn lại theo 3, tr.20].
Năm 1947, Tổng thống Truman ra đạo luật an ninh quốc gia (National
Security Act) và thành lập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (National Security
Council) để xem xét các vấn đề an ninh trong thời đại hạt nhân. Hội đồng gồm 4
thành viên: tổng thống, phó tổng thống, ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng,
tham mưu trưởng liên quân và giám đốc cục tình báo làm cố vấn. Bắt đầu từ
Truman, các tổng thống Hoa Kỳ phải cân nhắc kỹ và chịu trách nhiệm vô cùng nặng
nề khi bấm nút kích hoạt vũ khí hạt nhân.
Ngày 23.9.1949 Liên Xô cho nổ thành công bom nguyên tử. Tổng thống
Truman tuyên bố trước sự bàng hoàng của nhân dân: “Chúng ta đã có bằng chứng
cho thấy trong những tuần gần đây, Liên Xô đã thử nghiệm vụ nổ hạt nhân thành
công” [Dẫn lại theo 3, tr.20]. Tin tức này đã thúc đẩy Hoa Kỳ tăng cường nghiên
cứu và chế tạo những loại vũ khí hạt nhân mới, cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng đã
thúc đẩy quá trình này nhanh hơn. Năm 1948 Hoa Kỳ có 110 đầu đạn hạt nhân, đến
1952 có 1005 đầu đạn hạt nhân [35].
Ngày 31.1.1950, Tổng thống Truman đã ra lệnh cho Ủy hội Năng lượng
nguyên tử đẩy mạnh nghiên cứu và chế tạo bom nhiệt hạch (bom Hidro – bom H).
Vụ thử bom H thành công vào ngày 1.11.1952 tại đảo san hô Eniwetok ở Thái Bình
Dương.
22
Ngày 22.5.1950, Truman đã phê chuẩn văn kiện NSC 68 của Hội đồng An
ninh Quốc gia, văn kiện kêu gọi xây dựng đồng thời vũ khí quy ước và vũ khí hạt
nhân để thu hẹp sự lệ thuộc vào vũ khí hạt nhân và giảm nguy cơ của một cuộc
chiến tranh hạt nhân: “Chúng ta không còn cách nào khác là phải đẩy nhanh tốc độ
sản xuất hạt nhân, đồng thời tăng cường xây dựng, phát huy các sức mạnh hải
quân, không quân và bộ binh. Điều đó khiến cho đồng minh của chúng ta hiểu rằng
sức mạnh quân đội của Hoa Kỳ không quá phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân” [33].
Như vậy chính sách của Tổng thống Truman là tránh để tình trạng an ninh quốc gia
phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân.
Chính sách tránh để tình trạng an ninh quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào vũ
khí hạt nhân không có nghĩa là chính phủ Truman từ bỏ cuộc chạy đua vũ trang hạt
nhân với Liên Xô. Chính sách này nhằm nhấn mạnh việc vũ trang cho quân đội phải
toàn diện cả vũ khí hạt nhân lẫn vũ khí quy ước. Hơn nữa, nó còn nhấn mạnh mục
tiêu của chính phủ Truman là trở thành siêu cường số một về vũ khí hạt nhân và giữ
quyền bá chủ trên không: “Khi chiến tranh tổng lực với Liên Xô nổ ra, vũ khí hạt
nhân sẽ được mỗi bên sử dụng để đạt được mục đích của mình. Để tránh bị tổn thất
trong trường hợp bị Liên Xô tấn công bằng vũ khí hạt nhân, chúng ta cần phải sở
hữu vũ khí hạt nhân có sức ngăn chặn. Bên cạnh đó, để đạt được mục đích của
mình, chúng ta còn cần phải xây dựng, phát triển quân đội phi hạt nhân và khai
thác các điểm yếu chính trị của Liên Xô....Chỉ khi chúng ta trở thành siêu cường về
hạt nhân và giành quyền bá chủ trên không thì chúng ta mới đảm bảo được khả
năng có thể ngăn chặn việc Liên Xô sử dụng vũ khí hạt nhân” [50]. Như vậy, việc
chính phủ Truman đặt mục tiêu Hoa Kỳ phải có khả năng hạt nhân vượt trội so với
Liên Xô chủ yếu là vì mục đích răn đe, ngăn chặn hơn là vì mục đích tấn công. Do
đó, ông chủ trương xây dựng quân đội mạnh toàn diện bên cạnh việc đẩy nhanh quá
trình chế tạo vũ khí hạt nhân [3, tr.22].
Tuy sở hữu ngày càng nhiều loại vũ khí hạt nhân nhưng từ sau Chiến tranh thế
giới thứ Hai, chính phủ Truman lại lúng túng trong việc sử dụng nó một lần nữa,
như trong chiến tranh Triều Tiên chẳng hạn. Nguyên nhân là vì sau vụ ném bom
nguyên tử thảm sát xuống Hiroshima và Nagasaki, dư luận thế giới và các nhà bác
23
học nguyên tử đã lên tiếng chỉ trích quyết định đó đồng thời kêu gọi chính phủ
Truman cần phải có trách nhiệm ngăn ngừa việc sử dụng loại vũ khí này trong
tương lai [3, tr.22 – 23]. Chính Tổng thống Truman năm 1949 hứa với tư cách cá
nhân: “Chúng tôi sẽ không bao giờ sử dụng quả bom đó một lần nữa nếu chúng tôi
có thể chịu đựng được nó” [Dẫn lại theo 3, Tr.23].
Mặc dù Truman không hề hối hận về quyết định ra lệnh ném bom xuống Nhật
Bản nhưng ông cũng không hề mong muốn có một quyết định tương tự.
1.2.2. Dưới thời Tổng thống Eisenhower (1953 – 1960)
Văn kiện NSC 162/2 được chính phủ Eisenhower ban hành vào tháng 10.1953
đã chỉ ra rằng trong những tình huống xung đột “vũ khí hạt nhân sẽ được xem xét sử
dụng như các loại vũ khí khác” [51]. Điều đó có nghĩa là, với Eisenhower, vũ khí
hạt nhân trở thành nhân tố quyết định trong Chiến tranh Lạnh, chiến lược an ninh
quốc gia Hoa Kỳ phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân. Như vậy, khác với Truman,
Eisenhower đã có một cái nhìn mới về mối quan hệ giữa chính trị và vũ khí hạt
nhân. Khi được hỏi khi nào thì sử dụng vũ khí hạt nhân, tổng thống trả lời rằng khi
nào an ninh quốc gia cần đến nó: “Vũ khí hạt nhân có thể được sử dụng trong một
cuộc chiến tranh nói chung. Tuy nhiên sẽ không sử dụng nó trong những trường
hợp nhỏ” [Dẫn lại theo 3, tr.24]. Ông phát biểu thêm trong một cuộc họp báo vào
tháng 3.1955 rằng “Do những thứ này chỉ được sử dụng ở những mục tiêu quân sự
và chỉ vì mục đích quân sự, cho nên tôi không thấy có lí do nào để không sử dụng
chúng như cách người ta sử viên đạn hay các loại vũ khí khác” [Dẫn lại theo 3,
tr.24]. Học thuyết ngoại giao “trả đũa ồ ạt” cũng được Eisenhower đưa ra với lời
cảnh báo sẽ thực hiện việc trả đũa không thương tiếc các khiêu khích của Liên Xô
bằng vũ khí hạt nhân.Tổng thống Eisenhower còn cho rằng chiến lược an ninh quốc
gia của Hoa Kỳ cần phụ thuộc vào vũ khí hạt nhân trước hết là vì mục tiêu kinh tế.
Trong cuộc vận động tranh cử, ông từng phát biểu rằng an ninh và tài chính là hai
mặt của một vấn đề: “..Thực chất, cơ sở của an ninh chính là sức mạnh kinh tế. Chi
tiêu lớn nhất của chúng ta là 60 tỉ cho an ninh quốc phòng. Đó là mức tiết kiệm tối
đa. Để tiết kiệm được như thế, chúng ta cần phải cắt giảm chi phí quốc phòng”
[Dẫn lại theo 3, tr.25]. Như vậy, việc xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh trên
24
cơ sở vũ khí quy ước sẽ là một gánh nặng cho ngân sách Hoa Kỳ và có thể làm suy
yếu nền kinh tế, giải pháp cho vấn đề này, theo Eisenhower là trang bị vũ khí hạt
nhân để cắt giảm chi phí cho lực lượng quy ước và từ đó giảm bớt gánh nặng cho cả
nền kinh tế. Nhưng đầu tư cho vũ khí hạt nhân có thể dẫn đến sự tự hủy diệt chính
mình. Được thông báo vào đầu năm 1957, Hoa Kỳ có thể có 50 triệu nạn nhân trong
một cuộc chiến tranh hạt nhân, Eisenhower đáp lại một cách dứt khoát: “Điều duy
nhất đúng đắn mà chúng ta có thể làm là dồn toàn bộ tiềm lực của chúng ta cho Bộ
tự lệnh Không quân chiến lược (SAC) và vào việc chế tạo những quả bom Hydro”
[Dẫn lại theo 3, tr.25]. Như vậy, theo Eisenhower, phải đầu tư hơn nữa để phát triển
vũ khí hạt nhân, để có thể vượt trội hơn các đối thủ, từ đó các đối thủ tự thấy khiếp
sợ trước lực lượng hạt nhân hùng hậu của Hoa Kỳ mà không dám phát động chiến
tranh hạt nhân, và sẽ bảo vệ được công dân Hoa Kỳ. Với chính sách này, Chính
quyền Eisenhower đã cho nghiên cứu phát triển không ngừng các loại vũ khí hạt
nhân mới. Do đó, khi Eisenhower bước vào Nhà Trắng, kho vũ khí hạt nhân của
Hoa Kỳ mới chỉ có 841 (50 megatons), thì khi kết thúc hai nhiệm kỳ, kho vũ khí hạt
nhân của Hoa Kỳ đã là 22.229 (10.947 megatons), trong đó số đầu đạn tăng lên
tương ứng từ 1.005 đến 20.434 [3, tr.26]. Tuy nhiên, vấn đề sử dụng vũ khí hạt nhân
thì Eisenhower cũng cân nhắc khá kỹ, lúc này Liên Xô cũng đang tăng dần kho vũ
khí hạt nhân của mình, tuy còn kém Hoa Kỳ nhưng chừng đó cũng đủ hủy diệt cả
đôi bên nếu chiến tranh hạt nhân xảy ra, điều này giải thích tại sao Eisenhower
không sử dụng vũ khí hạt nhân trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên.
1.2.3. Dưới thời Tổng thống Kennedy
Thập niên 1960s, thường được gọi là thời đại “cân bằng của nỗi khiếp sợ”. Cả
hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô ra sức chạy đua vũ trang, chế tạo thành công
nhiều loại vũ khí hạt nhân hiện đại. Tổng thống mới đắc cử, J.F.Kennedy, từ thời
còn là Thượng nghị sĩ, đã luôn bị ám ảnh về một cuộc chiến tranh hạt nhân. Tại Hội
đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, ngày 25.9.1961, ông phát biểu: “Chiến tranh không
còn là giải pháp hữu hiệu...Nó không còn là biện pháp giải quyết tranh chấp. Thảm
họa hạt nhân lan truyền theo dòng nước, cơn gió và nổi sợ hãi có thể nhấn chìm
người lớn, trẻ nhỏ, người giàu, kẻ nghèo, kẻ có tội lẫn người vô tội. Nhân loại cần
25
phải chấm dứt chiến tranh hoặc chiến tranh sẽ kết thúc số phận nhân loại” [Dẫn lại
theo 3, tr.27]. Chính vì luôn bị ám ảnh bởi chiến tranh hạt nhân nên trong lời nói
hay cả trong hành động, Kennedy luôn tìm cách ngăn cản thảm họa chiến tranh hạt
nhân. Để ngăn cản được, ông luôn kêu gọi các quốc gia phải có trách nhiệm đối với
nền hòa bình thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên Xô – hai siêu cường vũ khí hạt
nhân: “cả hai phía đều cần phải nỗ lực hơn nữa đề gìn giữ hòa bình, trước khi sức
mạnh hủy diệt của khoa học hiện đại nhấn chìm cả nhân loại theo một kế hoạch
toan tính trước hay ngẫu nhiên” [Dẫn lại theo 3, tr.31]. Để tránh nguy cơ chiến
tranh hạt nhân, Kennedy chủ trương chung sống hòa bình với Liên Xô, ông không
phê phán chủ nghĩa cộng sản như các người tiền nhiệm. Trong một bức thư, ông nói
với Khrushev: “Chủ nghĩa mà chính phủ ngài tin tưởng là chuyện của các ngài,
nhưng những hành động của đất nước ngài mà ảnh hưởng tới thế giới lại là vấn đề
của thế giới” [Dẫn lại theo 3, tr.31]. Để giảm thiểu nguy cơ và đi đến ngăn chặn
hiểm họa chiến tranh hạt nhân, Tổng thống Kennedy đã tăng cường xây dựng lực
lượng quân sự quy ước để đảm bảo an ninh cho Hoa Kỳ thay vì gắn chặt vũ khí hạt
nhân với an ninh như chính sách của người tiền nhiệm Eisenhower. Ngay trong thời
gian tranh cử tổng thống, ông đã công kích chính sách “trả đũa ồ ạt” của
Eisenhower và đảng Cộng hòa: “Vấn đề trọng tâm mà chúng ta phải đối mặt đã rõ
ràng. Đó chính là: Liên Xô đang sở hữu vũ khí hạt nhân, đồng nghĩa với việc họ có
thể sử dụng nó ở bất cứ nơi nào trên hành tinh này, và sẽ dẫn đến một cuộc chiến
tranh hạt nhân, hủy diệt cả đôi bên. Vì thế, lời đe dọa giản đơn “trả đũa ồ ạt” sẽ
không còn có giá trị bảo vệ thế giới tự do của chúng ta” [Dẫn lại theo 3, tr.33]. Khi
lên làm Tổng thống, ông đã đề ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” (Strategy of
Flexible Response) mà thực chất là để hạn chế việc sử dụng vũ khí hạt nhân. “Linh
hoạt” tức nhấn mạnh đến sự linh động lựa chọn nhiều giải pháp khác nhau khi đất
nước phải đối diện với những thử thách, chứ không phải chỉ có riêng giải pháp sử
dụng vũ khí hạt nhân. Chính sách hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ xảy ra chiến
tranh hạt nhân của Kennedy được thể hiện rõ trong những biện pháp giải quyết cuộc
khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10.1962.
26
1.3. Chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ từ 1945 đến trước cuộc
Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962)
Giai đoạn 1945 – 1962, tuy không ghi nhận bất kỳ một hiệp ước nào về kiểm
soát vũ khí hạt nhân, nhưng cũng có khá nhiều tiếng nói từ các nhà bác học nguyên
tử và dân chúng đến các chính trị gia ở Hoa Kỳ kêu gọi phải hành động ngay lập tức
để tìm cách kiểm soát vũ khí hạt nhân. Những tiến nói đầu tiên đến từ các nhà bác
học nguyên tử Hoa Kỳ - những người luôn trăn trở vì đã nghĩ ra thứ vũ khí kinh
hoàng đó.
1.3.1. Những kiến nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân của các nhà khoa học
nguyên tử Hoa Kỳ
Hiểu rõ hơn ai hết sự hủy diệt của bom nguyên tử đối với thế giới loài người,
các nhà bác học nguyên tử, ngay từ những ngày đầu của dự án Manhattan đã, bằng
cách này hay cách khác, tác động vào quá trình kiểm soát nguồn năng lượng nguyên
tử. Nhà vật lí học nguyên tử nổi tiếng Neils Bohr đã phát biểu: “Nhân loại cần đến
nguồn năng lượng mà chúng ta phát minh và nghiên cứu và chúng ta cần phải chăm
lo sao cho trong tương lai nó được sử dụng nhằm mục đích hòa bình chứ không
phải phá hoại”[Dẫn lại theo 10, tr.169]. Bohr cũng cho rằng sự nhất trí giữa ba
cường quốc lớn – Mỹ, Anh và Nga Xô viết - về vấn đề tổng kiểm soát nguồn năng
lượng nguyên tử là dễ đạt được hơn vào lúc trước khi hoàn thành bom nguyên tử
hoặc trước khi sử dụng nó trong chiến tranh [10, tr.170]. Cũng chính các nhà bác
học nguyên tử là những người đầu tiên nghiên cứu toàn diện khả năng kiểm soát
quốc tế và khả năng sử dụng năng lượng nguyên tử một cách hòa bình. Vài ngày
sau tin tức về cuộc thử nghiệm thành công đã lan tới mọi phòng thí nghiệm của đồ
án Manhattan, một trong những nhà nghiên cứu trẻ tuổi ở Los Alamos, Harrison
Brown, đã kể lại: “Chúng tôi đã biết được về quả cầu lửa, về đám mây hình nấm, về
bức xạ nhiệt mạnh. Sau sự kiện Alamogordo, nhiều người trong chúng tôi đã kí kiến
nghị kiên trì yêu cầu đừng dùng bom nguyên tử chống Nhật Bản mà không biểu
diễn trước và tạo ra cơ hội để Nhật đầu hàng. Chúng tôi cũng đòi hỏi chính phủ
phải bắt đầu ngay việc nghiên cứu khả năng lập ra sự kiểm soát quốc tế đối với thứ
vũ khí mới này” [Dẫn lại theo 10, tr.196].
27
Nhà bác học vật lí lý thuyết Albert Einstein cũng đã có phản ứng quyết liệt để
thực hiện việc kiểm soát nguồn năng lượng và vũ khí hạt nhân. Einstein đã không
tiếc sức mình thức tỉnh công chúng để ngăn chặn việc sử dụng bom nguyên tử, ngăn
chặn một cuộc chiến tranh thế giới mới, vì nếu nó xảy ra nó sẽ hủy diệt toàn bộ thế
giới, toàn bộ nhân loại. Ông nói: “Tôi không biết có thể ngăn chặn chiến tranh thế
giới thứ ba hay không, nhưng tôi có thể cả quyết rằng sẽ không có chiến tranh thế
giới thứ tư” [Dẫn lại theo 10, tr.1] hay “Tôi không biết thế chiến III sẽ ra sao nhưng
tối có thể nói rằng thế chiến IV người ta sẽ dùng đá và gậy để ném nhau” [Dẫn lại
theo 14, tr.473].
Một tháng sau khi quả bom nguyên tử thứ hai được thả xuống Nhật Bản, một
nhóm các nhà khoa học đã kí tên vào bản báo cáo thuyết phục các chính phủ thành
lập một hội đồng liên hiệp quốc để kiểm soát vũ khí hạt nhân. Trong một bức thư
gởi Robert Oppenheimer, Einstein nói: “Chúng ta không thể hình dung được rằng
chúng ta sẽ có nền hòa bình mà không cần đến một tổ chức quốc tế có thể kiểm soát
được mối quan hệ giữa các quốc gia” [Dẫn lại theo 14, tr.468]. Không chỉ có những
tiếng nói gần như riêng rẽ của các nhà bác học, họ còn tập hợp lại thành nhóm để
soạn thảo và đưa kiến nghị lên chính phủ Hoa Kỳ về việc sử dụng năng lượng và vũ
khí hạt nhân. Các nhà bác học Đại học Chicago đã lập ra một hội đồng để xem xét
và bàn bạc tỉ mỉ về “Những vấn đề chính trị và xã hội có liên quan đến năng lượng
nguyên tử” [10, tr.196]. Đứng đầu Hội đồng là James Franck, nguyên là giáo sư ở
Đại học Gottingen, ngoài ra Hội đồng còn có thêm 6 thành viên: Nhà vật lí học D.
Hughes, L. Szillard; các nhà hóa học T. Hogness, V. Rabinovich, G. Seaborg và nhà
sinh học K.T. Nixon. Hội đồng đã họp và ra bị vong lục gởi chính phủ, bị vong lục
này còn được gọi là “Bản báo cáo của Franck” [10, tr.181], [8, tr.29]. Sau này nhà
bác học Rabinovich nhớ lại: “Vào những ngày đó, Chicago nóng nực kinh khủng.
Khi tôi đi ngoài phố, lòng tôi u uất khi tôi nhìn thấy như trong giấc mơ bầu trời bốc
lửa và những tòa nhà chọc trời đang sụp đổ. Làm gì bây giờ để cảnh tỉnh cho nhân
loại biết cơn nguy hiểm? Hoặc giả do trời nóng nực, hoặc giả do bản thân tôi đang
bị kích động, đêm đó tôi không tài nào nhắm mắt được. Còn lâu nữa trời mới sáng,
tôi đã bắt tay viết bảng báo cáo của chúng tôi. James Franck đã đưa cho tôi phần
28
của ông viết, gồm một trang rưỡi. Phần trình bày vấn đề của tôi còn lại chi tiết
hơn” [Dẫn lại theo 10, tr.181 - 182]. Ngày 11.6.1945, báo cáo của các nhà bác học
Chicago được gởi tới Bộ trưởng Quốc phòng Stimson dưới hình thức một bản điều
trần trọng thể. Nó bắt đầu bằng một lời tuyên bố rằng các nhà bác học sẽ không
phán xét một cách am tường những vấn đề về chính sách đối nội và đối ngoại. Tuy
nhiên, họ coi rằng có trách nhiệm phải hành động, vì họ đã biết rõ một hiểm họa
nghiêm trọng mà bộ phận còn lại của nhân loại chưa hề ngờ đến. Một hoàn cảnh
như sau đã thúc đẩy họ hơn nữa phải hành động như vậy: các nhà bác học hiện nay,
khác hẳn với các nhà nghiên cứu các thế kỷ trước, không thể đề nghị được những
phương tiện bảo vệ đủ hiệu quả để chống lại loại vũ khí mới này, vì sức phá hoại
của nó vượt hơn hẳn mọi thứ đã được biết cho tới nay. Một phương tiện bảo vệ như
vậy, họ trình bày thêm, có thể được thực hiện không phải bằng những phát minh
khoa học, mà chỉ bằng một cách tổ chức chính trị mới của thế giới. Khẳng định này
có kèm theo một dự đoán chính xác đến ngạc nhiên về sự chạy đua vũ trang sẽ xảy
ra, và điều này quả thực đã xảy ra. Muốn tránh được điều đó, bản báo cáo nói tiếp,
cần phải có những biện pháp khẩn cấp để lập ra sự kiểm soát quốc tế về bom
nguyên tử, trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Nhưng sự tin cậy cần thiết đó sẽ bị tiêu diệt
ngay từ đầu nếu như Mỹ bất thần tấn công Nhật Bản bằng bom nguyên tử... Bom
này sẽ giết chết cả binh lính lẫn thường dân mà không có phân biệt. Bảy nhà khoa
học báo trước cho Bộ trưởng: Như vậy ưu thế quân sự đạt được bằng cách bất thần
dùng bom nguyên tử để đánh Nhật Bản sẽ bị thủ tiêu do sự mất lòng tin về sau này,
và do làn sóng sợ hãi và kinh tởm sẽ bao trùm thế giới, và chắc hẳn sẽ phân chia dư
luận xã hội [10, tr.1t82].
“Bản báo cáo của Franck” đã đề nghị thay thế việc ném bom nguyên tử xuống
Nhật Bản như đã hoạch định bằng việc biểu diễn sức mạnh của loại vũ khí mới
trước tất cả các đại biểu của Liên Hiệp quốc trong một hoang mạc, hoặc trên một
hòn đảo không có người ở. Trong bản báo cáo nói tiếp: sẽ tạo ra được một bầu
không khí tốt đẹp nhất để đạt tới một sự thỏa thuận quốc tế, nếu như nước Mỹ có
thể nói với thế giới: “Các bạn thấy đó, chúng tôi có thứ vũ khí như thế nào, nhưng
chúng tôi không sử dụng nó. Chúng tôi sẵn sàng từ bỏ không sử dụng nó cả trong
29
tương lai nữa, nếu như các nước khác đồng ý với chúng tôi và, tán thành lập ra một
sự kiểm soát quốc tế [về vũ khí hạt nhân] có hiệu quả” [Dẫn lại theo 10, tr.183].
Franck tới Washington, thông qua nhà bác học Compton, đã chuyển báo cáo
đến người phó của Stimson là George L. Harrison. Các lãnh đạo Bộ quốc phòng đã
nhanh chóng nghiên cứu tài liệu này. Tính khẩn cấp của lời kêu gọi này, và sự tôn
trọng lớn lao của mọi người đối với bảy thành viên của Hội đồng của Franck đã
khiến Stimson gởi ngay tài liệu này đến tay Ủy ban lâm thời các nhà bác học
nguyên tử ở Los Alamos. Bốn nhà bác học nổi tiếng của Ủy ban này ở Los Alamos
gồm Fermi, Oppenheimer, Compton và Lawrence đã bàn bạc và lên tiếng ủng hộ
bản báo cáo này của các đồng nghiệp ở Chicago. Sau này Oppenheimer nhớ lại:
“Người ta yêu cầu chúng tôi phát biểu ý kiến về vấn đề có cần sử dụng bom nguyên
tử không. Nguyên cớ là có bản điều trần của các nhà khoa học nổi tiếng và có uy
tín, họ đã đi đến kết luận không nên sử dụng bom nguyên tử... Chúng tôi không biết
gì về tình hình quân sự ở Nhật và vì vậy không biết được có thể bắt Nhật đầu hàng
bằng những phương tiện nào khác không. Nhưng trong tiềm thức, chúng tôi cảm
thấy rằng việc sử dụng bom nguyên tử là không thể tránh được” [Dẫn lại theo 10,
tr.183]. Như vậy là sáng kiến của bảy nhà khoa học ở Chicago đã bị bác bỏ, họ
không những không ngăn chặn được việc ném bom xuống Nhật mà đề nghị lập Ủy
ban kiểm soát quốc tế về bom nguyên tử cũng không thực hiện được.
Tháng 7.1949, sau khi Liên Xô thử thành công quả bom nguyên tử đầu tiên,
chính quyền Truman đã đẩy mạnh kế hoạch nghiên cứu và chế tạo bom nhiệt hạch
(bom H). Tổng thống Truman trịnh trọng tuyên bố: “Tôi đã ra lệnh cho Ủy ban
năng lượng nguyên tử tiếp tục nghiên cứu làm mọi loại vũ khí nguyên tử, bao gồm
cả vũ khí khinh khí (bom H), hay là bom siêu đẳng. Giống như mọi công trình khác
trong lĩnh vực vũ khí nguyên tử, việc sản xuất loại bom mới này sẽ được tiến hành
phù hợp với chương trình toàn diện của chúng ta về hòa bình và an ninh” [Dẫn lại
theo 10, Tr.270]. Bom H có sức hủy diệt mạnh gấp nhiều lần bom A. Kế hoạch này
của chính quyền Truman đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của các nhà bác học
nguyên tử Hoa Kỳ, trong đó có Oppenheimer. Oppenheimer cùng với các nhà bác
học khác đã gởi một báo cáo cho Ủy ban năng lượng nguyên tử Mỹ vào ngày
30
30.10.1949. Trong bản báo cáo này, các nhà khoa học đã cảnh báo khả năng tàn phá
của bom H mạnh từ 20 đến 100 lần so với bom A. Bản báo cáo cho rằng: “Việc sử
dụng loại vũ khí này sẽ đưa đến sự giết hại số lượng lớn sinh mạng con người. Thứ
vũ khí này không chỉ hủy diệt các mục tiêu quân sự và bán quân sự mà còn hơn cả
bom nguyên tử là tiêu diệt tất cả dân thường” [8;tr.31]. Họ gọi loại vũ khí này là
“mối đe dọa đối với tương lai loài người” và là “thứ vũ khí diệt chủng”.
Oppenheimer và các nhà bác học còn khuyến nghị Chính phủ Hoa Kỳ nên đàm
phán với Chính phủ Liên Xô về việc không phát triển loại vũ khí này. Họ cho rằng,
trong trường hợp không đạt được thỏa thuận với Liên Xô, Hoa Kỳ vẫn có đủ bom A
để đối phó với Liên Xô mà không cần phát triển bom H [8, tr.32]. Nhiều nhà bác
học khác cũng lên tiếng phản đối việc chế tạo và sử dụng bom khinh khí. Nhà vật lý
Bethe đã lên tiếng như một người cổ vũ cho chiến dịch chống bom khinh khí:
“Ngày nay khó mà loại trừ được bom nguyên tử ngoài kế hoạch vũ trang của chúng
ta, vì rằng chiến lược của chúng ta dựa vào nó là chủ yếu. Nhưng tôi không thể
bàng quan nếu như tình thế này cũng lại nẩy ra đối với bom khinh khí” [Dẫn lại
theo 10, tr.271]. Trong một bài báo đăng trên tạp chí Scientific American, Bethe đã
khẳng định: “Tôi tin chắc rằng quan trọng nhất đối với chúng ta là vấn đề đạo đức.
Chúng ta là những người luôn luôn kiên trì những nguyên tắc đạo lí và nhân đạo
cao cả, chúng ta có thể đưa vào thế giới một phương tiện kinh khủng để hủy diệt
toàn bộ được không? Chúng tôi tin vào hòa bình dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau.
Chúng ta có thể đạt được điều đó bằng cách sử dụng bom khinh khí hay không?
Nếu như chúng ta khai chiến, và chiến thắng được bằng bom khinh khí, thì lịch sử
sẽ ghi lại cho con cháu chúng ta nhớ không phải những lí tưởng mà chúng ta đã
đấu tranh bảo vệ, mà là những phương pháp chúng ta đã sử dụng để cố đạt tới lí
tưởng. Mà những phương pháp này thì chỉ có thể so sánh được với những cuộc
chiến tranh của Thành Cát Tư Hãn, giết hại không thương tiếc tất cả mọi người,
không trừ ai” [Dẫn lại theo 10, tr.271 - 272].
31
Ngày 4.2.1950, mười hai nhà vật lí nguyên tử Hoa Kỳ4, đứng đầu là Bethe, đã
lên án quyết định sản xuất bom khinh khí của Tổng thống Truman trong một bản
tuyên bố. Trong bản tuyên bố này, Bethe đã viết: “Chúng tôi tin chắc rằng không
một dân tộc nào có quyền sử dụng loại bom này, dù điều đó có vẻ chính đáng đến
đâu đi nữa. Bom nguyên tử không phải chỉ là một vũ khí dùng cho chiến tranh, nó
còn là phương tiện hủy diệt toàn thể dân cư. Tạo ra mối đe dọa như vậy đối với các
dân tộc trên thế giới...là điều đáng căm ghét đối với tất cả mọi nguyên tắc đạo lí và
nền văn minh gia tô giáo... Chúng tôi kiên trì đòi chính phủ Mỹ phải trịnh trọng
tuyên bố rằng chúng ta sẽ không bao giờ sử dụng vũ khí này trước tiên. Hoàn cảnh
duy nhất buộc chúng ta sử dụng vũ khí này là khi chúng ta hoặc đồng minh của
chúng ta bị tấn công bằng loại bom này. Chỉ một cái đó có thể là biện minh duy
nhất cho việc chế tạo bom khinh khí, và cái đó phải ngăn chặn việc sử dụng loại
bom này” [Dẫn lại theo 10, tr.272 - 273].
Những kiến nghị của các nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ đều bị tổng thống
Truman bác bỏ. Không những vậy, chính quyền Truman còn chống lại những nhà
khoa học kiên quyết phản đối việc chế tạo bom H. Vụ xét xử nhà bác học
Oppenheimer đầu những năm 50 thế kỷ XX là một trường hợp điển hình. Do phản
đối quyết liệt bom H, Oppenheimer đã bị chính quyền Truman buộc tội dính líu với
các tổ chức cánh tả, trong đó có Đảng Cộng sản Hoa Kỳ. Ông cũng bị buộc tội che
giấu cho gián điệp Liên Xô tìm kiếm kỹ thuật nguyên tử của Hoa Kỳ năm 1943, tội
trì hoãn chế tạo bom H và những tội khác [8, tr.32 - 33]. Với những lời buộc tội
này, chính quyền Truman đã từ chối đảm bảo an ninh cho Oppenheimer, sa thải ông
khỏi Ủy ban Năng lượng nguyên tử Hoa Kỳ và không cho phép ông tiếp cận với
công việc nghiên cứu và chế tạo vũ khí hạt nhân. Việc chính quyền Truman xét xử
Oppenheimer đã gây ra sự phản đối trong công luận Mỹ, các đồng nghiệp của
Oppenheimer lên tiếng ủng hộ và bào chữa cho ông, nhưng mọi cố gắng của họ đều
4 Bao gồm: H.S.Bethe, S.C.Allison, C.T.Beinbridge, R.B.Brede, S.S.Lawritsen, F.W.Lumis, G.B.Pegram, B.Rossi, F.Zeitz, M.A.Tuve, V.F.Weisskopf và M.G.White
không có kết quả.
32
Như vậy những nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ chính là những người Mỹ đầu
tiên lên tiếng phản đối sự sản xuất và sử dụng vũ khí hạt nhân, và cũng chính họ là
những người đầu tiên kiến nghị một sự kiểm soát với năng lượng và vũ khí hạt
nhân.
1.3.2. Chính sách của chính quyền Hoa Kỳ về kiểm soát vũ khí hạt nhân
Quan điểm của phần lớn giới chức Hoa Kỳ và một bộ phận không nhỏ công
chúng Hoa Kỳ về vũ khí hạt nhân với an ninh của nước Mỹ là “Chỉ có ưu thế về vũ
khí hạt nhân mới đảm bảo an ninh cho nước Mỹ” [16, tr.1], có lẽ giới chức Xô viết
cũng có quan điểm tương tự. Điều đó đã đẩy cuộc chạy đua vũ trang đến chỗ không
có hồi kết, và thập niên 1960, kho vũ khí hạt nhân của hai nước đã đạt đến tình
trạng “cân bằng của nổi khiếp sợ” (Balance of terror). Tuy vậy, vào giai đoạn đầu
của vũ khí hạt nhân, trong giới chức Mỹ vẫn có một số người phản đối chạy đua vũ
khí hạt nhân và đề xuất những sự kiểm soát đối với loại vũ khí này.
Trong các quan điểm của giới chức Mỹ dưới chính quyền Truman, đáng chú ý
là quan điểm của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Stimson. Không lâu sau sự kiện Hoa
Kỳ ném bom xuống Nhật Bản, ngày 11.9.1945 Stimson đã gởi lên Tổng thống
Truman một lá thư để bày tỏ quan điểm về vũ khí nguyên tử. Trong thư, Stimson
viết rằng việc Hoa Kỳ sử dụng bom nguyên tử trong chiến tranh đã có tác động lớn
đến các vấn đề chính trị của thế giới. Ông tin rằng việc Hoa Kỳ sử dụng bom
nguyên tử không gây được áp lực lên Liên Xô trong việc thay đổi chính sách của
nước này. Trái lại, theo Stimson, các nhà lãnh đạo Liên Xô càng quyết tâm có được
vũ khí nguyên tử trong thời gian sớm nhất và hơn thế nữa là cuộc chạy đua vũ trang
tuy diễn ra lặng lẽ nhưng không kém phần quyết liệt. Ông còn cho rằng vấn đề vũ
khí hạt nhân là vấn đề trọng yếu trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô sau Chiến
tranh thế giới thứ Hai. Và do vậy ông đề nghị chính quyền Truman cùng với Anh
cần đàm phán ngay với Liên Xô về việc kiểm soát và hạn chế sử dụng bom nguyên
tử trong chiến tranh cũng như khuyến khích việc phát triển năng lượng nguyên tử vì
mục đích hòa bình. Cũng theo ông, nếu đạt được một hiệp định như vậy sẽ làm
giảm sự nghi ngờ lẫn nhau giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, mở đường cho sự tham gia của
33
các cường quốc khác vào hiệp định trong khuôn khổ của Liên Hợp Quốc. Nhưng đề
nghị này của Stimson cũng không được Truman đồng ý.
Đầu năm 1946, chính quyền Truman tuyên bố kế hoạch đầu tiên về kiểm soát
quốc tế đối với năng lượng nguyên tử. Kế hoạch này được đề nghị trong bản báo
cáo mang tên Báo cáo Acheson – Lilienthal (Acheson là Quốc vụ khanh, còn
Lilienthal là Chủ tịch Ủy ban năng lượng nguyên tử). Trong báo cáo này chính
quyền Truman đề nghị các bước khác nhau trong việc hủy bỏ vũ khí hạt nhân của
các nước. Các nước khác đã không chấp nhận đề nghị này của chính quyền Truman
vì họ cho rằng nó chỉ có lợi cho Hoa Kỳ.
Ngày 15.6.1946, chính quyền Truman lại đưa ra một kế hoạch kiểm soát vũ
khí hạt nhân khác – Kế hoạch Baruch, kế hoạch này được đệ trình lên Liên Hiệp
Quốc. Kế hoạch kêu gọi thành lập một tổ chức phát triển nguyên tử quốc tế có khả
năng kiểm soát các hoạt động hạt nhân nguy hiểm đe dọa đến an ninh thế giới. Nếu
kế hoạch Baruch được thực hiện thì thế giới sẽ không chế tạo thêm quả bom nguyên
tử nào và những kho chứa bom hiện đang tồn tại sẽ bị phá hủy. Không khó hiểu khi
đại biểu của Liên Xô bỏ phiếu chống lại kế hoạch này, ông còn cho rằng cuộc đàm
phán về giải trừ quân bị sẽ chưa thể diễn ra công bằng nếu Hoa Kỳ còn độc quyền
về vũ khí hạt nhân và điều khiển thế giới theo mưu đồ có lợi cho họ [3, tr.19].
Tháng 10.1946, một nhà khoa học trong đoàn đại biểu Xô Viết đã nói với Beria và
Molotov rằng: “Nếu kế hoạch Baruch được chấp nhận thì mọi hoạt động độc lập
nhằm phát triển việc chế tạo nguyên tử ở các quốc gia đã kí hiệp ước phải bị rút
ngắn và chuyển tới một tổ chức quốc tế (trên thực tế, chắc chắn là tổ chức của Mỹ).
Tổ chức Quốc tế này sau đó sẽ tiến tới kiểm soát nguồn tài nguyên của chúng ta.
Chúng ta từ chối sự giúp đỡ đó và quyết tâm tiến hành toàn bộ nghiên cứu và công
việc chuẩn bị cần thiết để thiết lập sự chế tạo nguyên tử ở đất nước của chúng ta,
với những nổ lực của chính chúng ta như Mỹ đã làm trong những năm chiến tranh”
[Dẫn lại theo 3, tr.19].
Việc ngày 17.7.1949 Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử đã tác động
không nhỏ đến những quyết tâm của chính quyền Truman trong việc đạt được một
thỏa thuận về kiểm soát vũ khí hạt nhân quốc tế. Ngày 16.8.1949, Bộ Ngoại giao
34
Hoa Kỳ đưa ra một bản báo cáo khuyến nghị chính quyền Truman cần phải đánh
giá lại chính sách của Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc trong việc đạt được một cơ chế
kiểm soát quốc tế có hiệu quả đối với vũ khí hạt nhân. Ngày 23.9.1949, trong một
tuyên bố, Tổng thống Truman nói rằng: “Hoa Kỳ cần tăng cường hoạt động ở Liên
Hiệp Quốc để đạt được sự nhất trí của các thành viên Liên Hiệp Quốc đối với việc
thành lập cơ quan kiểm soát năng lượng nguyên tử quốc tế” [10, tr.38]. Việc Liên
Xô chế tạo thành công bom nguyên tử đã đẩy cuộc chạy đua vũ trang của hai nước
trở nên quyết liệt hơn và sự đối đầu của hai khối cũng trở nên căng thẳng hơn. Đứng
trước thực tế này, nhằm ngăn chặn những kỹ thuật quân sự được chuyển giao cho
các nước khối Xô viết, Hoa Kỳ đã chủ động khởi xướng, cùng với các nước đồng
minh Tây Âu, thành lập Ủy ban Phối hợp xuất khẩu đa phương, Ủy ban này còn
cấm xuất khẩu nguyên liệu nguyên tử và vũ khí hạt nhân, sau đó Australia và Nhật
Bản cũng tham gia vào ủy ban này. Như vậy, đây chính là hình thức đầu tiên về
kiểm soát vũ trang quốc tế do Hoa Kỳ lập ra để ngăn cản sự chuyển giao kỹ thuật
quân sự nói chung và kỹ thuật hạt nhân nói riêng cho các nước khối Xô Viết [10,
tr.39].
Chính sách vũ khí hạt nhân dưới thời Eisenhower được thể hiện rõ trong văn
kiện NSC 162/2 ngày 30.10.1953 của Hội đồng An ninh Quốc gia và trong học
thuyết “Trả đũa ồ ạt” của Eisenhower đã được trình bày ở mục 1.2.2. Trong giai
đoạn Eisenhower làm tổng thống, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ không ngừng
tăng lên, cuộc chạy đua vũ trang, đặc biệt là chạy đua vũ khí hạt nhân giữa các nước
trên thế giới ngày càng quyết liệt. Tuy vậy, chính quyền Eisenhower vẫn quan tâm
đến vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân, trong bài diễn văn tại Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc, Tổng thống Eisenhower đã đề nghị thành lập Cơ quan Năng lượng nguyên tử
quốc tế (IAEA) dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Theo đề nghị của Eisenhower,
IAEA có chức năng quản lí các nước có nguyên liệu phân rã hạt nhân sử dụng vào
các mục đích hòa bình, chẳng hạn như trong lĩnh vực nông nghiệp và y tế. Tổng
thống Eisenhower cũng tuyên bố, Hoa Kỳ sẵn sàng cử các chuyên gia hạt nhân hỗ
trợ về kỹ thuật cho cơ quan này. Do những bất đồng quan điểm giữa các nước, việc
thành lập IAEA mãi đến năm 1957 mới thực hiện được [8, tr.41]. Trong thời gian
35
này, tuy Hoa Kỳ và Liên Xô một mặt tiếp tục chạy đua vũ trang, đặc biệt là vũ khí
hạt nhân, nhưng một mặt hai nước đã có những cuộc đàm phán đầu tiên về kiểm
soát vũ khí hạt nhân, nhưng do nhiều bất đồng các cuộc đàm phán này đều không
đem lại kết quả gì. Ngày 21.7.1955, tại cuộc gặp gỡ với nguyên thủ các quốc gia
Anh, Pháp và Liên Xô, Tổng thống Eisenhower đã đưa ra kế hoạch Bầu trời mở
(Open Sky). Theo kế hoạch này, Eisenhower đã đề nghị Liên Xô và Hoa Kỳ trao
đổi các kế hoạch xây dựng quân đội của hai nước và tạo điều kiện cho mỗi bên thực
hiện việc do thám trên không để ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ và bắt đầu
thực hiện một hệ thống toàn diện có hiệu quả đối với việc thanh sát và giải trừ quân
bị, nhưng chính phủ Liên Xô đã không đồng ý với đề nghị này của Eisenhower [8,
tr.44]. Tiếp theo đó là một đề nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân được đại sứ Hoa
Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Henry Cabot Lodge, đưa ra. Đề nghị gồm những điểm
chính: 1. Thực hiện cắt giảm các kho vũ khí hạt nhân hiện có và hạn chế việc sản
xuất vũ khí hạt nhân; 2. Giám sát chặt chẽ các cuộc thử hạt nhân và việc sử dụng
năng lượng hạt nhân; 3. Thành lập một cơ quan kiểm soát vũ khí quốc tế [8, tr.45].
Tiếp sau đề nghị này, ngày 21.8.1957, Tổng thống Eisenhower tuyên bố Hoa Kỳ
sẵn sàng ngừng các cuộc thử vũ khí hạt nhân trong hai năm theo những điều kiện và
sự đảm bảo nhất định, coi đó là một phần của bước đi đầu tiên tiến tới một hiệp
định về giải trừ quân bị. Trong những năm cuối của nhiệm kỳ tổng thống của mình,
Eisenhower và chính phủ của ông xúc tiến nhiều cuộc gặp gỡ và đàm phán với các
nước, đặc biệt là với Liên Xô, về cấm thử vũ khí hạt nhân cả một phần lẫn toàn
diện, vấn đề này sẽ được đề cập kỹ hơn trong Chương 2 của luận văn này. Trong
khi các cuộc đàm phán về cấm thử vũ khí hạt nhân diễn ra mà chưa đạt được kết
quả thì Hoa Kỳ, Liên Xô và 12 nước khác đã đạt được một thỏa thuận về việc sử
dụng vùng Nam cực vào mục đích khoa học, đó là Hiệp ước Nam cực (Antarctic
Treaty) được kí kết ngày 1.12.1959. Hiệp ước quy định Nam cực là khu vực chỉ
giành riêng cho các nghiên cứu khoa học, cấm tất cả các nước thành viên hiệp ước
tiến hành các vụ thử hạt nhân cũng như việc đổ chất thải phóng xạ ở khu vực này
[8, tr.48]. Trong năm 1960, Hoa Kỳ tham gia nhiều hội nghị giải trừ quân bị, trong
đó có Hội nghị giải trừ quân bị họp ở Geneve ngày 15.3.1960, nhưng các nước cũng
36
không đạt được một thỏa thuận nào. Ngày 26.7.1960 Hoa Kỳ lại đưa ra thêm một kế
hoạch kiểm soát vũ khí, kế hoạch này gồm ba bước, kêu gọi việc thông báo trước về
các cuộc phóng tên lửa, thanh sát lẫn nhau các căn cứ không quân và nơi phóng tên
lửa, hạn chế sản xuất nguyên liệu phân rã hạt nhân và cắt giảm bước đầu các lực
lượng vũ khí thông thường. Tiếp đó, ngày 16.8.1960, Đại sứ Henry Cabot Lodge đã
thông báo cho Ủy ban Giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc biết, trên cơ sở có đi có
lại, Hoa Kỳ sẵn sàng chuyển 30.000kg Uranium dùng để sản xuất vũ khí hạt nhân
sang sử dụng cho các mục đích hòa bình nếu Liên Xô cũng đồng ý cắt giảm sản
xuất nguyên liệu phân rã hạt nhân dùng vào mục đích quân sự. Đại sứ Lodge cũng
cho rằng Hoa Kỳ sẽ lần lượt đóng cửa các nhà máy lớn sản xuất Uranium và
Plutonium được làm giàu nếu Liên Xô cũng làm tương tự [63, tr.14]. Khi Kennedy
lên làm Tổng thống thì các cuộc đàm phán về hạn chế vũ khí hạt nhân vẫn diễn ra
nhưng cũng không thu được kết quả gì. Sau đó chính quyền Kennedy lại đưa ra một
giải pháp toàn diện về kiểm soát vũ khí hạt nhân cho các cường quốc hạt nhân và đệ
trình lên Liên Hiệp Quốc. Giải pháp gồm sáu vấn đề lớn là: 1. Ký ngay một hiệp
ước cấm thử vũ khí hạt nhân; 2. Chấm dứt việc sản xuất vũ khí hạt nhân và ngăn
chặn việc chuyển giao vũ khí hạt nhân cho các quốc gia chưa có loại vũ khí này; 3.
Nghiêm cấm việc đưa vũ khí hạt nhân vào vũ trụ; 4. Từng bước phá hủy các loại vũ
khí hạt nhân hiện có và sử dụng các nguyên liệu phân rã hạt nhân cho mục đích hòa
bình; 5. Cắt giảm lực lượng vũ trang của các nước theo những bước khác nhau; 6.
Đóng góp lực lượng quốc gia cho quân đội gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc [8,
tr.52].
Như vậy, những đề nghị về kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, vì nhiều lí
do khác nhau, đã không được thực thi. Và song song với quá trình này, Hoa Kỳ đã
không ngừng phát triển kho vũ khí hạt nhân của mình. Bảng thống kê dưới đây đã
cho thấy điều đó.
37
Bảng 1.1 Số lượng vũ khí hạt nhân trên thế giới giai đoạn 1945 - 1962
Năm
1945 1949 1951 1952 1953 1960 1962 Nước
6 Hoa Kỳ 235 640 1005 1436 20434 27609
0 Liên Xô 1 25 50 120 1605 3322
0 Anh 0 0 0 1 30 205
0 Pháp 0 0 0 0 0 0
6 Tổng 236 665 1055 1557 22069 31136
cộng
Nguồn: [Dẫn lại theo 8, tr.28]
Trong khung cảnh của cuộc Chiến tranh Lạnh và sự đối đầu Hoa Kỳ - Liên Xô
tiếp tục gia tăng, sự chênh lệch về lực lượng hạt nhân như thế này đã khiến Liên Xô
tiếp tục lao vào cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân “Cũng chính vì thế mà Liên Xô và
Hoa Kỳ không đạt được những thỏa thuận đối với những đề nghị về kiểm soát và
cấm thử vũ khí hạt nhân của phía Mỹ” [1, tr.54 – 55 và tr.78 – 79]. Do những bất
đồng sâu sắc nên Hoa Kỳ và Liên Xô chưa thể ký được một hiệp ước song phương
về kiểm soát vũ khí hạt nhân ở thời điểm trước cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba nổ
ra.
1.4. Cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (10 – 1962)
Cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba (Cuban Missile Crisis) hay còn được biết với
tên gọi Khủng hoảng tháng 10 tại Cuba là một cuộc đối đầu giữa Liên
Xô, Cuba với Hoa Kỳ vào tháng 10.1962 trong thời Chiến Tranh Lạnh. Tháng
9.1962, chính phủ Cuba và Liên Xô bắt đầu bí mật xây dựng các căn cứ trên đất
Cuba để khai triển một số tên lửa đạn đạo hạt nhân tầm trung có khả năng đánh
trúng đa số các mục tiêu trên lục địa Hoa Kỳ. Hành động này xảy ra sau sự kiện
Hoa Kỳ triển khai tên lửa tầm trung Thor trên đất Vương quốc Anh vào năm 1958
và tên lửa tầm trung Jupiter trên đất Ý và Thổ Nhĩ Kỳ năm 1961; tổng cộng có hơn
100 tên lửa do Hoa Kỳ chế tạo đã triển khai ở châu Âu có khả năng đánh
trúng Moscow bằng đầu đạn hạt nhân. Ngày 14.10.1962, phi cơ do thám U-2 của
38
Hoa Kỳ chụp được những bằng chứng không ảnh cho thấy các căn cứ tên lửa của
Liên Xô đang được xây dựng tại Cuba.
Cuộc khủng hoảng này có cấp bậc ngang tầm với cuộc phong tỏa Berlin vì đây
là một trong các vụ đối đầu chính của Chiến Tranh Lạnh và thường được xem là
khoảnh khắc mà Chiến tranh Lạnh tiến gần nhất để biến thành một cuộc xung đột
hạt nhân. Hoa Kỳ đã xem xét đến việc tấn công Cuba bằng không lực và hải lực và
tiến hành “phong tỏa” Cuba bằng quân sự. Hoa Kỳ thông báo rằng họ sẽ không cho
phép vũ khí tấn công được gởi đến Cuba và đòi hỏi rằng Liên Xô phải tháo bỏ các
căn cứ tên lửa đang được xây hay đã xây dựng xong tại Cuba và dẹp bỏ hết tất cả
các loại vũ khí tấn công. Chính phủ của Tổng thống Kennedy hy vọng mỏng manh
rằng Điện Kremlin sẽ đồng ý với những đòi hỏi của họ và chờ đợi một cuộc đối đầu
quân sự. Về phía Liên Xô, Nikita Khrushev viết một lá thư gửi cho Kennedy trong
đó nói rằng việc Kennedy ra lệnh phong tỏa “giao thông trong vùng biển và không
phận quốc tế là một hành động gây hấn đưa con người vào vực thẳm của một cuộc
chiến tranh bằng tên lửa hạt nhân toàn cầu” [Dẫn lại theo 3, tr.65]. Fidel
Castro khuyến khích Khrushev mở một cuộc tấn công hạt nhân đánh trước phủ đầu
chống Hoa Kỳ.
Ngoài mặt, cả Liên Xô lẫn Hoa Kỳ đều tỏ ra không nhân nhượng trước những
đòi hỏi công khai của nhau, nhưng tại các cuộc tiếp xúc bí mật sau hậu trường họ
đưa ra một đề nghị giải quyết cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kết thúc vào
ngày 28 tháng 10 năm 1962 khi Tổng thống John F. Kennedy và Tổng thư ký Liên
Hiệp Quốc U Thant đạt đến một thỏa thuận với vị lãnh đạo Liên Xô Nikita
Khrushchev trong việc Liên Xô tháo bỏ các vũ khí tấn công và đưa chúng trở về
nước mình dưới giám sát kiểm tra của Liên Hiệp Quốc để đổi lấy việc Hoa Kỳ đồng
ý sẽ không bao giờ xâm chiếm Cuba và thỏa thuận ngầm là sẽ rút các tên lửa tầm
trung Thor và Jupiter của Hoa Kỳ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Liên Xô tháo bỏ các hệ thống
tên lửa và các trang bị hỗ trợ, đưa chúng xuống tám chiếc tàu Liên Xô từ ngày 5 đến
ngày 9 tháng 11. Một tháng sau đó, ngày 5 và 6 tháng 12, các oanh tạc cơ Liên
Xô Il-28 được đưa xuống ba chiếc tàu Liên Xô và đưa trở về Liên Xô. Cuộc phong
tỏa chính thức kết thúc lúc 18h45 giờ miền Đông Hoa Kỳ ngày 20.11.1962. Một
39
phần trong thỏa thuận bí mật là tất cả các tên lửa đạn đạo tầm trung PGM-17
Thor và PGM-19 Jupiter đã được khai triển ở châu Âu phải bị tháo dỡ trước tháng
9.1963.Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã khai sinh ra thỏa hiệp đường dây nóng
(hotline agreement) và đường dây nóng Moscow - Washington, một đường dây
thông tin liên lạc trực tiếp giữa Moscow và Washington.
Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã gần như đẩy nhân loại đến một sự hủy diệt
hoàn toàn. Tuần lễ cuối tháng 10.1962 được sử gia Sheldon Stern ở Thư viện Tổng
thống Kennedy gọi một cách hình ảnh là tuần lễ “thế giới bất động” (the world
standing still). Theo ông “chưa bao giờ trước đó hay từ đó, sự thượng tồn của văn
minh nhân loại đã bị đe dọa suốt thời gian thảo luận cực kỳ nguy hiểm trong mấy
tuần lễ ngắn ngũi, lên đỉnh điểm trong tuần lễ thế giới bất động” (Never before or
since, has the survival of human civilization been at stake in a few short weeks of
dangerous deliberations, culminating in the week the world stood still) [53]. Từ sau
cuộc khủng hoảng này cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều tìm cách tránh một cuộc chiến
tranh hạt nhân [8, tr.65] và cũng từ sau cuộc khủng hoảng này vấn đề kiểm soát vũ
khí hạt nhân đã đạt được nhiều kết quả cụ thể.
40
Tiểu kết chương 1
Vũ khí hạt nhân ra đời, về bình diện trong nước, nó sẽ làm cho chính sách cả
đối nội lẫn đối ngoại của chính quyền Washington phải có những thay đổi. Vũ khí
hạt nhân đã chiếm một vị trí nhất định trong chính sách đối nội và đối ngoại của
Hoa Kỳ. Còn về bình diện quốc tế, nó làm cho những căng thẳng trong quan hệ
quốc tế vốn xuất hiện vào những năm cuối của cuộc Chiến tranh thế giới thứ Hai
càng thêm gia tăng. Đã có thời điểm thế giới đứng bên lề của một cuộc chiến tranh
hạt nhân hủy diệt lẫn nhau. Chính phủ Hoa Kỳ qua các đời Tổng thống Truman,
Eisenhower, Kennedy đã có những chính sách khác nhau trong việc chế tạo, sử
dụng và kiểm soát vũ khí này. Tuy nhiên có một điểm chung trong chính sách về vũ
khí hạt nhân của ba vị tổng thống này là thứ nhất họ vẫn coi trọng việc phát triển vũ
khí hạt nhân để đảm bảo tính vượt trội hơn so với Liên Xô, từ đó có thể đảm bảo an
ninh cho Hoa Kỳ, chính vì lẽ đó vào thời điểm Cuộc khủng hoảng tháng 10 tại
Cuba, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ là khổng lồ lớn nhất thế giới. Thứ hai, họ
cân nhắc thật kỹ lưỡng việc sử dụng vũ khí hạt nhân và luôn tìm cách tránh nguy cơ
nổ ra một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Thứ ba, là chính phủ của họ luôn có
những đề nghị và đề xuất những phương án để kiểm soát loại vũ khí này, nhưng vì
nhiều lí do khác nhau, các đề nghị và phương án này đã không thành công. Trong
nội bộ nước Mỹ, các tiếng nói riêng lẽ về kiểm soát vũ khí hạt nhân cũng vang lên
không ngớt, phần lớn là của các nhà bác học nguyên tử, nhưng chính phủ ở
Washington đã không hoan nghênh và ủng hộ các đề xuất này của họ. Đứng trước
nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt nảy sinh từ Cuộc khủng hoảng
tên lửa Cuba, các chính trị gia mới thấy cần phải thúc đẩy nhanh tiến trình đàm
phán để các thỏa thuận về kiểm soát vũ khí hạt nhân có kết quả thực tế, để góp phần
quan trọng giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân xảy ra trong tương lai. Cũng chính từ
thời điểm đó mà Hoa Kỳ đã chủ động đẩy nhanh các cuộc đàm phán với các nước
có vũ khí hạt nhân, đặc biệt với Liên Xô để đạt được những thỏa thuận về kiểm soát
vũ khí hạt nhân.
41
Chương 2. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA
HOA KỲ TỪ 1963 ĐẾN 1976
Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba đã cho thấy tình trạng vô cùng nguy hiểm của
cuộc đối đầu giữa hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô, và khiến các nhà lãnh đạo
nhận thức rõ hơn bao giờ hết nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ nổ ra.
Từ bài học này, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã tránh đối đầu trực tiếp trong quan hệ song
phương giữa hai nước, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều chấp nhận sự tồn tại của đối thủ
trong tư cách là một quốc gia có chế độ chính trị hoàn toàn đối lập về mọi mặt.
Cũng từ đó quan hệ hai nước trở nên hòa dịu hơn. Nhưng không vì thế mà cuộc
chạy đua vũ trang có dấu hiệu suy giảm. Trong khi đó tình hình thế giới lại phức tạp
hơn với việc xuất hiện nhiều điểm nóng, đặc biệt là Việt Nam. Cuộc chiến tranh
Việt Nam đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Hoa Kỳ. Cuộc
chạy đua vũ trang và các chi phí quân sự khác là một gánh nặng cho ngân sách của
chính phủ Hoa Kỳ và cho cả đất nước. Trong bối cảnh đó, Hoa Kỳ đã dần điều
chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng hòa dịu hơn trong quan hệ với các cường
quốc, đặc biệt là với Liên Xô và Trung Quốc. Hoa Kỳ đã chủ động đẩy mạnh tiến
trình đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân và đã đạt được kết quả đầu tiên về việc
ký kết các văn kiện hạn chế vũ khí hạt nhân.
2.1. Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân một phần năm 1963 ( Limited Test Ban
Treaty -LTBT)
Vấn đề cấm thử vũ khí hạt nhân được chính quyền của Tổng thống Eisenhower
đệ trình lên Liên Hiệp Quốc từ tháng 4.1954 và xúc tiến các cuộc đàm phán với các
cường quốc, nhất là với Liên Xô về vấn đề này. Tại các cuộc đàm phán, Liên Xô
kiên quyết đòi ngưng vô thời hạn toàn bộ các cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân , kể
cả dưới mặt đất, và hiệp ước này đòi tất cả các cường quốc hạt nhân kí. Nhưng Pháp
bác bỏ vì coi đây không phải là hành động giải trừ quân bị thực sự mà chỉ là một cố
gắng của những nước đã có vũ khí hạt nhân ngăn không cho các nước khác có loại
vũ khí này. Hoa Kỳ cũng không đồng ý với quan điểm này của Liên Xô và cho rằng
chỉ cần cấm thử ở trong bầu khí quyển, dưới nước vì cho rằng khoa học hiện tại
42
không thể phân biệt được những chấn động trong lòng đất do thử hạt nhân với các
chấn động do động đất gây ra (có ý không tin tưởng Liên Xô chấp hành đúng nếu
Hiệp ước được kí kết) và phía Hoa Kỳ đưa ra đề nghị đòi được kiểm tra tại chỗ các
hiện tượng bị hồ nghi là vụ nổ hạt nhân trong lòng đất. Phái đoàn của Liên Xô đã
không xem xét đề nghị này của Hoa Kỳ vì cho rằng đây là âm mưu của Hoa Kỳ
nhằm do thám lãnh thổ của Liên Xô. Kết quả của nhiều bất đồng đó là sau 157
phiên họp từ ngày 23.4.1954 đến ngày 6.9.1957 không một tiến bộ nào được ghi
nhận [27, tr.37]. Ngày 31.10.1958, cuộc đàm phán về cấm thử vũ khí hạt nhân đã
được nối lại tại Geneva giữa Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh. Tại Hội nghị này ba nước
bàn về các vấn đề như con số các cuộc kiểm tra tại chỗ, thời hạn tạm ngưng thử
nghiệm, nhu cầu hợp tác cải tiến các phương pháp phát hiện. Sau đó hội nghị đã
xoay quanh trọng tâm là kiểm tra các cuộc thử hạt nhân vì sẽ không nước nào từ bỏ
các cuộc thử nghiệm, vốn là phương sách chính để cải tiến các loại vũ khí hạt nhân,
nếu không chắc chắn rằng đối phương cũng sẽ làm như vậy. Hoa Kỳ và Anh đồng ý
ký một thỏa ước từ bỏ thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, vốn rất dễ dàng phát
hiện, và các cuộc thử quy mô lớn trong lòng đất, cũng dễ dàng phát hiện so với các
chấn động do động đất được ghi trên địa chấn kế. Nhưng hai nước này không muốn
đưa vào thỏa ước những cuộc thử nghiệm nhỏ trong lòng đất nếu Liên Xô không
đồng tình với điều khoản quy định công tác kiểm tra thích đáng tại chỗ. Liên Xô thì
kiên trì chỉ kí một thỏa ước cấm toàn bộ việc thử nghiệm và khước từ mọi hoạt
động thanh sát tại chỗ [28, tr.37]. Những khác biệt này cùng với nhiều sự biến bất
ngờ xảy ra như vụ máy bay do thám U-2 của Hoa Kỳ bị bắn rơi trên lãnh thổ Liên
Xô, sự thất bại của Hội nghị thượng đỉnh Paris, Cuộc khủng hoảng Berlin đã là
những trở ngại không dễ vượt qua.
Giành chiến thắng trước Richard Nixon của Đảng Cộng hòa, J.F.Kennedy lên
làm tổng thống Hoa Kỳ. Kennedy tuy muốn tìm cách ngăn chặn nguy cơ nổ ra chiến
tranh hạt nhân nhưng do Liên Xô đang có những động thái mạnh mẽ để tăng cường
lực lượng hạt nhân của mình nên ông cũng không thể làm ngơ được. Kennedy đã
chú trọng xây dựng quân đội hùng mạnh để tăng cường sức mạnh ngăn chặn có quy
mô lớn, nhất là lực lượng hạt nhân chiến lược. Trong thông cáo quốc phòng vào
43
tháng 3.1961, Kennedy quyết định tăng cường sản xuất và phát triển hệ thống tàu
ngầm mang tên lửa Polaris và các loại tên lửa dưới lòng đất Minuteman. Tuy vậy,
cũng giống như các tổng thống tiền nhiệm, song song với quá trình phát triển vũ khí
hạt nhân đó, chính quyền Kennedy cũng chú trọng đến vấn đề đàm phán kiểm soát
vũ khí hạt nhân. Ngày 21.3.1961, chính quyền Kennedy đã chủ động nối lại các
cuộc đàm về cấm thử vũ khí hạt nhân với Liên Xô và Anh tại Geneva. Vẫn là vấn
đề thanh sát các cuộc thử trong lòng đất, lúc này Liên Xô đã đồng ý thanh sát nhưng
bất đồng vẫn nảy sinh khiến các thỏa thuận không đạt được, trong khi Hoa Kỳ và
Anh đề nghị tổ chức 20 cuộc thanh sát một năm, còn Liên Xô chỉ khăn khăn đồng ý
3 [56]. Sau đó các cuộc thử hạt nhân trong lòng đất vẫn tiếp tục diễn ra. Ngày
5.9.1961, Liên Xô tiến hành một vụ thử hạt nhân trong lòng đất làm kinh hoàng cả
thế giới, Kennedy cũng đáp trả ngay lập tức bằng lệnh Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tiến hành
những vụ thử hạt nhân trong lòng đất. Khrushev đã nói với phóng viên tờ New York
Times Sulzbeger rằng sự phát triển của những loại bom mới có sức mạnh phi
thường khiến cho những kẻ hung hăng phải suy nghĩ kỹ trước khi hành động và
đảm bảo Liên Xô cũng có sức mạnh không thua kém gì Hoa Kỳ, Anh hay Pháp [3,
tr.73]. Khrushev đã lên tiếng chỉ trích các đề nghị của Hoa Kỳ và Anh về cấm thử
vũ khí hạt nhân và đề nghị một lệnh cấm thử toàn diện ở mọi môi trường. Tuy nhiên
hai nhà lãnh đạo hai cường quốc vẫn trao đổi thư từ cho nhau để bàn về vấn đề giải
trừ quân bị. Cả hai vẫn rất mong muốn vấn đề được giải quyết và sớm đạt được sự
đồng thuận. Trong một động thái nhằm tạo niềm tin trước một hội nghị mới về kiểm
soát vũ khí hạt nhân, Liên Xô đã ngừng các cuộc thử hạt nhân từ ngày 2.11.1961.
Hội nghị giải trừ quân bị, trong đó có vấn đề cấm thử vũ khí hạt nhân đã được
18 quốc gia (ENDC) đồng ý và sẽ chính thức khai mạc ngày 14.3.1962. Tổng thống
Kennedy và thủ tướng Anh MacMillan đề nghị Hội nghị chỉ nên tổ chức ở cấp bộ
trưởng, các nguyên thủ quốc gia sẽ tới khi hội nghị gần đạt được sự đồng thuận. Đề
nghị này khiến Khrushev cho rằng Hoa Kỳ và Anh không tích cực đàm phán, ông
đề nghị Hội nghị cần phải tổ chức ở cấp nguyên thủ quốc gia. Ông thuyết phục
Kennedy: “các vị nguyên thủ quốc gia cần phải chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với
số phận của các công dân, và phải hiểu rõ tình hình cuộc chạy đua vũ trang tên lửa
44
và hạt nhân đang diễn ra như thế nào và cuộc chạy đua đó sẽ đưa tới đâu” [Dẫn lại
theo 3, tr.74 – 75]. Trong cuộc họp với các cố vấn an ninh quốc gia ngày 27.2.1962,
Kennedy quyết định sẽ tiến hành các cuộc thử hạt nhân nếu hội nghị Geneva không
đạt kết quả nào. Ông tuyên bố: “Nếu Liên Xô sẵn sàng kí kết một bản hiệp ước
trong nửa đầu tháng 4 và cam kết thực hiện hiệp ước ngay lập tức, thì tất cả các
cuộc thử hạt nhân sẽ được dừng lại – cuộc chạy đua vũ trang kết thúc – An ninh
của Hoa Kỳ và những lời cam kết của Hoa Kỳ sẽ được đảm bảo. Chúng tôi sẽ không
cần phải khởi động lại chương trình thử hạt nhân trong không khí nữa” [Dẫn lại
theo 3, tr.75]. Quyết định này của Kennedy đã làm cho Khrushev phản đối quyết
liệt, ông đã gởi nhiều lá thư đến Kennedy thể hiện quan điểm và sự phản đối của
mình. Trong lá thư cuối cùng gởi cho Kennedy trước khi hội nghị diễn ra, Khrushev
đã đồng ý các cuộc đàm phán ở Geneva diễn ra ở cấp bộ trưởng, đồng thời ông cũng
khẳng định một thực tế là nếu Hoa Kỳ vẫn giữ nguyên ý định thử hạt nhân thì cơ
hội thành công của hội nghị gần như không còn. Hội nghị Geneva khai mạc ngày
14.3.1962, các cuộc đàm phán diễn ra rất khó khăn do những quan điểm gần như
trái ngược nhau giữa một bên là Hoa Kỳ và Anh, bên kia là Liên Xô. Quan điểm
của Hoa Kỳ và Anh là các quan sát viên quốc tế sẽ giám sát, thẩm tra việc thi hành
lệnh cấm thử vũ khí hạt nhân của các nước tham gia kí kết Hiệp ước còn Liên Xô
thì cực lực phản đối quan sát viên quốc tế đến Liên Xô để kiểm chứng một số chấn
động xảy ra do động đất hay do thử hạt nhân, theo Liên Xô, hành động thanh sát
này của các quan sát viên quốc tế không chỉ dừng lại ở hành động thanh sát thử hạt
nhân thông thường mà còn nhằm do thám lãnh thổ Liên Xô. Do những bất đồng
không thể dung hòa được này mà cuộc đàm phán diễn ra hơn 10 ngày mà vẫn không
đạt được một thỏa thuận nào và Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành hàng loạt các cuộc thử
hạt nhân và nó kéo dài đến tận tháng 11 mới kết thúc. Các cuộc đàm phán tại
Geneva chưa đạt được một thỏa thuận nào và liên tục bị gián đoạn còn do bởi một
bất đồng khá lớn khác, quan điểm của Hoa Kỳ là chỉ cấm thử hạt nhân ở khí quyển,
ngoài không gian, dưới nước còn ở trong lòng đất thì bỏ ngỏ, quan điểm của Liên
Xô là cấm thử hạt nhân trong toàn bộ các môi trường, nghĩa là chấm dứt sản xuất
các loại vũ khí hạt nhân mới.
45
Sau Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, các cuộc đàm phán diễn ra với nhịp độ
nhanh hơn và lập trường của các bên xích lại gần nhau hơn. Ngày 2.7.1963, trong
một phát biểu tại Berlin, Khrushev nói rằng Liên Xô sẵn sàng chấp nhận một thỏa
ước cấm chỉ các cuộc thử nghiệm hạt nhân ở những nơi chúng có thể dễ bị phát hiện
– trong khí quyển, ngoài không gian, dưới mặt nước còn trong lòng đất thì bỏ ngỏ
[56]. Như vậy Khrushev đã có động thái nhượng bộ Kennedy. Ngày 15.7.1963,
đoàn đàm phán của ba nước đã chính thức đàm phán về hiệp ước cấm thử vũ khí hạt
nhân một phần tại Moscow. Sau 10 ngày đàm phán, Hội nghị đã đạt được một thỏa
thuận về hiệp ước và chờ ba vị bộ trưởng của ba cường quốc ký vào.
Nhận được tin tức tốt đẹp từ Moscow, ngày 26.7, Tổng thống Kennedy đã có
bài phát biểu trước toàn thể nhân dân qua đài phát thanh và truyền hình. Ông tỏ ra
phấn khởi và hi vọng một thế giới sẽ tốt đẹp hơn khi hiệp ước được kí kết: “Tôi
đang nói chuyện với các bạn trong niềm hy vọng ngập tràn. Cách đây 18 năm, sự
xuất hiện của vũ khí hạt nhân đã làm thay đổi thế giới và chiến tranh. Cũng từ đó,
loài người phải đấu tranh để tránh nguy cơ rơi vào một thảm kịch hủy diệt trên trái
đất này. Trong một thời đại mà cả hai phe đều sở hữu lực lượng hạt nhân đủ mạnh
để phá hủy nhân loại, thế giới cộng sản và thế giới tự do vẫn đang tiếp tục có
những xung đột về tư tưởng và lợi ích. Mâu thuẫn càng tăng thì cuộc chạy đua vũ
trang diễn ra càng dữ dội, và cuộc chạy đua vũ trang càng diễn ra mạnh mẽ càng
đẩy mâu thuẫn và xung đột lên cao.
Trong những năm gần đây, Hoa Kỳ và Liên Xô thường xuyên nghi ngờ, chỉ
trích, cảnh cáo, đe dọa lẫn nhau; hiếm khi có niềm tin và hy vọng. Đại diện của cả
hai bên đã có những cuộc gặp gỡ thượng đỉnh ở Washington, Moscow, Geneva và
tại Liên Hiệp Quốc. Nhưng quá nhiều cuộc gặp gỡ ấy đã đi vào ngõ cụt, không đạt
được thỏa thuận nào và đầy thất vọng.
Ngày hôm qua, một luồng ánh sáng đã rọi chiếu trong bóng tối. Cuộc đàm
phán ở Moscow đã đạt được một hiệp ước cấm thử hạt nhân trong không khí, ngoài
không gian và dưới nước. Lần đầu tiên có một thỏa thuận buộc các lực lượng hạt
nhân phải nằm dưới tầm kiểm soát quốc tế, đó cũng là mục tiêu của Bernard
46
Baruch khi ông trình bày một kế hoạch kiểm soát trước Liên Hiệp Quốc năm 1946”
[24].
Kennedy cũng đã thấy được những hạn chế của Hiệp ước này, ông cho rằng
Hiệp ước chưa phải là giải pháp hoàn hảo để ngăn chặn mối đe dọa hủy diệt thế giới
từ vũ khí hạt nhân: “Đây chỉ là một hiệp ước cấm thử hạn chế, chỉ cấm thử trong
môi trường khí quyển, dưới mặt nước, ngoài không gian; vẫn cho phép thử hạt nhân
trong lòng đất. Ngoài ra, hiệp ước này vẫn còn nhiều hạn chế khác. Những nước đã
kí vào hiệp ước vẫn có quyền rút khỏi hiệp ước khi họ cảm thấy điều khoản của hiệp
ước ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Hiệp ước này không đồng nghĩa với việc mối
đe dọa chiến tranh hạt nhân đã chấm dứt. Nó không ngăn cản việc làm giàu hạt
nhân, nó cũng không cấm sản xuất các loại vũ khí hạt nhân và cũng không hạn chế
việc sử dụng vũ khí hạt nhân” [24].
Sau tám năm đàm phán đầy khó khăn, cuối cùng hiệp ước cũng được kí kết
ngày 5.8.1963 giữa đại diện ba cường quốc: Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Rusk, Bộ
trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Gromyko và Ngoại trưởng Anh Lord Home.
Đến ngày 11.9.1963 đã có 77 chữ kí vào bản hiệp ước, bản hiệp ước có hiệu lực
ngày 10.10.1963. Trong tháng 10 đã có 102 nước đồng tình và kí vào hiệp ước
nhưng Pháp và Trung Quốc đã không kí vì cả hai quốc gia đang nổ lực xây dựng
lực lượng hạt nhân cho riêng mình và vì cho rằng mục đích của hiệp ước này là
không phải giải trừ quân bị mà để ngăn chặn các nước khác như Pháp và Trung
Quốc có lực lượng hạt nhân riêng [3, tr.79 – 80].
Hiệp ước có tên đầy đủ là Hiệp ước Cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển,
ngoài không gian, và dưới nước (Treaty Banning Nuclear Weapon Tests in the
Atmosphere, in Outer Space, and Under Water). Hiệp ước gồm 5 điều khoản, trong
phần mở của hiệp ước, các nước tham gia kí kết đã tuyên bố mục đích của họ là
“thực hiện việc kiểm soát quốc tế chặt chẽ đối với vấn đề giải trừ quân bị phù hợp
với những mục tiêu của Liên Hiệp Quốc, tiến tới chấm dứt chạy đua vũ trang và xóa
bỏ việc sản xuất cũng như thử nghiệm tất cả các loại vũ khí, kể cả vũ khí hạt nhân”
(complete disarmament under strict international control in accordance with the
objectives of the United Nations which would put an end to the armaments race and
47
eliminate the incentive to the production and testing of all kinds of weapons,
including nuclear weapons) [56]. Nội dung chính của các điều khoản là cấm thử hạt
nhân trong khí quyển, ngoài không gian và dưới nước. Mặc dù LTBT không cấm
các vụ thử hạt nhân trong lòng đất nhưng lại cấm các vụ nổ hạt nhân dưới đất nếu
gây ra ô nhiễm phóng xạ vượt quá phạm vi lãnh thổ nước tiến hành vụ nổ. Bản hiệp
ước còn quy định, bất cứ sự sửa đổi nào về văn bản phải được sự chấp nhận của đa
số các quốc tham gia ký kết. Nội dung của bản hiệp ước phù hợp với Điều 102 của
Hiến chương Liên Hiệp Quốc, có nghĩa là nó được đăng kí với Ban thư kí của Liên
Hiệp Quốc và được viện dẫn ra trước một cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi cần
thiết, bản hiệp ước có giá trị vô thời hạn. Các nước tham gia kí kết có quyền rút
khỏi hiệp ước nếu quyền lợi tối thượng của quốc gia mình bị xâm hại nhưng phải
báo trước ba tháng, bản hiệp ước mở cửa cho tất cả các nước tham gia kí kết vào.
Vào thập niên 50, kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ tăng lên không ngừng,
cuộc chạy đua vũ trang, nhất là vũ khí hạt nhân, diễn ra thật quyết liệt nhất là giữa
Hoa Kỳ và Liên Xô. Song song với quá trình tăng số lượng trong kho vũ khí hạt
nhân của mình, chính phủ Hoa Kỳ cũng đã quan tâm và có những chính sách nhằm
kiểm soát loại vũ khí này. Các cuộc đàm phán về hạn chế thử vũ khí hạt nhân giữa
các cường quốc đã được tiến hành từ năm 1955, tuy nhiên, do nhiều sự bất đồng
quan điểm nên đến trước cuộc đàm phán cuối cùng ở Moscow tháng 7.1963 các
vòng đàm phán đều thất bại, các nước lại ra sức chạy đua vũ khí hạt nhân.
Các cuộc đàm phán về hạn chế thử vũ khí hạt nhân được nối lại từ sau Cuộc
khủng hoảng tên lửa Cuba và đạt được kết quả khả quan. Sở dĩ đạt được điều này là
vì thứ nhất: do các nhà lãnh đạo, nhất là của hai siêu cường Hoa Kỳ và Liên Xô,
nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải làm dịu tình hình căng thẳng trong mối quan
hệ giữa các cường quốc sau Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba. Thứ hai là thời điểm
này có nhiều quốc gia đang tiến hành nghiên cứu và thử vũ khí hạt nhân, trong đó
đáng chú ý là Pháp với 7 vụ thử hạt nhân trước khi LTBT được kí kết và Trung
Quốc đã bắt đầu nghiên cứu vũ khí hạt nhân từ cuối thập niên 50. Sức ép từ sự phản
đối chạy đua vũ trang hạt nhân trong dư luận thế giới cũng tác động vào các nước
lớn để họ nối lại các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Nguyên nhân
48
quan trọng thứ ba là tại thời điểm năm 1963 cả Hoa Kỳ lẫn Liên Xô đã đạt nhiều
thành tựu trong chế tạo vũ khí hạt nhân. Với kỹ thuật tiên tiến hơn các nước còn lại,
cả Hoa Kỳ và Liên Xô có thể tiến hành các vụ thử hạt nhân trong lòng đất và do vậy
một hiệp ước cấm thử hạt nhân trong khí quyển, ngoài không gian và dưới nước sẽ
không còn ảnh hưởng đến cả hai nước nữa.
Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều đánh giá cao LTBT và coi đây là “bước đi hiện
thực đầu tiên trên con đường tiến tới kìm hãm cuộc chạy đua vũ trang” [1, tr.163].
Bản hiệp ước này trên thực tế đã không hề làm chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang, cả
Hoa Kỳ và Liên Xô vẫn thử được hạt nhân trong lòng đất và một số nước (như
Pháp, Trung Quốc) vẫn tiến hành thử hạt nhân ở tất cả các môi trường một cách
bình thường vì họ không kí kết. Tuy nhiên, việc kí kết hiệp ước nó cũng có một ý
nghĩa chính trị quan trọng, chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ đã có
kết quả thực tế. Là bước đi đầu tiên của quá trình kiểm soát vũ khí hạt nhân và hạn
chế cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân, từ hạn chế thử sẽ tiến tới cấm thử toàn diện.
Hiệp ước LTBT có ý nghĩa quan trọng trong mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô, nó góp
phần cải thiện mối quan hệ giữa hai đối thủ chính trong Cuộc Chiến tranh Lạnh và
mở ra một giai đoạn mới trong quan hệ quốc tế sau đó – giai đoạn cùng chung sống
hòa bình, đồng thời nó là động lực để thúc đẩy hai nước đàm phán cho những hiệp
ước tiếp theo về kiểm soát vũ khí hạt nhân.
Việc Hoa Kỳ và Liên Xô cùng nhau soạn thảo và kí kết Hiệp ước LTBT đã có
tác động đến quan hệ quốc tế lúc bấy giờ. Mối quan hệ Xô – Trung rạn nứt thêm.
Trung Quốc ngày càng nghi ngờ Liên Xô bắt tay với Hoa Kỳ và cho rằng LTBT là
âm mưu của ba nước kí kết nhằm củng cố sự độc quyền sở hữu vũ khí hạt nhân và
trói tay tất cả các nước yêu hòa bình đang bị vũ khí hạt nhân đe dọa [3, tr.81]. Mối
quan hệ giữa hai đồng minh trong khối NATO là Hoa Kỳ và Pháp càng thêm căng
thẳng. Chính sách đối ngoại độc lập của De Gaulle nhằm thoát sự ảnh hưởng của
Hoa Kỳ nay có dịp được củng cố, đây cũng là một trong những nguyên nhân quan
trọng khiến De Gaulle quyết định rút Pháp khỏi hệ thống quân sự của NATO năm
1966.
49
Kể từ sau Hiệp ước LTBT năm 1963, Hoa Kỳ đã chủ động hơn, cùng với Liên
Xô, đi đầu trong đấu tranh để vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân có những kết quả cụ
thể. Mặc dù có những khó khăn trong quá trình đàm phán nhưng những hiệp ước về
kiểm soát vũ khí hạt nhân được Hoa Kỳ kí kết tiếp sau đó đã góp phần không nhỏ
vào tiến trình hòa dịu trong quan hệ quốc tế những năm đầu thập kỷ 1970s.
2.2. Hiệp ước về Không gian vũ trụ năm 1967 (Outer Space Treaty Text –OST)
Từ giữa thập niên 1950, cuộc chạy đua vào vũ trụ giữa hai siêu cường Hoa Kỳ
và Liên Xô diễn ra quyết liệt với những tiến bộ về kỹ thuật chế tạo tên lửa đưa thiết
bị vào thăm dò vũ trụ. Vào tháng 8.1957, các nước phương Tây, đứng đầu là Hoa
Kỳ đã đề nghị phát triển một hệ thống kiểm tra không gian vũ trụ như là một phần
của chương trình giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc nhằm ngăn cản việc chiếm
dụng vũ trụ để phục vụ cho các lợi ích riêng của các cường quốc [58]. Tuy nhiên,
Liên Xô, lúc này đang bắt đầu các cuộc thử nghiệm tên lửa ICBM và chuẩn bị đưa
vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào quỹ đạo trái đất, đã không chấp nhận đề nghị này [58].
Cũng trong tháng 8.1957 Liên Xô đã phóng thành công tên lửa ICBM thế hệ đầu
tiên và đến ngày 4.10.1957, Liên Xô tiếp tục phóng thành công vệ tinh nhân tạo
Sputnik đầu tiên vào quỹ đạo trái đất. Hoa Kỳ cũng không chịu thua kém trong cuộc
chạy đua vào vũ trụ, chỉ không lâu sau khi Liên Xô phóng thành công vệ tinh
Sputnik, ngày 1.2.1958 Hoa Kỳ phóng thành công vệ tinh Explorer I. Cuộc chạy
đua vào vũ trụ giữa hai siêu cường đã khiến thế giới lo lắng về nguy cơ vũ trụ bị
quân sự hóa với các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhất là vũ khí hạt nhân. Trong
thời kỳ từ năm 1959 đến 1962, các cường quốc phương Tây, đứng đầu là Hoa Kỳ,
đã thực hiện một loạt các đề xuất không sử dụng không gian vũ trụ cho các mục
đích quân sự và đề xuất các kế hoạch giải trừ quân bị đầy đủ bao gồm việc cấm đưa
vũ khí hủy diệt hàng loạt lên quỹ đạo trái đất và vào không gian vũ trụ [58]. Phát
biểu tại Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 22.9.1960, Tổng thống Eisenhower đã
đề xuất rằng các nguyên tắc của Hiệp ước Nam cực phải được áp dụng cho không
gian vũ trụ và các thiên thể [58], và một loạt các biện pháp đối với việc sử dụng vũ
trụ vào mục đích hòa bình cũng được ông đưa ra: Các nước không được tuyên bố
chủ quyền đối với bất kỳ hành tinh nào trong vũ trụ; Các nước không tiến hành bất
50
cứ hành động quân sự nào trên các hành tinh trong vũ trụ; Các nước không được
đưa vũ khí hủy diệt hàng loạt vào quỹ đạo hay vũ trụ và phải chịu sự giám sát quốc
tế; Xây dựng một chương trình hợp tác quốc tế trong việc sử dụng vũ trụ vào các
mục đích hòa bình dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc [8, tr.115]. Ngày 25.9.1961,
trong một bài phát biểu tại Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Kennedy kêu gọi giải trừ
vũ khí hạt nhân trong đó có việc ngăn cấm việc đưa vũ khí hạt nhân lên vũ trụ [8,
tr.115].
Như vậy, Hoa Kỳ liên tiếp đưa ra những đề nghị phi quân sự hóa vũ trụ, điều
đó cho thầy rằng, một mặt thể hiện sự lo ngại của họ về những ưu thế kỹ thuật vũ
trụ của Liên Xô, mặt khác nhằm tranh giành uy tín chính trị với Liên Xô trong vấn
đề giải trừ quân bị [3, tr.83]. Về phần Liên Xô, từ năm 1960 đến 1962 họ đưa ra
một kế hoạch đầy đủ về giải trừ quân bị trong đó có việc sử dụng không gian vũ trụ
cho các mục đích hòa bình [58]. Đề nghị của họ còn gắn với việc xóa bỏ các căn cứ
quân sự của Hoa Kỳ ở nước ngoài có trang bị tên lửa tầm ngắn và tầm trung nhưng
bị Hoa Kỳ và các nước phương Tây từ chối vì họ cho rằng điều đó sẽ làm mất thế
cân bằng chiến lược và ảnh hưởng đến an ninh của họ [3, tr.83]. Sau khi kí kết hiệp
ước LTBT ngày 5.8.1963 quan điểm của Liên Xô đã thay đổi, Liên Xô không còn
đòi một giải pháp về việc sử dụng hòa bình vũ trụ gắn với việc dỡ bỏ các căn cứ tên
lửa tầm ngắn và trung của các cường quốc phương Tây nữa. Ngày 19.9.1963, tại
một cuộc họp ở Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô
Gromyko đã nói rằng Liên Xô muốn đạt được một thỏa thuận cấm các phương tiện
mang vũ khí hạt nhân vào vũ trụ, đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Stevenson nói rằng
Hoa Kỳ không có ý định đưa vũ khí hủy diệt hàng loạt lên không gian vũ trụ hoặc
cài đặt chúng trên các thiên thể ngoài vũ trụ. Như vậy là quan điểm của Hoa Kỳ và
Liên Xô đã gần nhau. Và Đại hội đồng đã nhất trí thông qua Nghị quyết ngày
16.10.1963 hoan nghênh các báo cáo của Hoa Kỳ và Liên Xô và kêu gọi tất cả các
nước không đưa vũ khí hủy diệt hàng loạt vào không gian vũ trụ [58]. Hoa Kỳ ngay
lập tức ủng hộ nghị quyết này mặc dù không có bất kỳ một quy định nào để xác
minh việc tuân thủ nghị quyết. Sở dĩ như vậy là vì với khả năng của hệ thống theo
dõi không gian vũ trụ của mình đã đủ và dễ dàng cho Hoa Kỳ phát hiện các thiết bị
51
trên không gian vũ trụ và quỹ đạo trái đất. Để duy trì động lực cho các Hiệp ước về
kiểm soát vũ khí hạt nhân, trong ba năm 1964, 1965 và 1966 Hoa Kỳ hối thúc Liên
Hiệp Quốc đưa ra các nghị quyết nhằm nhanh chóng đi đến một hiệp định về không
gian vũ trụ.
Vấn đề soạn thảo hiệp ước được Liên Hiệp Quốc giao cho Hoa Kỳ và Liên
Xô. Ngày 16.6.1966, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã gởi dự thảo Hiệp ước lên Liên Hiệp
Quốc, cả hai bên đạt được phần lớn sự đồng thuận, chỉ còn một số khác biệt nhỏ
chủ yếu liên quan đến vấn đề sử dụng các thiết bị quân sự và nhân viên trong việc
thăm dò không gian nhưng được giải quyết thỏa đáng trong một cuộc họp của Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng 12.1966 [58]. Hiệp ước được kí kết ngày
27.1.1967 giữa Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và 61 nước khác. Ngày 25.4.1967 thượng
viện Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua hiệp ước. Hiệp ước có hiệu lực từ ngày
10.10.1967.
Hiệp ước có tên đầy đủ là “Hiệp ước về nguyên tắc điều chỉnh việc hoạt động
của các quốc gia trong thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ, bao gồm cả mặt trăng
và các thiên thể khác” (Treaty on Principles Governing the Activities of States in the
Exploration and Use of Outer Space, Including the Moon and Other Celestial
Bodies). Hiệp ước được xây dựng trên cơ sở Nghị quyết 110 (Điều 2) ngày
3.11.1947, Nghị quyết 1962 (Điều 18) ngày 13.12.1963 và Nghị quyết 1883 (Điều
18) ngày 17.10.1963 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc về các vấn đề nghiên cứu và
bảo vệ vũ trụ, phục vụ cho các lợi ích hòa bình của nhân loại. Lời mở đầu của Hiệp
ước OST khuyến khích sự hợp tác giữa các nước trong việc tiến hành nghiên cứu
khoa học về vũ trụ, phục vụ các mục đích hòa bình, đồng thời nêu lên sự tôn trọng
quyền lợi chung của các nước bất kể trình độ phát triển:
“Nhận thức được lợi ích chung của tất cả nhân loại trong quá trình thăm dò và
sử dụng không gian vũ trụ cho mục đích hòa bình,
Tin tưởng rằng việc thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ nên được tiến hành
vì lợi ích của tất cả các dân tộc không phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế, khoa
học của họ,
52
Với mong muốn đóng góp vào hợp tác quốc tế rộng rãi trong khoa học cũng
như các khía cạnh pháp lý của việc thăm dò và sử dụng không gian vũ trụ cho mục
đích hòa bình,
Tin tưởng rằng hợp tác như vậy sẽ góp phần vào sự phát triển của sự hiểu biết
lẫn nhau và thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia và dân tộc,”
“Recognizing the common interest of all mankind in the progress of the
exploration and use of outer space for peaceful purposes,
Believing that the exploration and use of outer space should be carried on for
the benefit of all peoples irrespective of the degree of their economic or scientific
development,
Desiring to contribute to broad international co-operation in the scientific as
well as the legal aspects of the exploration and use of outer space for peaceful
purposes,
Believing that such co-operation will contribute to the development of mutual
understanding and to the strengthening of friendly relations between States and
peoples” [58].
Hiệp ước gồm 17 điều khoản với những nội dung chính như nghiêm cấm lắp
đặt các loại vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt trên quỹ đạo của trái đất,
trên mặt trăng hoặc bất cứ thiên thể nào trong vũ trụ; nghiêm cấm đưa các thiết bị
quân sự lên vũ trụ hoặc tiến hành bất cứ hoạt động quân sự gì trên vũ trụ; quy định
việc thăm dò và tiến hành nghiên cứu vũ trụ chỉ để phục vụ mục đích hòa bình;
khuyến khích tất cả các nước trên thế giới cùng tham gia nghiên cứu vũ trụ vì mục
đích hòa bình. Hiệp ước OST mở cho tất cả các nước tham gia kí kết. Những sửa
đổi về văn bản Hiệp ước OST phải được đa số các nước đồng ý. Các nước thành
viên muốn rút khỏi hiệp ước phải là thành viên của hiệp ước ít nhất một năm và
phải báo trước một năm. Hiệp ước OST phù hợp với Điều 102 của Hiến chương
Liên Hiệp Quốc, tức là được đăng kí với Ban thư kí và được viện dẫn ra trước một
cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi cần thiết.
Hiệp ước OST được kí kết trong bối cảnh chiến tranh Lạnh, khi Hoa Kỳ và
Liên Xô ra sức chạy đua vũ trang và chạy đua chinh phục vũ trụ với những kỹ thuật
53
nghiên cứu tiên tiến nhất và những tham vọng chinh phục vũ trụ để chiếm lĩnh nó
nhằm phục vụ cho những mục đích riêng của mình, thậm chí cho mục đích quân sự.
Hoa Kỳ rất sợ những kỹ thuật tiên tiến mà Liên Xô đang sở hữu, họ sẽ chinh phục
được vũ trụ và sử dụng nó vào mục đích quân sự để đe dọa an ninh của mình. Trước
nguy cơ này, Hoa Kỳ đã chủ động đẩy nhanh tiến trình đàm phán và kí kết OST.
Hiệp ước OST thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc phi quân sự hóa vũ trụ và phi
hạt nhân hóa vũ trụ. Xét ở một khía cạnh nào đó, Hiệp ước OST còn góp phần thúc
đẩy vào tiến trình hòa dịu giữa Liên Xô và Trung Quốc.
2.3. Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 (Nuclear Non-
Proliferation Treaty – NPT)
Sau cuộc khủng hoàng tên lửa Cuba, vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân được
Hoa Kỳ quan tâm mạnh mẽ, trong đó có việc hướng đến một hiệp định không phổ
biến vũ khí hạt nhân. Theo Hoa Kỳ, nếu như ngày càng có nhiều nước sở hữu vũ
khí hạt nhân thì sẽ đe dọa nghiêm trọng nền hòa bình và an ninh thế giới và trực tiếp
là đe dọa an ninh của chính mình. Và do đó, một trong những biện pháp quan trọng
để ngăn chặn hậu quả đó là kêu gọi các nước đang sở hữu vũ khí hạt nhân không
được chuyển giao vũ khí hạt nhân cho bất kỳ nước nào khác, nhất là các nước đồng
minh của mình, và chỉ có đạt được một hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân
giữa các nước đang sở hữu loại vũ khí này mới có thể ngăn chặn tình trạng đó.
Vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân được quan tâm từ thời Tổng thống
Kennedy và đặc biệt từ thời Tổng thống L.B.Johnson. Tháng 4.1963, thay mặt cho
các cường quốc Liên Xô, Anh, Pháp, chính quyền Kennedy đưa ra dự thảo của bản
tuyên bố chung về việc các cường quốc hạt nhân không chuyển giao vũ khí hạt nhân
cho các nước khác “không được chuyển giao bất kì loại vũ khí hạt nhân nào, một
cách trực tiếp hay gián tiếp, thông qua các liên minh quân sự, dưới sự kiểm soát
riêng của mỗi nước mà hiện chưa có vũ khí hạt nhân và không giúp các nước khác
sản xuất ra loại vũ khí đó” [1, tr.155].
Khi đề nghị về hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ cũng đã rất
cân nhắc về tình trạng vũ khí hạt nhân trong khối NATO. Dưới thời tổng thống
Kennedy, kế hoạch hạt nhân đa phương trong khối NATO (MLF) – đó là một thỏa
54
thuận theo đó Hoa Kỳ cung cấp vũ khí hạt nhân để các quốc gia thành viên của
NATO phát triển và tồn trữ chúng - là một vấn đề gây tranh cãi giữa các thành viên
trong khối. Kennedy cho rằng MLF là lối thoát cho tham vọng hạt nhân của Cộng
hòa Liên bang Đức [3, tr.85]. Tháng 4.1965, Tổng thống Johnson khẳng định MLF
là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Hoa Kỳ và cần phải đạt được một thỏa
thuận với các đồng minh ở châu Âu vào cuối năm về vấn đề này [3, tr.85]. Khi kế
hoạch MLF được triển khai nó đã vấp phải sự phản đối của một số thành viên trong
Bộ Quốc phòng, Cơ quan Kiểm soát vũ khí và Giải trừ quân bị Hoa Kỳ (ACDA),
Hội đồng An ninh Quốc gia. Họ cho rằng MLF sẽ mở đường cho các quốc gia ngoài
châu Âu bước vào sân chơi hạt nhân và sẽ cản trở sự hợp tác về kiểm soát vũ khí
hạt nhân giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Như vậy, để đạt được một hiệp ước không phổ
biến vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ phải giải quyết khôn khéo vấn đề hạt nhân trong
NATO thông qua kế hoạch MLF. Một trong những vấn đề ảnh hưởng đến tương lai
của việc kí kết một hiệp ước như vậy là vấn đề các nước ngoài châu Âu đang tích
cực nghiên cứu để sở hữu vũ khí hạt nhân.
Việc Trung Quốc đã sở hữu vũ khí hạt nhân sau vụ thử bom nguyên tử đầu
tiên thành công ngày 15.10.1964 đã khiến các quan chức trong chính quyền Johnson
thật sự lo lắng, họ sợ rồi sớm muộn gì Ấn Độ, Nhật Bản và một số nước khác cũng
sẽ nhanh chóng có loại vũ khí này. Chương trình hạt nhân của các nước ngoài châu
Âu là một vấn đề mà chính phủ Hoa Kỳ không thể làm ngơ, Hoa Kỳ tìm cách giải
quyết hài hòa chương trình hạt nhân đa phương ở châu Âu và cố gắng hạn chế sự
phổ biến vũ khí hạt nhân của các nước ngoài châu Âu.
Một Ủy ban về không phổ biến vũ khí hạt nhân (The Committee on Nuclear
Non-Proliferation) được Tổng thống Johnson quyết định thành lập ngày 1.11.1964
do luật sư và là cựu thứ trưởng Bộ Quốc phòng Roswell Gilpatric đứng đầu.
Gilpatric ủng hộ lập trường của ACDA tức là để ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt
nhân trên thế giới thì không nên thực hiện kế hoạch MLF. Theo Gilpatric, Liên Xô
là một đối tác quan trọng trong mục tiêu ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt nhân.
Nếu Hoa Kỳ tiếp tục theo đuổi MLF thì Liên Xô sẽ không sẵn sàng hợp tác với Hoa
Kỳ trong chương trình ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí hạt nhân. Hơn nữa, việc
55
Hoa Kỳ triển khai chương trình MLF đồng nghĩa với việc hủy bỏ chương trình tiến
tới một hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Điều đó có nghĩa là sẽ khích lệ
các nước châu Á khác triển khai chương trình hạt nhân của mình nhằm cân bằng
sức mạnh đối với Trung Quốc. Do đó kế hoạch MLF không cần thiết phải triển khai
[3, tr.86].
Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, nếu không thực hiện MLF thì có thể dẫn đến
phản ứng tiêu cực của Tây Đức, và biết đâu Tây Đức lại ngã về phía Liên Xô.
Nhưng phần lớn những ý kiến đều ủng hộ Gilpatric vì vấn đề kiểm soát vũ khí hạt
nhân là một vấn đề nghiêm túc và là một mục tiêu lâu dài. Sau nhiều cuộc thảo luận
trong ủy ban, cuối cùng một bản báo cáo cũng được chuyển đến cho Jonhson ngày
21.1.1965. Bản báo cáo cho rằng mặc dù có sự khác biệt về hệ tư tưởng,
Washington và Moscow vẫn chia sẽ những quan điểm chung về các vấn đề chiến
lược và kêu gọi chính phủ Johnson hạn chế cuộc chạy đua vũ trang bằng việc cam
kết các thỏa thuận cắt giảm kho vũ khí hạt nhân. Gilpatric cho rằng nên nhìn nhận
Liên Xô như là một đối tác hơn là một kẻ thù trong việc giữa ổn định trật tự thế giới
[3, tr.87]. Những đề nghị của Ủy ban Gilpatric được chấp thuận trong chính quyền
Johnson.
Ngày 17.8.1965, Hoa Kỳ lại đệ trình một Bản dự thảo Hiệp ước NPT lên Ủy
ban giải trừ quân bị của Liên Hiệp Quốc. Bản dự thảo đề nghị cấm tất cả các nước
có vũ khí hạt nhân chuyển giao vũ khí hạt nhân cho các nước không có vũ khí hạt
nhân. Đồng thời các nước không có vũ khí hạt nhân phải tuân thủ những quy định
về sử dụng năng lượng hạt nhân vào các mục đích hòa bình mà IAEA đã đề ra. Các
cuộc đàm phán về không phổ biến vũ khí hạt nhân diễn ra tại Geneva cuối năm
1965. Ngày 1.7.1968 tại thủ đô ba nước Hoa Kỳ, Liên Xô và Anh, ba nước cùng với
43 nước khác đã kí vào NPT. Hiệp ước có hiệu lực ngày 5.3.1970. Trong buổi kí kết
hiệp ước tại Washington, Johnson tuyên bố: “Chúng tôi đến đây, phòng phía Đông
của Nhà Trắng, để kí hiệp ước hạn chế việc phổ biến vũ khí hạt nhân. Mục tiêu của
hiệp ước rất đơn giản: yêu cầu các quốc gia trên thế giới hiện không có vũ khí hạt
nhân cam kết không sản xuất hoặc tiếp nhận vũ khí hạt nhân trong tương lai và yêu
56
cầu các cường quốc hạt nhân hướng tới những biện pháp hữu hiệu để kiểm soát vũ
khí và giải trừ quân bị” [Dẫn lại theo 3, tr.88].
Hiệp ước có tên đầy đủ là “Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân”
(Treaty On The Non-Proliferation Of NuclearWeapons) viết tắt là NPT, gồm phần
mở đầu và 11 điều khoản. Trong Lời nói đầu của bản Hiệp ước, các nước tham gia
kí kết bày tỏ quan ngại về mối đe dọa của sự phổ biến vũ khí hạt nhân đối với nền
hòa bình và an ninh thế giới, mong muốn các bên tham gia Hiệp ước cấm hoàn toàn
các cuộc thử hạt nhân, tin tưởng rằng hiệp ước sẽ góp phần chấm dứt cuộc chạy đua
vũ trang hạt nhân, làm giảm tình hình căng thẳng trên thế giới và tiến tới xóa bỏ kho
vũ khí hạt nhân trên thế giới. Các nước thành viên Hiệp ước mong muốn cùng hợp
tác để sử dụng năng lượng hạt nhân vào các mục đích hòa bình.
“Xem xét sự tàn phá sẽ đến với tất cả nhân loại bằng một cuộc chiến tranh hạt
nhân và những nổ lực cần thiết để ngăn chặn nguy cơ một cuộc chiến tranh như vậy
và đưa đến những biện pháp để bảo đảm an toàn cho con người,
Tin tưởng rằng sự phổ biến của vũ khí hạt nhân sẽ làm tăng nghiêm trọng
nguy cơ của chiến tranh hạt nhân,
Phù hợp với nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc kêu gọi ký kết thỏa
thuận về phòng, chống sự phổ biến rộng rãi của vũ khí hạt nhân,
Cam kết hợp tác trong việc hỗ trợ các ứng dụng của Cơ quan Năng lượng
Nguyên tử Quốc tế bảo vệ các hoạt động hạt nhân hòa bình,
Bày tỏ sự ủng hộ dành cho nghiên cứu, phát triển và những nỗ lực khác để tiếp
tục ứng dụng, trong khuôn khổ của hệ thống bảo vệ Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế, nguyên tắc đảm bảo an toàn hiệu quả dòng chảy của nguồn và vật liệu
phân hạch đặc biệt bằng cách sử dụng các công cụ và kỹ thuật khác tại một số điểm
chiến lược,
Khẳng định nguyên tắc lợi ích của các ứng dụng hòa bình của công nghệ hạt
nhân, bao gồm cả công nghệ của sản phẩm có thể được bắt nguồn từ các quốc gia có
vũ khí hạt nhân từ sự phát triển của các thiết bị nổ hạt nhân, nên có sẵn cho các mục
đích hòa bình cho tất cả các bên của Hiệp ước, cho dù là nước có vũ khí hạt nhân
hoặc không có vũ khí hạt nhân,
57
Tin tưởng rằng, triển khai nguyên tắc này, tất cả các bên tham gia Hiệp ước
được tham gia vào việc trao đổi thông tin đầy đủ nhất của khoa học, và đơn phương
đóng góp hoặc phối hợp với các quốc gia khác, sự phát triển của các ứng dụng năng
lượng nguyên tử cho mục đích hòa bình,
Tuyên bố ý định của họ để đạt được tại thời điểm sớm nhất có thể chấm dứt
cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân và thực hiện các biện pháp hiệu quả theo hướng giải
trừ vũ khí hạt nhân,
Kêu gọi sự hợp tác của tất cả các nước trong việc đạt được mục tiêu này,
Nhắc lại quyết tâm thể hiện bởi các bên tham gia Hiệp ước 1963 về cấm thử
vũ khí hạt nhân trong khí quyển, trong không gian vũ trụ và dưới nước được thể
hiện trong Lời nói đầu của hiệp ước đó,
Mong muốn tiếp tục giảm căng thẳng quốc tế và tăng cường sự tin cậy giữa
các quốc gia để tạo điều kiện chấm dứt việc sản xuất vũ khí hạt nhân, việc giải trừ
tất cả các kho dự trữ hiện có của họ, và loại bỏ từ kho vũ khí quốc gia vũ khí hạt
nhân và các phương tiện sử dụng vũ khí hạt nhân của họ theo điều ước quốc tế về
giải trừ vũ khí nói chung và đầy đủ dưới sự kiểm soát quốc tế chặt chẽ và hiệu quả,
Nhắc lại rằng, theo quy định của Hiến chương Liên Hợp Quốc, các nước phải
kiềm chế trong quan hệ quốc tế, không sử dụng hoặc đe dọa vũ lực chống lại sự
toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của bất kỳ nước nào, hoặc trong bất kỳ cách
thức nào khác không phù hợp với mục đích của quốc gia, và rằng việc thành lập và
duy trì hòa bình và an ninh quốc tế đang được đẩy mạnh,”
(Considering the devastation that would be visited upon all mankind by a
nuclear war and the consequent need to make every effort to avert the danger of
such a war and to take measures to safeguard the security of peoples,
Believing that the proliferation of nuclear weapons would seriously enhance
the danger of nuclear war,
In conformity with resolutions of the United Nations General Assembly calling
for the conclusion of an agreement on the prevention of wider dissemination of
nuclear weapons,
58
Undertaking to cooperate in facilitating the application of International
Atomic Energy Agency safeguards on peaceful nuclear activities,
Expressing their support for research, development and other efforts to further
the application, within the framework of the International Atomic Energy Agency
safeguards system, of the principle of safeguarding effectively the flow of source
and special fissionable materials by use of instruments and other techniques at
certain strategic points,
Affirming the principle that the benefits of peaceful applications of nuclear
technology, including any technological by-products which may be derived by
nuclear-weapon States from the development of nuclear explosive devices, should
be available for peaceful purposes to all Parties of the Treaty, whether nuclear-
weapon or non-nuclear weapon States,
Convinced that, in furtherance of this principle, all Parties to the Treaty are
entitled to participate in the fullest possible exchange of scientific information for,
and to contribute alone or in cooperation with other States to, the further
development of the applications of atomic energy for peaceful purposes,
Declaring their intention to achieve at the earliest possible date the cessation
of the nuclear arms race and to undertake effective measures in the direction of
nuclear disarmament,
Urging the cooperation of all States in the attainment of this objective,
Recalling the determination expressed by the Parties to the 1963 Treaty
banning nuclear weapon tests in the atmosphere, in outer space and under water in
its Preamble to seek to achieve the discontinuance of all test explosions of nuclear
weapons for all time and to continue negotiations to this end,
Desiring to further the easing of international tension and the strengthening of
trust between States in order to facilitate the cessation of the manufacture of
nuclear weapons, the liquidation of all their existing stockpiles, and the elimination
from national arsenals of nuclear weapons and the means of their delivery pursuant
to a treaty on general and complete disarmament under strict and effective
international control,
59
Recalling that, in accordance with the Charter of the United Nations, States
must refrain in their international relations from the threat or use of force against
the territorial integrity or political independence of any State, or in any other
manner inconsistent with the Purposes of the United Nations, and that the
establishment and maintenance of international peace and security are to be
promoted with the least diversion for armaments of the world's human and
economic resources) [59].
Nội dung chính của Hiệp ước NPT quy định: 1. Các nước có vũ khí hạt nhân
tham gia hiệp ước không chuyển giao, giúp đỡ, khuyến khích các nước không có vũ
khí hạt nhân phát triển vũ khí hạt nhân; 2. Các nước là thành viên hiệp ước không
có vũ khí hạt nhân không được nhận chuyển giao và chế tạo vũ khí hạt nhân, không
được tìm kiếm kỹ thuật hạt nhân, vũ khí hạt nhân, phương tiện điều khiển vũ khí hạt
nhân, thiết bị nổ hạt nhân trực tiếp lẫn gián tiếp. Đồng thời, các nước không có vũ
khí hạt nhân phải tuân thủ sự giám sát quốc tế toàn diện thông qua các hiệp định kí
kết với IAEA để đảm bảo rằng nguyên liệu hạt nhân của họ không được sử dụng
vào mục đích chế tạo vũ khí; 3. Các nước thành viên hiệp ước được quyền chuyển
nhượng, hợp tác để phát triển nghiên cứu, sản xuất, sự dụng năng lượng nguyên tử
vào mục đích hòa bình, được kí hiệp ước khu vực không có vũ khí hạt nhân, đàm
phán các biện pháp chấm dứt chạy đua vũ trang hạt nhân; 4. Mọi sửa đổi văn bản
hiệp ước phải được đa số các nước thành viên đồng ý; 5. Các nước thành viên được
quyền rút khỏi hiệp ước nếu quyền lợi tối thượng của mình bị xâm hại nhưng phải
thông báo với các nước thành viên và Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc trước ba
tháng; 6. Hiệp ước có thời hạn 25 năm, sau đó nột hội nghị được triệu tập để quyết
định sự tồn tại tiếp theo của bản hiệp ước; 7. Hiệp ước NPT phù hợp với điều 102
của Hiến chương Liên Hiệp Quốc, tức là được đăng kí với Ban thư kí và được viện
dẫn trước một cơ quan của Liên Hiệp Quốc khi cần thiết [8, tr.125 – 126]. Do
những vấn đề đối ngoại mà chính quyền Johnson đang gặp phải mà mãi đến ngày
5.2.1969, Quốc hội Hoa Kỳ mới phê chuẩn NPT.
Như vậy, do nỗi lo sợ về việc các quốc gia trên thế giới sẽ lần lượt nỗ lực sở
hữu vũ khí hạt nhân và do chính sách đối ngoại hòa dịu với Liên Xô trong thời gian
60
này là những yếu tố quan trọng khiến chính quyền Johnson đi tới quyết định đặt
chương trình NPT lên cao hơn kế hoạch MLF.
2.4. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1972 (Strategic Arms
Limitation Talks – SALT I)
Trong những năm đầu thập niên 1970s, quá trình hòa dịu trong quan hệ quốc
tế là đặc điểm nổi bậc nhất. Đặc biệt sự hòa dịu trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên
Xô đã có nhiều tác động tích cực là giảm đáng kể những căng thẳng trong quan hệ
quốc tế lúc bấy giờ. Vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân cũng đã đạt nhiều kết quả,
nhất là giới hạn vũ khí hạt nhân chiến lược.
SALT I là tên gọi chung của Hiệp ước giới hạn hệ thống tên lửa chống tên lửa
(ABM – Anti – Ballicstic Missile Treaty) và Thỏa ước tạm thời (có giá trị trong
vòng 5 năm) về một số biện pháp trong lĩnh vực giới hạn vũ khí tiến công chiến
lược.
Trong những năm 1950, để đối phó lại với chương trình phát triển vũ khí hạt
nhân và máy bay ném bom tầm xa chiến lược của Liên Xô, Hoa Kỳ đã bắt tay vào
xây dựng một chương trình phòng không lớn trên toàn quốc. Đây là một hệ thống
phòng không hiện đại bao gồm máy bay đánh chặn và tên lửa đất đối không (SAM),
cùng với một hệ thống radar, máy tính, thông tin liên lạc cho việc kiểm soát mặt đất.
Tuy nhiên, với sự ra đời của tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) mà có thể dễ
dàng phá hủy hệ thống phòng không và hệ thống tên lửa phòng thủ đánh chặn nên
Hoa Kỳ đã cho ngưng chương trình này vào đầu năm 1960 [16, tr.136 – 137].
Trong khi Hoa Kỳ cho dừng chương trình này thì Liên Xô đang nỗ lực để xây
dựng nó, Liên Xô đã cho bố trí hơn 10.000 tên lửa đánh chặn đất đối không (SAM)
trên toàn lãnh thổ của họ, hệ thống này không ngừng được tăng thêm và nâng cấp.
Những nỗ lực này của Liên Xô không làm Hoa Kỳ quan ngại vì họ cho rằng máy
bay chiến lược của họ có thể dễ dàng xâm nhập vào hệ thống này và có thể ném
bom phá hủy nó. Không lâu sau đó, Liên Xô cũng đã sản xuất được tên lửa đạn đạo
xuyên lục địa, vấn đề này đã thúc đẩy Hoa Kỳ nghiên cứu các biện pháp phòng thủ
chống lại ICBM.
61
Vào những năm cuối nhiệm kỳ thứ hai của tổng thống Eisenhower, Quân đội
Hoa Kỳ đã đưa ra kế hoạch phát triển hệ thống phòng thủ chống tên lửa Nike –
Zeus, đây là tiền thân của hệ thống ABM nhưng Tổng thống Eisenhower đã không
phê duyệt vì cho rằng đây là một hệ thống chỉ có thể phá hủy một hoặc một vài đầu
đạn hạt nhân bay đến ở tốc độ thấp mà không có khả năng đánh chặn một cuộc tấn
công quy mô lớn và tốc độ cao [16, tr.137]. Khi Johnson lên làm tổng thống thì
chương trình phòng thủ chống tên lửa đạn đạo vẫn tiếp tục được nghiên cứu và phát
triển, hệ thống Nike – Zeus mà đã bị bác bỏ dưới thời Tổng thống Eisenhower nay
được thay thế bằng hệ thống Nike – X, với hệ thống tên lửa đánh chặn hiệu quả hơn
và hệ thống radar xử lí dữ liệu tiên tiến hơn.
Việc năm 1964 Liên Xô đã cho diễu hành một tên lửa đánh chặn ABM lớn tại
Moscow đã làm cho giới chức Hoa Kỳ thêm nôn nóng về chương trình ABM của
mình. Để có thể có đủ khả năng – như quan điểm của một số giới chức Hoa Kỳ -
đáp trả lại một cuộc tấn công hạt nhân ban đầu của Liên Xô thì Hoa Kỳ phải xây
dựng hệ thống tên lửa phòng thủ chống tên lửa đạn đạo (ABM) đủ mạnh để có thể
vượt qua cuộc tấn công phủ đầu đầu tiên từ phía Liên Xô. Nhưng nếu muốn đáp trả
Liên Xô thì Hoa Kỳ, ngoài việc xây dựng hệ thống ABM cho riêng mình, còn cần
phải có một hệ thống tên lửa tấn công hiệu quả. Do đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mc
Namara cho rằng cách tốt nhất để Hoa Kỳ thâm nhập và phá hủy hệ thống ABM của
Liên Xô là nâng cấp lực lượng tấn công của Hoa Kỳ bằng cách cài đặt những tên
lửa như Poseidon và Minuteman III trên những xe di động – được biết với tên
MIRV – Multiple Independently Targeted Re-entry Vehicles, tức là những tên lửa
được cài đặt di động trên các xe tải mà có thể mang nhiều đầu đạn hạt nhân đến các
mục tiêu độc lập [16, tr.138].
Việc phát triển hệ thống phòng thủ ABM, theo L.B.Johnson, có thể dẫn đến
một cuộc chạy đua vũ trang mới. Việc ông vẫn tiếp tục Nike – X chủ yếu là do áp
lực của Quốc hội từ việc Liên Xô cũng đang tăng cường xây dựng ABM. Tháng
1.1967, trong thông điệp về ngân sách cho năm 1967, Tổng thống Johnson kêu gọi
phát triển hệ thống Nike – X nhưng ông cũng nói rằng ông sẽ không có hành động
ngay bây giờ nếu Liên Xô sẵn sàng cho một sự bắt đầu về việc đàm phán hạn chế hệ
62
thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa đạn đạo (ABM) [16, tr.139]. Trong một lá
thư trả lời cho thông điệp của Johnson vào tháng 3.1967, Thủ tướng Alexei Kosygin
đã đồng ý thảo luận song phương nhưng trên cơ sở là hạn chế cả tên lửa hạt nhân
phòng thủ lẫn tấn công. Một thời gian ngắn sau đó, cả hai chính phủ Hoa Kỳ và
Liên Xô đã thông báo rằng họ đã đồng ý về nguyên tắc để bắt đầu thảo luận cả vũ
khí phòng thủ lẫn vũ khí tấn công vào một thời điểm chưa thể xác định trong tương
lai. Như vậy cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã nhất trí đàm phán về hệ thống phòng thủ
ABM và việc hạn chế vũ khí hạt nhân tiến công chiến lược. Các văn kiện này được
kí kết năm 1972 được gọi chung là Hiệp ước SALT I.
Trở lại với tiến trình chuẩn bị cho các cuộc đàm phán, vào tháng 6.1967, Tổng
thống Johnson và Thủ tướng Kosygin đã gặp nhau ở Glassboro, bang New Jersey,
Hoa Kỳ, để một lần nữa thiết lập thời gian biểu cho các cuộc đàm phán. Quan điểm
của Johnson và Mc Namara là việc đàm phán để hạn chế hệ thống phòng thủ ABM
là rất cần thiết và cấp bách, và nêu rõ mối quan hệ giữa hệ thống phòng thủ và sự
gia tăng chạy đua vũ khí hạt nhân tấn công. Còn Kosygin thì nhấn mạnh đến việc
hạn chế vũ khí tấn công mà không mấy mặn mà với đề xuất hạn chế hệ thống phòng
thủ tên lửa chống tên lửa. Các quan điểm hơi khác này của cả hai bên đã chưa thể
đưa hai cường quốc ngồi vào bàn đàm phán. Đối với Johnson, việc chưa thể thuyết
phục Liên Xô đàm phán cùng với áp lực từ Quốc hội cho việc nhanh chóng triển
khai hệ thống phòng thủ ABM để có thể bảo vệ công dân Hoa Kỳ đã dẫn ông tới
một quyết định gần như tạm thời – Cho triển khai hệ thống phòng thủ ABM
Sentinel.
Ngày 8.9.1967, Bộ trưởng Mac Namara công bố quyết định triển khai ABM
Sentinel. Hệ thống ABM Sentinel được thiết kế với sự hạn chế số tên lửa đánh chặn
tầm xa và được xem là rất “mỏng” và chỉ nhằm mục đích đánh chặn một tên lửa
tiềm năng nào đó được phóng ngẫu nhiên từ Trung Quốc (thập niên 1970 Trung
Quốc tăng cường nghiên cứu chế tạo các tên lửa tấn công tầm xa mang đầu đạn hạt
nhân). Trong một bài phát biểu vào cuối năm 1967, Mc Namara đã thông báo: “Về
tính bất khả thi của một hệ thống phòng thủ ABM “dày” được thiết kế để bảo vệ các
thành phố của Hoa Kỳ chống lại một cuộc tấn công tổng lực bằng tên lửa đạn đạo từ
63
Liên Xô”, ông cũng nhấn mạnh “Một sự thiết kế và lắp đặt hệ thống ABM trên toàn
quốc sẽ là rất tốn kém và chỉ làm gia tăng tốc độ cuộc chạy đua vũ trang giữa các
cường quốc” [16, tr.139]. Bài phát biểu này đã đánh dấu sự bắt đầu của những cuộc
tranh luận công khai về Học thuyết quân sự chiến lược của Hoa Kỳ, cuộc tranh luận
chỉ kết thúc khi SALT I được kí kết vào năm 1972.
Việc Hoa Kỳ cho triển khai hệ thống ABM Sentinel cũng đã tác động đến thái
độ về việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán về SALT I, chỉ chín tháng sau khi Hoa Kỳ
công bố quyết định triển khai ABM Sentinel, Liên Xô đã cho thấy họ đã sẵn sàng
tiến hành đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược – tức cả vũ khí phòng thủ và vũ
khí tiến công.
Trở lại với vấn đề vũ khí tiến công chiến lược, hai văn kiện LTBT (1963) và
NPT (1968) tuy đánh dấu những mốc lớn trong tiến trình giải trừ quân bị nhưng
chưa tác động đáng kể đến trung tâm của vấn đề - kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của
hai siêu cường [5, tr.39], kho vũ khí này chủ yếu là vũ khí hạt nhân tấn công chiến
lược. Những chi phí quá tốn kém của cuộc chạy đua vũ trang đã trở thành những
chướng ngại to lớn cản trở những nổ lực giải quyết những khó khăn của vấn đề đối
nội và đối ngoại mà hai nước đang đương đầu. Logic của “thế cân bằng trong nỗi
khiếp sợ” đã đẩy hai cường quốc vào một cuộc chạy đua vũ trang không có đích
đến. Đến đầu thập niên 1970, kho vũ khí hạt nhân của hai siêu cường đã đạt đến
những con số đáng kinh hoàng: Hoa Kỳ có 1.054 ICBM, 656 SLBM và 540 oanh
tạc cơ tầm xa, con số tương ứng của Liên Xô là 1.200, 200 và 200 [Dẫn lại theo 5,
tr.40]. Những con số này làm giới chức chính quyền Hoa Kỳ nhận thức rằng họ sẽ
khó lặp lại ưu thế về vũ khí hạt nhân trong thập niên 1950 và 1960. Về phần Liên
Xô, họ cũng đã quá mệt mỏi với cuộc chạy đua vũ trang, những khó khăn to lớn của
tình hình trong nước đã không cho phép họ tăng đầu tư ngân sách cho quốc phòng
nữa và hai bên đã đồng ý ngồi vào đàm phán về hạn chế hệ thống vũ khí phòng thủ
và tiến công chiến lược.
Ngày 1.7.1968, khi kí kết Hiệp ước NPT, Tổng thống Johnson đã loan báo
rằng cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề hạn chế và
cắt giảm vũ khí hạt nhân phòng thủ và tiến công chiến lược “trong tương lai gần
64
nhất” (in the nearest future). Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều loan báo rằng ngày
30.9.1968 sẽ là ngày bắt đầu đàm phán, thế nhưng, khi Liên Xô đưa quân vào Tiệp
Khắc ngày 21.8.1968, Hoa Kỳ đã tuyên bố hoãn các cuộc đàm phán vô thời hạn.
Điều này cho thấy Hoa Kỳ luôn gắn chặt vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các
vấn đề chính trị. Các cuộc họp sơ bộ giữa hai nước được bắt đầu từ ngày
17.11.1969 ở Helsinki (Phần Lan) và chính thức bắt đầu từ tháng 4.1970. Chính tân
Tổng thống Nixon đã chủ động thúc đẩy cùng nhau ngồi vào bàn đàm phán, quyết
định này được thúc đẩy bởi một chính sách mới “sau thời đại đối kháng giờ đã đến
thời đại đàm phán” [Dẫn lại theo 5, tr.40].
Quan điểm của Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán về SALT I là các thỏa thuận
đạt được phải là hạn chế cả vũ khí hạt nhân tấn công và phòng thủ. Trong nửa năm
đầu tiên của cuộc đàm phán (nửa năm cuối 1970), các bên đã đạt được thỏa thuận
về hạn chế hệ thống phòng thủ ABM, nhưng không thể đạt một thỏa thuận về vũ khí
tiến công chiến lược. Liên Xô sau đó đã tìm cách hạn chế các cuộc đàm phán về hệ
thống phòng thủ ABM và trì hoãn các cuộc đàm phán về vũ khí hạt nhân tấn công
chiến lược. Hoa Kỳ cho rằng việc hạn chế hệ thống ABM nhưng cho phép sự phát
triển không hạn chế của hệ thống vũ khí tấn công chiến lược sẽ là không phù hợp
với các mục tiêu cơ bản của SALT và ảnh hưởng đến những bước đi đầu tiên trong
tiến trình kiểm soát vũ khí hạt nhân tấn công chiến lược [16, tr.143]. Những bế tắt
này cuối cùng cũng đã được tháo gỡ với việc các bên đạt được thỏa thuận về hạn
chế vĩnh viễn hệ thống phòng thủ ABM và thống nhất về một số biện pháp hạn chế
tạm thời vũ khí tấn công chiến lược và sẽ tiếp tục đàm phán để đi đến một hiệp ước
dài hạn hơn cho vấn đề hạn chế vũ khí tấn công chiến lược.
Sau hai năm đàm phán, kết quả của SALT I đã được chuẩn bị sẵn sàng để kí
kết trong chuyến viếng thăm của Tổng thống Nixon đến Liên Xô vào cuối tháng
5.1972. Ngày 26.5.1972, cả hai nhà lãnh đạo đã kí cả thẩy 10 văn kiện chung. Ngoài
văn kiện SALT I là trọng tâm, còn có một văn kiện có ý nghĩa quan trọng, đó là văn
kiện “Các nền tảng cho mối quan hệ song phương giữa Liên bang CHXHCN Xô
Viết và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ”. Văn kiện khẳng định rằng cả Hoa Kỳ và Liên Xô
“đều phát xuất từ một niềm tin chung rằng, trong thời đại hạt nhân, nền tảng cho
65
việc duy trì quan hệ giữa hai nước không thể nào khác hơn là chung sống hòa
bình”, rằng “những tiền đề cho việc duy trì và tăng cường quan hệ hoa bình giữa
Liên Xô và Hoa Kỳ là thừa nhận mối quan tâm về an ninh của hai bên, mà cơ sở là
nguyên tắc bình đẳng và khước từ dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực”. Hai nước
cam kết “làm tất cả sức mình để tránh những cuộc đối đầu quân sự và ngăn chặn
nguy cơ xuất hiện chiến tranh hạt nhân”, “tỏ rõ sự kiềm chế trong quan hệ song
phương, sẵn sàng tiến hành đàm phán và giải quyết các bất đồng bằng các phương
tiện hòa bình” [Dẫn lại theo 5, tr.41]. Đây là văn kiện lần đầu tiên công nhận
nguyên tắc cân bằng về lực lượng giữa hai siêu cường.
Với văn kiện SALT I, trong lần nói đầu, hiệp ước ABM nêu rõ rằng, việc Hoa
Kỳ và Liên Xô kí văn kiện này xuất phát từ nhận thức rằng “một cuộc chiến tranh
hạt nhân sẽ có hậu quả hủy diệt đối với tất cả loài người” (nuclear war would have
devastating consequences for all mankind) [54]. Vì vậy, hai nước cần phải có
“những biện pháp hiệu quả để hạn chế các hệ thống chống tên lửa đạn đạo nhằm
hạn chế cuộc chạy đua về vũ khí tiến công chiến lược và giảm thiểu nguy cơ của
một cuộc chiến tranh hạt nhân” (effective measures to limit anti – ballistic missile
systems would be substantial factor in curbing the race in strategic offensive arms
and would lead to a decrease in the risk of outbreak of war involving nuclear
weapons) [54].
Bản Hiệp ước gồm 16 điều khoản với những nội dung chính là: 1. Mỗi nước
chỉ được triển khai hai khu vực phóng tên lửa chống tên lửa với bán kính 150 km,
một ở trung tâm thủ đô, một ở khu vực bố trí trận địa tên lửa đạn đạo xuyên lục địa;
2. Số bệ phóng và số tên lửa trên mỗi bệ phóng ở từng khu vực không vượt quá 100;
3. Hai nước không thiết lập, thử nghiệm hoặc triển khai các hệ thống bệ phóng
chống tên lửa trên biển, trên không, trong vũ trụ và các căn cứ di động trên mặt đất.
Hai nước không được triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa bên ngoài lãnh
thổ của mình hoặc chuyển nhượng cho các nước khác; 4. Việc giám sát được thực
hiện bằng các phương tiện kỹ thuật riêng của mỗi nước theo nguyên tắc của luật
pháp quốc tế, không tiến hành kiểm tra tại chỗ; 5. Các thành viên của Hiệp ước
ABM không được có bất cứ sự cam kết quốc tế nào mâu thuẫn với Hiệp ước ABM;
66
6. Các thành viên của Hiệp ước ABM có thể đề nghị sửa đổi các điều khoản của
hiệp ước và cam kết tiếp tục đàm phán tích cực về vấn đề hạn chế vũ khí tiến công
chiến lược; 7. Hiệp ước ABM có giá trị vô thời hạn, cứ 5 năm được xem xét lại một
lần...
Một văn kiện thứ hai của SALT I là Hiệp định tạm thời, Hiệp định có tên đầy
đủ là Hiệp định tạm thời giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và Liên bang Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Xô Viết về một số biện pháp hạn chế vũ khí tiến công chiến lược
(Interim Agreement between The United States of America and The Union of Soviet
Socialist Republics on certain measures with respect to The Limitation of Strategic
Offensive Arms). Trong lời nói đầu của bản hiệp định, hai nước cho rằng Hiệp ước
ABM và Hiệp định tạm thời sẽ “góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cuộc
đàm phán tích cực về hạn chế vũ khí chiến lược cũng như làm giảm bớt sự căng
thẳng trong tình hình quốc tế và tăng cường sự tin cậy giữa hai nước” (contribute to
the creation of more favorable conditions for active negotiations on limiting
strategic arms as well as to the relaxation of international tension and the
strengthening of trust between States) [63].
Bản hiệp định tạm thời có hiệu lực trong vòng 5 năm gồm 8 điều khoản kèm
theo một Nghị định thư và một Bản ghi nhớ. Theo Hiệp định, Liên Xô được phép có
từ 1408 đến 1607 tên lửa ICBM, 62 tàu ngầm nguyên tử, 740 tên lửa trên tàu ngầm
chạy bằng năng lượng nguyên tử SLBM. Các con số về phía Hoa Kỳ lần lượt là:
1000 đến 1054 ICBM, 44 tàu ngầm nguyên tử và 656 SLBM. Hai nước cam kết
ngưng tăng cường kho tên lửa chiến lược đặt ở những căn cứ trên bộ và ngoài biển.
Như vậy, trong lĩnh vực cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược, đây là lần đầu tiên
Hoa Kỳ và Liên Xô đã đạt được một hiệp ước mà theo đó kho vũ khí hạt chiến lược
của hai nước được cắt giảm một phần.
Ngay sau khi SALT I được kí kết, Tổng thống Nixon đã có một bài phát biểu
trên đài phát thanh và truyền hình Liên Xô, ông đã nói đến tính chất nguy hiểm của
một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân và bày tỏ lập trường của Hoa Kỳ muốn chung
sống hòa bình. Các chuyên gia Hoa Kỳ cho rằng, những cam kết của Hoa Kỳ và
Liên Xô trong Hiệp ước SALT I là một bước ngoặc lớn với sự nỗ lực chung để đưa
67
một vấn đề đối đầu có tính chiến lược vào tầm kiểm soát. Cựu Bộ trưởng Ngoại
giao Hoa Kỳ Henry Kissinger cho rằng Hiệp ước SALT I đã trở thành một phương
tiện để Hoa Kỳ và Liên Xô “củng cố sự ổn định” về cân bằng chiến lược hạt nhân
bằng biện pháp, chứ không phải bằng chạy đua vũ trang. Theo ông, hiệp ước này
còn làm giảm bớt sự căng thẳng trong quan hệ song phương Hoa Kỳ - Liên Xô.
Theo tính toán của các quan chức Hoa Kỳ, SALT I đã cắt giảm được 711 triệu USD
cho ngân sách quốc phòng Hoa Kỳ trong năm tài chính tiếp theo [8, tr.137 – 138].
Việc bàn về cái “mất” và “được” của Hoa Kỳ khi kí SALT I cũng diễn ra sôi nổi
trong công luận và chính giới Hoa Kỳ. Theo họ cái bất lợi cho Hoa Kỳ là hiệp ước
chỉ quy định cắt giảm số bệ phóng mà không quy định cắt giảm số đầu đạn trên một
bệ phóng và không cắt giảm loại tên lửa tiến công chiến lược MIRV, vì thế Liên Xô
sẽ có cơ sở để gia tăng số tên lửa tương ứng của họ là SS – 18 và SS – 19. Sự gia
tăng SS – 18 và SS – 19 không những sẽ giúp cho Liên Xô, nếu một cuộc chiến
tranh hạt nhân xảy ra, có thể tiêu diệt đến 90% số tên lửa tấn công của Hoa Kỳ ngay
trong cuộc tấn công đầu tiên mà còn đủ sức đáp trả bằng một cuộc tấn công hủy diệt
nước Mỹ. Cái “mất” tiếp theo của Hoa Kỳ là vì SALT I chỉ hạn chế các tên lửa
chiến lược mà không đụng đến các tên lửa tầm trung, vì thế Liên Xô đã phát triển
loại tên lửa tầm trung SS – 20 và đã giành được thế độc quyền về loại tên lửa này ở
châu Âu [8, tr.138 – 139].
Bên cạnh cái “mất” như vậy, việc kí kết SALT I cũng mang về những cái
“được” cho Hoa Kỳ. Thứ nhất, Hiệp ước SALT I không hạn chế số lượng đầu đạn
của loại tên lửa MIRV nên Hoa Kỳ vẫn chiếm ưu thế hạt nhân vì lúc này họ có 5700
đầu đạn so với 2500 của Liên Xô; thứ hai, Hiệp ước SALT I không hạn chế số máy
bay ném bom tầm xa mà số lượng lúc đó là Hoa Kỳ 450, Liên Xô 200; thứ ba, Hiệp
ước SALT I không cấm loại vũ khí mới. Vì vậy, sau đó Hoa Kỳ tiếp tục phát triển
loại tên lửa Trident thay thế cho các tên lửa Polaris và Poseidon đang sử dụng, máy
bay ném bom B-1 thay thế cho B-52 [8, tr.139]. Riêng Hiệp ước ABM cũng đã tạo
nên niềm tin về sự đảm bảo an ninh cho Hoa Kỳ, cố vấn Henry Kissinger đã nói
trong một cuộc họp Quốc hội vào ngày 15.6.1972, “bằng cách kí kết một Hiệp ước
giới hạn hệ thống phòng thủ ABM không chỉ giúp loại bỏ một lĩnh vực cạnh tranh
68
phòng thủ có khả năng nguy hiểm [cho an ninh Hoa Kỳ], mà còn làm giảm động cơ
để tiếp tục triển khai các hệ thống tấn công” [43]. Như vậy, những cái “được” và
“mất” theo quan điểm của Hoa Kỳ trong việc ký Hiệp ước SALT I cho thấy Hoa Kỳ
đã lợi dụng những “kẻ hỡ” của SALT I để duy trì ưu thế hạt nhân của mình và do
vậy có thể đảm bảo được cho an ninh của Hoa Kỳ [8, tr.139].
Theo đánh giá của Liên Xô, Hiệp ước SALT I “là một trường hợp chưa hề có
tiền lệ về mặt kiểm tra, kiểm soát đối với các vũ khí chiến lược và là cơ sở đầu tiên
có tính chất cụ thể về pháp lý cho quá trình hòa dịu. Hơn nữa, Hoa Kỳ và Liên Xô
đã thỏa thuận đề ra những giới hạn nhất định đối với việc tăng thêm về số lượng các
loại tên lửa hạt nhân tiến công chiến lược của cả hai bên. Riêng đối với Hiệp ước
ABM, điều quan trọng của bản hiệp ước là nó có hiệu lực vô thời hạn vì thế Liên
Xô hi vọng sẽ khống chế việc xây dựng hệ thống phòng thủ chống tên lửa của mỗi
bên, tạo cơ sở cho sự cân bằng về lực lượng hạt nhân của hai nước” [1, tr.425]
Cho dù có những tính toán riêng của mỗi bên, nhưng việc kí kết SALT I có
một ý nghĩa quan trọng, nó là biểu hiện cụ thể của sự hòa dịu giữa hai cường quốc
và sau đó sẽ tạo đà cho việc cải thiện quan hệ song phương giữa hai nước. Thực tế
đã chứng minh cho nhận định trên, sau SALT I, cả Hoa Kỳ và Liên Xô tiếp tục đàm
phán và kí kết một loạt các văn kiện ngoại giao nhằm cải thiện quan hệ hai nước.
Việc đàm phán và kí kết hai văn kiện ngoại giao quan trọng về kiểm soát vũ khí hạt
nhân, thứ nhất là Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 và thứ hai
là Hiệp ước về nổ hạt nhân vì mục đích hòa bình năm 1976 cũng nằm trong một loạt
các văn kiện ngoại giao được kí kết sau SALT I (sẽ được lần lượt trình bày ở mục
2.5 của luận văn này ). Đặc biệt, hai nước đã ký kết Hiệp định về những nguyên tắc
cơ bản trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô (BPRUSA – USSR) do Liên Xô đề
xuất. Hiệp định này nhằm cải thiện quan hệ song phương Hoa Kỳ - Liên Xô, giảm
bớt những căng thẳng của tình hình thế giới, đồng thời củng cố an ninh và hợp tác
quốc tế cũng như sự hiểu biết và hợp tác của hai nước trên các lĩnh vực khác nhau.
Hiệp định này gồm 12 điều khoản với những nội dung chính sau: 1. [Thiết lập]
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong kỷ nguyên của vũ
khí hạt nhân; 2. Sự cần thiết phải ngăn chặn mọi khả năng dẫn tới một cuộc chiến
69
tranh hạt nhân; 3. Nguyên tắc bình đẳng là cơ sở đảm bảo an ninh cho cả Hoa Kỳ và
Liên Xô...[4, tr.141 – 142]. Như vậy, Hiệp định BPRUSA – USSR tỏ ra có lợi cho
hòa dịu quốc tế và ngăn chặn khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân. Đại sứ Liên Xô
tại Hoa Kỳ Dobrynin cho rằng Hiệp định BRPUSA – USSR có “tầm quan trọng về
mặt chính trị, đặt nền móng cho quá trình mới trong quan hệ giữa hai nước – quá
trình hòa dịu, làm cho quan hệ giữa Liên Xô với Hoa Kỳ đặt trên cơ sở ổn định hơn
và có triển vọng hơn” [1, tr.422 – 423].
Như vậy, việc Hoa Kỳ kí kết các hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân trong
thập niên 60 đầu thập niên 70 trên cơ sở Hoa Kỳ đang chiếm ưu thế về vũ khí hạt
nhân và khả năng chi tiêu quân sự ở mức cao có tác dụng kìm chế sự phát triển vũ
khí hạt nhân ở các nước khác trên thế giới, trong khi đó vẫn duy trì ưu thế về vũ khí
hạt nhân của mình. Thực tế, sau khi kí kết các văn kiện này thì số lượng vũ khí hạt
nhân của Hoa Kỳ vẫn nhiều hơn Liên Xô và bỏ xa tổng số vũ khí hạt nhân của các
cường quốc hạt nhân khác (trừ Liên Xô) cộng lại. Ngoài ra, việc tham gia các hiệp
ước kiểm soát vũ khí hạt nhân còn mang lại những ưu thế nhất định cho Hoa Kỳ
trong quan hệ quốc tế.
2.5. Hiệp ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 (TTBT -
Threshold Test Ban Treaty) và Hiệp ước về Nổ hạt nhân vì mục đích hòa bình
năm 1976 (PNET - Peaceful Nuclear Explosions Treaty)
Sau SALT I, các cuộc đàm phán để kiểm soát vũ khí hạt nhân vẫn tiếp tục diễn
ra. Việc kí kết SALT I đã có tác động tích cực đến các cuộc đàm phán này. Hiệp
ước về Ngưỡng cấm thử vũ khí hạt nhân năm 1974 và Hiệp ước về Nổ hạt nhân vì
mục đích hòa bình năm 1976 là kết quả đáng mừng trong những nổ lực của Hoa Kỳ
và các cường quốc hạt nhân để kiểm soát vũ khí hạt nhân.
Hiệp ước thứ nhất có tên đầy đủ là Hiệp ước giữa Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết về giới hạn các cuộc thử hạt nhân
ngầm dưới đất (Treaty Between the United States of America and the Union of
Soviet Socialist Republics on the Limitation of Underground Nuclear Weapon
Tests). Hiệp ước xác lập “ngưỡng” cấm thử vũ khí hạt nhân dưới lòng đất. Trong
các cuộc đàm phán về cấm thử hạt nhân năm 1963, cả Anh và Hoa Kỳ đều đề nghị
70
cho một lệnh cấm thử toàn diện trong tất cả các môi trường, nhưng phía Liên Xô
cho rằng khó phân biệt được các cuộc nổ hạt nhân trong lòng đất với các cuộc động
đất vì chưa có đủ các phương tiện để chứng minh. Nên Hiệp ước LTBT năm 1963
vẫn để ngõ khả năng thử hạt nhân dưới lòng đất và chỉ cấm các cuộc thử hạt nhân
dưới lòng đất mà các mãnh vở phóng xạ làm ảnh hưởng đến một nước khác bên
ngoài nước tiến hành vụ nổ. Sau đó, suốt trong những năm còn lại của thập niên 60,
cả Hoa Kỳ, Liên Xô và một số nước khác đã cho tiến hành các vụ nổ thử hạt nhân
mà sức công phá trên 150 kilotons [41]. Tuy thực hiện những vụ nổ này nhưng cả
hai bên đều quan ngại rằng nó sẽ ảnh hưởng đến các nổ lực đàm phán để kiểm soát
vũ khí hạt nhân. Tiến trình hòa dịu trong quan hệ quốc tế những năm đầu thập kỷ
1970, đặc biệt sau khi kí SALT I vào năm 1972, cả hai nước đẩy mạnh quá trình
tiếp xúc và đàm phán để đi đến một hiệp ước xác định ngưỡng của các vụ thử hạt
nhân trong lòng đất và những vấn đề có liên quan. Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý
trong mùa xuân năm 1974 sẽ tiến hành đàm phán về hiệp ước này, theo đó một
nhóm các chuyên gia hạt nhân Hoa Kỳ đã được gởi tới Moscow để đàm phán về các
mặt kỹ thuật.
Hiệp ước đã được kí kết trong Hội nghị thượng đỉnh gữa Hoa Kỳ và Liên Xô
do Tổng thống R.Nixon và Tổng bí thư L.Brezhnev đứng đầu ở Moscow vào ngày
3.7.1974. Mục đích của Hiệp ước TTBT là “chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang trong
thời gian sớm nhất và thực hiện các biện pháp có hiệu quả để cắt giảm vũ khí chiến
lược , tiến tới giải trừ quân bị triệt để và một sự kiểm soát quốc tế chặt chẽ và có
hiệu quả” (to achieve at the earliest possible date the cessation of the nuclear arms
race and to take effective measures toward reductions in strategic arms, nuclear
disarmament, and general and complete disarmament under strict and effective
international control) [41]. Hiệp ước có 5 điều khoản với nội dung chính là cấm các
cuộc thử vũ khí hạt nhân ngầm dưới đất vượt quá mức 150 kilotons (150 kilotons
tương đương với 150.000 tấn TNT). Đồng thời, Hiệp ước TTBT mở đường cho các
nước thành viên tiếp tục các cuộc đàm phán về cấm thử toàn diện đối với vũ khí hạt
nhân, quy định việc thanh tra bằng các phương tiện của từng nước, trao đổi những
thông tin về địa chất của các bãi thử hạt nhân và quy định các nước thành viên của
71
hiệp ước chỉ được thử ở những địa điểm đã công bố trên lãnh thổ của nước mình.
Ngoài ra, còn có một nghị định thư bổ sung cho Hiệp ước TTBT. Nội dung chính
của nghị định thư này quy định cụ thể việc trao đổi các thông số kỹ thuật của các
khu vực thử hạt nhân cũng như số liệu của các vụ thử hạt nhân ngầm dưới đất [8,
tr.145 – 146].
Hiệp ước thứ hai có liên quan chặt chẽ với Hiệp ước TTBT là Hiệp ước về Nổ
hạt nhân vì mục đích hòa bình năm 1976 (PNET - Peaceful Nuclear Explosions
Treaty). Trong ngày kí Hiệp ước TTBT, ngày 3.7.1974, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã
cùng công nhận về sự cần thiết phải thiết lập một thỏa thuận thích hợp để quản lí
các vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất vì mục đích hòa bình (PNE). Không có một sự
khác biệt căn bản giữa công nghệ của thiết bị nổ hạt nhân được sử dụng cho một vũ
khí và công nghệ của một thiết bị nổ hạt nhân cho mục đích hòa bình. Do đó, một
thỏa thuận đàm phán về PNE đã được ghi trong Điều III của Hiệp ước TTBT và
ngày bắt đầu đàm phán là ngày 7.10.1974 tại Moscow. Sau sáu phiên đàm phán
trong 18 tháng, Hiệp ước PNET được kí kết ở Washington và Moscow vào ngày
28.5.1976. Lời mở đầu của hiệp ước như sau:
“Căn cứ mong muốn thực hiện Điều III của Hiệp ước giữa Hợp chúng quốc
Hoa Kỳ và Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết về Giới hạn thử nghiệm vũ
khí hạt nhân ngầm dưới đất , trong đó kêu gọi kết thúc sớm nhất có thể của một thỏa
thuận về vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất cho các mục đích hòa bình ,
Khẳng định sự tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc của Hiệp ước Cấm thử vũ
khí hạt nhân trong khí quyển, ngoài không gian vũ trụ và dưới nước, Hiệp ước
Không phổ biến vũ khí hạt nhân, và Hiệp ước về Giới hạn thử nghiệm vũ khí hạt
nhâm ngầm dưới đất, và quyết tâm thực hiện đúng các quy định của các điều ước
quốc tế,
Mong muốn đảm bảo rằng các vụ nổ hạt nhân dưới lòng đất cho các mục đích
hòa bình sẽ không được sử dụng cho các mục đích liên quan đến vũ khí hạt nhân,
Mong rằng sử dụng năng lượng hạt nhân được hướng dẫn chỉ hướng tới mục
đích hòa bình,
72
Với mong muốn phát triển một cách thích hợp hợp tác trong lĩnh vực vụ nổ
hạt nhân dưới lòng đất cho các mục đích hòa bình,”
(Proceeding from a desire to implement Article III of the Treaty between the
United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics on the
Limitation of Underground Nuclear Weapon Tests, which calls for the earliest
possible conclusion of an agreement on underground nuclear explosions for
peaceful purposes,
Reaffirming their adherence to the objectives and principles of the Treaty
Banning Nuclear Weapon Tests in the Atmosphere, in Outer Space and Under
Water, the Treaty on Non-Proliferation of Nuclear Weapons, and the Treaty on the
Limitation of Underground Nuclear Weapon Tests, and their determination to
observe strictly the provisions of these international agreements,
Desiring to assure that underground nuclear explosions for peaceful purposes
shall not be used for purposes related to nuclear weapons,
Desiring that utilization of nuclear energy be directed only toward peaceful
purposes,
Desiring to develop appropriately cooperation in the field of underground
nuclear explosions for peaceful purposes,)
Hiệp ước gồm 9 điều khoản với nội dung chính: quy định các vụ nổ hạt nhân
đơn lẻ ngầm dưới đất không vượt quá 150 kilotons, giống với quy định của Hiệp
ước TTBT; không thực hiện bất kỳ vụ nổ nhóm nào (bao gồm các vụ nổ đơn lẻ) có
tổng công suất trên 1.500 kilotons; các bên cũng tái khẳng định nghĩa vụ của mình
để thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những quy định của Hiệp ước LTBT năm 1963;
các bên có quyền thực hiện các vụ nổ hạt nhân vì mục đích hòa bình trên lãnh thổ
nước khác nếu được nước đó yêu cầu, nhưng phải tuân thủ quy định về công suất
trong hiệp ước này và phù hợp với những quy định của Hiệp ước Không phổ biến
NPT; Hiệp ước quy định những phương tiện để xác minh các vụ nổ, ngoài việc sử
dụng các phương tiện kỹ thuật quốc gia NTM (National Technical Means), Hiệp
ước quy định các bên có trách nhiệm thông tin về những vụ nổ của mình cho bên
kia và cam kết không can thiệp vào tiến trình xác minh các vụ nổ [42].
73
Hiệp ước PNET cùng với Hiệp ước TTBT đã góp phần hạn chế ô nhiễm môi
trường cả về mức độ, lẫn phạm vi do các cuộc thử hạt nhân gây ra. Việc Hoa Kỳ kí
Hiệp ước PNET năm 1976 thể hiện một cố gắng thật lớn của chính quyền Tổng
thống Gerald R. Ford. Khi lên thay Nixon , Nixon từ chức vì vụ Watergate, năm
1974, Tổng thống G. Ford vẫn duy trì chính sách hòa dịu với Liên Xô, vẫn tiếp tục
các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Nhưng vào lúc này, thế lực bảo
thủ trong chính trường Hoa Kỳ đang có những hoạt động chống lại chính sách hòa
dịu với Liên Xô, chống lại các Hiệp ước về kiểm soát vụ khí hạt nhân với Liên Xô.
Họ cho rằng chính sách hòa dịu đã không còn phù hợp nữa và dùng nó để tuyên
truyền nhằm giành ưu thế trước Tổng thống Ford trong cuộc vận động tranh cử vào
năm 1976.
74
Tiểu kết chương 2
Như vậy, từ sau cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, Hoa Kỳ đã đạt được nhiều
hiệp ước song phương và đa phương về kiểm soát vũ khí hạt nhân. Những Hiệp ước
này góp phần làm giảm đi cường độ của cuộc chạy đua vũ, nhất là chạy đua vũ khí
hạt nhân và cũng góp phần to lớn vào việc giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và
giải trừ quân bị. Ở một khía cạnh nào đó nó ngăn cản sự vượt trội hơn của Liên Xô
về vũ khí hạt nhân so với Hoa Kỳ và củng cố hơn nửa thế cân bằng ổn định chiến
lược giữa hai quốc gia. Việc kí kết Hiệp ước LTBT đã góp phần vào vệc ngăn cản
các quốc gia khác sở hữu vũ khí hạt nhân, lúc này chỉ có Hoa Kỳ và Liên Xô mới có
đủ kỹ thuật để thử hạt nhân trong lòng đất. Hiệp ước OST thì đem đến một sự an
toàn cho không gian vũ trụ trong thời đại hạt nhân. Còn Hiệp ước NPT đã góp phần
ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí hạt nhân trên toàn thế giới. Hiệp ước SALT I đã
cắt giảm được một phần kho vũ khí chiến lược của hai nước, đây là bước đi quan
trong trong quá trình kiểm soát vũ khí hạt nhân và giải trừ quân bị của hai nước và
từ sau SALT I quan hệ giữa hai nước đã tốt lên nhiều và hai nước đã tạo cơ sở cho
sự tin cậy lẫn nhau trong việc giải quyết những vấn đề quan hệ giữa hai nước và
những vấn đề quốc tế. Chính vì vậy, sau SALT I, hai nước đã kí nhiều văn kiện
chung nhằm cải thiện quan hệ, trong đó có các văn kiện về kiểm soát vũ khí hạt
nhân, hai Hiệp ước TTBT và PNE được kí kết trong bối cảnh đó. Hoa Kỳ cũng gắn
chặt vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề chính trị khác, điển hình như
ngày 1.7.1968, khi kí kết Hiệp ước NPT, Tổng thống Johnson đã loan báo rằng cả
Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề hạn chế và cắt
giảm vũ khí hạt nhân phòng thủ và tiến công chiến lược “trong tương lai gần nhất”
(in the nearest future). Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều loan báo rằng ngày 30.9.1968 sẽ
là ngày bắt đầu đàm phán, thế nhưng, khi Liên Xô đưa quân vào Tiệp Khắc ngày
21.8.1968, Hoa Kỳ đã tuyên bố hoãn các cuộc đàm phán vô thời hạn. Tuy vậy, việc
Hoa Kỳ đàm phán và kí kết các hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn
này đã góp phần đáng kể vào sự hòa dịu trong quan hệ quốc tế, tạo điều kiện để tiếp
tục đàm phán và kí kết những hiệp ước về kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn kế
tiếp.
75
Chương 3. CHÍNH SÁCH KIỂM SOÁT VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA
HOA KỲ TỪ 1977 ĐẾN 1991
Bắt đầu từ giữa thập kỷ 1970s, tình hình thế giới có những biến động sâu sắc.
Đặc biệt là Liên Xô và các nước CNXH khác ở Đông Âu bắt đầu lâm vào khủng
hoảng, và khủng hoảng sâu trong thập niên 1980s để rồi đi đến sụp đổ vào năm
1991. Sự tác động của tình hình này đến vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân là không
hề nhỏ. Tùy vào thời điểm mà Hoa Kỳ có những bước đi trong chính sách của mình
để tiến hành kiểm soát vũ khí hạt nhân nhưng vẫn đảm bảo an ninh cho nước mình.
3.1. Hiệp ước Hạn chế vũ khí chiến lược giai đoạn II năm 1979 (Strategic Arms
Limitation Talks – SALT II)
Phù hợp với Hiệp định tạm thời, chỉ một tháng sau khi kí kết SALT I, các cuộc
đàm phán về Hạn chế vũ khí hạt nhân chiến lược giai đoạn 2 (SALT II) đã chính
thức bắt đầu vào tháng 11.1972. Những “kẽ hở” trong các quy định của SALT I đã
tạo nên làn sóng phản đối không ít trong dư luận Hoa Kỳ, chính vì vậy Hoa Kỳ đã
tìm cách [trong quá trình đàm phán] đảm bảo rằng các quy định của Hiệp ước
SALT II sẽ được làm chi tiết để giảm thiểu tối đa những “kẽ hở”. Do vậy các mục
tiêu chính của Hoa Kỳ khi bước vào đàm phán SALT II là: thiết lập trần quân bình
cho cả hai bên về hệ thống tên lửa MIRV; kìm chế sự phát triển của những nguy cơ
gây mất ổn định trong tương lai và để bắt đầu giảm số lượng các bệ phóng di động –
tức các bệ phóng tên lửa trên các xe tải và tàu ngầm hạng nặng [16, tr.30].
Vào đầu năm 1973, Hoa Kỳ xúc tiến cho việc triệu tập một Hội nghị thượng
đỉnh lần thứ hai với mong muốn cùng với Liên Xô tổ chức một hội nghị ở cấp cao
nhất để kí hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến lược với mục tiêu đưa hiệp định
tạm thời mà hai bên đạt được thành hiệp định mang tính vĩnh viễn. Hội nghị thượng
đỉnh Hoa Kỳ - Liên Xô lần thứ hai diễn ra vào tháng 4.1974 nhưng không đạt được
một thỏa thuận về hạn chế vũ khí hạt nhân chiến lượt do những bất đồng giữa hai
bên. Bất đồng lớn nhất là về giới hạn số tên lửa hạn nặng của Liên Xô, về hệ thống
phóng tên lửa của Hoa Kỳ và NATO, và về MIRVs. Tổng thống Nixon rất muốn
đạt ngay một hiệp định về vũ khí hạt nhân chiến lược với Liên Xô, sau này ông nhớ
76
lại: “Trong buổi sáng cuối cùng của tôi ở Moscow, Brejnev và tôi nói chuyện riêng
với nhau lần cuối trong phòng làm việc. Tôi nhắc lại với ông ta là tôi vẫn tin có thể
kí kết Hiệp ước SALT trước khi năm mới đến, để Hoa Kỳ không phải lao vào cố
gắng tăng cường nhịp điệu chạy đua vũ trang nữa” [11, tr.1283].
Cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Tổng thống Hoa Kỳ G.Ford và Chủ tịch Liên Xô
L.Brejnev tại Vladivostok vào tháng 11.1974 là nhằm tháo gỡ những bất đồng trong
đàm phán để nhanh chóng đi đến kí kết một hiệp định lâu dài về vũ khí hạt nhân
chiến lược. Hai bên đã ra thông cáo chung rằng thỏa thuận hiệp ước về vũ khí tiến
công chiến lược sẽ có những yếu tố sau: giới hạn mỗi bên có 2.400 vũ khí chiến
lược (gồm bệ phóng ICBM, bệ phóng SLBM và máy bay ném bom hạng nặng),
1320 tên lửa MIRV, cấm xây dựng mới hệ thống phóng tên lửa ICBM trên đất liền
(ngụ ý cấm Liên Xô bổ sung thêm tên lửa hạng nặng ICBM), giới hạn việc triển
khai sản xuất các vũ khí tiến công chiến lược mới. Tuy nhiên, hai bên cũng chưa
nhất trí được về chủng loại và số lượng vũ khí hạt nhân sẽ được cắt giảm, Hoa Kỳ
đề nghị đưa loại máy bay ném bom tầm xa Backfire của Liên Xô vào danh mục cắt
giảm, Liên Xô không đồng ý. Còn Liên Xô đề nghị Hoa Kỳ hủy bỏ loại tên lửa
hành trình nhưng Hoa Kỳ cũng không đồng ý. Sự không chịu nhượng bộ nhau này
và những vấn đề quốc tế như vấn đề Trung Đông, các cuộc xung đột ở vùng Sừng
châu Phi đã làm các cuộc đàm phán đi vào bế tắc.Trong khi các cuộc đàm phán về
SALT II bế tắc, hai nước tiếp tục cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân.
Năm 1977, số đầu đạn hạt nhân của Hoa Kỳ là 8.500 so với 5.700 trong năm
1972, còn số lượng tương ứng của Liên Xô là 4.000 so với 2.500. Đến năm 1978, số
lượng phương tiện điều khiển vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ là 2.059 so với của Liên
Xô là 2.440. Ngoài ra, ở thời điểm hai nước đang tiến hành đàm phán về SALT II
thì tổng số vũ khí hạt nhân của Liên Xô đã vượt tổng của Hoa Kỳ. Năm 1978 Liên
Xô có 25.393 vũ khí hạt nhân so với 24.424 của Hoa Kỳ. Năm 1979 Liên Xô có
27.935 so với 24.141 [8, tr.199]. Lên thay G.Ford, Tổng thống Jimmy Carter và
chính quyền của ông mong muốn nhanh chóng kí kết SALT II, và do đó ông đã xúc
tiến nối lại các cuộc đàm phán với Liên Xô.
77
Tháng 3.1977, Chính quyền Carter đã đưa ra một đề xuất toàn diện đối với
Liên Xô, và mong muốn lấy đó làm cơ sở để tiếp tục đàm phán về SALT II. Theo
đó, số vũ khí chiến lược đề ra ở Vladivostok từ 2.400 giảm xuống còn 1800, 1320
MIRV xuống còn 550, ICBM hạng nặng của Liên Xô cũng giảm từ 308 xuống 150.
Đề xuất cũng kêu gọi không thử nghiệm ICBM mới, không triển khai thêm hệ thống
phóng ICBM trên đất liền và di chuyển hệ thống phóng ICBM. Đồng thời, đề nghị
của Chính quyền Carter vẫn giữ như đề nghị ở Vladivostok về máy bay ném bom
Backfire của Liên Xô và tên lửa hành trình [16, tr.31].
Ban đầu Liên Xô không đồng ý, nhưng các cuộc đàm phán tiếp sau đó hai bên
đã đạt được sự đồng thuận căn bản và Hiệp ước được kí kết ngày 18.6.1979 tại
Vienna do Tổng thống Hoa Kỳ J.Carter và Chủ tịch Liên Xô L.Brejnev. Ngoài Hiệp
ước chính (có hiệu lực năm 1985), còn có một Nghị định thư có thời hạn 3 năm quy
định về việc xử lí tạm thời các vấn đề chưa được giải quyết trong SALT II, trong
khi chờ đợi ở các cuộc đàm phán tiếp tục trong SALT III, và một bản tuyên bố
chung hướng dẫn các nguyên tắc cho việc thiết lập các cuộc đàm phán cho SALT
III. Với hiệp ước chính, trong lời mở đầu hai nước khẳng định Hiệp ước SALT II là
sự tiếp nối của Hiệp ước SALT I kí năm 1972. Cả hai nước tham gia ký kết Hiệp
ước SALT II đều mong muốn “tiếp tục hạn chế vũ khí hạt nhân chiến lược, cải thiện
quan hệ song phương, giảm nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân, củng cố
hòa bình và an ninh thế giới” (limiting strategic offensive arms provided for in this
Treaty will contribute to the improvement of relations between the Parties, help to
reduce the risk of outbreak of nuclear war and strengthen international peace and
security) [55].
Nội dung chính của Hiệp ước SALT II là: 1. Giới hạn tổng số các phương tiện
điều khiển vũ khí hạt nhân chiến lược của mỗi bên lúc đầu là 2.400, sau sẽ giảm
xuống còn 2.250 vào tháng 1.1981. Các loại phương tiện này bao gồm bệ phóng tên
lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) và máy bay chiến lược mang tên lửa không đối
đất (ASBM) có tầm bắn xa hơn 5.500 km, bệ phóng tên lửa đạn đạo đặt trên tàu
ngầm (SLBM) và máy bay chiến lược mang tên lửa đạn đạo không đối đất (ASBM)
có tầm hoạt động lớn hơn 600 km; 2. Mỗi bên tham gia hiệp ước có tổng số các bệ
78
phóng ICBM, SLBM và ASBM được trang bị tên lửa mang đầu đạn tự tách (MIRV)
không vượt quá 1.200 km, trong đó có số bệ phóng ICBM lắp MIRV không vượt
quá 820; 3. Mỗi bên có tổng số các loại bệ phóng kể trên và số máy bay ném bom
hạng nặng trang bị tên lửa hành trình có tầm bắn hơn 600 km không vượt quá 1320;
4. Cấm thử và triển khai những loại bệ phóng ICBM mới hoặc di chuyển vị trí của
các loại bệ phóng ICBM. Các bên được quyền cải biến nhưng không vượt quá giới
hạn cải tiến 30% cấu trúc của loại bệ phóng ICBM; 5. Khống chế số đầu đạn của
mỗi loại bệ phóng : 10 đầu đạn cho một ICBM, 14 đầu đạn cho một SLBM, và 10
đầu đạn cho một ASBM; 6. Việc cắt giảm vũ các loại khí chiến lược ngoài mức quy
định của Hiệp ước SALT II sẽ được thực hiện từ khi hiệp ước có hiệu lực và sẽ tiếp
tục thực hiện đến 31.12.1981 để đạt được các mức hạn chế theo quy định của Hiệp
ước; 7. Hiệp ước SALT II phù hợp với Điều 192 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc,
tức được đăng ký với Ban thư kí của Liên Hiệp Quốc và được việc dẫn trước một cơ
quan của Liên Hiệp Qước khi cần thiết. Hiệp ước SALT I có hiệu lực đến ngày
31.12.1985; 8. Các bên kí kết phải có trách nhiệm thực hiện các điều khoản cũng
như không tham gia các hiệp ước quốc tế mâu thuẫn với Hiệp ước SALT II. Đồng
thời các thành vên của Hiệp ước SALT II tích cực tham gia các cuộc đàm phán để
nhanh chóng tìm ra các biện pháp hạn chế và cắt giảm hơn nữa vũ khí hạt nhân
chiến lược; 9. Các nước thành viên Hiệp ước SALT II có thể rút khỏi việc tham gia
Hiệp ước nếu quyền lợi tối thượng của mình bị vi phạm. Việc rút khỏi Hiệp ước
phải được thông báo trước 6 tháng [55].
Như vậy, so với SALT I thì SALT II quy định chi tiết và trên phạm vi rộng
hơn. Nó đặt ra trần giới hạn về số lượng vũ khí hạt nhân của hai nước, bao gồm
không chỉ những tên lửa có cơ sở trên mặt đất và trên biển mà còn trên máy bay
ném bao tầm xa. Hiệp ước còn đặt ra những giới hạn riêng biệt đối với loại máy bay
ném bom mang tên lửa ICBM. Ngoài ra, Hiệp ước còn bao gồm cả những giới hạn
về tính chất như cấm ICBM hạng nặng, giới hạn ICBM hạn nhẹ của mỗi bên, cấm
tên lửa SS – 16 của Liên Xô [3, tr.99]. Đây là lần đầu tiên trong quá trình đàm phán
thương lượng về giới hạn vũ khí hạt nhân chiến lược, Hoa Kỳ và Liên Xô đạt được
thỏa thuận về số vũ khí hạt nhân ngang bằng của hai nước. Hiệp ước SALT II còn
79
hạn chế việc thay thế và hoàn thiện các loại vũ khí hạt nhân, đồng thời đưa ra một
chế độ kiểm tra vũ khí hạt nhân một cách chi tiết. Do đó, những quy định của SALT
II có khả năng kiềm chế cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước, từ đó làm giảm dần
nguy cơ chiến tranh hạt nhân và cải thiện quan hệ giữa hai nước và hai khối nước
Tuy nhiên, tính đến gần hết năm 1985 mà Hiệp ước vẫn chưa có hiệu lực vì
Quốc hội Hoa Kỳ chưa phê chuẩn. Chính quyền Carter đệ trình Hiệp ước lên Quốc
hội vào cuối năm 1979 để phê chuẩn, nhưng Sự kiện Liên Xô đưa quân vào
Afganistan cũng vào cuối năm 1979 đã làm cho Quốc hội Hoa Kỳ ngừng phê chuẩn
vô thời hạn Hiệp ước SALT II. Trong một nổ lực làm dịu tình hình, Tổng thống
Carter tuyên bố rằng mặc dù Quốc hội chưa thông qua nhưng Hoa Kỳ vẫn tuân thủ
các điều khoản của hiệp ước nếu Liên Xô cũng tỏ rõ quyết tâm là họ cũng thực hiện
như vậy [16, tr.25]. Tuy nhiên, các diễn biến phức tạp sau đó đã làm tình hình xấu
đi, các điều khoản của Hiệp ước không được thực thi, quan hệ giữa hai nước và hai
khối nước trở nên căng thẳng, tình hình còn tồi tệ hơn khi cuộc chiến tranh hạt nhân
suýt nổ ra ở châu Âu vào năm 1983.
Hiệp ước SALT II không đề cập đến các loại tên lửa tầm trung ở châu Âu nên
cũng đã dẫn đến những bất đồng lớn về vấn đề này giữa hai nước. Hiệp ước SALT
II chỉ quy định tổng số vũ khí hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ và Liên Xô mà
không tính đến số lực vũ khí hạt nhân chiến lược của các nước đồng minh Tây Âu
của Hoa Kỳ. Tháng 9.1979, Hoa Kỳ đã chuyển giao tên lửa tầm trung cho các nước
NATO để triển khai ở Tây Âu. Ngày 12.12.1979, NATO chính thức quyết định bố
trí 464 tên lửa hành trình và 108 tên lửa Persing II của Hoa Kỳ ở Tây Âu. Như vậy,
tổng cộng lực lượng vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và NATO lớn hơn nhiều so với
Liên Xô, và điều này đã làm cho Liên Xô tiếp tục tăng kho vũ khí hạt nhân của
mình. Kết quả là cả Hoa Kỳ và Liên Xô không đạt được mục đích tiếp tục hạn chế
vũ khí hạt nhân chiến lược, tiến tới giải trừ quân bị triệt để như đã nêu trong Hiệp
ước SALT II.
Hiệp ước SALT II là kết quả của những nổ lực của Hoa Kỳ và Liên Xô nhằm
kiểm soát vũ khí hạt nhân chiến lược nhưng đã không làm giảm căng thẳng trong
mối quan hệ giữa hai nước. Những sự biến bất ngờ đã làm cho những điều khoản
80
không được thực thi, sau đó tình hình lại càng xấu hơn. Hiệp ước SALT II thất bại
làm cho cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân tái diễn và gia tăng sự căng thẳng của tình
hình quốc tế trong những năm đầu thập niên 1980.
3.2. Các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Liên Xô về kiểm soát vũ khí chống vệ
tinh (ASAT - Anti-Satellite)
Kể từ khi vệ tinh nhân tạo Sputnik được phóng vào vũ trụ năm 1957, vệ tinh
đóng một vai trò quan trọng trong các chương trình quân sự của Hoa Kỳ và Liên
Xô. Vệ tinh phục vụ một loạt chức năng bảo mật cực kỳ quan trọng, bao gồm việc
cảnh báo sớm một cuộc tấn công, thu thập những thông tin tình báo về mối đe dọa
quân sự hiện tại và trong tương lai, là đầu thông tin liên lạc cho các vấn đề kiểm
soát vũ khí, và là phương tiện để kiểm tra việc thực hiện các thỏa thuận kiểm soát
vũ khí của đối phương. Tầm quan trọng của vệ tinh đối với an ninh quốc gia của
Hoa Kỳ đã dẫn đến một sự quan tâm đặc biệt đến hệ thống chống vệ tinh (ASAT) –
một hệ thống được thiết kế gồm các tên lửa đạn đạo dùng để tấn công các vệ tinh.
Hoa kỳ cho rằng, sự phát triển của các hệ thống chống vệ tinh sẽ là một mối đe dọa
với các vệ tinh đang hoạt động ngoài không gian của Hoa Kỳ [16, tr.159].
Vấn đề càng rắc rối hơn khi có sự tương tác giữa một hệ thống phòng thủ tên
lửa chống tên lửa (ABM) với hệ thống tên lửa chống vệ tinh. Một hệ thống phòng
thủ tên lửa đạn đạo vốn có khả năng tấn công các vệ tinh, ngược lại, công nghệ
chống vệ tinh có thể đóng góp cho sự phát triển của một hệ thống ABM. Nhận thức
rằng để đạt được một hiệp ước về vấn đề hệ thống tên lửa chống vệ tinh với phía
bên kia là còn rất lâu dài, cả Hoa Kỳ và Liên Xô ra sức xây dựng hệ thống tên lửa
chống vệ tinh cho riêng mình.
Về phần Hoa Kỳ, vấn đề này được chính phủ giao cho lực lượng không quân
vào thập niên 1950, nhưng phải đến năm 1960, tức là 3 năm sau khi Liên Xô phóng
thành công vệ tinh Sputnik – Không quân Hoa Kỳ mới bắt đầu nghiên cứu và phát
triển các chương trình chống vệ tinh. Họ tập trung vào hai phương pháp tấn công cơ
bản: một là sẽ lắp đặt vệ tinh đánh chặn trên quỹ đạo, trên vệ tinh này có các tên lửa
sẽ được phóng để đánh phá vệ tinh đối phương và, hai là sẽ lắp đặt hệ thống trên
mặt đất sau đó các tên lửa sẽ được phóng đi để tấn công trực tiếp vệ tinh đối
81
phương khi vệ tinh đó đi vào không phận của mình. Nhưng chương trình này của
không quân đã bị hủy bỏ vào năm 1962 [16, tr.160]. Sau đó nó tạm thời được đưa
vào chương trình tên lửa đạn đạo của quân đội. Hệ thống phòng thủ ABM Nike –
Zeus được thử nghiệm trên đảo Kwajalein ở Thái Bình Dương cũng có công dụng
của một hệ thống chống vệ tinh với các tên lửa mang đầu đạn hạt nhân có tầm bắn
vài trăm km. Từ năm 1964 đến năm 1967 một vài hệ thống đánh chặn Nike – Zeus
có công dụng như một hệ thống chống vệ tinh đã được triển khai trên lãnh thổ Hoa
Kỳ. Năm 1964, các tên lửa tầm trung Thor cũng được Hoa Kỳ sử đổi để lắp đặt vào
một hệ thống chống vệ tinh trên đảo Johnston ở Thái Bình Dương [16, tr.160]. Hệ
thống Thor này có quy mô tấn công rộng lớn hơn hệ thống Nike – Zeus. Nhưng
[Hoa Kỳ] nhận thức rằng hệ thống Thor sẽ có khả năng làm gia tăng cuộc chạy đua
vũ trang và khả năng đánh phá các vệ tinh của mình từ hệ thống ASAT của Liên Xô
là rất thấp, nên Hoa Kỳ đã cho dừng và gỡ bỏ hệ thống ASAT được lắp đặt bằng các
tên lửa Thor vào năm 1976.
Năm 1967, Liên Xô cho xây dựng hệ thống ASAT đầu tiên của mình với thiết
kế là các ICBM, mà Liên Xô gọi là SS – 9. Đến năm 1976, Liên Xô tiếp tục cho thử
nghiệm hệ thống ASAT với công nghệ hiện đại hơn, nó cho phép đánh chặn các tên
lửa tấn công vệ tinh Liên Xô của Hoa Kỳ trên quỹ đạo. Nhận thức rằng điều này sẽ
ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh của Hoa Kỳ, trong những ngày cuối cùng của
nhiệm kỳ của mình, Tổng thống G.Ford đã chỉ đạo cho các thành viên Bộ Quốc
phòng bắt đầu nghiên cứu một chương trình ASAT mới với mục đích ngăn chặn các
hệ thống ASAT của Liên Xô.
Lên thay Ford, Tổng thống Carter có một cách tiếp cận mới trong vấn đề xây
dựng hệ thống ASAT. Đó là vừa tìm cách đàm phán để đạt một thỏa thuận với Liên
Xô về hạn chế hệ thống ASAT và đồng thời vừa cho phát triển hệ thống ASAT mới
[6, tr. 161 – 162]. Tín hiệu đàm phán đã nhận được sự phản hồi khá tích cực từ Liên
Xô. Tháng 3.1977 hai nước đã thành lập một nhóm các chuyên gia về kiểm soát vũ
khí để nghiên cứu thiết lập một chương trình nghị sự cho các cuộc đàm phán về
ASAT.
82
Từ năm 1978 – 1979, hai nước đã tổ chức ba vòng đàm phán về ASAT. Vòng
đàm phán sơ bộ đầu tiên diễn ra vào tháng 5.1978 tại Helsinki (Phần Lan), vòng
đàm phán này xác định phạm vi của các thỏa thuận về ASAT có thể có giữa hai
nước. Hai vòng chính thức được tổ chức tại Bern (Thụy Sĩ) từ 23.1 – 16.2.1979 và
tại Vienna (Áo) từ 23.4 – 17.6.1979. Tại các cuộc đàm phán, phía Hoa Kỳ đề nghị
tìm kiếm một hiệp ước mà sẽ cấm các cuộc tấn công vào tất cả các vệ tinh bằng tên
lửa hạt nhân và một lệnh cấm có thời hạn một năm hoặc lâu hơn các thử nghiệm về
ASAT.
Nhưng các quan điểm quá khác nhau trong quá trình đàm phán cùng với
những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế mà các cuộc đàm phán về ASAT
dưới chính quyền Carter chỉ dừng lại ở dự thảo mà không đạt được một hiệp ước cụ
thể. Hai bên bàn thảo liệu một hiệp ước như vậy sẽ chỉ cấm hệ thống ASAT tấn
công các vệ tinh của hai nước thôi, hay cấm tấn công các vệ tinh của tất cả các
nước? Hoa Kỳ đặt biệt quan tâm đến một thỏa thuận bao gồm cả việc cấm tấn công
các vệ tinh của nước thứ ba, mục đích là nhằm bảo vệ các vệ tinh của các đồng
minh ở Tây Âu. Liên Xô thì cho rằng Hiệp ước chỉ có hiệu lực với các vệ tinh của
hai nước thôi [16, tr.162]. Các bên cũng không đồng ý về việc liệu ASAT có thể
được sử dụng trong các hành động tự vệ chống lại các hành vi được xem là thù địch.
Liên Xô cho rằng nên cấm luôn tàu con thoi, vì tàu con thoi có khả năng tiếp cận để
chụp ảnh và can thiệp vào các vệ tinh. Hoa Kỳ phản đối điều đó, vì Hoa Kỳ cho
rằng tàu con thoi không thuộc ASAT và cũng không thuộc loại vũ khí chống vệ tinh
nào cả. Các khác biệt này đã là những khó khăn không dễ vượt qua, do đó sau ba
vòng đàm phán mà không có kết quả gì.
Như đã đề cập ở trên, tổng thống Carter vừa tiến hành đàm phán về ASAT vừa
cho phát triển hệ thống ASAT. Tháng 6.1978, một năm sau khi Hoa Kỳ tuyên bố hệ
thống ASAT của mình đã hoạt động, Tổng thống Carter đã phát biểu tổng kết Chỉ
thị của tổng thống về Chính sách không gian vũ trụ quốc gia, ông nói: “trong lúc
Hoa Kỳ tìm cách thiết lập sự kiểm tra và giới hạn toàn diện hệ thống chống vệ tinh
[thông qua đàm phán], trong trường hợp không đạt được thỏa thuận như vậy, Hoa
83
Kỳ sẽ tiếp tục theo đuổi riêng khả năng phát triển [hệ thống chống vệ tinh] của
mình” [16, tr.162 – 163].
Trong khi các cuộc đàm phán về ASAT chưa có kết quả đáng kể nào, cả Hoa
Kỳ và Liên Xô ra sức hiện đại hóa hệ thống ASAT của mình. Các nổ lực hiện đại
hóa hệ thống ASAT của Liên Xô không đạt được kết quả khả quan, chính vì vậy
trong các cuộc đàm phán về SALT II, Liên Xô muốn đưa vào cuộc đàm phán về
vấn đề vũ khí chống vệ tinh. Nhưng kết quả đạt được chỉ là một thông cáo chung
được ghi nhận trong lễ kí kết SALT II vào tháng 6.1979. Mục đích của thông cáo
chung này là “để tiếp tục tìm kiếm những thỏa thuận, hai bện chấp nhận tiếp tục
đàm phán về hệ thống chống vệ tinh” [16, tr.163]. Khi Liên Xô đưa quân vào
Afganistan tháng 12.1979, Hoa Kỳ đã chủ động ngưng các cuộc đàm phán về
ASAT.
Chính phủ của Tổng thống Ronald Reagan muốn đánh giá lại một cách đầy đủ
về chính sách và mục tiêu kiểm soát vũ khí, sau đó sẽ thúc đẩy nhanh hơn tiến trình
này để đạt những hiệu quả cụ thể. Chương trình kiểm soát vũ khí chống vệ tinh
cũng được xem xét để nhanh chóng nối lại các cuộc đàm phán với Liên Xô. Nhưng
vào tháng 3.1981, việc Liên Xô thực hiện thành công hoạt động kiểm tra toàn bộ hệ
thống chống vệ tinh của họ bằng cách sử dụng thiết bị radar dẫn đường, đã gây ra
những tranh cãi trên các báo của Hoa Kỳ và cả ở chính phủ nữa, điều này làm giới
chức Hoa Kỳ quan ngại sẽ làm cuộc chạy đua vũ trang thêm căng thẳng và làm các
nổ lực nối lại các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí hạt nhân.
Như một cố gắng làm dịu tình hình do tác động của vấn đề trên, chỉ vài tháng
sau, ngày 11.8.1981, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei Gromyko đã đệ trình
lên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc một dự thảo hiệp ước cấm việc triển khai bất kỳ
loại vũ khí nào ngoài không gian vũ trụ. Dự thảo này bao gồm việc cấm triển khai
hệ thống ASAT ngoài không gian nhưng không cấm triển khai nó ở dưới đất và
trong khí quyển (hàm ý không cấm các hệ thống ASAT mà Hoa Kỳ đang phát
triển).
Tuy vậy, đề nghị này của Liên Xô không được Hoa Kỳ hoan nghênh. Sau đó
Hoa Kỳ xây dựng một chương trình hoạt động để phát triển công nghệ tinh vi hơn
84
cho các hệ thống chống vệ tinh. Vào 23.3.1983, Tổng thống Ronald Reagan đã có
một bài phát biểu kêu gọi các nhà khoa học hỗ trợ nghiên cứu công nghệ để phát
triển hệ thống phòng thủ chiến lược dựa trên các tên lửa hạt nhân nhưng không mâu
thuẫn với các quy định của Hiệp ước SALT I. Như vậy Sáng kiến phòng thủ chiến
lược (SDI) của Ronald Reagan chủ trương xây dựng hệ thống phòng thủ dựa trên sự
phát triển của công nghệ mới trong việc nghiên cứu và phát triển hệ thống tên lửa
hạt nhân. Sáng kiến phòng thủ chiến lược không đồng ý với việc cấm một hệ thống
chống vệ tinh. Chủ tịch Liên Xô Yuri Andropov đã ngay lập tức phản ứng, Chủ tịch
Liên Xô cho rằng Hoa Kỳ và Liên Xô đang tiếp cận một thời điểm quan trọng khi
thất bại trong việc cấm vũ khí trong không gian vũ trụ [hàm ý chỉ SDI đã làm thất
bại dự thảo hiệp ước của Gromyko năm 1981] sẽ dẫn đến một sự không tránh khỏi
của sự mở rộng cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân giữa hai nước [16, tr.165].
Như vậy, vấn đề cơ bản dẫn đến các cuộc đàm phán về ASAT giữa Hoa Kỳ và
Liên Xô chưa được nối lại là vì những đề nghị khác nhau của hai bên về hệ thống
ASAT, Liên Xô thì đề nghị chỉ cấm ASAT trên vũ trụ, còn Hoa Kỳ muôn cấm tất cả
việc xây dựng hệ thống ASAT dưới đất, trong khí quyển và ngoài vũ trụ để đảm bảo
an toàn cho các vệ tinh của Hoa Kỳ và các đồng minh NATO của mình. Cuối tháng
8.1983, Chủ tịch Liên Xô Andropov bất ngờ tuyên bố rằng Liên Xô sẵn sàng đàm
phán về cấm tất cả các loại vũ khí chống vệ tinh. Trong một cuộc họp với các
Thượng nghị sĩ của Đảng Dân chủ Hoa Kỳ tại điện Kremlin cũng vào cuối tháng
8.1983, Andropov kêu gọi Hoa Kỳ đàm phán về một lệnh cấm hoàn toàn các thử
nghiệm và triển khai bất kỳ loại vũ khí nào trên vũ trụ để đánh các mục tiêu trên
mặt đất, trong khí quyển và ngoài vũ trụ. Ông còn nói rằng Liên Xô đã sẵn sàng
đồng ý việc ngăn cấm việc thử nghiệm và phát triển của tất cả các hệ thống chống
vệ tinh mới và loại bỏ tất cả các hệ thống chống vệ tinh hiện có. Ngoài các đề xuất
đó, Andropov còn cam kết rằng Liên Xô sẽ không là quốc gia đầu tiên đưa vào vũ
trụ các loại vũ khí chống vệ tinh [16, tr.166]. Ngay sau thông báo này của
Andropov, Bộ trưởng ngoại giao Gromyko, trong một bức thử gởi Tổng thư ký Liện
Hiệp Quốc, công bố một dự thảo hiệp ước mới của Liên Xô về việc cấm lắp đặt vũ
khí trong vũ trụ để tấn công các mục tiêu trong vũ trụ, và từ vũ trụ chống các mục
tiêu dưới mặt đất.
85
Các cuộc đàm phán về hiệp ước này, theo Liên Xô, nên diễn ra trong các thành
viên của Liên Hiệp Quốc thông qua Ủy ban Giải trừ Quân bị. Nhưng Hoa Kỳ phản
đối đề xuất này, theo quan điểm của Hoa Kỳ chỉ nên thành lập một nhóm các
chuyên gia làm việc trên vũ trụ để kiểm tra các vấn đề về vũ khí các nước có trên vũ
trụ hay không, còn các cuộc đàm phán nên thực hiện song phương.
Trong khi các bất đồng chưa được giải quyết, thì ngày 24.1.1984 Hoa Kỳ thực
hiện chuyến bay thử nghiệm đầu tiên của loại máy bay chống vệ tinh F – 15 tại căn
cứ không quân Vandenberg ở California, F – 15 là loại máy bay chiến đấu được
trang bị các tên lửa hạt nhân nổ hai giai đoạn, các tên lửa này được hướng dẫn để
đánh trúng các vệ tinh bởi một hệ thống dẫn đường có các tham số quỹ đạo đã được
xác định bởi các thiết bị cảm biến trên mặt đất.
Liên Xô ngay lập tức thông qua hãng thông tấn Tass, lên tiếng chỉ trích Hoa
Kỳ về việc này, cho rẳng thử nghiệm này của Hoa Kỳ là một thách thức cho việc
Liên Hiệp Quốc ra các nghị quyết về kiểm soát vũ khí trên vũ trụ. Một tháng sau
thử nghiệm này của Hoa Kỳ, trong một buổi điều trần về ngân sách quốc phòng cho
năm tài chính 1985 trước Ủy ban Quân sự của Hạ viện, Thứ trưởng Bộ quốc phòng
Hoa Kỳ Richard DeLauer đã nói rằng các thử nghiệm đầy tham vọng đã được lên kế
hoạch trong năm tới để chứng minh khả năng của hệ thống chống vệ tinh F – 15
[16, tr.167]...và Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) cũng sẽ bao gồm thành phần
chống vệ tinh. Các thử nghiệm F – 15 và các khó khăn của cuộc đàm phán INF đã
làm cho triển vọng nối lại các cuộc đàm phán về ASAT gần như không còn. Vấn đề
này cũng đã tác động đến thái độ của các chính khách Hoa Kỳ muốn vấn đề kiểm
soát vũ khí chống vệ tinh nói riêng và vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân nói chung
có kết quả cụ thể, đặc biệt là ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ cho nhiệm kỳ
tiếp theo, Thượng nghị sĩ Walter Mondale.
Trong tháng 2.1984, ông đề nghị rằng Hoa Kỳ nên bắt đầu một lệnh cấm tạm
thời về việc thử nghiệm hệ thống chống vệ tinh cùng với một lệnh cấm sáu tháng
thử hạt nhân dưới lòng đất để phá vỡ các “rào cản” đang gặp phải trong các cuộc
đàm phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô. Mondale cũng cam kết rằng, nếu ông
đắc cử ông sẽ mạnh dạn thúc đẩy để tiến trình đàm phán về ASAT nhanh chóng có
kết quả, tức là đạt một hiệp ước về ASAT với Liên Xô.
86
Tháng 3.1984, nhà lãnh đạo mới của Liên Xô Konstantin Chernenko đã kêu
gọi thiết lập một cuộc đàm phán về cấm quân sự hóa không gian vũ trụ, trong một
bài trả lời phóng vấn hãng thông tấn Tass, Chernenko tuyên bố rằng Hoa Kỳ có thể
chứng tỏ “thiện chí hòa bình” của mình bằng việc kí kết một thỏa thuận về việc cấm
quân sự hóa không gian vũ trụ. Lời kêu gọi này đã được nhắc lại trong một chuyến
thăm của một Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đến Moscow cũng trong tháng 3.1984. Trong
báo cáo chính thức của mình về ASAT gởi lên quốc hội vào ngày 31.3.1984, Tổng
thống Ronald Reagan đã bác bỏ hoàn toàn đề xuất này của Liên Xô. Bản báo cáo
nói rằng các yếu tố cản trở việc xác định các vũ khí chống vệ tinh là rất lớn và các
biện phán kiểm soát hiệu quả rất khó khăn để xác minh, sự đa dạng của các mối đe
dọa đến vệ tinh của Hoa Kỳ và các đồng minh, và sự đe dọa gây ra bởi các vệ tinh
do thám mục tiêu của Liên Xô sẽ làm yếu sự răn đe vũ khí thông thường và hạt
nhân của Hoa Kỳ. Cả Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ đều tin rằng Liên Xô đã có
một “lợi thế gây mất căng bằng” với vũ khí chống vệ tinh mà họ đang có, và do vậy
họ từ chối đàm phám về một lệnh cấm toàn diện lắp đặt vũ khí trong không gian vũ
trụ. Đáp lại bản báo cáo của Reagan, nhà lãnh đạo Liên Xô Chernenko, trong một
bài phỏng vấn đăng trên tờ Pravda ngày 9.5.1984 rằng: “thẳng thừng và thẳng thắn,
họ [Hoa Kỳ] không muốn đạt được một thỏa thuận. Nhưng [họ] còn đi xa hơn như
thể để thực hiện một sự nhạo báng ý thức hệ, họ bày tỏ sự sẵn sàn để nói chuyện với
chúng tôi với một mục đích duy nhất là vấn đề này là không thể...” [Dẫn lại theo 16,
tr.168]. Một lần nữa, ứng viên đảng Dân chủ Mondale đã lên tiếng chỉ trích chính
sách của chính quyền Reagan về không gian vũ trụ. Đồng thời ông cũng đề xuất
một kế hoạch tạm thời gồm năm điểm để ngưng việc thử nghiệm hệ thống ASAT và
tiến hành đàm phán với Liên Xô về vấn đề này, đề xuất còn bao gồm sự tái khẳng
định cam kết của Hoa Kỳ về các điều khoản của Hiệp ước ABM năm 1972.
Trong khi đó, một số nước thành viên của NATO cũng bày tỏ hoài nghi và
quan ngại về các kế hoạch quân sự trên không gian vũ trụ của Hoa Kỳ và kêu gọi
Hoa Kỳ nên cùng với Liên Xô tiến hành đàm phán để ngăn chặn một cuộc chạy đua
cũ trang trên không gian vũ trụ. Cuối cùng chính phủ Hoa Kỳ cũng chấp nhận ngồi
vào bàn đàm phán về vũ khí chống vệ tinh nhưng sẽ không đàm phán những nội
87
dung mà Hoa Kỳ cho rằng không có cơ hội để xác minh. Ngày 12.7.1984, Quốc hội
Hoa Kỳ họp để sửa đổi ngân sách quốc phòng cho năm tài chính 1985 theo hướng
cắt giảm bớt, tổng thống Reagan cũng phát biểu rằng Hoa Kỳ vẫn còn để ngõ một
cơ hội đàm phán vế hệ thống ASAT với Liên Xô và đề xuất các quy định để xem
xét đạt được một thỏa thuận về vũ khí chống vệ tinh: giới hạn mỗi quốc gia có một
loại máy bay đánh chặn vệ tinh; cấm các hệ thống ASAT tiêu diệt các vệ tinh ở trên
vũ trụ; các biện pháp xây dựng lòng tin lẫn nhau về trao đổi thông tin về các loại vũ
khí trong không gian; và một thỏa thuận rằng cả hai nước đều đồng ý không can
thiệp vào vệ tinh của bên kia. Sau cuộc họp của Tổng thống Reagan, Đại sứ Liên
Xô Anatoli Dobrynin ngày 29.6.1984 đã đề xuất với Ngoại trưởng Hoa Kỳ George
Shultz một cuộc đàm phán về không gian vũ trụ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô nên xúc
tiến sớm và đĩa điểm là thành phố Viena của Áo.
Tổng thống Reagan đồng ý đàm phán về hệ thống ASAT mà chưa muốn đề
cập đến vấn đề cấm quân sự hóa không gian vũ trụ. Ông còn tuyên bố rằng Hoa Kỳ
sẽ cũng nối lại các cuộc đàm phán về INF với Liên Xô. Liên Xô coi đề xuất đàm
phán của Hoa Kỳ là không đạt yêu cầu, và kiên quyết đàm phán cả về cấm quân sự
hóa không gian vũ trụ. Thời điểm tháng 9.1984, hai bên đều có những động thái
trao đổi các biên bản ghi nhớ để đi đến một sự đồng thuận nhanh chóng mở các
cuộc đàm phán về hệ thống ASAT và về cấm quân sự hóa không gian vũ trụ. Nhưng
đây cũng là thời gian các ứng cử viên tổng thống đang tiến hành các cuộc vận động
tranh cử nên Reagan đề nghị đàm phán chỉ nên bắt đầu từ sau bầu cử, ông không
muốn vấn đề này trở thành cuộc tranh luận của ứng viên đối thủ nhằm công kích và
hạ mức tín nhiệm mà cử tri giành cho ông. Sau đó các cuộc đàm phán đã không hề
được diễn ra, các bên đều chấp nhận một lệnh cấm đơn phương về hệ thống ASAT
và về hạn chế quân sự hóa vũ trụ.
3.3. Hiệp ước Hủy bỏ vũ khí hạt nhân tầm trung và tầm ngắn năm 1987 (INF -
Intermediate-Range and Shorter-Range Nuclear Forces Treaty)
Các cuộc đàm phán về lực lượng hạt nhân tầm trung (INF) giữa Hoa Kỳ và
Liên Xô bắt đầu tại Geneva, Thụy Sĩ, ngày 30.11.1981. Nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cuộc đàm phán là do quan hệ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô vào những
88
năm đầu thập niên 1980 khi NATO cho triển khai 572 tên lửa tầm trung của Hoa Kỳ
tại châu Âu vào tháng 12 năm 1979 để đáp trả việc Liên Xô triển khai tên lửa tầm
trung thế hệ mới SS – 20 và máy bay ném bom và phóng tên lửa hành trình chiến
lược Backfire ở phần lãnh thổ châu Âu của mình trước đó. Ý thức rằng những hành
động như vậy sẽ làm gia tăng tình hình căng thẳng trong quan hệ quốc tế và nguy cơ
diễn ra một cuộc chiến tranh hạt nhân nên hai nước đã ngồi vào bàn đàm phán về
INF. Nhưng nguyên nhân sâu xa đó là vào thời điểm năm 1981, số lượng vũ khí hạt
nhân tầm trung trong kho vũ khí hạt nhân của hai nước đã đạt con số khổng lồ. Điều
này khiến hai nước muốn nhanh chóng đàm phán để cắt giảm nó, làm giảm nguy cơ
của cuộc chiến tranh hạt nhân và xoa dịu tình hình căng thẳng trong quan hệ quốc tế.
Bảng 2.1. Số lượng vũ khí hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ (kể cả đã cung
cấp cho các nước Tây Âu) và Liên Xô theo quan điểm cân bằng của hai nước.
Cách tính của Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Missiles 0 F-111 fighter-bombers 164 F-4s 265 A-6s and A-7s 68 FB-111s(in U.S. for use in Europe) 63
Hoa Kỳ Liên Xô SS-20 missiles 250 SS-4s and SS-5s 350 SS-12s and SS-22s 100 SS-N-5s 30 TU-26 Backfire bombers 45 TU-16 Badgers and TU-223 50 Blinders SU-17,SU-24, and MIG 272 700 Fighter bombers 1.525 Liên Xô
Land-based missiles (SS-20s, SS-4s, SS-5s) 496 Submarine missiles (SS-N-5s) 18 Medium-range bombers 461 (Backfires, Badgers, Blinders)
Total: 560 Cách tính của Liên Xô Fighter-bombers 555 (F-111s, F-4s,A-6s, A-7s, FB-111s) Pershing IA missiles (in Bristish) 108 Polaris missiles 64 Vulcan bombers 56 Land-based intermediate-range 18 ballistic missiles Submarine missiles 80 Mirage 4 bombers 33 Pershing IA missiles (In West German) 72 Total: 986 975
Nguồn: [Dẫn lại theo 6, tr.125]
89
Như vậy, dù là cách tính của Hoa Kỳ hay Liên Xô thì ta đều thấy số lượng vũ
khí hạt nhân tầm trung của hai nước đều ở mức cao.
Kế hoạch phát triển vũ khí tầm trung của Hoa Kỳ và Liên Xô năm trong kế
hoạch phát triển vũ khí hạt nhân của cả hai nước. Đối với Hoa Kỳ, vũ khí hạt nhân
tầm trung sẽ góp phần vào sự ổn định chiến lược giữa hai siêu cường và sẽ giúp bảo
vệ các đồng minh NATO ở châu Âu của mình. Do đó, vào cuối thập niên 1940, vũ
khí hạt nhân (chủ yếu là vũ khí hạt nhân tầm trung) đã được Hoa Kỳ tài trợ và các
nước NATO cài đặt trên lãnh thổ Tây Âu để nhằm chặn một cuộc tấn công phát
xuất từ Liên Xô. Sự phụ thuộc của NATO vào việc phát triển một chiến lược răn đe
hạt nhân nhằm để thay thế cho chi phí cao và nhân lực nhiều trong việc duy trì một
lực lượng quân sự quy ước. Lợi dụng ưu thế hạt nhân của Hoa Kỳ, chiến lược của
NATO là còn dựa trên các mối răn đe trả đũa hạt nhân hủy diệt của Hoa Kỳ để ngăn
chặn một cuộc tấn công từ Liên Xô vào các nước Tây Âu. Các loại vũ khí hạt nhân
đầu tiên của Hoa Kỳ cài đặt ở châu Âu là các tên lửa trên máy bay ném bom chiến
lược được bố trí ở Anh. Trong đầu những năm 1950, Hoa Kỳ triển khai vũ khí hạt
nhân chiến thuật ở châu Âu, mục đích là chống lại sự tinh nhuệ của lực lượng quy
ước Liên Xô [16, tr.108]. Cũng trong đầu những năm 1950, Liên Xô bắt đầu phát
triển vũ khí hạt nhân tầm trung của mình để bảo vệ an ninh cho chính họ, và vào
cuối thập kỷ này Liên Xô cũng đã cài đặt các tên lửa tầm trung SS – 4 và SS – 5 với
tầm bắn tương ứng là 2000 km và 4000 km ở phần lãnh thổ châu Âu của mình. Đến
giữa những năm 1960, có khoảng 600 SS – 4 và 100 SS – 5 đã được Liên Xô triển
khai. Nhận thức rằng Liên Xô đang giữ ưu thế về ICBM và để đáp trả với việc Liên
Xô cho triển khai số lượng lớn tên lửa tầm trung SS – 4 và SS – 5, Hoa Kỳ đã cho
triển khai tên lửa Thor và Jupiter vào năm 1959 có tầm bắn 2.500 km ở châu Âu,
cũng là để trấn an các đồng minh châu Âu của mình rằng Hoa Kỳ sẵn sàng bảo vệ
các đồng minh. Tuy nhiên các tên lửa này đã được tháo dỡ để giải quyết vụ khủng
hoảng tên lửa ở Cuba năm 1962. Chính việc làm này đã làm cho các nước NATO
nổi lên các cuộc tranh luận về tương lai của liên minh chiến lược với Hoa Kỳ. Họ
thấy rằng, Hoa Kỳ sẵn sàng đánh đổi để đạt được mối quan hệ tốt hơn với Liên Xô
[16, tr.108]. Còn Hoa Kỳ thì muốn đặt sự phòng thủ châu Âu vào lực lượng quy ước
90
nhiều hơn là lực lượng hạt nhân, các đồng minh châu Âu thì cho rằng việc xây dựng
hệ thống phòng thủ bằng vũ khí quy ước là quá tốn kém và sẽ trở thành gánh nặng
tài chính cho ngân sách quốc gia của họ. Tổng thống Pháp Chales de Gaulle là một
trong những người chỉ trích gây gắt lập trường này của Hoa Kỳ, ông tin rằng một sự
thay đổi lực lượng hạt nhân tầm trung bằng lực lượng quy ước trong kế hoạch
phòng thủ châu Âu như vậy sẽ chỉ làm xói mòn niềm tin vào chiến lược răn đe hạt
nhân của Hoa Kỳ và nghi ngờ rằng Hoa Kỳ sẵn sàng hy sinh Paris [16, tr.109].
Cuộc tranh luận lên đến đỉnh điểm khi Pháp quyết định rút khỏi Ủy ban Quốc
phòng của NATO năm 1967.
Các chính trị gia ở châu Âu nói rằng Hoa Kỳ đang tiến hành chính sách “phản
ứng linh hoạt” ở Châu Âu, và chính sách này thực tế là một sự thỏa hiệp với Liên
Xô. Họ lo ngại một cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu và hủy diệt nhắm vào họ phát
xuất từ Liên Xô và các nước khác trong khối Warsaw. Để trấn an, chính phủ Hoa
Kỳ cam kết rằng sẽ trợ giúp phòng thủ châu Âu bằng lực lượng hạt nhân tầm xa và
có thể là tên lửa hạt nhân liên lục địa. Và Hoa Kỳ cam kết 400 đầu đạn hạt nhân trên
tên lửa đạn đạo Poseidon đã được lắp đặt trên tàu ngầm hoạt động ở khu vực Đại
Tây dương gần với châu Âu để bảo vệ các đồng minh này.
Việc Anh, Pháp và Trung Quốc cũng đang phát triển lực lượng hạt nhân của
mình nửa đầu thập kỷ 60 đã khiến Liên Xô lo lắng. Tuy Hoa Kỳ đã dỡ bỏ các tên
lửa tầm trung ở châu Âu, nhưng hệ thống vũ khí hạt nhân trên các căn cứ chuyển
tiếp (FBS) đang bảo vệ châu Âu và việc Anh, Pháp cũng sỡ hữu vũ khí hạt nhân đã
làm Liên Xô lo lắng về an ninh lãnh thổ ở phần phí tây của mình, bên cạnh đó và
những năm đầu thập kỷ 1960 mối quan hệ Xô – Trung xấu đi nhanh chóng cùng với
việc Trung Quốc cũng đã sở hữu vũ khí hạt nhân khiến Liên Xô chú ý đến việc triển
khai thêm hệ thống tên lửa phòng thủ ở phần lãnh thổ phía đông của minh. Điều này
đã thúc đẩy Liên Xô tiến hành hiện đại hóa các tên lửa SS – 4 và SS – 5 ở lãnh thổ
châu Âu của mình và cài đặt tên lửa SS – 11 ở cả châu Âu và Viễn Đông.
Vấn đề hiện đại hóa và tăng cường lực lượng hạt nhân tầm trung được cả hai
bên đẩy mạnh hơn khi các đề nghị về cắt giảm nó của Liên Xô trong các cuộc đàm
phán về SALT I thất bại. Trong các cuộc đàm phán về SALT I, Liên Xô cho rằng
91
các loại vũ khí như máy bay ném bom tầm trung và tên lửa Poseidon được Hoa Kỳ
bố trí trên các tàu ngầm neo đậu gần lãnh thổ châu Âu nên được đưa vào danh sách
các vũ khí hạt nhân tấn công chiến lược vả phải được cắt giảm. Hoa Kỳ phản đối vì
nó không phải là hệ thống tên lửa liên lục địa.
Năm 1974, Liên Xô bắt đầu cho triển khai loại máy bay ném bom Bachfire. Sự
phát triển loại máy bay này, ở thời điểm mà Liên Xô đã đạt được thế cân bằng về vũ
khí hạt nhân với Hoa Kỳ, đã làm các nước NATO lo ngại về sự mất cân bằng ở
châu Âu và nghi ngờ về chiến lược răn đe hạt nhân của Hoa Kỳ. Sự nghi ngờ và lo
ngại càng tăng lên khi Liên Xô thay thế các tên lửa tầm trung SS – 4, SS – 5 bằng
tên lửa SS – 20 có tầm bắn 4000km, SS – 20 là một loại MIRV của Liên Xô. Liên
Xô đã cho cài đặt SS – 20 trên khắp lãnh thổ của mình từ Âu sang Á. Thủ tướng
Cộng hòa Liên bang Đức Helmut Schmidt là nhà lãnh đạo châu Âu đầu tiên công
khai lên án các mối đe dọa từ việc Liên Xô triển khai tên lửa SS – 20 và ông kêu gọi
NATO tằng cường thêm lực lượng hạt nhân tầm trung của mình.
Ngày 12.12.1979, các nước NATO nhất trí triển khai 464 tên lửa hành trình
phóng từ mặt đất (GLCM) và 108 tên lửa đạn đạo Pershing II. Pershing II là tên lửa
đạn đạo tầm trung có độ chính xác cao với tầm bắn 1.800 km, cao hơn tên lửa
Pershing IA chỉ có tầm bắn 700 km. Pershing II có thể tấn công các mục tiêu của
Liên Xô ở phần lãnh thổ châu Âu chỉ trong vòng khoảng 10 phút. Các tên lửa
GLCM cũng có độ chính xác cao với tầm bắn 2.500 km, cho phép tấn công các mục
tiêu sâu hơn trong lãnh thổ Liên Xô. Song song với tiến trình triển khai các tên lửa
tầm trung thế hệ mới (Pershing II và GLCM), NATO còn quyết định triệt thoái
khoảng 1000 đầu đạn của các loại vũ khí chiến thuật tầm ngắn. Đồng thời NATO hi
vọng việc triển khai các vũ khí hạt nhân tầm trung thế hệ mới sẽ thúc đẩy Liên Xô
ngồi vào bàn đàm phán với NATO để kiểm soát vũ khí hạt nhân tầm trung. Nhưng
Liên Xô chỉ muốn đàm phán về kiểm soát INF với Hoa Kỳ, Liên Xô biết rằng các
tên lửa thế hệ mới mà NATO đã triển khai phần lớn là của Hoa Kỳ.
Tháng 10.1979, Tổng bí thư Brezhnev công bố một loạt các sáng kiến kiểm
soát vũ khí, trong đó có cả việc Liên Xô sẽ hạn chế triển khai tên lửa SS – 20 nếu
NATO trì hoãn quyết định triển khai hệ thống tên lửa mới. Các tín hiệu này đã
92
không được Hoa Kỳ và các nước NATO đón nhận, đặc biệt khi Liên Xô đưa quân
vào Afganistan cuối 1979 thì tình hình lại càng xấu hơn.
Đến tháng 7.1980, Tổng bí thư Brezhnev bất ngờ loan báo rằng đã sẵn sàng
đàm phán bất cứ lúc nào vế INF. Hoa Kỳ cũng ngay lập tức chấp thuận. Các cuộc
đàm phán sơ bộ về INF bắt đầu vào giữa tháng 10.1980. Quan điểm của Hoa Kỳ,
cũng phản ánh quan điểm của NATO là thiết lập một trần quân bình cho các tên lửa
chiến thuật tầm trung của cả hai bên, nó gồm các tên lửa GLCM và Pershing II của
Hoa Kỳ, SS – 4, SS – 5 cũ, và SS – 20 của Liên Xô. Còn quan điểm của Liên Xô là
đóng băng ngay lập tức các loại tên lửa tầm trung mới được triển khai, trong đó có
máy bay ném bom F – 111 được bố trí ở Anh và các tàu sân bay ngoài Đại Tây
dương gần lãnh thổ châu Âu, kể cả việc đóng băng vũ kí hạt nhân chiến lược của
Anh và Pháp.
Các cuộc đàm phán sơ bộ bị ngưng trệ khi Hoa Kỳ bước vào kỳ bầu cử Tổng
thống vào tháng 10.1980. Khi Reagan lên thay Carter đứng đầu Nhà Trắng, ở giai
đoạn đầu, cũng là lúc phong trào phản đối vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ cài đặt ở
châu Âu của người dân châu Âu và của người dân Hoa Kỳ tăng cao và yêu cầu
chính phủ nhanh chóng thúc đẩy các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân đi
đến những kết quả cụ thể, ông đưa ra những mục tiêu chiến lược linh hoạt cho giải
quyến những bất đồng nhưng vẫn giữ nguyên quan điểm cứng rắn về vấn đề kiểm
soát vũ khí hạt nhân dưới thời Carter (chỉ thị PD 59).
Trong một động thái được xem là đầy thiện chí, có thể tác động để vị tổng
thống mới của Hoa Kỳ có thể thay đổi quan điểm về kiểm soát vũ khí hạt nhân,
Tổng bí thư Brezhnev vào cuối tháng 2.1981 trong Đại hội XXVI Đảng Cộng sản
Liên Xô, kêu gọi Hoa Kỳ cùng với Liên Xô tham gia đàm phán về các lực lượng hạt
nhân tầm trung đang được triển khai ở Tây Âu và vùng lãnh thổ châu Âu của Liên
Xô [16, tr.112]. Brezhnev nói: “Lệnh cấm này có thể có hiệu lực lập tức ngay sau
khi các cuộc đàm phán diễn ra và sẽ có hiệu lức vĩnh viễn khi hiệp ước được kí
kết...” [Dẫn lại theo 16, tr.112]. Tín hiệu này nhận được phản ứng tích cực từ Hoa
Kỳ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Alexader Haig và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô
93
Andrei Gromyko trong một cuộc gặp gỡ ngày 24.9.1981 đã loan báo rằng Hoa Kỳ
và Liên Xô bắt đầu đàm phán về INF ngày 30.11.1981 tại Geneva (Thụy Sĩ).
Tuy nhiên, các bất đồng lại nảy sinh ngay trong phiên đàm phán đầu tiên.
Brezhnev cho rằng cả Liên Xô và Tây Âu đã đạt đến một sự cân bằng khoảng 1000
vũ khí hạt nhân tầm trung các loại. Nhưng Tổng thống Reagan lại cho rằng Liên Xô
đang áp đảo về số vũ khí loại này. Sau đó ông trình bày một dự thảo cho các cuộc
đàm phán đang diễn ra. Theo dự thảo này Reagan đề nghị Hoa Kỳ sẵn sàng dỡ bỏ
các tên lửa Pershing II nếu Liên Xô dỡ bỏ tất cả các tên lửa SS – 4, SS – 5 và SS –
20. Cũng tại vòng đàm phán đầu tiên này, Brezhnev đề nghị giảm 2/3 số lượng vũ
khí hạt nhân tầm trung của NATO và hệ thống hạt nhân của Liên Xô. Như vậy sẽ
cắt giảm 600 trong tổng số 1000 vũ khí hạt nhân tầm trung mà mỗi bên có theo cách
tính của Liên Xô.
Brezhnev sau đó còn kêu gọi Hoa Kỳ, NATO và Liên Xô cùng loại bỏ hết vũ
khí hạt nhân chiến thuật tầm ngắn và tầm trung, trong đó có cả Anh và Pháp.
Brezhnev còn tuyến bố nếu Hoa Kỳ không đồng ý thì Liên Xô vẫn chủ động cắt
giảm vũ khí tầm trung của mình. Ngay lập tức, Tổng thống Reagan đã bác bỏ kế
hoạch này của Liên Xô và thông báo rằng Hoa Kỳ đã trình bày dự thảo về vấn đề
cắt giảm vũ khí hạt nhân tầm trung và muốn Liên Xô xem xét các đề nghị trong dự
thảo một cách nghiêm túc. Thông qua hãng thông tấn Tass, Liên Xô gọi dự thảo của
Reagan là vô lí. Vấn đề gây tranh cãi còn ở chỗ Liên Xô đề nghị cắt giảm tên lửa
hạt nhân ở châu Âu tính từ phía tây dãy Ural theo từng giai đoạn để đến năm 1990
các bên chỉ còn khoảng 300 vũ khí hạt nhân tầm trung. Hoa Kỳ xem đề xuất này là
không thể chấp nhận được vì nó không ngăn chặn nhiều tên lửa SS – 20 ở phần lãnh
thổ chấu Âu, trong khi sẽ cho phép triển khai không hạn chế SS – 20 ở châu Á
(phần lãnh thổ phía đông dãy Ural).
Như vậy, đến cuối vòng đàm phán thứ nhất tại Geneva, quan điểm của hai bên
là rất khác nhau: Hoa Kỳ tìm cách loại bỏ tất cả các tên lửa hạt nhân tầm trung trong
khi Liên Xô tìm cách ngăn chặn Hoa Kỳ triển khai tên lửa tầm trung ở châu Âu
nhưng không sẵn sàng từ bỏ tất cả tên lửa tầm trung của mình; Hoa Kỳ tìm cách hạn
chế vũ khí hạt nhân tầm trung của Hoa Kỳ và Liên Xô trong khi Liên Xô tìm cách
94
hạn chế lực lượng tầm trung của cả Anh và Pháp; Hoa Kỳ tìm cách giới hạn trên
toàn thế giới tên lửa tầm trung trong khi Liên Xô tìm cách chỉ giới hạn ở châu Âu
và Hoa Kỳ tìm cách chỉ hạn chế tên lửa tầm trung còn Liên Xô muốn hạn chế bao
gồm cả máy bay ném bom và phóng tên lửa hạt nhân [16, tr.114]. Sự khác biệt còn
ở chỗ Hoa Kỳ muốn có một hiệp ước vĩnh viễn còn Liên Xô chỉ muốn hiệp ước có
thời hạn đến năm 1990 sau đó sẽ gia hạn nếu thấy cần thiết.
Như một động thái để tháo gỡ các bế tắt đang gặp phải và để tỏ thiện chí của
Liên Xô, vào tháng 3.1982, Tổng Bí thư Brezhnev đã tuyên bố đơn phương đóng
băng các tên lửa SS – 20 mới trong phần lãnh thổ châu Âu của mình và tuyên bố
rằng một số tên lửa cũng sẽ được tháo gỡ trong năm 1982. Nhà Trắng và NATO
không hoan nghênh động thái này của Brezhnev vì cho rằng các tên lửa SS – 20 cài
đặt ở phía Đông dãy Ural cũng có thể bắn tới các mục tiêu ở Tây Âu.
Vòng đàm phán thứ hai diễn ra từ ngày 2.5 đến ngày 20.7.1982, Liên Xô đã có
một số thay đổi nhỏ và cuộc đàm phán đạt chút ít tiến bộ. Song song với các cuộc
đàm phán chính thức, hai bên cũng xúc tiến các cuộc gặp bí mật. Cuộc gặp gỡ giữa
hai vị trưởng đoàn đàm phán là Paul Nitze và Yuri Kvitsinsky trong một cuộc đi bộ
trong rừng vào tháng 7.1982 đã đưa ra một công thức cho cuộc đàm phán chính
thức với những quy định sau: Hoa Kỳ và Liên Xô đồng ý duy trì 225 tên lửa tầm
trung và máy bay ném bom ở châu Âu (bao gồm sườn phía đông của dãy Ural); giới
hạn mỗi bên có 70 bệ phóng tên lửa tầm trung ở châu Âu (bao gồm những bệ phóng
SS – 20 trên sườn phía đông của dãy Ural tại Veknyaya mà có thể phóng tới châu
Âu); Hoa Kỳ chỉ được phép duy trì tên lửa GLCM, Liên Xô được giới hạn 90 tên
lửa tầm trung ở vùng lãnh thổ châu Á; mỗi tên lửa đạn đạo của Liên Xô không được
có quá 3 đầu đạn hạt nhân, mỗi bệ phóng GLCM của Hoa Kỳ không được quá 4 tên
lửa, mỗi tên lửa chỉ mang một đầu đạn hạt nhân; các tên lửa tầm trung cũ sẽ bị phá
hủy; hạn chế số máy bay F – 111, FB – 111 của Hoa Kỳ, Backfire, Badger và
Blinder của Liên Xô; giới hạn các tên lửa tầm ngắn [16, tr.114 – 115]. Nhưng
những thỏa thuận này không nhận được sự ủng hộ từ Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Các
chủ nhân của tòa nhà Pentagon không đồng ý với thỏa thuận này, Tổng thống
95
Reagan cũng thấy không thể thực hiện theo những quy định đó vì an ninh và lợi ích
cốt lõi của Hoa Kỳ [16, tr.115].
Sự mất lòng tin tăng lên cùng với đó là mối quan hệ giữa hai siêu cường ngày
càng xấu đi khi Hoa Kỳ nói rằng đã thu được bằng chứng cho thấy Liên Xô đang
cho triển khai tên lửa SS – 20 mới ở sườn phía đông của dãy Ural. Liên Xô phản đối
các cáo buộc này của Hoa Kỳ.
Khi Yuri Andropov lên thay Brezhnev, Brezhnev đột ngột qua đời, thì tiến
trình đàm phán về INF đã có những tia sáng mới. Andropov đưa ra đề xuất Liên Xô
sẽ cắt giảm 160 tên lửa SS – 20 đã bố trí ở châu Âu, số này bằng số tên lửa GLCM
và Pershing II của châu Âu và Pháp, đổi lại Hoa Kỳ phải cam kết không triển khai
mới khoảng 572 tên lửa GLCM và Pershing II. Ông cũng nói thêm rằng cần có một
hiệp ước cắt giảm đến mức tương đương tên lửa tầm trung và máy bay ném bom
của cả hai bên đang cài đặt ở châu Âu. Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Andrei
Gromyko còn cam kết phá dỡ hoặc gỡ bỏ các tên lửa tầm ngắn hơn các tên lửa SS –
20, SS – 21, SS – 22, SS – 23 hoặc có thể di chuyên nó tới cài đặt ở vùng Siberia,
nơi Liên Xô cho rằng sẽ không bắn tới các mục tiêu ở châu Âu. Tuy nhiên thiện chí
này của Liên Xô cũng không được Hoa Kỳ và NATO đón nhận với một thái độ tích
cực nhất.
Sự nghi ngại lẫn nhau cùng với những diễn biến phức tạp trong năm 1983 đã
làm gia tăng căng thẳng mối quan hệ giữa hai siêu cường nói riêng và hai khối nước
nói chung. Ngày 1.9.1983, chiếc máy bay phản lực Jet SU – 15 của Liên Xô đã bắn
rơi một máy bay dân dụng của Hàn Quốc trên đường bay từ Alaska đến Seoul. Tất
cả 269 người gồm hành khách cùng thành viên phi hành đoàn đều thiệt mạng, trong
đó có 61 công dân Hoa Kỳ. Chính phủ Reagan ngay lập tức chỉ trích đó là hành
động man rợ, nhưng các xác minh sau đó của CIA và Liên Xô cho thấy đây là một
sự nhầm lẫn nhưng cũng đã dấy lên mối lo ngại về mối nguy có thể bấm nhầm nút
vào vũ khí hạt nhân và hậu quả sẽ vô cùng thảm khốc. Một sự kiện khác tác động
đến sự căng thẳng trong vấn đề vũ khí hạt nhân giữa hai khối nước là vào tháng
11.1983, NATO tiến hành một cuộc diễn tập quân sự lớn ở châu Âu được gọi tên là
Able Archer. Moscow đã hiểu nhầm rằng đó báo hiệu bước đi đầu tiên trong cuộc
96
tấn công chống lại họ và Liên Xô đã chuẩn bị lực lượng hạt nhân để sẵn sàng đáp
trả. Mặc dù không có một cuộc chiến tranh hạt nhân nào diễn ra nhưng Tổng thống
Reagan vẫn cho rằng đó như là một cuộc chiến tranh hạt nhân suýt diễn ra “a
nuclear near miss”. Ông cho rằng sự kiện này khiến thế giới đứng bên bờ vực của
một cuộc chiến tranh hạt nhân [3, tr.109].
Tổng thống Reagan luôn bị ám ảnh bởi một cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ hủy
diệt toàn thế giới, cùng với những sự kiện diễn ra trong năm 1983 đã làm thay đổi
suy nghĩ của tổng thống, ông đã đưa ra chính sách hòa dịu hơn đối với Moscow,
ông cực lực phản đối MAD và mong muốn đạt được kết quả trong các cuộc đàm
phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân với Liên Xô.
Ngày 16.1.1984 Tổng thống Reagan đã có bài phát biểu về quan hệ Hoa Kỳ -
Liên Xô thể hiện sự thay đổi chiến lược trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.
Trong bài phát biểu này Hoa Kỳ không đề cập Liên Xô là đối thủ của Hoa Kỳ...
Ông nhấn mạnh về những điểm chung của hai cường quốc như là khát vọng hòa
bình, mối quan tâm đến đói nghèo, bệnh tật...Ông không còn nhắc đến chủ nghĩa
bành trướng và sức mạnh quân sự của Liên Xô là mối đe dọa đối với Hoa Kỳ nữa.
Ông nhấn mạnh đến hiểm họa của chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hạt nhân. Ông
thể hiện Hoa Kỳ muốn thấu hiểu và hợp tác với Liên Xô để cùng vượt qua những
khó khăn và nắm bắt các cơ hội hòa bình và cùng nhau giải quyết các vấn đề quốc
tế. Bài phát biểu này của Reagan đánh dấu sự thay đổi cuối cùng trong chính sách
chiến lược của Hoa Kỳ đối với Liên Xô. Chính sách này được thể hiện trong hội
nghị thượng đỉnh Geneva năm 1985, Hội nghị này được đánh giá là sự bắt đầu của
quá trình kết thúc chiến tranh Lạnh [3, tr.103 – 104]. Sau đó Reagan xúc tiến quá
trình cắt giảm vũ khí hạt nhân, ông kêu gọi trong một cuộc họp báo ngày
14.12.1983 rằng “chúng ta cần cấm vũ khí hạt nhân trên khắp thế giới này” [Dẫn
lại theo 3, tr.115]. Quyết định điều chỉnh chính sách đối ngoại của Reagan đối với
Liên Xô và đối với vấn đề giải trừ quân bị khiến cho các cuộc đàm phán về cắt giảm
vũ khí hạt nhân có triển vọng hơn.
Ngày 6.8.1985, Liên Xô tuyên bố đơn phương chấm dứt thử vũ khí hạt nhân
và kêu gọi Hoa Kỳ cùng cam kết chấm dứt các cuộc thử hạt nhân. Từ ngày 19 –
97
22.11.1985 đã diễn ra cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa Tổng thống Reagan và Tổng bí
thư Gorbachev tại Geneva để thảo luận về các vấn đề cơ bản trong quan hệ Hoa Kỳ
- Liên Xô và tình hình quốc tế. Hai bên nhất trí về sự cần thiết phải cải thiện quan
hệ song phương cũng như giảm căng thẳng trong các vấn đề quốc tế, góp phần làm
giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân, ngăn chặn chạy đua vũ trang trong vũ trụ và
cùng cam kết chấm dứt các cuộc chạy đua vũ trang trên mặt đất. Cuộc gặp gỡ này
đã tạo tiền đề cho sự giảm bớt căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước và thúc đẩy
các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân.
Ngày 15.1.1986, Tổng bí thư Gorbachev ra tuyên bố về chương trình xây dựng
một thế giới không vũ khí hạt nhân và đưa ra kế hoạch cắt giảm vũ khí hạt nhân
gồm ba giai đoạn. Giai đoạn I, trong vòng từ 5 đến 8 năm, Liên Xô và Hoa Kỳ sẽ
giảm 50% vũ khí hạt nhân có thể uy hiếp lẫn nhau, cùng cam kết không chế tạo, thử
nghiệm và triển khai vũ khí tiến công trên vũ trụ. Cũng trong giai đoạn này, hai bên
phải thủ tiêu hoàn toàn tên lửa tầm trung của họ ở khu vực châu Âu. Giai đoạn II, từ
đầu năm 1990, những nước khác có vũ khí hạt nhân bắt đầu tham gia vào quá trình
giải trừ vũ khí hạt nhân. Tất cả các nước có vũ khí hạt nhân sẽ phải chấm dứt các
cuộc thử nghiệm loại vũ khí hủy diệt này. Giai đoạn II, sẽ bắt đầu từ năm 1995,
hoàn thành việc thủ tiêu tất cả các loại vũ khí hạt nhân còn lại. Đến cuối năm 1999
vũ khí hạt nhân không còn tồn tại trên trái đất nữa. Đặc biệt sau thảm họa hạt nhân
Chernobyl năm 1986, Liên Xô đơn phương quyết định chấm dứt triển khai thêm các
loại tên lửa tầm trung và ngừng các cuộc thử hạt nhân [3, tr.115 – 116].
Sau một quá trình đàm phán khó khăn, cuối cùng Hiệp ước INF đã được Hoa
Kỳ và Liên Xô kí kết ngày 8.12.1987. Bản Hiệp ước gồm 17 điều khoản kèm theo
một bản ghi nhớ về các số liệu vũ khí được nhất trí hủy bỏ và hai nghị định thư về
cơ chế giám sát thực hiện bản hiệp ước. Trong lời nói đầu của bản hiệp ước, Hoa
Kỳ và Liên Xô cùng nhất trí rằng việc kí kết Hiệp ước INF là nhằm “củng cố sự ổn
định chiến lược, củng cố hòa bình và an ninh quốc tế, và giảm nguy cơ của một
cuộc chiến tranh hạt nhân” và khẳng định Hiệp ước INF phù hợp với Điều VI của
Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, tức là chấm dứt chạy đua vũ trang và giải
trừ quân bị. Nội dung chính của Hiệp ước INF quy định: 1. Hai bên sẽ loại bỏ tất cả
98
tên lửa tầm trung và tầm ngắn. Liên Xô sẽ hủy bỏ 331 tên lửa SS – 12, 11 tên lửa
SS – 4 bố trí trên phần lãnh thổ châu Âu của Liên Xô và một phần ở châu Á và hủy
bỏ từ 300 đến 350 tên lửa SS – 12, SS – 20 bố trí ở một số nước Đông Âu. Hoa Kỳ
sẽ hủy bỏ 108 tên lửa Pershing II và tên lửa GLCM bố trí ở Cộng hòa Liên bang
Đức, Anh, Italia và Bỉ, hủy bỏ 72 tên lửa Pershing II bố trí ở Cộng hòa Liên bang
Đức; 2. Hai bên không chuyển những tên lửa và bệ phóng các tên lửa trên sang
những hệ thống vũ khí khác, không chuyển nhượng nó cho nước thứ ba, không tiếp
tục nghiên cứu, sản xuất và triển khai chúng trên mặt đất; 3. Hai nước thực hiện các
biện pháp thanh sát nghiêm ngặt và có hiệu quả, mỗi bên được tiến hành các cuộc
thanh sát trong vòng 13 năm và các biện pháp riêng để xác minh; 4. Thời gian phá
hủy vũ khí tầm trung là 3 năm, ten lửa tầm ngắn là 18 tháng sau khi hiệp ước có
hiệu lực; 5. Hiệp ước INF có hiệu lực vĩnh viễn. Tuy nhiên mỗi nước thành viên có
quyền rút khỏi Hiệp ước trong trường hợp cần bảo vệ chủ quyền của mình nhưng
phải thông báo việc rút khỏi hiệp ước trước 6 tháng.
Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều đánh giá cao Hiệp ước INF, thể hiện trong tuyên
bố chung cấp cao Hoa Kỳ - Liên Xô ngày 10.12.1987 “Hiệp ước INF là một hiệp
ước lịch sử xét cả về mục tiêu lẫn tính chất mới mẻ và quy mô của những biện pháp
kiểm soát được quy định trong hiệp ước. Thành tựu chung đó là đóng góp rất quan
trọng vào việc củng cố sự ổ định” [3, tr.117]. Theo đánh giá của các học giả Hoa Kỳ
thì Hiệp ước INF thực sự là một Hiệp ước giải trừ quâ bị đầu tiên trong kỷ nguyên
hạt nhân vì nó đã đạt được việc hủy bỏ cả một loại vũ khí hạt nhân của hai siêu
cường. Tuy nhiên cũng không ít ý kiến đánh giá Hiệp ước INF còn nhiều hạn chế,
nó chỉ là hiệp ước mang tính chất tượng trưng hơn là thực tiễn vì nó chỉ cắt giảm
4% trong tổng số 50.000 vũ khí hạt nhân các loại của hai siêu cường. Về phía Liên
Xô, có ý kiến cho rằng Hiệp ước INF là cái giá quá đắt của Liên Xô, không chỉ hủy
bỏ toàn bộ SS – 20 cả ở châu Âu và lãnh thổ châu Á (để làm đối trọng với Nhật và
Trung Quốc) mà còn phá hủy loại tên lửa đắt tiền mà Liên Xô đã dày công nghiên
cứu là SS – 23. Những quan chức trong chính quyền Xô viết cho là Gorbachev đã
nhượng bộ quá nhiều, và chính những nhượng bộ trong quá trình kiểm soát vũ khí
99
hạt nhân nói riêng và giải trừ quân bị nói chung càng làm mâu thuẫn trong nội bộ
chính quyền Xô viết thêm sâu sắc [3, Tr.118].
Hiệp ước INF đã góp phần cải thiện đáng kể mối quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô,
giúp hai bên trở lại thời kỳ hòa dịu và giảm bớt sự đối đầu ở châu Âu. Sau Hiệp ước
INF, các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước diễn ra thường xuyên hơn. Sự hòa dịu
Hoa Kỳ - Liên Xô đã có tác động tích cực đến tiến trình giải quyết những xung đột
quốc tế, nơi Hoa Kỳ và Liên Xô cùng can thiệp. Đó là sự chấm dứt xung đột ở
Angola, vốn được xem là cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa một bên là Hoa Kỳ và
Nam Phi và một bên là Liên Xô và Cuba. Liên Xô rút quân khỏi Afganistan và Hoa
Kỳ cũng chấm dứt sự can thiệp của mình vào vùng này. Hai nước đã cùng với Liên
Hiệp Quốc tác động để chấm dứt chiến tranh Iran – Iraq, đưa hai nước đi vào
thương lượng hòa bình, giảm căng thẳng ở vùng Trung Đông. Mặc dù có những
đánh giá khác nhau về Hiệp ước INF, việc hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô kí Hiệp ước
này đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình cắt giảm vũ khí hạt nhân
chiến lược, mở đường cho các cuộc đàm phán để cắt giảm hơn nữa kho vũ khí hạt
nhân của hai siêu cường hạt nhân hàng đầu thế giới.
Tuy bản hiệp ước vẫn còn nhiều hạn chế nhưng không thể phủ nhận rằng nó
đã góp phần làm giảm bớt tình hình căng thẳng trong quan hệ Hoa Kỳ - Liên Xô và
quan hệ quốc tế. Không giống như Hiệp ước SALT II, Hiệp ước INF nhanh chóng
được hai nước thi hành nghiêm túc vì vậy hiệp ước này đã phần nào đáp ứng được
đòi hỏi thủ tiêu vũ khí hạt nhân và tiến tới giải trừ quân bị tiệt để của nhân dân yêu
chuộng hòa bình thế giới.
3.4. Hiệp ước Cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I năm 1991 (Strategic Arms
Reduction Treaty – START I)
Các vòng đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I (START I) bắt
đầu từ tháng 6.1982 dưới thời tổng thống Ronald Reagan. Trong cuộc vận động
tranh cử năm 1980, ứng cử viên tổng thống Ronald Reagan đã phản đối Hiệp ước
SALT II vì cho rằng Hiệp ước này không hạn chế tổng khối lượng vũ khí hạt nhân
và không đóng băng các tên lửa ICBM của Liên Xô. Tuy nhiên, khi là chủ nhân của
Nhà trắng, ông đã thông báo rằng trong khi chờ đợi chính phủ mới xem xét lại toàn
100
bộ chính sách kiểm soát vũ khí thì ông vẫn tôn trọng và không vi phạm các quy
định của SALT II nếu Liên Xô cũng làm như vậy.
Trong thông điệp quốc phòng năm 1981, Reagan đã kêu gọi tăng thêm 10%
ngân sách quốc phòng cho năm tới để củng cố thêm hệ thống phòng thủ chiến lược
và để làm giảm những nguy cơ đối với an ninh Hoa Kỳ phát xuất từ sự trội hơn về
lực lượng hạt nhân của Liên Xô [16, tr.58] và ông cũng nhấn mạnh rằng sẽ nổ lực
để chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân có kết quả cụ thể, để những biện pháp xác
minh việc thực hiện các thỏa thuận về kiểm soát vũ khí, ông nghi ngờ Liên Xô
không tuân thủ các thỏa thuận đã kí kết. Trước các áp lực của dư luận trong nước và
từ các đồng minh NATO của mình về vấn đề kiểm soát vũ khí, Tổng thống Reagan
trong tháng 11.1981 đã công bố rằng các cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến
lược sẽ bắt đầu từ năm sau. Ông nói rằng START I sẽ có mục tiêu giảm đáng kể vũ
khí hạt nhân chiến lược.
Khi Cuộc khủng hoảng Công đoàn đoàn kết ở Ba Lan diễn ra vào đầu năm
1982, chính phủ Hoa Kỳ cho rằng cần “liên kết” các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ
khí với tổng thể các vấn đề của mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Chính quan
điểm này đã ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến sự trì hoãn tiến trình đàm phán về
START I. Tuy nhiên, đến tháng ba thì chính phủ Hoa Kỳ đã bị dư luận trong nước
gia tăng các áp lực để bắt đầu đàm phán về START I, và các đề xuất đóng băng hạt
nhân được đệ trình lên cả lưỡng viện của Quốc hội Hoa Kỳ.
Cuộc đàm phán về cắt giảm vũ khí chiến lược giai đoạn I đã được bắt đầu vào
ngày 29.6.1982 tại Geneva (Thụy Sĩ), các diễn biến phức tạp của tình hình thế giới
đã làm cho các cuộc đàm phán bị ngưng trệ. Sau đó, vào tháng 9.1982, trong một
phát biểu tại trường Eureka College, Tổng thống Reagan đã đề nghị trong giai đoạn
đầu của START cả Hoa Kỳ và Liên Xô sẽ giảm số đầu đạn hạt nhân trên hệ thống
các tên lửa hạt nhân được cài đặt trên đất liền và trên biển khoảng từ 5000 đến 8000
đầu đạn xuống còn một nửa. Ở giai đoạn II, các bên thỏa thuận về một trần chung
cho tổng khối lượng của tất cả các loại vũ khí hạt nhân. Tổng thống Reagan cho biết
mục tiêu của Hoa Kỳ là tăng cường răn đe và đạt được sự ổn định khi giảm đáng kể
các hệ thống gây bất ổn nhất là tên lửa đạn đạo, tên lửa đạn đạo liên lục địa trong
101
khi vẫn duy trì một lực lượng hạt nhân đủ để ngăn chặn xung đột và bảo vệ các
đồng minh. Máy bay ném bom chiến lược không được Tổng thống Reagan đưa vào
các quy định cắt giảm của START vì theo ông, giữa hai giai đoạn của cuộc đàm
phán về kiểm soát vũ khí với Liên Xô, Hoa Kỳ đã sẵn sàng chuẩn bị để đối phó với
máy bay ném bom và tên lửa hành trình của Liên Xô [16, tr.59].
Ngày 18.5.1982 Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev tuyên bố rằng
Liên Xô đã sẵn sàng đàm phán với Hoa Kỳ về START, ông còn cho rằng các đề
xuất cắt giảm vũ khí chiến lược của Hoa Kỳ là còn quá đơn giản và còn đề nghị
mạnh dạng đưa vào lệnh cấm nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí chiến lược
mới. Và Brezhnev cũng kêu gọi đóng băng hạt nhân ngay khi các cuộc đàm phán
bắt đầu.
Trong khi các cuộc đàm phán về START I đang bắt đầu ở Geneva, các thành
viên lưỡng viện Hoa Kỳ thảo luận sôi nổi về các chương trình hiện đại hóa vũ khí
hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ và cách thức kiểm soát vũ khí hạt nhân mà làm sao
vẫn giữ được thế cân bằng chiến lược về hạt nhân với Liên Xô. Phần lớn các ý kiến
đều không đồng ý với việc đóng băng tên lửa hạt nhân chiến lược thế hệ mới MX
(một loại ICBM mới), thượng nghị sĩ William Cohen cũng bắt đầu những nổ lực
của mình để huy động các thành viên quốc hội Hoa Kỳ phản đối đề xuất đóng băng
hạt nhân và đưa ra các đề xuất kiểm soát vũ khí mà vẫn cho phép hiện đại hóa vũ
khí chiến lược của Hoa Kỳ, ông còn đề xuất một biện pháp vừa đảm bảo cắt giảm
vũ khí chiến lược vừa đảm bảo hiện đại hóa là đổi sự cắt giảm 2 đầu đạn hạt nhân
chiến lược cũ bằng việc bổ sung một đầu đạn hạt nhân chiến lược mới [16, tr.61].
Đề xuất này nhận được nhiều ý kiến trái chiều.
Trong một nỗ lực để nghiên cứu đưa ra các đề xuất kiểm soát vũ khí chiến
lược phù hợp với yêu cầu đảm bảo sự cân bằng hạt nhân chiến lược của Hoa Kỳ và
để xem xét các chương trình hiện đại hóa vũ khí hạt nhân chiến lược, đặt biệt là
tương lai của hệ thống ICBM trên mặt đất, tháng 1.1983, Tổng thống Reagan đã cho
thành lập Ủy ban đặt biệt về vũ khí chiến lược do Brent Scowcroft đứng đầu. Ngày
6.4.1983, Ủy ban đã trình lên Tổng thống Reagan một bản báo cáo, bản báo cáo đề
xuất triển khai 100 tên lửa MX để thay dần các ICBM thế hệ cũ; bắt đầu chương
102
trình thiết kế kỹ thuật một loại ICBM với đầu đạn hạt nhân nhỏ (gọi là
Midgetman); đề xuất các thỏa thuận kiểm soát vũ khí bằng cách giảm các đầu đạn
hạt nhân lắp đặt trên tên lửa. Báo cáo còn khuyến khích hai bên giảm kích thước
của các đầu đạn hạt nhân [16, tr.61]. Tổng thống Reagan mặc dù đề nghị sửa đổi
báo cáo cho phù hợp với những đề xuất đang thảo luận ở cuộc đàm phán về
START, ông đã thông qua báo cáo và thúc giục Quốc hội nhanh chóng cho triển
khai MX, các thành viên phản đối báo cáo trong quốc hội cho rằng họ sẽ cho triển
khai MX nếu chính phủ thúc đẩy nhanh hơn tiến trình đàm phán về START và tài
trợ cho chương trình Midgetman. Tổng thống Reagan sau đó cam kết tạo những
điều kiện thuận lợi để cuộc đàm phán START tiến triển nhanh, sau đó Quốc hội
cũng thông qua kinh phí cho việc nghiên cứu và phát triển tên lửa MX.
Về tên lửa MX trong đàm phán START, Tổng thống Reagan cũng nói rằng
ông đã chỉ đạo cho các nhà đàm phán Hoa Kỳ ở Geneva linh hoạt hơn trong nổ lực
để có một thỏa thuận mà MX không bị đưa vào danh mục các vũ khí hạt nhân bị cắt
giảm.
Ở cuộc đàm phán START, Liên Xô đề nghị mỗi bên cắt giảm xuống chỉ còn
850 tên lửa đạn đạo, còn quan điểm của Hoa Kỳ là duy trì ở mức trần là 1.250. Về
vấn đề tổng khối lượng vũ khí hạt nhân, Tổng thống Reagan cho rằng có thể xác
định được bằng cách đếm số tên lửa và đầu đạn hạt nhân.
Vào giữa tháng 7.1983, Hoa Kỳ đã đưa ra một dự thảo với những đề xuất mới
ở cuộc đàm phán về START, theo đó quy định mức trần số tên lửa các loại của mỗi
nước không quá 5000, trong đó số tên lửa cài đặt trên đất liền không quá 2.500,
khoảng 1.250 tên lửa đạn đạo, 400 máy bay ném bom chiến lược (trong đó có máy
bay Backfire của Liên Xô), giới hạn khoảng 20 tên lửa hành trình cho mỗi loại máy
bay ném bom chiến lược. Dự thảo cũng đưa ra phương pháp tiếp cận mới để hạn
chế tổng trọng lượng vũ khí hạt nhân của hai nước, theo đó ba cách tiếp cận mới là:
1. Hạn chế tên lửa hạng nặng và trung bình; 2. Quy định mức trần tổng khối lượng
tên lửa đạn đạo (Hoa Kỳ đưa ra mức 1.800 tấn so với 5.600 tấn của Liên Xô); 3. Có
thể đề nghị Liên Xô giảm tổng khối lượng vũ khí hạt nhân của mình [16, tr.62 –
63]. Báo cáo này sau đó được trình bày chi tiết hơn tại cuộc đàm phán START đang
103
diễn ra. Liên Xô cũng đề nghị cấm tên lửa Trident II của Mỹ, tên lửa hành trình trên
máy bay có tầm bắn khoảng 600 km, cho phép triển khai từ 4 đến 6 loại tên lửa
Trident mới và hạn chế số tên lửa trên mỗi tàu ngầm là 16. Liên Xô còn đề nghị vẫn
duy trì các tên lửa trên mặt đất và trên biển có tầm bắn 600km.
Các đề nghị của Hoa Kỳ và Liên Xô khiến cả hai bên đều không hài lòng, Liên
Xô cho rằng đó là một đề nghị bất bình đẳng. Còn Hoa Kỳ vẫn không muốn nhượng
bộ thêm trong đàm phán, sau đó cuộc đàm phán lâm vào bế tắc và tạm thời ngưng
lại. Sau đó Quốc hội Hoa Kỳ hoài nghi các cam kết của chính quyền về kiểm soát
vũ khí và triển khai MX, khi một máy bay dân dụng của Hàn Quốc bị Liên Xô bắn
rơi thì sự hoài nghi đó vẫn không giảm. Để xóa tan sự hoài nghi đó và để tháo gỡ
các khó khăn làm ngưng trệ các cuộc đàm phán về START, ngày 4.10.1983, Tổng
thống Reagan đã đưa ra các điều chỉnh theo hướng hạ xuống thêm các loại vũ khí
chiến lược được cắt giảm. Theo đó tổng số đầu đạn của tất cả các tên lửa giảm
xuống còn khoảng 5000 đầu đạn và hàng năm giảm khoảng 5% trong tổng số các
đầu đạntên lửa, cụ thể là giảm 2 đầu đạn cũ của tên lửa tự tách MIRV để tăng thêm
một đầu đạn mới, 3 đầu đạn hạt nhân cũ để đổi 2 đầu đạn hạt nhân mới của tên lửa
cài đặt trên tàu ngầm hạt nhân và một đổi một cho tên lửa ICBM trên đất liền [16,
tr.64]. Ngoài ra Tổng thống Reagan nói rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chuẩn bị để thảo luận
việc cắt giảm máy bay ném bom và hạn chế bổ sung các tên lửa hành trình trên máy
bay ném bom. Quốc hội Hoa Kỳ ngay lập tức lên tiếng ủng hộ và xem hành động
này của Tổng thống Reagan là một đỗng thái tích cực trong quá trình kiểm soát vũ
khí.
Ngày 31.10.1983, Thượng viện Hoa Kỳ từ chối sửa đổi luật hỗ trợ đóng băng
hạt nhân toàn diện. Liên Xô ngay lập tức phản ứng, thông qua hãng thông tấn Tass,
Liên Xô cho rằng những đề xuất của Reagan và việc thượng viện bác bỏ dự luật hỗ
trợ đóng băng hạt nhân toàn diện là một mưu đồ để Hoa Kỳ triển khai tên lửa MX
và tên lửa tầm trung ở châu Âu. Sau đó đề nghị một giải pháp đóng băng hạt nhân
toàn diện tại Liên Hiệp Quốc, đề nghị này phù hợp với các đề xuất của Liên Xô tại
Geneva.
104
Pravda, trong một bài xã luận, đã cho rằng các đề xuất của Hoa Kỳ là hoàn
toàn một chiều vì nó chỉ nhằm mục đích chủ yếu là để giảm số lượng và sức mạnh
hủy diệt của tên lửa ICBM (loại tên lửa mà Liên Xô có ưu thế). Trong lực lượng hạt
nhân chiến lược của Liên Xô thì ICBM chiếm 70%, còn Hoa Kỳ chỉ chiến 20%, do
đó Pravda cho rằng đề xuất của Hoa Kỳ nhằm làm suy yếu Liên Xô mà trong khi
cho phép Hoa Kỳ phát triển hơn nữa hệ thống vũ khí hạt nhân chiến lược của mình.
Do đó, tại Geneva, phái đoàn Liên Xô không muốn tiếp tục đàm phán vì thấy ICBM
của Liên Xô bị cắt giảm quá mức.
Vào cuối vòng năm của cuộc đàm phán START, cùng với những bế tắc đàm
phán INF, phái đoàn Liên Xô đơn phương ngưng và không hẹn ngày nối lại các
cuộc đàm phán với Hoa Kỳ. Hành động này của Liên Xô còn bị tác động bởi việc
Hoa Kỳ cho triển khai tên lửa Pershing II ở châu Âu, Liên Xô gọi hành động này sẽ
làm thay đổi “tổng thể tình hình chiến lược” mà Liên Xô cần xem xét lại. Tổng
thống Reagan hi vọng các nhà đàm phán Liên Xô sẽ chủ động trở lại bàn đàm phán
vào năm 1984. Nhưng đã không có một cuộc gặp gỡ trở lại nào giữa hai nước trong
năm 1984 và đến trước tháng 11.1985.
Chỉ sau cuộc gặp gỡ thượng đỉnh giữa Tổng thống Hoa Kỳ Reagan và Tổng bí
thư đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev tháng 11.1985 thì quan hệ Hoa Kỳ - Liên
Xô mới tốt đẹp hơn và triển vọng nối lại các cuộc đàm phán về START và INF mới
sáng sủa. Và chỉ cuối năm là hai nước đã nối lại đàm phán. Lần này nước chủ động
là Liên Xô. Là người trẻ nhất được bầu lên vị trí lãnh đạo tối cao của Đảng và Nhà
nước Xô Viết, Gorbachev được kỳ vọng sẽ đưa Liên Xô thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng trong nước về mọi mặt và cải thiện quan hệ với phương Tây. Với tư duy và
nhận thức mới, Gorbachev đã đề ra quan điểm và chính sách đối ngoại có nhiều
điểm mới, kèm theo những khó khăn trong nước đang gặp phải Gorbachev mong
muốn nối lại các cuộc đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt nhân với Hoa Kỳ.
Ông đưa ra Chương trình giải trừ vũ khí hạt nhân đến năm 2000 và chương
trình này được công bố vào ngày 15.1.1985 [1, tr.1167- 1168]. Về phía Hoa Kỳ,
việc cắt giảm kho vũ khí hạt nhân chiến lược của Liên Xô ở giai đoạn này có một ý
nghĩa lớn lao. Liên Xô đang khủng hoảng và có nguy cơ tan rã, do đó nó sẽ làm cho
105
vũ khí hạt nhân chiến lược dễ phổ biến rộng rãi hơn, nếu kỹ thuận hạt nhân của Liên
Xô rơi vào nhiều nước cũng là đối thủ của Hoa Kỳ thì sẽ rất nguy hiểm và đe dọa
cho an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Do đó Hoa Kỳ cũng muốn nhanh chóng nối lại
các cuộc đàm phán và đi đến kí kết START I. Việc kí hiệp ước INF năm 1987 đã
thúc đẩy tiến trình đàm phán về START. Đến tháng 5.1989, hai bên đã tiến hành
được 11 vòng đàm phán, đạt được thỏa thuận về nguyên tắc giảm 50% vũ khí chiến
lược và ủy quyền cho các nhà thương lượng xây dựng hiệp ước về hạn chế và cắt
giảm loại vũ khí này. Các nhà thương lượng của hai nước đã dự thảo được 5 văn
kiện, bao gồm hiệp ước cắt giảm 50% kho vũ khí hạt nhân chiến lược; một bị vong
lục thỏa thuận về số liệu ban đầu của các loại vũ khí được đưa vào danh mục cắt
giảm; ba nghị định thư về giảm bớt trọng lượng của tên lửa đạn đạo, về thanh tra
việc thi hành hiệp ước và về việc chế tạo lại hoặc hủy bỏ các phương tiện điều khiển
vũ khí hạt nhân. Tại vòng đàm phán thứ 11, hai bên tiếp tục xác định giới hạn số
lượng tên lửa hành trình tầm xa đặt trên biển, vấn đề hạn chế máy bay ném bom
hạng nặng và tên lửa hành trình đặt trên máy bay. Điều đáng lưu ý là ở thời điểm
này, tuy số lượng vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ và Liên Xô đã được cắt giảm theo
Hiệp ước INF, nhưng tổng số vũ khí hạt nhân trong kho vũ khí hạt nhân của hai
nước tính đến năm 1990 vẫn còn trên 58.000, số lượng đầu đạn hạt nhân chiến lược
của Hoa Kỳ và Liên Xô vẫn còn rất lớn.
Bảng 3.1. Số lượng đầu đạn hạt nhân trên các loại vũ khí hạt nhân chiến
lược của Hoa Kỳ và Liên Xô năm 1990
Tên lửa đạn đạo Tên lửa Máy bay ném
liên lục địa phóng từ tàu bom hạng Tổng cộng
Nước (ICBM) ngầm nặng các loại
(SLBM)
Hoa Kỳ 2.450 5.760 2.350 10.563
Liên Xô 6.612 2.804 855 10.271
Nguồn: [Dẫn lại theo 31, tr.225]
106
Ngày 3.7.1991, Hoa Kỳ và Liên Xô kí hiệp ước START I tại Moscow. Hiệp
ước gồm 19 điều khoản, kèm theo một Bản ghi nhớ, các nghị định thư và phụ lục.
Sau khi lưu ý về tính chất hủy diệt của một cuộc chiên tranh hạt nhân đối với loài
người, Hiệp ước START I nêu rõ mục đích của văn kiện là đưa ra “các biện pháp
cắt giảm vũ khí hạt nhân tiến công chiến lược để giảm bớt nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, củng cố hòa bình và an ninh của thế giới” (the measures for the reduction and
limitation of strategic offensive arms and the other obligations set forth in this
Treaty will help to reduce the risk of outbreak of nuclear war and strengthen
international peace and security) [61].
Nội dung chính của Hiệp ước START I bao gồm: 1. Sau khi cắt giảm, mỗi bên
được duy trí 1600 các loại tên lửa ICBM, SLBM, tên lửa hành trình trên máy bay
ném bom chiến lược, được phép duy trì 6000 đầu đạn hạt nhân các loại; 2. Thời hạn
cho việc cắt giảm các loại tên lửa và đầu đạn hạt nhân là 7 năm kể từ khi hiệp ước
có hiệu lực và được chia làm ba giai đoạn; 3. Tổng khối lượng các loại tên lửa đạn
đạo sau khi cắt gảm không vượt quá mức 3.600 tấn; 4. Hoa Kỳ được phép duy trì
150 máy bay ném bom hạng nặng, mỗi máy bay được trang bị 10 tên lửa hành trình
tầm xa, con số tương ứng của Liên Xô là 180 và 8; 5. Hai bên không được phép
hiện đại hóa hoặc thay thế các loại vũ khí hạt nhân tiến công chiến lược được quy
định trong Hiệp ước START I; 6. Các bên tham gia hiệp ước không được phép di
chuyển các bệ phóng tên lửa vượt quá giới hạn cho phép của khu vực triển khai tên
lửa là 125.000 km; 7. Các bên tham gia hiệp ước sử dụng các trung tâm hạn chế rủi
ro hạt nhân của mình để tiếp nhận và cung cấp thông tin cho đối tác của Hiệp ước
START I khi cần thiết; 8. Các bên tham gia hiệp ước trao đổi cho nhau những thông
tin kiểm tra việc hủy bỏ vũ khí hạt nhân của mình theo quy định về kiểm tra của
Hiệp ước START I; 9. Thành lập Ủy ban kiểm tra hỗn hợp để kiểm tra việc thực
hiện hiệp ước của các nước thành viên; 10. Hiệp ước START I có giá trị trong vòng
15 năm, có thể được xem xét lại năm năm một lần. Các nước thành viên có quyền
rút khoải Hiệp ước START I nhưng phải báo trước 6 tháng nếu thấy quyền lợi tối
thượng của quốc gia mình bị xâm hại.
107
Đại sứ Liên Xô tại Hoa Kỳ, Anatoli Dobrynin, Hiệp ước START I là sự
nhượng bộ của Gorbachev, việc ký kết văn kiện về cắt giảm vũ khí hạt nhân chiến
lược đã góp phần gây tổn hại đến an ninh của Liên Xô [1, tr.1221 – 1222]. Trong
khi đó Hiệp ước START I có lợi rất nhiều cho Hoa Kỳ, cơ cấu lực lượng hạt nhân
của Hoa Kỳ với hạm đội tàu ngầm giữ vai trò chủ đạo vẫn giữ nguyên mặc dù tên
lửa ICBM có giảm đi...Hơn nữa, Hiệp ước START I không hề ràng buộc các bên
tham gia phải tuân thủ Hiệp ước ABM năm 1972, điều này đã tạo điều kiện cho Hoa
Kỳ tái triển khai chương trình Sáng kiến phòng thủ chiến lược [3, tr.227]. Mặc dù
vậy, việc kí kết Hiệp ước START I là một bước tiến mới trong kiểm soát vũ khí hạt
nhân và giải trừ quân bị trên thế giới. Tổng thống Hoa Kỳ G. Bush đánh giá rằng
“hiệp ước này sẽ không cho phép bên nào đơn phương chiếm ưu thế. Việc kí kết
hiệp ước này không chỉ có lợi cho Hoa Kỳ và Liên Xô mà cón có lợi cho cả ác dân
tộc trên thế giới” [Dẫn lại theo 3, tr.227].
Sau khi kí START I, Chính quyền Tổng thống G.Bush đã từng bước thực hiện
những cam kết trong bản Hiệp ước. Từ tháng 9.1991, Hoa Kỳ tiến hành rút vũ khí
hạt nhân đã được bố trí ở một số nước đồng minh. Ngày 27.9.1991, Tổng thống
G.Bush tuyên bố rút vũ khí hạt nhân được bố trí trên mặt đất khỏi Hàn Quốc và
đơn phương cắt giảm đại bộ phận vũ khí hạt nhân tầm ngắn, chủ yếu là đầu đạn và
tên lửa đặt tại châu Âu. Tổng thống Bush cũng đề nghị Hoa Kỳ và Liên Xô cùng
hủy bỏ phần lớn việc triển khai các loại tên lửa hạt nhân chiến thuật của hai nước.
Ông cũng tuyên bố Hoa Kỳ sẽ hủy bỏ tất cả các loại đạn pháo hạt nhân và đầu đạn
tên lửa hạt nhân tầm ngắn. Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng sẽ dỡ bỏ các đầu đạn hạt nhân
không thuộc loại chiến lược được lắp đặt trên các tàu chiến, tàu ngầm và máy bay
của hải quân. Liên Xô hoan nghênh những đề nghị này của Hoa Kỳ. Ngày
5.11.1991, Tổng thống Liên Xô Gorbachev tuyên bố Liên Xô cũng sẽ hủy bỏ tấn cả
các loại đạn pháo hạt nhân, các đầu đạn hạt nhân dùng cho tên lửa chiến thuật và
các loại mìn hạt nhân [3, tr.229].
108
Tiểu kết chương 3
Như vậy, trong giai đoạn 1977 – 1991 chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân
của Hoa Kỳ cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Hoa Kỳ luôn gắn vấn đề
kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề chính trị khác, điều này dễ thấy khi Quốc
hội Hoa Kỳ đã không phê chuẩn Hiệp ước SALT II khi Liên Xô đưa quân vào
Afganistan, mãi đến năm 1985, SALT II mới được phê chuẩn. Hơn nữa, Hiệp ước
SALT II được đánh giá là có lợi nhiều cho Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã đạt được mục đích
giảm được những “kẽ hở” như ở Hiệp ước SALT I. Việc thất bại trong việc tìm
kiếm một hiệp ước chống vệ tinh là kết quả của những bất đồng mà hai nước không
giải quyết được. Tuy nhiên, cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều tôn trọng một thỏa thuận
đơn phương để phi hạt nhân hóa vũ trụ và bảo vệ các vệ tinh đang hoạt động cho
các mục đích phi quân sự ngoài vũ trụ. Bên cạnh đó, việc kí kết Hiệp ước INF và
START I cũng là một thành công rất lớn trong chính sách của kiểm soát vũ khí hạt
nhân của Hoa Kỳ. Do những quan điểm đối ngoại mới mà Gorbachev đã thúc đẩy
nhanh tiến trình kí kết INF và START I, Hoa Kỳ đã hoan nghênh điều đó và cũng
sẵn sàng cùng Liên Xô cắt giảm kho vũ khí hạt nhân của mình.
109
KẾT LUẬN
Vào thời điểm từ khi vũ khí hạt nhân ra đời đến trước cuộc Khủng hoảng tên
lửa Cuba, những tiếng nói của các nhà bác học nguyên tử Hoa Kỳ đã không ngớt
vang lên nhằm kiểm soát loại vũ khí hủy diệt mà chính họ đã nghĩ ra – vũ khí hạt
nhân. Nhưng những tiếng nói đó không được chính quyền Washington lắng nghe và
thực hiện vì họ đang có những tính toán khác nhau cho loại vũ khí mới này trong
chiến lược an ninh của mình. Trong chính giới Hoa Kỳ cũng có nhiều đề nghị để
kiểm soát ngay vũ khí hạt nhân nhằm tránh cho nó tăng lên về số lượng và lan rộng
ra về sự sở hữu, nhưng họ cũng không nhận được những tín hiệu tích cực từ nước
đã cùng họ sở hữu vũ khí hạt nhân – Liên Xô. Hàng loạt các vấn đề phức tạp trong
quan hệ quốc tế phát sinh từ sau Chiến tranh thế giới thứ Hai đã làm tình hình quốc
tế trở nên khá căng thẳng, hậu quả là xuất hiện Chiến tranh Lạnh và hai khối nước
đối đầu với nhau. Sự căng thẳng này đã làm cho vấn đề kiểm soát vũ khí bị lu mờ
và chẳng có kết quả gì, thậm chí nó còn đẩy nhân loại đứng bên bờ vực của một
cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt từ Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba.
Có lẽ đứng ở ngưỡng cửa của sự tự hủy diệt người ta mới điềm tĩnh và có
những suy nghĩ sáng suốt được. Ý thức về sự hủy diệt nếu một cuộc chiến tranh hạt
nhân diễn ra sau Cuộc khủng hoảng Cuba, các nhà lãnh đạo của hai siêu cường Hoa
Kỳ và Liên Xô mới thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán về kiểm soát vũ khí hạt
nhân. Do đó, trong giai đoạn 1963 – 1976, hai bên đã đạt được nhiều hiệp ước về
kiểm soát vũ khí hạt nhân. Những Hiệp ước này góp phần làm giảm đi cường độ
của cuộc chạy đua vũ, nhất là chạy đua vũ khí hạt nhân và cũng góp phần to lớn vào
việc giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và giải trừ quân bị. Ở một khía cạnh nào đó
nó ngăn cản sự vượt trội hơn của Liên Xô về vũ khí hạt nhân so với Hoa Kỳ và
củng cố hơn nửa thế cân bằng ổn định chiến lược giữa hai quốc gia. Việc kí kết
Hiệp ước LTBT đã góp phần vào vệc ngăn cản các quốc gia khác sở hữu vũ khí hạt
nhân, lúc này chỉ có Hoa Kỳ và Liên Xô mới có đủ kỹ thuật để thử hạt nhân trong
lòng đất. Hiệp ước OST thì đem đến một sự an toàn cho không gian vũ trụ trong
thời đại hạt nhân. Còn Hiệp ước NPT đã góp phần ngăn chặn sự phổ biến của vũ khí
110
hạt nhân trên toàn thế giới. Hiệp ước SALT I đã cắt giảm được một phần kho vũ khí
chiến lược của hai nước, đây là bước đi quan trong trong quá trình kiểm soát vũ khí
hạt nhân và giải trừ quân bị của hai nước và từ sau SALT I quan hệ giữa hai nước
đã tốt lên nhiều và hai nước đã tạo cơ sở cho sự tin cậy lẫn nhau trong việc giải
quyết những vấn đề quan hệ giữa hai nước và những vấn đề quốc tế. Chính vì vậy,
sau SALT I, hai nước đã kí nhiều văn kiện chung nhằm cải thiện quan hệ, trong đó
có các văn kiện về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hai Hiệp ước TTBT và PNE được kí
kết trong bối cảnh đó. Hoa Kỳ cũng gắn chặt vấn đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với
các vấn đề chính trị khác, điển hình như ngày 1.7.1968, khi kí kết Hiệp ước NPT,
Tổng thống Johnson đã loan báo rằng cả Hoa Kỳ và Liên Xô đã đồng ý ngồi vào
bàn đàm phán về vấn đề hạn chế và cắt giảm vũ khí hạt nhân phòng thủ và tiến công
chiến lược “trong tương lai gần nhất” (in the nearest future). Cả Hoa Kỳ và Liên Xô
đều loan báo rằng ngày 30.9.1968 sẽ là ngày bắt đầu đàm phán, thế nhưng, khi Liên
Xô đưa quân vào Tiệp Khắc ngày 21.8.1968, Hoa Kỳ đã tuyên bố hoãn các cuộc
đàm phán vô thời hạn. Tuy vậy, việc Hoa Kỳ đàm phán và kí kết các hiệp ước về
kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn này đã góp phần đáng kể vào sự hòa dịu trong
quan hệ quốc tế, tạo điều kiện để tiếp tục đàm phán và kí kết những hiệp ước về
kiểm soát vũ khí hạt nhân ở giai đoạn kế tiếp.
Trong giai đoạn 1977 – 1991 chính sách kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa
Kỳ cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Thêm một lần nữa, Hoa Kỳ gắn vấn
đề kiểm soát vũ khí hạt nhân với các vấn đề chính trị khác, khi Quốc hội Hoa Kỳ đã
không phê chuẩn Hiệp ước SALT II khi Liên Xô đưa quân vào Afganistan, mãi đến
năm 1985, SALT II mới được phê chuẩn. Hiệp ước SALT II được đánh giá là có lợi
nhiều cho Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã đạt được mục đích giảm được những “kẽ hở” như ở
Hiệp ước SALT I. Việc thất bại trong việc tìm kiếm một hiệp ước chống vệ tinh là
kết quả của những bất đồng mà hai nước không giải quyết được. Tuy nhiên, cả Hoa
Kỳ và Liên Xô đều tôn trọng một thỏa thuận đơn phương để phi hạt nhân hóa vũ trụ
và bảo vệ các vệ tinh đang hoạt động cho các mục đích phi quân sự ngoài vũ trụ.
Bên cạnh đó, việc kí kết Hiệp ước INF và START I cũng là một thành công rất lớn
trong chính sách của kiểm soát vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ. Do những quan điểm
111
đối ngoại mới mà Gorbachev đã thúc đẩy nhanh tiến trình kí kết INF và START I,
Hoa Kỳ đã hoan nghênh điều đó và cũng sẵn sàng cùng Liên Xô cắt giảm kho vũ
khí hạt nhân của mình.
Những hiệp ước kiểm soát vũ khí hạt nhân mà Hoa Kỳ đã kí kết với Liên Xô
trong giai đoạn 1963 – 1991 cũng góp phần rất lớn vào những cố gắng của nhân loại
nhằm hạn chế vũ khí hạt nhân, tiến đến giảm nguy cơ chiến tranh hạt nhân và bảo
vệ nền hòa bình, an ninh cho nhân loại. Nó cũng là động lực để thúc đẩy Hoa Kỳ và
Liên bang Nga tiếp tục đàm phán để tiến tới thủ tiêu vũ khí hạt nhân trong các giai
đoạn tiếp theo.
112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Anatôli Đôbrưnhin, Đặc biệt tin cậy : Vị đại sứ ở Oasinhtơn qua sáu đời tổng
thống Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2001.
2. Chu Vĩnh Tài, Tào Hồng, Thế giới sẽ ra sao, Nxb Công an nhân dân, H., 2001.
3. Đặng Thị Hoài, Vấn đề vũ khí hạt nhân trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
1945 – 2009, Đề tài khoa học cấp trường, ĐHSPTPHCM, 2012.
4. Hugh Brogan, Hồ sơ quyền lực Kennedy, Nxb Tri thức, H., 2008.
5. Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu trong Chiến tranh Lạnh
(1949 - 1991), Khoa Lịch sử, ĐHSP TP.HCM, 2011.
6. Lê Phụng Hoàng, Lịch sử quan hệ quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ Hai
(Tập 1: 1945 - 1975), Nxb ĐHSP TPHCM, TPHCM., 2009.
7. Nguyễn Thế Tài, Marie Curie – Một đời hi sinh cho khoa học, Nxb Tổng hợp
TPHCM, TPHCM., 2011.
8. Nguyễn Thị Thanh Thủy , Hoa Kỳ với vấn đề vũkhí hạt nhân trong hơn nửa thế
kỷ qua (1945 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2012.
9. Peter Calvocoressi, (Nguyễn Văn Hạnh, Hoàng Bằng Giang, Nguyễn Ngọc
Hùng dịch), Chính trị thế giới sau năm 1945, Nxb Lao Động, H., 2007.
10. Robert Jungk, (Đào Văn Phúc dịch), Truyện kể về các nhà bác học nguyên tử,
Nxb Giáo dục, H., 1985.
11. Richard Nixon, Nguyễn Khắc Ân, Trần Văn Bình, Đặng Phú, Phạm Tùng Vĩnh
dịch, Hồi ký Richard Nixon (The Memoirs of Richard Nixon), Nxb Công an
nhân dân, H., 2004.
12. Roy Medvedev, Lê Phụng Hoàng dịch, N.S.Khrushev - Tiểu sử chính trị, Nxb
ĐHSP TPHCM, TPHCM., 2003.
13. Thomas J. Mc Cormick, (Thùy Dương, Thanh Thủy, Minh Long, Hồng Hạnh
dịch), Nước Mỹ nửa thế kỷ: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau
Chiến tranh Lạnh, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 2004.
14. Walter Isaacson, Lê Tuyên dịch, Einstein – Cuộc đời và vũ trụ, Nxb Tổng hợp
TPHCM, TPHCM., 2011.
113
15. Winston Churchill, Hồi ký về Chiến tranh thế giới thứ Hai, Nxb Văn hóa thông
tin, H., 2001.
Tiếng Anh
16. Committee on International Security and Arms Control, National Academy of
Sciences, Nuclear Arms Control :Background and Issues, National
Academy Press, Washington, D.C, 1985.
17. Committee on International Security and Arms Control, National Academy of
Sciences, The Future of the U.S.-Soviet Nuclear Relationship, National
Academy Press, Washington, D.C, 1991.
18. Cecil V. Crabb, American foreign policy in the nuclear age, New York: Harper
and Rous, 1965.
19. Henry W.Schaefer, Nuclear arms control: the process of developing positions,
Washington DC, 1986.
20. Henry A. Kissinger, Nuclear wepon and foreign policy, New York: Harper and
Brotherss, 1969.
21. John Lewis Gaddis, Philip H. Gordon, Ernest R. May, Jonathan Rosenberg,
Cold War Statesmen Confront the Bomb: Nuclear Diplomacy Since 1945,
Oxford University Press, 1999.
22. John van Oudenaren, Francis Conte, Understanding Soviet foreign policy: The
tradition of change in Soviet foreign policy, Two schools of Soviet
diplomacy, The institute for national strategic studies, National Defense
University, Washington DC, USA, 1990.
23. Dietrich Schroer, John Wiley, Science;Technology and nuclear arms race, New
York, 1994.
24. Erin R. Mahan,Volume XXXII: SALT I 1969 – 1972, Washington DC, 2010
25. E.H. Carr, A History of Soviet Russia, London: Macmillan, 1964.
26. Kenneth Jay, Nuclear power: Today and Tomorrow, London: English
Language in stitute, 1961.
114
27. Laurence Boisson de Chazournes, Philippe Sands, International law, the
international court of Justice and nuclear weapons, NY: Cambridge
University, 1999.
28. Michael L. Dockrill and Michael F. Hopkins, The Cold War 1945 – 1991
(second edition), Palgrave Macmillan, NY, USA, 2006.
29. Matthew J. Ouimet, The Rise and Fall of the Brezhnev Doctrine in Soviet
Foreign Policy, The University of North Carolina Press, USA, 2003.
30. Norman Polmar, John D. Gresham, Defcon – 2: Standing on the brink of
nuclear war during the Cuban rissile crisis, New Jesey, 2006.
31. Frederick H. Gareau, The balance of power and nuclear deterrence: A book of
readings, Boston, 1962.
32. Paul D. Craig, John A. Jungerman, Mc Graw Hill, Nuclear Arms Race:
Technology and Society, New York, 1970.
33. Phillip Mullenbach, Civillian nuclear power: Economic issues and policy
formation, Honolulu: East – West Center, 1966.
34. Peter Kenez, A History of the Soviet Union from the Beginning to the End,
(second edition), Cambridge University Press, 2006.
35. Stephen Lovell, The Shadow of War: Russia and the USSR, 1941 to the
Present, A John Wiley & Sons, Ltd., Publication, 2010
36. Taylor and Francis, Nuclear energy and nuclear weapon proliferation/SIPRI,
London Express, 1979.
37. The Annals of America, Vol 17: 1950 – 1960: Cold War in the nuclear age,
Chicago, 2003.
38. US Army center of Military History, History of strategic air and ballistic
missile defense, Vol 1 (1945 - 1955).
39. US Army center of Military History, History of strategic air and ballistic
missile defense, Vol 2 (1956 - 1972).
40. U.S. Department of State, Foreign Relations of The United States 1969 – 1976,
Vol 32: SALT I (1969 - 1972), United State Government Printing of
Washington DC, 2010.
115
Website
41. Arms Control Association,Treaties & Agreements, Threshold Test Ban Treaty
(TTBT), www.armscontrol.org/documents/ttbt
42. Arms Control Association, Treaties & Agreements, Peaceful Nuclear
Explosions Treaty (PNET), www.armscontrol.org/documents/pnet
43. Brian Mitchell, August 16, 2005, Hiroshima – The Real Reason for the Atom Bomb,
http://www.mukto-mona.com/Articles/Brian_Mitchell/hiroshima_reason.htm
44. Albert Einstein’s letterto president F. Roosevelt, 2 August 1939,
http://hypertextbook.com/eworld/eisntein.shtml#first
45. Eisenhower, President Eisenhower’s “Atoms for peace” Speech, 8 December
1953, http://www.atomicarchive.com/Docs/Deterrence/Atomsforpeace.shtml
46. Inaugural Address of President John F. Kennedy, Washington DC, January 20,
1961, http://www.jfklibrary.org/Historical+Resoirces
47. Kennedy, Telegram from President Kennedy to Chairmen Khrushchev and
Brezhnev, Washington, July 4, 1961, www.state.gov
48. Kennedy, Radio and Television Address to the American people on the Nuclear
TestBanTreaty.Jul26,1963,http://www.presidency.ucsb.edu/ws/index.php?p
id=9360&st=Geneva&stl=
49. National Security Archive,The Secret History of The ABM Treaty, 1969-
1972,Electronic Briefing Book No. 60 Edited by William Burr November 8,
2001
50. NSC 68: United States Objectives and Programs for National Security
(1956),http://www.fas.org/irp/offdocs/nsc-hst/nsc-68-8.htm
51. NSC 162/2: A report to national security council on basic national security
policy, Washington 23-October-1953, http://www.fas.org/irp/offdocs/nsc-
hts/nsc-162-2.pdf
52. NRDC, Table of Global Nuclear Weapons Stockpiles, 1945 –
2002,http://www.nrdc.org/nuclear/nudb/datab19.asp#notes.
53. The Cuban Missile Crisis, http://nguyentruong92606.wordpress.com/2013/03/15.
116
54. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance:Treaty Between The United States of America and The Union
of Soviet Socialist Republics on The Limitation of Anti-Ballistic Missile
Systems (ABM Treaty), www.state.gov/t/avc/trty/101888.htm
55. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance:Treaty Between The United States of America and The Union
of Soviet Socialist Republics on the Limitation of Strategic Offensive Arms
(SALT II),www.state.gov/t/isn/5195.htm
56. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance:Treaty Banning Nuclear Weapon Tests in the Atmosphere, in
Outer Space, and Under Water, www.state.gov/t/avc/trty/199116.htm
57. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance:Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons (NPT),
www.state.gov/t/isn/trty/16281.htm
58. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance:Treaty on Principles Governing the Activities of States in the
Exploration and Use of Outer Space, Including the Moon and Other
Celestial Bodies,www.state.gov/t/avc/trty/187157.htm
59. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance: Treaty Between The United States Of America And The Union
Of Soviet Socialist Republics On The Elimination Of Their Intermediate-
Range And Shorter-Range Missiles (INF
Treaty),www.state.gov/t/avc/trty/102360.htm
60. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance:Comprehensive Nuclear Test-Ban Treaty (CTBT),
www.state.gov/t/avc/trty/16411.htm
61. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance: The Treaty Between the United States of America and the
Union of Soviet Socialist Republics on the Reduction and Limitation of
Strategic Offensive Arms(START),www.state.gov/t/avc/trty/146007.htm
117
62. U.S. Department of State, Bureau of Arms Control, Verification and
Compliance: Strategic Arms Limitation Talks (SALT I),
www.state.gov/t/isn/5191.htm
63. U.S. Information Agency: Arms Control and Disarmament – The U.S.
Commitment, www.usia.gov/usis.html
PHỤ LỤC
SALT I TREATY
INTERIM AGREEMENT BETWEEN THE UNITED STATES OF
AMERICA AND THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS ON
CERTAIN MEASURES WITH RESPECT TO THE LIMITATION OF
STRATEGIC OFFENSIVE ARMS
Signed at Moscow May 26, 1972
Approval authorized by U.S. Congress September 30, 1972
Approved by U.S. President September 30, 1972
Notices of acceptance exchanged October 3, 1972
Entered into force October 3, 1972
The United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics,
hereinafter referred to as the Parties,
Convinced that the Treaty on the Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems
and this Interim Agreement on Certain Measures with Respect to the Limitation of
Strategic Offensive Arms will contribute to the creation of more favorable
conditions for active negotiations on limiting strategic arms as well as to the
relaxation of international tension and the strengthening of trust between States,
Taking into account the relationship between strategic offensive and defensive
arms,
Mindful of their obligations under Article VI of the Treaty on the
NonProliferation of Nuclear Weapons,
Have agreed as follows:
Article I
The Parties undertake not to start construction of additional fixed land-based
intercontinental ballistic missile (ICBM) launchers after July 1, 1972.
Article II
The Parties undertake not to convert land-based launchers for light ICBMs, or
for ICBMs of older types deployed prior to 1964, into land-based launchers for
heavy ICBMs of types deployed after that time.
Article III
The Parties undertake to limit submarine-launched ballistic missile (SLBM)
launchers and modern ballistic missile submarines to the numbers operational and
under construction on the date of signature of this Interim Agreement, and in
addition to launchers and submarines constructed under procedures established by
the Parties as replacements for an equal number of ICBM launchers of older types
deployed prior to 1964 or for launchers on older submarines.
Article IV
Subject to the provisions of this Interim Agreement, modernization and
replacement of strategic offensive ballistic missiles and launchers covered by this
Interim Agreement may be undertaken.
Article V
1. For the purpose of providing assurance of compliance with the provisions of
this Interim Agreement, each Party shall use national technical means of
verification at its disposal in a manner consistent with generally recognized
principles of international law.
2. Each party undertakes not to interfere with the national technical means of
verification of the other Party operating in accordance with paragraph I of this
Article.
3. Each Party undertakes not to use deliberate concealment measures which
impede verification by national technical means of compliance with the provisions
of this Interim Agreement. This obligation shall not require changes in current
construction, assembly, conversion, or overhaul practices.
Article VI
To promote the objectives and implementation of the provisions of this
Interim Agreement, the Parties shall use the Standing Consultative Commission
established under Article IX of the Treaty on the Limitation of Anti-Ballistic
Missile Systems in accordance with the provisions of that Article.
Article VII
The Parties undertake to continue active negotiations for limitations on
strategic offensive arms. The obligations provided for in this Interim Agreement
shall not prejudice the scope or terms of the limitations on strategic offensive arms
which may be worked out in the course of further negotiations.
Article VIII
1. This Interim Agreement shall enter into force upon exchange of written
notices of acceptance by each Party, which exchange shall take place
simultaneously with the exchange of instruments of ratification of the Treaty on the
Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems.
2. This Interim Agreement shall remain in force for a period of five years
unless replaced earlier by an agreement on more complete measures limiting
strategic offensive arms. It is the objective of the Parties to conduct active follow-on
negotiations with the aim of concluding such an agreement as soon as possible.
3. Each Party shall, in exercising its national sovereignty, have the right to
withdraw from this Interim Agreement if it decides that extraordinary events related
to the subject matter of this Interim Agreement have jeopardized its supreme
interests. It shall give notice of its decision to the other Party six months prior to
withdrawal from this Interim Agreement. Such notice shall include a statement of
the extraordinary events the notifying Party regards as having jeopardized its
supreme interests.
DONE at Moscow on May 26, 1972, in two copies, each in the English and
Russian languages, both texts being equally authentic.
FOR THE UNITED STATES OF AMERICA
President of the United States of America
RICHARD NIXON
FOR THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS
General Secretary of the Central Committee of the CPSU
L. I. BREZHNEV
TREATY BETWEEN THE UNITED STATES OF AMERICA AND
THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS ON THE
REDUCTION AND LIMITATION OF STRATEGIC OFFENSIVE
ARMS
The United States of America and the Union of Soviet Socialist Republics,
hereinafter referred to as the Parties,
Conscious that nuclear war would have devastating consequences for all humanity,
that it cannot be won and must never be fought,
Convinced that the measures for the reduction and limitation of strategic offensive
arms and the other obligations set forth in this Treaty will help to reduce the risk of
outbreak of nuclear war and strengthen international peace and security,
Recognizing that the interests of the Parties and the interests of international
security require the strengthening of strategic stability,
Mindful of their undertakings with regard to strategic offensive arms in Article VI
of the Treaty on the Non-Proliferation of Nuclear Weapons of July 1, 1968; Article
XI of the Treaty on the Limitation of Anti-Ballistic Missile Systems of May 26,
Have agreed as follows:
1972; and the Washington Summit Joint Statement of June 1, 1990, [ABA]
ARTICLE I
Each Party shall reduce and limit its strategic offensive arms in accordance with the
provisions of this Treaty, and shall carry out the other obligations set forth in this
Treaty and its Annexes, Protocols, and Memorandum of Understanding.
ARTICLE II
1. Each Party shall reduce and limit its ICBMs and ICBM launchers, SLBMs and
SLBM launchers, heavy bombers, ICBM warheads, SLBM warheads, and heavy
bomber armaments, so that seven years after entry into force of this Treaty and
thereafter, the aggregate numbers, as counted in accordance with Article III of this
Treaty, do not exceed:
(a) 1600, for deployed ICBMs and their associated launchers, deployed SLBMs and
their associated launchers, and deployed heavy bombers, including 154 for
deployed heavy ICBMs and their associated launchers; [RF MOU, Section II] [US
MOU, Section II] [Agreed State 33]
(b) 6000, for warheads attributed to deployed ICBMs, deployed SLBMs, and
deployed heavy bombers, [RF MOU, Section II] [US MOU, Section II] including:
[Agreed State 33] [START II, Art. I,3]
(i) 4900, for warheads attributed to deployed ICBMs and deployed SLBMs; [RF
MOU, Section II][US MOU, Section II][START II, Art. I,4] [Agreed State 33]
(ii) 1100, for warheads attributed to deployed ICBMs on mobile launchers of
ICBMs;[RF MOU, Section II]
(iii) 1540, for warheads attributed to deployed heavy ICBMs. [phased heavy
reductions [RF MOU, Section II] ABA
2. Each Party shall implement the reductions pursuant to paragraph 1 of this Article
in three phases, so that its strategic offensive arms do not exceed:
(a) by the end of the first phase, that is, no later than 36 months after entry into
force of this Treaty, and thereafter, the following aggregate numbers:
(i) 2100, for deployed ICBMs and their associated launchers, deployed SLBMs and
their associated launchers, and deployed heavy bombers;
(ii) 9150, for warheads attributed to deployed ICBMs, deployed SLBMs, and
deployed heavy bombers;
(iii) 8050, warheads attributed to deployed ICBMs and deployed SLBMs;
(b) by the end of the second phase, that is, no later than 60 months after entry into
force of this Treaty, and thereafter, the following aggregate numbers:
(i) 1900, for deployed ICBMs and their associated launchers, deployed SLBMs and
their associated launchers, and deployed heavy bombers;
(ii) 7950, for warheads attributed to deployed ICBMs, deployed SLBMs, and
deployed heavy bombers;
(iii) 6750, warheads attributed to deployed ICBMs and deployed SLBMs;
(c) by the end of the third phase, that is, no later than 84 months after entry into
force of this Treaty: the aggregate numbers provided for in paragraph 1 of this
Article .ABA
3. Each Party shall limit the aggregate throw-weight [RF MOU, Section II] [US
MOU Section II]of its deployed ICBMs [RF MOU, Section I] [US MOU Section I]
and deployed SLBMs [RF MOU, Section I] [US MOU Section I] so that seven
years after entry into force of this Treaty and thereafter such aggregate throw-
weight does not exceed 3600 metric tons. ABA [Throw-weight Limits/Provisions
for Types of ICBMs and SLBMs]
ARTICLE III
1. For the purposes of counting toward the maximum aggregate limits provided for
in subparagraphs 1(a), 2(a)(i), and 2(b)(i) of Article II of this Treaty:
(a) Each deployed ICBM and its associated launcher shall be counted as one unit;
each deployed SLBM and its associated launcher; shall be counted as one unit.
(b) Each deployed heavy bombers shall be counted as one unit. ABA
2. For the purposes of counting deployed ICBMs and their associated launchers and
deployed SLBMs and their associated launchers
(a) Each deployed launcher of ICBMs and each deployed launcher of SLBMs shall
be considered to contain one deployed ICBM or one deployed SLBM, respectively.
ABA
(b) If a deployed ICBM has been removed from its launcher and another missile has
not been installed in that launcher, such an ICBM removed from its launcher and
located at that ICBM base shall continue to be considered to be contained in that
launcher. ABA
(c) If a deployed SLBM has been removed from its launcher and another missile has
not been installed in that launcher, such an SLBM removed from its launcher shall
be considered to be contained in that launcher. Such an SLBM removed from its
launcher shall be located only at a facility at which non-deployed SLBMs may be
located pursuant to subparagraph 9(a) of Article IV of this Treaty or be in
movement to such a facility. ABA
3. For the purposes of this Treaty, including counting ICBMs and SLBMs:
(a) For ICBMs or SLBMs that are maintained, stored, and transported in stages, the
first stage of an ICBM or SLBM of a particular type shall be considered to be an
ICBM or SLBM of that type. [US MOU Annex F][RF MOU, Annex F]
(b) For ICBMs or SLBMs that are maintained, stored, and transported as assembled
missiles without launch canisters, an assembled missile of a particular type shall be
considered to be an ICBM or SLBM of that type.[RF MOU, Annex F]
(c) For ICBMs that are maintained, stored, and transported as assembled missiles in
launch canisters, an assembled missile of a particular type, in its launch canister,
shall be considered to be an ICBM of that type.[RF MOU, Annex F]
(d) Each launch canister shall be considered to contain an ICBM from the time it
first leaves a facility at which an ICBM is installed in it until an ICBM has been
launched from it or until an ICBM has been removed from it for elimination. A
launch canisters shall not be considered to contain an ICBM if it contains a training
model of a missile or has been placed on static display. Launch canisters for
ICBMs of a particular type shall be distinguishable from launch canisters for
ICBMs of a different type.
4. For the purposes of counting warheads:
(a) The number of warheads attributed to an ICBM or SLBM of each existing type
shall be the number specified in the Memorandum of Understanding [RF MOU,
Section I] [US MOU, Section I]on the Establishment of the Data Base Relating to
this Treaty, hereinafter referred to as the Memorandum of Understanding.
(b) The number of warheads that will be attributed to an ICBM or SLBM of a new
type shall be the maximum number of reentry vehicles with which an ICBM or
SLBM of that type has been flight-tested. The number of warheads that will be
attributed to an ICBM or SLBM of a new type with a front section of an existing
design with multiple reentry vehicles, or to an ICBM or SLBM of a new type with
one reentry vehicle, shall be no less than the nearest integer that is smaller than the
result of dividing 40 percent of the accountable throw-weight of the ICBM or
SLBM by the weight of the lightest reentry vehicle flight-tested on an ICBM of
SLBM of a new type. In the case of an ICBM or SLBM of a new type with a of
warheads that will be attributed to an ICBM of SLBM of a new type with a front
section of a fundamentally new design, the question of the applicability of the 40-
percent rule to such an ICBM or SLBM shall be subject to agreement within the
framework of the Joint Compliance and Inspection Commission. Until agreement
has been reached regarding the rule that will apply to such an ICBM or SLBM, the
number of warheads that will be attributed to such an ICBM or SLBM shall be the
maximum number of reentry vehicles with which an ICBM or SLBM of that type
has been flight-tested. The number of new types of ICBMs or SLBMs with a front
section of a fundamentally new design shall not exceed two for each Party as long
as this Treaty remains in force.[Agreed State 24]
(c) The number of reentry vehicles with which an ICBM or SLBM has been flight-
tested shall be considered to be the sum of the number of reentry vehicles actually
released during the flight test, plus the number of procedures for dispensing reentry
vehicles performed during that same flight test when no reentry vehicle was
released. A procedure for dispensing penetration aids shall not be considered to be a
procedure for dispensing reentry vehicles, provided that the procedure for
dispensing penetration aids differs from a procedure for dispensing reentry vehicles.
(d) Each reentry vehicle of an ICBM or SLBM shall be considered to be one
warhead. [Agreed State 3]
(e) For the United States of America, each heavy bomber equipped for long-range
nuclear ALCMs, up to a total of 150 such heavy bombers, shall be attributed[MOU
US Section I] with ten warheads. Each heavy bomber equipped for long-range
nuclear ALCMs in excess of 150 such heavy bombers shall be attributed[MOU US
Section I] with a number of warheads equal to the number of long-range nuclear
ALCMs for which it is actually equipped. The United States of America shall
specify the heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs that are in
excess of 150 such heavy bombers by number, type, variant, and the air bases at
which they are based. The number of long-range nuclear ALCMs for which each
heavy bomber equipped for long-range nuclear ALCMs in excess of 150 such heavy
bombers is considered to be actually equipped shall be the maximum number of
long-range nuclear ALCMs for which a heavy bomber of the same type and variant
is actually equipped.[category]
(f) For the Union of Soviet Socialist Republics, each heavy bomber equipped for
long-range nuclear ALCMs, up to a total of 180 such heavy bombers, shall be
attributed[MOU RF Section I] with eight warheads. Each heavy bomber equipped
for long-range nuclear ALCMs in excess of 180 such heavy bombers shall be
attributed with a number of warheads equal to the number of long-range nuclear
ALCMs for which it is actually equipped. The Union of Soviet Socialist Republics
shall specify the heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs that are in
excess of 180 such heavy bombers by number, type, variant, and the air bases at
which they are based. The number of long-range nuclear ALCMs for which each
heavy bomber equipped for long-range nuclear ALCMs in excess of 180 such heavy
bombers is considered to be actually equipped shall be the maximum number of
long-range nuclear ALCMs for which a heavy bomber of the same type and variant
is actually equipped.[category]
(g) Each heavy bomber equipped for nuclear armaments other than long-range
nuclear ALCMs[MOU US Annex G][MOU RF Annex G] shall be attributed[MOU
US Section I] [MOU RF Section I] with one warhead. All heavy bombers not
equipped for long-range nuclear ALCMs shall be considered to be heavy bombers
equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear ALCMs, with the
exception of heavy bombers equipped for non-nuclear armaments, test heavy
bombers, and training heavy bombers. [category] [START II, Art. IV.1,2]
5. Each Party shall have the right to reduce the number of warheads attributed to
ICBMs and SLBMs only of existing types, up to an aggregate number of 1250 at
any one time.[START MOU, Section III][MOU RF Section III] [START II Art III.
2 (a)]
(a) Such aggregate number shall consist of the following:
(i) for the United States of America, the reduction in the number of warheads
attributed to the type of ICBM designated by the United States of America as, and
known to the Union of Soviet Socialist Republics as, Minuteman III, plus the
reduction in the number of warheads attributed to ICBMs and SLBMs of no more
than two other existing types; [START MOU, Section III]
(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, four multiplied by the number of
deployed SLBMs designated by the Union of Soviet Socialist Republics as RSM-
50, which is known to the United States of America as SS-N-18, [MOU RF Section
III]plus the reduction in the number of warheads attributed to ICBMs and SLBMs
of no more than two other existing types.
(b) Reductions in the number of warheads attributed to Minuteman III shall be
carried out subject to the following:
(i) Minuteman III to which different numbers of warheads are attributed shall not be
deployed at the same ICBM base.
(ii) Any such reductions shall be carried out no later than seven years after entry
into force of this Treaty.
(iii) The reentry vehicle platform of each Minuteman III to which a reduced number
of warheads is attributed shall be destroyed and replaced by a new reentry vehicle
platform. [START II Art III.2(d)]
(c) Reductions in the number of warheads attributed to ICBMs and SLBMs of types
other than Minuteman III shall be carried out subject to the following:
(i) Such reductions shall not exceed 500 warheads at any one time for each Party.
[START II Art III.2(b)]
(ii) After a Party has reduced the number of warheads attributed to ICBMs or
SLBMs of two existing types, that Party shall not have the right to reduce the
number of warheads attributed to ICBMs or SLBMs of any additional type.
(iii) The number of warheads attributed to an ICBM or SLBM shall be reduced by
no more than four below the number attributed as of the date of signature of this
Treaty. [START II Art III.2(c)]
(iv) ICBMs of the same type, but to which different numbers of warheads are
attributed, shall not be deployed at the same ICBM base.
(v) SLBMs of the same type, but to which different numbers of warheads are
attributed, shall not be deployed on submarines based at submarine bases adjacent
to the waters of the same ocean.
(vi) If the number of warheads attributed to an ICBM or SLBM of a particular type
is reduced by more than two, the reentry vehicle platform of each ICBM or SLBM
to which such a reduced number of warheads is attributed shall be destroyed and
replaced by a new reentry vehicle platform. [START II Art III.2(d)]
(d) A Party shall not have the right to attribute to ICBMs of a new type a number of
warheads greater than the smallest number of warheads attributed to any ICBM to
which that Party has attributed a reduced number of warheads pursuant to
subparagraph (c) of this paragraph. A Party shall not have the right to attribute to
SLBMs of a new type a number of warheads greater than the smallest number of
warheads attributed to any SLBM to which that Party has attributed a reduced
number of warheads pursuant to subparagraph (c) of this paragraph.
6. Newly constructed strategic offensive arms shall begin to be subject to the
limitations provided for in this Treaty as follows:
(a) an ICBM, when it first leaves a production facility;
(b) a mobile launcher of ICBMs, when it first leaves a production facility for mobile
launchers of ICBMs;
(c) a silo launcher of ICBMs, when excavation for that launcher has been completed
and the pouring of concrete for the silo has been completed, or 12 months after the
excavation begins, whichever occurs earlier;
(d) for the purpose of counting a deployed ICBM and its associated launcher, a silo
launchers of ICBMs shall be considered to contain a deployed ICBM when
excavation for that launcher has been completed and the pouring of concrete for the
silo has been completed, or 12 months after the excavation begins, whichever
occurs earlier, and a mobile launcher of ICBMs shall be considered to contain a
deployed ICBM when it arrives at a maintenance facility, [Def 19]except for the
non-deployed mobile launchers of ICBMs provided for in subparagraph 2(b) of
Article IV of this Treaty, or when it leaves an ICBM loading facility;
(e) an SLBM, when it first leaves a production facility;
(f) an SLBM launcher, when the submarine on which that launcher is installed is
first launched;
(g) for the purpose of counting a deployed SLBM and its associated launcher, an
SLBM launcher shall be considered to contain a deployed SLBM when the
submarine on which that launcher is installed is first launched; [Def 18]
(h) a heavy bomber or former heavy bomber, when its airframe is first brought out
of the shop, plant, or building in which components of a heavy bomber or former
heavy bomber are assembled to produce complete airframes; or when its airframe is
first brought out of the shop, plant, or building in which existing bomber airframes
are converted to heavy bomber or former heavy bomber airframes. [Def 14] [Def
82 (d)] [Agreed State 12]
7. ICBM launchers and SLBM launchers that have been converted to launch an
ICBM or SLBM, respectively, of a different type shall not be capable of launching
an ICBM or SLBM of the previous type. Such converted launchers shall be
considered to be launchers of ICBMs or SLBMs of that different type as follows:
(a) a silo launchers of ICBMs, when an ICBM of a different type or a training
model of a missile of a different type is first installed in that launcher, or when the
silo door is reinstalled, whichever occurs first; [Notocol IV.3]
(b) a mobile launcher of ICBMs, as agreed within the framework of the Joint
Compliance and Inspection Commission;
(c) an SLBM launcher, when all launchers on the submarine on which that launcher
is installed have been converted to launch an SLBM of that different type and that
submarine begins sea trials, that is, when that submarine first operates under its own
power away from the harbor or port in which the conversion of launchers was
performed. [Notocol V.4]
8. Heavy bombers that have been converted into heavy bombers of a different
category or into former heavy bombers shall be considered to be heavy bombers of
that different category or former heavy bombers as follows:
(a) a heavy bomber equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear
ALCMs converted into a heavy bomber equipped for long-range nuclear ALCMs,
when it is first brought out of the shop, plant, or building where it was equipped for
long-range nuclear ALCMs; [US MOU Annex G, (I), (II), (III) [RF MOU Annex
G, (i), (ii)]
(b) a heavy bomber of one category converted into a heavy bomber of another
category provided for in paragraph 9 of Section VI of the Protocol on Procedures
Governing the Conversion or Elimination of the Items Subject to this Treaty,
hereinafter referred to as the Conversion or Elimination Protocol, or into a former
heavy bomber, when the inspection conducted pursuant to paragraph 13 of Section
VI of the Conversion or Elimination Protocol is completed or, if such an inspection
is not conducted, when the 20-day period provided for in paragraph 13 of Section
VI of the Conversion or Elimination Protocol expires.
9. For the purposes of this Treaty:
(a) A ballistic missile of a type developed and tested solely to intercept and counter
objects not located on the surface of the Earth shall not be considered to be a
ballistic missile to which the limitations provided for in this Treaty apply.
(b) If a ballistic missile has been flight-tested or deployed for weapon delivery, all
ballistic missiles of that type shall be considered to be weapon-delivery vehicles.
(c) If a cruise missile has been flight-tested or deployed for weapon delivery, all
cruise missiles of that type shall be considered to be weapon-delivery vehicles.
(d) If a launcher, other than a soft-site launcher, has contained an ICBM or SLBM
of a particular type, it shall be considered to be a launcher of ICBMs or SLBMs of
that type. If a launcher, other than a soft-site launcher, has been converted into a
launcher of ICBMs or SLBMs of a different type, it shall be considered to be a
launcher of ICBMs or SLBMs of the type for which it has been converted.
(e) If a heavy bomber is equipped for long-range nuclear ALCMs, all heavy
bombers of that type shall be considered to be equipped for long-range nuclear
ALCMs, except those that are not so equipped and are distinguishable from heavy
bombers of the same type equipped for long-range nuclear ALCMs. If long-range
nuclear ALCMs have not been flight-tested from any heavy bomber of a particular
type, no heavy bomber of that type shall be considered to be equipped for long-
range nuclear ALCMs. Within the same type, a heavy bomber equipped for long-
range nuclear ALCMs, a heavy bomber equipped for nuclear armaments other than
long-range nuclear ALCMs, a heavy bomber equipped for non-nuclear armaments,
a training heavy bomber, and a former heavy bomber shall be distinguishable from
one another. [category][US MOU Annex G, (I), (II), (III)] [RF MOU Annex G, (i),
(ii)]
(f) Any long-range ALCM of a type, any one of which has been initially flight-
tested from a heavy bomber on or before December 31, 1988, shall be considered to
be a long-range nuclear ALCM. Any long-range ALCM of a type, any one of which
has been initially flight-tested from a heavy bomber after December 31, 1988, shall
not be considered to be a long-range nuclear ALCM if it is a long-range non-nuclear
ALCM and is distinguishable from long-range nuclear ALCMs. Long-range non-
nuclear ALCMs not so distinguishable shall be considered to be long-range nuclear
ALCMs. [TACIT RAINBOW] [TSSAM Statements]
(g) Mobile launchers of ICBMs of each new type of ICBM shall be distinguishable
from mobile launchers of ICBMs of existing types of ICBMs and from mobile
launchers of ICBMs of other new type of ICBMs. Such new launchers, with their
associated missiles installed, shall be distinguishable from mobile launchers of
ICBMs of existing types of ICBMs with their associated missiles installed, and
from mobile launchers of ICBMs of other new types of ICBMs with their associated
missiles installed. [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F] [Agreed State 19]
(h) Mobile launchers of ICBMs converted into launchers of ICBMs of another type
of ICBM shall be distinguishable from mobile launchers of ICBMs of the previous
type of ICBM. Such converted launchers, with their associated missiles installed,
shall be distinguishable from mobile launchers of ICBMs of the previous type of
ICBM with their associated missiles installed. Conversion of mobile launchers of
ICBMs shall be carried out in accordance with procedures to be agreed within the
framework of the Joint Compliance and Inspection Commission. [Agreed State 19]
10. As of the date of signature of this Treaty:
(a) Existing types of ICBMs and SLBMs are:
(i) for the United States of America, the types of missiles designated by the United
States of America as Minuteman II, Minuteman III, Peacekeeper, Poseidon, Trident
I, and Trident II, which are known to the Union of Soviet Socialist Republics as
Minuteman II, Minuteman III, MX, Poseidon, Trident I, and Trident II,
respectively; [US MOU Section I] [US MOU Annex F]
(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of missiles designated by
the Union of Soviet Socialist Republics as RS-10, RS-12, RS-16, RS-20, RS-18,
RS-22, RS-12M, RSM-25, RSM-40, RSM-50, RSM-52, and RSM-54, which are
known to the United States of America as SS-11, SS-13, SS-17, SS-18, SS-19, SS-
24, SS-25, SS-N-6, SS-N-8, SS-N-18, SS-N-20, and SS-N-23, respectively. [RF
MOU Section I] [RF MOU, Annex F] [RF MOU Annex I]
(b) Existing types of ICBMs for mobile launchers of ICBMs are:
(i) for the United States of America, the type of missile designated by the United
States of America as Peacekeeper, which is known to the Union of Soviet Socialist
Republics as MX; [US MOU Annex F]
(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of missiles designated by
the Union of Soviet Socialist Republics as RS-22 and RS-12M, which are known to
the United States of America as SS-24 and SS-25, respectively. [RF MOU, Annex
F]
(c) Former types of ICBMs and SLBMs are the types of missiles designated by the
United States of America as, and known to the Union of Soviet Socialist Republics
as, Minuteman I and Polaris A-3.
(d) Existing types of heavy bombers are:
(i) for the United States of America, the types of bombers designated by the United
States of America as, and known to the Union of Soviet Socialist Republics as, B-
52, B-1, and B-2; [US MOU Annex G]
(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of bombers designated by
the Union of Soviet Socialist Republics as Tu-95 and Tu-160, which are known to
the United States of America as Bear and Blackjack, respectively. [RF MOU,
Annex G] [Soviet TU-22M Declaration]
(e) Existing types of long-range nuclear ALCMs are:
(i) for the United States of America, the types of long-range nuclear ALCMs
designated by the United States of America as, and known to the Union of Soviet
Socialist Republics as, AGM-86B and AGM-129; [US MOU Annex H]
(ii) for the Union of Soviet Socialist Republics, the types of long-range nuclear
ALCMs designated by the Union of Soviet Socialist Republics as RKV-500A and
RKV-500B, which are known to the United States of America as AS-15 A and AS-
15 B, respectively.[ RF MOU, Annex H] [Nuclear SLCM Policy Declarations]
ARTICLE IV
1. For ICBMs and SLBMs:
(a) Each Party shall limit the aggregate number of non-deployed ICBMs for mobile
launchers of ICBMs to no more than 250. Within this limit, the number of non-
deployed ICBMs for rail-mobile launchers of ICBMs shall not exceed 125.[RF
MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed State 37]
(b) Each Party shall limit the number of non-deployed ICBMs at a maintenance
facility of an ICBM base for mobile launchers of ICBMs to no more than two
ICBMs of each type specified for that ICBM base. Non-deployed ICBMs for mobile
launchers of ICBMs located at a maintenance facilityshall be stored separately from
non-deployed mobile launchers of ICBMs located at that maintenance facility.
(c) Each Party shall limit the number of non-deployed ICBMs and sets of ICBM
emplacement equipment at an ICBM base for silo launchers of ICBMs to no more
than:
(i) two ICBMs of each type specified for that ICBM base and six sets of ICBM
emplacement equipment for each type of ICBM specified for that ICBM base; or
[RF MOU Annex A] [US MOU, Annex A]
(ii) four ICBMs of each type specified for that ICBM base and two sets of ICBM
emplacement equipment for each type of ICBM specified for that ICBM base. [RF
MOU Annex A] [US MOU, Annex A]
(d) Each Party shall limit the aggregate number of ICBMs and SLBMs located at
test ranges to no more than 35 during the seven-year period after entry into force of
this Treaty. Thereafter, the aggregate number of ICBMs and SLBMs located at test
ranges shall not exceed 25. [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed
State 37]
2. For ICBM launchers and SLBM launchers:
(a) Each Party shall limit the aggregate number of non-deployed mobile launchers
of ICBMs to no more than 110. Within this limit, the number of non-deployed rail-
mobile launchers of ICBMs shall not exceed 18. [RF MOU, Section IV] [US
MOU Section IV]
(b) Each Party shall limit the number of non-deployed mobile launchers of ICBMs
located at the maintenance facility of each ICBM base for mobile launchers of
ICBMs to no more than two such ICBM launchers of each type of ICBM specified
for that ICBM base. [RF MOU Annex A]
(c) Each Party shall limit the number of non-deployed mobile launchers of ICBMs
located at training facilities for ICBMs to no more than 40. Each such launcher may
contain only a training model of a missile. Non-deployed mobile launchers of
ICBMs that contain training models of missiles shall not be located outside a
training facility.[RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV]
(d) Each Party shall limit the aggregate number of test launchers to no more than 45
during the seven-year period after entry into force of this Treaty. Within this limit,
the number of fixed test launchers shall not exceed 25, and the number of mobile
test launchers shall not exceed 20. Thereafter, the aggregate number of test
launchers shall not exceed 40. Within this limit, the number of fixed test launchers
shall not exceed 20, and the number of mobile test launchers shall not exceed
20.[RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed State 37(h)]
(e) Each Party shall limit the aggregate number of silo training launchers and
mobile training launchers to no more than 60. ICBMs shall not be launched from
training launchers. Each such launcher may contain only a training model of a
missile. Mobile training launchers shall not be capable of launching ICBMs, and
shall differ from mobile launchers of ICBMs and other road vehicles or railcars on
the basis of differences that are observable by national technical means of
verification. [Agreed State 13] [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV]
3. For heavy bombers and former heavy bombers:
(a) Each Party shall limit the aggregate number of heavy bombers equipped for non-
nuclear armaments, former heavy bombers, and training heavy bombers to no more
than 75. [category] [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV] [Agreed State 6]
[Agreed State 12]
(b) Each Party shall limit the number of test heavy bombers to no more than 20.
[category] [RF MOU, Section IV] [US MOU Section IV]
4. For ICBMs and SLBMs used for delivering objects into the upper atmosphere or
space: [JCIC Joint State 21]
(a) Each Party shall limit the number of space launch facilities to no more than five,
unless otherwise agreed. Space launch facilities shall not overlap ICBM bases.[RF
MOU, Annex D ] [US MOU Annex D]
(b)Each Party shall limit the aggregate number of ICBM launchers and SLBM
launchers located at space launch facilities to no more than 20, unless otherwise
agreed. Within this limit, the aggregate number of silo launchers of ICBMs and
mobile launchers of ICBMs located at space launch facilities shall not exceed ten,
unless otherwise agreed. [Agreed State 26][Agreed State 37(h)]
(c) Each Party shall limit the aggregate number of ICBMs and SLBMs located at a
space launch facility to no more than the number of ICBM launchers and SLBM
launchers located at that facility.[Agreed State 37]
5. Each Party shall limit the number of transporter-loaders for ICBMs for road-
mobile launchers of ICBMs located at each deployment area or test range to no
more than two for each type of ICBM for road-mobile launchers of ICBMs that is
attributed with one warhead and that is specified for that deployment area or test
range, and shall limit the number of such transporter-loaders located outside
deployment areas and test ranges to no more than six. The aggregate number of
transporter-loaders for ICBMs for road-mobile launchers of ICBMs shall not exceed
30.[RF MOU, Section IV]
6. Each Party shall limit the number of ballistic missile submarines in dry dock
within five kilometers of the boundary of each submarine base to no more than two.
7. For static displays and ground trainers:
(a) Each Party shall limit the number of ICBM launchers and SLBM launchers
placed on static displays after signature of this Treaty to no more than 20, the
number of ICBMs [RF MOU, Annex A] [US MOU, Annex A] [Uk MOU, Annex
A] and SLBMs [RF MOU, Annex B] [US MOU, Annex B] placed on static display
after signature of this Treaty to no more than 20, the number of launch canisters
placed on static display after signature of this Treaty to no more than 20, and the
number of heavy bombers and former heavy bombers placed on static display after
signature of this Treaty to no more than 20. Such items placed on static display
prior to signature of this Treaty shall be specified in Annex I to the Memorandum of
Understanding, but shall not be subject to the limitations provided for in this Treaty.
(b) Each Party shall limit the aggregate number of heavy bombers converted after
signature of this Treaty for use as ground trainers and former heavy bombers
converted after signature of this Treaty for use as ground trainers to no more than
five. Such items converted prior to signature of this Treaty for use as ground
trainers shall be specified in Annex I to the Memorandum of Understanding, but
shall not be subject to the limitations provided for in this Treaty.
8. Each Party shall limit the aggregate number of storage facilities for ICBMs or
SLBMs and repair facilities for ICBMs or SLBMs to no more than 50.
9. With respect to locational and related restrictions on strategic offensive arms:
(a) Each Party shall locate non-deployed ICBMs and non-deployed SLBMs only at
maintenance facilities of ICBM bases; submarine bases; ICBM loading facilities;
SLBM loading facilities; production facilities for ICBMs or SLBMs; repair
facilities for ICBMs or SLBMs; storage facilities for ICBMs or SLBMs; conversion
or elimination facilities for ICBMs or SLBMs; test ranges; or space launch
facilities. Prototype ICBMs and prototype SLBMs, however, shall not be located at
maintenance facilities of ICBM bases or at submarine bases. Non-deployed ICBMs
and non-deployed SLBMs may also be in transit. Non-deployed ICBMs for silo
launchers of ICBMs may also be transferred within an ICBM base for silo launchers
of ICBMs. Non-deployed SLBMs that are located on missile tenders and storage
cranes shall be considered to be located at the submarine base at which such missile
tenders and storage cranes are specified as based. [Agreed State 37] [Agreed State
19]
(b) Each Party shall locate non-deployed mobile launchers of ICBMs only at
maintenance facilities of ICBM bases for mobile launchers of ICBMs, production
facilities for mobile launchers of ICBMs, repair facilities for mobile launchers of
ICBMs, storage facilities for mobile launchers of ICBMs, ICBM loading facilities,
training facilities for ICBMs, conversion or elimination facilities for mobile
launchers of ICBMs, test ranges, or space launch facilities. Mobile launchers of
prototype ICBMs, however, shall not be located at maintenance facilities of ICBM
bases for mobile launchers of ICBMs. Non-deployed mobile launchers of ICBMs
may also be in transit. [Agreed State 19]
(c) Each Party shall locate test launchers only at test ranges, except that rail-mobile
test launchers may conduct movements for the purpose of testing outside a test
range, provided that:
(i) each such movement is completed no later than 30 days after it begins;
(ii) each such movement begins and ends at the same test ranges and does not
involve movement to any other facility;
(iii) movements of no more than six rail-mobile launchers of ICBMs are conducted
in each calendar year; and
(iv) no more than one train containing no more than three rail-mobile test launchers
is located outside test ranges at any one time.
(d) A deployed mobile launcher of ICBMs and its associated missile that relocates
to a test range may, at the discretion of the testing Party, either continue to be
counted toward the maximum aggregate limits provided for in Article II of this
Treaty, or be counted as a mobile test launchers pursuant to paragraph 2(d) of this
Article. If a deployed mobile launcher of ICBMs and its associated missile that
relocates to a test range continues to be counted toward the maximum aggregate
limits provided for in Article II of this Treaty, the period of time during which it
continuously remains at a test range shall not exceed 45 days. The number of such
deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles located at a
test range at any one time shall not exceed three, and the number of such deployed
rail-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles located at a test range
at any one time shall not exceed three.
(e) Each Party shall locate silo training launchers only at ICBM bases for silo
launchers of ICBMs and training facilities for ICBMs. The number of silo training
launchers located at each ICBM bases for silo launchers of ICBMs shall not exceed
one for each type of ICBM specified for that ICBM base.
(f) Test heavy bombersshall be based only at heavy bomber flight test centers and at
production facilities for heavy bombers. Training heavy bombers shall be based
only at training facilities for heavy bombers.
10. Each Party shall locate solid rocket motors for first stages of ICBMs for mobile
launchers of ICBMs only at locations where production and storage, or testing of
such motors occurs and at production facilities for ICBMs for mobile launchers of
ICBMs. Such solid rocket motors may also be moved between these locations. Solid
rocket motors with nozzles attached for the first stages of ICBMs for mobile
launchers of ICBMs shall only be located at production facilities for ICBMs for
mobile launchers of ICBMs and at locations where testing of such solid rocket
motors occurs. Locations where such solid rocket motors are permitted shall be
specified in Annex I to the Memorandum of Understanding. [RF MOU, Annex I]
[US MOU, Annex I] [Agreed State 28]
11. With respect to locational restrictions on facilities:
(a) Each Party shall locate production facilities for ICBMs of a particular type,
repair facilities for ICBMs of a particular type, storage facilities for ICBMs of a
particular type, ICBM loading facilities for ICBMs of a particular type, and
conversion or elimination facilities for ICBMs of a particular type no less than 100
kilometers from any ICBM base for silo launchers of ICBMs of that type of ICBM,
any ICBM base for rail-mobile launchers of ICBMs of that type of ICBM, any
deployment area for road-mobile launchers of ICBMs of that type of ICBM, any
test range from which ICBMs of that type are flight-tested, any production facility
for mobile launchers of ICBMs of that type of ICBM, any repair facility for mobile
launchers of ICBMs of that type of ICBM, any storage facility for mobile launchers
of ICBMs of that type of ICBM, and any training facility for ICBMs at which non-
deployed mobile launchers of ICBMs are located. New facilities at which non-
deployed ICBMs for silo launchers of ICBMs of ICBMs of any type of ICBM may
be located, and new storage facilities for ICBM emplacement equipment, shall be
located no less than 100 kilometers from any ICBM base for silo launchers of
ICBMs, except that existing storage facilities for intermediate-range missiles,
located less than 100 kilometers from an ICBM base for silo launchers of ICBMs or
from a test range, may be converted into storage facilities for ICBMs not specified
for that ICBM base or that test range. [Agreed State 14]
(b) Each Party shall locate production facilities for mobile launchers of ICBMs of a
particular type of ICBM, repair facilities for mobile launchers of ICBMs of a
particular type of ICBM, and storage facilities for mobile launchers of ICBMs of a
particular type of ICBM no less than 100 kilometers from any ICBMs for mobile
launchers of ICBMs of that type of ICBM and any test range from which ICBMs of
that type are flight-tested.
(c) Each Party shall locate test ranges and space launch facilities no less than 100
kilometers from any ICBM base for silo launchers of ICBMs, any ICBM base for
rail-mobile launchers of ICBMs, and any deployment area.[Agreed State 26]
(d) Each Party shall locate training facilities for ICBMs no less than 100 kilometers
from any test range.[Agreed State 15]
(e) Each Party shall locate storage areas for heavy bomber nuclear armaments no
less than 100 kilometers from any air base for heavy bombers equipped for non-
nuclear armaments and any training facility for heavy bombers. Each Party shall
locate storage areas for long-range nuclear ALCMs no less than 100 kilometers
from any air base for heavy bombers equipped for nuclear armaments other than
long-range nuclear ALCMs, any air base for heavy bombers equipped for non-
nuclear armaments, and any training facility for heavy bombers.
12. Each Party shall limit the duration of each transit to no more than 30 days.
ARTICLE V
< A>1. Except as prohibited by the provisions of this Treaty, modernization and
replacement of strategic offensive arms may be carried out.
2. Each Party undertakes not to:
(a) produce, flight-test, or deploy heavy ICBMs of a new type, or increase the
launch weight [RF MOU, Annex F] or throw-weight [RF MOU, Section I] of heavy
ICBMs of an existing type;
(b) produce, flight-test, or deploy heavy SLBMs;
(c) produce test, or deploy mobile launchers of heavy ICBMs;
(d) produce, test, or deploy additional silo launchers of ICBMs of heavy ICBMs,
except for silo launchers of heavy ICBMs that replace silo launchers of heavy
ICBMs that have been eliminated in accordance with Section II of the Conversion
or Elimination Protocol, provided that the limits provided for in Article II of this
Treaty are not exceeded; [Agreed State 5]
(e) convert launchers that are not launchers of heavy ICBMs into launchers of heavy
ICBMs;
(f) produce, test, or deploy launchers of heavy SLBMs;
(g) reduce the number of warheads attributed to a heavy ICBM of an existing type.
3. Each Party undertakes not to deploy ICBMs other than in silo launchers of
ICBMs, on road-mobile launchers of ICBMs, or on rail-mobile launchers of
ICBMs. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy ICBM launchers other
than silo launchers of ICBMs, road-mobile launchers of ICBMs, or rail-mobile
launchers of ICBMs.
4. Each Party undertakes not to deploy on a mobile launcher of ICBMs an ICBM of
a type that was not specified as a type of ICBM for mobile launchers of ICBMs in
accordance with paragraph 2 of Section VII of the Protocol on Notifications
Relating to this Treaty, hereinafter referred to as the Notification Protocol, unless it
is an ICBM to which no more than one warhead is attributed and the Parties have
agreed within the framework of the Joint Compliance and Inspection Commission
to permit deployment of such ICBMs on mobile launchers of ICBMs. A new type
of ICBM for mobile launchers of ICBMs may cease to be considered to be a type of
ICBM for mobile launchers of ICBMs if no ICBM of that type has been contained
on, or flight-tested from, a mobile launcher of ICBMs.
5. Each Party undertakes not to deploy ICBM launchers of a new type of ICBM and
not to deploy SLBM launchers of a new type of SLBM if such launchers are
capable of launching ICBMs or SLBMs, respectively, of other types. ICBM
launchers of existing types of ICBMs and SLBM launchers of existing types of
SLBMs shall be incapable, without conversion, of launching ICBMs or SLBMs,
respectively, of other types. [Agreed State 16]
6. Each Party undertakes not to convert SLBMs into ICBMs for mobile launchers of
ICBMs, or to load SLBMs on, or launch SLBMs from, mobile launchers of ICBMs.
7. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy transporter-loaders other
than transporter-loaders for ICBMs for road-mobile launchers of ICBMs attributed
with one warhead.
8. Each Party undertakes not to locate deployed silo launchers of ICBMs outside
ICBM bases for silo launchers of ICBMs.
9. Each Party undertakes not to locate soft-site launchers except at test ranges and
space launch facilities. All existing soft-site launchers not at test ranges or space
launch facilities shall be eliminated in accordance with the procedures provided for
in the Conversion or Elimination Protocol no later than 60 days after entry into
force of this Treaty. [Agreed State 27]
10. Each Party undertakes not to:
(a) flight-test ICBMs or SLBMs of a retired or former type from other than test
launchers specified for such use or launchers at space launch facilities. Except for
soft-site launchers, test launchers specified for such use shall not be used to flight-
test ICBMs or SLBMs of a type, any one of which is deployed; [III.10(c)]
(b) produce ICBMs for mobile launchers of ICBMs of a retired type.
11. Each Party undertakes not to convert silos used as launch control centers into
silo launchers of ICBMs. [Silo LCC Letters]
12. Each Party undertakes not to:
(a) produce, flight-test, or deploy an ICBM or SLBM with more than ten reentry
vehicles;
(b) flight-test an ICBM or SLBM with a number of reentry vehicles greater than the
number of warheads attributed to it, or, for an ICBM or SLBM of a retired type,
with a number of reentry vehicles greater than the largest number of warheads that
was attributed to any ICBM or SLBM of that type;
(c) deploy an ICBM or SLBM with a number of reentry vehicles greater than the
number of warheads attributed to it;
(d) increase the number of warheads attributed to an ICBM or SLBM of an existing
or new type. [III.4(b)]
13. Each Party undertakes not to flight-test or deploy an ICBM or SLBM with a
number of reentry vehicles greater than the number of warheads attributed to
it.[Agreed State 3]
14. Each Party undertakes not to flight-test from space launch facilities ICBMs or
SLBMs equipped with reentry vehicles.
15. Each Party undertakes not to use ICBMs or SLBMs for delivering objects into
the upper atmosphere or space for purposes inconsistent with existing international
obligations undertaken by the Parties.
16. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy systems for rapid reload
and not to conduct rapid reload.
17. Each Party undertakes not to install SLBM launchers on submarines that were
not originally constructed as ballistic missile submarines. [US MOU Annex I]
18. Each Party undertakes not to produce, test, or deploy:
(a) ballistic missiles with a range in excess of 600 kilometers, or launchers of such
missiles, for installation on waterborne vehicles, including free-floating launchers,
other than submarines. This obligation shall not require changes in current ballistic
missile storage, transport, loading, or unloading practices;[Agreed State 9] [Agreed
State 30]
(b) launchers of ballistic or cruise missiles for emplacement on or for tethering to
the ocean floor, the seabed, or the beds of internal waters and inland waters, or for
emplacement in or for tethering to the subsoil thereof, or mobile launchers of such
missiles that move only in contact with the ocean floor, the seabed, or the beds of
internal waters and inland waters, or missiles for such launchers. This obligation
shall apply to all areas of the ocean floor and the seabed, including the seabed zone
referred to in Articles I and II of the Treaty on the Prohibition of the Emplacement
of Nuclear Weapons and Other Weapons of Mass Destruction on the Seabed and the
Ocean Floor and in the Subsoil Thereof of February 11, 1971;
(c) systems, including missiles, for placing nuclear weapons or any other kinds of
weapons of mass destruction into Earth orbit or a fraction of an Earth orbit;
(d) air-to-surface ballistic missiles (ASBMs); [Agreed State 4] [Agreed State 30]
(e) long-range nuclear ALCMs armed with two or more nuclear weapons. [ALCMs
with Multiple Weapons Letters]
19. Each Party undertakes not to:
(a) flight-test with nuclear armaments an aircraft that is not an airplane, but that has
a range of 8000 kilometers or more; equip such an aircraft for nuclear armaments;
or deploy such an aircraft with nuclear armaments;
(b) flight-test with nuclear armaments an airplane that was not initially constructed
as a bomber, but that has a range of 8000 kilometers or more, or an integrated
planform area in excess of 310 square meters; equip such an airplane for nuclear
armaments; or deploy such an airplane with nuclear armaments;
(c) flight-test with long-range nuclear ALCMs an aircraft that is not an airplane, or
an airplane that was not initially constructed as a bomber; equip such an aircraft or
such an airplane for long-range nuclear ALCMs; or deploy such an aircraft or such
an airplane with long-range nuclear ALCMs.
20. The United States of America undertakes not to equip existing or future heavy
bombers for more than 20 long-range nuclear ALCMs. [US MOU Annex G]
21. The Union of Soviet Socialist Republics undertakes not to equip existing or
future heavy bombers for more than 16 long-range nuclear ALCMs. [RF MOU
Annex G]
22. Each Party undertakes not to locate long-range nuclear ALCMs at air bases for
heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear
ALCMs, air bases for heavy bmbers equipped for non-nuclear armaments, air bases
for former heavy bombers, or training facilities for heavy bombers. [US MOU
Annex C] [RF MOU Annex C] [TSSAM Statements]
23. Each Party undertakes not to base heavy bombers equipped for long-range
nuclear ALCMs, heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-
range nuclear ALCMs, or heavy bombers equipped for non-nuclear armaments at
air bases at which heavy bombers of either of the other two categories are based.
[US MOU Annex C] [RF MOU Annex C]
24. Each Party undertakes not to convert:
(a) heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-range nuclear
ALCMs into heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCM, if such heavy
bombers were previously equipped for long-range nuclear ALCMs;
(b) heavy bombers equipped for non-nuclear armaments into heavy bombers
equipped for long-range nuclear ALCM or into heavy bombers equipped for nuclear
armaments other than long-range nuclear ALCMs;
(c) training heavy bombers into heavy bombers of another category;
(d) former heavy bombers into heavy bombers.
25. Each Party undertakes not to have underground facilities accessible to ballistic
missile submarines. [Underground Submarine Facility Statements]
26. Each Party undertakes not to locate railcars at the site of a rail garrison that has
been eliminated in accordance with Section IX of the Conversion or Elimination
Protocol, unless such railcars have differences, observable by national technical
means of verification, in length, width, or height from rail-mobile launchers of
ICBMs or launch-associated railcars.
27. Each Party undertakes not to engage in any activities associated with strategic
offensive arms at eliminated facilities, notification of the elimination of which has
been provided in accordance with paragraph 3 of Section I of the Notification
Protocol, unless notification of a new facility at the same location has been provided
in accordance with paragraph 3 of Section I of the Notification Protocol. Strategic
offensive arms and support equipment shall not be located at eliminated facilities
except during their movement through such facilities and during visits of heavy
bombers or former heavy bombers at such facilities. Missile tenders may be located
at eliminated facilities only for purposes not associated with strategic offensive
arms. [Statement on Launch-Associated/Driver Training Vehicles]
28. Each Party undertakes not to base strategic offensive arms subject to the
limitations of this Treaty outside its national territory. [Agreed State 8][Agreed
State 18] [3rd Country Basing Letter]
29. Each Party undertakes not to use naval vessels that were formerly declared as
missile tenders to transport, store, or load SLBMs. Such naval vessels shall not be
tied to a ballistic missile submarines for the purpose of supporting such a submarine
if such a submarine is located within five kilometers of a submarine base.[US MOU
Annex B]
30. Each Party undertakes not to remove from production facilities for ICBMs for
mobile launchers of ICBMs, solid rocket motors with attached nozzles for the first
stages of ICBMs for mobile launchers of ICBMs, except for:
(a) the removal of such motors as part of assembled first stages of ICBMs for
ICBMs for mobile launchers of ICBMs that are maintained, stored, and transported
in stages; [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F]
(b) the removal of such motors as part of assembled ICBMs for mobile launchers of
ICBMs that are maintained, stored, and transported as assembled missiles in launch
canisters or without launch canisters; and[RF MOU Annex F] [US MOU Annex F]
[Agreed State 28]
(c) the removal of such motors as part of assembled first stages of ICBMs for
mobile launchers of ICBMs that are maintained, stored, and transported as
assembled missiles in launch canisters or without launch canisters, for the purpose
of technical characteristics exhibitions. [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F]
[Agreed State 28]
ARTICLE VI
1. Deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall be
based only in restricted areas. A restricted area shall not exceed five square
kilometers in size and shall not overlap another restricted area. No more than ten
deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles may be
based or located in a restricted area. A restricted area shall not contain deployed
ICBMs for road-mobile launchers of ICBMs of more than one type of ICBM. [RF
MOU Annex A] [Agreed State 19]
2. Each Party shall limit the number of fixed structures for road-mobile launchers of
ICBMs within each restricted areas so that these structures shall not be capable of
containing more road-mobile launchers of ICBMs than the number of road-mobile
launchers of ICBMs specified for that restricted area. [RF MOU Annex A]
3. Each restricted area shall be located within a deployment area. A deployment
area shall not exceed 125,000 square kilometers in size and shall not overlap
another deployment area. A deployment area shall contain no more than one ICBM
base for road-mobile launchers of ICBMs.[RF MOU Annex A]
4. Deployed rail-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall be
based only in rail garrisons. Each Party shall have no more than seven rail garrisons.
No point on a portion of track located inside a rail garrison shall be more than 20
kilometers from any entrance/exit for that rail garrison. This distance shall be
measured along the tracks. A rail garrison shall not overlap another rail
garrison.[RF MOU Annex A]
5. Each rail garrison shall have no more than two rail entrances/exits. Each such
entrance/exit shall have no more than two separate sets of tracks passing through it
(a total of four rails).[RF MOU Annex A]
6. Each Party shall limit the number of parking sites in each rail garrison to no more
than the number of trains of standard configuration specified for that rail garrison.
Each rail garrison shall have no more than five parking sites.[RF MOU Annex A]
[RF MOU Annex F]
7. Each Party shall limit the number of fixed structures for rail-mobile launchers of
ICBMs in each rail garrison to no more than the number of trains of standard
configuration specified for that rail garrison. Each such structure shall contain no
more than one train of standard configuration.[RF MOU Annex A] [RF MOU
Annex F]
8. Each rail garrison shall contain no more than one maintenance facility. [RF
MOU Annex A]
9. Deployed mobile launchers of ICBMs and their associated missiles may leave
restricted areas or rail garrisons only for routine movements, relocations, or
dispersals [XIII.1] [XIV.1]. Deployed road-mobile launchers of ICBMs and their
associated missiles may leave deployment areas only for relocations or operational
dispersals.
10. Relocations shall be completed within 25 days. No more than 15 percent of the
total number of deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated
missiles or five such launchers and their associated missiles, whichever is greater,
may be outside restricted areas at any one time for the purpose of relocation. No
more than 20 percent of the total number of deployed rail-mobile launchers of
ICBMs and their associated missiles or five such launchers and their associated
missiles, whichever is greater, may be outside rail garrisons at any one time for the
purpose of relocation.
11. No more than 50 percent of the total number of deployed rail-mobile launchers
of ICBMs and their associated missiles may be engaged in routine movements at
any one time.[RF MOU Annex A]
12. All trains with deployed rail-mobile launchers of ICBMs and their associated
missiles of a particular type shall be of one standard configuration. All such trains
shall conform to that standard configuration except those taking part in routine
movements, relocations, or dispersals, and except that portion of a train remaining
within a rail garrisons after the other portion of such a train has departed for the
maintenance facility associated with that rail garrison, has been relocated to another
facility, or has departed the rail garrison for routine movement. Except for
dispersals, notification of variations from standard configuration shall be provided
in accordance with paragraphs 13, 14, and 15 of Section II of the Notification
Protocol.[RF MOU Annex A] [RF MOU Annex F]
ARTICLE VII
1. Conversion and elimination of strategic offensive arms, fixed structures for
mobile launchers of ICBMs, and facilities shall be carried out pursuant to this
Article and in accordance with procedures provided for in the Conversion or
Elimination Protocol. Conversion and elimination shall be verified by national
technical means of verification and by inspection as provided for in Articles IX and
XI of this Treaty; in the Conversion or Elimination Protocol; and in the Protocol on
Inspections and Continuous Monitoring Activities Relating to this Treaty,
hereinafter referred to as the Inspection Protocol.
2. ICBMs for mobile launchers of ICBMs, ICBM launchers, SLBM launchers,
heavy bombers, former heavy bombers, and support equipment shall be subject to
the limitations provided for in this Treaty until they have been eliminated, or
otherwise cease to be subject to the limitations provided for in this Treaty, in
accordance with procedures provided for in the Conversion or Elimination
Protocol. [Agreed State 11] [Agreed State 37] [Joint State Missile Production
Technology]
3. ICBMs for silo launchers of ICBMs and SLBMs shall be subject to the
limitations provided for in this Treaty until they have been eliminated by rendering
them inoperable, precluding their use for their original purpose, using procedures at
the discretion of the Party possessing the ICBMs or SLBMs.
4.The elimination of ICBMs for mobile launchers of ICBMs, mobile launchers of
ICBMs, SLBM launchers, heavy bombers, and former heavy bombers [Agreed
State 10]shall be carried out at conversion or elimination facilities, except as
provided for in Sections VII and VIII of the Conversion or Elimination Protocol.
Fixed launchers of ICBMs and fixed structures for mobile launchers of ICBMs
subject to elimination shall be eliminated in situ. A launch canister [Launch
Canister Letters] [Agreed State 20]remaining at a test range or ICBM base after the
flight test of an ICBM for mobile launchers of ICBMs shall be eliminated in the
open in situ, or at a conversion or elimination facility, in accordance with
procedures provided for in the Conversion or Elimination Protocol.[Agreed State
37]
ARTICLE VIII
1. A data base pertaining to the obligations under this Treaty is set forth in the
Memorandum of Understanding, in which data with respect to items subject to the
limitations provided for in this Treaty are listed according to categories of data.
[MOU, Annex J] [Joint State Data Updates] [Agreed State 37]
2. In order to ensure the fulfillment of its obligations with respect to this Treaty,
each Party shall notify the other Party of changes in data, as provided for in
subparagraph 3(a) of this Article, and shall also provide other notifications required
by paragraph 3 of this Article, in accordance with the procedures provided for in
paragraphs 4, 5, and 6 of this Article, the Notification Protocol, and the Inspection
Protocol.
3. Each Party shall provide to the other Party, in accordance with the Notification
Protocol, and, for subparagraph (i) of this paragraph, in accordance with Section III
of the Inspection Protocol:[Agreed State 37]
(a) notifications concerning data with respect to items subject to the limitations
provided for in this Treaty, according to categories of data contained in the
Memorandum of Understanding and other agreed categories of data;[Agreed State
21]
(b) notifications concerning movement of items subject to the limitations provided
for in this Treaty;
(c) notifications concerning data on ICBM and SLBM throw-weight in connection
with the Protocol on ICBM and SLBM Throw-weight [MOU, Section I] Relating to
this Treaty, hereinafter referred to as the Throw-weight Protocol;
(d) notifications concerning conversion or elimination of items subject to the
limitations provided for in this Treaty or elimination of facilities subject to this
Treaty;
(e) notifications concerning cooperative measures to enhance the effectiveness of
national technical means of verification;
(f) notifications concerning flight tests of ICBMs or SLBMs and notifications
concerning telemetric information; [Launch Notification Agreement]
(g) notifications concerning strategic offensive arms of new types and new kinds;
[Agreed State 2]
(h) notifications concerning changes in the content of information provided
pursuant to this paragraph, including the rescheduling of activities;
(i) notifications concerning inspections and continuous monitoring activities; and
(j) notifications concerning operational dispersals.
4. Each Party shall use the Nuclear Risk Reduction Centers, which provide for
continuous communication between the Parties, to provide and receive notifications
in accordance with the Notification Protocol and the Inspection Protocol, unless
otherwise provided for in this Treaty, and to acknowledge receipt of such
notifications no later than one hour after receipt.
5. If a time is to be specified in a notification provided pursuant to this Article, that
time shall be expressed in Greenwich Mean Time. If only a date is to be specified in
a notification, that date shall be specified as the 24-hour period that corresponds to
the date in local time, expressed in Greenwich Mean Time.
6. Except as otherwise provided in this Article, each Party shall have the right to
release to the public all data current as of September 1, 1990, that are listed in the
Memorandum of Understanding, as well as the photographs that are appended
thereto. Geographic coordinates and site diagrams that are received pursuant to the
Agreement Between the Government of the United States of America and the
Government of the Union of Soviet Socialist Republics on Exchange of Geographic
Coordinates and Site Diagrams Relating to the Treaty of July 31, 1991, shall not be
released to the public unless otherwise agreed. The Parties shall hold consultations
on releasing to the public data and other information provided pursuant to this
Article or received otherwise in fulfilling the obligations provided for in this Treaty.
The provisions of this Article shall not affect the rights and obligations of the
Parties with respect to the communication of such data and other information to
those individuals who, because of their official responsibilities, require such data or
other information to carry out activities related to the fulfillment of the obligations
provided for in this Treaty. [Statements on Release to Public]
ARTICLE IX
1. For the purpose of ensuring verification of compliance with the provisions of this
Treaty, each Party shall use national technical means of verification at its disposal
in a manner consistent with generally recognized principles of international law.
2. Each Party undertakes not to interfere with the national technical means of
verification of the other Party operating in accordance with paragraph l of this
Article.
3. Each Party undertakes not to use concealment measures that impede verification,
by national technical means of verification, of compliance with the provisions of
this Treaty. In this connection, the obligation not to use concealment measures
includes the obligation not to use them at test ranges, including measures that result
in the concealment of ICBMs, SLBMs, mobile launchers of ICBMs, or the
association between ICBMs or SLBMs and their launchers during testing. The
obligation not to use concealment measures shall not apply to cover or concealment
practices at ICBM bases and deployment areas, or to the use of environmental
shelters for strategic offensive arms.
4. To aid verification, each ICBM for mobile launchers of ICBMs shall have a
unique identifier as provided for in the Inspection Protocol.
ARTICLE X
1. During each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test
shall make on-board technical measurements and shall broadcast all telemetric
information obtained from such measurements. The Party conducting the flight test
shall determine which technical parameters are to be measured during such flight
test, as well as the methods of processing and transmitting telemetric information.
2. During each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test
undertakes not to engage in any activity that denies full access to telemetric
information, including: [Statements on Encryption & Jamming]
(a) the use of encryption;
(b) the use of jamming;
(c) broadcasting telemetric information from an ICBM or SLBM using narrow
directional beaming; and
(d) encapsulation of telemetric information, including the use of ejectable capsules
or recoverable reentry vehicles..
3. During each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test
undertakes not to broadcast from a reentry vehicles. telemetric information that
pertains to the functioning of the stages or the self-contained dispensing mechanism
of the ICBM or SLBM.
4. After each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test
shall provide, in accordance with Section I of the Protocol on Telemetric
Information Relating to the Treaty, hereinafter referred to as the Telemetry
Protocol, tapes nthat contain a recording of all telemetric information that is
broadcast during the flight test.
5. After each flight test of an ICBM or SLBM, the Party conducting the flight test
shall provide, in accordance with Section II of the Telemetry Protocol, data
associated with the analysis of the telemetric information.[Agreed State 35]
6. Notwithstanding the provisions of paragraphs 1 and 2 of this Article, each Party
shall have the right to encapsulate and encrypt on-board technical measurements
during no more than a total of eleven flight tests of ICBMs or SLBMs each year. Of
these eleven flight tests each year, no more than four shall be flight tests of ICBMs
or SLBMs of each type, any missile of which has been flight-tested with a self-
contained dispensing mechanism. Such encapsulation shall be carried out in
accordance with Section I and paragraph 1 of Section III of the Telemetry Protocol,
and such encryption shall be carried out in accordance with paragraph 2 of Section
III of the Telemetry Protocol. Encapsulation and encryption that are carried out on
the same flight test of an ICBM or SLBM shall count as two flight tests against the
quotas specified in this paragraph.[Agreed State 31]
ARTICLE XI
1. For the purpose of ensuring verification of compliance with the provisions of this
Treaty, each Party shall have the right to conduct inspections and continuous
monitoring activities and shall conduct exhibitions pursuant to this Article and the
Inspection Protocol. Inspections, continuous monitoring activities, and exhibitions
shall be conducted in accordance with the procedures provided for in the Inspection
Protocol and the Conversion or Elimination Protocol. [item of inspection] [size
criteria][Agreed State 36]
2. Each Party shall have the right to conduct baseline data inspections at facilities to
confirm the accuracy of data on the numbers and types of items specified for such
facilities in the initial exchange of data provided in accordance with paragraph 1 of
Section I of the Notification Protocol. [facility inspections at] [Agreed State 10]
3. Each Party shall have the right to conduct data update inspections at facilities to
confirm the accuracy of data on the numbers and types of items specified for such
facilities in the notifications and regular exchanges of updated data provided in
accordance with paragraphs 2 and 3 of Section I of the Notification
Protocol.[facility inspections at] [Agreed State 10]
4. Each Party shall have the right to conduct new facility inspections to confirm the
accuracy of data on the numbers and types of items specified in the notifications of
new facilities provided in accordance with paragraph 3 of Section I of the
Notification Protocol.[facility inspections at]
5. Each Party shall have the right to conduct suspect-site inspections to confirm that
covert assembly of ICBMs for mobile launchers of ICBMs or covert assembly of
first stages of such ICBMs is not occurring. [facility inspections at] [RF MOU
Annex I] [US MOU Annex I] [Joint State on Site Diagrams]
6. Each Party shall have the right to conduct reentry vehicle inspections of deployed
ICBMs and SLBMs to confirm that such ballistic missiles contain no more reentry
vehicles than the number of warheads attributed to them.[facility inspections at][RF
MOU Section I] [US MOU Section I]
7. Each Party shall have the right to conduct post-exercise dispersal inspections of
deployed mobile launchers of ICBMs and their associated missiles to confirm that
the number of mobile launchers of ICBMs and their associated missiles that are
located at the inspected ICBM bases and those that have not returned to it after
completion of the dispersal does not exceed the number specified for that ICBM
base.
8. Each Party shall conduct or shall have the right to conduct conversion or
elimination inspections to confirm the conversion or elimination of strategic
offensive arms.
9. Each Party shall have the right to conduct close-out inspections to confirm that
the elimination of facilities has been completed.
10. Each Party shall have the right to conduct formerly declared facility inspections
to confirm that facilities, notification of the elimination of which has been provided
in accordance with paragraph 3 of Section I of the Notification Protocol, are not
being used for purposes inconsistent with this Treaty.
11. Each Party shall conduct technical characteristics exhibitions, and shall have the
right during such exhibitions by the other Party to conduct inspections of an ICBM
and an SLBM of each type, and each variant thereof, and of a mobile launcher of
ICBMs and each version of such launcher for each type of ICBM for mobile
launchers of ICBMs. The purpose of such exhibitions shall be to permit the
inspecting Party to confirm that technical characteristics correspond to the data
specified for these items. [RF MOU Annex F] [US MOU Annex F][Agreed State
25] [Early Exhibitions Agreement][Agreed State 28]
12. Each Party shall conduct distinguishability exhibitions for heavy bombers,
former heavy bombers, and long-range nuclear ALCMs, and shall have the right
during such exhibitions by the other Party to conduct inspections, of: [Agreed State
10]
(a) heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs. The purpose of such
exhibitions shall be to permit the inspecting Party to confirm that the technical
characteristics of each type and each variant of such heavy bombers correspond to
the data specified for these items in Annex G to the Memorandum of
Understanding; to demonstrate the maximum number of long-range nuclear ALCMs
for which a heavy bomber of each type and each variant is actually equipped; and to
demonstrate that this number does not exceed the number provided for in paragraph
20 or21 of Article V of this Treaty, as applicable; [RF MOU Annex G] [US MOU
Annex G]
(b) for each type of heavy bomber from any one of which a long-range nuclear
ALCM has been flight-tested, heavy bombers equipped for nuclear armaments other
than long-range nuclear ALCMs, heavy bombers equipped for non-nuclear
armaments, training heavy bombers, and former heavy bombers. If, for such a type
of heavy bomber, there are no heavy bombers equipped for long-range nuclear
ALCMs, a test heavy bomber from which a long-range nuclear ALCM has been
flight-tested shall be exhibited. The purpose of such exhibitions shall be to
demonstrate to the inspecting Party that, for each exhibited type of heavy bomber,
each variant of heavy bombers equipped for nuclear armaments other than long-
range nuclear ALCMs, each variant of heavy bombers equipped for non-nuclear
armaments, each variant of training heavy bombers, and a former heavy bomber are
distinguishable from one another and from each variant of heavy bombers of the
same type equipped for long-range nuclear ALCMs; and [RF MOU Annex G] [US
MOU Annex G]
(c) long-range nuclear ALCMs. The purpose of such exhibitions shall be to permit
the inspecting Party to confirm that the technical characteristics of each type and
each variant of such long-range ALCMs correspond to the data specified for these
items in Annex H to the Memorandum of Understanding. The further purpose of
such exhibitions shall be to demonstrate differences, notification of which has been
provided in accordance with paragraph 13, 14, or 15 of Section VII of the
Notification Protocol, that make long-range non-nuclear ALCMs distinguishable
from long-range nuclear ALCMs.[RF MOU Annex H] [US MOU Annex H]
13. Each Party shall conduct baseline exhibitions, and shall have the right during
such exhibitions by the other Party to conduct inspections, of all heavy bombers
equipped for long-range nuclear ALCMs equipped for non-nuclear armaments, all
training heavy bombers, and all former heavy bombers specified in the initial
exchange of data provided in accordance with paragraph 1 of Section I of the
Notification Protocol. The purpose of these exhibitions shall be to demonstrate to
the inspecting Party that such airplanes satisfy the requirements for conversion in
accordance with the Conversion or Elimination Protocol. After a long-range
nuclear ALCM has been flight-tested from a heavy bomber of a type, from none of
which a long-range nuclear ALCM had previously been flight-tested, the Party
conducting the flight test shall conduct baseline exhibitions, and the other Party
shall have the right during such exhibitions to conduct inspections, of 30 percent of
the heavy bombers equipped for long-range nuclear ALCMs of such type equipped
for nuclear armaments other than long-range nuclear ALCMs at each air base
specified for such heavy bombers. The purpose of these exhibitions shall be to
demonstrate to the inspecting Party the presence of specified features that make
each exhibited heavy bomber distinguishable from heavy bombers of the same type
equipped for long-range nuclear ALCMs.
14. Each Party shall have the right to conduct continuous monitoring activities at
production facilities for ICBMs for mobile launchers of ICBMs to confirm the
number of ICBMs for mobile launchers of ICBMs produced.[Agreed State 22]
[facilities] [Site Surveys Letters]
ARTICLE XII
1. To enhance the effectiveness of national technical means of verification, each
Party shall, if the other Party makes a request in accordance with paragraph 1 of
Section V of the Notification Protocol, carry out the following cooperative
measures:
(a) a display in the open of the road-mobile launchers of ICBMs located within
restricted areas specified by the requesting Party. The number of road-mobile
launchers of ICBMs based at the restricted areas specified in each such request shall
not exceed ten percent of the total number of deployed road-mobile launchers of
ICBMs of the requested Party, and such launchers shall be contained within one
ICBM base for road-mobile launchers of ICBMs. For each specified restricted area,
the roofs of fixed structures for road-mobile launchers of ICBMs shall be open for
the duration of a display. The road-mobile launchers of ICBMs located within the
restricted area shall be displayed either located next to or moved halfway out of
such fixed structures; [RF MOU Annex A]
(b) a display in the open of the rail-mobile launchers of ICBMs located at parking
sites specified by the requesting Party. Such launchers shall be displayed by
removing the entire train from its fixed structure and locating the train within the
rail garrison. The number of rail-mobile launchers of ICBMs subject to display
pursuant to each such request shall include all such launchers located at no more
than eight parking sites, provided that no more than two parking sites may be
requested within any one rail garrison in any one request. Requests concerning
specific parking sites shall include the designation for each parking site as provided
for in Annex A to the Memorandum of Understanding; and[RF MOU Annex A]
(c) a display in the open of all heavy bombers and former heavy bombers located
within one air base specified by the requesting Party, except those heavy bombers
and former heavy bombers that are not readily movable due to maintenance or
operations. Such heavy bombers and former heavy bombers shall be displayed by
removing the entire airplane from its fixed structure, if any, and locating the
airplane within the air base. Those heavy bombers and former heavy bombers at the
air base specified by the requesting Party that are not readily movable due to
maintenance or operations shall be specified by the requested Party in a notification
provided in accordance with paragraph 2 of Section V of the Notification Protocol.
Such a notification shall be provided no later than 12 hours after the request for
display has been made.
2. Road-mobile launchers of ICBMs, rail-mobile launchers of ICBMs, heavy
bombers, and former heavy bombers subject to each request pursuant to paragraph 1
of this Article shall be displayed in open view without using concealment measures.
Each Party shall have the right to make seven such requests each year, but shall not
request a display at any particular ICBM base for road-mobile launchers of ICBMs,
any particular parking site, or any particular air base more than two times each year.
A Party shall have the right to request, in any single request, only a display of road-
mobile launchers of ICBMs, a display of rail-mobile launchers of ICBMs, or a
display of heavy bombers and former heavy bombers. A display shall begin no later
than 12 hours after the request is made and shall continue until 18 hours have
elapsed from the time that the request was made. If the requested Party cannot
conduct a display due to circumstances brought about by force majeure, it shall
provide notification to the requesting Party in accordance with paragraph 3 of
Section V of the Notification Protocol, and the display shall be cancelled. In such a
case, the number of requests to which the requesting Party is entitled shall not be
reduced.
3. A request for cooperative measures shall not be made for a facility that has been
designated for inspection until such an inspection has been completed and the
inspectors have departed the facility. A facility for which cooperative measures
have been requested shall not be designated for inspection until the cooperative
measures have been completed or until notification has been provided in accordance
with paragraph 3 of Section V of the Notification Protocol.
ARTICLE XIII
1. Each Party shall have the right to conduct exercise dispersal of deployed mobile
launchers of ICBMs and their associated missiles from restricted areas or rail
garrisons. Such an exercise dispersal may involve either road-mobile launchers of
ICBMs or rail-mobile launchers of ICBMs, or both road-mobile launchers of
ICBMs and rail-mobile launchers of ICBMs. Exercise dispersals of deployed
mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall be conducted as
provided for below:
(a) An exercise dispersal shall be considered to have begun as of the date and time
specified in the notification provided in accordance with paragraph 11 of Section II
of the Notification Protocol.
(b) An exercise dispersal shall be considered to be completed as of the date and time
specified in the notification provided in accordance with paragraph 12 of Section II
of the Notification Protocol.
(c) Those ICBM bases for mobile launchers of ICBMs specified in the notification
provided in accordance with paragraph 11 of Section II of the Notification Protocol
shall be considered to be involved in an exercise dispersal.
(d) When an exercise dispersal begins, deployed mobile launchers of ICBMs and
their associated missiles engaged in a routine movement from a restricted area or
rail garrison of an ICBM base for mobile launchers of ICBMs that is involved in
such a dispersal shall be considered to be part of the dispersal.
b(e) When an exercise dispersal begins, deployed mobile launchers of ICBMs and
their associated missiles engaged in a relocation from a restricted area or rail
garrisons of an ICBM base for mobile launchers of ICBMs that is involved in such a
dispersal shall continue to be considered to be engaged in a relocation. Notification
of the completion of the relocation shall be provided in accordance with paragraph
10 of Section II of the Notification Protocol, unless notification of the completion of
the relocation was provided in accordance with paragraph 12 of Section II of the
Notification Protocol.
(f) During an exercise dispersal, all deployed mobile launchers of ICBMs and their
associated missiles that depart a restricted area or rail garrison of an ICBM base for
mobile launchers of ICBMs involved in such a dispersal shall be considered to be
part of the dispersal, except for such launchers and missiles that relocate to a facility
outside their associated ICBM base during such a dispersal.
(g) An exercise dispersal shall be completed no later than 30 days after it begins.
(h) Exercise dispersals shall not be conducted:
(i) more than two times in any period of two calendar years;
(ii) during the entire period of time provided for baseline data inspections;
(iii) from a new ICBM base for mobile launchers of ICBMs until a new facility
inspection has been conducted or until the period of time provided for such an
inspection has expired; or
(iv) from an ICBM base for mobile launchers of ICBMs that has been designated
for a data update inspection or reentry vehicle inspection, until completion of such
an inspection.
(i) If a notification of an exercise dispersal has been provided in accordance with
paragraph 11 of Section II of the Notification Protocol, the other Party shall not
have the right to designate for data update inspection or reentry vehicle inspection
an ICBM base for mobile launchers of ICBMs involved in such a dispersal, or to
request cooperative measures for such an ICBM base, until the completion of such a
dispersal.
(j) When an exercise dispersal is completed, deployed mobile launchers of ICBMs
and their associated missiles involved in such a dispersal shall be located at their
restricted areas or rail garrisons, except for those otherwise accounted for in
accordance with paragraph 12 of Section II of the Notification Protocol.
2. A major strategic exercise involving heavy bombers, about which a notification
has been provided pursuant to the Agreement Between the Government of the
United States of America and the Government of the Union of Soviet Socialist
Republics on Reciprocal Advance Notification of Major Strategic Exercises of
September 23, 1989, shall be conducted as provided for below:
(a) Such exercise shall be considered to have begun as of the date and time specified
in the notification provided in accordance with paragraph 16 of Section II of the
Notification Protocol.
(b) Such exercise shall be considered to be completed as of the date and time
specified in the notification provided in accordance with paragraph 17 of Section II
of the Notification Protocol.
(c) The air bases for heavy bombers and air bases for former heavy bombers
specified in the notification provided in accordance with paragraph 16 of Section II
of the Notification Protocol shall be considered to be involved in such exercise.
(d) Such exercise shall begin no more than one time in any calendar year, and shall
be completed no later than 30 days after it begins.
(e) Such exercise shall not be conducted during the entire period of time provided
for baseline data inspections.
(f) During such exercise by a Party, the other Party shall not have the right to
conduct inspections of the air bases for heavy bombers and air bases for former
heavy bombers involved in the exercise. The right to conduct inspections of such air
bases shall resume three days after notification of the completion of a major
strategic exercise involving heavy bombers has been provided in accordance with
paragraph 17 of Section II of the Notification Protocol.
(g) Within the 30-day period following the receipt of the notification of the
completion of such exercise, the receiving Party may make a request for cooperative
measures to be carried out in accordance with subparagraph 1(c) of Article XII of
this Treaty at one of the air bases involved in the exercise. Such a request shall not
be counted toward the quota provided for in paragraph 2 of Article XII of this
Treaty.
ARTICLE XIV
1. Each Party shall have the right to conduct operational dispersals of deployed
mobile launchers of ICBMs and their associated missiles, ballistic missile
submarines, and heavy bombers. There shall be no limit on the number and duration
of operational dispersals, and there shall be no limit on the number of deployed
mobile launchers of ICBMs and their associated missiles, ballistic missile
submarines, or heavy bombers involved in such dispersals. When an operational
dispersal begins, all strategic offensive arms of a Party shall be considered to be part
of the dispersal. Operational dispersals shall be conducted as provided for
below:[Agreed State 7]
(a) An operational dispersal shall be considered to have begun as of the date and
time specified in the notification provided in accordance with paragraph 1 of
Section X of the Notification Protocol.
(b) An operational dispersal shall be considered to be completed as of the date and
time specified in the notification provided in accordance with paragraph 2 of
Section X of the Notification Protocol.
2. During an operational dispersal each Party shall have the right to:
(a) suspend notifications that it would otherwise provide in accordance with the
Notification Protocol except for notification of flight tests provided under the
Agreement Between the United States of America and the Union of Soviet Socialist
Republics on Notifications of Launches of Intercontinental Ballistic Missiles and
Submarine-Launched Ballistic Missiles of May 31, 1988; provided that, if any
conversion or elimination processes are not suspended pursuant to subparagraph (d)
of this paragraph, the relevant notifications shall be provided in accordance with
Section IV of the Notification Protocol;
(b) suspend the right of the other Party to conduct inspections;
(c) suspend the right of the other Party to request cooperative measures; and
(d) suspend conversion and elimination processes for its strategic offensive arms. In
such case, the number of converted and eliminated items shall correspond to the
number that has actually been converted and eliminated as of the date and time of
the beginning of the operational dispersal specified in the notification provided in
accordance with paragraph 1 of Section X of the Notification Protocol.
3. Notifications suspended pursuant to paragraph 2 of this Article shall resume no
later than three days after notification of the completion of the operational dispersal
has been provided in accordance with paragraph 2 of Section X of the Notification
Protocol. The right to conduct inspections and to request cooperative measures
suspended pursuant to paragraph 2 of this Article shall resume four days after
notification of the completion of the operational dispersal has been provided in
accordance with paragraph 2 of Section X of the Notification Protocol. Inspections
or cooperative measures being conducted at the time a Party provides notification
that it suspends inspections or cooperative measures during an operational dispersal
shall not count toward the appropriate annual quotas provided for by this Treaty.
4. When an operational dispersal is completed:
(a) All deployed road-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall
be located within their deployment areas or shall be engaged in relocations .
(b) All deployed rail-mobile launchers of ICBMs and their associated missiles shall
be located within their rail garrisons or shall be engaged in routine movements or
relocations .
(c) All heavy bombers shall be located within national territory and shall have
resumed normal operations. If it is necessary for heavy bombers to be located
outside national territory for purposes not inconsistent with this Treaty, the Parties
will immediately engage in diplomatic consultations so that appropriate assurances
can be provided.
5. Within the 30 day period after the completion of an operational dispersal, the
Party not conducting the operational dispersal shall have the right to make no more
than two requests for cooperative measures, subject to the provisions of Article XII
of this Treaty, for ICBM bases for mobile launchers of ICBMs or air bases. Such
requests shall not count toward the quota of requests provided for in paragraph 2 of
Article XII of this Treaty.
ARTICLE XV
To promote the objectives and implementation of the provisions of this Treaty, the
Parties hereby establish the Joint Compliance and Inspection Commission. The
Parties agree that, if either Party so requests, they shall meet within the framework
of the Joint Compliance and Inspection Commission to: [Lisbon Protocol]
(a) resolve questions relating to compliance with the obligations assumed;
(b) agree upon such additional measures as may be necessary to improve the
viability and effectiveness of this Treaty; and
(c) resolve questions related to the application of relevant provisions of this Treaty
to a new kind of strategic offensive arm, after notification has been provided in
accordance with paragraph 16 of Section VII of the Notification Protocol.
ARTICLE XVI
To ensure the viability and effectiveness of this Treaty, each Party shall not assume
any international obligations or undertakings that would conflict with its provisions.
The Parties shall hold consultations in accordance with Article XV of this Treaty in
order to resolve any ambiguities that may arise in this regard. The Parties [Lisbon
Protocol] agree that this provision does not apply to any patterns of cooperation,
including obligations, in the area of strategic offensive arms, existing at the time of
signature of this Treaty, between a Party and a third State. [Agreed State 1] [Soviet
State on Non-Circumvention & Patterns of Coop]
ARTICLE XVII
1. This Treaty, including its Annexes, Protocols, and Memorandum of
Understanding, all of which form integral parts thereof, shall be subject to
ratification in accordance with the constitutional procedures of each Party. This
Treaty shall enter into force on the date of the exchange of instruments of
ratification.
2. This Treaty shall remain in force for 15 years unless superseded earlier by a
subsequent agreement on the reduction and limitation of strategic offensive arms.
No later than one year before the expiration of the 15-year period, the Parties shall
meet to consider whether this Treaty will be extended. If the Parties so decide, this
Treaty will be extended for a period of five years unless it is superseded before the
expiration of that period by a subsequent agreement on the reduction and limitation
of strategic offensive arms. This Treaty shall be extended for successive five-year
periods, if the Parties so decide, in accordance with the procedures governing the
initial extension, and it shall remain in force for each agreed five-year period of
extension unless it is superseded by a subsequent agreement on the reduction and
limitation of strategic offensive arms.
3. Each Party shall, in exercising its national sovereignty, have the right to withdraw
from this Treaty if it decides that extraordinary events related to the subject matter
of this Treaty have jeopardized its supreme interests. It shall give notice of its
decision to the other Party six months prior to withdrawal from this Treaty. Such
notice shall include a statement of the extraordinary events the notifying Party
regards as having jeopardized its supreme interests.
ARTICLE XVIII
Each Party may propose amendments to this Treaty. Agreed amendments shall enter
into force in accordance with the procedures governing entry into force of this
Treaty.
ARTICLE XIX
This Treaty shall be registered pursuant to Article 102 of the Charter of the United Nations.
Done at Moscow on July 31, 1991, in two copies, each in the English and Russian languages, both texts being equally authentic.
FOR THE UNITED STATES OF AMERICA: George Bush
President of the United States of America
FOR THE UNION OF SOVIET SOCIALIST REPUBLICS: M. Gorbachev
President of the Union of Soviet Socialist Republics