Chính sách ngoại giao của Trung Quốc

1

A - LỜI MỞ ĐẦU

Hiện nay lợi ích kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc đang mở rộng ra toàn

cầu trong hơn 1 thập kỉ vừa qua chứ không còn giới hạn trong phạm vi khu vực

chau Á TBD kể cả ở các khu vực mà trước đây nằm ngoài sự tính toán của Bắc

Kinh, đáng chú ý là Mỹ Latin và Trung Đông. Ngoại giao của Trung Quốc đang

ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế ở hầu như tất cả các mức độ của hệ thống toàn cầu.

và các chính sách của ngoại giao TQ hiện đang ảnh hưởng tới nhận thức, các mối

quan hệ, các thể chế và tiến trình của quốc tế. Trung Quốc cũng đã tập trung xử lí

hoặc giải quyết các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống mà cộng đồng

quốc tế đang phải đối phó. Ở Châu Á, khu vực chiến lược của TQ, nước này đã trở

thành nước có sức mạnh vượt trội, tham gia sâu vào tất cả các mặt kinh tế và an

ninh. Trung Quốc đã trở thành một điểm tựa của sự thay đổi trong trật tự khu vực,

đảm bảo một cách chắc chắn rằng vai trò then chốt của quốc gia này ở Châu Á sẽ

được củng cố hơn trong tương lai.

Những xu hướng đó đã làm nảy sinh những câu hỏi sau: Đâu là các mục tiêu

của TQ trong vai trò là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới? Trung Quốc

thực hiện những mục tiêu đó như thế nào và nhửng ảnh hưởng lên các khu vực trên

thế giới. Hành vi quốc tế của Trung Quốc sẽ dẫn đến đâu? Các lợi ich bên ngoài và

chính sách đối ngoại của TQ thay đổi như thế nào khi tiềm lực kinh tế và quốc

phòng của nước này được tăng cường. Và cuối cùng có phải là chính sách đối

ngoại của Trung Quốc là đối trọng với lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ hay

không?

Ở một vài điểm, các nhà lãnh đạo TQ đã có câu trả lời với các câu hỏi quan

trọng này. Những nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc nói về “hòa bình,

phát triển và hợp tác” như là những nét chính của nền ngoại giao Trung Quốc, và

họ cho rằng chính sách đối ngoại của Trung Quốc tìm kiếm “để thúc đẩy một môi

2

trường quốc tế hòa bình và ổn định nhằm xây dựng một xã hội khá giả nhiều mặt.”.

Gần đây các nhà lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố thực hiện chiến lược quốc tế “phát

triển hòa bình” nhằm xây dựng một “thế giới hài hòa”.

Những quan điểm này thường được xuất hiện trong những cuộc tranh luận

công khai của chính quyền TQ về ngoại giao của nước này. Tuy nhiên, các khẩu

hiệu và các chính sách này được cho là không làm các nhà quan sát bên ngoài

không hài lòng, nghi kị và lo lắng. Điều đó không có nghĩa là các mục tiêu của TQ

là hoàn toàn sai lầm hoặc là là sự che đậy một cách khôn ngoan các ý định thực sự

của Bắc Kinh, một điệp khúc phổ biến tại Hoa Kỳ; hơn nữa, các khẩu hiệu và

chính sách này không đủ để giải thích cho tính đa diện của những lợi ích và hành

động của Trung Quốc. Các đặc điểm chính thức của chính sách đối ngoại của TQ

đã bị làm méo mó dưới nhiều mức độ của nhận thức, các động cơ thúc đẩy và

chính sách đã đã tạo nên các hành vi của TQ trên thế giới. Bằng cách đó họ không

nắm bắt được tính năng động của hoạt đối ngoại của Trung Quốc và làm che lấp sự

hiểu biết bên ngoài về hành vi của Trung Quốc. Do đó để trả lời cho câu hỏi về

những ý định của Trung Quốc hiện nay và trong tương lai, các nhà phân tích phải

sử dụng tổng hợp các biện pháp phân tích bao gồm các tuyên bố, phân tích và hành

vi của TQ (và động cơ thúc đẩy của các nhân tố này) nhừm đánh giá các mục tiêu

của nước này với vai trò là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới.

Cuối cùng, tài liệu này đánh giá các hành vi quốc tế trong hiện tại và tương

lai của TQ, bao gồm cả các quan hệ quốc tế (song phương và đa phương) và các

chính sách đối ngoại nước này sử dụng để thực hiện các quan hệ quốc tế. Việc

Trung Quốc nhận thức như thế nào về những lợi ích khu vực và toàn cầu của nó và

những chiến lược và những chính sách nước này sử dụng để theo đuổi những lợi

ích như vậy có tác dụng trực tiếp tới sự ổn định và an ninh khu vực Châu Á và toàn

cầu. Hơn thế nữa, sự hiểu biết về nhận thức, những chiến lược và các công cụ của

3

ngoại giao Trung Quốc sẽ chỉ ra định hướng trong tương lai của hành vi quốc tế

của Trung Quốc.

Tài liệu này chứng cho rằng để hiểu rõ hành vi quốc tế của Trung Quốc thì

cẩn phải xem xét nhiều tầng lớp, mỗi tầng lớp đó lại gắn với việc xem xét các hành

động hiện tại và định hướng trong tương lai của Trung Quốc. Các tầng lớp này bào

gồm: (1) lăng kính lịch sử mà các nhà hoạch định chính sách của TQ nhìn nhận thế

giới và vai trò của nước này trên thế giới. (2) nhận thức của Trung Quốc về môi

trường an ninh quốc tế hiện tại, (3) mục tiêu chính sách đối ngoại của Trung Quốc

và (4) những hoạt động chính sách đối ngoại cụ thể của Trung Quốc nhằm thực

hiện các mục tiêu nước này đặt ra. Cách tiếp cận này nhằm cung cấp một khuôn

khổ phân tích, một mô hình sắp xếp nhằm đánh giá các ý định trong hiện tai và

tương lai của TQ và ý nghĩa với Mĩ bằng việc xem xét sự thay đổi rộng rãi và

nhanh chóng của các hành vi quốc tế của TQ .Cách tiếp cận này phải là biện pháp

xử lí toàn diện với tất cả các mặt của chsinh sách đối ngoại và an ninh quốc gia của

TQ. Ví dụ, nghiên cứu này không xem xét việc hiện đại hóa quân đội TQ và các

hoạt động quân sự của TQ ở khu vực Đông Á khi mà các chủ để này nằm trong các

dự án nghiên cứu độc lập và ngoài phạm vi nghiên cứu này.

Để nghiên cứu hành vi quốc tế của Trung Quốc, tài liệu này sử dụng nguồn

tài liệu công khai của Trung Quốc cũng như các của nhà phân tích của phương

Tây. Những nguồn nguyên bản này đã được bổ sung bằng văn bản một loạt các

cuộc phỏng vấn ở Trung Quốc năm 2005, 2006, 2007 và 2008 với các quan chức,

các nhà phân tích và các học giả đã tham gia nghiên cứu và hoạch định chính sách

trong chính sách đối ngoại và vấn đề an ninh quốc gia của Trung Quốc.

Tài liệu này bao gồm phần giới thiệu, sáu chương nội dung và một chương

kết luận. Tiếp theo phần giới thiệu này, chương hai xem xét các lăng kính mà các

nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc và các nhà phân tích sử dụng để đánh

gia vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề toàn cầu. Những lăng kính này, phần

4

lớn bắt nguồn từ lịch sử của Trung Quốc cũng như các ưu tiên quốc gia lâu dài của

nước này đều phản ánh và thể hiện các xu hướng được thể hiện trong việc hoạch

định chính sách đối ngoại của TQ. Những lăng kính này được giới thiệu như là các

đặc điểm truyền thống của hành vi quốc tế của TQ. Chương ba xem xét nhận thức

của Trung Quốc về môi trường an ninh quốc tế hiện nay, trọng tâm cụ thể là các

thách thức mà nước này phải đối mặt. sự nhận thức rõ ràng điều quan trọng về

những thách thức đang ở phía trước. Chương bốn, năm và sáu nói chi tiết về mục

tiêu đối ngoại hiện nay của Trung Quốc như một chủ thể quốc tế và chính sách cụ

thể Bắc Kinh sử dụng khi thực hiện các chính sách này của Bắc Kinh theo đuổi

chúng. Ý nghĩa và sự liên quan của hành động quốc tế của Trung Quốc được diễn

Tóm tặt lại từ chương hai đến chương sáu, chương bảy điểm lại những thách thức

đa chiều mà TQ phải đối mặt khi thực hiện các mục tiêu lâu dài và mục tiêu hiện

nay. Kết luận của nghiên cứu này (Chương 8) tổng hợp các tranh luận trong tài liệu

thành các nhận định phân tích về nội dung hiện tại và tương lai của hành vi quốc tế

của TQ. Chương này đánh giá hệ quả của các nhận định này với quan hệ Mĩ –

Trung với trọng tâm là các điểm tương đồng và đối lập trong lợi ích toàn cầu của

Mĩ và TQ.

5

Chương 2

TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI Trung Quốc

Hành vi quốc tế của Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi ba “lăng kính” nhận thức

có tính lịch sử đã định hình cách các quan điểm của các nhà hoạch định chính

sách về môi trường bên ngoài Trung Quốc, về vai trò của Trung Quốc trong các

vấn đề quốc tế, và thi hành các chính sách. Những lăng kính này phản ánh các xu

hướng và quan điểm của Trung Quốc về hệ thống quốc tế và vị trí của Trung

Quốc trong hệ thống ấy. Những lăng kính này là tất cả những quan niệm liên quan

đến khái niệm vai trò quốc gia của Trung Quốc và thường không được bàn luận

một cách công khai, cũng như không được xuất hiện trong các văn bản chính

phủ. Hơn nữa , những ý tưởng này đã ảnh hưởng đến việc nghiên cứu, phân tích,

hoạch định về quan hệ đối ngoại và chính sách đối ngoại Trung Quốc.

Ba lăng kính

Phục hưng quốc gia

Trước hết, có một niềm tin đã ăn sâu ở Trung Quốc rằng nó đang trong quá

trình đòi lại vị trí một “đại quốc” (da guo) đã mất. Các nhà hoạch định chính sách,

phân tích và truyền thông Trung Quốc đã miêu tả sự nổi lên gần đây của Trung

Quốc như là một sự “phục hưng” (fuxing) hay là “chấn hưng” (zhenxing) để giành

lại vị trí cường quốc trên thế giới.

Họ thường đề cập đến ảnh hưởng toàn cầu thực sự của Trung Quốc trong các

triều đại Hán, Tần, và cuối nhà Minh đầu nhà Thanh – mặc dù Trung Quốc chỉ có

những mối liên hệ rất hạn chế với Hy Lạp cổ, đế chế La Mã, Byzantium hoặc Ấn

Độ trong những giai đoạn này. Tờ Global Times bình luận “Trung Quốc đang trên

đường trở thành một “đại quốc xu cường” (da er qu qiang). Đối với nhiều người

Trung Quốc, sự nổi lên gần đây thực ra là lần thứ tư trong lịch sử. Họ chỉ ra rằng

6

trong các triều đại trước, Trung Quốc đã là một xã hội phát triển rất cao, tinh tế về

văn hóa và phát triển về kỹ thuật, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế toàn cầu và,

với vị trí này, đã từng được thế giới kính trọng và tôn sùng.

Về các thời kỳ trước đó, các nhà phân tích và hoạch định chính sách Trung

Hoa khẳng định rằng Trung Quốc chưa bao giờ là chưa bao giờ là một kẻ thống trị

chuyên quyền dựa trên áp bức và bạo lực (khái niệm ‘bá đạo’ badao) mà là một

nước lớn ôn hòa (khái niệm ‘vương đạo’ wangdao), đã thu hút được các quốc gia

khác bởi lòng tốt hợp đạo lý, sự giàu có về văn hóa, kinh tế và sự phát triển về kỹ

thuật. Đối với nhiều người Trung Quốc, Trung Quốc gần đây đang quay trở lại với

vai trò một nước lớn ôn hòa như trong quá khứ, điều đó giúp Trung Quốc sửa chữa

những sai lầm trong lịch sử làm nước này suy tàn trong 150 năm qua kể từ cuộc

Chiến tranh nha phiến vào những năm 1840.

Hơn nữa, khái niệm “ cường quốc” hiện nay của Trung Quốc là rất chung

chung và không được các học giả và các nhà hoạch định chính sách định nghĩa rõ

ràng. Khái niệm của Trung Quốc dường như kết hợp xung quanh quan điểm (trong

đó, có cả quan điểm của người Trung Quốc): được can dự đến bất cứ quyết định

quốc tế quan trọng nào ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc (như Trung Quốc

định nghĩa). Việc các nước lớn khác phải làm theo Trung Quốc là một đặc

điểm nhất quán trong những cuộc thảo luận của Trung Quốc về vai trò nước lớn

trong hệ thống quốc tế. Những bài bình luận về Trung Quốc cho đến nay đã thảo

luận rất ít về việc Trung Quốc sẽ làm gì với địa vị cường quốc ngoài việc ngăn

chặn sự áp lực của các nước khác và mở rộng sức mạnh quốc gia toàn diện của nó.

Quan điểm của người Trung Quốc cho rằng những hành vi trong quá khứ

của họ là của một cường quốc ôn hòa không chỉ là cách nói tự tôn dân tộc (cho dù

là 1 phần của quan điểm đó) mà là về quan điểm phổ biến của TQ về quyền và vai

trò toàn cầu mà họ được kế thừa. Nhận thức này có thể được tìm thấy trong những

lập luận của Trung Quốc khi họ cho rằng Trung Quốc hiện nay nên được xem

7

như một cường quốc bởi dân số đông, lịch sử lâu đời, truyền thống văn hóa giàu

có, nền kinh tế lớn đã hội nhập vào kinh tế thế giới, là thành viên thường trực hội

đồng bảo an Liên Hợp Quốc và sở hữu vũ khí hạt nhân. Quan trọng hơn, hình ảnh

vĩ đại của TQ trong quá khứ đã hình thành quan điểm về sự trỗi dậy của TQ trong

các hoạt động quốc tế và cách nhìn của thế giới về TQ. Học giả Yan Xuetong đại

học Thanh Hoa phát biểu:

Sự trỗi dậy của Trung Quốc được cho là tự nhiên…(người Trung Quốc) tin

rằng sự đi xuống của Trung Quốc là một sai lầm mang tính chất lịch sử mà nên

được sửa chữa...người Trung Quốc xem sự nổi lên của họ như việc giành lại vị thế

quốc tế đã mất hơn là đạt được một điều gì đó mới... Họ coi sự nổi lên của Trung

Quốc như việc khôi phục lại sự công bằng hơn là giành được ưu thế so với các

quốc gia khác.

Tâm lí nạn nhân

Quan điểm thứ hai và có liên quan được thể hiện trong những bài viết của

người Trung Quốc là Trung Quốc là nạn nhân của “100 năm của sự xấu hổ và bẽ

mặt” (bainian guochi) trong tay của các nước phương Tây và các nước khác, đặc

biệt là Nhật Bản. Bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến, Trung Quốc bị xâm lược,

chia rẽ, làm yếu đi bởi các nước bên ngoài đến tận khi Mao Trạch Đông thống nhất

Trung Quốc và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa năm 1949. Di sản

này đã để lại một ấn tượng sâu sắc đến sự nhận thức và bản sắc quốc gia của rất

nhiều người Trung Quốc. Đảng Cộng sản đã đẩy mạnh tuyên truyền câu chuyện

này kể từ lúc mới bắt đầu để họ có thê danh chính ngôn thuận lên cầm quyền. Đảng

cộng sản Trung Quốc khẳng định rằng họ sẽ bảo vệ Trung Quốc khỏi tây

hóa và phong hóa hoặc là bị chia rẽ và bị Phương tây hóa.

Việc đã trở thành nạn nhân trong quá khứ đã khiến các nguy cơ xâm phạm

chủ quyền, lãnh thổ trở nên nhạy cảm, đồng thời khiến TQ nhấn mạnh những

nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ

8

của nhau trong ngoại giao của nước này. Những quan điểm này củng cố thêm cách

nhìn nhận về quyền lực đã được nói đến bên trên. Hơn nữa, tâm lí nạn nhân khiến

cho những nỗ lực của nước này nhằm khẳng định lại vị thế đã mất là hai mặt của

cùng một đồng xu, tạo ra những nỗ lực của Trung Quốc để dành lại “vai trò xứng

đáng” của họ trong quan hệ quốc tế hiện đại.

Tâm lí nạn nhân đã này hiện đang thay đổi trong thời gian gần đây. Những

quan chức và học giả Trung Quốc đã thảo luận về việc hình thành quan điểm “tâm

lí cường quốc”, nhấn mạnh tới những thành tựu đáng kể trong việc phát triển kinh

tế và sự nổi lên của Trung Quốc trong các vấn đề thế giới. Cho đến nay, quan điểm

về vấn đề “nạn nhân” này vẫn tồn tại một cách dai dẳng và phổ biến trong những

người theo chủ nghĩa dân tộc; và rõ ràng đã trở thành một động lực thúc đẩy hình

thành dư luận quần chúng và ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ trong các

cuộc khủng hoảng ngoại giao với Mĩ và Nhật.

An ninh phòng thủ là khái niệm thứ ba gây ảnh hưởng tới tư duy của Trung

Quốc trong các vấn đề đối ngoại. Quan điểm này bắt nguồn từ những nỗi sợ hãi

của Trung Quốc đã xuất hiện từ trong lịch sử rằng các cường quốc bên ngoài đang

cố gắng kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy, có thể gây áp lực lên nước này (trong

khủng hoảng) hay lợi dụng sự yếu kém bên trong của Trung Quốc. Những nỗi sợ

hãi này được đề cập đến trong lịch sử chính thức của Đảng Cộng Sản. Họ đã gợi lại

các cuộc xâm lược sau Chiến tranh nha phiến, những nỗ lực của Mỹ và Liên Xô

nhằm ngăn cản việc Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân và tái thống nhất Đài

Loan. Những vấn đề lịch sử này được dùng để củng cố tính hợp pháp của ĐCS như

là vị cứu thế của một TQ yếu kém và bị chia cắt, đồng thời gây nên hiệu ứng lo

ngại về các ý đồ của các nước lớn có thể làm TQ mất an ninh một cách sâu sắc.

Tình trạng mất an ninh trên được phản ánh bằng nhiều cách khác

nhau trong chính sách chính thức của Trung Quốc và là yếu tố quan trọng để hiểu

được các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức thế nào về ý đồ của họ. Những nhà

9

lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố công khai rằng: “Trung Quốc sẽ không bao giờ trở

thành bá quyền và không bao giờ tấn công để bành trướng”. Truyền thống văn hóa

của Trung Quốc là “ủng hộ hòa bình”, “tập trung phòng thủ”, “tạo ra sự đoàn kết”.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không đe dọa quốc gia

nào khác, thậm chí họ phải đối mặt với những nguy cơ an ninh từ cả những nước

trong khu vực và các cường quốc có lợi ích trong khu vực, tất cả các nước này đều

đã từng phá hoại Trung Quốc trong quá khứ. Trung Quốc nói rằng họ không theo

đuổi việc chiếm giữ, xâm lấn và chinh phục những vùng lãnh thổ của các quốc gia

khác. Họ thường xuyên nói rằng những lần sử dụng vũ lực trong quá khứ và những

cuộc tranh chấp lãnh thổ đều được giới hạn, có mục đích trừng phạt và là kết quả

của sự khiêu khích từ bên ngoài. Các quan điểm trên đã trở nên phổ biến trong lịch

sử của Đảng Cộng sản về vấn đề can thiệp quân sự ( trong các cuộc chiến tranh

Việt Nam, Triều Tiên, Ấn Độ), khi cho rằng TQ đã thực hiện chiến lược quân sự tự

vệ khi bị khiêu khích bởi các đối tượng thù địch bên ngoài. (Nhiều nhà lịch sử

phương Tây còn đang tranh luận về vấn đề này). Quan điểm an ninh phòng thủ

của Trung Quốc biểu hiện trong các chính sách đặt ưu tiên cao trong việc tối đa

hóa an ninh xung quanh khu vực ngoại vi của Trung Quốc đặc biệt khi liên quan

tới phòng thủ biên giới và toàn vẹn lãnh thổ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đặc

biệt lo sợ về việc các cường quốc bên ngoài sử dụng vũ lực và các phương tiện

cưỡng bức khác (ví dụ như : lệnh cấm vận, lệnh trừng phạt) nhằm ép Trung

Quốc đưa ra các quyết định không mong muốn, đặc biệt trong một cuộc khủng

hoảng quân sự. Những bài viết của Trung Quốc về học thuyết vũ khí hạt nhân nhấn

mạnh chỉ cần sở hữu đủ số vũ khí hạt nhân để tránh bị đe dọa bởi kẻ thù có trang bị

vũ khí nguyên tử chứ không cần sở hữu một lượng lớn và đa dạng vũ khí nguyên

tử phục vụ cho các mục đích quân sự như chiến tranh hạt nhân.

Một bước phát triển quan trọng trong tư duy của người Trung Quốc là việc

nước này bắt đầu coi trọng vấn đề tình thế “lưỡng nan về an ninh” trong các vấn đề

10

đối ngoại. Các quan chức và học giả Trung Quốc từ giữa những năm 1990 bắt đầu

nhận thấy một số hành động nhất định của Trung Quốc (được thực hiện để bảo vệ

lợi ích an ninh của Trung Quốc) bị cho rằng đang đe dọa đến các nước xung quanh

Trung Quốc; họ đã bắt đầu hiểu rằng hành động “tự vệ” của mình đã làm tăng

những phản ứng từ các nước khác và làm tăng sự mất ổn định và cạnh tranh an

ninh ở Đông Á. Nhận thức này của Trung Quốc đã nhấn mạnh vấn đề tái bảo đảm

là một đặc điểm của ngoại giao Trung Quốc, một đề tài sẽ được chi tiết hơn dưới

đây.

Các ưu tiên ngoại giao dài hạn

Ba lăng kính lịch sử của Trung Quốc được phản ánh rõ hơn bằng ba ưu tiên

ngoại giao lâu dài: chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, phát triển kinh tế, vị thế quốc

tê và sự tôn trọng của quốc tế. Trong khi những lăng kính lịch sử tương đối trừu

tượng, những ưu tiên này cụ thể hơn và thúc đẩy một cách rõ ràng chính sách đối

ngoại và an ninh của Trung Quốc từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được

thành lập năm 1949. Những lăng kính này không chỉ là hiện tượng hậu 1978. Biểu

hiện chính sách cụ thể của ba ưu tiên này và trọng tâm tương ứng của giới lãnh

đạo đã thay đổi rất nhiều trong hơn 25 năm qua- và sẽ còn tiếp tục làm thay đổi.

Trong khi chính sách đối ngoại của Mao nhấn mạnh vào chủ quyền, toàn vẹn lãnh

thổ và vị thế (giữa các ý kiến cải cách khác), trong thời kỳ cải cách, các nhà lãnh

đạo Trung Quốc đã rõ ràng và kiên định đặt ưu tiên phát triển kinh tế quốc gia

trong các quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.

Chủ quyền và thống nhất lãnh thổ

Bảo vệ chủ quyền và thống nhất lãnh thổ là lợi ích quốc gia then chốt của

Trung Quốc và được thể hiện trong các chính sách đối ngoại như theo đuổi sự an

toàn ở biên giới Trung Quốc, thúc đẩy sự thống nhất Đài Loan, hạn chế những mối

đe dọa của nước ngoài với lãnh thổ Trung Quốc (bao gồm cả các yêu sách lãnh thổ

trên biển), và giảm đến mức thấp nhất sự can thiệp từ bên ngoài vào sự phát triển

11

và chính trị Trung Quốc[13]. Trung Quốc chia sẻ biên giới trên bộ với 14 quốc gia

và đường bờ biển của nước này dài khoảng 14,500km. Trung Quốc thường

xuyên tranh chấp lãnh thổ trên bộ và trên biển với các quốc gia láng giềng trong

sáu thập kỷ qua. Tranh luận về tranh chấp biên giới và ngăn chặn sự xâm lấn của

nước ngoài vào Trung Quốc là mối quan ngại chính của ngoại giao Trung Quốc.

Những nỗ lực thành công của Trung Quốc những năm 1980 trong việc đàm phán

lấy lại Hong Kong và Macao thường xuyên được ca ngợi là những thành công

lớn về phương pháp tiếp cận chính sách đối ngoại của Chủ tịch Giang Trạch Dân.

Tất nhiên, thống nhất hai bờ Đài Loan là một yếu tố lâu dài trong nỗ lực của TQ

nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Gần đây, Trung Quốc nhận thức rằng nước này đang phải đối mặt với nhiều

mối đe dọa bên trong đối với sự thống nhất lãnh thổ của từ “những nhóm ly khai”,

như Hồi giáo Uighurs ở tỉnh Tân Cương, và Đạt La Lạt Ma. Việc chính sách đối

ngoại Trung Quốc gần đây tập trung vào vấn đề chống khủng bố là biểu hiện của

mong muốn ngăn cản các nhóm này liên kết với Al Qaeda hay các nhóm khủng bố

nguy hiểm khác. Có rất ít tranh luận về vị trí ưu tiên hàng đầu của vấn đề chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.

Phát triển kinh tế

Việc phát triển kinh tế được coi là ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại

là một hiện tượng của thời kỳ cải cách. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến

những nỗ lực của Trung Quốc trong 30 năm để đảm bảo môi trường ổn định bên

ngoài để cải thiện mức sống của người dân và xây dựng " sức mạnh toàn diện của

quốc gia" giúp đạt được sự hồi sinh thần kỳ. Lời phát biểu của Đặng Tiểu Bình

năm 1992 " chỉ có phát triển mới là điều thuận theo đạo lý " (fazhan caishi ying

daoli 发展才是硬道理) vẫn tiếp tục ảnh hưởng chính đến chính sách đối

ngoại Trung Quốc. Thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu "Lời cuối cùng là về vấn đề

phát triển, đó không chỉ là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề nội bộ mà còn là cơ

12

sở để tăng cường sức mạnh ngoại giao của chúng ta và là cơ sở để cạnh tranh

quyền lực giữa các quốc gia ". Wang Yizhou, một học giả nổi tiếng của Học viện

Khoa học Xã hội Trung Quốc, làm cụ thể logic của sự phát triển chính sách đối

ngoại:

Các mối đe dọa chính đến an ninh quốc gia Trung Quốc không phải là bị

lực lượng bên ngoài xâm lược hay tiến hành một cuộc chiến tranh , mà là việc liệu

rằng Trung Quốc có thể duy trì sự ổn định, trật tự, và phát triển lành mạnh hay

không?... Phát triển về chính trị văn hóa xã hội và giá trị là tất cả các thành tố

trong quan niệm về phát triển. Với điều kiện tiên quyết tập trung vào phát triển

kinh tế, thông qua tất cả các khía cạnh của sự phát triển nêu trên, Trung Quốc có

thể nâng cao vị thế và gia tăng một cách mạnh mẽ ảnh hưởng trên trường quốc tế

trong thế kỷ mới, và có thể thực thi chính sách ngoại giao của mình trên cơ sở vị

thế nước lớn. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển của Trung Quốc phải tính đến cả

các yếu tố trong nước và ngoài nước.

Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu của công cuộc cải cách và phát triển (tính đến

khoảng 2002), chính sách của Trung Quốc đã chủ yếu tập trung vào thực hiện ấm

no( wenbao (温饱), hay mức độ phát triển kinh tế để cho nhân dân Trung Hoa đủ

cơm ăn áo mặc. Chủ tịch Giang Trạch Dân, trong Đại hội Đảng lần thứ 16 vào

tháng 11 năm 2002, tuyên bố rằng Trung Quốc đã đạt được mục tiêu trên và đặt ra

mục tiêu phát triển mới bằng cách kêu gọi "xây dựng một xã hội khá giả toàn

diện" trong hai thập kỉ tới (quanmian Jianshe xiaokang

shehui全面建设小康社会) . Mặc dù ý nghĩa cụ thể của khẩu hiệu này còn gây

tranh cãi, nhưng hiểu theo cách chung nhất thì nó có nghĩa là Trung Quốc muốn trở

thành cường quốc hạng trung ổn định và thịnh vượng với một tầng lớp trung lưu

khá lớn vào trước năm 2020.

13

Sự phát triển không ngừng của kinh tế Trung Quốc cũng là yếu tố quan

trọng để duy trì khả năng tiếp tục lãnh đạo của Đảng. Khi những nền tảng, lí luận

của Đảng đã không còn phù hợp nữa thì đã được thay thế bằng logic kinh tế với

yêu cầu những nhà lãnh đạo của Trung Quốc cần phải tạo ra những cơ hội để phát

triển kinh tế lớn hơn nữa cho người dân.

Vị thế quốc tế

Đã từ lâu những nhà hoạch định và học giả của Trung Quốc xem Trung

Quốc là một trung tâm quyền lực đáng được tôn trọng trong hành xử quốc tế. Kể

từ khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, lãnh đạo Đảng

cộng sản Trung Quốc đã liên hệ vị thế của TQ với các yếu tố như là ủy viên

thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ưu thế sỡ hữu vũ khí hạt nhân ,

với một dân số đông, đất đai rộng và vị thế là một cường quốc trong lịch sử ở châu

Á. Nhận thức của Trung Quốc về vị thế quốc tế của mình thay đổi từ sau thời kì

Mao nắm quyền và bắt đầu công cuộc cải cách, đặc biệt là kể từ sự sụp đổ của Liên

Xô và sự kiện Thiên An Môn. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn thổi

phồng các yếu tố này để giữ TQ có vai trò nước lớn. Mặc dù chưa rõ rằng các nhà

lãnh đạo xác định vị thế của họ như thế nào trải qua các thời kì như vậy nhưng việc

tối đa hóa vị thế luôn là mục tiêu hàng đầu trong các quyết định về mặt chính sách

đối ngoại của TQ.

Bên cạnh đó, việc Trung Quốc nhấn mạnh vị thế của mình gắn

liền với sự nhạy cảm của nước này về cả hình ảnh và vai trò của nước này trong

chính trị quốc tế, vốn là những khái niệm dễ nhận thấy với Trung Quốc. Trung

Quốc quan tâm đến hình ảnh của mình vì nước này muốn được thừa nhận là một

thành viên của cộng đồng quốc tế và không muốn bị đứng ngoài hay nói cách khác

là bị cô lập, đặc biệt là trong các thể chế quốc tế. Trung Quốc chú trọng đến danh

tiếng của mình vì những lợi ích mà họ cho rằng có thể có được như thương mại,

viện trợ, công nghệ và đầu tư khi trở thành thành viên tích cực của các tổ chức

14

quốc tế. Việc TQ tăng cường các biện pháp ngoại giao sau sự cố Thiên An Môn

năm 1989 để xây dựng lại hình ảnh và thanh danh của mình là 1 ví dụ của giá trị

của các yếu tố này với CSĐN của Trung Quốc, cả ở mặt hình thức và nội dung.

Biểu hiện nhiều hơn gần đây của ưu tiên dài hạn đó là bắt đầu từ thập kỉ 90 của

chính phủ TQ nỗ lực thiết lập vị thế của Trung Quốc với tư cách là 1 “cường quốc

đầy trách nhiệm”.

Việc TQ nhấn mạnh vào yếu tố vị thế, một thuộc tính phi vật

chất của các nhà nước đã đưa TQ đến vị trí tương ứng của một cường quốc trong

hệ thống chính trị thế giới và tạo nên những ý kiến về sức mạnh của họ. Đó là bởi

vì nhiều nhà chiến lược Trung Quốc nhận thấy vị thế là yếu tố “sống còn” đối với

vị trí của Trung Quốc giữa các trung tâm quyền lực và đảm bảo cho sự tích tụ cả

quyền lực lẫn ảnh hưởng của Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách và học

giả Trung Quốc tranh luận rằng những nỗ lực cải thiện vị thế quốc tế là quan trọng

bởi vì những quốc gia khác đã thể hiện sự quan tâm với sự ảnh hưởng đang lên của

Trung Quốc trong chính trị toàn cầu. Nói cách khác, nâng cao hình ảnh và danh

tiếng (và những chính sách thực hiện) sẽ giúp Trung Quốc cải thiện mối lo ngại về

“mối đe dọa Trung Quốc” và như vậy, sẽ giúp tránh được những khó khăn để trở

thành một thành viên mạnh, thịnh vượng và có ảnh hưởng trong cộng đồng quốc

tế.

Việc Trung Quốc phấn đấu nhằm đạt được uy tín và vị thế quốc

tế thể hiện trong nhiều chính sách và hành động phản ánh sự ủng hộ của Trung

Quốc với luật lệ, quy tắc và thể chế quốc tế. Các nhà hoạch định chính sách và học

giả Trung Quốc thường xuyên nói về việc Trung Quốc đang đóng góp vai trò tích

cực và có tính chất xây dựng hơn trong các tổ chức quốc tế- như Hội Đồng Bảo An

Liên Hợp Quốc, tổ chức Thương Mại Thế Giới và nhiều tổ chức an ninh khu vực

khác-đã chứng minh rằng Trung Quốc là một động lực vì sự ổn định và phát triển

kinh tế. Các nhà phân tích Trung Quốc thường xuyên kêu gọi thực hiện mục tiêu

15

hành động như là một cường quốc có trách nhiệm để giải thích cho các hoạt động

của Trung Quốc đối với các thể chế đa phương và các vấn đề an ninh phi truyền

thống. Những hoạt động trên, theo đại sứ Trung Quốc Wang Yi là để nâng cao vị

thế quốc tế của Trung Quốc và có nhiệm vụ như là “hòn đá tảng cho nỗ lực của

Trung Quốc để gia nhập vào hàng ngũ của những cường quốc hàng đầu trên thế

giới”.

Chương 3:

Nhận thức hiện nay về môi trường an ninh quốc tế

Cách TQ đánh giá môi trường an ninh bên ngoài của họ là nền tảng kinh

nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách của TQ khi họ hoạch định chính sách

đối ngoại. Các cách đánh giá này đóng một vai trò không thể thiếu trong các tranh

luận về các mục tiêu và chính sách mà nước này nên theo đuổi và khi các nhận

thức này thay đổi thì hành vi của TQ cũng thay đổi. Các nhà hoạch định chính

sách của TQ và các nhà phân tích đã nhấn mạnh nhiều khía cạnh của môi trường an

ninh hienj nay. Sáu nhận thức nổi bật trong số đó được nghiên cứu trong chương

này.

Nhưng trước tiên phải nói đến hai niềm tin đã bao phủ lên quan điểm của

TQ về môi trường an ninh hiện nay. Thứ nhất là niềm tin rất lớn rằng tương lai của

TQ ngày càng được gắn với cộng đồng quốc tế. Các nhà lãnh đạo TQ hiểu rằng mô

hình phát triển hiện nay của TQ kết hợp với sự gia tăng nhanh chóng của quá trình

16

toàn cầu hóa sẽ đưa TQ ngày càng hội nhập sâu hơn vào cộng đồng quốc tế. Việc

TQ thành công trong việc chấn hưng quốc gia phụ thuộc vào sự gần gũi và các mối

quan hệ với các cường quốc trên thế giới và khu vực, các thị trường và thể thế quốc

tế. Sách trắng quốc phòng của TQ năm 2008 đã viết “ Tương lai và số phận của TQ

ngày càng phụ thuộc chặt chẽ hơn với cộng đồng quốc tế. TQ không thể phát triển

khi bị cô lập với phần còn lại của thế giới cũng như thế giới không thể có thịnh

vượng và ổn định khi không có sự góp mặt của TQ”. Thậm chí trong khi cuộc

khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra từ mùa thu năm 2008 và ảnh hưởng là sự

giảm sút chóng mặt của tốc độ phát triển kinh tế, chủ tịch Hồ Cẩm Đào vẫn trấn an

Hội nghị kinh tế trung ương vào tháng 12 năm 2008 rằng định hướng hội nhập

kinh tế toàn cầu của TQ là hoàn toàn đúng đắn là nên được tiếp tục.

Niềm tin thứ hai liên quan đến những nghi ngại phổ biến trong các nhà

hoạch định chính sách của TQ về phạm vi của các mối đe dọa với TQ. Với một vài

người thì TQ đã ở trong trạng thái an toàn nhất trong 200 năm qua và ảnh hưởng

cũng như vị thế quốc tế của nước này đều đang tăng lên. Với một số khác thì các

mối đe dọa an ninh mà TQ phải đối mặt rất da dạng và đang tăng lên, điều đó thách

thức khả năng của TQ trở lại vị thế của một siêu cường. Sự đối lập giữa hai quan

điểm trên được phản ánh vào các đánh giá an ninh chính thức của TQ như sách

trắng quốc phòng. Nhưng những tranh luận như vậy ít khi được phản ánh vào

chính sách của TQ. Việc các nhà lãnh đạo nhấn mạnh vào yếu tố đồng thuận khi

quyết định các chính sách và thúc đẩy sự thống nhất trong nhận thức trong Đảng đã

hạn chế ảnh hưởng của các tranh luận như vậy với việc xây dựng các chính sách

trên thực tế. Cuối cùng, việc tương đối cân bằng giữa các mối đe dọa bên ngoài và

cơ hội trong các đánh giá của TQ (cả công khai và nội bộ) sẽ là chỉ báo quan trọng

cho nhận thức trong tương lai của TQ.

Quan điểm hiện nay của chính quyền TQ là TQ đang có môi trường an ninh

bên ngoài thuận lợi cho việc tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Theo như chi tiết

17

dưới đây thì các nhà lãnh đạo TQ tin tưởng rằng môi trường hiện nay, vì nhiều lí

do, đang tạo ra cơ hội chiến lược mà có thể sẽ kết thúc sau 20 năm nữa và có thể

giúp TQ tiếp tục tăng cường tiềm lực quốc gia và xây dựng xã hội khá giả hài hòa.

Các nhà hoạch định chính sách của TQ tìm kiếm việc mở rộng tối đa cơ hội này và

nếu có thể thì kéo dài tối đa đến mức có thể.

Xung đột giữa các cường quốc.

Đặc điểm quan trọng của đánh giá môi trường an ninh bên ngoài của TQ là

sự tin tưởng vào khả năng chiến tranh giữa các cường quốc, điều sẽ khiến TQ

không tập trung vào phát triển đất nước là ít xảy ra. Sách trắng quốc phòng TQ

năm 2008 đã viết “những yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình và ngăn chặn chiến

tranh đã tăng lên….vì vậy hạn chế nguy cơ các cuộc chiến tranh có quy mô toàn

cầu, tổng lực và tương đối kéo dài”. Điều đó không có nghĩa là các nhà chiến lược

của TQ tin tưởng rằng những xung đột giữa TQ và Mĩ xung quanh vấn đề Đài

Loan là không thể xảy ra. (thậm chí, quân đội TQ đặc biệt quan tâm chuẩn bị cho

chiến tranh với Đài Loan), hơn nữa, điều đó có nghĩa là phạm vi của quan hệ giữa

các cường quốc đã thay đổi từ Chiến tranh lạnh, giảm bớt khả năng xảy ra xung đột

vũ trang giữa các cường quốc. Kết luận quan trọng này ban đầu được Đặng Tiểu

Bình đề ra vào giữa những năm 80 và trực tiếp đối lập lại cách đánh giá của Mao

về “đánh sớm, đánh lớn, chiến tranh hạt nhân”. Kết luận của Đặng đã thay đổi

quan điểm bi quan của Mao và tạo nên cơ sở lí thuyết cho chính sách đối ngoại

quốc tế hóa và hỗ trợ cho phát triển kinh tế mà ông ta theo đuổi. Kết luận ban đầu

của Đặng sau đó đã giúp các nhà lãnh đạo kế nhiệm đưa ra khẩu hiệu “hòa bình và

phát triển là xu thể của thời đại”. Kết luận mấu chốt này được Đặng liên tiếp nhắc

lại trong các năm 80 và 90 đã tạo ra cơ sở cho chính sách đối ngoại thời kì mở cửa

của TQ và khẩu hiệu này vẫn tiếp tục tồn tại trong chính sách đối ngoại của TQ.

Tiếp theo sự đi xuống của quan hệ Trung Mĩ vào cuối thập kỉ 90 (đặc biệt là

sau sự kiện đánh bom Đại sứ quán Mĩ ở Belgrade và các sự kiện khác), đã có

18

những tranh luận lớn và quan trọng trong nội bộ TQ về vấn đề “hòa bình và phát

triển” liệu có phải là đặc điểm chính xác của môi trường an ninh bên ngoài của TQ.

Sau nhiều cuộc thảo luận nội bộ, các nhà lãnh đạo TQ kết luận rằng dự báo then

chốt này vẫn không thay đổi. Kết quả của dự báo chiến lược này là vào năm 2002,

chủ tịch Giang Trạch Dân đã tuyên bố ở Đại hội Đảng CS TQ lần thứ 16 rằng 20

năm tói là thời kì của cơ hội chiến lược cho sự phát triển và tăng trưởng của TQ.

Đặc điểm mà Giang Trạch Dân đưa ra và sau đó được Hồ Cẩm Đào tái khẳng định

tiếp tục là kết luận lí thuyết then chốt chứng minh cho việc tiếp tục chính sách đối

ngoại của thời kì mở cửa là tập trung vào giữ ổn định, phát triển kinh tế và ở phạm

vi rộng hơn là tăng cường sức mạnh toàn diện. Đại sứ đã nghỉ hưu Thẩm Quốc

Phương đã phát biểu vào tháng 6 năm 2007 rằng:

20 năm đầu của thế kỉ này là cơ hội chiến lược sống còn mà TQ phải giành

lấy và sử dụng vào mục đích tốt. Hai tập kỉ vừa qua đã xuất hiện những yếu tố

chiến lược để xây dựng một xã hội khá giả toàn diện. TQ đã xây dựng chính sách

đối ngoại, chiến lược chung và các hoạt động đối ngoại xung quanh mục tiêu này.

Mục đích của các hoạt động ngoại gia cũng để đạt được mục tiêu này.

Đánh giá cho rằng khả năng xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc là thấp

được cân bằng bởi lo ngại của TQ về những mối đe dọa đa chiều và đang gia tăng

với TQ, châu Á và thế giới. Sách trắng quốc phòng 2008 đã đưa ra cách đánh giá

toàn diện của TQ về các vấn đề: hòa bình và sự phát triển của thế giới đang phải

đối mặt với một loạt các khó khăn và thách thức khác nhau. Cuộc đua giành giật

những nguồn lợi chiến lược, các vị trí chiến lược và sự thống trị chiến lược đã tăng

lên. Trong khi đó, chủ nghĩa bá quyền và chính trị dựa trên quyền lực vẫn tồn tại,

những bất ổn khu vực tiếp tục chưa có hướng giải quyết, các điểm nóng tiếp tục gia

tăng và các xung đột và chiến tranh cục bộ vẫn xuất hiện. Hậu quả của khủng

hoảng kinh tế có nguyên nhân từ khủng hoảng cho vay dưới chuẩn ở Mĩ đang gia

tăng một cách nhanh chóng. Về mặt phát triển kinh tế thế giới, các vấn đề như

19

năng lượng và thực phẩm đang trở nên nghiêm trọng hơn, tạo nên những sự đối lập

sâu sắc. Các nguy cơ kinh tế được biểu lộ trong một thế giới liên kết lẫn nhau, có

tính hệ thống và mang tính toàn cầu. Các vấn đề như khủng bố, thảm họa môi

trường, biến đổi khí hâu, các bệnh dịch nghiêm trọng, tội phạm xuyên quốc gia và

cướp biển đã trở nên phổ biến.

Các nhà chiến lược của TQ gợi lại các căng thẳng trong quá khứ giữa Mĩ và

EU, Mĩ và Nga trong thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 để cho rằng các mâu thuẫn và

đối lập giữa các cường quốc đã tăng lên và những mâu thuẫn này là nguồn gốc của

sự bất ổn toàn cầu. Nhiều nhà phân tích TQ đã gắn vấn đề này với chính sách đơn

phương của Mĩ. Các sách trắng quốc phòng của Mĩ, bao gồm cả bản năm 2008 tiếp

tục xem “ chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền” là nhân tố làm bất ổn tình

hình an ninh quốc tế. Đoạn này rất phổ biến khi TQ đề cập đến chính sách đối

ngoại và các hoạt động trên thực tế của Mĩ. Tiền Kì Tham, nguyên phó thủ tướng

và là người phụ trách CSĐN của TQ lâu năm đã tóm tắt quan điểm của giới lãnh

đạo ĐCSTQ về hiện trạng của quan hệ giữa các nước lớn trong một bài phát biểu

cá nhân thẳng thắn duy nhất

Mĩ muốn thực hiện chủ nghĩa đơn phương nhưng không thể thống trị thế

giới…Quan hệ giữa các cường quốc tiếp tục được đánh dấu bằng hợp tác và cạnh

tranh, trao đổi song phương và kiềm chế song phương cũng như cạnh tranh và

thỏa hiệp trong một thời gian dài nữa. Đặc biệt, xu hướng hợp tác sẽ lấn át xu

hướng mâu thuẫn. Các cường quốc sẽ tiếp tục duy trì quan hệ song phương ổn

định

Lo ngại nổi bật khác của TQ được nêu bật trong 3 sách trắng quốc phòng

gần đây là sự đe dọa đến sự ổn địn của khu vực và thế giới của sự gia tăng quân sự

hóa trong chính trị thế giới. Sách trắng quốc phòng năm 2008 đã đưa ra đánh giá

thẳng thắn nhât trong những năm qua” Ảnh hưởng của an ninh quân sự trong quan

hệ quốc tế đang tăng lên. Cuộc cạnh tranh quân sự trên bình diện quốc tế đang gia

20

tăng một cách nghiêm trọng bởi cuộc cạnh tranh về sức mạnh quốc gia và sự phát

triển của khoa học và công nghệ. …Tất cả các nước đang ngày càng coi trọng sự

hỗ trợ của ngoại giao với quân sự. Kết quả là các cuộc chạy đua vũ trang ở một số

khu vực đang được hâm nóng, tạo ra những thách thức nghiêm trọng với việc kiểm

soát vũ khí và các cơ chế không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt”

Với TQ, các xu hướng trong quan hệ giữa các nước lớn này trực tiếp ảnh

hưởng cách đánh giá của TQ về an ninh và ổn định ở khu vực châu Á, khu vực có

tầm quan trọng bậc nhất với TQ. Mặc dù tình hình châu Á-TBD xét một cách toàn

diện là ổn định với kết quả của sự gia tăng phụ thuộc kinh tế lẫn nhau và ảnh

hưởng của các tổ chức đa phương, các nhà làm chính sách của TQ tiếp tục lo ngại

sâu sắc về vai trò của Mĩ” Mĩ tăng cường sự chú ý chiến lược và đặt chân vào khu

vực châu Á-TBD, củng cố mạnh mẽ hơn các liên minh quân sự, điều chỉnh việc

triển khai quân đội và nâng cấp tiềm lực quân sự”. Một lo ngại có liên quan của

TQ là các xung đột cục bộ và có giới hạn có khả năng xuất hiện ở khu vực xung

quanh TQ và là kết quả của sự gia tăng các tranh chấp về tôn giáo, dân tộc và lãnh

thổ.

Toàn cầu hóa và đa cực

Quan điểm của TQ về các hậu quả của toàn cầu hóa và sự phát triển của chủ

nghĩa đa cực trong quan hệ giữa các quốc gia là trung tâm của nhận thức của họ về

môi trường an ninh bên ngoài. Các kết luận của TQ về 2 xu hướng được coi là một

phong vũ biểu của quan điểm của TQ về sức mạnh kinh tế, mức độ phụ thuộc toàn

cầu và mức độ của thời gian và không gian của TQ có thể tiếp tục phát triển.

Toàn cầu hóa

Các nhà hoạch định chính sách và các học giả TQ cho rằng quá trình toàn

cầu hóa dã định hình lại kinh tế thế giới và các mối quan hệ chính trị từ sau Chiến

tranh lạnh, tạo ra cả cơ hội và thách thức với TQ. Họ thống nhất cho rằng toàn cầu

hóa tạo ra nhiều cơ hội hơn là thách thức. Toàn cầu hóa đã làm tăng tầm quan

21

trọng của sức mạnh kinh tế, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, và làm

nổi bật các cơ hội cho hợp tác kinh tế song phương cùng có lợi. Các nhà hoạch

định chính sách của TQ đã nói về giá trị của ngoại giao kinh tế và sở hữu sức mạnh

mềm trong thế giới toàn cầu hóa. Họ nhìn nhận rằng tất cả những xu hướng này

góp phần vào tạo ra lơi ích của TQ khi họ mở rộng ảnh hưởng. Đại sứ Thẩm Quốc

Phương đã tóm tắt các quan điểm của TQ về ý nghĩa tích cực của toàn cầu hóa

Về cơ bản, xu hướng lịch sử tạo ra bởi quá trình toàn cầu hóa và ảnh hưởng

của quá trình này tạo ra những thay đổi có lợi cho sự phát triển hòa bình của TQ và

tạo ra một không gian chiến lược cũng như khoảng trống cho nước này thử

nghiệm. Một mặt, bên cạnh những mặt trái của toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau

giữa các thực thể kinh tế đã lớn hơn và không có sự gián đoạn. Tất cả các quốc gia

hiện tại đều nêu bật tầm quan trọng của việc tăng cường hiệu quả của ngoại giao

kinh tế. Những xu hướng về việc đa dạng hóa lợi ích giữa các quốc gia và dân tộc,

hướng đến sự xuất hiện của chính trị đa cực và hướng đến sự đa dạng văn hóa hiện

đang ngày càng tăng lên

Ở mặt khác, hậu quả của toàn cầu hóa đã định dạng lại chính trị thế giới và

chính trị khu vực và tạo ra những hành vi mới của quốc gia. Toàn cầu hóa cũng

thách thức tất cả các quốc gia trên thế giới khi xây dựng một thế giới hài hòa. Thiết

lập những nhận thức ngoại giao mới trong kỉ nguyên của toàn cầu hóa đã trở thành

một vấn đề mới được nhiều quốc gia theo dõi.

Cùng lúc đó, các nhà phân tích TQ đã chú ý cái giá và những nguy hiểm của

quá trình toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa đã làm tăng sự mất công bằng về kinh tế và

xã hội, khiến cho các nước đang phát triển được lợi trong khi các nước đang phát

triển bao gồm cả TQ phải trả giá đắt. Điều đó đã khiến cho căng thẳng Nam-Bắc

tăng lên và sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân kinh tế mới, khi mà các quốc gia

đang phát triển phụ thuộc vào ưu thế vượt trội về mặt công nghệ và kinh tế của các

quốc gia phương Tây. Với TQ, những xu hướng này không chỉ có mặt tiêu cực. Sự

22

mất công bằng Nam Bắc đã tạo ra khoảng trống cho TQ thể hiện vai trò cầu nối

giữa các nước có lợi từ toàn cầu hóa và những nước gặp bất lợi vì TQ có thể nói

chuyện với tất cả các nước kể trên. Với nhiều người TQ, vai trò này giúp cho TQ

uy tín để mở rộng sự ảnh hưởng về chính trị và kinh tế với thế giới các nước đang

phát triển.

Chủ nghĩa đa cực

Tiếp theo sự kết thúc của Chiến tranh lạnh, phần lớn các nhà phân tích dự

đoán quá trình biến đổi nhanh chóng từ hệ thống lưỡng cực sang hệ thống ban đầu

được Mĩ thống trị và sau đó chuyển sang hệ thống đa cực. Vào những năm 90, định

hình một hệ thống đa cực giữa các cường quốc đã tiến triển chậm hơn TQ dự kiến

và có thể không trở thành hiện thực. Các nhà hoạch định chính sách của TQ đã

ngạc nhiên và lo ngại về khả năng của Mĩ duy trì vị thế của hệ thống đơn cực.

Nhiều nhà phân tích TQ ban đầu miêu tả cục diện quốc tế sau Chiến tranh lạnh của

đầu thập kỉ 90 là nhất siêu đa cường với một xu hướng mạnh mẽ hướng tới xu

hướng đa cực. Nhưng vào cuối những năm 90, khi mà sức mạnh kinh tế và quân sự

của Mĩ tiêp tục được duy trì không như mong muốn, TQ đã thay đổi quan điểm

trên bằng “Nhất siêu càng siêu, nhiều cường không cường”.

Quan điểm này đã thay đổi một cách nhanh chóng, Từ năm năm gần đây,

nhiều đánh giá của TQ cho rằng dao động của trật tự thế giới đã trở về xu thế đa

cực. Đây là quan điểm chính thức của ĐCS, một sự phát triển có liên quan tới công

thức việc thực hiện chính sách của TQ. Báo cáo của Hồ Cẩm Đào trước ĐH 17

ĐCS TQ là đánh giá lạc quan nhất từ trước đến nay “ các tiến bộ hướng tới một thế

giới đa cực là không thể ngăn cản được”. Đây là một quan điểm rõ ràng hơn báo

cáo của Giang Trạch Dân trước ĐH 16 ĐCS TQ, khi xem xét “xu hướng tới chủ

nghĩa đa cực là sự phát triển nhưng còn gặp nhiều gập ghềnh, thử thách” trong khi

báo cáo của Giang trước đại hội 16 chỉ là “Cấu trúc của thế giới hiện đang tiến tới

chủ nghĩa đa cực”

23

Các nhà hoạch định chính sách và học giả của TQ hiện có quan điểm chung

rằng chủ nghĩa đa cực sẽ được đẩy nhanh khi ảnh hưởng của TQ bị giảm bớt. Các

đánh giá của TQ về chủ nghĩa đa cực chỉ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu

và sự xuống dốc một cách tương đối của kinh tế Mĩ, và mặt khác là sự tức giận của

cộng đồng quốc tế gia tăng khi Mĩ can thiệp vào Iraq và Mĩ thực hiện cuộc chống

khủng bố trên toàn cầu. Các nhà hoạch định TQ cho rằng những hoạt động này đã

làm suy giảm sức mạnh kinh tế, quân sự và vị thế quốc tế của Mĩ. Một nhà ngoại

giao cấp cao của TQ cho ràng: “Chiến lược bá quyền đơn cực của Mĩ đã phải lùi

bước và chiến lược đối ngoại của nước này đã được đẩy lên”. Nhiều nhà phân tích

và học giả TQ đã nhận định rằng một hệ thống đa cực thực sự sẽ xuất hiện trong

khoảng 20 đến 30 năm nữa.

Một mặt khác trong nhận thức của TQ về sự đẩy nhanh của chủ nghĩa đa cực

là sức mạnh của những nước mới nổi như Ấn Độ, Brazil, Mexico và TQ và các tổ

chức liên quan như G20 “ Sự trỗi dậy của các cường quốc mới nổi đã đẩy nhanh sự

trỗi dậy của các tổ chức khu vực. Tiếng nói của họ trên trường quốc tế đã mạnh mẽ

hơn”. Mặc dù các nhà chiến lược của TQ nhận ra rằng sự xuát hiện của hệ thống đa

cực vẫn còn ở trong trung hạn thì họ vẫn cho rằng các cường quốc mới nối và các

tổ chức có liên quan sẽ đẩy nhanh quá trình này. Sách trắng quốc phòng năm 2008

của TQ đã khẳng định lại quan điểm này:

Toàn cầu hóa kinh tế và đa cực thế giới là động lực đang lên. Bước tiến tới

công nghiệp hóa và thông tin hóa trên toàn thế giới đang được đẩy nhanh và hợp

tác kinh tế giữa các quốc gia hiện rất mạnh, khiến gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau

về mặt kinh tế, liên kết và tương tác giữa các quốc gia.

Sự hưng thịnh và suy vong của các lực lượng chiến lược quốc tế đang được

dẩy nhanh, các cường quốc đang có các nỗ lực đẻ hợp tác với các nước khác và

dựa vào sức mạnh của chính họ. Họ tiếp tục cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau và

24

các nhóm của các nước đang phát triển mới nổi đang trỗi dây. Vì vậy tạp nên sự

điều chỉnh trong hệ thống quốc tế.

Sức mạnh của Mỹ và quan hệ các nước lớn

Phần 3 xem xét nhận thức của TQ về phân phối quyền lực giữa các nước lớn

trong hệ thống quốc tế hiện nay. Trung Quốc được biết đến như một quốc gia với

những suy nghĩ thực dụng thì sự tính toán này ảnh hưởng sâu sắc đến những nhà ra

quyết định. Những nhà phân tích Trung Quốc thường thảo luận về các đánh giá so

sánh mức độ của đơn cực với đa cực trong quan hệ quốc tế. Như đã lưu ý ở

trên, mặc dù đã có những thất bại trong quá khứ nhưng những nhà làm chích

sách Trung Quốc thấy được xu hướng hiện nay tạo điều kiện thuận lợi cho hệt

thống đa cực khi mà các thế lực mới nổi lên và Mĩ phải đối mặt với sự giảm sút

sức mạnh một cách tương đối đều đặn. TQ phân tích các cường quốc tập trung chủ

yếu vào sức mạnh của Mỹ và vai trò của họ trong chính trị quốc tế và quan hệ Mỹ-

Trung Quốc

Ưu thế tương đối của Mỹ hiện nay trong nhiều vấn đề quốc tế mà Trung

Quốc ám chỉ như “tính bá quyền” là nguồn gốc khiến cho các nhà hoạch định

chính sách TQ lo ngại và không hài lòng một cách sâu sắc. Vị trí của Mỹ càng làm

tăng mối lo ngại ở nhiều mức độ của những nhà hoạch định chính sách Trung

Quốc. Nhìn chung, Trung Quốc sợ rằng Hoa Kỳ kìm chế sự phát triển của Trung

Quốc về kinh tế, chính trị và khả năng quân sự, đặc biệt là sẽ ảnh hưởng đến vị trí

của Trung Quốc ở Đông Á. Đây là quan điểm phổ biến trong các nhà hoạch định

chính sách, các nhà học giả, các sĩ quan quân đội,... Năm 2008 sách trắng quốc

phòng đã viết rằng “trong cùng một thời gian, Mỹ đã tăng sự quan tâm chiến lược

của họ đến khu vực Châu Á Thái Bình Dương, củng cố thêm liên minh quân

sự Mỹ, điều chỉnh việc triển khai quân đội và nâng cao khả năng quân sự….”

25

và Trung Quốc phải đối mặt với những sự vận động chiến lược và ngăn chặn từ

bên ngoài”.

Những mối lo ngại chung của TQ về ý đồ chiến lược của Mĩ đặc biệt nhạy

cảm với vấn đề Đài Loan. Việc Mĩ và TQ có sự khác biệt rất lớn về địa vị của Đài

Loan là mối lo lắng lớn nhất của Trung Quốc bởi vì bởi vì đây là lợi ích quốc gia

căn bản và là nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang. Quân đội của cả Mỹ và Trung

Quốc đều chuẩn bị cho một cuộc xung đột mà mỗi bên xem nhau như đối thủ tiềm

năng. Phần lớn người Trung Quốc xem xét chính sách của Hoa Kỳ với Đài Loan,

đặc biệt là việc bán vũ khí của Mỹ tới hòn đảo này, là để ngăn chặn sự thống nhất

và do đó, được xem là một phần nỗ lực lớn hơn của Mỹ để ngăn chặn nguy cơ nổi

lên của Trung Quốc vì họ lo ngại rằng sau đó Trung Quốc sẽ vượt lên trên Hoa

Kỳ. Do đó, việc Trung Quốc đối lập với chính sách của Mỹ về vấn đề Đài Loan là

rất quan trọng, nhưng nó cũng không phải là vấn đề duy nhất đơn nhất, hình thành

quan điểm của Trung Quốc về mục đích chiến lược chủ đạo của Mỹ là gây cản trở

và kìm chế sự nổi lên của Trung Quốc.

Vượt ra ngoài vấn đề Đài Loan, Trung Quốc tin rằng Hoa Kỳ sẽ cho rằng họ

có đạo đức hơn hẳn Bắc Kinh, không chấp nhận tính pháp lý của đảng cộng sản

trung hoa, và do đó tìm kiếm dân chủ hóa Trung Quốc. Trung Quốc tin tưởng Hoa

Kỳ, với chủ nghĩa ngoại lệ và sự vượt trội của họ, sẽ tìm mọi cách để đảm bảo sự

thống trị của họ trong các hoạt động quốc tế trong dài hạn và cụ thể đã được phản

ánh trong các dẫn chứng về hành vi đơn phương và ngoại giao cưỡng bức của họ.

Những mối lo ngại lớn nhất của Trung Quốc về ý đồ của Mỹ hiếm khi được

nói rõ một cách trực tiếp trong các bài phát biểu chính thức, tuy nhiên những chủ

đề này vẫn tiếp tục được các nhà phân tích và học giả bàn luận với một loạt các

chủ đề chứ không dừng lại ở vấn đề quân sự. Nhiều người Trung Quốc đã giải

thích những chính sách của Hoa Kỳ và những tranh luận công khai về Trung Quốc,

như là về việc đánh giá lại đồng nhân dân tệ, cải cách kinh tế Trung Quốc, sự thâm

26

hụt thương mại song phương, vai trò của Trung Quốc ở Đông Á, hiện đại hóa

Quân đội giải phóng nhân dân, nhằm thể hiện những nỗ lực của Mỹ để làm yếu đi

sức mạnh Trung Quốc. Hung Renwei , một học giả nổi tiếng và chính thống về

quan hệ quốc tế của Trung Quốc, đã mô tả chính sách Mỹ theo cách:

Hoa Kỳ đang cố gắng kiểm soát và kìm chế hành vi quốc tế của Trung

Quốc bằng những nguyên tắc và luật quốc tế mà được đặt dưới sự thống trị

của Mỹ, với mục đích làm trì hoãn sự phát triển của Trung Quốc cũng như để ngăn

chặn và loại bỏ đi mối đe dọa Trung Quốc đối với bá quyền của Mỹ.

Hoa Kỳ đang nỗ lực phát huy “tính dân chủ” để ngăn chặn Trung Quốc tiếp

cận với hệ thống quốc tế và thâm nhập vào Trung Quốc các giá trị phương Tây.

Một cách nhìn nhận để biến đổi Trung Quốc từ một quốc gia có “ bản sắc và dặc

điểm khác biệt” thành “ bản sắc và đặc điểm thống nhất. Bên cạnh đó, bằng cách

tước đoạt chủ quyền quốc gia thông qua hệ thống quốc tế, Cùng lúc đó, Trung

Quốc xâm lấn chủ quyền quốc gia thông qua hệ thống quốc tế của Mỹ và phương

tây đã và đang nỗ lực gây ảnh hưởng lên quá trình diễn biến bên trong của Trung

Quốc.

Kết quả là nhiều nhà chiến lược Trung Quốc đã mô tả chính sách của Mỹ là

cả căn dự và ngăn chặn (với ưu tiên quan hệ trong mỗi lẫn thay đổi theo thời gian)

và cũng như quan điểm của Trung Quốc về bạn-thù. Điều này đã trở thành luận

điểm chính của những nhà làm chính sách và học giả Trung Quốc.

Mặc dù có những lo ngại này, những nhà làm chính sách Trung Quốc và

những nhà phân tích chính sách đối ngoại hiện cũng nhấn mạnh sự tin tưởng ngày

càng tăng của Hoa Kỳ đối với Bắc Kinh để cùng điều chỉnh kinh tế toàn cầu và đối

phó với những thách thức an ninh. Quan điểm này bắt đầu từ những năm đầu của

thập kỉ này, và thậm chí được nhấn mạnh hơn khi khủng hoảng tài chính toàn cầu

xảy ra, nền kinh tế Mỹ chịu những hậu quả to lớn và sự thành lập cơ chế G20 trong

27

đó Trung Quốc đóng vai trò dẫn đầu. Huang Renwei đã tóm tắt lại quan điểm

của Trung Quốc:

Mặt khác, Hoa Kỳ đang cố gắng bằng mọi cách để có thể sử dụng hệ thống

kiểu Phương Tây – hệ thống quốc tế vượt trội hơn để quản lý đất nước Trung Quốc

Xã hội chủ nghĩa “xa lạ”, hạn chế khả năng diễn tập quân sự quốc tế của Trung

Quốc đồng thời sát nhập Trung Quốc vào hệ thống này, và ngăn chặn một Trung

Quốc trỗi dậy nhanh chóng gây trở ngại cho bá quyền Mỹ. Có những khác biệt

mang tính chiến lược cơ bản và dài hạn giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về quan điểm

phát triển của sự thay đổi hệ thống quốc tế và vị trí tương xứng của 2 nước trong

cấu trúc quyền lực.

Khác nữa, vai trò quan trọng mang tính xây dựng của Trung Quốc đang

ngày càng tăng lên trong việc giữ gìn sự ổn định của hệ thống quốc tế, điều này

làm cho Mỹ nhận ra rằng Trung Quốc không giống với Liên Xô trong thời kỳ

chiến tranh lạnh, và cũng không phải là một thế lực phá hoại đe dọa hệ thống quan

hệ quốc tế đương tại. Hoa Kỳ không thể trả giá ngày càng cao cho việc duy trì ước

mộng bá quyền của mình nhưng sẽ cân nhắc kỹ càng việc hợp tác với Trung Quốc

để Trung Quốc có thể đỡ được một phần cái giá đó cho việc duy trì sự tồn tại của

hệ thống QHQT này.

Những quan tâm của Trung Quốc về ưu thế và những chiến lược ngăn chặn

có thể thực hiện được của Mỹ được nối với nhau bằng sự thừa nhận mà Hoa Kỳ

cho rằng là quan trọng đối với mục tiêu nền tảng là tái sinh quốc gia của Trung

Quốc. Nhiều người Trung Quốc nhận thấy một cách bất đắc dĩ về sự giảm quan hệ

với Mỹ, rằng những mục tiêu phát triển của Trung Quốc không thể thành công nếu

không có quan hệ ổn định với Hoa Kỳ; số ít người Trung Quốc nhìn nhận rằng mối

quan hệ thù địch với Hoa Kỳ có thể làm trật bánh con tàu Trung Quốc hiện tại. Sự

nhận thức phức tạp của người Trung Quốc về Hoa Kỳ và mối quan hệ Trung Quốc

– Hoa Kỳ được diễn đạt rõ ràng bởi Học giả Vương Jisi:

28

Những năm gần đây, hình tượng nước Mỹ trong mắt Trung Quốc đã ngày

càng trở nên phổ biến. Một vài hình ảnh của nước Mỹ bây giờ vẫn đang cùng tồn

tại trong lòng Trung Quốc: một con hổ giấy bị Trung Quốc đánh bại và tự làm yếu

mình bằng sự ngạo mạn và sự mở rộng quá mức; sức mạnh bá quyền duy nhất mà

đe dọa hoà bình và ổn định thế giới; một đối thủ xâm phạm tới sự toàn vẹn lãnh thổ

và phủ nhận sự thống nhất quốc gia của Trung Quốc; một bộ máy kinh tế mà chèo

lái cả nền kinh tế thế giới và, tới một quy mô tăng dần, kinh tế Trung Quốc; một xã

hội tuyệt với sở hữu nền khoa học - kỹ thuật và giáo dục tiến bộ nhất thế giới; một

kiểu mẫu của hiện đại hóa mà Trung Quốc có thể học hỏi từ đó; và một sức mạnh

mang chiều hướng ý thức hệ muốn quyết định vận mệnh chính trị của Trung Quốc.

Mặc dù những quan điểm này về Hoa Kỳ có phần hơi mâu thuẫn, nhiều

người Trung Quốc vẫn tiếp tục cho rằng quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ như là

“chìa khóa của mọi chìa khóa”, một sự triển khai đối nội của Đảng Cộng sản Trung

Quốc đã bắt đầu vào những năm 1990 dưới thời Giang Trạch Dân để nhấn mạnh

xu hướng trung tâm của Mỹ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Dưới thời

Hồ Cẩm Đào, mức độ mà để cho chính sách này có những nét nổi bật là không rõ

ràng. Từ năm 2002, Hồ Cẩm Đào đã thể hiện một cách khôn khéo những thay đổi

trong quan hệ Mỹ - Trung và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ông đã dành

nhiều sự quan tâm, nếu không nói là nhiều hơn sự chú ý về quan hệ của Trung

Quốc tới các nước láng giềng Asian. Ông đã tiêm vào mối quan hệ của Trung

Quốc với Hoa Kỳ nhiều sắc thái thực dụng hơn và ít sắc thái cảm xúc hơn, có vẻ

như Trung Quốc tỏ thái độ mong muốn khoan dung hơn trong những căng thẳng

song phương và duy trì những yêu cầu của Mỹ nhưng cũng công bằng muốn mở

rộng sự hợp tác ổn định trong cùng tồn tại và trong các khu vực mới có lợi ích

chung.

Xu thế chủ đạo mà các nhà chiến lược Trung Quốc tranh cãi rằng, sau cùng

thì, mối quan hệ song phương quan trọng nhất của Trung Quốc là với Hoa Kỳ

29

nhưng là trong một thế giới đặc trưng bởi các kiểu thế lực sức mạnh nhiều hơn và

phức tạp hơn và một số lượng lớn hơn về những mối quan hệ quan trọng, bao gồm

giữa các quốc gia, các nhóm quốc gia, và các thể chế. Sự tính toán trong quan hệ

Mỹ - Trung này xuất phát từ 3 quan điểm. Thứ nhất, Hoa Kỳ vẫn là một nguồn

thương mại, đầu tư và kỹ thuật quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Trung

Quốc. Ví dụ như Hoa Kỳ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, và

Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ và cũng là thị trường xuất khẩu

tăng trưởng nhanh nhất của Hoa Kỳ. Mức độ phụ thuộc của Trung Quốc đối với

nền kinh tế Mỹ cao và dường như không có dấu hiệu thay đổi đáng kể nào trong

khoảng hai thập kỷ tới.

Thứ hai, Hoa Kỳ cung cấp “hàng hóa công” quốc tế quan trọng tới Châu Á

dưới dạng an ninh, bền vững và tự do khu vực về hàng hải mà Trung Quốc được

lợi từ đó. Có một sự thừa nhận ngụ ý ở Trung Quốc rằng những liên minh, cam kết

an ninh của Mỹ, và những khai triển trước mắt góp phần đáng kể cho sự ổn định

khu vực ở Châu Á tạo thuận lợi cho sự cải tổ và phát triển kinh tế của Trung Quốc

trong 30 năm qua. Cách nhìn nhận này đã bị giảm bớt trong những năm gần đây vì

Trung Quốc đã trở nên lo lắng nhiều hơn về những nỗ lực của Mỹ trong việc mở

rộng liên minh của mình với Nhật Bản và sự hợp tác an ninh của Mỹ với Ấn Độ.

Thứ ba, việc tránh xung đột và công khai sự cạnh tranh về địa chính trị với

Hoa Kỳ là quan trọng đối với nỗ lực của Trung Quốc để đảm bảo một môi trường

an ninh vững chắc và thái bình, cạnh tranh chiến lược lớn hay xung đột vũ trang

công khai với Hoa Kỳ sẽ phá vỡ đáng kể môi trường an ninh của Trung Quốc

nhiều hơn bất kỳ quốc gia khác. Dưới những điều kiện khắt khe đó, có thể sẽ dẫn

đến việc Trung Quốc sẽ thay đổi các nguồn tài nguyên quốc gia từ phát triển kinh

tế sang việc hiện đại hóa quân sự - một kết quả mà các nhà Lãnh đạo Trung Quốc

không mong muốn. Các học giả Trung Quốc viết về sự cần thiết của “không gian”

và “thời gian” cho sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ ổn định với Hoa Kỳ là

30

cần thiết cho cả hai. Để chắc chắn, các nhà phân tích Trung Quốc cũng nhận thấy

rằng mặc dù một mối quan hệ ổn định, nếu không nói là thân mật với Hoa Kỳ là

điều kiện cần cho sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng nó không có nghĩa là điều

kiện đủ.

Như là một dấu hiệu chỉ ra rằng Trung Quốc cố gắng giữ cân bằng những lợi

ích to lớn của mình trong quan hệ với Hoa Kỳ, một vài nhà chiến lược Trung Quốc

đã tranh cãi về vấn đề Trung Quốc có thể chấp nhận một sức mạnh bá quyền trong

khi lại phản đối cách cư xử bá quyền của mình. Hay nói cách khác, Trung Quốc có

thể tồn tại trong một thế giới với một sức mạnh đơn cực đủ lâu để không làm tổn

hại trực tiếp đến lợi ích Trung Quốc. Nét đặc biệt này có thể cho phép các nhà

hoạch định chính sách và các nhà phân tích Trung Quốc cân bằng sự cần thiết cho

quan hệ Mỹ - Trung bền vững trái ngược với những mối lo lắng của họ về ưu thế

của Hoa Kỳ và cách sử dụng đơn phương sức mạnh Hoa Kỳ của Washington. Một

kiểu công thức như vậy được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo hàng đầu

của Trung Quốc hay không thì nó vẫn chưa rõ ràng.

Cách đây 1 thập kỷ, một số ít các nhà lãnh đạo Trung Quốc chia sẻ những

mối quan tâm, ngày nay, những mối quan tâm ấy được chập nhận một cách toàn

cầu. sự thay đổi to lớn này là điều tât yếu của những trải nghiệm của chính Trung

Quốc trong việc điều chỉnh phản ứng của mình đối với các cuộc khủng hoảng như

vụ khủng bố ngày 11/ 9; sự bùng phát của dịch SARS năm 2003, các vấn đề liên

quan cúm Avian; đại dịch HIV/ AIDS và phổ biến hạt nhân trong khu vực. Bộ

Ngoại giao Trung Quốc đề cập tới vấn đề an ninh phi truyền thống khi có “sự phức

tạp và tàn phá chưa từng có và… đưa ra sự đe dọa trực tiếp đối với hòa bình và an

ninh thế giới”. Bài phát biểu của chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào trong cuộc họp của

nhóm G8 diễn ra vào tháng 7 năm 2006 tại Nga đã đóng góp cho chủ đề trên, thể

hiện ưu tiên của Trung Quốc trong chính sách quốc gia. Chủ tịch cũng đưa ra kiến

31

nghị để đối phó với các thách thức trên. Đây là lần đầu tiên nhà lãnh đạo cấp cao

của Trung Quốc phát biểu về các thách thức phi truyền thống chi tiết đến vậy.

Cũng có tính logic về phương tiện trong các mối quan tâm bất ngờ của

Trung Quốc. Ở cấp độ 1, theo sau sự kiện ngày 11/9, tầm quan mới của Bắc Kinh

trong việc chống khủng bố và phổ biến vũ khí hạt nhân- nhân tố cơ bản để ổn định

và mở rộng quan hệ Mỹ- Trung. Các nhà làm chính sách Trung Quốc xem sự kiện

ngày 11/9 và sự thay đổi kêt quả trong ưu tiên an ninh quốc gia của Mỹ như 1 cơ

hội hiểm có để đưa quan hệ song phương nền tảng ổn đinh, lâu dài. Các nhà lãnh

đạo Trung Quốc cho rằng, sự thay đổi trong ưu tiên của Mỹ sau sự kiện 11/9 đã

đưa Trung Quốc ra khỏi tầm ngắm trong kế hoạch an ninh quốc gia của Mỹ. Thật

ra, các nhà làm chính sách và nhà phân tích Trung Quốc luôn luôn nêu bật Mỹ. Sự

tin cây vào sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết các thách thức an ninh phi

truyền thông chung.

Ở cấp độ thứ 2, Trung Quốc tập trung rất nhiều vào thách thức an ninh phi

truyền thống trong sự tương tác của mình với những người hàng xóm Đông Á, đặc

biệt trong diễn đàn khu vực để tăng cường ảnh hưởng của mình. Trung Quốc tận

dụng các cuộc thảo luận song phương và đa phương về thách thức an ninh phi

truyền thống như một điểm xuất phát cho việc mở rộng phạm vi cam kết chính trị,

quân sự với các quốc gia châu Á; Bắc Kinh cũng mở rộng hợp tác ngoại giao trong

việc phản ứng với các vấn đề như sự bùng nổ của các căn bệnh truyền nhiễm.

Thêm vào đó, các cuộc đối thoại song phương và đa phương về các thách thức phi

truyền thống cúng là trọng tâm trong các nỗ lực để hợp tác một cách toàn diện với

các nước xung quanh. Những cuộc thỏa luận như vậy cũng rút ra một sự tương

phản ngầm với Mỹ. Đối thoại an ninh khu vực và hợp tác hành động với các quốc

gia Đông Nam Á, Hiệp hội này trong những năm gần đây tập trung nhiều vào việc

chống khủng bố và triển khai các hoạt động quân sự chung. Tập trung vào các

thách thức phi truyền thống, Trung Quốc tìm kiếm sự ủng hộ theo thuật ngữ “

32

Đông Nam Á” của an ninh quốc gia nơi mà các thuật ngữ sau này không chỉ là an

ninh quân sự mà còn bao gồm sự quan tâm tới các ưu tiên của Đông Nam Á về ổn

định trong nước, phát triển kinh tế, các giải pháp đồng thuận đối với các bất đồng

song phương.

An ninh năng lượng

Sự quan tâm sâu sắc của Trung Quốc về những nguồn cung cấp năng lượng

là một nhân tố khá mới nhưng quan trọng trong việc hình thành thái độ quốc tế của

họ, đặc biệt là những mối quan hệ của họ với những nước cung cấp chủ yếu ở

Trung Á, Trung Đông và Châu Phi. Nhu cầu của Trung Quốc về dầu nhập khẩu và

khí đốt đã trở thành một vấn đề cấp bách của thế kỉ này khi sự tăng trưởng kinh tế

và sự tăng trưởng nhu cầu năng lượng tái kết hợp lại với nhau, không giống như

giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2000 khi tổng sản lượng nội địa của Trung Quốc

(GDP) tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều so với những nhu cầu về năng lượng. Năm

2001, kinh tế Trung Quốc bắt đầu tăng trưởng nhanh hơn kế hoạch đề ra và sức

mạnh năng lượng của hoạt động kinh tế tăng trưởng nhanh hơn GDP. Sự tái kết

hợp này dẫn đến sự trào lên về nhu cầu năng lượng, cho hoạt động của ngành công

nghiệp cũng như là ngành giao thông vận tải. Mặc dù Trung Quốc đã trở thành một

mạng lưới nhập khẩu vào năm 1993 nhưng họ đã không có sự chuẩn bị kĩ càng cho

sự tăng trưởng gia tốc của quốc gia và sức mạnh năng lượng đang tăng trưởng.

Tình trạng này đã dẫn đến sự thiếu hụt dầu, than đá và điện lực và kéo dài sự thiếu

hụt năng lượng ở nhiều tỉnh. Sự tăng cao nhu cầu này và những nguồn thiếu hụt

tương ứng đã đẩy mạnh tính an toàn năng lượng lên chương trình nghị sự chính

sách đối ngoại của Trung Quốc, khi các công ty Trung Quốc đã có sự lao vào mạnh

mẽ để siết chặt quyền sử dụng những nguồn cung cấp năng lượng.

33

Ở Trung Quốc, an toàn năng lượng được định nghĩa theo hai vấn đề : tính

thay đổi đột ngột về giá cả và an toàn của việc vận chuyển. Trung Quốc cảm thấy

dễ bị nguy hiểm ở cả hai mặt, và chính sự am hiểu đang hình thành nên đường lối

ngoại giao của họ. Chính sách chặt chẽ của Trung Quốc tập trung vào sự an toàn

năng lượng (cái mà vào ban đầu đã có một chất lượng điên cuồng với họ) xuất phát

từ nhu cầu về dầu thô đang tăng lên một cách nhanh chóng và sự tăng lên tương

ứng trong sự tin cậy vào nguồn dầu thô nhập khẩu; gần đây nó đã tăng từ 1,6 triệu

thùng/ngày vào năm 2001 đến 4,1 triệu thùng/ ngày vào năm 2007. Những sự tăng

trưởng này đã đặt đến những mức độ tiêu thụ mà một vài công ty Trung Quốc đã

đặt ra kế hoạch trước đó cho đất nước của họ vào năm 2010. Trung Quốc đã trở

thành nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới (sau Mĩ) vào năm 2003 và nước nhập

khẩu dầu lớn thứ 3 thế giới (sau Mĩ và Nhật Bản) vào năm 2004. năm 2008, Trung

Quốc đã nhập khẩu 45% lượng dầu đáp ứng tổng nhu cầu toàn quốc, với 76% dầu

thô Trung Quốc nhập khẩu đến từ Trung Đông và Châu Phi (trong đó có 45% đến

từ Trung Đông). Những con số này cần được đặt trong bối cảnh: dầu thô nhập khẩu

cung cấp khoảng 10% tổng nhu cầu năng lượng của Trung Quốc.

Có ít nhất ba lý do về mặt địa chính trị dẫn người Trung Quốc quan tâm đến

an toàn của việc vận chuyển. Thứ nhất, khu vuẹc Trung Đông (là khu vực mà

Trung Quốc phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu thô lớn nhất) được nhận định là

không bền vững, nơi mà những nguy cơ của sự gây vỡ nguồn cung cấp là cao.

Châu Phi không được xem là không ổn định. Những nhà phân tích Trung Quốc trở

nên đặc biệt quan tâm sự trông cậy vào nguồn dầu Trung Đông sau cuộc chiến

tranh của Mĩ ở Iraq năm 2003, việc mà một vài người nhìn nhận là đã bị thúc đẩy

mạnh mẽ bởi tham vọng của Mĩ trong việc kiểm soát nguồn dầu của Iraq và đẫn

đến gia tăng đòn bẩy của Mĩ trên thị trượng dầu thế giới. Một bản phân tích nổi

bâttj của Trung Quốc đã kết luận “Không còn nghi ngờ gì nữa về việc Mĩ kiểm

soát nguồn dầu trên thế giới đã được củng cố một cách đáng kể sau sự thành công

34

của cuộc chiến tranh Iraq”. Bên cạnh những lời này, những chuyên gia Trung Quốc

đánh giá sự có mặt trên phạm vi rộng của quân đội Mĩ ở Trung Đông nêu bật lên

sự nguy haik cho Trung Quốc đối với việc cắt nguồn cung cấp tương lại bị bắt

buộc bởi Mĩ. Thứ hai, việc nhập khẩu dầu từ Trung Đông và các khu vực khác đòi

hỏi sự vận chuyển với khoảng cách dài xuyên đại dương là điều mà Trung Quốc có

thể cung cấp được rất ít sự bảo vệ. Eo biển Malacca, nói riêng, là một điểm then

chốt cho hầu hết việc nhập khẩu dầu bằng đường biển của Trung Quốc và là một

đường vào mà hải quân Trung Quốc không có khả năng kiểm soát. Theo như đưa

tin, một số nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã đặt tên cho mối nguy hại

này là “Tình thế khó xử Malacca” của Trung Quốc, mặc dù nguồn gốc và tính

trung thực của cụm từ cụ thể này vẫn chưa rõ ràng. 1/3 trong mối nguy hại của

Trung Quốc là họ dựa vào nhưng công ty tàu chở dầu nước ngoài để vận chuyển

khoảng 90% nguồn dầu nhập khẩu của họ. Ba mối quan tâm này đang thúc đẩy

những nỗ lực của Trung Quốc, thông qua việc ngoại giao để giành lấy quyền sử

dụng những nguồn tài nguyên năng lượng gần hơn đối với Trung Quốc, có hiệu lực

cho đường ống dẫn dầu hoặc vận chuyển trên mặt đất, và vì vậy sẽ không là một

vấn đề dẫn đến sự gây vỡ hoặc có thể xảy ra.

Chương V: Những công cụ mở rộng ngoại giao của Trung Quốc

Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong cách hành xử quốc tế của Trung

Quốc trong thập niên trở lại đây chính là một cơ số các công cụ quyền lực thực

dụng và cấp tiến mà Trung Quốc đưa vào áp dụng trong quá trình theo đuổi các

mục tiêu của họ. Dưới đây sẽ trình bày năm nhóm công cụ đó bao gồm : ngoại giao

kinh tế, ngoại giao lãnh đạo, ngoại giao đa phương, đối tác chiến lược và ngoại

giao quân sự. Trong rất nhiều trường hợp, việc áp dụng các công cụ này có thể bị

35

chồng chéo và chúng hỗ trợ lẫn nhau, sự khác nhau giữa các công cụ quyền lực này

được vẽ ra để dễ cho các hoạt động phân tích.

Ngoại giao kinh tế

Ngoại giao kinh tế (jingji waijiao) đã trở thành tâm điểm trong chính sách

đối ngoại của Trung Quốc dưới thời Hồ Cẩm Đào. Ngoại giao kinh tế đồng nghĩa

với việc sử dụng thương mại, đầu tư, và, làm tăng, chính sách thương mại để hỗ trợ

cho các mục tiêu ngoại giao của Trung Quốc đồng thời sử dụng ngoại giao đơn

thuần để để nâng cao mức phát triển kinh tế của Trung Quốc, ví dụ như việc đảm

bảo con đường tiến vào nền kinh tế thị trường. Cả hai mặt của ngoại giao kinh tế

dường như xa vời đối với Trung Quốc, một nước có truyền thống nhìn nhận các

vấn đề ngoại giao và kinh tế riêng rẽ và khác biệt. Thủ tưởng Ôn Gia Bảo đã nhấn

mạnh tầm quan trọng của khái niệm này trong một buổi họp Quốc hội quan trọng

vào tháng 8 năm 2004 – cuộc họp này được cho là một cuộc họp trọng yếu đề cập

đến khái niệm này. Ý tưởng này đã được phát triển xa hơn trong cuộc “Thảo luận

về Ngoại giao và Kinh tế” của Bộ ngoại giao tháng 12/2004. Trong cuộc họp này,

Thứ trưởng ngoại giao Lư Quốc Tăng đã giải thích đóng góp của việc ngoại giao

gắn với kinh tế đối với sự phát triển chung của quốc gia :

Những bước phát triển mới của tình hình quốc tế và trong nước đang đặt ra

những yêu cầu ngày càng cao cho công cuộc của chúng ta trên nhiều lĩnh vực.

Chúng ta cũng phải đưa vào thực tế sâu hơn các khái niệm về phát triển khoa học,

kết hợp phát triển trong nước, và mở cửa với thế giới bên ngoài, nắm chắc cơ hội

để phát triển và nỗ lực xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn…Với sự phát triển và thay

đổi của tình hình, tầm ảnh hưởng và chức năng của ngoại giao cũng đang thay đổi.

Ngoại giao đang dần dần mở rộng từ lĩnh vực chính trị và an ninh sang các lĩnh

36

vực kinh tế và văn hóa. Vừa đảm bảo chủ quyền và an ninh quốc gia, ngoại giao

còn phải gánh vác những nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn trong việc bảo vệ lợi

ích kinh tế quốc gia và thúc đẩy sự phát triển quốc nội.

Kinh tế ngoại giao của Trung Quốc có rất đa dạng.Một trong những điểm

nổi bật nhất là do Trung Quốc khởi sướng, đàm phán,hoặc kết luậ của các hiệp

định thương mại tự do (FTA). Đến năm 2009, Trung Quốc đã ký kết hiệp định

thương mại này với Chile, Hồng Kông, Ma Cao, Pakistan, Singapore, Peru và New

Zealand, và đàm phán với một vài nước khác,nhất là Úc và Hội đồng hợp tác vùng

Vịnh (GCC). FTA lớn nhất của Trung Quốc,với 10 thành viên của Hiệp hội các

nước Đông Nam Á (ASEAN), được thiểt lập để có hiệu lực vào năm 2010, mặc dù

một vài gặt hái ban đầu về thuế và các biện pháp tự do hoá đã được thông qua năm

2004.

Tác dụng của FTA góp phần vào ba chính sách đối ngoại của Trung Quốc:

1 : Trung Quốc mở rộng tiếp cận với thị trường đầu tư và công nghệ

2 : Sử dụng tài nguyên chiến lược

3 : Trấn an các quốc gia phát triển rằng sự tăng trưởng của Trung Quốc

không làm tổn hại lợi ích kinh tế của họ.

Bảng 5.1 : Các hiệp định thương mại tự do của Trung Quốc

ASEAN Trung Quốc và Asean kí kết một hiệp định về

hàng hoá trong tháng 11 năm 2004 và bắt đầu cắt giảm

thuế khoảng 90% hàng hoá trong tháng 7 năm 2005.

37

Một thỏa thuận về thương mại dịch vụ có hiệu lực vào

tháng 7 năm 2007 bao gồm xây dựng, bảo vệ môi

trường,du lịch,giao thông vận tải,và giáo dục. Đàm

phán về đầu tư và các dịch vụ được diễn ra với sự kỳ

vọng của một FTA phát triển vào năm 2010

Úc Đàm phán bắt đầu vào tháng 5 năm 2005 và

đang tiếp tục diễn ra. Úc muốn một thoả thuận toàn

diện,trong khi đó,Trung Quốc muốn một thoả thuận

tuần tự,bắt đầu với thương mại hàng hoá.

Chile Trung Quốc và Chi lê đã kí một thoả thuận

thương mại hàng hoá trong tháng 11 năm 2005,với mục

tiêu loại bỏ thuế tới 97% của hàng hoá vào năm

2015.Một thoả thuận thương mại dịch vụ đã được ký

kết trong tháng 4 năm 2008. Cuộc đàm phán vè đầu tư

vẫn đang được tiếp tục.

Costa Rica Một nghiên cứu chung đã được hoàn thành vào

tháng 7 năm 2008

GCC Tháng 4 năm 2005,Trung Quốc và GCC nhất trí

bắt đầu cuộc đàm phán về một thoả thuận hàng hoá và

sau đó là về thương mại dịch vụ. Đàm phán bắt đầu vào

năm 2006 và vẫn đang diễn ra.

38

Hồng Kông CEPA đã được ký kết trong tháng 6 năm 2003.

(Khu vực hành Đây là một FTA toàn diện, hiện nay, bao gồm tất cả

chính đặc biệt) hàng hoá từ Hồng Kông và với 27 ngành dịch vụ

Iceland Nghiên cứu về một FTA khả thi bắt đầu trong

tháng 3 năm 2006 và cuộc đàm phán về một FTA toàn

diện bắt đầu vào tháng 4 năm 2007. Không đạt được

bất kỳ thoả thuận nào.

Ấn Độ Năm 2005, một lực lượng song phương được

thành lập để tiến hành một nghiên cứu về tính khả thi

của FTA. Nghiên cứu này được hoàn thành vào năm

2008 nhưng không có quyết định nào được thực hiện

khi cuộc đàm phán bắt đầu.

Macao (Khu Một CEPA được ký kết vào tháng 10 năm 2004

vực hành chính và gia nhập vào lực lượng trong tháng 1 năm 2004.Tất

đặc biệt) cả sản phẩm của Ma Cao hội đủ điều kiện cho miễn phí

thuế khi vào Trung Quốc, và các công ty của 26 ngành

dịch vụ được ưu đãi trên lãnh thổ.

New Đàm phán song phương được khởi sướng vào

Zealand tháng 12 năm 2004. 1 thoả thuận đã được ký kết trong

tháng 4 năm 2008 và có hiệu lực trong tháng 10 năm

2008. Các thoả thuận thương mại hàng hoá và dịch vụ

39

dần được thay dổi tích cực.

Na Uy Na Uy đưa ra một nghiên cứu khả thi trong tháng

7 năm 2007 và vẫn được tiến hành.

Pakistan Trung Quốc và Pakistan đã ký một thoả thuận

về hàng hoá và dầu tư vào tháng 11 năm 2006, với mục

tiêu là tự do hoá 85-90% thuế vào năm 2011. Một thoả

thuận vè thương mại dịch vụ được ký kết vào tháng 2

năm 2009.

Peru Cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại đã

được hoàn thành vào tháng 11 năm 2008, và các thoả

thuận đã được ký trong tháng 4 năm 2009.

Singapore Đàm phán bắt đầu vào tháng 10 năm 2006 và

thoả thuận về hàng hoá và thương mại dịch vụ đã được

ký kết trong tháng 10 năm 2008, nó có hiệu lực vào

ngày 1 tháng 1 năm 2009. Các quy định của thoả thuận

giữa Trung Quốc và Asean trong lĩnh vực đầu tư sẽ

được hợp nhất FTA.

Nam Mỹ ĐÀm phán bắt đàu vào năm 2006,Trung Quốc tự

nguyện giới hạn về xuất khẩu dệt may vào năm 2006.

Phương tiên thong tin đại chúng chỉ ra rằng các cuộc

40

đàm phán đang tạm ngừng.

Liên minh Đàm phán bắt đầu vào tháng 6 năm 2004, nhưng

Hải quan Nam Phi rất ít thoả thuận đực thực hiện cho tới nay. Mối liên hệ

giữa Thuỵ Sỹ với Đài Loan là một rào cản của sự tiến

bộ.

Nam Triều Nghiên cứu về một FTA bắt đầu vào năm 2004

Tiên và một cuộc họp nhóm song phương về tính khả thi đã

diễn ra trong tháng 7 năm 2007. Đến mùa Xuân năm

2009. Hàn Quốc không đồng ý bắt đầu cuộc đàm phán,

dù cho Bắc Kinh ép Seoul làm vậy.

Mặt khác,Trung Quốc dã thành công trong việc sử dụng FTA để đạt được

cam kết từ một số nước hỗ trợ cho Trung Quốc về mặt kinh tế thị trường. ,một

quyết định pháp lý theo thổ chức thương mại Thế giới (WTO) qui định.Với một số

quốc gia khác,như Úc,Trung Quốc yêu cầu MES như là một điều kiện đơn giản để

bắt đầu đàm phán vè một FTA. Tới đầu năm 2009,gần 80 quốc gia đã công nhận

Trung Quốc có một nền kinh tế thị trường theo qui định của WTO. Đáng chú ý là

trường hợp ngoại lệ bao gồm Hoa Kỳ,Nhật Bản và Liên minh Châu Âu (EU). MES

quan trọng với Trung Quốc như một dấu hiệu của sự thành công về cải cách kinh tế

và cũng bởi vì nó làm giảm đi các hình phạt mà các nước khác áp đặt vào Trung

Quốc trong chống bán phá giá và khác biệt về thuế theo quy định của WTO.

Kinh tế đối ngoại của Trung Quốc có tầm cỡ về tài chính lớn. Đầu năm

2006,Trung Quốc bắt đầu cuộc đối thoại kinh tế với một số quốc gia để tiến xa hơn

41

trong trao đổi song phương về thương mại cổ điển và các vấn đề đầu tư.Vấn đề này

đặc biệt mới giữa bộ tài chính và ngân hàng trung ương,nó bao gồm chính sach

kinh tế vĩ mô,tài chính quốc gia và các chính sách thuế,tỷ lệ trao đổi thực tế. Đến

nay,Trung Quốc đã thiết lập đôi thoại với Hoa Kỳ,Anh Quốc, Đức,Bra xin, Ấn

Độ,Nga và Nhật.Với một nhóm các nền kinh tế lớn trên toàn cầu,Trung Quốc bắt

đầu cuộc đối thoại cấp cao vè kinh tế kể cả với Mỹ,Nhật,Anh và EU.

Cuối năm 2008, đầu năm 2009, Trung Quốc đã phát triển xa hơn nền ngoại

giao tài chính bằng cách tổng kết nhanh chóng những hiệp định trao đổi tiền tệ

tổng trị giá 650 tỉ nhân dân tệ với 6 quốc gia; mục đích của những hiệp định này là

nhằm nâng cao việc sử dụng nhân dân tệ của các nước này như là phương tiện làm

thuận tiện hơn giao dịch thương mại trong thời kỳ suy thoái toàn cầu và sự thiếu

hụt đô la Mỹ. Theo website của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa, “Những ngân

hàng trung ương sử dụng trao đổi tiền tệ để chú trọng đến vấn đề khả năng thanh

toán bằng tiền mặt trong ngắn hạn và giải quyết khủng hoảng hiện tại một cách

hiệu quả hơn và bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính.” Kể từ tháng 4 năm

2009, Trung Quốc đã ký những hiệp định với Argentina (70 tỉ nhân dân tệ), nhà

chức trách tiền tệ của Hong Kong (200 tỉ nhân dân tệ), Malaixia (80 tỉ nhân dân

tệ), Belarus (20 tỉ NDT), Hàn Quốc (180 tỉ NDT), và Indonesia (100 tỉ NDT).

Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư trực tiếp ra bên ngoài (ODI), với

tổng cổ phần tích lũy là 117,9 tỉ đô la trên toàn thế giới năm 2007. Sự phát triển

nhanh và có thật của ODI một phần là kết quả của chính sách nhà nước quản lý

được ban hành vào cuối những năm 90 và được tăng cường năm 2003. Chính sách

đó được gọi là chiến lược “đi ra ngoài” (zou chu qu 走出去), và nó kêu gọi các

công ty Trung Quốc tham gia vào thị trường toàn cầu để tăng thu nhập, để học hỏi

và có tính cạnh tranh toàn cầu, và, nếu có thể, đạt được thương hiệu quốc tế.

Những công ty Trung Quốc, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, đã đầu tư vào các

dự án nước ngoài về giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng, và truyền thông. Trong một

42

số trường hợp, những dự án này được đảm nhận để cho phép các công ty khác của

Trung Quốc đạt được sự ưu tiên trong việc tiếp cận nguồn năng lượng và những

nguồn lợi chiến lược khác; một số những sự đầu tư này thậm chí đã được tạo ra

trên cơ sở chịu lỗ vốn của các công ty để đạt được sự tiếp cận của Trung Quốc

với những nguồn tài nguyên của các nước này. Sự tiếp cận này có thể thấy ở

châu Phi và châu Mỹ-Latinh. Trung Quốc cũng chào mời về ODI đang tăng trưởng

của mình như là một tín hiệu của Trung Quốc trong việc đóng góp tới sự phát triển

kinh tế của các quốc gia khác, như là những cách thức xa hơn trong việc tái đảm

bảo và tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc với nước khác. (Figure 5.1). Hỗ trợ

nước ngoài là một khía cạnh to lớn thứ tư của ngoại giao kinh tế Trung Quốc. Hỗ

trợ nước ngoài của Trung Quốc bao gồm cả hỗ trợ phát triển và hỗ trợ nhân đạo, và

hỗ trợ nhân đạo là một thông lệ mới. Hỗ trợ phát triển của Trung Quốc dưới dạng

là những khoản cho vay và hỗ trợ kỹ thuật khổng lồ, tương tự như viện trợ phát

triển chính thức (ODA) như được xác định bởi tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

(OECD). Theo tiêu chuẩn OECD, hỗ trợ phát triển của Trung Quốc là “một nguồn

tương đối nhỏ của hỗ trợ toàn cầu”, theo báo cáo Nghiên cứu Dịch vụ của Quốc

hội. Tuy nhiên, trong việc đánh giá viện trợ nước ngoài của Trung Quốc cũng phải

kể đến sự tài trợ của chính phủ Trung Quốc hay là sự đầu tư được “trợ cấp” ở nước

ngoài; sự đầu tư này được cung cấp thông qua Ngân hàng phát triển Trung Quốc

hoặc là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc, những ngân hàng không phải một

phần của bộ máy viện trợ nước ngoài quan liêu mới mọc lên. Khi các quỹ hỗ trợ

bao gồm cả loại thứ hai này trong danh mục, Trung Quốc “trở thành một nguồn

quan trọng của viện trợ nước ngoài”.

Điều này khiến ta không hiểu rõ làm sao Hội Đồng Nhà Nước có thể tổ

chức và chỉ đạo sự quan liêu trong quỹ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc, điều

đang thể hiện sự đứt đoạn và không mạch lạc. Chính phủ không định rõ quỹ hỗ trợ

nước ngoài mà cũng không công bố những thống kê toàn diện, điều này khiến cho

43

việc tính toán trở nên khó khăn và không nhất quán. Bộ Thương Mại Trung Quốc,

nơi gánh vác nhiệm vụ quản lý chính thức ngân sách viện trợ nước ngoài, đã bắt

đầu công bố những thống kê tổng hợp về sự hỗ trợ bên ngoài trong chỉ riêng năm

2002. Tính toán chính thức của Bộ Thương Mại về viện trợ nước ngoài trong năm

2002 là 602,77 triệu USD; năm 2003 là 630.36 triệu USD; là 731 triệu USD trong

năm 2004; 922 triệu USD vào năm 2005; và đến 2006 là 1,1 tỷ USD. Theo như dữ

liệu của CRS, những thống kê này đã giảm bớt đi đáng kể sự viện trợ nước ngoài

của Trung Quốc bởi đã không tính đến một số khía cạnh khác, có thể lấy ví dụ từ

việc hỗ trợ tài chính cho dự án cung cấp vốn đầu tư ở hải ngoại. “Quỹ viện trợ

nước ngoài PRC và sự hỗ trợ tài chính của chính phủ dành cho dự án kinh tế ở

Châu Phi, Châu Mỹ La tinh và Nam Á đã tăng lên từ dưới 1 tỷ USD vào năm 2002

đến 27,5 tỷ USD vào năm 2006 và lên đến 25 tỷ USD vào năm 2007.”

Quỹ dự trữ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đã tăng nhanh đặc biệt từ

năm 2004 như là minh chứng của việc Bắc Kinh đã mưu toan sử dụng sự hỗ trợ

của mình để xây dựng và giữ vững mối quan hệ chính trị với các nước láng giềng

trong khu vực Châu Á và đặc biệt là với các quốc gia thuộc Châu Phi. Vào năm

2004, Trung Quốc đã bảo đảm rằng sẽ cung cấp 400 triệu USD để hỗ trợ tài chính,

sử dụng những món vay ưu tiên dành cho việc phát triển trong giai đoạn đầu của

tuyến đường sắt ở Philippines. Trung Quốc đã cam kết rằng sẽ xoá nợ cho những

nước nghèo ở Châu Á (như Campuchia và Lào); trong năm 2005 và 2006, Hồ Cẩm

Đào đã hứa sẽ xoá nợ hơn 10 tỷ USD trong số nợ quá khứ cho các nước Châu Phi.

Đặc biệt, xuyên suốt Diễn đàn hợp tác Trung Quốc – Châu Phi diễn ra vào tháng

11/2006 ở Bắc Kinh, chính phủ Trung Quốc tuyên bố sẽ có gói viện trợ phát triển

nhiều năm cho tất cả các quốc gia Châu Phi. Gói hỗ trợ bao gồm cả viện trợ gấp

đôi, như cấp độ viện trợ Châu Phi của Trung Quốc vào năm 2009 đã gấp đôi năm

2006; 5 tỷ USD là chuyển nhượng tài chính cho các công ty ở Châu Phi; xoá các

món nợ lớn cho những nước nghèo nợ nghiêm trọng; và hỗ trợ kỹ thuật. Vào tháng

44

6/2007, Trung Quốc đã đồng ý xoá nợ gần 10 triệu USD trong món nợ được tích

lũy từ thời chính phủ trước đó – 2 chính phủ – chính phủ hiện thời của Iraq và cả

của các xí nghiệp Trung Quốc ở đó. Thú vị ở chỗ, 1 năm sau, Iraq đã kết luận

những thoả thuận đầu tiên về dầu của nước này với nước ngoài từ 2003, với 1 hãng

trực thuộc Trung Quốc, với việc hỗ trợ kỹ thuật trong phát triển lĩnh vực dầu, thoả

thuận đó đã được báo cáo rằng tốn 3 tỷ USD.

Mặc dù quỹ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc vốn có truyền thống là chú

trọng vào việc hỗ trợ phát triển (thường là dành cho thị trường tương thích dành

cho các hãng của Trung Quốc), việc dự trữ dành cho hỗ trợ nhân đạo là một khía

cạnh mới và đang phát triển trong hồ sơ hỗ trợ nước ngoài của Trung Quốc. Hưởng

ứng lại với thảm họa sóng thần (Tsunami) tại Nam Á năm 2004 và 2005, chính phủ

Trung Quốc đã quyên góp giúp đỡ 83 triệu USD, đây là giá trị lớn nhất mà quỹ hỗ

trợ nhân đạo của Trung Quốc đã ủng hộ vào thời điểm đó. Vào đầu năm 2006,

chính phủ Trung Quốc đã báo cáo công khai rằng Trung Quốc đã quyên tặng

(nhưng không cần thiết phân loại) một giá trị kỷ lục dành cho quỹ viện trợ nhân

đạo như sau: gần 1 tỷ nhân dân tệ (123,45 triệu USD) viện trợ thảm họa dành cho 3

kế hoạch lớn (ví dụ như, viện trợ cho thảm họa sóng thần (Tsunami) tại Ấn Độ

Dương, viện trợ cho thảm họa động đất ở Pakistan, và viện trợ cho thảm họa bão

Katrina cũng như lượng viện trợ nhỏ hơn dành cho Bắc Triều Tiên, Việt Nam,

Romania, Iran, Guinea-Bissau, và Ecuador. Một số quan chức Trung Quốc đã

tuyên bố rằng chính phủ của họ đã chính thức hoá một “bộ máy phản ứng khẩn

cấp” để kích hoạt việc phân bổ nhanh chóng quỹ hỗ trợ thảm hoạ trong tương lai.

Một mô hình phát triển mẫu

Ngoại giao kinh tế của Trung Quốc ngay lập tức làm tăng mối quan tâm về

nuớc này cho dù đó là kinh nghiệm của nó trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

nhanh và bền vững như một ví dụ điển hình cho các nước Phương Tây thay thế để

phát triển, một cuộc thi trình bày ý tưởng được gọi là “Bắc Kinh Đồng thuận” với

45

các “Đồng thuận Washington”. Mặc dù Trung Quốc thấy rõ giá trị sử dụng của một

loạt các chính sách kinh tế tài chính để thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc, ít nhất nó

cũng là một mô hình phát triển riêng biệt, mà những người khác có thể sao chép,

và Trung Quốc đang xúc tiến bản thân như một sự thay thế cho Mỹ hoặc các nước

phương Tây có thể tiếp cận.

Cách tiếp cận của Trung Quốc cũng đã được thống nhất với các thuộc tính

của Đồng thuận Washington, Trung Quốc đã nhấn mạnh tầm thấp, thâm hụt tài

chính, cải cách cơ cấu từng bước, tư nhân hóa, xúc tiến thương mại, phát triển cơ

sở hạ tầng, đào tạo lực lượng lao động, và xúc tiến đưa vào những cái mới. Trung

Quốc hưởng lợi từ một thuộc tính của một số nền kinh tế công cộng, chẳng hạn

như năng suất lợi nhuận khổng lồ gắn liền với sự chuyển đổi từ nền kinh tế phần

lón là nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, nhất là với lực lượng nhân công

rẻ ngày càng phát triển về mặt kỹ thuật, hấp dẫn thị trường trong nước và truyền

thống nhấn mạnh cạnh tranh kinh doanh.

Vì những lý do khác nhau mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiếm khi tuyên

bố rằng Trung Quốc đại diện cho một mô hình phát triển duy nhất mà các nước

khác nên làm theo, trừ những điểm nổi bật của Trung Quốc. Lãng đạo của Trung

Quốc rất muốn chia sẻ kinh nghiệm của Trung Quốc với các nước đang phát triển

(bao gồm cả những thành công và thất bại) để làm nổi bật những điểm yếu của các

ý tưởng phương Tây. Nhưng họ cũng không nói rằng sự thành công của Trung

Quốc có thể và cần được nhân rộng bằng cách phát triển ở cấp quốc gia. Cách tiếp

cận này là động lực ngoại giao, một phần, bởi nỗ lực của Trung Quốc để có sự xuất

hiện của hợp tác xã và không áp đặt những ý tưởng của mình vào các nước khác.

Một số người Trung Quốc lo ngại rằng việc thúc đẩy một cách trực tiếp Đồng

thuận Bắc Kinh sẽ đối đầu với Mỹ và các nước phương Tây khác, phá hoại chiến

lược của Trung Quốc. Có một nguồn tin cho rằng ý tưởng về một Đồng thuận Bắc

Kinh đã được phát triển bởi một nhà báo phương Tây, không phải bởi một nhà

46

chính trị Trung Quốc. Không một lãng đạo hàng đầu, hoặc Bộ Trưởng nước ngoài

phát triển ý tưởng này thay vì nhấn mạnh tính độc đáo của Trung Quốc.

Trong phạm vi mà Trung Quốc được xem như thúc đẩy một mô hình như

vậy là do nhiều quốc gia đang phát triển chiêm ngưỡng những thành công trong

kinh tế của Trung Quốc và được cho là hỗ trợ cho Trung Quốc. Ví dụ những quốc

gia Châu Phi trong suốt tiến trình diễn ra Diễn đàn hợp tác Châu Phi ở Bắc Kinh

mong muốn nhân rộng những kinh nghiệm của Trung Quốc mặc dù chỉ là lấy một

số ít các bước tương tự trong chính sách của Trung Quốc. Một số quốc gia đang

phát triển như Braxin và Venezuela, đã tìm kiếm đối tác trong một số nước ở

phương Tây và có xem xét đến Trung Quốc để được hỗ trợ, họ cố gắng đưa Trung

Quốc thành một thế lực nhằm phản đối các chính sách này và thực tế, mặc dù

Trung Quốc hỗ trợ nhiều nước trong số họ song Trung Quốc quan tâm nhất tới việc

tăng trưởng kinh tế toàn cầu của mình thông qua các tương tác thương mại và tài

chính (như mô tả ở trên) và mở rộng vai trò của mình trong các tổ chức tài chính

quốc tế.

Các nhà lãnh đạo đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung Quốc hiện đang có

những chuyến thăm nước ngoài để thực hiện mục tiêu ngọai giao Trung Quốc đề

ra. Một vài nhà phân tích Trung Quốc gọi xu hướng này là “Ngoại giao lãnh đạo”.

Dẫu cho nhiều nhà lãnh đạo các nước tăng cường thăm hỏi thuờng xuyên các quốc

gia khác nhau nhưng các chuyến thăm đều đặn của các vị lãnh đạo Trung Quốc vẫn

vượt trội hơn cả kể từ thời kỳ cải cách và đặc biệt dưới thời Hồ Cẩm Đào. Trước

năm 1978, các chuyến thăm nước ngoài tương đối ít và không có gì tiêu biểu. Tuy

nhiên, dưới thời của ông Giang Trạch Dân – thế hệ lãnh đạo thứ 3, thì các chuyến

thăm nước ngoài mới được cải thiện. Như đã đề cập ở mục 5.2, các nhà lãnh đạo

cấp cao Trung Quốc (Chủ tịch, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hay Chủ tịch Đại hội

Đại biểu Nhân dân toàn quốc) có trách nhiệm chính trong việc tăng cường các

47

chuyến thăm nước ngoài từ năm 1992, từ con số 122 lên con số 424 (giữa các năm

1981-1991) trong giai đoạn 1992 – 2006.

Như ta đã thấy ở mục 5.3, sự phân bổ khu vực của các chuyến thăm của các

nhà lãnh đạo từ năm 1949 tới năm 2006 đã nêu bật lên rằng Trung Quốc ưu tiên

ngoại giao lâu dài: Châu Á là trọng tâm chính trong nhiều thập kỷ (250 chuyến

thăm), tiếp theo sau là Châu Âu (196) , Châu Phi (92), Châu Mỹ (50), Châu Đại

Dương (26), và Bắc Mỹ (19). 19 chuyến đi thăm Bắc Mỹ là 1 con số không hề gây

ngạc nhiên bởi chiến tranh lạnh đã gây ra mối quan hệ đóng băng giữa Mỹ và

Trung Quốc. Qua nghiên cứu của học giả Zhang Qingmin và Liu Bing, giữa năm

1949 – 1991 các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc chỉ thăm Bắc Mỹ có 7 lần. Con

số này thấp hơn nhiều so với con số 98 chuyến thăm tới Châu Á, 54 chuyến tới

Châu Âu và 31 chuyến tới Châu Phi. Trong giai đoạn 1992 – 2006, các chuyến

thăm của giới lãnh đạo cao cấp Trung Quốc chủ yếu tới Châu Á, Châu Âu, và Mỹ

La tinh.

Trong 10 năm qua, các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc có những chuyến

đi thăm nước ngoài đều đặn với các mục tiêu ngoại giao được ưu tiên cao. Một vài

cán bộ nội các then chốt đã đi thăm Băc Triều Tiên giữa những năm 2003 – 2008

như là một phần nỗ lực của Trung Quốc để kiểm soát tình hình khủng hoảng hạt

nhân và nỗ lực nối lại đàm phán 6 bên. Các chuyến thăm thường xuyên của Thủ

Tướng Wen Jiabaos đi đầu trong việc cải thiện mối quan hệ với các quốc gia Đông

Á và Nam Á. Có thể nhận thấy mục đích chuyến thăm Thái Lan năm 2003 của ông

Wen (ngay sau khi dịch SARS bùng nổ lại ở Trung Quốc) là muốn khẳng định lại

Trung Quốc và các nước láng giềng của mình đang cùng nỗ lực ngăn cản sự lây lan

của dịch bệnh này. Kể từ đó, Wen trở thành người đại diện cấp cao của Trung

Quốc trong các cuộc họp thường tuần của ASEAN +3 (gồm ASEAN, Trung Quốc,

Nhật, Hàn Quốc) và cuộc họp thượng đỉnh Đông Nam Á. Wen chủ trì hội nghị kỷ

niệm lần thứ 15 mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc ở Nam Ninh năm 2007, là 1

48

cách để nhấn mạnh sự quan trọng của Trung Quốc với ASEAN. Wen cũng là

người đi đầu trong các nỗ lực làm thân với Ấn Độ, ông Wen đã có chuyến thăm Ấn

Độ nhân Hội nghị thượng đỉnh 2 bên vào tháng 4 năm 2005 và qua đó thiết lập

được mối quan hệ hợp tác chiến lược với Ấn Độ – đối thủ lầu đời của Trung Quốc.

Có lẽ chuyến thăm Nhật Bản vào tháng 4 năm 2007 của thủ tướng Wen là một

chuyến đi hướng đến tương lai “Phá tan băng giá trong quan hệ” giữa Trung Quốc

và Nhật bản và làm củng cố mối quan hệ giữa hai nước.

Ngoài Châu Á, ông Wen còn đóng vai trò trung tâm trong các nỗ lực của

Trung Quốc nhằm kiểm soát khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Ông Wen là

đại diện của Trung Quốc tới Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos, Thụy Sỹ đầu năm

2008 – mục đích tự khẳng định với cộng đồng thế giới, ông này đã cho biết Trung

Quốc hi vọng sẽ đạt mức tăng trưởng 8% năm 2009, bất chấp những dự đoán của

toàn cầu.

Tham gia vào diễn đàn tại Davos còn có đại diện các chính quyền các nước

trong Liên minh Châu Âu (EU) bao gồm Đức, Bỉ, Tây Ban Nha và Anh. Năm

2006, ông Wen đã có chuyến thăm kéo dài một tuần tới 7 nước ở Châu Phi để

chuẩn bị cho chiến lược đẩy Trung Quốc lên một tầm cao mới trong Hội nghị

thượng đỉnh Trung – Phi diễn ra vào tháng 11 năm 2006 (bao gồm 48 các quốc gia

Châu Phi). Wu Bangguo, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc và là người có vị trí cao

thứ 2 tại Đảng Nhân Dân Trung Hoa cũng có những chuyến thăm nước ngoài để

thiết lập đối thoại với các quốc hội được bầu chọn ở các quốc gia. Mục đích của

các chuyến đi này là nâng cao tính pháp lý của quốc hội Trung Quốc trong con mắt

của người dân Trung Quốc và thế giới.

Các chuyến đi thăm nước ngòai của chủ tịch Hồ Cẩm Đào kể từ năm 2002

sau khi ông này cầm quyền được coi là trọng tâm trong các nỗ lực nhằm gây ảnh

hưởng của Trung Quốc tới các vùng đang phát triển (chủ yếu là ở Châu Phi, Trung

Đông, Trung Á, và Châu Mỹ La tinh) qua đó thâm nhập các nguồn tài nguyên và

49

năng lượng tại đây. Bốn chuyến đi của ông Hồ tới Châu Phi (năm 2002, 2006,

2007 và 2009) và 2 chuyến tới Châu Mỹ La tin (2004 và 2008) thể hiện sự tác

động mang tính mở rộng của Trung Quốc ở các khu vực này. Hồ Cẩm Đào đã thăm

Châu Phi 4 lần kể từ 2002, thăm tổng cộng 18 quốc gia Châu Phi. Đầu 2009, ông

Hồ Cầm Đào cũng thăm 4 quốc gia Châu Phi không giàu tài nguyên nhằm khẳng

định đường lối ngoại giao của mình không phải hướng đến tài nguyên khoáng sản,

các quốc gia đó là: Senegal, Mali, Tanzania và Mauritius. Chuyến thăm 4 quốc gia

của ông Hồ diễn ra sau chuyến thăm 12 ngày tới 7 quốc gia Châu Phi vào năm

2007, trong đó có cả những chuyến thăm gây tranh cãi tới Sudan và Zimbabwe.

Không những vậy, Hu Jintao còn tích cực tăng cường quan hệ với các quốc

gia thuộc Liên Xô cũ. Ông này đã có những chuyến thăm thường niên tới Nga kể

từ 2002, và tham gia vào các cuộc họp thượng đỉnh thuộc Tổ chức Hợp tác Thượng

Hải. Năm 2007 và 2008, ông Hồ còn đi thăm Kyrgyzstan, Kazakhstan, Tajikistan

và Turkmenistan.

Trung Quốc cũng triển khai ý định chiến lược khi đồng ý thực hiện cam kết

về các vấn đề quốc tế, nhóm quốc gia. Năm 2003, Hồ Cẩm Đào đã tham dự Hội

nghị thượng đỉnh Âu – Trung khi hợp tác chiến lược giữa Trung Quốc và Châu Âu

được hình thành. Đây là quãng thời gian Bắc Kinh tìm cách gây căng thẳng trong

quan hệ Đại Tây Dương để nâng cao sự hợp tác Âu Trung trong các vấn đề quốc

tế. Trong tháng năm 2008, Hồ Cẩm Đào đã có chuyến thăm tới Nhật Bản để hoàn

thành vấn đề bình thường hóa toàn diện với Nhật Bản, đây là chuyến đi thăm đầu

tiên tới Nhật Bản của lãnh đạo Trung Quốc kể từ chuyến thăm của ông Giang

Trạch Dân vào năm 1998. Chuyến thăm của ông Giang được nhìn nhận là thất bại

bởi ông này đã giáo huấn người Nhật về vấn đề lịch sử giữa 2 nước. Ông Hồ Cẩm

Đào hiện là đại diện của Trung Quốc trong các cuộc họp thường niên của G8 mặc

dù Trung Quốc không hoàn toàn là thành viên của nhóm này. Ông Hồ đã tham dự

50

Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Washington vào tháng 11 năm 2008 và ở London vào

tháng 4 năm 2009.

Ông Hồ và ông Wen được coi như những người thành công trong việc dẫn

dắt chiến dịch “ngoại giao lãnh đạo”. Phó Chủ tịch Trung Quốc, ông Tập Cận Bình

người được tin tưởng là sẽ có những thành công như ông Hồ Cẩm Đào, cũng có sự

coi trọng các chuyến thăm nước ngoài nhằm cải thiện quan hệ của Trung Quốc với

các quốc gia đang phát triển.

Những chuyến công du tới các nước Châu Phi, Trung Đông, Trung Á và Mỹ

La tinh của chủ tịch Hồ Cẩm Đào kể từ khi lên cầm quyền vào năm 2002 trở thành

phần trọng tâm trong chiến lược mở rộng sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của Trung

Quốc ở các nước đang phát triển, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao khả năng

khai thác tài nguyên khoáng sản tại các quốc gia này. Bốn chuyến viếng thăm

chính thức Châu Phi của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào các năm 2002, 2006, 2007,

2009 và 2 lần tới Mỹ La tinh vào các năm 2004 và 2008 đã giúp Trung Quốc trực

tiếp thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực kinh tế của các khu vực này. Trong 4 lần tới

Châu Phi, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tới thăm tổng cộng 18 nước. Điều này bày tỏ

sự quan tâm sâu sắc tới lục địa đen của Trung Quốc. Đầu năm 2009, Hồ Cẩm Đào

đã tới thăm 4 quốc gia Châu Phi không giàu tài nguyên là Senegal, Mali, Tanzania

và Mauritius như để nhấn mạnh rằng quan hệ ngoại giao Trung Quốc Phi Châu

không chỉ hoàn toàn vì dầu mỏ. Chuyến đi tới 4 nước kể trên là sự tiếp nối của

chuyến thăm viếng dài 12 ngày tới 7 nước Châu Phi vào năm 2007, trong đó bao

gồm cả những điểm nóng thế giới như Sudan, Zimbabwe.

Hơn thế nữa, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào còn có những đóng góp hết sức quan

trọng trong việc cải thiện mối quan hệ giữa Trung Quốc với chính quyền Xô Viết

cũ. Kể từ khi nhậm chức, hầu như năm nào ông cũng dành thời gian tới thăm viếng

Nga, đồng thời tham dự các phiên họp thường niên của Tổ chức hợp tác Thượng

51

Hải. Trong 2 năm 2007, 2008, ông này cũng đã có những chuyến thăm viếng chính

thức tới Kyrgyzstan, Kazakhstan, Tajikistan, and Turkmenistan.

Tổng thống Trung Quốc cũng liên tục ra mặt khi quốc gia này có các mục

đích chiến lược như muốn tìm cách nâng cấp cam kết với một quốc gia, một nhóm

các quốc gia hay là một vấn đề quốc tế. Năm 2003, lần đầu tiên và cũng là lần duy

nhất cho đến thời điểm này, Hồ Cẩm Đảo tham dự hội nghị thượng đỉnh Trung

Quốc – Châu Âu khi mà “quan hệ đối tác chiến lược” giữa hai bên được hình

thành. Đây cũng chính là khoảng thời gian Bắc Kinh tận dụng những căng thẳng

trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương để nâng cao sự hợp tác giữa Trung Quốc và

Châu Âu trong các vấn đề quốc tế. Năm 2008, Hồ Cẩm Đào cũng có chuyến thăm

viếng chính thức tới Nhật Bản nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ hoàn toàn

với quốc gia này. Đây là chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên của một lãnh đạo

cao cấp Trung Quốc kể từ chuyến thăm của cực Tổng thống Giang Trạch Dân năm

1998 – chuyến đi được xem như là một sự thất bại khi mà ông Giang lên lớp người

Nhật Bản về các vấn đề lịch sử. Ông cũng là đại diện của Trung Quốc tại các cuộc

họp thường niên của nhóm các quốc gia G8 mặc dù Trung Quốc chưa phải là thành

viên chính thức của tổ chức này. Ông còn tham dự hội nghị thượng đỉnh G20 tại

Washington tháng 11 năm 2008 và tại London tháng 4 năm 2009.

Hồ Cẩm Đào và những người kế nhiệm được xem là thành công ông Ôn Gia

Bảo đã có một bước nhảy vọt trong ngoại giao lãnh đạo. Phó Chủ tịch Tập Cận

Bình, người được tin tưởng là tương tự như vậy đã tập trung các chuyến đi nước

ngoài của mình vào việc cải thiện quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia đang

phát triển. Trong chuyến ra nước ngoài đầu tiên dưới cương vị Phó chủ tịch vào

năm 2008, ông đã tới thăm Bắc Triều Tiên, Mông Cổ và ba quốc gia Trung Đông

(Ả rập Xê Út, Yemen và Qua-ta). Cũng trong năm đó, ông tới thăm 5 nước Mỹ La

tinh (Mexico, Jamaica, Colombia, Venezuela và Brazil) và nước Malta. Tháng 2

năm 2009, ông này lại một lần nữa tới thăm Venezuela, nước cung cấp dầu thô lớn

52

thứ 8 cho Trung Quốc (tính đến năm 2007). Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường trong

chuyến viếng công du đầu tiên ra nước ngoài khi còn đương chức đã tới thăm

Kuwait và Indonesia vào tháng 12 năm 2008.

Một khía cạnh khác trong việc đánh giá chiến lược ngoại giao lãnh đạo của

Trung Quốc là việc bổ nhiệm và đưa vào sử dụng “đặc phái viên” để đặc biệt xử lý

các vấn đề trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Từ năm 1993, Trung Quốc

đã bổ nhiệm một số đặc phái viên và triển khai đội ngũ này trên khắp thế giới. Đặc

phái viên đầu tiên của Trung Quốc được chỉ định giải quyết vấn đề hạt nhân của

Bắc Triều Tiên và hiện nay nước này đã cử các đặc phái viên về các vấn đề tại

Châu Phi, Sudan, Trung Đông và trong năm 2009 là vấn đề Afganishtan, Pakistan.

Như mô tả trong hình 5.5, số các chuyến thăm của đặc phái viên nước ngoài tăng

đáng kể trong năm 2006 và 2007, điều này khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc

ngày càng quan tâm tới công cụ ngoại giao mới này.

Ngoại giao đa phương

Một công cụ ngoại giao mới rất quan trọng và được Trung Quốc sử dụng

một cách khéo léo đó là sự tham gia vào các tổ chức đa phương (Bảng 5.2 và bảng

5.3). Trung Quốc đã sớm nhìn ra rằng các tổ chức này chính là môi trường để họ

có thể nâng cao tầm nhìn của mình về một thế giới đa cực, tính dân chủ mạnh mẽ

hơn trong quan hệ quốc tế và xây dựng một thế giới hòa thuận. Những tài liệu quốc

phòng năm 2008 đã chỉ rõ điểm này, “Trung Quốc đang đóng một vai trò năng

động và có tính xây dựng trong các mối quan hệ đa phương, từ đó nâng cao vị thế

và tầm ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế”.

Cụ thể hơn, Trung Quốc sử dụng các tổ chức đa phương như các cơ chế để

bảo đảm, thâm nhập vào các yếu tố đầu vào kinh tế trọng điểm, hạn chế ảnh hưởng

của Mỹ ở các khu vực nhất định, và mở rộng khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc

nói chung. Thực tế là Trung Quốc đang đóng vai trò trung tâm trong việc tạo ra

một loạt các diễn đàn đa phương mới tại các khu vực trên toàn thế giới. Quá trình

53

này đã biến các nhà lãnh đạo Trung Quốc thành những người nắm quyền sinh sát

trong các tổ chức này.

Chiến lược nắm lấy các tổ chức đa phương của Trung Quốc được thể hiện rõ

ràng và hiệu quả nhất trong khu vực Châu Á. Từ những năm đầu thập niên 90 của

thế kỷ XX, Trung Quốc đã rất tích cực tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á

Thái Bình Dương (APEC) (1991), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) (1994), Diễn

đàn ASEAN +1 (ASEAN và Trung Quốc) (1996), ASEAN +3 (1997) và Hội nghị

thượng đỉnh Đông Á (EAS) (2005). Những sự tham gia này chính là công cụ để

Trung Quốc đánh bóng hình ảnh, tăng cường hợp tác kinh tế và nâng cao tầm ảnh

hưởng trong khu vực. Năm 2003, Trung Quốc đã trở thành nhân tố quyết định

trong việc hình thành và duy trì bàn đàm phán Sáu bên về vấn đề phi hạt nhân hóa

của Triều Tiên. Năm 2002, Trung Quốc trở thành thành viên sáng lập của Diễn đàn

Đối thoại Hợp tác Châu Á, là nơi tìm kiếm tiếng nói chung giữa các tổ chức khu

vực riêng lẻ như ASEAN, Hiệp hội Nam Á vì Sự hợp tác khu vực (SAARC) và

Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh.

Trung Quốc cũng đẩy mạnh việc mở rộng các hoạt động hợp tác phi chính

phủ. Năm 2001, một nhóm lãnh đạo các doanh nghiệp Trung Quốc trong và ngoài

nước đã đứng ra thành lập Diễn đàn Hợp Tác kinh tế Châu Á Bác Ngao (BFA),

một tổ chức quốc tế phi chính phủ, phi lợi nhuận có trụ sở đặt tại đảo Hải Nam,

Trung Quốc và được quy mô hóa từ sau Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos. Cũng

như các cuộc họp ở Davos, BFA thu hút sự quan tâm chú ý của các quan chức cấp

cao Châu Á, lãnh đạo các doanh nghiệp và các học giả. Cũng chính tại diễn đàn

này năm 2003, Trung Quốc đã đưa ra chinh sách đối ngoại chiến lược mới: Tăng

cường hòa bình, bình yên phát triển.

Hợp tác chiến lược

Trung Quốc đã phát triển một cơ chế ngoại giao để phục vụ mục tiêu bành

trướng ảnh hưởng quốc tế của mình – sự hình thành của mối quan hệ “hợp tác

54

chiến lược” với cả các quốc gia đơn lẻ lẫn các nhóm quốc gia. Bảng 5.4 sơ lược

các mối quan hệ hợp tác này.

Với Trung Quốc, hợp tác chiến lược có ý nghĩa khác với cách hiểu của

phương Tây về thuật ngữ này. Nó không được đối xử như các khối liên minh bán

quân sự với những hợp tác rộng lớn về an ninh và quân sự, được ám chỉ qua từ

“chiến lược”. Thay vào đó, trong từ điển chính sách đối ngoại của Trung Quốc,

một sự hợp tác có ý nghĩa là chiến lược bởi hai lý do: (1) Nó mang tính bao quát,

bao gồm mọi khía cạnh của các quan hệ song phương và đa phương; và (2) cả hai

nước đều đồng ý cam kết đối với quan hệ song phương lâu dài, trong đó các vấn đề

song phương được xem xét trong bối cảnh đó và quan trọng hơn là những tranh

chấp xảy ra sẽ không ảnh hưởng đến quan hệ đó. Xác lập các mối quan hệ hợp tác

này giúp cho Trung Quốc có thể nâng cao mức độ tương tác của mình với các nước

(nhóm nước) đối tác và đồng thời giúp Trung Quốc có thể đặt ra được phạm vi, nội

dung và nhịp độ tương tác. Lập luận này giúp lý giải cho sự đa dạng của các quốc

gia, các nhóm quốc gia, các tổ chức đa phương mà Trung Quốc đã thiết lập mối

quan hệ hợp tác chiến lược đó.

Các mối quan hệ hợp tác chiến lược này có nội dung rộng và phong phú.

Trung Quốc nhấn mạnh vào một vài đề tài chính, bao gồm cơ hội phát triển kinh tế

chung từ thương mại và đầu tư; điều phối các sự kiện quốc tế, đồng nghĩa với việc

thông qua các quan điểm chính sách đối ngoại chung tại các diễn đàn như Liên

Hợp Quốc; hợp tác trên các lĩnh vực an ninh phi truyền thống; nâng cao ảnh hưởng

của các tổ chức đa phương; cùng ủng hộ các nguyên tắc của Liên Hợp Quốc và

quy tắc pháp luật trong quan hệ quốc tế; và quảng bá khái niệm của Trung Quốc về

“dân chủ và bình đẳng trong quan hệ quốc tế”.

Trung Quốc đồng thời cũng có những mục tiêu cụ thể khi tham gia vào các

mối hợp tác này. Nước này sử dụng chúng như các cơ chế để mở rộng các cơ hội

về kinh tế (đặc biệt là để có được sự ưu tiên tiếp cận đối với các thị trường, đầu tư,

55

và tài nguyên thiên nhiên của quốc gia khác) để ổn định và định hình môi trường

an ninh khu vực của Trung Quốc, làm giảm sức ép từ bên ngoài đối với Trung

Quốc, và để nâng cao uy tín quốc tế của quốc gia này như một cường quốc có trách

nhiệm. Quan trọng là Bắc Kinh sử dụng các cấu trúc ngoại giao này để tạo ra các

lợi thế giao kèo trong các tương tác song phương của mình. Những mối hợp tác đó

giúp cho Trung Quốc có thể xác định được các tiêu chuẩn hợp tác mà các đối tác

phải đáp ứng được; điều này làm tăng khả năng đòi hỏi bên đàm phán phải đáp ứng

các mục tiêu của Trung Quốc.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng đã khởi động các “cuộc đối

thoại chiến lược” với nhiều trong số các quốc gia này; điều này càng khẳng định

những nỗ lực của Trung Quốc nhằm tăng cường quan hệ chính trị để tạo ra ảnh

hưởng và lợi thế. Các cuộc đàm thoại này thường diễn ra ở cấp độ Phó Ngoại

trưởng, và các chủ đề thường bao quát rộng rãi các vấn đề về an ninh như kiểm

soát vũ trang, giải trừ vũ khí hủy diệt hàng loạt, các thách thức an ninh phi truyền

thống, và các tranh chấp lâu năm về lãnh thổ.

Bảng 5.4

Diễn Trung Quốc được Quố Xây Mốc sự tập quân sự công nhận như là một nền c gia dựng quan hệ kiện chung kinh tế thị trường

Những quốc gia đang phát triển

Braz quan hệ 1996. Tháng 11/2004

il đối tác chiến Giang Trạch

lược lâu dài và Dân đi thăm

ổn định

2003 Mex

quan hệ ico Tháng 11/2004

56

đối tác chiến 2005. Hồ

Arge lược toàn Cẩm Đào đi

ntina diện thăm

Tháng 12/2004

quan hệ 2005. Hồ

Ven đối tác chiến Cẩm Đào đi Diễn

ezuela lược toàn diện thăm tập tìm

kiếm cứu

quan hệ 2005. Ôn hộ 2003,

India đối tác chiến Gia Bảo đi 2005.

lược toàn diện thăm Hợp

tác diễn tập

chống quan hệ

khủng bố đối tác chiến

Kaza lược và hợp tác 2005. Hồ 2007 2008 Tháng 9/2004

khstan vì hòa bình và Cẩm Đào đi

thịnh vượng thăm Hợp

tác diễn tập

chống Tháng 6/2004

Indo 2005. Hồ khủng bố

nesia quan hệ Cẩm Đào đi với bang

đối tác chiến thăm SCO 2003

lược toàn diện

2004. Nam

Trương Thanh Phi

57

quan hệ Hồng đi thăm. Tháng 12/2004

đối tác chiến Mở rộng

lược toàn diện thêm vào tháng

6/2006

Tháng 11/2006

Nige quan hệ

ria đối tác chiến 2005

lược Tổng thống

Obasanjo thăm Tháng 11/2004

Trung Quốc

Alge

ria 2004 Hồ

Cẩm Đào thăm

quan hệ Algeria

đối tác chiến

Việt lược Diễn

Nam 2008 tập tuần tra

Tổng bí thư trên Vịnh

Nông Đức bắc bộ

Mạnh thăm 2007

Trung Quốc

quan hệ

đối tác chiến

lược

58

quan hệ

đối tác hợp tác

chiến lược và

toàn diện

Khu vực và tổ chức đa quốc gia

Benin,

Châ quan hệ Cộng hòa dân

u Phi đối tác chiến 2000. Diễn chủ Công Gô,

lược phát triển đàn hợp tác Trung Djibouti,

bền vững trong Quốc và châu phi tổ Nigeria, Togo,

thế kỷ 21 chức lần đầu tiên ở Nam Phi và

Bắc Kinh Suriname

Châ

u Âu

2003.Hội nghị

thượng đỉnh cấp cao Không

quan hệ lần 6 giữa Trung có.

đối tác chiến Quốc và Châu Âu

lược toàn diện

Đôn

2003. Hội nghị g Nam Á

thưởng đỉnh cấp cao 10 nước

59

Asean + 1 tại Bali - Đông Nam Á

Indonesia công nhận

quan hệ Trung Quốc có

đối tác chiến nền kinh tế thị

lược vì hòa trường vào

bình và thịnh tháng 9/2004

vượng

Với các nước đối tác (hoặc các nhóm) cho phép Trung Quốc đặt giới hạn,

nội dung cũng như bước đầu của sự cam kết, trật tự này giải thích sự đa dạng

không bị gò bó của các nhà nước, các nhóm quốc gia, và các tổ chức đa phương

mà với nó Trung Quốc đang xác lập như những đối tác chiến lược.

Những đối tác chiến lược này có ý nghĩa lớn và đa dạng, Trung Quốc nhấn

mạnh vài chủ đề, bao gồm những cơ hội cho sự phát triển kinh tế chung, kết quả

của thương mại và đầu tư; sự phối hợp trong các vấn đề quốc tế, điều này có ý

nghĩa đưa ra các quan điểm chính sách đối ngoại, như tại Liên Hiệp Quốc; sự hợp

tác trên các vấn đề an ninh phi truyền thống; nâng cao ảnh hưởng của các tổ chức

đa phương; sự tán thành chung của các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc và quy tắc

của luật trong các mối quan hệ quốc tế; và Trung Quốc thúc đẩy khái niệm của

mình là “dân chủ và công bằng trong các quan hệ quốc tế”.

Trung Quốc cũng có nhiều hơn mục tiêu đặc biệt trong việc theo đuổi các

đối tác này. Nước này dùng họ như phương tiện để mở rộng các cơ hội kinh tế (đặc

biệt là đạt được sự ưu đãi trong việc thâm nhập thị trường nội địa, đầu tư và nguồn

tài nguyên thiên nhiên của các nước này), để hình thành và ổn đinh môi trường an

ninh vùng của Trung Quốc, làm giảm sức ép bên ngoài lên Trung Quốc, và ủng hộ

danh tiếng quốc tế của họ như một nước lớn có trách nhiệm. Quan trọng là, Bắc

60

Kinh dùng những cơ cấu ngoại giao này để tạo ra ảnh hưởng trong thỏa thuận, đàm

phán song phương. Các quan hệ đối tác như thế cho phép Trung Quốc đặt ra các

tiêu chuẩn hợp tác mà họ yêu cầu phải chấp nhận; điều này làm tăng khả năng của

Trung Quốc nhằm vận động các bên đối thoại chấp nhận mục tiêu của họ.

Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng đã đề xướng các cuộc “đối

thoại chiến lược” với các quốc gia này; đây là dấu hiệu nữa cho thấy Trung Quốc

đang nỗ lực làm sâu sắc thêm các mối quan hệ chính trị nhằm tạo thêm ảnh hưởng.

Các cuộc đối thoại này thường xuất hiện ở cấp đại diện hoặc Thứ trưởng Bộ Ngoại

giao, và các chủ đề bao trùm là một loạt các vấn đề an ninh như hạn chế vũ trang,

giảm WMD, những thách thức an ninh phi truyền thống, và các tranh chấp lãnh thổ

lâu đời. Trung Quốc lần đầu tiên đã thiếp lập một kênh thông tin với Nga vào năm

1996 tiếp theo một cuộc họp thượng đỉnh, nhưng nó đã không dẫn tới cái gọi là

“đối thoại chiến lược” cho đến những năm gần đây. Một hình mẫu nổi bật với Pháp

trong cuối những năm 1990. Vào năm 2005, Trung Quốc sắp xếp các cuộc đối

thoại chiến lược cất cánh. Trong năm đó, Bắc Kinh tổ chức các phiên họp mở đầu

với Hòa Kỳ, Ấn Độ, Anh, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu. Trong năm 2006,

cùng với cuộc họp thượng đỉnh đang diễn ra tại Bắc Kinh, Trung Quốc và Đức

cũng cam kết đề xướng một cuộc đối thoại chiến lược hàng năm.

Tùy các mức độ khác nhau mà Trung Quốc áp dụng mối quan hệ đối tác

chiến lược với các cường quốc, như Nga, Pháp, và Liên minh Châu Âu, để mở

rộng quan hệ kinh tế, tăng cường sự phát triển của các trung tâm quyền lực khác

trong hoạt động chính trị toàn cầu, và tìm kiếm sự ủng hộ cho viễn cảnh của một

trận tự thế giới đa cực của Trung Quốc. Những mối quan hệ với các cường quốc

này không có nghĩa là Trung Quốc muốn tạo ra một liên minh chống Mỹ để cân

bằng lại tầm ảnh hưởng của Mỹ. Tuy nhiên, các quan hệ đối tác này cho phép

Trung Quốc có nhiều lựa chọn hơn và giúp họ tăng cường một môi trường có thể

được sử dụng để ép buộc các hành động đơn phương của Mỹ, đặc biệt nếu những

61

hành động đó chạm đến các lợi ích của Trung Quốc. Trong chính sách ngoại giao

của Trung Quốc không công khai các yếu tố chống Mỹ, nhưng sự lo lắng của họ

với chủ nghĩa đơn phương của Mỹ là một nguyên nhân dẫn đến các mối quan hệ

đối tác chiến lược của Trung Quốc. Những chủ đề và động cơ này đã xuất hiện rõ

ràng vào năm 2003 trong Tuyên bố chung EU – Trung Quốc, nó đã đặt nền móng

cho mối quan hệ đối tác chiến lược trong một thời kỳ căng thẳng xuyên Đại Tây

Dương, cũng như trong Thông cáo chung Nga – Trung Quốc và tuyên bố của Tổ

chức hợp tác Thượng Hải vào tháng 7 năm 2005.

Các quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc với các cường quốc này bị

giới hạn bởi hai lý do nó hạn chế khả năng của các nước này thành cơ chế hữu hiệu

để cân bằng sức mạnh của Mỹ. Đầu tiên, lợi ích của Trung Quốc với tất cả các

cường quốc này, đặc biệt là Nga và Ấn Độ, tồn tại cả đồng thuận và chia rẽ trên

các vấn đề khác nhau và tới các mức độ khác nhau.

Điều đáng quan tâm sau đó là lịch sử chứng minh Trung Quốc không hề ủng

hộ hoặc ỷ lại vào đồng minh (ngay cả với mối quan hệ đôi bên bền vững nhất)

trong chiến lược ngoại giao của mình. Lịch sử Trung Quốc có thiên hướng độc lập

và không ỷ lại vào đồng minh gợi nên câu hỏi về giới hạn mà Trung Quốc có thể

hoặc sẽ dựa vào đồng minh trong thời điểm hiện tại. Mặc dù Trung Quốc đã từng

thành lập liên minh trong quá khứ (ví dụ, Liên minh Xô-Trung vào những năm

1950), Trung Quốc chưa bao giờ hoàn toàn dễ chịu trong mối quan hệ đó. Bắc

Kinh ưa tự quyền để tối đa hóa tính cơ động và khả năng gây ảnh hưởng của nó.

Quá trình dai dẳng của thiên hướng này là bằng chứng nó đã ăn sâu vào tầng lớp

chóp bu của Trung Quốc trong vấn đề an ninh và kinh tế. Điều này là hệ quả của

tính toàn cầu trong yêu cầu về an ninh quốc gia của Trung Quốc. Khuynh hướng

lịch sử của Trung Quốc càng được khẳng định vào 2001 khi Nga tách ra khỏi liên

kết chống lại nước Mỹ và quay lưng lại với Trung Quốc bằng việc nối lại mối quan

hệ với Mỹ, thậm chí trước cả sự kiện 11/ 9. Đặc biệt, Nga còn bỏ rơi Trung Quốc

62

trong việc phản đối Hệ thống Phòng thủ tên lửa của Mỹ. Những sự kiện này đã đưa

ra giả thuyết thứ ba về tầm giới hạn trong mối quan hệ chiến lược của Trung Quốc:

Phần lớn các thế lực đặt mối quan tâm vào quan hệ của họ với Mỹ hơn là với

Trung Quốc. Một số không sẵn sàng trong việc bỏ rơi mối liên kết với Mỹ để hợp

tác với Trung Quốc trong cố gắng kìm hãm Mỹ dù mặt trong hay mặt ngoài.

Chính sách quân sự

Chính sách quân sự giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động quốc tế của

Trung Quốc. Điểm mốc là năm 2004 khi Trung Quốc thể hiện trong báo cáo phòng

thủ của mình: Nâng chính sách quân sự lên tầm chiến lược trong nghệ thuật quản

lý của nó. Theo sau quyết định quan trọng này, hoạt động của Quân đội Giải phóng

Nhân dân Trung Hoa (PLA) kể từ đó phản ánh ngày một hiệu quả hơn trong các

mối quan hệ quân sự song phương và đa phương để mở rộng quan hệ chính trị với

các quốc gia lân cận ở Đông, Trung và Nam Á, cũng như Châu Phi và Nam Mỹ.

Trung Quốc rõ ràng đang sử dụng chính sách quân sự để mở rộng ảnh hưởng, bảo

đảm vị thế của mình ở Châu Á, bồi dưỡng kinh nghiệm và kiến thức cho quân đội

tinh nhuệ, đồng thời định hướng để PLA trở thành bản sao nhận thức của Trung

Quốc.

Chương 6: Những hoạt động đối ngoại của Trung Quốc

Trung Quốc đã xây dựng và triển khai nhiều chính sách hiệu quả hướng ra

bên ngoài nhằm phục vụ cho những mục tiêu đối ngoại hàng đầu của nước này,

như đã đề cập rõ trong chương IV. Điều này được thể hiện rõ ràng trong nghệ thuật

quản lý theo chủ nghĩa tích cực và đa dạng của Nhà nước Trung Quốc: Trung

Quốc đã mở rộng một cách có hệ thống phạm vi và cải thiện chất lượng các mối

quan hệ song phương; nước này cũng thể hiện rõ sự thắt chặt quan hệ với các tổ

chức đa phương, ở nhiều khu vực và trên những vấn đề thiết thực; ngoại giao kinh

tế đa diện và vững mạnh; Bắc Kinh còn khéo léo hơn nữa trong việc hợp nhất

ngoại giao quân sự với những thay đổi trong chính sách đối ngoại. Trong chương

63

VI, nội dung và đặc điểm của những hoạt động chính sách này sẽ được phân tích rõ

dựa trên sự phản ánh của chúng trong ngoại giao của Trung Quốc với thế giới.

Cơ cấu chính sách cho quan hệ đối ngoại:

Trong thập kỷ cuối thế kỷ XX, Trung Quốc đã hoàn thành việc mở rộng

phạm vi, chiều sâu và chất lượng các mối quan hệ song phương, như một phần

trong nỗ lực hướng ra thế giới của nước này nhằm thúc đẩy ảnh hưởng hiện có,

đồng thời tạo ra ảnh hưởng mới. Đây là một khuynh hướng rõ ràng trong ngoại

giao của Trung Quốc và có vẻ sẽ tiếp tục được duy trì trong sự ưu tiên mang tính

truyền thống của Trung Quốc đối với các mối quan hệ song phương, thậm chí cả

trong bối cảnh chủ nghĩa đa phương đang được sử dụng ngày một rộng rãi hơn.

Những mối quan hệ song phương mà Trung Quốc thiết lập đều tuân theo

nguyên tắc thể hiện cách các nhà lãnh đạo Trung Quốc xếp hạng và đánh giá

chúng. Các quan chức và nhà học giả Trung Quốc thường trích dẫn nguyên tắc chỉ

đạo sau: "Nước lớn là chủ chốt, các nước láng giềng là hàng đầu, các nước đang

phát triển là nền tảng”. Những năm gần đây, Trung Quốc đã bổ sung thêm một

nhân tố thứ tư vào nguyên tắc nói trên: "Ngoại giao đa phương là sân khấu". Như

một biểu hiện cho tính xác đáng của những ý tưởng, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm

Đào thậm chí còn đề cập đến những nhân tố này trong Báo cáo tại Đại hội Đảng

lần thứ 17 của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2007. (1) Các quan chức và học

giả Trung Quốc thường đề cập đến cụm bốn nhân tố này như bốn cột trụ chính của

chính sách đối ngoại Trung Quốc.

Việc áp dụng nguyên tắc nói trên trong hành xử đối ngoại thực tế của Trung

Quốc lại không thật sự hòa hợp. Các học giả Trung Quốc hiện vẫn còn tranh cãi về

mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc: Bao nhiêu là đủ? Nó có thể ảnh hưởng thế nào

và thực tế đã ảnh hưởng bao nhiêu đến việc thi hành chính sách trong thực tế. Rõ

ràng là, sự ưu tiên tương đối trong quan hệ giữa hai đối tượng "các nước lớn" và

"các nước láng giềng" thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào nhà lãnh đạo.

64

Nhiều nhà phân tích Trung Quốc cho rằng Trung Quốc nên tập trung hết sức vào

các quốc gia láng giềng, nhằm đảm bảo môi trường an ninh và ổn định trong khu

vực. Các nhà phân tích cũng cho rằng Trung Quốc không nên quá coi trọng quan

hệ với các nước lớn và tình trạng đi cùng với những mối quan hệ này. Trên thực tế,

trong năm 2009, quan điểm này dường như chiếm ưu thế hơn trong quá trình triển

khai chính sách của Trung Quốc. Nhiều người khác lại cho rằng những chính sách

như thế không thể dựa vào các mối quan hệ giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ, Nga,

Nhật, châu Âu – những mối quan hệ được xem là một phần quan trọng giúp đảm

bảo môi trường khu vực ổn định cũng như góp phần thiết lập sự ổn định và thịnh

vượng toàn cầu. Theo quan điểm này, duy trì mối quan hệ ổn định và thân thiết với

các nước lớn là cần thiết, nhưng không phải là nhân tố quyết định hoàn toàn đến

thành công trong sự vươn lên của Trung Quốc, không rõ ràng như mục tiêu của các

nhà hoạch định chính sách Trung Quốc.

Áp lực giữa hai đối tượng ưu tiên (ví dụ căng thẳng giữa các nước lớn trên

thế giới với các nước lớn trong khu vực) đòi hỏi Trung Quốc phải triển khai hoạt

động giữ cân bằng liên tục và cách Trung Quốc xử lý áp lực kể trên sẽ lý giải cụ

thể những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của những nhà lãnh đạo Trung Quốc

tại thời điểm hiện tại và cả trong tương lai. Một số người Trung Quốc vẫn cho rằng

lý do Tổng Bí thư Giang Trạch Dân ưu tiên củng cố quan hệ với các cường quốc là

bởi những ưu tiên mang tính cá nhân trong quan hệ với lãnh đạo các cường quốc.

Các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, ngược lại, có chính

sách cân bằng và thực dụng hơn trong quan hệ với các nước lớn: chỉ chú trọng đến

quan hệ với các nước này khi cần thiết, trong khi tập trung nhiều hơn đến ngoại

giao khu vực nhằm ổn định ngoại biên Trung Quốc và nâng cao sự ảnh hưởng với

các nước đang phát triển. Mối quan hệ của Trung Quốc với mỗi nhóm nước: các

cường quốc, các nước láng giềng và nước đang phát triển sẽ được phân tích ngay

sau đây.

65

Quan hệ với các cường quốc

Từ đầu thập kỷ 90, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết hợp 3 nguyên tắc

chỉ đạo sau trong quan hệ với các nước lớn: "không đồng minh, không đối đầu, và

không trực tiếp chống lại bất kì bên thứ ba nào". Về cơ bản, những nguyên tắc này

thể hiện cách tiếp cận chung của các nhà lãnh đạo với việc quản lý các mối quan hệ

với nước lớn. Những nguyên tắc này được cho là phương tiện ý nghĩa và có liên

quan bởi chúng được các cán bộ ở Trung Quốc sử dụng để trao đổi về những mục

tiêu của nhà lãnh đạo. Sẽ là sai lầm nếu chỉ xem những nguyên tắc này hoàn toàn

đơn thuần chỉ để tuyên truyền. Nhìn một cách khái quát, chúng hoàn toàn phù hợp

với cách thức tương tác của Trung Quốc với các nước lớn, nhưng những nguyên

tắc này lại không phản ánh được sự phức tạp và tinh tế trong mối quan hệ của

Trung Quốc với Hoa Kỳ, Nga và một số nước khác. Quan hệ về kinh tế đóng một

vai trò chủ chốt và liên tục trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước lớn, đặc

biệt là với Hoa Kỳ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu. Về phía Trung Quốc, có một

lôgic kinh tế phù hợp với những quan hệ này, là chìa khóa để hiểu những chính

sách của Trung Quốc với các quốc gia nói trên: Trung Quốc xây dựng và thắt chặt

quan hệ với các nước lớn để đảm bảo có thể tiếp cận thị trường, vốn đầu tư và công

nghệ từ những nước này. Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản đã và đang là

đối tác kinh tế và nhà đầu tư hàng đầu của Trung Quốc từ 30 năm trở lại đây. Tuy

nhiên, những tuyên bố và hành động hướng đến các nước lớn của Trung Quốc đều

chỉ dựa một phần vào ba nguyên tắc nói trên. Mặc dù Trung Quốc không xây dựng

bất cứ mối quan hệ đồng minh nào, việc nước này cố gắng thu hẹp ảnh hưởng toàn

cầu của Hoa Kỳ và hạn chế những cố gắng của Liên minh Nhật – Mỹ nhằm thu hẹp

ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực Châu Á đã rất rõ ràng, dù không công

khai thể hiện đối đầu với Hoa Kỳ hay Nhật Bản (như một đặc điểm ngoại giao của

nước này), nhưng thực sự là sự cạnh tranh tồn tại (với nhiều mức độ mạnh yếu

khác nhau).

66

HOA KỲ

Quan hệ Mỹ – Trung có sự khác biệt rõ rệt về động lực so với quan hệ của

Trung Quốc với những cường quốc khác. Từ khi bình thường hóa quan hệ, Trung

Quốc đã đặt quan hệ Mỹ – Trung ở vị trí quan trọng trong hầu hết các chính sách

đối ngoại. Những nhà hoạch định chính sách nước này có truyền thống xem quan

hệ Mỹ – Trung như mối quan hệ quan trọng nhất với Trung Quốc. Lý do đầu tiên

là do Hoa Kỳ được xem như nguồn cung cấp thương mại đầu tư, và công nghệ. Lý

do thứ hai là bởi nước này tin rằng nếu mối quan hệ này suy giảm, "giai đoạn của

cơ hội chiến lược" của Trung Quốc để vươn lên phát triển cao hơn sẽ bị gián đoạn.

Với Trung Quốc, mối quan hệ Mỹ – Trung thật sự khác biệt so với quan hệ

với các cường quốc khác bởi chúng bao gồm một loạt các đấu tranh và hợp tác –

trên cả lĩnh vực an ninh và kinh tế. Tại những thời điểm cụ thể, những nhân tố hợp

tác và đấu tranh trong mối quan hệ này đều khá mạnh mẽ; nỗ lực chung của

Washington và Bắc Kinh nhằm hạn chế chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc

Triều Tiên chồng chéo với những bất đồng ngày càng gia tăng về cách thức đối

phó với chương trình hạt nhân của Iran và cách giải quyết những bất đồng còn tồn

đọng trong quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước.

Những khía cạnh hợp tác và đối đầu đan xen xung đột lẫn nhau tạo nên

những đặc điểm cấu trúc của quan hệ Mỹ - Trung. Một mặt, quan hệ song phương

ổn định quan trọng với lợi ích kinh tế và an ninh của cả hai nước; xung đột công

khai có thể sẽ khiến cả hai phải trả giá. Mặt khác, Bắc Kinh luôn cảm thấy bị ưu

thế toàn cầu và một số mặt trong chính sách Mỹ – Á đe dọa; Washington cũng lo

ngại không kém về sức mạnh kinh tế và quân sự đang lên của Trung Quốc. Các

nhà lãnh đạo Mỹ băn khoăn đặc biệt về những dự định tương lai của Trung Quốc.

Khả năng xung đột vũ trang với Đài Loan có ảnh hưởng đến các nhà hoạch định

quân sự và các chương trình hiện đại hóa quân đội ở cả hai quốc gia; khả năng này,

cùng với tình trạng thiếu an ninh mà nó tạo ra có thể hạn chế mặt hợp tác giữa hai

67

nước. Bạo lực tiếp nối sẽ dẫn đến nguy cơ quân sự hóa ở khía cạnh đối đầu trong

quan hệ Trung – Mỹ.

Đối phó với thực tế phức tạp này, các nhà hoạch định chính sách đã sử dụng

quy tắc "kiếm tìm nền tảng chung trong những khác biệt vốn có" để mô tả quan hệ

Mỹ – Trung và xác định rõ những phức tạp trong mối quan hệ này bằng một cách

tinh vi. Hiện tại, các lãnh đạo của cả hai nước đều không đề cập đến mối quan hệ

song phương này như một mối "quan hệ đối tác chiến lược", đặc biệt là về phía

Mỹ. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và Trung Quốc thường ưu tiên sử

dụng các tính từ như tích cực, có tính xây dựng, hợp tác, thẳng thắn và toàn diện

khi đề cập đến mối quan hệ song phương này.

Tình huống nói trên ảnh hưởng thế nào đến những chính sách về Hoa Kỳ của

Trung Quốc? Điều này được chứng minh trong những chính sách của Trung Quốc

hướng đến việc tìm kiếm mở rộng cơ hội hợp tác (nhằm tránh gia tăng đối đầu trực

tiếp) và nhằm hạn chế Hoa Kỳ mọi lúc có thể. Hai mục tiêu này phản ánh một phần

nguyên tắc chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc với quan hệ Trung – Mỹ: "tăng

tín nhiệm, giảm phiền phức, tăng cường hợp tác không đối địch". Chỉ đạo chiến

lược này được ông Đặng Tiểu Bình đưa ra đầu tiên từ đầu những năm 1990, được

Tổng Bí thư Giang Trạch Dân thường xuyên nhắc lại, tồn tại cho đến ngày nay,

mặc dù thường được nhắc đến một cách chính thức với cách diễn đạt "phát triển

hợp tác, không đối kháng lẫn nhau". Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng nguyên tắc

này với những cụm từ chính thức khác như một nguyên tắc hàng đầu cho các chính

sách hướng đến Hoa Kỳ của nước này.

Việc hoạch định những chính sách liên quan đến Mỹ vào những năm 2000

thể hiện một cách tiếp cận kép. Trung Quốc sử dụng sự kiện 11/9 và những thay

đổi lớn trong các ưu tiên an ninh quốc gia của Hoa Kỳ như một cơ hội thiết lập

những mối quan hệ vững chắc hơn. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đã

đưa ra những tín hiệu rõ ràng bày tỏ việc không muốn trở thành đối tượng trong

68

chiến lược của Mỹ. Kể từ đó, nước này bắt đầu nỗ lực hơn nữa mở rộng hợp tác

song phương trên một vài lĩnh vực chính. Các nhà hoạch định chính sách và các

nhà phân tích Trung Quốc thường xuyên nhấn mạnh hợp tác có hiệu quả cao giữa

hai nước Trung – Mỹ trên mặt trận chống khủng bố và phổ biến vũ khí hạt nhân

toàn cầu, bất kể ở phạm vi hay nội dung hợp tác an ninh nào. Họ nhấn mạnh sự

hợp tác này như một nền tảng mới cho sự ổn định trong quan hệ song phương giữa

hai nước.

Do những lợi ích khu vực và toàn cầu đa dạng, thực tế Trung Quốc đã tăng

cường hơn hợp tác với Mỹ trong các vấn đề an ninh phi truyền thống. Những

chương trình nghị sự giữa hai nước về vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân cũng được

tiến hành thường xuyên trong thập kỷ trước, đồng thời cũng mở rộng thêm nhiều

lĩnh vực hợp tác mới như chống dịch bệnh, ma túy, nạn buôn người và chống kiểu

tội phạm có tổ chức. Theo những đánh giá của chính phủ Mỹ, Trung Quốc đã tỏ ra

rất đắc lực trong nhiều vấn đề toàn cầu, bao gồm cả vấn đề hạt nhân của Bắc Triều

Tiên và Iran; tái thiết kinh tế chính trị ở Iraq và Afghanistan; tham gia vào chiến

dịch gìn giữ hòa bình của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ở các nước như Li

Băng, Mianma và Xu đăng, chủ động hỗ trợ những chương trình về an ninh năng

lượng và sức khỏe toàn cầu. Tuy nhiên, Mỹ vẫn mong đợi rất nhiều điều khác từ

Trung Quốc.

Cũng có một khía cạnh đối đầu trong chính sách Hoa Kỳ của Trung Quốc:

chống lại những nỗ lực hạn chế khả năng và ảnh hưởng của Trung Quốc ra châu Á

và toàn cầu

Bắc Kinh vẫn nỗ lực tạo nên những hoàn cảnh mà chính sách Hoa Kỳ không

thể chặn đứng hay cản trở những mục tiêu chính sách đối ngoại cao nhất của Trung

Quốc trong tương lai gần và mục đích cuối cùng là trở lại thời kỳ hoàng kim khi

còn là một cường quốc. Trung Quốc cũng muốn tham gia vào quyết định những

vấn đề chính có ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế chính trị của nước này. Một mặt,

69

điều này rõ ràng đòi hỏi (chủ yếu ở châu Á) những cách thức nhằm kiềm chế Mỹ

và để hạn chế sự tự do hành động của Mỹ trong khu vực, đặc biệt với những nỗ lực

của Mỹ nhằm đảm bảo hỗ trợ khu vực trong khi theo đuổi xung đột vũ trang ở Đài

Loan. Trung Quốc cố gắng tạo dựng một môi trường khu vực có tính nhạy cảm cao

với những lợi ích và tham vọng của nước này. Mặt khác, Trung Quốc cũng cố gắng

để đạt được mục đích nói trên bằng cách đối đầu với Mỹ một cách không quá trơ

tráo và công khai. Theo cách thể hiện của những nỗ lực của Trung Quốc nhằm cân

bằng các mục tiêu đối kháng, các nhà chiến lược nước này tranh cãi rằng Trung

Quốc có thể đạt đến vị trí bá chủ nhưng sẽ không hành động kiểu bá chủ. Sự phân

biệt rõ này cho phép các nhà hoạch định chính sách và các nhà phân tích nước này

có thể cân bằng sự cần thiết của việc ổn định quan hệ Trung – Mỹ với những lo

lắng về ưu thế vượt trội của Mỹ và việc Washington hoàn toàn đơn phương sử

dụng sức mạnh này, điều mà rất nhiều người Trung Quốc lo sợ có thể sẽ ảnh hưởng

trực tiếp đến Trung Quốc trong tương lai.

Trung Quốc đã cố gắng thực hiện những mục tiêu kép này bằng những nỗ

lực ở nhiều cấp độ, cả khu vực và toàn cầu, nhằm làm giảm khả năng Hoa Kỳ gây

áp lực lên nước này, đồng thời tạo ra không gian và ảnh hưởng rộng hơn cho Trung

Quốc. Vào cuối thập niên 1990, trong nỗ lực nhằm thiếp lập lại vấn đề an ninh khu

vực, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã lôi kéo được nhiều nước Đông Á khác dứt

bỏ quan hệ đồng minh và hợp tác an ninh với Hoa Kỳ. Nỗ lực này đã phản ánh một

phần "khái niệm an ninh mới" mà Trung Quốc tuyên bố. Khái niệm này được đưa

ra lần đầu vào năm 1997, đề xuất một tầm nhìn thay thế cho hệ thống an ninh ở

châu Á dựa vào quan hệ đồng minh với Mỹ theo kiểu "trục và nan hoa". Tuy nhiên,

nỗ lực này vẫn không thực sự suôn sẻ bởi một vài đồng minh và đối tác an ninh

của Mỹ dù đã chấp nhận những đề nghị từ phía Trung Quốc, vẫn ưu tiên sự đáng

tin cậy của những thỏa thuận an ninh với Hoa Kỳ hơn. Nhiều hoạt động gần đây

của Trung Quốc nhằm đảm bảo an ninh ngoại biên đã được đưa ra trong ngoại giao

70

khu vực này của châu Á; hầu hết các hoạt động của Trung Quốc ở Đông Á đều tập

trung vào việc trấn an các nước trong khu vực, tăng cường vai trò của nước này

trong các tổ chức khu vực và hỗ trợ cho vị thế của Trung Quốc so với Đài Loan.

Những nỗ lực này nhằm thiết lập một môi trường an ninh khu vực trong đó, Trung

Quốc được đảm bảo vị thế đứng đầu và các quốc gia khác quan tâm nhiều hơn đến

các quan điểm của nước này.

Ở ngoài phạm vi châu Á, những nỗ lực của Trung Quốc nhằm kìm chế sức

mạnh của Hoa Kỳ được thể hiện trong những kêu gọi "dân chủ trong quan hệ quốc

tế" của nước này, cụm từ có thể xem là đối chọi với ưu thế vượt trội hiển nhiên của

Mỹ. Từ giữa thập kỷ 90, Trung Quốc đã cố gắng mở rộng quan hệ với Nga như

một đối trọng mới với sức mạnh Hoa Kỳ và nhằm kiềm chế Mỹ trong những hội

nghị toàn cầu như Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Nỗ lực này cũng được thể hiện một phần bởi vị thế đối nghịch của Trung

Quốc trong các vấn đề mở rộng NATO, tăng cường quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật,

những hoạt động quân sự của NATO tại Kosovo và những chính sách về phòng thủ

tên lửa của Mỹ.

Cuối cùng, Trung Quốc dường như đang nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào Hoa

Kỳ về cả kinh tế và chính trị. Đây là một xu hướng dài hạn.

Nhờ việc tăng cường các hoạt động có tính toàn cầu và ảnh hưởng của mình

lên các tổ chức đa phương, sự giàu có, an ninh và vị thế của Trung Quốc ngày càng

nâng cao.

Việc giảm sự phụ thuộc về cả kinh tế và chính trị vào Hoa Kỳ được thể hiện

trong sự thắt chặt quan hệ của Trung Quốc với Nga và Liên minh Châu Âu trong

thập kỷ qua; sự phát triển quan hệ của Bắc Kinh với các nước Châu Phi, Mỹ La

tinh và Trung Đông; và cả những hoạt động của nước này trong khuôn khổ Liên

Hợp Quốc.

71

Tuy nhiên, hậu quả của xu hướng này là sự ảnh hưởng của nó làm giảm khả

năng duy trì liên tục quan hệ song phương ổn định với Hoa Kỳ mà Trung Quốc

theo đuổi trong mục tiêu đối ngoại. Bởi vậy, Trung Quốc có thể sẽ sẵn sàng hơn để

thử thách và chống lại áp lực của Hoa Kỳ nhằm thay đổi cách cư xử của nước này

trong các vấn đề còn tranh cãi.

NHẬT BẢN

Trong quan hệ với các nước lớn, có thể nói mối quan hệ giữa Trung Quốc và

Nhật Bản có nhiều điều chỉnh sâu sắc nhất. Về phía Trung Quốc, mối quan hệ

Trung Quốc – Nhật Bản chuyển từ mối quan hệ ràng buộc ổn định, hữu nghị và

hợp tác phát triển kinh tế của những năm 1980 và 1990, sang mối quan hệ mang

tính chất tương tác kinh tế lớn hơn, tăng cường tình trạng đối đầu, tình hình bất ổn

chung và cạnh tranh quyền lực khu vực. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ này, chính sách

của Trung Quốc với Nhật Bản cũng như chính sách của Nhật Bản với Trung Quốc

đã bắt đầu tập trung xây dựng mối quan hệ song phương ổn định hơn. Ở Trung

Quốc, chính sách tân tiến này vấp phải sự phản đối gay gắt bởi quan điểm về mối

quan hệ đi xuống mạnh mẽ giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nỗi lo sợ về những

người theo trường phái chống Nhật trong cộng đồng Trung Hoa, và mối lo ngại

tương tự về những người bài Trung Quốc ở Nhật Bản.

Lịch sử cho thấy rằng, trong chính sách Nhật bản của Trung Quốc phần lớn

có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, và chính sự liên kết chặt chẽ này tạo nên mối

quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản hàng thập kỷ qua. Trong suốt những năm 50, 60,

70, Nhật Bản chưa từng tuyệt giao thương mại với Trung Quốc cho dù hai bên

không thiết lập quan hệ ngoại giao cho tới tận năm 1972. Khi Trung Quốc bước

vào thời kỳ cải tổ, Nhật Bản trở thành đối tác thương mại quan trọng, nguồn đầu tư

trực tiếp, và có lẽ quan trọng nhất là viện trợ phát triển nước ngoài với hình thức

trợ cấp thường xuyên và cho vay viện trợ. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng là

nguồn cung cấp thiết bị nhà máy, chuyên gia và công nghệ quan trọng trong những

72

ngành trọng tâm trong sự nghiệp hiện đại hóa công nghiệp của Trung Quốc như

sản xuất điện thoại, đóng tàu và điện dân dụng.

Những năm 80 và 90, khi lòng thù hận của người dân Trung Quốc đối với

lịch sử Hoàng đế Nhật Bản và chủ nghĩa quốc gia chống Nhật lắng xuống, không

còn là nhân tố chính cản trở mối quan hệ song phương giữa hai nước, các nhà lãnh

đạo Trung Quốc tìm cách hạn chế quan điểm này. Mặc dù Trung Quốc và các hãng

truyền thông tỏ ra hồ nghi mục đích của Nhật Bản cũng như lo ngại sâu sắc Nhật

Bản sẽ tái vũ trang quân sự, nhưng trong mối quan hệ song phương giữa hai nước

hầu như không có sự cạnh tranh về an ninh. Trong hai thập niên đầu tiến trình cải

tổ của Trung Quốc, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều hạn chế mục tiêu quốc tế, tập

trung mạnh mẽ thúc đẩy sự ổn định và phát triển kinh tế khu vực. Tranh chấp lãnh

thổ và vấn đề lịch sử kéo dài từ trước đến nay đã được giải quyết trong khuôn khổ

lợi ích hai nước và hợp tác kinh tế trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi.

Cuối những năm 90, mối quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản bắt đầu trở nên

ngày một căng thẳng, cạnh tranh và bất ổn định. Cả hai quốc gia đều bắt đầu đặt ra

những lợi ích bên ngoài rộng lớn hơn cùng với hiện đại hóa quân đội. Điều này

làm thay đổi quan niệm về mối đe dọa Bắc Kinh và Tokyo. Các nhà lãnh đạo

Trung Quốc bắt đầu nói về sự nổi lên của Trung Quốc ở Châu Á, Trung Quốc ngày

càng trở nên năng động hơn trong các vấn đề an ninh khu vực. Chính sách đối

ngoại của Trung Quốc cũng bắt đầu ngờ vực những giá trị hạn chế trong liên minh

Mỹ – Nhật vì quân đội Nhật Bản sẽ tham gia vào quân đội Mỹ – dẫn đầu hợp tác

quân sự toàn cầu và phát triển khả năng phòng thủ cùng Mỹ. Các nhà lãnh đạo

Nhật Bản cũng tìm kiếm cho mình vai trò quan trọng hơn trong các vấn đề an ninh

khu vực và toàn cầu, với sự hỗ trợ khuyến khích nắm lấy trọng trách lớn hơn của

Mỹ. Với kinh tế và thương mại lớn mạnh, Trung Quốc cũng tìm kiếm cho mình vai

trò lãnh đạo khu vực trong vấn đề kinh tế – một vai trò có sức bao phủ rộng lớn và

được Nhật Bản thúc đẩy một cách cẩn trọng. Xu hướng đối xứng này làm gia tăng

73

sự cạnh tranh trong vai trò lãnh đạo khu vực giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Kết

quả là hiện tại, chính sách Nhật Bản của Trung Quốc và ngoại giao khu vực rộng

rãi hơn đang là vấn đề được quan tâm của Trung Quốc trong việc duy trì vị trí

quyền lực của mình ở Đông Á liên quan tới Nhật Bản.

Sự linh hoạt trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Nhật Bản nhấn

mạnh vào sự cạnh tranh đang nổi lên này và xây dựng nên tính hay thay đổi của

nó. Những thay đổi nội tại về chính trị của cả hai quốc gia tạo ra không gian, cơ

hội cho những tiếng nói bài Trung Quốc ở Nhật Bản và bài Nhật Bản ở Trung

Quốc khẳng định lẫn nhau. Không giống như trước kia, những ý kiến công luận bắt

đầu đóng vai trò lớn hơn trong sự hoạch định chính sách của cả hai nước với nhau.

Tại Trung Quốc có nhiều tranh cãi về hướng đi của chính sách Nhật Bản ở Trung

Quốc, xung quanh tầm quan trọng của vấn đề lịch sử giữa hai nước. Vì bối cảnh

trong nước thay đổi, vấn đề tranh chấp lãnh thổ lịch sử và vấn đề lịch sử kéo dài đã

từng giữ vị trí trung tâm, nhấn mạnh cảm giác về cuộc chạy đua nổi lên về sự nổi

trội trong khu vực. Trong một vài trường hợp, sự năng động trong nước hạn chế

khả năng lãnh đạo chính trị tới mối quan hệ bình ổn giữa hai nước.

Ngược lại, trong suốt quá trình này, thương mại và đầu tư vẫn tiếp tục tăng

nhanh chóng. Giữa năm 1996 và 2006, thương mại Nhật Bản với Trung Quốc (bao

gồm cả Hồng Kông) tăng đột biến đến 239%, trong khi thương mại toàn cầu tổng

thể của Nhật chỉ tăng 45% (bao gồm cả thương mại với Trung Quốc). Thương mại

Nhật – Mỹ chỉ tăng 12% trong cùng giai đoạn. Năm 2006, kim ngạch thương mại

của Nhật – Trung chiếm 17% kim ngạch thương mại thế giới, bao gồm 14% xuất

khẩu và 21 % nhập khẩu. Điểm khác biệt với thương mại của Nhật Bản với Mỹ là

thương mại của Nhật Bản với Trung Quốc cân bằng và bổ sung cao. Xuất khẩu

tăng, thúc đẩy sự hồi phục tạm thời của kinh tế Nhật từ suy thoái thập kỉ vào giai

đoạn 2005 – 2008, đây không phải là một hậu quả được nhận thấy ở Bắc Kinh.

74

Xu hướng tưởng chừng như mâu thuẫn này có cảnh báo gì cho sự tiếp cận

của Trung Quốc với Nhật Bản và mối quan hệ giữa hai nước không? Trung Quốc

chuyển biến từ vị trí duy trì không điều kiện mối quan hệ tích cực với Nhật Bản

(để tích lũy kinh tế) đến vị trí một mà Bắc Kinh vẫn tiếp tục tìm kiếm thương mại

và duy trì đầu tư nhưng luôn sẵn sàng khẳng định mình khi vấn đề lịch sử và lãnh

thổ giữa hai nước có những bất đồng. Trung Quốc ít phụ thuộc về kinh tế với Nhật

Bản, tự tin hơn vào sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng khu vực của mình, thận trọng

hơn với mục tiêu của Nhật Bản. Trung Quốc mở chiến dịch ngăn cản nỗ lực của

Nhật Bản gia nhập Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Nhật Bản triển khai tàu hải

quân ở biển Đông Trung Hoa tuần tra quyền khai thác mỏ tài nguyên hydrocacbon

đang bị tranh chấp (như mỏ ga Chunxiao) và xúc tiến khoan dầu ở khu vực còn gây

nhiều tranh cãi này. Trong mối quan hệ song phương, Trung Quốc sẵn sàng khẳng

định mình và tăng cường vị trí của Nhật Bản trong lợi ích của mình.

Tuy nhiên vẫn có nhiều định hướng cho sự tiếp cận của Trung Quốc, mối

quan hệ của Trung Quốc đang thay đổi một cách từ từ nhưng mang lại những kết

quả quan trọng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra chiều hướng nguy cơ bất ổn

chính trị trong nước phát sinh đã giảm liên tục trong giai đoạn từ năm 2001 đến

năm 2005, áp đặt chi phí kinh tế và ngoại giao sắc bén. Kết quả là, từ năm 2006

các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã có những nỗ lực chính nhằm ổn định mối quan hệ

song phương này, cả Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đều đã tới thăm Nhật Bản và

tiếp đón chuyến viếng thăm đáp trả của Thủ tướng Fukuda, Abe và Aso. Ôn Gia

Bảo gửi bài diễn văn tới Nghị viện Nhật Bản vào tháng 5 năm 2007, bài diễn văn

nêu bật được những thành tựu của Nhật về chính trị và kinh tế từ sau Thế chiến thứ

2 và được công bố công khai trên cả hai nước. Bài diễn văn bày tỏ mong muốn của

Bắc Kinh muốn đẩy lùi những vấn đề lịch sử quá khứ. Cụ thể hơn, mặc dù đã có

tuyên bố hoàn chỉnh về vấn đề khí ga gần khu vực gây nhiều tranh cãi ở biển Đông

Trung Hoa, Trung Quốc vẫn cố gắng tiếp nhận toàn bộ các nhà sản xuất thay vì

75

đàm phán một khuôn khổ có định hướng giải quyết vấn đề tranh chấp. Các nhà

lãnh đạo Trung Quốc có thể sẽ bị chủ nghĩa quốc gia bài Nhật Bản lên án hơn

trước.

Một điều chưa phải là kết luận đã được dự báo trước là mối quan hệ giữa hai

nước thậm chí sẽ trở nên cạnh tranh và chuyển sang giai đoạn kình địch ngay lập

tức. Mở rộng mối quan hệ kinh tế song phương, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập

kinh tế ở Đông Á là lợi ích chung cơ bản của cả Bắc Kinh và Tokyo, kèm theo là

những lý do và động lực duy trì ổn định trong quan hệ hai nước. Quan trọng là Bắc

Kinh đã hạn chế những hành vi gây rắc rối có chủ đích của những phần tử phiến

động bài Nhật Bản (ví dụ nhóm khẳng định chủ quyền trong vấn đề đảo Diaoyu).

Bắc Kinh nhanh chóng bắt giữ những người đứng đầu đình công không chính thức

trong nhà máy Nhật Bản vào tháng 4 năm 2005 – những phần tử bài Nhật Bản gây

nhiễu loạn. Thêm nữa, Trung Quốc đẩy nhanh Hiệp ước Đầu tư ba bên với Nhật

Bản và Hàn Quốc – Hiệp ước Phát triển đầu tư khí hậu, bảo vệ cho các doanh

nghiệp của các nước này tại Trung Quốc. Trung Quốc cũng kí kết ủng hộ các cuộc

đối thoại ngoại giao ba bên giữa Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản vào năm 2007.

Giữa năm 2009, lãnh đạo hai bên đã cố gắng theo sát khuôn khổ ràng buộc

chính trị song phương nhằm duy trì sự ổn định trong sự cạnh tranh và lo sợ ngày

càng gia tăng ở cả hai nước. Cả hai bên vẫn đối mặt với những thách thức thực sự

như: tình trạng thù địch giữa hai quốc gia với phạm vi rộng vẫn lớn, các vấn đề

tranh chấp lãnh thổ phức tạp chưa được giải quyết đang tiến gần tới giải pháp, gắn

bó chặt chẽ tới sự cạnh tranh chung về khu vực, sự linh hoạt chính trị trong nước

làm xấu đi mối quan hệ cuối những năm 1990 đầu năm 2000 sẽ lại nổi lên dưới

chính quyền mới. Vì thế liệu rằng Bắc Kinh và Tokyo có thành công trong thiết lập

lại mối quan hệ ổn định lâu dài trong thời gian dài hay không tùy thuộc vào các

nhà lãnh đạo hai bên có tiếp tục nỗ lực ưu tiên hàng đầu và sẵn sàng mở rộng trọng

tâm chính trị cần thiết khi đối đầu với sự bùng nổ trong căng thẳng hay không.

76

LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)

Quan hệ giữa Trung Quốc với Liên minh Châu Âu và các nước thành viên

đã phát triển bền vững từ giữa thập kỉ 80 của thế kỉ trước. EU là thị trường lớn của

hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc cũng như là nguồn đầu tư, thiết bị sản xuất và

công nghệ hiện đại của nước này (bao gồm cả tiềm năng hiện đại hóa ngành quân

sự). Sau khi kết nạp thêm một số thành viên mới, năm 2004, EU đã trở thành đối

tác thương mại hàng đầu của Trung Quốc. Các quốc gia Châu Âu tiếp tục là nguồn

viện trợ phát triển quan trọng cho quốc gia này. Nhiều nhà lãnh đạo các nước Châu

Âu ủng hộ, hoặc ít nhất là tỏ ra ủng hộ, quan điểm của Trung Quốc về một trật tự

quốc tế đa cực nhưng mỗi quốc gia có lý do riêng cho sự ủng hộ này. Dù đạt được

những kết quả khác nhau nhưng trong suốt thập kỷ qua, Trung Quốc vẫn luôn tìm

kiếm nhiều hơn nữa trong mối quan hệ với với EU và các quốc gia thành viên.

Quan hệ Trung Quốc – EU đã trở nên ngày càng phức tạp và xuất hiện nhiều

bất đồng khi hai bên đều phát triển, đặc biệt là sự kỳ vọng vào nhau ngày càng

lớn. Sự tương tác về kinh tế đã đặt nền móng cho mối quan hệ hữu nghị và bền

vững giữa hai bên trong quá khứ, nay bị ảnh hưởng xấu do sự gia tăng mạnh và đa

dạng của những bất đồng liên quan đến thị trường, thâm hụt tài chính tăng nhanh

và chính sách kiểm soát tỷ giá hối đoái đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc. Các nhà

lãnh đạo EU đặc biệt chú ý tới những vấn đề trên do sức ép phát triển kinh tế từ

phía những người lao động. Các chính sách liên quan đến quyền con người của

Trung Quốc (như đối với vấn đề Tây Tạng) cũng như các thủ đoạn ngọai giao (như

viện trợ cho Châu Phi) trở thành vấn đề đáng chú ý nhất trong những cuộc tranh

luận công khai. Được ủng hộ bởi những quan điểm chính trị nội khối, các nhà lãnh

đạo EU hiện nay sẵn sàng hơn để đương đầu với Trung Quốc trong những vấn đề

trên và cả những bất đồng khác. Đối với cả Trung Quốc và EU, mối quan hệ với

Hoa Kỳ luôn hiện hữu rất lớn trong mối quan hệ giữa họ và thường xuyên làm

77

hỏng những nỗ lực của Trung Quốc trong việc gây ảnh hưởng đối với việc hoạch

định chính sách của EU.

Ba giai đoạn phát triển: Bắt đầu từ sự thiết lập quan hệ giữa Trung Quốc

và EU (Ủy ban Châu Âu – tiền thân của EU) năm 1975, mối quan hệ giữaTrung

Quốc và EU đã phát triển qua ba giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều thể hiện các mục

tiêu, chính sách và những kết quả liên quan.

Trong suốt giai đoạn đầu tiên từ 1975 đến 1995, quan hệ Trung Quốc – EU

không những không phát triển tốt mà còn không được cả hai bên ưu tiên. Châu Âu

xếp Trung Quốc vào mối ưu tiên thứ hai hoặc thậm chí thứ ba và ít quan tâm đến

quốc gia này. Các lợi ích chung phát triển sau những thay đổi về chính sách và dẫn

tới các hoạt động thương mại trao đổi buôn bán mà rực rỡ nhất vào những năm

1980. Trung Quốc tập trung tiếp cận với những nguồn viện trợ phát triển của Châu

Âu, đầu tư kinh tế và chuyển giao công nghệ. Nhiều nhà hoạch định chính sách

Châu Âu theo đuổi mục đích nuôi dưỡng kinh tế Trung Quốc trở thành một thị

trường mới cho Châu Âu; họ cũng tin rằng sự phát triển sẽ dẫn tới cải tổ chính trị

và Trung Quốc sẽ hài lòng với những lợi ích đó. Với Trung Quốc, các quốc gia

Châu Âu là nguồn đầu tư quan trọng cùng với các thiết bị công nghệ cần thiết để

xây dựng hoặc phục hồi ngành công nghiệp trọng điểm như ngành sản xuất ô tô (ví

dụ như từ Volkswagen) , công nghiệp nặng và nhẹ (từ Siemens). Về phương diện

thương mại, các quốc gia Châu Âu mở rộng các cơ hội thương mại và đầu tư cũng

như khuyến khích Trung Quốc gia nhập WTO. Eu đã ban hành báo cáo chiến

lược đầu tiên với Trung Quốc năm 1995, 20 năm sau khi thiết lập quan hệ chính

thức. (Một số quốc gia thành viên chính của EU đã có quan hệ ngoại giao với

Trung Quốc từ những năm 1950).

Giai đoạn thứ hai từ năm 1995 đến 2005 đã đánh dấu sự phát triển liên tục

và hiệu quả trong quan hệ Trung Quốc – EU. Trong giai đoạn 10 năm, thương mại

hàng hóa phát triển nhanh chóng, đặc biệt là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO

78

năm 2001. Ủy ban Châu Âu đã ban hành bốn thông báo (vào năm 1995, 1998,

2000 và 2006) và hai báo cáo chiến lược (vào năm 2002 và 2007) trong quan hệ

với Trung Quốc. Viện trợ phát triển của Ủy ban Châu Âu cùng với viện trợ của các

nước thành viên chiếm tới hàng tỉ euro viện trợ của Trung Quốc. Ủy viên Chính trị

của Ủy ban Châu Âu ( cơ quan cao nhất chuyên trách các vấn đề chính trị của Liên

minh Châu Âu) đã chú trọng vào những vấn đề liên quan đến Trung Quốc như:

chậm phát triển, nhân quyền, chính sách năng lượng và thay đổi khí hậu. Số ủy

viên của Ủy ban tăng lên để kết thúc 27 “cuộc đối thoại khu vực” và kết quả là sự

tương tác của Ủy ban và các quốc gia thành viên ủng hộ Trung Quốc theo đó mà

tăng lên.

Trung Quốc đã có những nỗ lực đặc biệt vào đầu những năm 2000 để mở

rộng quan hệ với EU. Họ đã thấy khả năng có thể xảy ra tình trạng căng thẳng

xuyên Đại Tây Dương ( đặc biệt là sau chiến tranh Iraq năm 2001) và mục đích để

lợi dụng lỗ hổng rõ ràng này. Năm 2003, một số sự kiện khác thường đã diễn ra.

Trung Quốc ban hành chính sách đầu tiên về quan hệ với EU: bổ nhiệm bộ trưởng

chuyên trách về quan hệ với EU; Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã tổ hội nghị hàng

năm lần đầu tiên giữa Trung Quốc và EU. Tại hội nghị Trung Quốc và EU đã thiết

lập “ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” và Trung Quốc đã bắt đầu thúc đẩy EU

gỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại quân sự với Trung Quốc từ năm 1989.

Giai đoạn thứ ba, giai đoạn xấu đi giữa EU và Trung Quốc bắt đầu từ năm

2005 đến nay và kéo dài cho đến nay. Nó đánh dấu bởi sự kết thúc của giai đoạn

quan hệ tốt đẹp ngay trước đó và sự trở lại của một số bất đồng về các vấn đề ngoại

giao và kinh tế chưa được giải quyết. Năm 2005, hiệp định Multi-Fiber hết hạn và

EU lại đưa ra hạn ngạch nhập khẩu cho hàng dệt may của Trung Quốc để ngăn

chặn dòng chảy mạnh của nghành hàng này vào EU. Cách giải quyết của vấn đề

căng thẳng này đòi hỏi đàm phán thương mại đối đầu liên tục giữa hai bên EU và

Trung Quốc. Cũng trong năm 2005, nỗ lực của Trung Quốc trong việc thúc đẩy EU

79

gỡ bỏ cấm vận quân sự trở nên vô cùng mạnh mẽ nhưng cuối cùng cũng bị thất bại.

Dựa vào sự ủng hộ của Pháp và Đức, Trung Quốc gặp phải sự chống đối mạnh mẽ

từ Hoa Kì, một số nước ở Scandinavi và Đông Âu thậm chí cả Vương quốc Anh.

Những căng thẳng này đã chuẩn bị cho một loạt những bất đồng về chính

sách kinh tế tiếp theo về việc thâm nhập thị trường, đồng tiền giá trị thấp của

Trung Quốc, thâm hụt thương mại ngày càng tăng và tiêu chuẩn an toàn thấp của

các mặt hàng thức ăn Trung Quốc. Chính trị gia Đảng Lao động Anh Peter

Mandelson đã thành Cao ủy viên chuyên trách vấn đề thương mại của EU vào năm

2005 và đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra một phương pháp quyết đoán hơn

trong đàm phán với Trung Quốc. Ví dụ như, trong suốt hội nghị Trung Quốc – EU

tháng 11 năm 2007, ông và những ủy viên khác đã sử dụng những lời lẽ mạnh mẽ

và đối đầu công khai với Trung Quốc về rất nhiều vấn đề trong quan hệ kinh tế

EU- Trung Quốc. Thông cáo hội nghị năm 2007 được ban hành bốn ngày sau khi

kết thúc hội nghị đã chỉ trích Trung Quốc trong các vấn đề như là ở Tây Tạng cũng

như chỉ ra hơn nữa những khó khăn xung quanh việc đàm phán. Vào cuối năm

2008, Trung Quốc đã lợi dụng cuộc họp mặt song phương giữa cựu Bộ trưởng Liên

minh châu Âu Nicholas Sarkozy với Dalai Latma để trì hoãn hội nghị hàng năm

giữa EU và Trung Quốc. Các sự kiện liên tiếp đã buộc các nhà hoạch định chính

sách Bắc Kinh và Brussels phải nhận ra những hạn chế trong quan hệ và sự nguy

hiểm của những kì vọng của Trung Quốc trong việc sử dụng EU để đối chọi với

Hoa Kì. Kết quả là Trung Quốc đã thay đổi chiến lược đối với châu Âu, bắt đầu tập

trung vào mối quan hệ song phương với từng quốc gia thành viên hơn là với EU.

Điều này cho phép Trung Quốc quay trở lại chính sách “chia để trị”, lợi dụng sự

khác biệt giữa các quốc gia để làm lợi cho chương trình hành động và các lợi ích

của Trung Quốc.

Giải thích động cơ của Trung Quốc:

80

Khá nhiều lí do giải thích sự phát triển này của Trung Quốc trong mối quan

hệ Trung Quốc – EU và cách thức tiếp cận với Châu Âu. Kinh tế đã dẫn dắt mối

quan hệ này và điều khiển, thúc đẩy nó. Quan hệ này sẽ tiếp tục phát triển như vậy

ngay cả giữa những mối bất đồng ngày càng lớn. Giống như Hòa Kì, Châu Âu trở

thành thị trường ngày càng lớn và quan trọng của hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc.

Châu Âu với 27 thành viên là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Năm

2007, đối tác thương mại EU quan trọng nhất của Trung Quốc lần lượt là Đức, Hà

Lan, Anh, Pháp và Ý. Là một khối, các quốc gia Châu Âu cung cấp cho Trung

Quốc một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn là Hoa Kỳ. Những nguồn

viện trợ FDI từ Châu Âu cao nhất của Trung Quốc lần lượt là Đức, Hà Lan, Anh,

Pháp và Ý. Các quốc gia Châu Âu duy trì nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng

cho Trung Quốc. Ví dụ Đức là nhà cung cấp máy móc thiết bị lớn nhất cho Trung

Quốc, theo sau là Nhật Bản. Nhưng vẫn còn một số hạn chế trong quan hệ hợp tác

kinh tế này. Ví dụ, Trung Quốc đã cố gắng nhưg hoàn toàn thất bại trong việc thúc

đẩy EU công nhận “tình trạng kinh tế thị trường” ở Trung Quốc theo các nguyên

tắc của WTO. Trung Quốc tìm kiếm điều này bởi nó cho phép hàng hóa Trung

Quốc dễ dàng đi vào thị trường Châu Âu bằng các đạo luật chống bán phá giá và

đền bù. Châu Âu có công nhận tình trạng này ở Trung Quốc hay không và như thế

nào (trước hạn định trên lí thuyết của hiệp định Trung Quốc gia nhập WTO) sẽ là

yếu tố chủ chốt dẫn đầu mối quan hệ này.

Thành phần chắc chắn của sự tương tác kinh tế giữa EU và Trung Quốc là

nguồn viện trợ của EU để giúp Trung Quốc giải quyết những thách thức trong quá

trình phát triển. EU và các quốc gia thành viên đã cung cấp cho chính phủ cũng

như các tổ chức phi chính phủ của Trung Quốc nguồn viện trợ về công nghệ và tài

chính lớn. Trong nhiều năm, chương trình viện trợ của EU đã tập trung vào phát

triển cơ sở hạ tầng và nông thôn Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 2002, chương trình

viện trợ chuyển tập trung vào cải cách kinh tế xã hội, phát triển môi trường, quản

81

trị công và hệ thống pháp luật. Trong Báo cáo chiến lược về Trung Quốc của EU

trước đó, từ 2000 đến 2006, Ủy ban Châu Âu sẽ cung cấp viện trợ 250 triệu Euro;

và trong Báo cáo chiến lược về Trung Quốc gần đây, EU viện trợ 225 triệu Euro

cho Trung Quốc trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 7 năm.

Quan điểm của Trung Quốc về địa vị chính trị thế giới của các nước Châu

Âu đã mở rộng đáng kể từ những năm 1980 và nó thay đổi kỳ vọng của Trung

Quốc trong hợp tác ngoại giao với EU. Trung Quốc hầu như không nhắc đến quá

khứ thực dân và đế quốc của Anh, Pháp và Đức trên các phương tiện thông tin

cũng như các phân tích và nghiên cứu học thuật. Mặc dù Trung Quốc vẫn duy trì

sự nghi ngờ về NATO (đặc biệt là sự mở rộng của tổ chức này) nhưng trong thời kì

Hoa Kỳ lãnh đạo NATO thì những điều này đã che đậy sự nghi ngờ của Trung

Quốc trong cùng bối cảnh khi mà quốc gia này bất đồng, phản đối xu hướng đơn

cực hoặc bá chủ của Mỹ.

Kết quả là với Trung Quốc, các quốc gia Châu Âu là một sự hấp dẫn đặc biệt

vì họ không thể hiện sự ngờ vực hoặc sợ hãi trước mục đích của Trung Quốc như

là đối với Hoa Kỳ. Trong khi các nhà phân tích Trung Quốc tin rằng Hoa Kỳ muốn

kìm hãm sự phát triển của Trung Quốc thì các nhà hoạch định chính sách Châu Âu

lại muốn khuyến khích và thúc đẩy Trung Quốc phát triển bền vững. Theo quan

điểm của Trung Quốc, các quốc gia Châu Âu cũng không tán thành chương trình

đẩy mạnh dân chủ mạnh mẽ hay mở rộng lợi ích an ninh ở Châu Á, chính những

điều đó đã tạo nên sự nghi ngờ sâu sắc trong mối quan hệ Mỹ và Trung Quốc. Một

số thành viên EU nhận thức thật rõ ràng về tình trạng nhận quyền ở Trung Quốc và

vấn đề Tây Tạng nhưng đó chỉ là những khó chịu nhất thời chứ không phải là rào

cản cố định trong việc thúc đẩy quan hệ.

Vì những lí do trên nhiều người Trung Quốc tin rằng mối quan hệ Trung

Quốc – EU xét về chiến lược ít cạnh tranh hơn mối quan hệ Trung – Mỹ. Quan hệ

với các nước Châu Âu tạo cho Bắc Kinh cơ hội tương đối tốt với phương Tây, bao

82

gồm cả Mỹ. Đối với Bắc Kinh, phát triển quan hệ thân thiết với Châu Âu là một

phần trong nỗ lực đa dạng hóa các nguồn phát triển kinh tế, an ninh và tính hợp

pháp quốc tế.

Số lượng và chất lượng của quan hệ ngoại giao Trung Quốc – EU đã phát

triển phù hợp từ cuối những năm 1990, phản ánh ưu tiên rõ ràng của Trung Quốc.

Theo một nghiên cứu của Mỹ về ngoại giao Trung Quốc, Châu Âu là khu vực được

các Chủ tịch nước và Thủ tướng Trung Quốc viếng thăm nhiều nhất từ năm 2000

đến năm 2005. Trong năm 2002 và 2004, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đã

giành thời gian đi thăm Châu Âu nhiều hơn tất cả các khu vực khác. Chủ tịch Hồ

Cẩm Đào đã có chuyến công du nước ngoài đầu tiên tới Anh sau khi trở thành chủ

tịch nước năm 2003; tới tận năm 2006 ông mới có chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ.

Trung Quốc và Liên minh Châu Âu đã tổ chức các hội nghị hàng năm nơi mà họ

cam kết về các vấn đề kinh tế, phát triển an ninh và quân sự song ít khi đi vào chi

tiết. Trung Quốc và các quốc gia Châu Âu cũng trao đổi qua lại trong khuôn khổ

những hội nghị cấp cao Châu Âu – Châu Á giữa những người đứng đầu nhà nước

được tổ chức hai năm một lần.

Nỗ lực không thành công của Trung Quốc trong việc thuyết phục EU bãi bỏ

lệnh cấm vận quân sự với nước này năm 1989 thể hiện những thiếu sót trong nhận

thức của Bắc Kinh về lợi ích của các quốc gia Châu Âu; và cũng dạy cho Bắc Kinh

bài học quan trọng về ranh giới của mối quan hệ này. Bắt đầu vào những năm

2003, các quan chức cao cấp của Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy các đối tác ở Châu

Âu cân nhắc về việc bãi bỏ lệnh cấm này trong trao đổi thương mại với Trung

Quốc về phòng thủ. Trung Quốc đã rõ ràng là rất nỗ lực trong việc đẩy mạnh căng

thẳng trong mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương sau chiến tranh Iraq. Dựa vào các

nhà lãnh đạo Pháp và (cụ thể là Jacques Chirac và Gerhard Schroeder), các nhà

hoạch định chính sách Trung Quốc biện luận rằng lệnh cấm vận đó là một “hàng

rào tượng trưng” trong quan hệ ngày càng phát triển giữa Trung Quốc – EU và chỉ

83

ra những yêu cầu của Trung Quốc trong mục tiêu vào năm 2003 – năm quan hệ

đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc – EU. Trung Quốc đã sử dụng mục tiêu

sau để thúc đẩy sự tiến bộ dựa trên mục tiêu trước đó và thường được coi là mục

đích hợp tác chiến lược của Trung Quốc. Sự phản đối mạnh mẽ của Hoa Kỳ trong

việc bãi bỏ lệnh cấm vận cùng với sự bất đồng giữa các nước thành viên rút cục đã

làm chệch hướng những nỗ lực của Trung Quốc vào nửa sau năm 2005. Sau viêc

Trung Quốc thông qua đạo luật chống li khai đầu năm 2005 (đạo luật đã hợp pháp

hóa việc Trung Quốc sử dụng quân sự chống lại Đài Loan, giữa các mục đích

khác), sự phản đối của EU chống lại việc bãi bỏ lệnh cấm vận thực sự phát triển và

duy trì đến tận bây giờ. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách Chấu Âu vẫn ám

chỉ việc bãi bỏ, cấm vận như là mục tiêu cuối cùng, các ý kiến phản đối tiếp tục tồn

tại giữa phần đông các quốc gia thành viên EU – cả cũ và mới.

Đối với Trung Quốc, việc thất bại của những nỗ lực trên đã ghi nhận một số

bài học: Mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương ngày càng sâu sắc và mở rộng ngay cả

trong suốt giai đoạn bất đồng mạnh mẽ; khả năng của Trung Quốc trong việc gây

ảnh hưởng ở Châu Âu vẫn còn bị hạn chế đặc biệt là trong vấn đề liên quan tới

quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Trung Quốc không thể chỉ dựa vào Đức và Pháp

trong khi Liên minh Châu Âu có tới 27 thành viên; Châu Âu và các quốc gia của

nó phải luôn đề phòng bị lôi kéo vào những nỗ lực chủ động, ngấm ngầm hoặc

công khai của Trung Quốc để kiềm chế Hoa Kỳ. Hoa Kỳ tiếp tục gây ảnh hưởng

mạnh mẽ với những nhà hoạch định chính sách Châu Âu trong các vấn đề liên

quan đến Trung Quốc.

Dễ dàng nhận thấy trong quan hệ của Trung Quốc với Ủy ban và Hội đồng

Châu Âu, Bắc Kinh có những nỗ lực thích hợp để mở rộng quan hệ với những

quốc gia thành viên chính. Nước này đã đạt được quan hệ đối tác chiến lược song

phương với một số quốc gia chính ở Châu Âu bao gồm Pháp, Đức, Ý, Bồ Đào

Nha, Tây Ban Nha và Anh. Trung Quốc cũng triệu tập “những cuộc đối thoại chiến

84

lược” và thảo luận về an ninh với Anh, Pháp, Ý, Đức và Ba Lan. Những cuộc thảo

luận này nhìn chung là tập trung vào một số vấn đề như kiểm soát và cắt giảm vũ

trang, đánh giá môi trường an ninh quốc tế, nhân quyền và các quy tắc pháp luật.

Năm 2007, Trung Quốc đã tổ chức cuộc đối thoại kinh tế cấp cao với Anh và EU,

theo mô hình đối thoại với Mỹ từ năm 2005, ngoại giao song phương với các quốc

gia Châu Âu đã trở thành điểm nổi bật trong chiến lược Châu Âu của quốc gia này

và nó được duy trì cho đến bây giờ. Trung Quốc nản chí trước những trao đổi bất

thành với EU ở Brussels và nhận ra rằng nên thúc đẩy hợp tác song phương, bao

gồm tất cả các quốc gia thành viên.

Sau khi cân nhăc kĩ, Bắc Kinh không coi EU hoặc các quốc gia riêng biệt là

một nhân tố quan trọng trong vấn đề toàn cầu hay an ninh Châu Á, ngoại trừ Anh

và Pháp do vị trí thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc của hai

quốc gia này. Bắc Kinh mong muốn các quốc gia Châu Âu đứng ngoài vấn đề Đài

Loan. Trung Quốc đã từng nổi giận với những dính líu của EU tại Đài Loan, như

trong suốt cuộc đàm phán bất đồng của thông cáo cuối cùng trong Hội nghị EU –

Trung Quốc năm 2007. Kết quả là mặc dù các cuộc đối thoại an ninh và phòng thủ

của Trung Quốc với các quốc gia Châu Âu ngày càng tăng về số lượng nhưng

không có nội dung cụ thể. Bắc Kinh coi những tác động này là một cách để định

hình nhận thức với EU cũng như tạo ra một lỗ hổng đối với chính sách và quan

điểm của Hoa Kỳ. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc tiếp tục tranh luận

về việc quan hệ hợp tác thực tế này sẽ có kết quả như thế nào. Về vấn đề Trung

Quốc nghĩ rằng các nước Châu Âu trở thành các nhà lãnh đạo thế giới, như là viện

trợ cho Châu Phi và các nước kém phát triển, Trung Quốc muốn Châu Âu chú ý và

coi trọng mình hơn nữa.

Thậm chí khi Trung Quốc có quan hệ ngoại giao với các nước EU chính, sự

phối hợp các chính sách riêng biệt vẫn bị hạn chế. Trong giai đoạn cầm quyền của

ông Chirac, Bắc Kinh có mối quan hệ ngoại giao thân thiết nhất với Pháp. Bắc

85

Kinh và Pari đều bất mãn với những nỗ lực của chính quyền sử dụng các hành

động đơn phương phá vỡ thể chế quốc tế. Thậm chí trong hoàn cảnh này, sự hợp

tác quan trọng này cũng rất mong manh. Pháp không sẵn sàng đối đầu với Mỹ như

Trung Quốc, ví dụ như với chính sách Iraq của Mỹ năm 2002 và 2003. Tổng thống

Pháp Nicholas Sarkozy và chính phủ của ông không tán thành quan hệ thân thiết và

hợp tác với Trung Quốc của ông Chirac. Một loạt những cuộc tranh luận song

phương về sự tham dự của ông Sarkozy trong lễ khai mạc Thế vận hội Olympic

Bắc Kinh năm 2008 và chính sách về Tây Tạng của Pháp đã thúc đẩy những chia

rẽ này vào năm 2008.

Một số quốc gia Châu Âu, đặc biệt là các nước Scandinavi, vẫn duy trì chỉ

trích vấn đề nhân quyền của Trung Quốc. Trong nhiều năm, các quốc gia Châu Âu

vẫn không sẵn sàng ủng hộ việc Mỹ chỉ trích những hàng động về nhân quyền của

Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc. Nhiều nước Châu Âu đàm phán song phương với

Trung Quốc về vấn đề nhân quyền nhưng một số nước vẫn sẵn sàng đối đầu với

Trung Quốc về những chính sách khác. Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi. Năm

2008, nhà lãnh đạo của Đức và Anh sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc trong chính

sách Tây Tạng bằng việc các nhà lãnh đạo quốc gia gặp gỡ với Dalai Lama dù đó

là những hoạt động không được sắp xếp trước. Đáng chú ý, Bắc Kinh mạnh mẽ chỉ

trích Thủ tướng Đức Angela Merkel và quan hệ hai nước bị xấu đi tạm thời trong

vòng một năm sau cuộc gặp của Merkel với Dalai Lama tháng 9 năm 2007. Vào

đầu năm 2008, một số nhà lãnh đạo Châu Âu – nổi bật nhất là ông Sarkozy của

Pháp – đã công khai đặt điều điều kiện sự có mặt của họ tại lễ khai mạc Olympic

Bắc Kinh năm 2008 với sự thay đổi chính sách của Trung Quốc với Tây Tạng.

Như đã nói ở trên, Trung Quốc đã hoãn Hội nghị Trung Quốc – EU tháng 12 năm

2008 ngay sau cuộc gặp của Sarkozy với Dalai Lama.

Mối quan hệ mật thiết trong lịch sử của Trung Quốc với các nước Đông Âu (

như Cộng hòa Séc, Anbani, Romania và Hungary) đã bị xấu đi đáng kể khi phần

86

lớn số họ có thân thiết hơn với Mỹ, gia nhập NATO và ủng hộ Mỹ trong những

vấn đề đối thoại an ninh như cấm vận quân sự Trung Quốc và chính sách phòng

thủ tên lửa của Mỹ. Đặc biệt nhất, năm 2006, Albani – quốc gia bạn bè lâu năm

trong suốt giai đoạn chiến tranh lạnh – đã công nhận một số nhóm người Duy Ngô

Nhĩ Hồi giáo Trung Quốc vừa thoát từ nhà tù khủng bố Guantanamo. Bắc Kinh đã

thất bại trong việc ép buộc Washington trao trả những người này để Trung Quốc

tiếp tục xét xử. Hầu hết các nước Đông Âu có mối quan hệ thương mại và kinh tế

tương đối nhỏ với Trung Quốc mặc dù hàng hóa tiêu dùng xuất khẩu của Trung

Quốc vào thị trường này tăng ngày càng nhanh.

Ngoại giao quân sự của Trung Quốc với các quốc gia Châu Âu mở rộng cả

về số lượng và chất lượng từ năm 2000. Động thái này phần nào được thúc đẩy bởi

sự đổi mới của PLA và nhu cầu tăng cao của PLA. Trao đổi về mặt quân sự với

Châu Âu có giá trị đặc biệt với PLA vì họ có triển vọng học tập học thuyết chủ

nghĩa, chương trình rèn luyện, chiến thuật, các thủ tục cũng như cơ chế hoạt động

của NATO. Những hoạt động này bao gồm cả các cuộc thảo luận về chính sách ở

cấp cao với trao đổi đào tạo và rèn luyện chuyên nghiệp. Một số quốc gia Châu Âu

như Pháp và Anh đã thực hiện những chương trình quân sự căn bản và theo

chương trình có sẵn với PLA, chủ yếu tập trung an ninh hàng hải (ví dụ như cứ hộ

và tìm kiếm trên biển). Vì Trung Quốc tiếp tục hiện dịa hóa công nghiệp quốc

phòng và nhu cầu của PLA về hệ thống vũ khí hiện đại ngày càng cao, ngành công

nghiệp quốc phòng Châu Âu tiếp tục giúp đỡ. Không quá lâu để tìm kiếm việc

buôn bán hệ thống vũ khí toàn diện, PLA và ngành quân sự Trung Quốc đã coi các

công ty của Châu Âu như nguồn tiềm năng của các công nghệ và hệ thống vũ khí

hiện đại phục vụ cho việc xây dựng hệ thống vũ khí thế hệ mới của Trung Quốc.

VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG

Ngoại giao với các nước láng giềng chiếm phần lớn các thời lượng các hoạt

động cũng như là yếu tố có nhiều đổi mới nhất trong hoạt động đối ngoại của

87

Trung Quốc. Quan hệ giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực đóng vai trò

cực kì quan trọng với cả 5 mục tiêu trong Chính Sách Đối Ngoại của nước này, đặc

biệt là mục tiêu hàng đầu là phát triển kinh tế. Nguồn gốc của chính sách đối ngoại

khu vực có từ đầu những năm 1990, ngay sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn

khiến cho Trung Quốc phải tìm cách khôi phục lại địa vị quốc tế. Từ thời điểm đó,

Trung Quốc đã dần mở rộng phạm vi và nội dung của chính sách đối ngoại khu

vực và từ đó đã phát triển quan hệ với phần lớn các quốc gia ở Đông, Nam và

Trung Á. Trung Quốc cũng đã cải thiện đáng kể chiều sâu của các mối quan hệ

giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực Châu Á. Tuy nhiên điều đó cũng

không có nghĩa rằng Trung Quốc đã hoàn toàn đạt được thành công trong việc phát

triển quan hệ với mọi quốc gia ở Châu Á hay nói một cách khác là nước này đã gạt

bỏ ý đồ ảnh hưởng về mặt chính trị lên những nước này. Những nghi ngờ về sự

phát triển kinh tế, quân sự của Trung Quốc và ý đồ vươn lên của nước này luôn

thường trực trong suy nghĩ của các nước láng giếng với Trung Quốc khiến quan hệ

giữa các nước láng giếng với Bắc Kinh luôn ở trong trạng thái dò xét.

ĐÔNG Á

Trong toàn bộ châu Á, khu vực Đông Á là trọng tâm trong việc mở rộng

quan hệ của Trung Quốc. Nguyên nhân là để thực hiện một loạt các mục tiêu: mở

rộng sự thâm nhập và đầu tư của Trung Quốc vào các thị trường khu vực, đảm bảo

các quốc gia trong khu vực hiểu rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không đe dọa họ

cả về mặt kinh tế lẫn quân sự, tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên và công nghệ phục

vụ cho sự phát triển kinh tế và ngăn cản các nỗ lực của Mĩ và đồng minh hạn chế

ảnh hưởng về mặt kinh tế, ngoại giao và quân sự của Trung Quốc. Chính sách

ngoại giao khu vực Đông Á của Trung Quốc đã giành được sự ưu tiên hàng đầu

trong chiến lược toàn cầu của nước này trong thập kỉ vừa qua.

Bắt đầu từ đầu những năm 1990, tiếp theo sự kiện Thiên An Môn, Trung

Quốc đã thúc đẩy một hệ thống các chiến lược và chính sách nhằm liên kết chặt

88

chẽ hơn với các nước ở Đông Á. Nỗ lực này đã liên tục được duy trì và mở rộng

trong suốt thập kỉ 90 của thế kỷ XX và tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay. Đầu tiên,

Trung Quốc lựa chọn chính sách “ngoại giao láng giềng thân thiện và hữu nghị”

nhằm tìm kiếm sự ủng hộ dành cho Trung Quốc trong thời điểm mà nước này

tương đối bị cô lập trên trường quốc tế. Để thực hiện chính sách này, vào đầu

những năm 1990, Trung Quốc đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao chính thức với

một loạt nước ở khu vực Đông Á (đặc biệt là ở Đông Nam Á) nhằm bắt đầu quá

trình phá vỡ thế bị cô lập một cách tương đối. Trung Quốc đã bắt đầu tham gia một

số tổ chức quốc tế như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương

(APEC). Từ năm 2000, ngoại giao khu vực đã có sự đổi mới và được nâng tầm với

việc thay đổi chiến lược thành “chiến lược ngoại giao khu vực mở rộng”. Tính toán

của Trung Quốc trong việc quan hệ với khu vực Đông Á trong những năm đầu thế

kỉ XXI có một cơ sở chính sách vững chắc và là chính sách duy nhất được thảo

luận và thông qua ở cấp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc. Báo cáo chính trị của

Đại hội Đảng lần 16 đưa ra phương châm 8 điểm cho chính sách ngoại giao khu

vực của Trung Quốc là: “thân thiện vói láng giềng, coi láng giềng là bạn”. Theo

Đại sứ Vương Nghị, một trong những chuyên gia Châu Á hàng đầu của Bộ Ngoại

giao Trung Quốc thì đây là lần đầu tiên hợp tác khu vực được đề cập trong bản báo

cáo cao nhất của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Nhằm thực hiện phương châm này,

theo Đại sứ Vương Nghị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau đó đã lựa chọn chính

sách cụ thể hơn là “hòa mục với láng giềng, đảm bảo an ninh cho láng giềng và

làm cho láng giềng giàu mạnh” nhằm đẩy mạnh hợp tác và phối hợp giữa Trung

Quốc và các nước láng giềng Châu Á. Biểu hiện cụ thể của các chính sách này

được liệt kê dưới đây: sự thay đổi của các phương châm chỉ đạo này sẽ chỉ ra định

hướng ngoại giao trong tương lai của Trung Quốc ở Đông Á.

Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước Đông Á đã tăng nhanh trong

10 năm qua và là lĩnh vực dẫn đầu trong việc hợp tác của Trung Quốc với các nước

89

khu vực. Năm 2008, trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất hiện và có

sự sụt giảm đáng kể của thương mại toàn cầu thì một nửa tổng thương mại của

Trung Quốc là thương mại khu vực (được thúc đẩy bởi 1 mạng lưới thương mại

khu vực) và tỉ lệ này tăng đều hàng năm. Thương mại Trung Quốc – ASEAN tăng

từ 6 tỉ năm 1991 lên 202,5 tỉ USD năm 2007. Thương mại của Trung Quốc với các

nước Đông Nam Á tăng nhanh hơn thương mại của Mĩ với các nước trong khu

vực. Nhiều chuyên gia dự đoán rằng Trung Quốc sẽ trở thành đối tác thương mại

hàng đầu của ASEAN. Năm 2004, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng

đầu của cả Nhật và Hàn Quốc. Năm 2007, nước này trở thành đối tác thương mại

số 1 của Australia, vượt trên cả Nhật Bản. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung

Quốc với các nước Đông Á đều tăng và ít gặp vấn đề rắc rối cũng như bền vững

hơn việc mất cân bằng cán cân thương mại với Mĩ và EU. Một trong những sáng

kiến mạnh mẽ nhất của Trung Quốc là việc khởi động Hiệp định Thương mại tự do

Trung Quốc – ASEAN dự định có hiệu lực vào năm 2010 và đến trước năm 2015

sẽ gỡ bỏ hoàn toàn các hàng rào thuế quan của các nước tham gia. Khi được thành

lập, một khu vực rộng lớn với 1,7 tỉ dân sẽ nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp

định này với GDP tổng cộng là 2 nghìn tỉ USD. Quá trình gỡ bỏ các hàng rào thuế

quan trong các nước tham gia hiệp định đã được bắt đầu từ cuối năm 2004 với việc

lựa chọn phương pháp “Gặt sớm”, nghĩa là kêu gọi giảm thuế quan trong một số

mặt hàng lương thực. Kim ngạch thương mại Trung Quốc – ASEAN được dự đoán

sẽ tăng lên 1,2 nghìn tỉ USD khi Hiệp định này có hiệu lực. Đây sẽ là thị trường

lớn thứ 3 thế giới sau Khu vực Tự do thương mại Bắc Mĩ và EU.

Bên cạnh thương mại, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc vào

khu vực ĐNÁ tăng trưởng đều đặn giống như tăng trưởng của đầu tư ra nước ngoài

của Trung Quốc trên toàn cầu. Theo số liệu của Trung Quốc, dòng vốn đầu tư của

Trung Quốc tăng từ 150 tỉ USD năm 2005 lên 970 tỉ USD năm 2007. Và tổng đầu

tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN tăng từ 1.2 tỉ USD lên 3.9 tỉ USD năm

90

2007. Đây là mức tăng trưởng rất ấn tượng nếu so sánh với FDI ra nước ngoài trên

phạm vi toàn cầu của Trung Quốc 10 năm trước. Năm 1996. Tổng đầu tư ra nước

ngoài của Trung Quốc là khoảng 300 triệu USD. Tuy nhiên, con số này là rất nhỏ

nếu so với đầu tư của Mĩ, Nhật và các nước thuộc EU. Năm 2006, đầu tư của

Trung Quốc vào ASEAN (theo số liệu của ASEAN) chỉ chiếm 1.8 % tổng mức đầu

tư của các nước vào khu vực này, trong khi Mĩ chiếm tới 7.4%, Nhật chiếm 20.6%

và các nước EU chiếm 25.5%.

Trung Quốc cũng mở rộng quan hệ tiểu khu vực với khu vực ĐNÁ lục địa.

Trung Quốc là thành viên tích cực của dự án phát triển Tiểu vùng sông Mekong

mở rộng (GMS). Dự án này nhằm thúc đẩy các hiệp định mới về quyền sử dụng

nguồn nước và các thỏa thuận về giao thông vận tải giữa các nước trong khu vực

này. Vấn đề sử dụng nguồn nước đã trở nên căng thẳng khi mà các tỉnh ở nam

Trung Quốc đã xem xét việc xây dựng các đập thủy điện trên các con sông mà hạ

lưu nằm ở ĐNÁ.

Kim ngạch thương mại tiểu ngạch và xuất nhập cư giữa Trung Quốc với Lào

và Myanmar có khối lượng rất lớn. Đặc biệt đáng kể là đầu tư của Trung Quốc vào

hệ thống hạ tầng giao thông ở những quốc gia này. Hệ thống giao thông đó giúp

Trung Quốc có khả năng tiếp cận thị trường ĐNÁ cũng như các cảng biển có giá

trị to lớn cả về mặt kinh tế lẫn chiến lược của khu. vực này.

Về các vấn đề an ninh và đối ngoại, Trung Quốc đã thực hiện một loạt bước

đi được tính toán kĩ nhằm liên kết toàn diện với các nước Đông Á với một tốc độ

ổn định và với cách thức mới. Đó là cách tiếp cận được phổ biến với tên gọi “tấn

công ngầm”. Trung Quốc đã thực hiện với 2 mục tiêu chính là: xoa dịu và chống

lại việc ngăn cản. Về cả phương diện song phương và đa phương, Trung Quốc đã

phát triển quan niệm về an ninh quốc gia không chi bao gồm an ninh quân sự

truyền thống mà bao gồm cả các vấn đề như ổn định kinh tế và phát triển quốc gia.

Những khái niệm được mở rộng này rất tương đồng với các nước ĐNÁ và giúp

91

Trung Quốc đảm bảo rằng, Trung Quốc chia sẻ quan điểm với các nước này về các

thách thức với an ninh quốc gia. Khái niệm này cũng khiến chính sách của Trung

Quốc đối lập với các mục tiêu của chính sách của Mĩ dưới thời tổng thống Bush là

chỉ tập trung vào chống khủng bố và đặt nặng mặt an ninh quân sự trong đảm bảo

an ninh quốc gia.

Việc Trung Quốc tham gia vào các cơ chế an ninh đa phương ở Đông Á là

biểu hiện của nhân tố nổi bật và lâu dài nhất của chính sách Đông Á và đã được

thay đổi so với những gì họ đã làm trong quá khứ. Vào đầu những năm 90, Trung

Quốc rất lo ngại những diễn đàn như vậy, cho rằng đó là những nơi để các nước sử

dụng nhằm chỉ trích và liên kết chống Trung Quốc. Hiện nay thì quan điểm của

Bắc Kinh là tham gia các diễn đàn này nhằm điều chỉnh các luật lệ quốc tế, phát

triển quan hệ với các nước láng giềng, xoa dịu những lo ngại về việc tăng cường

tiềm lực của Trung Quốc và hạn chế các nỗ lực của Mĩ nhằm hạn chế ảnh hưởng

của Trung Quốc.

Trung Quốc đã tham gia vào tất cả các tổ chức khu vực chính ở Đông Á

như Diễn đàn khu vực ASEAN, APEC, ASEAN+1, ASEAN+3, và Hội nghị

thượng đỉnh Đông Á. Về Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, sau nhiều lần cân nhắc

Trung Quốc đã đồng ý để ASEAN đóng vai trò chủ trì cơ chế đa phương mới này

cho dù ban đầu Trung Quốc mong muốn đóng vai trò lãnh đạo. Vào năm 2006,

Trung Quốc đồng tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc tại miền

Nam nước này để kỉ niệm 15 năm thiết lập quan hệ và Tại hôi nghị, Thủ tướng Ôn

Gia Bảo đã phát biểu rằng Trung Quốc và ASEAN đã” cùng vượt qua những nghi

ngờ và phát triển việc đối thoại cũng như thúc đẩy sự tin tưởng song phương”.

“dẫn đến kết luận rằng quan hệ này đang ở mức tốt nhất trong lịch sử”

Những nỗ lực của Trung Quốc về vấn đề đảm bảo an ninh chủ yếu tập trung

vào giải quyết các cằng thẳng trong quá khứ với các nước ASEAN. Trung Quốc đã

giải quyết hàng loạt những tranh chấp biên giới và trì hoãn nghị quyết về các xung

92

đột lãnh thổ cả ở trên bộ và trên biển. Vào tháng 11 năm 2002, Trung Quốc đã kí

Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Nam Hoa nhằm ngăn chặn việc leo

thang các tranh chấp lãnh thổ cở khu vực quần đảo Trường Sa (Văn kiện này

không bao gồm quần đảo Hoàng Sa, vốn là lãnh thổ được cả Trung Quốc và VN

tuyên bố chủ quyền). Năm 2003, Bắc Kinh cũng kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác

với ý nghĩa là đồng ý trên danh nghĩa việc sử dụng các nguyên tắc an ninh của

ASEAN nhằm dàn xếp một cách hòa bình các tranh chấp. Trung Quốc là nước nằm

ngoài ASEAN đầu tiên kí Hiệp ước này, tiếp sau là Ấn Độ. Cũng vào năm 2003,

Trung Quốc và ASEAN đã kí Tuyên bố chung về đối tác chiến lược nhằm thể hiện

cam kết của Trung Quốc trong việc hợp tác lâu dài trong giải quyết các vấn đề an

ninh trong khu vực. Trong một chừng mực nào đó thì những cam kết này đã được

thể hiện ở những hành động thực tế của Trung Quốc.

Trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên biển, năm 2004, Trung Quốc đã đồng

ý tham gia vào việc điều tra chung tài nguyên dưới biển với Philippines ở biển

Nam Hoa và tham gia chương trình nghiên cứu chung kéo dài 3 năm với Việt Nam

vào năm 2005. Bắc Kinh cũng đồng ý thực hiện những cuộc tuần tra chung trên

khu vực biển mà đã được phân giới như là khu vực Vịnh Bắc Bộ. Mục đích đằng

sau của những việc này của Trung Quốc hiện vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng.

Đó có thể là đưa VN và Philippines vào các cơ chế đàm phán song phương nhằm

giảm vai trò mục tiêu của ASEAN là đảm bảo rằng những tranh chấp lãnh thổ trên

biển phải được giải quyết bằng cơ chế đa phương. Trong khi tập hợp các nước

nhỏ với nhau có nhiều cơ hội hơn để đấu tranh với Bắc Kinh. Những tranh chấp

trên biển khác của Trung Quốc như là đảo Senkaku hay còn gọi là dảo Diaoyu và

vùng dự trữ khí thiên nhiên ở khu vực Đông Trung Quốc hiện còn xa mới đạt được

những thoả thuận cần thiết và thậm chí còn căng thẳng hơn trong những năm gần

đây.

93

Những điểm cuối cùng là về vấn đề tranh chấp quân sự. Trung Quốc là nước

ủng hộ việc thành lập một tổ chức có vai trò giải quyết các vấn đề an ninh ở ĐBÁ,

mà sau này trở thành đàm phán 6 bên nhằm giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc

Triều Tiên. Một nhóm làm việc về việc xây dựng cơ chế an ninh khu vực cho ĐBÁ

đã được thành lập trong khuôn khổ quá trình đàm phán 6 bên vào tháng 2 năm

2007.

Trung Quốc đã rất tích cực trong các vấn đề liên quan đến xây dựng các cơ

chế hợp tác ở khu vực. Trung Quốc đã ủng hộ mạnh mẽ việc tổ chức Hội nghị

thượng đỉnh Đông Á như là bước đầu tiên nhằm xây dựng một Cộng đồng Đông Á.

Sự hăng hái ban đầu của Trung Quốc với Hội nghị này (dựa trên việc Bắc Kinh lên

tiếng ủng hộ mở rộng chủ nghĩa khu vực châu Á) bị dội một gáo nước lạnh khi mà

rất nhiều quốc gia ASEAN đã đòi hỏi quyền lợi của họ trong các kế hoạch của hội

nghị, giảm bớt ảnh hưởng tương đối của Trung Quốc trong việc định hình một thể

chế mới. Các quốc gia ĐNÁ đã phối hợp với Nhật Bản chọn địa điểm, lên chương

trình của hôi nghị, và mở rộng thành phần tham gia cho cả Ấn Độ, Australia và

New Zealand. Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur

vào tháng 12 năm 2005 và diễn ra cùng lúc với Hội nghị bộ trưởng ASEAN +1 và

ASEAN +3.

Hơn thế nữa, Trung Quốc đã hết sức nỗ lực nhằm đẩy mạnh chính sách đối

tác chiến lược như 1 phần của việc thúc đẩy chất lượng của quan hệ song phương

trong khu vực. Mặc dù những hành động như vậy là chủ yếu mang tính hình thức,

nhưng là cơ sở của việc Trung Quốc nâng tầm đối thoại ngoại giao và an ninh với

các chủ thể ở khu vực và quan trọng hơn là việc xoa dịu lo ngại của các nước này.

Nội dung của đối tác chiến lược hiện nay bao gồm cả các chuyến viếng thăm cấp

cao (hay đối thoại chiến lược) về các chủ đề an ninh truyền thống và phi truyền

thống giữa các nhà ngoại giao và các nhà lãnh đạo cấp cao. Trung Quốc nhấn

mạnh vào việc giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống là trung tâm

94

trong việc xoa dịu với các nước láng giềng châu Á về một “mối đe dọa Trung

Quốc”, nhằm đối lập với chính sách đối ngoại của Mĩ và và tăng cường phạm vi

của hợp tác an ninh. Mục tiêu tổng quát của những nỗ lực này là nhằm nâng tầm sự

kêu gọi của Trung Quốc, mở rộng ảnh hưởng của nước này và giúp Trung Quốc

hội nhập sâu hơn vào các diễn đàn an ninh khu vực.

Cùng với những nỗ lực của Trung Quốc nhằm nâng cao chất lượng của các

mối quan hệ trong khu vực, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã có

những bước quan hệ đối ngoại quân sự với các nước Đông Á láng giềng. Đây là

một trong những nỗ lực của Trung Quốc nhằm giải quyết các vấn đề trong khu vực

và đảm bảo với quân đội các nước châu Á rằng sự hiện đại hóa của PLA không đe

dọa an ninh của họ. Ví dụ như vào năm 2008, các nhà lãnh đạo của quân đội Trung

Quốc đã bắt đầu xoa dịu các người hàng xóm về kế hoạch triển khai tàu sân bay.

PLA cũng có xu hướng sử dụng những cuộc đối thoại nhằm tìm kiếm thông tin về

mối quan hệ giữa các nước này, đặc biệt là các nước đồng minh của Mĩ với quân

đội Mĩ, khi mà việc đào tạo và chuyển giao vũ khí với Mĩ là một phần rất quan

trọng trong hoạt động của quân đội các nước này.

Ngoại giao quân sự của Trung Quốc với các nước khu vực đã không ngừng

được đa dạng và nâng tầm Hiện tại, Trung Quốc có các cuộc trao đổi chuyến thăm

cấp cao với phần lớn các nước ở ĐBÁ và ĐNÁ. Trung Quốc cũng cho phép các sĩ

quan quân đội từ các nước láng giềng quan sát các cuộc tập trận của quân đội nước

này; làm một việc chưa có tiền lệ là mời một số nước tham gia các cuộc tập trận;

các chuyến viếng thăm của Hải quân Trung Quốc đến các nước trong khu vực cũng

thường xuyên hơn; các chuyến trao đổi học thuật và chức năng giữa quân đội

Trung Quốc và các nước châu Á liên tục tăng lên và Trung Quốc đã mời chào bán

vũ khí cho các nước trong khu vực như Campuchia, Indonesia và Philippines.

TRUNG Á

95

Quan hệ của Trung Quốc với các nước ở khu vực Trung Á đã trải qua một

giai đoạn phát triển liên tục và quan trọng trong thập kỉ vừa qua. Khu vực này ngày

càng trở nên quan trọng hơn với kinh tế và các lợi ích an ninh của nước này. Do

đó, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động ngoại giao và tăng đầu tư tài chính

nhằm tìm kiếm con đường tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhằm hạn

chế ảnh hưởng của Mĩ (và một mặt nào đó là Nga) , chống khủng bố và nói chung

là giảm bớt bất ổn trong khu vục. Bắt đầu vào đầu những năm 90, tiếp theo việc

thiết lập quan hệ với những nước từng thuộc Liên Xô cũ này, quan hệ giữa Trung

Quốc với những nước này không phải là ưu tiên của Trung Quốc. Chính sách của

Bắc Kinh chủ yếu tập chung vào việc cải thiện sự ổn định trong khu vực, an ninh

biên giới và tìm cách tiếp cận những nguồn năng lượng. Vào đầu những năm 90,

Trung Quốc đã có những cuộc đàm phán về vấn đề biên giới với Kazakhstan,

Kyrgyzstan và Tajikistan nhằm giải quyết các vấn đề về lãnh thổ còn tồn đọng

bằng việc phân giới cắm mốc. Trong một vài trường hợp thì Trung Quốc đã nhận

được 50% hoặc ít hơn của những vùng lãnh thổ tranh chấp.

Khi mà Trung Quốc trở thành nhà nhập khẩu dầu vào năm 1993, nước này

bắt đầu tìm kiếm các nguồn tài nguyên như là dầu thô hay khí ga ở nước ngoài. Để

thể hiện cam kết của mình, Trung Quốc đưa ra những cơ hội kinh tế có lợi cho cả

đôi bên. Vấn đề chống khủng bố không là mối quan tâm của chính sách của Trung

Quốc với khu vực này cho đến cuối những năm 90 khi mà Trung Quốc tìm kiếm

sự hợp tác của các quốc gia ở Trung Á nhằm loại trừ những nhóm Hồi giáo Uighur

được huấn luyện và hoạt động trong khu vực.

Đối lập với quan hệ với các nước ở Đông Á, thương mại giữa Trung Quốc

và các nước Trung Á luôn duy trì ở tốc độ vừa phải cho đến tận hôm nay. Quan hệ

kinh tế không ngừng được mở rộng, chủ yếu nhờ việc mua bán các nguồn tài

nguyên. Tổng thương mại giữa Trung Quốc với các nước Trung Á đã tăng từ mức

rất thấp sau khi LIÊN XÔ sụp đổ đến hơn 30 tỉ USD trong năm 2008. Chỉ từ năm

96

2004 đến năm 2008, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Trung Á đã tăng

hơn 4 lần mặc dù cơ sở cho thương mại song phương là tương đối thấp. Tuy nhiên,

mặc dù đã không ngừng tăng trưởng nhưng thương mại với Trung Á chỉ chiếm 1.3

% tổng thương mại của Trung Quốc. Bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc trong khu

vực là Kazakhstan với 90% lượng nhập khẩu từ khu vực này (trong đó hơn 50% là

nhập khẩu dầu thô)). Xuất khẩu của Trung Quốc sang khu vực này, chủ yếu là

hàng tiêu dùng gấp gần 4 lần so với nhập khẩu. Mặc dù nếu không tính các ngành

năng lượng thì thương mại với các nước Trung Á không quan trọng với Trung

Quốc nhưng lại hết sức thiết yếu với các nước Trung Á. Trung Quốc là nhà nhập

khẩu hàng đầu của các nước này, và Trung Quốc là con đường thuận tiện nhất

không qua Nga để đi đến các nước khác trên thế giới. Điều đó giúp các nước này

giảm bớt sự phụ thuộc vào Nga.

Đầu tư của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào phát triển hạ tầng cơ sở, viễn

thông và các ngành năng lượng. Trung Quốc đã xây dựng những đường ống dẫn

dầu và khí ở Kazakhstan và Turkmenistan, đường sắt ở Kazakhstan và

Kyrghyztan, thêm vào đó là rất nhiều con đường, cầu và những dự án thủy điện ở

Tajikistan và Uzebekistan. Trung Quốc đã sử dụng việc đầu tư vào hạ tầng này

nhằm dễ dàng tiếp cận các nguồn tài nguyên và làm thuận lợi cho việc giao thương

với khu vực này. Bắc Kinh cũng muốn khôi phục lai con đường tơ lụa Á Âu nhằm

đa dạng bạn hàng và nhằm giúp khu vực phía Tây của nước này, đặc biệt là giúp

khu tự trị Tân Cương bắt kịp sự phát triển của kinh tế Trung Quốc. Với các nước

Trung Á, đầu tư của Trung Quốc đặc biệt quan trọng vì việc đầu tư của Trung

Quốc thể hiện tinh thần thiện chí của nước này khi đầu tư vào các dự án do nhà

nước bảo trợ, cho dù hiệu quả thực sự của các dự án này với sự phát triển kinh tế

đến đâu chăng nữa.Những nhà đầu tư phương Tây thường ít làm như vậy mà họ

chủ yếu thực hiện theo lời kêu gọi đầu tư của Trung Quốc.

97

Từ năm 2001, ngoại giao của Trung Quốc đã hướng sự chú ý cao hơn vào

khu vực Trung Á. Hiện nay, một mặt Trung Quốc nhấn mạnh vào việc tăng cường

quan hệ thương mại và đầu tư và mặt khác tham gia vào các vấn đề trong khu vực

nhằm hạn chế ảnh hưởng của Nga và Mĩ. Trung Quốc vẫn tiếp tục lo ngại về việc

các nhóm khủng bố Hồi giáo huấn luyện và hoạt động trong khu vực. Trung Quốc

đã tiếp tục mở rộng hợp tác an ninh và quân sự với các nước Trung Á nhằm ngăn

chặn những bất ổn trong khu vực này có thể thâm nhập vào khu vực Tân Cương.

An ninh năng lượn và cạnh tranh ảnh hưởng với Mĩ trở thành ưu tiên hàng

đầu của Trung Quốc ở khu vực Trung Á sau 2 sự kiện quan trọng là việc Mĩ triển

khai quân ở khu vực này sau sự kiện 11/9 và việc liên quân do Mĩ cầm đầu can

thiệp vào Iraq năm 2003. Trung Quốc tìm kiếm việc đa dạng nguồn dầu và khí

nhập khẩu, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Đông. Điều này khiến

cho Trung Á trở nên hấp dẫn với Trung Quốc ơn vì vị trí địa lí gần gũi và một

thuận lợi lớn là việc vận chuyển dầu mỏ dễ dàng hơn nhờ có các tuyến đường trên

bộ. Thêm vào đó, các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng sự có mặt của quân đội

Mĩ trong khu vực đã tạo nên một môi trường an ninh không thuận lợi cho Trung

Quốc và Trung Quốc nên đảm bảo rằng khu vực này không nằm trong tầm kiểm

soát của Mĩ hay một siêu cường nào khác. Với nhiều người Trung Quốc, sự có mặt

của Mĩ ở khu vực Trung Á vừa hỗ trợ hoạt động của liên quân ở Afghanistan và

vừa khiến Mĩ trở thành bá quyền trong khu vực. Những nhà bình luận của quân đội

Trung Quốc liên tục dấy lên lo ngại cho rằng sự hiện diện của quân đội Mĩ trong

khu vực sẽ khiến cho Mĩ có thể khống chế được Trung Quốc. Những tướng lĩnh

của PLA đã đưa ra quan điểm này với Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld

trong chuyến thăm của ông này đến Trung Quốc vào năm 2005. Trong quân đội

Trung Quốc, quan điểm chung là sự can thiệp của Mĩ ở Trung Á sẽ tạo áp lực lên

Trung Quốc, đặc biệt là trong trường hợp khủng hoảng. Tuy nhiên, việc Mĩ sẽ thực

hiện điều này như thế nào thì ít được đề cập tới.

98

Tiếp theo việc Mĩ đưa quân vào Iraq năm 2003 và những bất ổn trong khu

vực Trung Á năm 2004 thì các nhà phân tích của Trung Quốc đã bắt đầu đưa ra

những lo ngại đặc biệt về sự có mặt của quân đội Mĩ. Những cuộc cách mạng màu

ở Ukraine, Georgia và Kyrgyzstan đã làm nâng cao mối lo ngại này vì nhiều

chuyên gia tin tưởng rằng những sự kiện này nếu không được tài trợ thì cũng được

Mĩ ủng hộ. Nhiều người Trung Quốc lo ngại rằng những cuộc cách mạng kiểu đó

có thể lan tràn khắp khu vực Trung Á. Một số chuyên gia ở Trung Quốc nhận định

rằng sự có mặt của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ của Mĩ ở Trung Á sẽ

được sử dụng như là công cụ nhằm xuất khẩu những phong trào đó sang Trung

Quốc.

Trung Quốc đã tiếp tục sử dụng cả những sáng kiến song phương và đa

phương nhằm tăng cường sự hiện diện và mở rộng tầm ảnh hưởng. Nước này đã

nâng cấp quan hệ song phương với các nước Trung Á sau khi sao nhãng vào những

năm 90. Một điển hình của những nỗ lực của Trung Quốc là chuyến thăm cấp nhà

nước của Tổng thống Uzbekistan Karimov đến Bắc Kinh năm 2005, gần 2 tuần sau

khi lực lượng đặc biệt chính phủ Uzbekistan mở cuộc tấn công vào những người

biểu tình chống chế độ ở thành phố Andijion. Trong chuyến thăm này, vấn đề

Adijion không được đề cập đến, Trung Quốc và Uzbekistan đã kí một Hiệp định

(thường được biết đến như là 1 tuyên bố chung) thiết lập đối tác hợp tác hữu nghị.

Đây là Hiệp định đầu tiên giữa 2 nước sau khi bình thường hóa năm 1992. Trong

chuyến thăm, Trung Quốc và Uzbekistan đã kí một thỏa thuận trị giá 600 triệu

USD nhằm phát triển những mỏ dầu ở Uzbekistan. Thực hiện bước đi này, Trung

Quốc đã cho nhà lãnh đạo Uzbekistan 1 cơ hội chính trị và kinh tế khi mà nước này

đang chịu áp lực quốc tế về vấn đề Adijion. Vơi những nhà hoạch định chính sách

trong khu vực, cách ứng xử của Trung Quốc với nhà lãnh đạo Uzbekistan thể hiện

sự khác biệt rõ ràng với sự chỉ trích của Mĩ với nước này về việc giải quyết vấn đề

Adijion và tình hình nhân quyền nói chung là tồi tệ của nước này.

99

Trung Quốc đã có rất nhiều nỗ lực nhằm phát triển quan hệ chính trị và kinh

tế với Kazakhstan và đã đạt được rất nhiều thành công. Những hoạt động song

phương của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào nâng tầm quan hệ chính trị để đảm

bảo việc tiếp cận với những nguồn năng lượng của Kazakhstan. Nhiều nhà lãnh

đạo cấp cao của Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp với những người đồng cấp ở

Kazakhstan vào năm 2004 và 2005. Đặc biệt, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có ít nhất 3

cuộc gặp với Tổng thống Kazakhstan từ năm 2004. Trong chuyến thăm tới

Kazakhstan tháng 7 năm 2005, các nhà lãnh đạo đã nâng cấp quan hệ song phương

lên đối tác chiến lược (lần đầu tiên với 1 quốc gia Trung Á) đồng thời đạt được

thỏa thuận về việc xây dựng 1 đường ống dẫn dầu và mở rộng quan hệ thương mại.

Vào năm 2005, Trung Quốc mua thành công một mỏ khí tự nhiên lớn ở

Kazakhstan sau khi thương lượng rất nhiều năm

Tập đoàn Dầu khí QG Trung Quốc đã mua một đối thủ cạnh tranh ở khu vực

là tập đoàn dầu khí Kazakhstan với giá 4.18 tỉ USD. Đó là một trong những khoản

đầu tư ra nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc. Vào tháng 5 năm 2006, Trung

Quốc đã cung cấp tài chính cho việc lắp đặt 1 đường ống dài 975km từ miền Trung

Kazakhstan để chuyển đầu tới miền Tây Trung Quốc với kế hoạch nhằm nâng gấp

3 lần lượng dầu từ biển Caspi. Đường ống này được thiết kế để vận chuyển được

20 triệu tấn dầu, chiếm 10 % của tổng lượng dầu thô mà Trung Quốc nhập khẩu

được trong năm 2007.

Ngoại giao ở cấp lãnh đạo là cơ chế quan trọng cho việc phát triển quan hệ

song phương với các nước Trung Á. Bên cạnh những chuyến thăm kể trên, Thủ

tướng Ôn Gia Bảo đã có các chuyến thăm đến Nga, Uzbekistan và Turmekistan

trong năm 2007 và đã đạt được những hợp đồng kinh tế lớn trong những chuyến

thăm đó. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có những chuyến thăm cấp nhà nước đến

Kyrgyzstan và Kazakhstan năm 2007 và tới Tajikistan và Turkemenistan năm

2008. Các chuyến thăm này đều nằm trong nghị trình hàng năm của việc Chủ tịch

100

Hồ xuất hiện tại Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO). Điều

đáng chú ý là chủ tịch Trung Quốc tham gia Hội nghị thượng đỉnh của SCO hàng

năm là cơ hội để có những chuyến thăm đến các quốc gia quan trọng trọng khu

vực.

Bên cạnh ngoại giao song phương, Trung Quốc đã phát triển và mở rộng

SCO để nâng cao lợi ích trong khu vực của nước này. SCO giống như là phương

tiện cho Trung Quốc tiếp cận với kinh tế và chính trị an ninh của Trung Á. Nhiều

người cho rằng Trung Quốc sử dụng SCO để hạn chế ảnh hưởng của Mĩ và Nga.

Điều đó được biểu hiện bằng việc Trung Quốc không ngừng hỗ trợ về mặt vật chất

cho các nước SCO và các hoạt động của tổ chức này. Vào năm 2003, Trung Quốc

đã cung cấp khoản hỗ trợ tài chính cho ban thư ki của SCO được thành lập tại Bắc

Kinh. Đây là khoản hỗ trợ đầu tiên cho SCO từ khi tổ chức này được thành lập

năm 2001. Trong hội nghị thượng đỉnh của SCO tháng 6 năm 2004. Chủ tịch Hồ

Cẩm Đào đã hứa sẽ cung cấp khoản xuất khẩu ưu tiên trị giá 900$ cho những

doanh nghiệp của các nước SCO và đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ thành lập 1 quỹ

đặc biệt cho việc đào tạo 1500 sinh viên từ các nước SCO tại Trung Quốc. Chủ

tịch Hồ cũng kêu gọi SCO nâng tầm mức phát triển của tổ chức này. Ông ủng hộ

việc tổ chức này chuyển trọng tâm để đặt ra những mục tiêu cụ thể và lựa chọn

những biện pháp hiệu quả . Những từ ngữ và hành động này chỉ ra 1 cách mạnh mẽ

rằng Trung Quốc cố gắng xây dựng SCO thành 1 tổ chức khu vực mạnh mẽ với vai

trò giải quyết tất cả các vấn đề về kinh tế và an ninh trong khu vực. Vào năm 2005,

Trung Quốc đã có nhiều bước đi nhằm nâng tầm hơn nữa vị thế quốc tế của SCO.

Ấn Độ, Pakistan và Iran đã được cho phép có vị trí quan sát viên. SCO đã có vị trí

quan sát viên tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và SCO đã kí 1 bản ghi nhớ với

ASEAN.

Trung Quốc phải cân bằng 1 loạt các mục tiêu khi thực hiện các hoạt động

trong SCO. Gây tranh cãi nhất là một ủy ban hỗn hợp của Hội nghị thượng đỉnh

101

SCO năm 2005 đã kêu gọi có kế hoạch cho việc rút quân đội của Mĩ ra khỏi các

nước Trung Á khi các hoạt động chống khủng bố kết thúc tại Afghanisan. Để thể

hiện lo ngại của các nước SCO, bản tuyên bố của SCO đã có tiền lệ là tuyên bố của

Hội nghị thượng đỉnh Nga –Trung về “Trật tự thế giới trong thế kỉ 21” vốn cũng

bị Mĩ chỉ trỉ trích mạnh m ẽ việc Mĩ sử dụng quyền lực và và việc Mĩ xem thường

các tổ chức đa phương. Mặc dù Uzbekistan và Nga nỗ lực kêu gọi việc rút quân

của Mĩ, Trung Quốc ủng hộ yêu cầu này hay ít nhất là không có động thái nào

chống lại yêu cầu này. Cùng năm đó, Trung Quốc và Nga đã tổ chức một cuộc tập

trận tấn công đổ bộ ở vùng biển của Trung Quốc. Cuộc tập trận này được các nước

này cho là một phần của kế hoạch chống khủng bố của SCO.

Một ví dụ điển hình hơn của việc cân bằng của Trung Quốc là ngôn ngữ của

tuyên bố của Hôi nghị thượng đỉnh năm 2006 của SCO đã ít gay gắt hơn năm

2006. Nhưng năm 2006, bản tuyên bố này vẫn có nội dụng giống như năm trước đó

trong việc phản đối chính sách nhân quyền của Mĩ trong khu vực và kế hoạch ủng

hộ dân chủ của chính quyền Bush. Bản tuyên bố khẳng định “sự khác biệt về

truyền thống văn hóa, chính trị và hệ thống xã hội, giá trị và mô hình phát triển…

không nên được xem như là căn cứ để can thiệp vào công việc nội bộ của nước

khác” và sau đó tuyên bố thẳng thừng “các mô hình phát triển xã hội không nên

xuất khẩu ra nước ngoài”.

Trung Quốc cũng nỗ lực hạn chế ảnh hưởng của Nga ở khu vực Trung Á cho

dù thành công xen lẫn với thất bại. Những nỗ lực này nhằm chống lại ý đồ của Nga

nhằm kiểm soát SCO và hạn chế quyền lợi của Trung Quốc. Với quan hệ đối tác

chiến lược Nga – Trung, mối quan hệ kỹ thuật quân sự giữa 2 nước và những lợi

ích chung trong việc chống lại chủ nghĩa đơn cực của Mĩ, việc hạn chế Nga là một

mục tiêu tương đối thâm sâu của Trung Quốc. Trung Quốc không muốn khiêu

khích Nga nhưng cũng không muốn nước này kiểm soát Trung Á. SCO giúp Trung

Quốc cân bằng các mục tiêu này bằng cách đưa các quốc gia Trung Á vào một

102

khuôn khổ đa phương. Không giống như Mĩ, Nga có khả năng kiểm soát ảnh

hưởng của Trung Quốc ở khu vực vì Nga có mối liên kết lâu đời với những nước

thuộc Liên Xô cũ và khả năng sử dụng chiến thuật đối đầu của nước này. Tình

huống đó tạo nên nhiều lớp trong đấu tranh và hợp tác giữa Nga và Trung Quốc ở

Trung Á.

Hai ví dụ cho thấy sự phức tạp của các lợi ích của Trung Quốc khi mà chúng

liên quan đến Nga là sự đẩy và kéo của một cuộc cạnh tranh ngầm để giành ảnh

hưởng trong khu vực. Trong nhiều năm, Bắc Kinh đã chống lại Tổ chức hiệp ước

an ninh tập thể (CSTO) do Nga đứng đầu bao gồm nhiều nước SCO và có quan hệ

chính thức với SCO. Cho dù Nga cổ vũ cho hoạt động của CSTO trong khi Trung

Quốc và các nước SCO còn lại phản đối vì lo ngại rằng tổ chức này sẽ giúp Nga

biến SCO thành tổ chức an ninh chống phương Tây hơn là một tập trung vào hơp

tác an ninh và kinh tế. Một vài bản báo cáo nhận định rằng Nga tìm kiếm liên kết

giữa CSTO và SCO để hình thành 1 phiên bản ở khu vực Á-Âu của NATO. Trung

Quốc không đồng ý vì nước này không muốn SCO có tính đối đầu và không muốn

các kế hoạch an ninh do Nga khởi xướng. Những nỗ lực ban đầu của Trung Quốc

đã thất bại vào tháng 10 năm 2007 khi mà CSTO kí một thỏa thuận với SCO nhằm

mở đường cho việc hợp tác trong các vấn đề an ninh khu vực như buôn lậu ma túy

và tội phạm có tổ chức. Vào năm 2008, các nước thành viên SCO đã thành công

hơn trong việc hạn chế những áp lực của Nga. Bản tuyên bố chung năm 2008 của

Hội nghị thường niên SCO không tán thành quan điểm của Nga trong việc công

nhận độc lập của vùng lãnh thổ thuộc Georgia là Nam Ossetia và Abkhazia. Tuyên

bố này chỉ chia sẻ quan điểm với Nga nhưng không tiến xa hơn và đã khiến cho

Moscow tương đối thất vọng.

Nói một cách tổng thể, hoạt động ngoại giao song phương và đa phương của

Trung Quốc ở khu vực này thể hiện sự gia tăng lợi ích của nước này trong khu vực

với trọng tâm là việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở, tăng cường tiếp cận tài nguyên thiên

103

nhiên, gia tăng ảnh hưởng chính trị và ủng hộ các hoạt động chống khủng bố.

Ngoại giao của Trung Quốc bước đầu tập trung vào xây dựng quan hệ kinh tế với

các nước trong khu vực nhằm tiếp cận thị trường và các nguồn tài nguyên thiên

trong khu vực. Những lo ngại về sự có mặt của quân đội Mĩ trong khu vực cũng

như lo ngại về ý đồ của Nga sẽ còn là mối bận tâm lâu dài của Trung Quốc. Trung

Quốc sẽ tiếp tục xây dựng vị thế và cơ chế của SCO để tạo ra một môi trường để ít

nhất có thể kiềm chế ảnh hưởng của Mĩ hoặc tốt nhất là khiến cho ảnh hưởng của

Mĩ đi xuống. Trung Quốc cũng xem SCO là cách thức để ngăn Nga một mình

hoạch định các lịch trình giải quyết các vấn đề an ninh và tranh chấp trong khu

vực. Trung Quốc có khả năng sẽ không trở thành thách thức với các lợi ích của Mĩ

đặc biệt khi mà các nước khác sẵn sang chỉ trích và đối đầu với Mĩ. Việc chấp

nhận một cách tương đối của Bắc Kinh với sự xuất hiện của Mĩ sẽ không còn nữa

khi mà nước này lo ngại các hành động nhằm hỗ trợ cho các phong trào dân chủ

của Mĩ có thể gây mất ổn định cho chính trị của Trung Quốc.

Hướng tới tương lai, cách thức tiếp cận của Trung Quốc với Trung Á sẽ

mang tính bền vững và lâu dài. Những lợi ích của nước này trong khu vực là dài

hạn, khó thay đổi và phần lớn liên quan đến các mục tiêu hàng đầu của ĐảNG

CộNG SảNTrung Quốc trong việc ổn định trong nước và phát triển kinh tế. Hơn

nữa, những bất ổn có thể đe dọa lợi ích của Trung Quốc ở Đông Á như vấn đề Đài

Loan và quan hệ với Nhật không ảnh hưởng đến chính sách của Trung Quốc ở

Trung Á. Sự hiện diện của Mĩ ở Trung Á cũng ít hơn nhiều so với ở Đông Á và

khiến cho các chính sách của Mĩ ít tác động đến những lợi ích của Trung Quốc ở

khu vực này hơn. Với ảnh hưởng của Nga, mặc dù hạn chế đối đầu trực diện với

Nga nhưng mục tiêu hạn chế và kiểm soát Nga là mục tiêu dài hạn của Trung

Quốc.

Nam Á

104

Vấn đề chính trong chính sách của Nam Á là sự đổi mới có tính lịch sử và

việc lập lại quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Trung Quốc đã thực hiện những

nỗ lực để mở rộng quan hệ chính trị, quân sự và kinh tế với Ấn Độ. Hơn thế nữa,

Bắc Kinh còn tiếp tục giải quyết các vấn đề phức tạp và khó khăn nhưng là vấn đề

truyền thống đó là quan hệ với Pakistan. Điều đó đã làm xảy ra căng thẳng trong

cách tiếp cận của Trung Quốc. Ý đồ ban đầu của Trung Quốc trong việc chuyển

hướng đối ngoại đột ngột là nhằm 3 mục đích: ổn định khu vực biên giới phía Nam

của nước này khỏ những nguy cơ mới (như là một nước Ấn Độ có ý đồ cạnh tranh

hay thậm chí là thù địch với Trung Quốc), mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư

song phương và giảm thiểu việc Ấn Độ liên minh với Mĩ và khả năng Washington

và Delhi cùng kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc. Ở mục tiêu cuối cùng, ngay từ

đầu tập niên này, các nhà phân tích đã gi tăng mối quan ngại về sự mở rộng của

quan hệ an ninh Mĩ - Ấn và mối quan hệ quân sự mà Trung Quốc xem như là

những nỗ lực của Mĩ nhằm cân bằng quyền lực với Trung Quốc. Trung Quốc đã

tìm cách hạn chế khả năng đó bằng cách mở rộng quan hệ ngoại giao, quân sự và

kinh tế với Trung Quốc. Không có sự tương đồng giữa những nỗ lực của Trung

Quốc nhằm nâng cấp quan hệ với Ấn Độ (đặc biệt là trao đổi quân sự) với sự thay

đổi về chất trong quan hệ Mĩ - Ấn các năm 2001 và 2002. Đặc biệt khi mà chính

quyền của tổng thống Bush mở rộng quan hệ quân sự với Mĩ.

Nhà nghiên cứu John Garver giải thích ý đồ của Trung Quốc trong quan hệ

với Ấn Độ: Mục tiêu chiến lược lớn của Trung Quốc là thuyết phục Ấn Độ tích

cực xem xét việc mở rộng sự hiện diện về kinh tế, chính trị và quân sự của nước

này ở Nam Á và vùng Ấn Độ Dương, giảm bớt nghi ngờ trong quan hệ Trung - Ấn

và đưa Ấn Độ trở thành đối tác của Trung Quốc. Bằng cách này, sự trỗi dậy của

Trung Quốc ở châu Á sẽ không khiến Ấn Độ phải chống lại Trung Quốc bằng cách

thành lập liên minh với Mĩ . Tuy nhiên, việc thiết lập quan hệ hữu nghị với Ấn Độ

khong có nghĩa là Trung Quốc sẽ nhượng bộ với Ân Độ về vấn đề thể chế của Tây

105

Tạng, quan hệ chiến lược Trung – Pakistan hay hạn chế việc Trung Quốc mở rộng

quan hệ quân sự, an ninh và giao thông vận tải với các nước Nam Á khác.

Đối lập với chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở Đông Á, ngoại giao của

Trung Quốc ở Nam Á chủ yếu là mang tinh song phương một phần bởi vì thiếu

một tổ chức đa phương đủ mạnh ở tiểu lục địa này. Những nhà hoạch định chính

sách của Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao với các người đồng cấp ở

Ấn Độ và phần lớn đã đạt được sự đồng thuận trong các mục tiêu mở rộng quan hệ

kinh tế và đối thoại an ninh.

Những chuyến thăm cấp cao này đặc biệt quan trọng trong quá trình xây

dựng lại mối quan hệ giữa 2 nước. Đầu tiên, vào năm 2003, Trung Quốc đã mời

thủ tướng Ấn Độ Vajpayee thăm Trung Quốc (chuyến thăm này tiếp sau chuyến

thăm quan trọng vào tháng 4 của Bô trưởng quốc phòng George Fernandez, người

đã gây tranh cãi vì đã liên quan đến việc hiện đại hóa vũ khí hạt nhân của Ấn Độ,

một mối đe dọa an ninh với Trung Quốc). Trong chuyến thăm của Vajpayee, cả 2

bên đã đồng ý xây dựng một kế hoạch cơ bản để nâng tầm quan hệ qua bản tuyên

bố chung gọi là “Các nguyên tắc cho quan hệ và hợp tác toàn diện” Đây là một

bước đi quan trọng cho cả 2 nước như các nhà lãnh đạo đã chỉ ra rằng (cho dù có

mang tính cường điệu đi chăng nữa) rằng cả 2 bên không xem bên kia là một mối

nguy cơ và do đó mở ra một chương mới trong quan hệ giữa 2 nước. Tại cuộc gặp,

Vajpayee đã gọi mối quan hệ này là “ổn định và hướng tới tương lai” và cả 2 bên

đồng ý thành lập những đại diện đặc biệt để đàm phán về vấn đề biên giới.

Mặc dù phần lớn các văn kiện và các tuyên bố chính đều tương tự như các

văn kiện có trong chuyến thăm có tính phá băng của chủ tịch Giang Trạch Dân

năm 1996 và của thủ tướng Chu Dung Cơ năm 2002, chuyến thăm của Vajpayee

đã chính thức bình thường hóa quan hệ Trung - Ấn sau những căn thẳng chính chị

tháng 5 năm 1998 khi mà Ấn Độ thực hiện những vụ thử hạt nhân. Chuyến thăm

106

này mang tầm quan trọng vì tạo ra lộ trình mở rộng quan hệ Trung - Ấn khi mà cả

2 bên đều thực hiện các hành động sau khi chuyến thăm kết thúc.

Thứ hai, chuyến thăm năm 2005 của thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đánh dấu một

sự kiện quan trọng trong quan hệ Trung Ấn. Trong chuyến thăm đầu tiên của 1 thủ

tướng Trung Quốc đến Ấn Độ sau chuyến thăm của thủ tướng Chu Dung Cơ vào

năm 2002, cả hai bên đã đồng ý nâng cấp quan hệ lên thành “đối tác chiến lược và

hợp tác vì hòa bình và thịnh vượng” từ “đối tác hợp tác và xây dựng” như được

thiết lập từ năm 1996. Việc thiết lập công thức mới và có tầm quan trọng lớn như

vậy là kết quả của quá trình không ngừng tăng cường trao đổi ngoại giao, kinh tế

và quân sự từ chuyến thăm năm 2003 của Vajpayee năm 2003, bao gồm cả việc lần

đầu tiên thành lập đối thoại chiến lược Trung - Ấn tháng 1 năm 2005. Các nhà

phân tích Trung Quốc cũng cho rằng tuyền thông Trung Quốc đã tường thuật

chuyến thăm của thủ tướng Ôn Gia Bảo đậm nét hơn chuyến thăm của Chu Dung

Cơ và cả chuyến thăm của Ôn Gia Bảo đến Pakistan.

Nội dung về kinh tế và an ninh trong chuyến thăm của thủ tướng Ôn Gia

Bảo là đặc biệt quan trọng. Các nhà lãnh đạo đều đồng ý rằng thương mại song

phương đã tăng gấp 4 lần từ 3.6 triệu USD lê 13.6 triệu USD trong 3 năm 2001 đến

2004, vượt những mục tiêu ban đầu. Các nhà lãnh đạo đều đồng ý bắt đầu nghiên

cứu tiền khả thi về hiệp định thương mại tự do. Ngay trước chuyến thăm của Ôn

Gia Bảo, Trung Quốc đã xuất bản một bản đồ công nhận chủ quyền của Ấn Độ với

vùng Sikkim và trong bản tuyên bổ chung, 2 bên tuyên bố rằng vùng Sikkim là 1

phần của Ấn Độ. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công nhận chủ quyền của Ấn Độ

trên vùng đất này khi mà từ năm 1975, Trung Quốc đã không công nhận việc Ấn

Độ tuyên bố chủ quyền v ới Sikkim. Các nhà hoạch định chính sách của hai bên đã

kí vào văn kiện quan trọng khẳng định phương châm chỉ đạo để giải quyết tranh

chấp biên giới giữa hai bên. Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói rằng đây là lần đầu tiên hai

bên đồng ý có một phương châm chỉ đạo có tính chính trị từ khi việc đàm phán về

107

biên giới tái khởi động vào năm 1981. Trong một động thái cho thấy cam kết của

Trung Quốc nâng tầm quan hệ song phương với Ấn Độ, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã

có chuyến thăm lần đầu tiên tới Ấn Độ vào tháng 11 năm 2006. Đó là chuyến thăm

đầu tiên của nhà lãnh đạo nhà nước Trung Quốc tới Trung Quốc sau 10 năm kể từ

khi chủ tịch Giang Trạch Dân thăm nước này năm 1996. Trong chuyến thăm này,

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh đề án 5 điểm để phát triển quan hệ Trung-Ấn.

Có khả năng đây là nỗ lực nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn đọng khi mà có

tương đối ít tiến bộ trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới. Cả 2 bên đã

đồng ý khởi động nghiên cứu về Hiệp định thương mại tự do song phương. Điều

thú vị là chuyến thăm của chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến Pakistan sau đó cũng có thời

gian bằng chuyến thăm đến Ấn Độ.

Sự thay đổi trong quan hệ Trung - Ấn được thể hiện rõ rằng hơn trong việc

tăng cường quan hệ song phương trong các vấn đê an ninh và quân sự. Thông qua

những hoạt động như vậy, Bắc Kinh tìm kiếm sự đảm bảo với Ấn Độ về sự hợp

tác của Trung Quốc, làm rõ những động thái của PLA và giảm bớt việc New Delhi

mong muốn hợp tác với Mĩ nhằm cân bằng quyền lực với Trung Quốc. Bộ trưởng

quốc phòng Ấn Độ đã thăm Trung Quốc vào năm 2003 và người đồng cấp Trung

Quốc đã đáp lễ vào năm 2004. Vào cuối năm 2004, tổng tư tham mưu trưởng quân

đội Ấn Độ đã có chuyến thăm Trung Quốc sau 10 năm gián đoạn và chuyến thăm

này đã được người đồng cấp phía Trung Quốc là tướng Lương Quang Liệt đã có

chuyến thăm tới Ấn Độ, đây là chuyến thăm đầu tiên của một tổng tham mưu

trưởng quân đội Trung Quốc đến Ấn Độ trong 7 năm. Tuyền thông Ấn Độ cũng

đưa tin việc lãnh đạo lực lượng tình báo quân đội của Ấn Độ đã có chuyến thăm

Trung Quốc vào tháng 6 năm 2005. Vào tháng 12 năm đó, Trung Quốc và Ấn Độ

đã thực hiện cuộc diễn tập tìm kiếm và cứu nạn chung lần đầu tiên. Vào tháng 5

năm 2006. Trung Quốc và Ấn Độ kí kết văn bản ghi nhớ vè việc hợp tác quân sự

có nội dung về một loạt các hoạt động trong tương lai bao gồm “thường xuyên trao

108

đổi…một cuộc đối thoại quốc phòng thường niên…và những cuộc tập trận chung”.

Trong chuyến thăm của Tổng tham mưu trưởng J.J.Singh đến Trung Quốc tháng 5

năm 2007, hai bên đã đồng ý cuộc diễn tập chống khủng bố chung vào tháng 12

năm 2008 tại Ấn Độ.

Trung Quốc và Ấn Độ hiện phải đối mặt với những thách thức dai dẳng và

lâu dài với quan hệ song phương. Việc Ấn Độ quan ngại và nghi ngờ ý đồ của

Trung Quốc kể từ xung đột năm 1962, vấn đề tranh chấp đường biên giới và việc 2

nước vừa cạnh tranh vừa là những cường quốc đang lên ở châu Á trở thành những

nhân tố cản bước quan hệ an ninh. Trung Quốc tiếp tục ủng hộ quân sự với

Pakistan khiến Ấn Độ nhìn nhận như là nỗ lực nhằm kiểm soát sức mạnh của Ấn

Độ ở Nam Á là một nguồn gốc của những căn thẳng có thể nổ ra bất cứ lúc nào

mặc dù Trung Quốc đã có một vài động thái chứng tỏ việc nước này chú ý hơn đến

việc giữ cân bằng giữa Ấn Độ và Pakistan thì ít nhà chiến lược Ấn Độ đồng ý với

quan điểm này (Trung Quốc đã không ủng hộ Pakistan trong khủng hoảng ở Kargil

năm 1999). Hơn nữa, khi mà nhu cầu nhập khẩu năng lượng tăng lên ở cả 2 nước,

những căng thẳng được châm ngòi khi mà họ cạnh tranh để tiếp cận các nguồn tài

nguyên dầu khí tự nhiên ở nước ngoài bao gồm các khu vực gần với cả 2 nước như

là Myanmar. Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng quan hệ thương mại với Ấn Độ

cũng là 1 nguồn gốc của va chạm lợi ích khi mà trong số các công ty thương mại

của Ấn Độ, gần một nửa các vụ việc chống chon lấp rác xuất phát từ các hợp đồng

với các công ty Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, những nhà sản xuất phần mềm

của nước này lo ngại về việc cạnh tranh với những nhà xuất khẩu phần mềm của

Ấn Độ. Khi mà Bắc Kinh và New Delhi đồng ý thực hiện các cuộc đàm phán về

FTA và việc đàm phán thành công FTA sẽ có thể giúp họ giải quyết sự canh tranh

đang tăng lên trong quan hệ kinh tế giữa 2 nước.

Ngoại giao bên ngoài châu Á

Châu Phi và Mỹ Latinh

109

Quan hệ đối giữa Trung Quốc với châu Phi và (ở mức độ nhỏ hơn) với châu

Mỹ Latinh có một truyền thống lịch sử độc đáo. Quay lại thời điếm thực hiện chính

sách đối ngoại cách mạng và định hướng tiền-phát triển đất nước của Mao, Trung

Quốc đã cung cấp nhiều viện trợ vật chất (như tiền cho những kế hoạch lớn về cơ

sở hạ tầng) cho các phong trào cách mạng và các vị lãnh đạo tiền-Trung

Quốc ở châu Phi. Trung Quốc có quan hệ kinh tế và chính trị rất ít với khu

vực châu Mỹ Latinh, ít hơn nhiều so với châu Phi. Ở cả hai khu vực này, ngoại

giao của Trung Quốc chủ yếu bị điều khiển bởi những nỗ lực nhằm phá hoại sự

ủng hộ dành cho chủ nghĩa đế quốc của Mỹ và chủ nghĩa xét lại của Liên Xô

(trong Chiến tranh lạnh), và quan trọng hơn là để cô lập Đài Loan. Không như Liên

Xô, Bắc Kinh ít hứng thú hơn với việc trải rộng mô hình phát triển kinh tế và chính

trị của mình, ngay cả với những quanh đó ở trong khu vực như Tanzania. Mặc dù

Trung Quốc tự nhận có nền tảng đạo đức cao qua việc chống lại chủ nghĩa thực

dân ở châu Phi và châu Mỹ Latinh, các mục tiêu của Trung Quốc lại phần

nhiều dựa trên lợi ích quốc gia hơn là được gợi mở từ sự hùng biện về cách mạng

của mình. Hỗ trợ lớn về vật chất của Trung Quốc cho Châu Phi và Châu Mỹ

Latinh (ở mức độ nhỏ hơn) bắt đầu giảm đáng kể vào những năm cuối thập kỉ 70

do Đặng Tiểu Bình đã bớt dần đi những sự biểu thị mang lý tưởng nhất trong chính

sách đối ngoại của Trung Quốc và bắt đầu chuyển hướng các tài nguyên quốc

gia vào phục vụ việc phát triển nội địa.

Quan hệ hiện tại của Trung Quốc với các nước ở châu Phi và châu

Mỹ Latinh cho thấy một cuộc cách mạng trong chính sách đối ngoại thời kì-cải

cách của Trung Quốc, tuy vậy, chính sách này vẫn có những liên quan

tới các chính sách và lợi ích trước đó. Những cam kết về kinh tế và ngoại giao của

Trung Quốc với châu Phi và châu Mỹ latinh đang ngày một lớn hơn trong thập kỉ

này so với thời những năm 80 và 90. Ngoại giao của Trung Quốc bị chi phối bởi 4

mục tiêu chính: làm phong phú đường tới các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc

110

biệt là dầu mỏ và khoáng sản (chủ yếu là dầu mỏ); mở rộng đường tới các thị

trường ở châu Phi và châu Mỹ Latinh, nơi đang mua ngày càng nhiều hàng hóa, xe

hơi và các loại vũ khí của Trung Quốc; tạo ra sự ủng hộ đối với nỗ lực của Trung

Quốc nhằm thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và xây dựng một thế giới đa cực; và cô

lập Đài Loan hơn về ngoại giao ở châu Phi, châu Mỹ Latinh và vùng Caribe - nơi

tập trung nhiều sự ủng hộ dành cho Đài Loan.

Các mục tiêu kinh tế của Trung Quốc. Luôn có một logic kinh tế nhất

quán trong chủ nghĩa tích cực của Trung Quốc ở vùng cận Sahara châu

Phi. Thương mại hàng hóa của Trung Quốc với vùng cận Sahara châu phi đã tăng

từ chỉ 3 tỉ đôla năm 1995 lên 45,4 tỉ đôla năm 2006, với mức tăng hàng năm vào

khoảng 40% kể từ 2004. Hàng nhập từ châu Phi vào Trung Quốc tăng từ 4, 5 tỉ

đôla năm 2001 lên tới 26, 31 tỉ đôla vào năm 2006, tăng trưởng tới 485 %. Hơn 5

năm qua, khoảng 90% hàng nhập từ châu phi vào Trung Quốc, dưới dạng giá trị,

gồm có dầu thô, quặng sắt, gỗ thô,sợi bông thô, kim cương thô, các mặt hàng nhập

khẩu lại từ những sản phẩm xuất khẩu trước đó, kim loại, các nguồn cung cấp thép

không gỉ và thuốc lá sợi. Hàng nhập từ châu Phi vào Trung Quốc không những hầu

hết là các nguyên vật liệu thô mà chúng còn đến từ một tập hợp nhỏ các nước.

Hàng nhập từ bảy nước – Angola, Nam Phi, Sudan, Cộng hòa dân chủ Congo,

Equatorial Guinea, Gabon, và Nigeria – chiếm khoảng 90% lượng nhập khẩu của

Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2006. Hàng nhập vào Trung Quốc

từ những nước này phần lớn là dầu thô, ngoại trừ Nam Phi, nước có hàng nhập

khẩu vào Trung Quốc chủ yếu là kim loại.

Hơn thế nữa, hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào châu Phi đã tăng từ 4,42 tỉ

đôla năm 2001 lên 19,04 tỉ đôla vào năm 2006, đạt mức tăng trên 330%. Các sản

phẩm xuất khẩu chủ yếu là vải sợi bông, xe máy, giày vải, sợi tổng hợp, pin, thiết

bị phát sóng, thiết bị điện thoại, xăm xe, đồ thêu và các loại vải lẫn lộn. Các nước

vùng cận Sahara ở châu Phi, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đang nhanh

111

chóng trở thành các thị trường xuất khẩu chính của hàng hóa Trung Quốc. Theo

các quan chức chính phủ Hoa Kỳ, “các nhà đầu tư nhỏ và tư nhân của Trung Quốc

đã rót hàng triệu đôla để mở các doanh nghiệp chuyên về dệt may, sản xuất bóng

đèn, xây dựng và nông nghiệp ở châu Phi.

Sự tăng trưởng trong thương mại Trung Quốc – Châu Phi rất ấn tượng

nhưng cần phải được đánh giá trong tổng thể thương mại với thế giới và các xu

hướng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc. Thương mại của Trung Quốc với các

nước cận Sahara ở châu Phi vẫn chỉ có tầm quan trọng khiêm tốn xét trong tổng

thương mại của Trung Quốc. Vào năm 2006, thương mại với cùng

cận Sahara ở châu phi chỉ chiếm 2,6% trong tổng thương mại toàn cầu của Trung

Quốc. Theo dữ liệu của chính phủ Mỹ,

Trong năm 2006, giá trị của thương mại giữa Trung Quốc với châu Phi thấp

hơn so với thương mại của Trung Quốc với Trung Đông hay với châu Mỹ Latinh

và là một phần trăm âm trong thương mại của Trung Quốc với các nước châu Á

khác. Về mặt đầu tư, dòng vốn đầu tư của Trung Quốc vào châu phi chỉ chiếm

2,9% trong tổng số đầu tư trực tiếp của Trung Quốc ra bên ngoài thế giới. Tổng

vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào châu phi chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng

số vốn đầu tư của toàn cầu vào châu Phi.

Thương mại của Trung Quốc với các nước châu Phi mang một vài đặc điểm.

Thứ nhất, hàng xuất và nhập khẩu vào châu Phi đều tăng trưởng đáng kể. Thứ hai,

giá trị của hàng nhập khẩu vào Trung Quốc từ châu phi, chủ yếu là Angola, là lớn

nhờ vào lượng dầu nhập khẩu. (Vào năm 2007, lượng dầu nhập khẩu từ Angola

chiếm tới hơn 50% trong tổng giá trị tất cả các hàng nhập vào Trung Quốc từ vùng

cận Sahara ở châu Phi; và bốn trong năm bạn hàng thương mại lớn nhất của Trung

Quốc ở vùng cận Sahara ở châu phi đều là các nước cung cấp dầu). Thứ ba, tăng

trưởng về thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi mang đặc tính không ổn

định, do tùy thuộc vào việc nhập khẩu dầu của Trung Quốc cũng như những biến

112

động về giá dầu trên thế giới. Thứ tư, hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào châu

phi tăng trưởng ổn định và một vài nước châu Phi vùng cận Sahara hiện đang bị

thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Kết quả là, hàng xuất từ Trung Quốc vào

châu Phi không phải lúc nào cũng đem lại kết quả có lợi cho cả hai như những nhà

bình luận Trung Quốc đã đưa ra, từ đó dẫn đến những rạn nứt chính trị với các

nước châu phi bị tước quyền bầu cử. Ví dụ như, hàng dệt may xuất khẩu của Trung

Quốc đã làm tổn hại đến hàng loạt các nước châu Phi, khiến cho các nhà máy sản

xuất vải sợi ở Kenya, Lesotho, Nam Phi phải đóng cửa. Trong một vài trường hợp,

hàng dệt may xuất khẩu của Trung Quốc được coi như là “cú giáng hai lần”

vào các nhà sản xuất châu Phi: hàng xuất khẩu của Trung Quốc phá hủy cả nhu cầu

nội địa lẫn ngoại địa đối với hàng dệt may của Châu Phi.

Đầu tư của Trung Quốc vào Châu Phi đã tăng đáng kể do thương mại đã trở

thành một phần cấu thành chính trong quan hệ kinh tế của Trung Quốc với châu

Phi. Theo dữ liệu của chính phủ Trung Quốc, dòng vốn đầu tư hàng năm tới toàn

bộ lục địa châu phi đã tăng từ 74 triệu đôla năm 2003 lên 1,5 tỉ đôla năm 2007;

tổng vốn đầu tư của Trung Quốc đã tăng từ 491 triệu đôla năm 2003 lên 4,4 tỉ đôla

năm 2007. Nhưng dữ liệu chính thức của Trung Quốc dường như thiếu một

vài khoản đầu tư chính, vậy nên tính toàn diện của nó không rõ là bao nhiêu. Hơn

800 doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước Trung Quốc có các dự án đầu tư ở 40

nước châu Phi. Tính đến cuối năm 2008, vụ đầu tư ra bên ngoài lớn nhất của Trung

Quốc là vụ mua 20% cổ phần của ngân hàng trung ương nam phi năm 2007, với

thỏa thuận có giá trị ước tính là 5,5 tỉ đôla.

Một thành tố quan trọng và chưa được khảo sát trong đầu tư của Trung Quốc

ở châu Phi là những dự án về cơ sở hạ tầng. Những cam kết tài chính của Trung

Quốc dành cho những dự án về cơ sở hạ tầng ở châu Phi tăng từ khoảng 1 tỷ

đôla/năm trong thời gian từ 2001-2003 lên 4,5 tỷ đôla vào năm 2007 – và đỉnh

điểm là 7 tỉ đôla trong năm 2006. Khoảng 70% tổng vốn đầu tư về cơ sơ hạ tầng

113

của Trung Quốc được dành cho 4 nước là Nigeria, Ethiopia, Angola và Sudan.

Phần lớn các dự án của Trung Quốc tập trung vào hai lĩnh vực: máy phát điện (chủ

yếu là thủy điện) và giao thông (chủ yêú là đường sắt). Trung Quốc cũng cung cấp

tài chính và các trang thiết bị cho việc xây dựng các hệ thống thông tin viễn thông

quốc gia ở Ethiopia, Sudan và Ghana. Việc Trung Quốc tập trung đầu tư về cơ sở

hạ tầng đã tạo điền kiện cho một sự bù đắp kinh tế được nảy nở: sự thiếu hụt về cơ

sở hạ tầng của châu phi là một trong những thách thức phát triển lớn nhất, còn lĩnh

vực xây dựng của Trung Quốc lại thuộc một trong những lĩnh vực mạnh nhất và

cạnh tranh nhất trên thế giới. Sự bù đắp này cho thấy mô hình đầu tư vào cơ sở hạ

tầng của Trung Quốc như hiện nay sẽ tiếp tục phát triển.

Những khoản đầu tư lớn nhất của Trung Quốc vào châu Phi, tính cho đến

nay, là dành vào việc khai thác tài nguyên (chủ yếu là dầu), nhưng quy mô, máy

móc và kết quả của những khoản đầu tư này thường bị thổi phồng. Theo một

nghiên cứu của Ngân hàng Thế Giới về đầu tư của Trung Quốc vào châu Phi trong

khoảng thời gian từ 2001 đến 2005 thì Trung Quốc đã rót khoảng 10 tỉ đôla vốn

đầu tư vào lĩnh vực dầu ở 15 quốc gia châu Phi, với các khoản đầu tư lớn nhất ở

Angola và Sudan. Tuy nhiên, khoản đầu tư này chưa thấm vào đâu so với 168 tỉ

đôla mà các tập đoàn dầu khí quốc tế khác đã đầu tư vào châu phi. Trong năm

2006, 55% lượng dầu xuất khẩu từ châu phi được chuyển đến Hoa Kỳ và Châu Âu,

trong khi đó chỉ 15% là được chuyển đến Trung Quốc. Các khoản đầu tư

khác, ngoài dầu mỏ, ước tính khoảng 2 tỷ đôla và tập trung vào việc khai thác tài

nguyên (như đồng, quặng sắt) ở những nước như Cộng Hòa Dân chủ nhân dân

Congo, Gabon, Guinea, Zambia, và Zimbabwe. Đáng thú vị ở chỗ, trái ngược với

một số nghiên cứu gần đây, một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã biện luận

rằng chỉ có khoảng 7% các khoản đầu tư về cơ sở hạ tầng của Trung Quốc là liên

quan trực tiếp tới việc khai thác tài nguyên và vào những nơi thuận tiện cho việc

tiếp cận các tài nguyên được dành cho xuất khẩu sang Trung Quốc. Một mô

114

hình đầu tư phổ biến hơn của Trung Quốc là “mô hình Angola”, trong đó các tài

nguyên thiên nhiên được dùng để trả cho khoản vay đã được sử dụng để tài trợ việc

phát triển cơ sở hạ tầng của Trung Quốc. Ví dụ, vào năm 2007, Trung Quốc đã đưa

cho Cộng hòa dân chủ Congo một gói các khoản vay và đầu tư trị giá 9 tỷ đôla, và

sẽ được trả lại bằng coban và đồng lấy từ các mỏ của Congo. Các thỏa thuận này

thường được thực hiện thông qua ngân hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc hơn

là một cơ quan phát triển của Trung Quốc. Bản báo cáo của Ngân hàng Thế giới

cũng chỉ ra rằng các khoản vay của chính phủ dành cho các công ty Trung Quốc để

thực hiện các dự án này và các dự án cơ sở hạ tầng khác “tương xứng với lĩnh

vực cho vay tư nhân dành cho châu phi (với một sự trợ cấp là 36%) nhưng chúng

không hấp dẫn như là ODA, vốn có xu hướng đưa ra một khoản trợ cấp dành cho

châu Phi vào khoảng 66%.

Trung Quốc cũng cung cấp nhiều viện trợ phát triển cổ điển dành cho các

nước Châu Phi dưới dạng các khoản trợ cấp và sự hỗ trợ về kĩ thuật (nhằm chống

lại việc cấp vốn -mà đã được nhà nước trợ cấp- vào các dự án đầu tư) . Vào tháng

11/2006, tại diễn đàn hợp tác Trung – Phi, Trung Quốc đã cam kết sẽ có một gói

viện trợ phát triển lớn bao gồm các khoản trợ cấp, các khoản vay và hỗ trợ về kĩ

thuật; đây là cam kết viện trợ lớn nhất của Trung Quốc dành cho châu Phi trong

hàng thập kỉ qua. Một chuyên gia phân tích người Mỹ đã lý giải sức hấp dẫn của

Trung Quốc dành cho các nước Châu Phi như sau: Trung Quốc đã đưa ra một

“gói hoàn chỉnh” dành cho các nước châu Phi: tiền, hỗ trợ về kĩ thuật và ảnh

hưởng tại các tổ chức quốc tế nhằm bảo vệ nước chủ nhà khỏi các trừng phạt quốc

tế[14]. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới đã nhấn mạnh những cảm nghĩ này qua

việc chỉ rõ sức hấp dẫn của cái gần như là viện trợ phát triển của Trung Quốc:

“Các nhà lãnh đạo châu Phi đã hoan nghênh cái gần như là viện trợ phát triển kiểu

mới của Trung Quốc, vì nó tránh bất kì sự can thiệp nào vào các vấn đề nội địa,

115

nhấn mạnh sự cộng tác và tình đoàn kết giữa các nước đang phát triển, và đưa ra

một mô hình phát triển khác trong đó nhà nước giữ vai trò trung tâm hơn.

Thương mại, viện trợ và đầu tư của Trung Quốc vào châu Phi đưa đến ít

nhất ba gợi mở cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc và ngoại giao của

phương Tây ở châu Phi. Thứ nhất, những lợi ích kinh tế đa dạng và các mối quan

hệ lịch sử của Trung Quốc với các nước ở châu Phi đã dẫn đến việc Trung Quốc

ủng hộ các chế độ vốn có tiếng không minh bạch về nhân quyền, như Sudan và

Zimbabwe. Các khoản tiền viện trợ và giúp đỡ của Trung Quốc đã bảo vệ các chế

độ đó từ sức ép của phương Tây, bao gồm cả các trừng phạt đa phương. Điều này

đã cản trở khả năng của ngoại giao phương Tây là đem lại thay đổi ở những nước

châu Phi này trong những năm gần đây.

Tuy nhiên, sự chú ý đang ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế cũng có

khả năng tạo ra một sự thay đổi dần trong ngoại giao của Trung Quốc ở châu

phi. Sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho Sudan không thể là tuyệt đối, do chịu sức

ép của quốc tế và Liên Hiệp Quốc; ví dụ, Bắc Kinh đã không cản trở (thậm

chí trong một vài trường hợp đã ủng hộ) các nỗ lực của Liên Hiệp Quốc nhằm áp

đặt các biện pháp trừng phạt hạn hẹp đối với Sudan, mặc dù rất miễn cưỡng. Nỗ

lực của các tổ chức phi chính phủ quốc tế đầu năm 2007 nhằm kết nối sự kiện thế

vận hội Olympic Bắc Kinh năm 2008 với sự ủng hộ hiện tại của Trung Quốc đối

với chính phủ Sudan qua việc gọi Thế vận hội năm 2008 là Thế vận hội “diệt

chủng” hoặc “Daufur” đã buộc các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải can thiệp nhiều

hơn vào việc giải quyết khủng hoảng nhân đạo ở Darfur. Một cách thông thường

hơn, các phản ứng tiêu cực từ công chúng các nước cộng hòa Châu Phi đối với các

hoạt động kinh doanh của Trung Quốc đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo ở Bắc kinh

phải tìm cách khiến cho các nhà ngoại giao và lãnh đạo doanh nghiệp có những ấn

tượng tích cực về các hoạt động kinh doanh và các mối quan hệ chính trị của Trung

Quốc ở châu phi và các khu vực khác.

116

Thách thức thứ hai là viện trợ kinh tế của Trung Quốc đã làm suy giảm khả

năng gây sức ép của phương tây, ví dụ như các giới hạn trong viện trợ hay đầu

tư của Quỹ tiền tệ quốc tế, nhằm cải thiện việc cai quản đất nước của một số quốc

gia châu Phi. Thách thức thứ ba là sự ủng hộ đối với việc đầu tư vào châu Phi của

chính phủ Trung Quốc tạo ra một cuộc cạnh tranh không công bằng đối với các

doanh nghiệp châu Âu vốn không có khả năng tiến hành đầu tư phi lợi nhuận hoặc

đưa ra các loại hình viện trợ và giúp đỡ đa dạng (như chính phủ Trung Quốc làm)

để có thể giành được các hợp đồng. Trong cuộc cạnh tranh kinh doanh ở châu Phi,

các công cụ gây ảnh hưởng này của Trung Quốc là thứ không thể kiếm được đối

với các doanh nghiệp phương Tây.

Việc dính líu ngày càng nhiều của Trung Quốc vào khu vực châu mỹ Latinh

về căn bản (nhưng không hoàn toàn) được thúc đẩy bởi những cân nhắc về kinh tế:

mở đường tới các thị trường, các khoản đầu tư và các nguồn tài nguyên. Sự tăng

trưởng trong thương mại hàng hóa và đầu tư ở khu vực này là bằng chứng mạnh

mẽ về những động cơ kinh tế của Trung Quốc. Thương mại giữa Trung Quốc và

châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribe đã tăng lên nhanh chóng trong một vài năm

vừa qua, kết quả là, khu vực này ngày càng trở nên quan trọng đối với Trung Quốc.

Từ 1999 đến 2006, tổng giá trị thương mại hàng hóa đã tăng từ 8,2 tỷ đôla lên gần

70 tỷ đôla, tăng gần gấp 10 lần. Vào năm 2006, Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe

chiếm 4 % trong tổng thương mại toàn cầu của Trung Quốc, tăng phần đóng góp

của khu vực này lên 1,7 % kể từ 1999.

Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến 2006, hàng nhập khẩu từ khu vực

này vào Trung Quốc đã tăng từ gần 3 tỷ đôla lên sát 34 tỷ đôla. Xét về giá trị,

Brazil, Chile, Argentina, Peru và Venezuela đóng góp hầu hết vào lượng nhập

khẩu của Trung Quốc năm 2006 Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ khu vực

này vào Trung Quốc bao gồm sắt, đồng, chì và các loại quặng khác, đậu nành, dầu

thô và các loại dầu khoáng sản khác, và điện máy. Hàng nhập khẩu của bất kì một

117

quốc gia nào ở Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe vào Trung Quốc chỉ bao gồm một

hay hai loại hàng hóa. Từ 1999 đến 2006, xuất khẩu của Trung Quốc tới Châu Mỹ

Latinh và vùng Caribe đã tăng từ 5,3 tỷ đôla lên 35,8 tỷ đôla,với các thị trường chủ

yếu là Mexico, Brazil, Panama, Chile, và Argenina. Trong khoảng thời gian nói

trên, Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu các loại máy điện, các dụng cụ, đồ thêu, giầy

vải và các loại hóa chất hữu cơ khác.

Thương mại của Trung Quốc với châu Mỹ Latinh vừa là điềm may lại cũng

là điểm rủi đối với khu vực. Nó mở ra nhiều cơ hội cho các quốc gia giàu có tài

nguyên thiên nhiên như Brazil và Argentina, và cũng đem đến sự cạnh tranh khốc

liệt đối với những nước sản xuất các sản phẩm công nghiệp giá rẻ như Mexico. Cụ

thể, các sản phẩm dệt may và ngành kinh doanh quần áo của Mexico đã bị

tổn hại bởi sự nổi lên của Trung Quốc như là một nhà sản xuất vải sợi và quần áo

chủ yếu của thế giới, điều nay đã làm giảm sức cạnh tranh của Mexico ở các thị

trường vải sợi khác ở các quốc gia khác.

Đầu tư của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh cũng tăng trưởng không kém.

Trung Quốc hiện có nhiều dự án ở Argentina, Brazil, Chile, Cuba và Cộng hòa

Dominica, Guyana và Venezuela. Đầu tư của Trung Quốc ở Brazil, Argentina,

Chile và Venezuela tập trung chủ yếu vào cải thiện đường dẫn đến các nguồn tài

nguyên thiên nhiên như quặng sắt, đồng và dầu (đối với Venezuela); theo đó, các

khoản đầu tư thường được rót vào các lĩnh vực khai thác mỏ, giao thông vận tải,

sản xuất và dầu khí. Từ 2003 đến 2007, dòng vốn đầu tư hàng năm của Trung

Quốc đã tăng từ 1 tỷ đôla lên 4, 9 tỷ đôla và tích lũy đầu tư của Trung Quốc đã

tăng từ 4,6 tỷ đôla lên 24,7 tỷ đôla. Tuy nhiên, sự đầu tư của Trung Quốc vào khu

vực có thể thực sự không được cao như trên giấy tờ. Vào năm 2007, điểm đến của

khoảng 95% FDI của Trung Quốc trong khu vực này là các đảo Cayman và các

đảo British Virgin – các quốc gia vốn được biết đến như là thiên đường về thuế. Và

khi một lượng lớn FDI vào Trung Quốc từ ba quốc gia trên, có khả năng các nhà

118

đầu tư Trung Quốc đã tái đầu tư khoản tiền ở Trung Quốc như vốn từ nước ngoài

nhằm kiếm lợi từ những sự phân bổ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài (giống

như vé khứ hồi) .Đối với các vùng khác ở khu vực, vào năm 2007, FDI phi tài

chính của Trung Quốc chủ yếu được nhắm trực tiếp vào Mexico, Peru, Argentina,

Brazil, và Venezuela. Đầu tư phi tài chính vào châu Mỹ Latinh chủ yếu dành cho

việc khai thác và sản xuất tài nguyên, tuy vậy vẫn có một số hướng vào lắp ráp sản

xuất, viễn thông và dệt may.

Các mục tiêu về đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài thương mại và đầu tư,

các hoạt động của Trung Quốc ở cả Châu Mỹ La tinh và châu Phi cũng phản ánh

những mục tiêu ngoại giao rõ ràng. Thứ nhất, ngoại giao Trung Quốc chủ yếu được

thiết kế nhằm hướng đến việc giảm sự ủng hộ dành cho Đài Loan. Trong 23 nước

có quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, hiện có 12 nước ở Châu Mỹ

Latinh. Con số này đã giảm xuống từ 14 hồi năm 2004, sau khi Costa Rica (2007),

Grenada (2005) và Dominica (2004) thay đối sự công nhận ngoại giao sang Bắc

Kinh ( và St. Lucia quay trở lại với Đài Loan vào năm 2007).[21] Bốn trong số 23

quốc gia có quan hệ ngoại giao với Đài Loan là ở châu Phi; con số này đã giảm

dần khi những quốc gia như Malawi (2008), Chad (2006), Senegal (2005) và

Liberis (2003) thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.

Ngoại giao của Trung Quốc ở Châu Mỹ Latinh và Châu Phi hàng thập kỉ qua

là để thuyết phục, ép buộc và hối lộ các quốc gia để chuyển hướng lòng trung

thành trong ngoại giao của họ; các nỗ lực của Trung Quốc đã nhận được cường

độ mới trong những năm gần đây do khả năng đề nghị các viện trợ, đầu tư và các

sự lôi kéo tài chính sáng tạo khác ngày càng tăng. Ví dụ, Trung Quốc, trong một

thương vụ ngầm, đã bị phát hiện vào năm 2008, đã đồng ý vào tháng 6 năm

2007 mua 300 triệu đôla công trái chính phủ Costa Rica như một phần trong gói kế

hoạch lớn hơn nhằm lôi kéo Costa Rica chuyển hướng công nhận ngoại giao về

phía đại lục Trung Quốc. Trung Quốc đã và đang tạo ra các nỗ lực linh hoạt nhằm

119

thúc Paraguay, Guatemala và Panama làm giống như vậy. Như một sự biểu thị dấu

hiệu của một bầu không khí mới và ít đối đầu công khai hơn trong cách đề nghị đối

với khu vực. Như một sự biểu thị cho thái độ mới và ít công khai đối đầu hơn trong

cách thu hút khu vực của Trung Quốc, Bắc Kinh đã đồng ý góp các lực lượng cảnh

sát của mình vào chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc ở Haiti năm

2004, bất chấp quan hệ ngoại giao giữa Haiti và Đài Loan.

Thứ hai, Trung Quốc đang cố gắng xây dựng và duy trì các quan hệ song

phương nhằm bảo đảm đường đến các thị trường và các nguồn tài nguyên thiên

nhiên ở châu Phi và Mỹ Latinh. Trung Quốc đã và đang dùng ngoại giao cấp cao

trong ba đến năm năm qua nhằm đạt được những mục tiêu trên. Chỉ riêng năm

2004, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, hai nhân vật cấp cao nhất của đảng Cộng Sản

Trung Quốc, đều đã đến thăm Mỹ Latinh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng

thường xuyên gặp gỡ với những đồng nghiệp Mỹ Latinh tại Bắc Kinh.

Ngoại giao cấp lãnh đạo ở châu Phi của Trung Quốc thậm chí còn sâu sắc

hơn so với ở Châu Mỹ Latinh (bảng 6.1). Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tận

dụng những chuyến viếng thăm này nhằm điều chỉnh mối quan hệ kinh tế và chính

trị đang ngày càng phức tạp với các nước châu Phi cũng như những hàm ý

trong chính sách Châu phi của mình đối với việc mở rộng hình ảnh quốc tế của

Trung Quốc (ví dụ, cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Dafur, Sudan). Như đã ghi ở

trên, từ năm 2003, Hồ Cẩm Đào đã thăm Châu phi bốn lần và với tổng số là 18

quốc gia, một khối lượng từng có trong lịch sử mà một nhà lãnh đạo Trung Quốc

đã tạo ra trong một thời gian ngắn. Điều này phản ánh một cách rõ ràng ưu tiên

ngoại giao ở châu lục này.

Bảng 6.1

Các chuyến thăm tới châu Phi của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, 1996-

2009

120

Thời gian Lãnh đạo Trung Quốc Các quốc gia đến thăm

Tháng 5 Chủ tịch nước Jiang Zemin; Ai

– 1996 chuyến thăm đầu tiên trên cương cập, Ethiopia, Kenya, Mali, Na

vị chủ tịch nước mibia, Zimbabwe

Tháng 5 Thủ tướng Li Peng Cameroon,Gabon,Moza

– 1997 mbique,

Nigeria, Seychelles, Tan

zania,

Zambia

Tháng 1 Phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Bờ biển Ngà, Ghana,

– tháng 2 – Đào; chuyến viếng thăm đầu tiên Madagascar, Nam Phi

1999 trên cương vị phó chủ tịch nước

Tháng 10 Chủ tịch nước Jiang Zemin Ma rốc, Nigeria

– tháng 11 –

1999

Tháng 4 Chủ tịch nước Jiang Zemin, Ai Cập, Nam Phi

– 2000 chủ tịch nước đầu tiền tới thăm

Nam Phi, làm chuyển hướng quan

hệ ngoại giao của Nam Phi sang

Trung Quốc thay vì với Đài Loan

vào năm 1998

Tháng 4 - Chủ tịch nước Jiang Zemin Li bi,Nigeria, Tunisia

2002

Tháng 4 - Chủ tịch nước Zhu Rongji Ai cập, Kenya

2002

Tháng 8 Chủ tịch nước Zhu Rongji Angieri, Cameroon, Ma

121

rốc, Nam Phi – tháng 9 –

2002

Tháng Thủ tướng Ôn Gia Bảo Ethiopia

12- 2003

Tháng 1- Chủ tịch nước Ôn Gia Bảo Angieri, Ai Cập, Gabon

tháng 2 – 2004

Tháng 6 - Phó chủ tịch nước Zeng Benin, Nam Phi, Togo,

2004 Qinghong Tunisia

Tháng 4 - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào Kenya, Ma rốc, Nigeria

2006

Tháng 6 Thủ tướng Ôn Gia Bảo Angola, Ai cập, Ghana,

– 2006 Cộng Hòa Dân Chủ

Côngô, Nam Phi, Tanzania

Tháng 1- Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào Camerron, libi,

tháng 2 – 2007 Mozambique, Namibia,

Seychelles, Sudan, Zambia

Tháng 2 Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào Mali, Mauritius, Senegal

– 2009 , Tanzania

Nguồn: báo cáo trên các phương tiện truyền thông

Vào tháng hai năm 2007, Hồ Cẩm Đào đã thực hiện một cuộc viếng thăm

cấp nhà nước đến tám quốc gia Châu Phi, bao gồm cả chuyến dừng chân đầy tranh

cãi tại Sudan và Zimbabwe. Đáng chú ý, trong chuyến viếng thăm Sudan, Hồ

đã lần đầu tiên đưa ra những tuyên bố công khai ủng hộ chính phủ Sudan trong

122

việc giải quyết khủng hoảng nhân đạo ở Darfur, bao gồm việc kêu gọi Sudan cho

phép Liên Hiệp Quốc và các lực lượng gìn giữ hòa bình của Hiệp hội các quốc gia

châu Phi vào Darfur. Năm 2006, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đã tiến hành các

cuộc viếng thăm riêng rẽ tơi tổng cộng 11 quốc gia châu Phi, trong năm 2005, Ôn

Gia Bảo và một thành viên Hội Đồng chính trị khác đã tới thăm 8 nước châu Phi,

và trong năm 2004, Hồ Cẩm Đào và ba thành viên khác trong Hội đồng chính trị

đã tới thăm 12 nước châu Phi. Mục tiêu chủ chốt của các cuộc viếng thăm cấp lãnh

đạo này là mở thêm đường dẫn đến các nguồn tài nguyên của Châu Phi. Chuyến đi

thăm của Hồ Cẩm Đào năm 2004 và 2006 đều bao gồm những lần dừng chân ở các

quốc gia nhiều dầu như Nigeria và Angola. Nhưng chuyến thăm gần đây hơn của

Hồ, tới bốn quốc gia vào đầu năm 2009, đến những quốc gia không giàu về tài

nguyên là đưa ra tín hiệu rằng Trung Quốc đang hết lòng đối với sự phát triển kinh

tế và chính trị lâu dài của Châu Phi.

Mục tiêu ngoại giao thứ ba của Trung Quốc tại châu Phi và Mỹ Latinh là

nhằm thúc đẩy lợi ích của các nước đang phát triển và đưa họ vào trong các hệ

thống quốc tế. Trung Quốc thường tự quảng bá mình là “quốc gia đang phát triển

lớn nhất” và do đó, là một nhà bảo hộ tự nhiêm đối với quyền của các quốc gia

đó. Trung Quốc đã thúc đẩy một cách khoa trương một viễn cảnh chung bằng việc

ủng hộ các nguyên tắc ngoại giao như là bình đẳng, chủ quyền, hợp tác cùng có lợi,

phát triển kinh tế và không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia. Hướng

tiếp cận này đã đem lại cho Trung Quốc những lợi ích về kinh tế và địa chính trị.

Trung Quốc đã thực hiện một “biện pháp mềm mỏng” đối với viện trợ của Mỹ và

phương tây và đưa ra những chính sách, mà có thời điểm đã mang lại cho Trung

Quốc những đường đi thuận tiện. Trung Quốc cũng đúng vào hàng ngũ của các

nước Châu Phi và Mỹ Latinh nhằm đạt được những mục tiêu ngoại giao chuyên

biệt. Các nước đang phát triển có thể là một khối có sức mạnh bẩu cử trong các tổ

chức quốc tế. Họ có thể giúp ngăn ngừa những lá phiếu chống lại Trung Quốc, như

123

trong nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền trước đây. Sự vận động các

quốc gia đang phát triển ở trong Liên Hiệp Quốc của Trung Quốc sẽ được bàn luận

kĩ hơn ở dưới đây.

Trung Quốc đã theo đuổi các mục tiêu chính trị của mình thông qua ngoại

giao song phương và đa phương rộng rãi. Tại châu Phi, Trung Quốc đã thiết lập

các quan hệ chiến lược với Nam Phi, Nigeria, và Angola, cũng như là với toàn thể

khu vực. Vào năm 2003, 2004, Trung Quốc đã thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược

với Argentina, Brazil, Mẽico và Venezuela ( bảng 5.4). Trung Quốc cũng cố gắng

sử dụng nhưng mối quan hệ đối tác này ở châu Mỹ Latinh nhằm đánh tín hiệu đầy

đủ với Hoa Kỹ rằng Bắc Kinh đang nắm giữ ảnh hưởng ở khu vực vốn truyền

thống chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ.

Thực tế là ngoại giao phát triển, chủ quyền và chủ nghĩa đa phương của

Trung Quốc cùng với nhiều quỹ vốn Mỹ Latinh và châu Phi, các quan hệ với

Trung Quốc đem lại cho các nước này những sự nâng cấp về kinh tế và ngoại giao

trong nên ngoại giao đôi khi không hấp dẫn của Hoa Kỳ và các nước phương Tây.

Hugo Chavez ở Venezuela và vươn ra ở một mức độ nhỏ hơn, Luiz Inácio Lula da

Silva ở Brazil đã sử dụng những mối quan hệ của họ với Bắc Kinh nhằm điều

chỉnh quan hệ của chính nước họ với Hoa Kỳ. Chavez đã liên tục – nhưng không

thành công- lôi kéo Trung Quốc, bằng đề xuất mở rộng hơn việc tiếp cận các mỏ

dầu thô, nhằm đưa Trung Quốc vào liên minh chống lại sức mạnh của Hoa

Kỳ. Mặc dù Trung Quốc đã chấp nhận những đề nghị về việc mở rộng sự tiếp cận

đối với dầu thô và các dự án đầu tư có liên quan, Trung Quốc đã từ chối những nỗ

lực của Chavez nhăm đưa Trung Quốc thành một phần của mối quan hệ đối tác

cùng chống lại Hoa Kỳ.

Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với những khu vực này cũng có

một yếu tố đa phương đang phát triển,ở cả trong những mục tiêu và việc thực

thi của Trung Quốc. Vào năm 2000, Trung Quốc đã thiết lập Diễn đàn hợp tác

124

Trung Quốc – Châu Phi nhằm cũng nhau thảo luận các biện pháp phát triển kinh tế

của khu vực và “để tiến tới một sự đồng thuận lớn hơn về việc thiết lập một trật tự

kinh tế và chính trị quốc tế công bằng trong thế kỉ 21. Diễn đàn này đã cho phép

Trung Quốc tăng ảnh hưởng chính trị của mình đối với các nhà lãnh đạo châu Phi,

ví dụ, Trung Quốc thường tận dụng các cuộc gặp CACF nhằm giới thiệu các gói

viện trợ chính và tăng cường thương mại, như vào tháng 11 năm 2006[26]. Trung

Quốc đã tham gia vào Tổ chức của các chính phủ châu Mỹ trong tháng 5 năm 2004

với tư cách là người quan sát và đã sử dụng vị trí của mình nhằm cản trở những nỗ

lực tương tự của Đài Loan. Trung Quốc cuối cùng cũng đã đạt được thỏa thuận

để tham gia vào Ngân hàng phát triển xuyên châu Mỹ năm 2008, qua đó tăng khả

năng giành được những dự án phát triển có lợi nhuận cao hơn ở châu Mỹ Latinh.

Trung Đông

Các lợi ích kinh tế và an ninh của Trung Quốc ở Trung Đông đang ngày

càng lớn và đa dạng. Đây không còn là vùng đất chỉ có lợi ích cấp ba và chỉ thỉnh

thoảng được quan tâm bởi các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc. Sự dính líu

của Trung Quốc vào khu vực Trung Đông đang ngày càng tăng. Trong thập kỉ vừa

qua, Trung Quốc đã nâng tầm quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa và quân sự của

mình với một vài quốc gia trong khu vực. Nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của

Trung Quốc là một động cơ quan trọng cho việc làm trên nhưng không phải là duy

nhất. Ngoại giao song phương và đa phương của Trung Quốc ở Trung Đông cũng

được thúc đẩy bởi sự tìm kiếm các thị trường ngoài nước và các cơ hội đầu tư, bởi

nguyện vọng thúc đẩy ổn định ở một khu vực đang ngày càng trở nên quan trọng

đối với Bắc Kinh, và bởi ước muốn tạo ra cấp độ trong ngoại giao đa phương của

Trung Quốc vượt ra ngoài Trung Đông.

Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng duy trì sự thận trọng trong

việc tham gia vào các vấn đề chính trị trong khu vực, đặc biệt là vấn đề Israel –

Palestine. Trung Quốc đã tìm kiếm và đạt được tiếng nói lớn hơn nhưng điều này

125

sẽ khẳng định sự can thiệp sâu hơn, ngay cả khi bị lôi kéo bởi các chủ thể trong

khu vực. Điều này đang nổi lên như một căng thẳng mới trong nỗ lực mở rộng sự

hiện diện và ảnh hưởng của Trung Quốc ở Trung Đông.

Sự gia tăng can thiệp của Trung Quốc vào Trung Đông đang được bắt đầu từ

một vạch ranh giới thấp. Trung Quốc hiếm khi dành các nguồn chính trị hay ngoại

giao cho các vấn đề Trung Đông trước những năm 2000. Trung Quốc thiếu chuyên

môn sâu rộng về khu vực này, nhất là so với mức độ hiểu biết chuyên môn mà họ

có về Mỹ hay Đông Á. Sự ủng hộ mạnh mẽ mang tính khoa trương của Trung

Quốc (đặc biệt là dưới thời Mao) đối với những động cơ của Palestine và Ả rập đã

thay đổi khi Trung Quốc giảm bớt những yếu tố lý tưởng trong chính sách đối

ngoại của mình trong những năm 1980 và, đi theo hướng thực dụng hơn, như khi

họ cố gắng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn với Israel nhằm mở đường cho việc

nhập khẩu vũ khí loại thường và các công nghệ liên quan.( kể từ những năm

1980, Israel đã trở thành một trong những nước cung cấp vú khí bên ngoài lớn nhất

cho quân đội Trung Quốc).

Hơn thế nữa, Trung Đông chưa bao giờ là một khu vực có giá trị chiến lược

cao đối với Trung Quốc và đương nhiên là cũng không đạt được gần với mức độ

quan trọng như Đông và Nam Á. Sự bất ổn định ở Trung Đông hiếm khi gây được

sự quan tâm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, như đã chỉ ở phần trên về thiên

hướng giới thiệu các hệ thống vũ khí gây bất ổn định vào trong các cuộc xung

đột khu vực.

Vào những năm 1980 và 1990, nét chính trong ngoại giao với Trung Đông

của Trung Quốc là việc bán vũ khí cho khu vực này, bên cạnh việc ủng hộ một

cách hùng hồn cho các động cơ của Ả rập. Mối quan hệ này chủ yếu là vì lợi

nhuận, ngoại trừ trường hợp của Iran, nơi mà Trung Quốc cũng tận dụng những

giao dịch này nhằm duy trì một vài ảnh hưởng của khu vực và nâng cấp độ của

mình trong việc đương đầu với Hoa Kỳ. Các ví dụ về việc xuất khẩu các loại vũ

126

khí chính của Trung Quốc bao gồm việc buôn bán các loại vũ khí thông thường và

thủy lôi cho Iraq và Iran trong cuộc xung đột của họ trong những năm 1980; việc

buôn bán những tên lửa tầm trung tới Ả rập Saudi ( 1987 – 1988); hợp tác về

nguyên tử thường dân với Iran, đã chấm dứt vào năm 1997, và sự trợ giúp lâu dài

và rộng lớn đối với các chương trình tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và thủy lôi của

Iran.

Kể từ những năm 1980, mối quan hệ của Trung Quốc với Iran đã trở thành

một khía cạnh quan trọng nhất và nhức nhối nhất trong chính sách của Trung Quốc

đối với Trung Đông- tới mức độ mà Bắc Kinh đã có một chính sách rõ ràng và chặt

chẽ đối với khu vực này. Mối quan hệ Trung Quốc – Iran luôn hiện ra lù lù đối với

Bắc Kinh bởi vì những sự phức tạp mà nó tạo ra cho mối quan hệ của Trung Quốc

với Hoa Kỳ, nói theo cách khác, sự qua lại giữa Trung Quốc và Iran đã (và đang)

bị ảnh hưởng lớn, theo con mắt của Trung Quốc, bởi những gắn kết của mối quan

hệ Mỹ - Trung. Những khác biệt rõ rệt trong cách nhìn của Trung Quốc và Mỹ về

các dự định của Iran như mà một chủ thể khu vực và như một tác nhân làm tăng

thêm những căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ - Trung. Trong khi các nhà hoạch

định Hoa Kỳ nhìn nhận Iran như là nguồn chính gây bất ổn khu vực ( do việc Iran

tài trợ cho các hoạt động khủng bố và việc theo đuổi WMD), Trung Quốc lại tìm

kiếm mối quan hệ ổn định và thân tình với Iran trên cở sở mối quan hệ thương mại

về vũ khí cùng có lợi cho cả hai bên, việc có cùng nhận định là cả hai nước đều là

những nền văn minh lớn, những nỗ lực chung nhằm phát triển hệ thống quốc tế đa

cực hơn, và những nghi ngờ chung của họ đối với Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng lợi dụng

mối quan hệ của mình với Iran nhằm nâng tầm của mình trong quan hệ Mỹ -

Trung, cụ thể là trong việc chống lại những chính sách của Hoa Kỳ như là buôn

bán vũ khí với Đài Loan. Một vài trong số những động lực đó vẫn còn cho đến

ngày nay.

127

Trái ngược lại với sự chống đối Trung Đông trước đây, Trung Quốc đang

tăng cường sự qua lại song phương và đa phương đối với các quốc gia trong khu

vực, và Bắc Kinh giờ đây không còn là một chủ thể bị động như trước nữa. Trung

Quốc đã thức đẩy “các mối quan hệ đối tác chiến lược” với hai nước chủ chôt là Ả

rập Xê-út (1999) và Iran (2000), và có các cuộc trao đổi ngoại giao thường xuyên

và mở rộng hơn với cả hai. Những nỗ lực tận tâm của Trung Quốc nhằm phát triển

quan hệ của Trung Quốc với các nước Ả rậplà một ví dụ điển hình cho mục tiêu

của Trung Quốc nhằm đa dạng hóa ảnh hưởng chính trị và kinh tế của mình ở khu

vực này. Trung Quốc đã thiết lập Diễn đàn hợp tác Trung - Ả rập năm 2004 nhằm

khuyến khích hợp tác về chính trị trong khu vực, thương mại, khoa học, giáo dục,

văn hóa, và chăm sóc sức khỏe giữa Trung Quốc và các nước Ả rập. Bắc Kinh đã

duy trì đối thoại với Hội đồng hợp tác Vịnh Ả rập; Hồ Cẩm Đào đã tiếp xúc với

giới lãnh đạo của GCC vào tháng 4 năm 2006. Ngay sau vụ tấn công khủng bố

nhằm vào nước Mỹ ngày 11/9, Trung Quốc đã cử một đặc phải viên đến Trung

Đông nhằm “thúc đẩy sự hòa giải và đối thoại hòa bình” đối với tiến trình hòa bình

ở Trung Đông, mặc dù Trung Quốc đã tránh việc can thiệp thực sự vào tiến trình

đó. Vào tháng 10 năm 2006, tiếp ngày sau cuộc xung đột giữa Israel và Li băng

xảy ra trướ đó trong mùa hè, Trung Quốc đã cam kết tăng quân số của lực lượng kĩ

thuật Trung Quốc đang hồ trợ lực lượng tạm thời của Liên Hiệp Quốc trong chiến

dịch gìn giữa hòa bình ở Li Băng lên 1000 lính; đáng chú ý là sự cam kết của

Trung Quốc đến sau khi Liên Hiệp Quốc phải gặp phải vấn đề tìm kiếm các nhà tài

trợ (ngay cả từ ác nước thành viên thường trực trong Hội Đồng Bảo An) cho các

hành động mở rộng việc gìn giữ hòa bình ở Nam Li Băng.

Nhằm tăng cường ảnh hưởng chính trị chung của mình và mức độ kinh tế (ví

dụ năng lực của Trung Quốc nhằm đạt được các hợp đồng kinh doanh), Trung

Quốc đã đưa ra viện trợ phát triển và hỗ trợ về cơ sở hạ tầng đối với nhiều nước

Trung Đông, đáng kể nhất nhát là chính quyền Palestine và Iran. Trung Quốc đã

128

tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận đa phương về tương lai của Iraq. Trung

Quốc đã đóng góp vào công cuộc tái thiết Iraq qua việc chấp thuận, vào tháng 6/

2007, xóa khoản nợ hàng tỉ đô của Iraq và đề nghị hàng triệu đôla về viện trợ nhân

đạo. Vào giữa năm 2008, công ty dầu nhà nước Trung Quốc đã được chính

phủ Iraq trao cho hợp đồng nước ngoài đầu tiên về việc phát triển một lĩnh vực dầu

của Iraq. Việc sử dụng viện trợ nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường này cũng

tương tự ở Châu Phi như đã đề cập ở trên.

Động cơ nào đã thúc đẩy những sự thay đổi chính sách này? Ngoại giao

Trung Đông của Trung Quốc đang ngày càng, nhưng không hoàn toàn, bị ảnh

hưởng bởi như cầu về dầu và khí gas tự nhiên, Vào năm 2008, khoảng 50% lượng

dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đến từ Trung Đông, điều này đã khiến cho khu

vực này thành nơi Trung Quốc nhập khẩu dầu chủ yếu. Con số đó vẫn duy trì trong

nhiều năm, ngay cả khi lượng nhập khẩu của Trung Quốc từ những khu vực khác,

đáng kể nhất là Nga và Châu Phi, đang tăng lên một cách thực chất. Nhu cầu dầu

của Trung Quốc đang gia tăng và dường như sẽ được đáp ứng bởi sự gia tăng nhập

khấu, bao gồm cả từ khu vực này. Các dự án của cơ quan năng lượng quốc tế mà

Trung Quốc dựa vào nguồn nhập khẩu dầu sẽ tăng từ 46% về tổng nhu cầu năm

2004 lên 63% vào năm 2015 và 77% vào năm 2030. Hơn một nửa lượng dầu nhập

khẩu này có khả năng tiếp tục đến từ khu vực Trung Đông, bất chấp những sự dự

đoán có thể dao động. Chưa gì Trung Quốc đã có một sự thâm hụt thương mại với

các nước sản xuất dầu chính ở Trung Đông, đặc biệt là Ả rập Xê út, Iran và Oman.

Đồng thời, cả ba quốc gia này đã cung cấp cho Trung Quốc 37% lượng dầu thô

nhập khẩu năm 2007. Không ngạc nhiên gì, dầu, và không phải việc xuất khẩu các

mặt hàng của Trung Quốc, chiếm lượng lớn trong quan hệ thương mại của Trung

Quốc với các quốc gia Trung Đông. Israel, Ai cập và các tiểu vương quốc Ả rập

thống nhất là những ngoại lệ trong khuynh hướng này. Các tiểu vương quốc Ả rập

thống nhất từ nhiều năm này đã trở thành nhà nhập khẩu hàng Trung Quốc lớn nhất

129

trong khu vực. Trung Đông có khả năng trở thành một thị trường xuất khẩu sinh lời

cho Trung Quốc khi mà các quốc gia nhập khẩu công nghệ của Trung Quốc, như

trường hợp Ai cập.

Tầm quan trọng của năng lượng được phản ảnh trong ngoại giao khu vực

của Trung Quốc. Trung Quốc tiếp tục hành động siêng năng nhằm bảo đảm thương

mại về dầu và khí gas thiên nhiên cũng như những thỏa thuận đầu tư với Iran và Ả

rập Xê út như là một cách nhằm đảm bảo hướng tiếp cận lâu dài. Một công ty dầu

thuộc sở hữu của nhà nước Trung Quốc, Sinopec, vào tháng 12 năm 2007, đã kĩ

một thỏa thuận có trị giá từ 70 tỷ đến 100 tỷ đôla nhằm phát triển giếng dầu khổng

lồ Yadavaran ở Iran (để đổi lấy những cam kết về việc mua khí gas tự nhiên từ

Iran), mặc dù thỏa thuận này chưa được hoàn thành. Vào tháng 12 năm 2006, một

công ty khác thuộc quyền sở hưu của nhà nước là Tập đoàn dầu ngoài khơi quốc

gia Trung Quốc, đã kí bản ghi nhớ về thỏa thuận sơ bộ với Iran trong việc đầu tư

16 tỷ đôla vào phát triển mỏ dầu ở Bắc Pars và việc xây dựng các thiết bị khí hóa

lỏng. Tại Ả rập Xê út, Sinopec vào tháng 1 năm 2004, cũng đã đảm bảo việc khai

thác mỏ khí gas tự nhiên ở Rub al-Khaili trong một cuộc bán đấu giá mà đã thất bại

trong việc thu hút lợi ích của hầu hết các công ty quốc tế. Vào tháng ba năm 2006,

Sinopec, Saudi Aramco, Exxon Mobil, và chính quyền địa phương Fuji đã kết thúc

các thỏa thuận mạo hiểm chung về mở rộng năng lực của nhà máy tinh chế Fuji,

nhà máy sẽ chủ yếu lọc dầu thô của Ả Rập.

Mong muốn tiếp cận rộng hơn đối với các nguồn cung năng lượng ở Trung

Đông của Trung Quốc không nên được coi là động cơ cho ngoại giao của Trung

Quốc ở khu vực này. Bất chấp sự phụ thuộc của Trung Quốc vào lượng dầu nhập

khẩu đang tăng nhanh và việc Trung Quốc nhập nhiều dầu thô từ Trung Đông, điều

cũng khởi động cho một sự đa dạng hóa chiến lược năng lượng quốc gia mà cuối

cùng có thể làm dịu đi sự gia tăng về nhập khẩu. Trung Quốc cũng đa dạng hóa các

nguồn năng lượng nhập khẩu, đặc biệt từ các khu vực có sự bất ổn chính trị và

130

ngoại giao phức tạp như Trung Đông. Trung Quốc đang lo lắng về việc phụ thuộc

vào những chuyến hàng chở năng lượng bằng thuyền qua những tuyến đường biển

nguy hiểm, những tuyến đường mà phần lớn dầu ở Trung Đông đi qua. Trung

Quốc đang tìm kiếm thêm cả các nhà cung cấp và các tuyến đường vận chuyển các

nguồn năng lượng đến Trung Quốc. Lượng dầu thô Trung Quốc nhập khẩu từ Nga

lớn (9% năm 2007) và tăng lên nhanh chóng (với mức tăng 25% năm 2007). Trung

Quốc đang đầu tư vào rất nhiều dự án trong khu vực Trung Á (đáng kể nhất là ở

Kazakhstan) nhằm tạo điều kiện cho việc vận chuyển dầu và các nguồn khí gas tự

nhiên bằng đường bộ. Nỗ lực này đã được phản ánh ở mức độ nào đó trong việc

nhập khấu thô của Trung Quốc: Mức tăng trưởng nhập khấu của Trung Quốc từ

Trung Đông đã chậm dần xuống 9% vào năm 2006, và mức tăng trưởng trong nhập

khẩu từ Châu Phi và châu âu – á đã tăng đáng kể lên 19% và 30%.

Bên cạnh an ninh năng lượng, Bắc Kinh còn lo ngại đến sự gia tăng chủ

nghĩa cực đoán Hồi giáo ở Trung Đông, họ lo lắng rằng nó có thế khuyến khích và

trợ giúp về mặt vật chất cho các phần tử ly khai Hồi giáo Uighur ở tỉnh

Xinjiang. Những lo ngại về chủ nghĩa cực đoan và mạng lưới khủng bố xuyên quốc

gia là một lý do mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc bày tỏ thường

xuyên hơn, trong những năm vừa qua, các mối quan ngại về sự bất ổn khu vực.

Những quan ngại này đã thúc đẩy những nỗ lực của Trung Quốc nhằm gia tăng sự

ổn định thông qua nhiều viện trợ và can thiệp ngoại giao hơn. Trung Quốc đã cử

một đặc phải viên đến khu vực và tham gia vào các cuộc đàm phán về tiến trình

hòa bình, như tiến trình Annapolis năm 2007- 2008. Cùng lúc đó, một mục tiêu rõ

ràng đối với các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc là tránh bị kéo sâu vào các

vấn đề chính trị ở Trung Đông, vốn được họ coi là quá phức tạp để giải quyết và

phá hoại các nguồn ngoại giao của Trung Quốc. Cuối cùng, việc hoạch định chính

sách Trung Đông của Trung Quốc là một phần nằm trong nỗ lực rộng lớn của Bắc

Kinh nhằm thúc đẩy quan điểm của Trung Quốc về việc xây dựng một hệ thống đa

131

cực quốc tế trong đó Bắc kinh có thể thúc đẩy sự liên minh giữa các quốc gia đang

phát triển nhằm tăng cường vị thế của Trung Quốc tại ác tổ chức đa phương quan

trọng như là Liên Hiệp Quốc.

Sự tiếp cận của Trung Quốc đối với Trung Đông tiếp tục được định hình

thông qua quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và nhận thức của Trung Quốc đối với

các mục tiêu của Mỹ tại khu vực. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra rằng sự

hiện diện của Mỹ tại Trung Đông được Washington coi như là một lợi ích chiến

lược, rằng sự hiện diện ngoại giao và quân sự của Trung Quốc sẽ kéo dài hàng thập

kỉ, và rằng chính sách cảu Mỹ là thiết yếu cho sự ổn định khu vực cũng như là một

nguồn của của nhiều bất ổn định. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nuôi

dưỡng những sự nghi ngờ sâu sắc rằng những dự định lâu dài của Mỹ là thống trị

khu vực này và các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường bất đồng với những chính

sách chuyên biệt mà Mỹ đã sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra (đáng

chú ý là cuộc xâm lược vào Iraq năm 2003) . Các nhà chiến lược Trung Quốc cũng

nhận ra rằng sự can thiệp của Mỹ vào Iraq cũng làm bận tâm các nhà lãnh đạo Mỹ

(và cũng kéo các nguồn quân sự và ngoại giao của Mỹ) và điều này cũng đã chào

đón một khoảng trống để thở trong mối quan hệ Mỹ - trung và chuyển hướng quan

tâm của Mỹ ra khỏi Đông Á.

Những nhìn nhận của Trung Quốc về vai trò khu vực của Mỹ biểu thị trong

một hành động cân bằng trong ngoại giao Trung Đông của Trung Quốc – một điều

mà đang ngày càng trở nên phứ tạp đối với Bắc Kinh khi mà các lợi ích của Trung

Quốc đang ngày càng gia tăng. Trugn Quốc đang cố duy trì quan hệ tích cực một

mặt là với cả hai nhà nước Ả rập Sunni và Shia,mặt khác, với Israel và các nước Ả

rập. Trung Quốc cũng cố tránh cá hành động có thể đẩy Trung Quốc vào thế đối

đầu trực tiếp với Mỹ, như là việc buôn bán vũ khí tối tân hay một sự liên hệ mật

thiết với Iran. Cùng lúc đó, Bắc Kinh muốn xây dựng và duy trì các mối quan hệ

chính trị mà sẽ đảm bảo việc tiếp cận các nguồn tài nguyên và thị trường, ngay cả

132

khi điều này bao gồm việc giữ vững quan hệ với các quốc gia đầy tranh cãi như

Iran. Bắc Kinh cũng theo đuổi những chính sách mà có thể ngăn ngừa Mỹ siết chặt

khả năng của Trung Quốc trong việc thực hiện ảnh hưởng chính trị và kinh tế; điều

này biểu lộ trong viện trợ vùng của Trung Quốc, việc mở rộng các quan hệ đối

ngoại, và tiếp tục theo đuổi các thỏa thuận năng lượng và xuất khẩu công nghệ vũ

khí tới Iran bất chấp những sự chống đối của Mỹ.

Hướng tiếp cận “người trung gian” của Trung Quốc đối với những tranh cãi

của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc trong vấn đề chương trình vũ khí hạt nhân

của Iran xa hơn phản ánh nỗ lực của Trung Quốc nhằm cân bằng những mực tiêu

đa phương ở khu vực, đặc biệt là những lợi ích của Trung Quốc trong việc không

phát triển nhanh và ổn định khu vực, về một mặt và sự tiếp cận đến những nguồn

cung cấp năng lượng và các mối quan hệ ổn định với Iran, về mặt khác.

Tóm lại, việc can thiệp hoạch định chính sách đối với Trung Đông của

Trung Quốc là nhằm tập trung vào việc đa dạng hóa các quan hệ chính trị và kinh

tế để đảm bảo những quyền lợi hợp lý của Trung Quốc trong khu vực. Mong muốn

của Trung Quốc nhằm tiêos cận các nguồn cung năng lượng đóng vai trò chủ đạo

nhưng không phải hoàn toàn trong những tính toán của Bắc Kinh. Khi những lợi

ích vật chất này gia tăng, Tiền đặt cọc của Trung Quốc trong việc tăng cường sự ổn

định khu vực dường như sẽ gia tăng theo; thực chất đã có bằng chững về việc này.

Sự phát triển này, đổi lại, có thế thúc giục sự từ bỏ có thể tránh được trước đây

trong ngoại giao Trung Đông của Trung Quốc điều mà đẩy Bắc Kinh đóng góp vào

các tiến trình khu vực hoặc quốc tế nhằm điều chỉnh các hành vi quốc gia( như

việc Iran ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và phổ biển các loại vũ khí). Gạt những xu

hướng này sang một bên,nội dung rộng lớn hơn của ngoại giao Trung Đông của

Trung Quốc không nên bị đánh mất: Chính sách đối ngoại của Trung Quốc sẽ tiếp

tục có nhiệm vụ hàng đầu là các nước láng gi ềng châu Á của Trung Quốc và mối

quan hệ của Trung Quốc với các cường quốc. Ngay cả trong các mối quan hệ của

133

Trung Quốc với các nước đang phát trine, Trung Đông cũng không hiện ra nhằm

thu vào kho như là các nguồn kinh tế và chính trị của Trung Quốc tương tự như

mối quan hệ của Trung Quốc với châu Phi, mặc dù dự tính và các hoạt động của

Bắc Kinh ở Trung Đông đang gia tăng.

Ngoại giao đa phương

Từ giữa thập niên 1990, quan điểm của Trung Quốc về những tổ chức đa

phương đã chuyển đổi từ thụ động và hoài nghi thành chủ động. Những người

hoạch định chính sách của Trung Quốc cho rằng những tổ chức đa phương là cơ sở

để đạt được những mục tiêu của nước này là tiến tới “đa cực hoá”, thúc đẩy sự nổi

lên của một “trật tự quốc tế công bằng và hợp lý”, và “xây dựng một thế giới hài

hòa”. Tầm quan trọng của sự đa phương hoá đang ngày càng nâng cao. Từ năm

2002, những nhà lãnh đạo Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách và hãng

truyền thông đã bắt đầu giảm dần việc kêu gọi “vì thế giới nhiều cực hơn” và ít nói

tới “những siêu cường chính trị và bá quyền”; thay vào đó, họ bắt đầu nhấn mạnh

đến vai trò của các tổ chức đa phương trong việc giải quyết những thách thức về

kinh tế và an ninh toàn cầu.

Những khẩu hiệu này không chỉ dừng lại ở giá trị biểu tượng. Vào năm

2004, những nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc đã dứt khoát giương cao tư tưởng

về “sự hợp tác”, cùng với quan niệm chung về “hoà bình và phát triển”, như là ba

nguyên tắc chính của ngoại giao Trung Quốc. Quan điểm thứ ba đã nhấn mạnh

cam kết của Trung Quốc với chủ nghĩa đa phương như là một cơ chế của việc bảo

đảm và cũng là một dấu hiệu của việc Trung Quốc tăng cường sử dụng một cách

rộng rãi những tổ chức như vậy. Do đó, có một cơ sở chính sách vững chắc cho sự

ưu tiên này trong ngoại giao chính thức của Trung Quốc – một trong số đó là phê

chuẩn ở cấp độ cao nhất của ĐảNG CộNG SảN Trung Quốc. Điều chú ý nhất là

chủ nghĩa đa phương đã trở thành một cột trụ trong chính sách ngoại giao của chủ

tịch Hồ Cẩm Đào và là cách để tạo nên sự khác biệt (cho dù không rõ ràng lắm)

134

với các chính quyền trước đó ở Trung Quốc trong cách tiếp cận các vấn đề ngoại

giao.

Trung Quốc trong Liên Hợp Quốc

Biểu hiện chủ yếu của việc nước này sử dụng những tổ chức đa phương để

thúc đẩy việc thực hiện những mục tiêu của mình được thể hiện qua các hoạt động

của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc đã ngày càng tham gia và khẳng

định mình trong những hoạt động của Liên Hiệp Quốc; bao gồm cả trong Hội đồng

Bảo an Liên Hiệp Quốc và những cơ quan khác của Liên Hiệp Quốc, như là Cơ

quan năng lượng nguyên tử quốc tế, Hội nghị về giải trừ quân bị. Với Bắc Kinh thì

nước này ủng hộ Liên Hiệp Quốc như là cơ quan có vai trò phát triển chủ nghĩa đa

phương và xây dựng một hệ thống đa cực quốc tế. Như chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã

nói trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm Liên Hiệp Quốc lần thứ 60 năm 2005:

“Chúng ta nên duy trì thể chế đa cực để thấy rõ được nền an ninh chung… Liên

Hiệp Quốc với tư cách là nòng cốt của cơ cấu an ninh tập thể, giữ một vai trò

không thể thay thế trong hợp tác quốc tế để đảm bảo an ninh toàn cầu. Với vai trò

như vậy, Liên Hiệp Quốc chỉ có thể được tăng cường sức mạnh chứ không thể bị

suy giảm vai trò của mình.

Trung Quốc đang tiếp tục theo đuổi một số mục tiêu trong các hoạt động tại

Liên Hiệp Quốc của mình. Đầu tiên, nước này nỗ lực nâng tầm của Liên Hiệp

Quốc với vai trò là tổ chức đa phương đứng đầu mà có thể giúp thực hiện mục tiêu

của Trung Quốc về “Nền dân chủ trong quan hệ quốc tế” và xây dựng “một trật tự

quốc tế công bằng và hợp lý”. Với việc nắm quyền phủ quyết, là thành viên thường

trực của hội đồng bảo an, những mục tiêu nêu trên không mang tính chất thực hiện

tư tưởng của chủ nghĩa Cộng sản mà trực tiếp thuc đẩy quan hệ đối ngoại của

Trung Quốc.

Về mặt thực tế, điều có ý nghĩa là việc Trung Quốc sử dụng vị trí của mình

để thay đổi những hoạt động của Liên Hiệp Quốc đối với những việc Trung Quốc

135

phản đối và thúc đẩy những việc mà Trung Quốc ủng hộ. Ví dụ như, mặc dù hoan

nghênh Liên Hiệp Quốc như là một thành trì vững chắc cho hợp tác đa phương,

nhưng vì những mục đích thực tế, Trung Quốc phản đối việc tăng số lượng thành

viên thường trực trong Hội đồng bảo an, gồm có: Nhật Bản, Ấn Độ, và Brazil.

Việc Trung Quốc sử dụng Liên Hiệp Quốc như là công cụ thực hiện các mục tiêu

toàn cầu của nước này ngày càng được phản ánh một cách mạnh mẽ hơn trong việc

Trung Quốc kiềm chế hay thay đổi lập trường của Mĩ trong các vấn đề an ninh gây

tranh cãi ở HĐBA như Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan và Myanmar.

Thứ hai, từ trước đến nay, Trung Quốc luôn coi Liên Hiệp Quốc như là một

tổ chức hàng đầu để giảm sự ủng hộ của quốc tế đối với Đài Loan và thúc đẩy các

quốc gia chuyển quan hệ ngoại giao chính thức từ Đài Loan sang Bắc Kinh. Hai

trong sáu quyền phủ quyết của Trung Quốc trong hội đồng bảo an đã được dùng để

phản đối việc Liên Hiệp Quốc sử dụng lực lượng giữ gìn hoà bình để hỗ trợ các

quốc gia công nhận độc lập của Đài Loan. Trong các hoạt động ngoại giao liên

quen đến vấn đề Đài Loan ở Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc ngày càng trở nên tế nhị

hơn nhưng cách thức phản đối như vậy thì vẫn mang tính điển hình trong chính

sách của nước này.

Thứ ba, Trung Quốc lợi dụng Liên Hiệp Quốc để cải thiện và thúc đẩy xây

dựng hình ảnh của mình như là một siêu cường xứng đáng được tôn trọng; trong

những năm gần đây, Trung Quốc đã sử dụng những hoạt động trong hội đồng bảo

an để thể hiện rằng nước này là “một nước lớn đang phát triển có trách nhiệm”,

đang tìm kiếm việc giải quyết cho những thách thức chung về an ninh toàn cầu như

việc phát triển vũ khí có sức huỷ diệt lớn và chủ nghĩa khủng bố.

Mục tiêu này của Trung Quốc ám chỉ chất lượng sự tham gia của Trung

Quốc vào các hoạt động của Liên Hiệp Quốc đã được củng cố, và nó sẽ trở nên

minh bạch hơn như vai trò là một chính phủ. Những hoạt động tích cực của Trung

Quốc đã được phản ánh một cách rõ ràng trong những đóng góp toàn diện của

136

Trung Quốc đối với nhưng hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc; Nước

này đã đóng góp nhiều hơn so với những nước thành viên thường trực khác trong

Hội đồng bảo an. Ngoài ra, Trung Quốc đã tham gia vào các quá trình do tăng

cường sự minh bạch trong các vấn đề quốc phòng do Liên Hiệp Quốc chỉ đạo. Quá

trình này đòi hỏi có báo cáo chi phí quốc phòng hàng năm cho Liên Hiệp Quốc, và

vào năm 2008 Trung Quốc bắt đầu lại việc báo cáo hàng năm của mình cho Ban

đăng kí của Liên Hiệp Quốc về việc xuất khẩu vũ khí thông thường hàng năm, việc

báo cáo này đã bị bỏ lửng năm 1997 sau việc tranh cãi làm thế nào để phân loại

việc bán vũ khí của Mỹ sang Đài Loan.

Cuối cùng, điểm trọng tâm, nhưng rất nhạy cảm là việc Trung Quốc sử dụng

ngoại giao trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc nhằm hạn chế Mĩ thể hiện sức mạnh

và áp đặt quan điểm lên việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhiều nhà phân tích

của Trung Quốc nhìn nhận Liên Hiệp Quốc là một cơ cấu để dung hòa chủ nghĩa

đơn cực của Mỹ qua việc tăng cường khả năng của tổ chức này trong việc kiểm

soát những đặc quyền của Mỹ và đồng minh. Điều này thể hiện rõ nhất trong

những vấn đề nhân quyền, vấn đề nhân đạo, và việc áp đặt hình phạt và trừng phạt.

Hiếm khi được đề cập trong các bài phát biểu công khai, mục tiêu này được thể

hiện trong nhiều hoạt động của Trung Quốc tại Hội đồng bảo an (chi tiết ở phía

dưới) và thể hiện tinh đối lập trong quan điểm của Mỹ và Trung Quốc đối với chủ

quyền quốc gia và vấn đề liên quan đến công việc nội bộ của quốc gia đó.

Trong thập kỷ này, Trung Quốc đã công khai phản đối đối những chính sách

của Mỹ mà ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế và an ninh của Trung Quốc, ví

dụ như những nỗ lực của Mỹ áp đặt sắc lệnh trừng phạt kinh tế đối với Sudan, hay

việc Mĩ cổ vũ cho việc áp đặt những lệnh trừng phạt lên Bắc Triều Tiên hay

Iran… Trung Quốc đã hợp tác với Nga để định hướng những cuộc thảo luận của

Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là nhằm phản đối với quan điểm của Mỹ, khi nội dung

137

thảo luận về các vấn đề này đã gia tăng một cách đều đặn vào nửa cuối của thập kỉ

này

Với Trung Quốc thì đây là mục tiêu phức tạp và đã có sự thay đổi chủ yếu

bởi vì chính sách đối ngoại đấu tranh của nước này là không đối đầu hay gây thù

địch một cách công khai với Washington Điều này đã được thể hiện trong việc

Trung Quốc sử dụng hạ sách nhưng là sự phản đối có nguyên tắc đối với những nỗ

lực của Mĩ nhằm tìm kiếm sự cho phép của Liên Hiệp Quốc can thiệp quân sự vào

Iraq năm 2003; Bắc Kinh đã để Matxcơva và Paris đứng đầu trong việc phản đối

các hoạt động của Mỹ. Kể từ thời điểm đó thì Trung Quốc đã liên tục gia tăng sự

bất đồng với Mĩ ở Liên Hiệp Quốc. Lí do là bởi một số nguyên nhân sau đây: (1)

Trung Quốc ngày càng tự tin hơn ở tiềm lực của chính mình, Trung Quốc sẵn sàng

chịu những phản ứng tiêu cực của Mĩ và cuối cùng là quan điểm cho rằng Mĩ cần

Trung Quốc hơn bao giờ hết. (2) Quan điểm của Trung Quốc cho rằng hình ảnh và

ảnh hưởng của Mĩ đã giảm sút trong thời kì Bush lên nắm quyền (3) sự mở rộng

các lơi ích kinh tế toàn cầu của nước này và khả năng Trung Quốc hợp tác với các

nước khác như là Nga để tránh việc một mình bất đồng với Mĩ.

Những hoạt động của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc

Sự tham gia, tính chủ động và sự khẳng định vai trò của Trung Quốc trong

Liên Hiệp Quốc được thể hiện ở những hoạt động trong HĐBA. Một số ví dụ sẽ

được cung cấp dưới đây: những hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc,

Somalia, Sudan, Đài Loan, và những cuộc thảo luận khác của hội đồng bảo an.

Hoạt động giữ gìn hoà bình

Trung Quốc đã mở rộng cả về số lượng và chất lượng những sự tham gia của

mình trong hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc trong năm năm qua.

Kể từ năm 2008, Trung Quốc là nước đóng góp lớn nhất cho những hoạt động giữ

gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc trong năm thành viên thường trực của Hội đồng

bảo an và gần như là nước đóng góp lớn nhất mà không phải thành viên của

138

NATO. Năm 2008 Trung Quốc là nước thứ 12 đóng góp lớn nhất cho các hoạt

động bảo vệ hoà bình của Liên Hiệp Quốc trong những thành viên của Liên Hiệp

Quốc. Trung Quốc hiện nay đang triển khai 1861 lính, 88 giám sát viên quân sự và

208 cảnh sát tại 12 hoạt động giữ gìn hoà bình trên khắp thế giới của Liên Hiệp

Quốc (biểu đồ 6.2). Trung Quốc bắt đầu tham gia vào các hoạt động này từ năm

1990 nhưng trong suốt thập kỷ đó sự đóng góp của Trung Quốc còn giới hạn chỉ

gửi một vài giám sát hoạt động quân sự và cảnh sát cho một số hoạt động của Liên

Hiệp Quốc. Trong thập niên 2000, Trung Quốc tăng đáng kể những đóng góp của

mình, ước tính đã tăng gấp 20 lần từ năm 2000 (trong khi của Mỹ, Nga và Anh đã

giảm đóng góp hay không còn tăng nữa). Khoảng 75% đóng góp của Trung Quốc

trong các hoạt động giữ gìn hoà bình là ở các hoạt động ở Châu Phi, và trong hè

năm nay nước này dự định sẽ triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình tại khu vực

Darfur ở Sudan, Liberia, và Cộng hoà Dân chủ Công gô. Đóng góp của Trung

Quốc chủ yếu ở các lĩnh vực như khoa học, dịch vụ y tế và giao thông vận tải.

Trung Quốc cũng là nước đóng có số lượng cảnh sát bảo vệ dân thường (từ Bộ

Công An) trong lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc.

Chất lượng của việc Trung Quốc tham gia vào các hoạt động bảo vệ hoà

bình của Liên Hiệp Quốc cũng có bước phát triển. Vào tháng 9 năm 2007, Liên

Hiệp Quốc đã bổ nhiệm Tướng Triệu Kinh Dân là chỉ huy trưởng lực lượng Liên

Hiệp Quốc hỗ trợ trưng cầu dân ý ở Tây Sahara.

Theo Bates Gill và Chin-hao Huang thì có ít nhất 3 công dân Trung Quốc

hiện đang làm việc tại Đơn vị quân lực, văn phòng kế hoạch nghĩa vụ quân sự và

văn phòng thường trực của Lực lượng gìn giữ hòa bình khu vực châu Á và Trung

Đông tại trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc.

Bên cạnh đó, Trung Quốc đã những biện pháp xử lí yếu tố chính trị một cách

linh hoạt hơn khi thực hiện các hoạt động trợ giúp. Vào năm 2004, nước này bắt

đầu gửi 130 sĩ quan tới lực lượng GGHB của Liên Hiệp Quốc tại Haiti mặc dù

139

Haiti công nhận Đài Loan và sau đó nâng số lượng sĩ quan lên 143 vào đầu năm

2009. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đã thực hiện một động thái như vậy. Vào

cuối những năm 90 Trung Quốc đã phủ quyết những nghị quyết của HĐBA cho

phép các hoạt động gìn giữ hòa bình tại các quốc gia cong nhận Đài Loan như

Guatemala năm 1997 và Macedonia năm 1999. Gill và Chin – hao Guang cho rằng

kể cả những vấn đề cực kì nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh quốc tế

của Trung Quốc như khủng hoảng nhân đạo ở Darfur thì “Bắc Kinh lựa chọn cách

tiếp cận tích cực hơn,ủng hộ sự cần thiết phải có biện pháp hòa giải chính trị và lực

lượng gìn giữ hòa bình kết hợp của cả Liên Minh Châu Phi và Liên Hiệp Quốc

nhằm giải quyết khủng hoảng nhân đạo.

Đầu năm 2008, Trung Quốc đã gửi 140 lính công binh đến Darfur để chuẩn

bị cho lực lượng Liên Hiệp Quốc đông đảo hơn đến khu vực này.

Somalia.

Vào các năm 2003 và 2004, Trung Quốc đã chủ trì các cuộc tranh luận ở

HĐBA về quá trình hòa bình ở Somali. Vào năm 2003, nước này đã sử dụng việc

được quyền soạn thảo nghị quyết về quá trình hòa bình để đưa ra những tuyên bố

và những nghị quyết có liên quan đến vấn đề này. Vào năm 2004. Trung Quốc đã

hối thúc HĐBA thường xuyên ra các tuyên bố của chủ tịch HĐBA về vấn đề

Somali với số lượng gần đôi so với năm trước đó. Trong một hội nghị bất thường

của HĐBA tổ chức tại Nairobi, Kenya (được triệu tập nhằm giải quyết vấn đề

khủng hoảng Darfur) thì Trung Quốc đã thúc giục các thành viên hội đồng đưa ra

tuyên bố về vấn đề Somali trước. Trung Quốc đã thành công trong việc đưa các

nhà lãnh đạo Somali phát biểu tại hội nghị của HĐBA ở Nairobi trước khi thảo

luận về vấn đề Sudan. Kết quả của những nỗ lực của Trung Quốc là HĐBA đã đưa

ra 5 tuyên bố và 5 nghị quyết của chủ tịch hội đồng về vấn đề Somali.

Ý đồ của Trung Quốc khi thực hiện những động thái như vậy là chưa rõ

ràng. Trung Quốc không có những lợi ích kinh tế hay ngoại giao ở Somali. Một

140

giải thích tương đối hợp lí là Trung Quốc tìm kiếm việc nâng cao vị thế với các

nước Đông Phi, là khu vực mà Đài Loan các những mối quan hệ ngoại giao và Mĩ

luôn bị cô lập từ trước đến nay.

Sudan

Các hoạt động của Trung Quốc ở HĐBA rất nổi bật và công khai khi thảo

luận về vấn đề khủng hoảng Darfur. Trung Quốc liên tục sử dụng vị trí của mình ở

Liên Hiệp Quốc để che chắn cho chính phủ Sudan khỏi trừng phạt và sự chỉ trích

của quốc tế.

Từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã bắt đầu tìm cách đưa vấn đề Darfur ra

khỏi nghị trình của HĐBA, cho dù ngay cả khi Kofi Anan và các quan chức Liên

Hiệp Quốc khác hướng sự chú ý của công luận vào khủng hỏang nhân đạo bắt đầu

nổi lên tại khu vực đó. Khi vấn đề Darfur được đưa vào nghị trình của HĐBA,

Trung Quốc đã phản đối hàng hoạt dự thảo áp đặt trừng phạt kinh tế cho chính phủ

Khartoum vì đã ủng hộ các hoạt động quân sự của Janjaweed ở Darfur. Trong các

cuộc thảo luận ở HĐBA, Bắc Kinh đã đe dọa phủ quyết những nghị quyết như vậy

thậm chí ngay cả khi Washington tuyên bố rằng những hành động của Khartoum

được coi là “tội diệt chủng”. Trung Quốc đã chủ động chống lại những nghị quyết

áp đặt trừng phạt của Ủy ban trừng phạt Sudan của HĐBA với lĩnh vực dầu mỏ, áp

đặt cấm vận vũ khí, mở rộng phạm vi cấm vận vũ khí với tất cả các bên tham chiến

ở Darfur, áp đặt những biện pháp bổ sung như cấm ra nước ngoài hay phong tỏa tài

sản cá nhân và đưa vấn đề Sudan đến Tòa án hình sự quốc tế.

Trung Quốc (thường là thông qua Pakistan hay Syria để không phải hứng

chịu những lời chỉ trích) cũng tìm kiếm việc thu hẹp phạm vi các nghị quyết trừng

phạt sau khi giảm bớt ngôn ngữ của các nghị quyết này, bao gồm cả các điều

khoản dẫn nguồn Chương VII của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Bắc Kinh đành

phải chấp nhận nghị quyết của HĐBA số 1590 có nội dung kêu gọi thành lập phái

đoàn Liên Hiệp Quốc ở Sudan (UNMIS) và triển khai 10000 lính. Vào tháng 8

141

năm 2006, Bắc Kinh đã ngăn chặn một buổi bỏ phiếu của HĐBA về nghị quyết

1706 có nội dung tăng quân số của lực lượng UNMIS và kêu gọi triển khai

LLGGHB ở Darfur.

Quan điểm của Bắc Kinh là cần phải có sự chấp thuận của Khartoum khi

triển khai lực lượng của Liên Hiệp Quốc tại Darfur. Tuy nhiên, cho đến giữa năm

2007 thì Khartoum vẫn chưa đồng ý với đề xuất này.

Bắt đầu vào cuối năm 2006, Trung Quốc bắt đầu đóng vai trò chủ động hơn

trong giải quyết vấn đề Darfur bao gồm cả việc gây áp lực lên chính phủ Sudan.

Theo chứng nhận của ủy ban hỗn hợp lưỡng viện do hai phó trợ lí cho bộ trưởng là

Thomas Christensen và James Swan thực hiện thì từ cuối năm 2006, Trung Quốc

đã cho thấy khả năng họ sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế về vấn đề Darfur.

Và nước này đã sử dụng áp lực ngoại giao lên chính phủ Sudan để thay đổi cách

ứng xử của nước này cũng như sử dụng giải pháp chính trị để đàm phán hòa bình

giải quyết vấn đề Darfur. Trung Quốc đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết 1769

thành lập phái đoàn liên hợp của Liên Hiệp Quốc và châu Phi ở Darfur nhưng

chính phủ Sudan lại phản đối việc triển khai lực lượng này.

Trung Quốc đã cam kết triển khai 300 lính công binh và 140 người đã được

gửi đi. Vì vậy, Trung Quốc là nước đầu tiên ngoài châu Phi gửi lực lượng của mình

đến Darfur. Trung Quốc cũng tham gia vào giải quyết các cuộc khủng hoảng nhân

đạo, cung cấp viện trợ trực tiếp và viện trợ 1.8 triệu dollar cho khu vực Darfur và

phái đoàn đặc biệt của liên minh châu Phi.

Các nhà ngoại giao và nhà phân tích của Trung Quốc tương đối rõ ràng cả

công khai lẫn không chính thức về cả mặt hình thức lẫn nội dung của các động thái

của Trung Quốc ở Darfur. Các nhà ngoại giao Trung Quốc đã công khai đưa ra

quan điểm lâu dài của Trung Quốc trong việc phản đối can thiệp từ bên ngoài với

công việc nội bộ của nước khác, đặc biệt trong trường hợp vi phạm nhân quyền

hay khủng hoảng nhân đạo. Nhiều người Trung Quốc lo ngại rằng những cơ sở luật

142

pháp để áp đặt những lệnh trừng phạt hay việc sử dụng vũ lực như vậy có thể

hướng vào Trung Quốc trong tương lai.

Ở cấp độ thấp hơn, những học giả cao cấp của Trung Quốc cho rằng những

nhà lãnh đạo Trung Quốc đơn giản là nghi ngờ các hoạt động chính trị nội bộ của

các đối tác nước ngoài của Trung Quốc. Với các nhà lãnh đạo Trung Quốc thì

không có hệ thống giá trị chung nào nên được Liên Hiệp Quốc áp dụng hoặc sử

dụng trên cơ sở quan hệ song phương.

Quan điểm chủ đạo của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là đẩy mạnh phát triển

và tăng trưởng kinh tế, giải quyết tính hợp pháp của chế độ và các hoạt động của

chính quyền không phải mối quan tâm của Trung Quốc trong các quan hệ song

phương. Những vấn đề như vậy trở nên gần gũi với các nhà lãnh đạo và ngoại giao

Trung Quốc chỉ khi cách tiếp cận của Trung Quốc với các vấn đề nhân đạo làm

ảnh hưởng hình ảnh quốc tế và khả năng nước này tăng cường quan hệ kinh tế

song phương của Trung Quốc. Có nhiều yếu tố cho thấy quan điểm của Trung

Quốc về khủng hoảng ở Darfur bắt đầu thay đổi bởi những tính toán như vậy. Có

sự liên quan rõ nét giữa các ý đồ của Trung Quốc.

Vào cuối năm 2006, nước này đã gây áp lực lên chính phủ Sudan để cho

phép LLGGHB được triển khai ở Darfur và sự gia tăng trong chiến dịch chỉ trích

sự ủng hộ của Trung Quốc với Khartoum của các tổ chức phi chính phủ như là việc

cho rằng Olympic Beijing 2008 là “Olympic của diệt chủng”.

Một ảnh ưởng khác trong việc thay đổi quan điểm của Trung Quốc đã được

nhiều nhà lãnh đạo châu Phi thể hiện trong Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc –

châu Phi ở Bắc Kinh tháng 11 năm 2006.

Hơn nữa, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã nói một cách không chính thức

rằng Trung Quốc có lợi ích kinh tế lâu dài ở Sudan mà cụ thể là việc tham gia vào

ngành dầu khí ở nước này. Vào các năm 2004 và 2005, khi diễn ra những buổi thảo

luận quan trọng của HĐBA về vấn đề Darfur, Sudan là một trong 10 nước xuất

143

khẩu dầu hàng đầu sang Trung Quốc (khoảng 5%). Sudan cũng là nơi mà các tập

đoàn dầu khí lớn nhất của nước này như Sinopec hay tập đoàn dầu khí quốc gia

Trung Quốc có lượng đầu tư rất lớn, biến nước này thành nguồn cung cấp dầu mỏ

cho việc khai thác dầu ở nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc (tiếp theo là

Kazakhstan). Kết quả là những nhà lãnh đạo Trung Quốc không muốn làm mất

một nguồn cung năng lượng quan trọng trong thời điểm mà nước này rất cần tiếp

cận các nguồn dầu mỏ ở nước ngoài.

Đài Loan

Nỗ lực của Trung Quốc nhằm cô lập Đài Loan và thu hẹp quan hệ quốc tế

của nước này đã là nhân tố chính của các hoạt động của Trung Quốc ở Liên Hiệp

Quốc. Từ năm 1971, 3 trong số 6 lần sử dụng quyền phủ quyết, Trung Quốc đã

dung để ngăn chặn viện trợ của Liên Hiệp Quốc cho các quốc gia có quan hệ chính

thức với Đài Loan. Chính sách chống Đài Loan gần đây của Trung Quốc phản ánh

cách tiếp cận mềm dẻo và ít tính đối đầu hơn. Với việc không sử dụng quyền phủ

quyết hay đe dọa dùng quyền này, Trung Quốc đã rất sáng tạo khi xác định việc hỗ

trợ của nước này cho LLGGHB của Liên Hiệp Quốc nhằm giảm bớt không gian

cho các quan hệ quốc tế của Đài Loan và do đó giảm bớt các quốc gia công nhận

Đài Loan. Trung Quốc không còn sử dụng quyền phủ quyết với những hoạt động

như vậy (nếu không thì thường xuyên tìm kiếm sự nhất trí của HĐBA) mà sử dụng

biên pháp tiếp cận ở cấp độ thấp hơn và có vẻ như là hiệu quả hơn. Vào năm 2003,

Trung Quốc đã làm phức tạp khả năng Liên Hiệp Quốc triển khai LLGGHB nhằm

ổn định tình hình ở Liberia cho đến khi Bắc Kinh được đảm bảo rằng chính phủ

mới sẽ chuyển công nhận từ Đài Loan sang Trung Quốc (Chính phủ cũ được lãnh

đạo bởi Charles Taylor đã có quan hệ ngoại giao với Đài Loan từ năm 1987). Khi

HĐBA bắt đầu thiết lập phái đoàn đại diện và gửi lực lượng ổn định tình hình đến

Liberia sau khi chế độ của Charles Taylor sụp đổ, Trung Quốc đã ủng hộ một kế

hoạch triển khai kéo dài 3 tháng cho dù phải cần ít nhất 6 tháng thì mới triển khai

144

và bắt đầu hoạt động của LLGGHB. Sau đó, Trung Quốc đã thuyết phục Liên Hiệp

Quốc để can thiệp nhằm đảm bảo rằng chính phủ hậu Taylor sẽ công nhận Trung

Quốc. Một tháng sau khi nghị quyết 1509 của HĐBA cho phép triển khai lực

lượng ổn định tình hình kéo dài 12 tháng tại Liberia, Trung Quốc và Liberia đã tái

thiết lập quan hệ ngoại giao (vào 11 tháng 10 năm 2003) .

Trái ngược với vấn đề này, Trung Quốc đã sẵn sàng hỗ trợ và gửi quân đến

LLGGHB ở Haiti mặc dù chính phủ nước này có quan hệ ngoại giao chính thức

với Đài Loan. Sự sắp xếp này không phải là không gây ra vấn đề với Bắc Kinh khi

mà một số quan chức Haiti cho rằng hành động của Trung Quốc mang tích khiêu

khích, nhưng sự hỗ trợ của Trung Quốc vẫn được tiếp tục.

Sự mở rộng của Liên Hiệp Quốc.

Vào đầu năm 2005, các hoạt động và ảnh hưởng của Trung Quốc tại HĐBA

đã rõ ràng khi phản ứng về đề xuất mở rộng thành viên HĐBA. Mạc dù Trung

Quốc tương đối thụ động trong các cuộc thảo luận của Liên Hiệp Quốc về cải cách

Liên Hiệp Quốc. (bằng việc tán thành hầu hết các đề xuất của nhóm G77). Trung

Quốc đã hoàn toàn phản đối một đề xuất chính thức vào tháng 4 năm 2005 đề nghị

mở rộng HĐBA có cả Đức, Ấn Độ, Brazil và Nhật. Lí do là sự mở rộng này có sự

góp mặt của Nhật. Trung Quốc cho rằng việc Nhật không đủ tư cách thành viên khi

không muốn đối mặt với quá khứ đầy máu khi nước này xâm lược Trung Quốc và

các nước châu Á khác trong Chiến tranh thế giới 2.

Những người ủng hộ Nhật cho rằng nước này chi tới 19% ngân sách của

Liên Hiệp Quốc trong khi Mĩ chi 21% và Trung Quốc chỉ có 2%. Trung Quốc đã

sử dụng hàng loạt các biện pháp ngoại giao mang tính sáng tạp để ngăn chặn đề

xuất này. Các nhà ngoại giao Trung Quốc đã vận động các đồng nghiệp ở Liên

Hiệp Quốc không ủng hộ nghị quyết này và sau đó là từ chối thông qua. Trung

Quốc gia tăng quan hệ với các nước châu Phi nhằm hủy bỏ đề xuất này 1 cách

thành công. Trung Quốc ủng hộ các nhà ngoại giao châu Phi đòi hỏi ít nhất 2 nước

145

châu Phi được có tên trong bản đề xuất trở thành thành viên của HĐBA và được

quyền phủ quyết. Yêu cầu thứ 2 khiến cho bản đề xuất mở rộng bị hủy bỏ vào

tháng 8 năm 2005.

Với Trung Quốc thì có nhân tố trong nước khiến cho nước này phản đối bản

đề xuất nói trên. Đề xuất của Nhật Bản đã khiến xuất hiện một cuộc vận động rất

lớn trên Internet nhằm phản đối tư cách thành viên của Nhật. Sự kiện này cùng với

các sự kiện khác đã khiến bùng nổ một loạt cuộc biểu tình chống Nhật ở Bắc Kinh

và Thượng Hải vào mùa xuân năm 2005, đã gây thiệt hại hàng triệu dollar cho cả

các doanh nghiệp Trung Quốc. Không rõ rằng liệu chính phủ Trung Quốc có châm

ngòi cho các hoạt động công khai nhu vậy, tạo điều kiện cho các hoạt động này

hay đơn giản chỉ là không phản đối một cách mạnh mẽ. Chính phủ sau đó đã can

thiệp nhằm ngăn chặn biểu tình ở Thượng Hải sau vài ngày cho thấy rằng mặc dù

chính phủ nhận thấy các phong trào biểu tình là có ích nhưng sau đó có thể họ lo

ngại rằng những cuộc biểu tình sẽ được chuyển hướng, vượt ra khỏi vòng kiểm

soát và chuyển thành các cuộc biểu tình chống chính phủ.

Các vấn đề liên quan đến không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở

Liên Hiệp Quốc.

Trung Quốc đã tham gia một cách tích cực vào các diễn đàn của Liên Hiệp

Quốc về kiểm soát vũ khí và không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt như là Hôi

nghị về không phổ biến vũ khí ở Geneve và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế

ở Vienna. Trung Quốc đã dử dụng những diễn đàn đó để phản đối chính sách an

ninh của Mĩ (như là chương trình phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mĩ), hạn chế ảnh

hưởng của Mĩ trong những vấn đề quan trọng và nâng vị trí của Trung Quốc trong

vấn đề không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và kiểm soát vũ khí. Vào cuối

những năm 90, đầu những năm 2000, Trung Quốc đã sử dụng Hội nghị không phổ

biến vũ khí (CD) làm nơi để phản đối chương trình phòng thủ tên lửa của Mĩ.

Trung Quốc đã phong tỏa các hoạt động của hội nghị cho đến khi Mĩ đồng ý với

146

một “hòa ước” có nội dung bắt đầu đàm phán về Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí

trên không gian. Mĩ đã phản đối bước đi này từ rất lâu, thay vào đó, nước này thiên

về hướng đàm phán không chính thức. Trung Quốc tìm kiếm một vị trí trong CD

để tạo ra sự phản đối quốc tế với chương trình phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mĩ và

buộc Mĩ phải đồng ý giới hạn sự phát triển của lực lượng phòng thủ tên lửa đạn

đạo.

Cuối cùng, Trung Quốc đã phải từ bỏ quan điểm này vào năm 2003 khi nước

này nhận ra rằng điều đó là không hiệu quả và Trung Quốc đã chờ đợi quá nhiều

vào CD. Các hoạt động của Trung Quốc trong khuôn khổ IAEA đã trở nên có tính

hợp tác hơn và đồng nhất với các mục tiêu về vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng

loạt của Mĩ. Trung Quốc tìm cách trung hòa các thành viên (chủ yếu là Mĩ) muốn

IAEA trở thành cơ quan có khả năng ngăn chặn mạnh mẽ hơn và quan tâm hơn đến

việc một số nước phớt lờ Hiệp ước không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và các

Hiệp định của IAEA. Ví dụ như nhiều năm Trung Quốc đã phản đối việc ban lãnh

đạo IAEA báo cáo các trường hợp các nước không tuân thủ NPT lên HĐBA.

Trung Quốc cho rằng những vấn đề như vậy nên được giải quyết trong khuôn khổ

của IAEA. Trung Quốc lo ngại rằng một khi những vụ việc như vậy được đưa lên

HĐBA thì các quốc gia như Bắc Triều Tiên hay Iran sẽ trở thành đối tượng của sự

trừng phạt. Trung Quốc cho rằng những sự trừng phạt sẽ trở nên phản tác dụng với

việc giải quyết thông qua con đường đàm phán mà Trung Quốc luôn mong muốn.

Cách tiếp cận của Trung Quốc bắt đầu thay đổi vào khoảng năm 2003, tuy

nhiên vào tháng 2 năm 2003 và tháng 3 năm 2004, tình hình ở Bắc Triều Tiên đã

có diễn biến leo thang. Trung Quốc đã ủng hộ Ban lãnh đạo IAEA đệ trình một

nghị quyết lên HĐBA báo cáo về vấn đề Bắc Triều Tiên phớt lờ HĐBA. Trung

Quốc đã không hề có cách làm như vậy với Bình Nhưỡng trong suốt những năm

90. Vào tháng 9 năm 2005 và tháng 2 năm 2006, Trung Quốc đã kiềm chế và sau

147

đó đã bỏ phiếu thông qua lời kêu gọi bỏ phiếu 2 nghị quyết báo cáo việc không

tuân thủ của Iran lên HĐBA.

Sự thay đổi này của Trung Quốc là kết quả của việc gia tăng lo ngại về sự

ngoan cố của Bắc Triều Tiên và Iran, quan tâm nhiều hơn đến ảnh hưởng của việc

phổ biến vũ khí hạt nhân với sự ổn định ở Đông Bắc Á và Trung Đông và có lẽ

rằng Trung Quốc đã nhận ra rằng quốc tế ngày càng lo ngại vấn đề phổ biến vũ khí

hạt nhân và Trung Quốc đã ngày càng đứng ngoài cộng đồng thế giới.

Một ví dụ khác của sự thay đổi các hoạt động của Trung Quốc về vấn đề

không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở các cơ quan của Liên Hiệp Quốc là

việc nước này ủng hộ nghị quyết 1540 của HĐBA chống lại phổ biến vũ khí hủy

diệt hàng loạt. Trong quá trình soạn thảo nghị quyết 1540, Trung Quốc đã ủng hộ

một cách mạnh mẽ việc gọi sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt là “mối đe dọa

với hòa bình và an ninh quốc tế” theo như nội dung Chương VII của Hiến chương

Liên Hiệp Quốc.

Cho đến giờ thì nước này vẫn chưa muốn nghị quyết có ngôn ngữ tạo nên cơ

sở pháp lí cho việc trừng phạt các hoạt động liên quan đến vũ khí hủy diệt, điều mà

chính phủ Trung Quốc cho rằng là vi phạm Luật quốc tế. Với sự ủng hộ của Trung

Quốc và các nước khác, Nghị quyết 1540 đã từ một sáng kiến chống phổ biến vũ

khí hủy diệt (không cấm việc trừng phạt) thành một nghị quyết ràng buộc nghĩa vụ

pháp lí với các quốc gia thành viên với việc ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt.

Nghị quyết yêu cầu các nước thành viên có bản báo cáo kiểm soát việc không phổ

biến vũ khí hủy diệt ở trong nước và một cơ chế đa phương hợp tác giải quyết vấn

đề không phổ biến vũ khí hủy diệt.

Tóm lại, Trung Quốc đã có những hoạt động có tính tích cực hơn trong

khuôn khổ Liên Hiệp Quốc và sử dụng việc giải quyết Liên Hiệp Quốc để đạt được

các lợi ích của chính sách đối ngoại toàn cầu đang ngày càng tăng của Trung Quốc.

Thậm chi khi mà nước này xung đột với Mĩ và các cường quốc khác. Ý muốn của

148

Bắc Kinh là đi đầu trong việc giải quyết các vấn đề có xu hướng gia tăng. Sự hợp

tác của Bắc Kinh với Moscow đã tạo nên cơ hội để nước này thực hiện các mục

tiêu của chính sách đối ngoại mà không bị cô lập hay không theo kịp ý kiến của

công luận của cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đã phản đối các sáng kiến của Mĩ và

tìm kiếm việc trung hòa các hành động của Liên Hiệp Quốc có va chạm với lợi ích

của Trung Quốc như là các trường hợp Sudan và Iran. Trung Quốc sẽ tiếp tục sử

dụng những biện pháp này để thúc đẩy việc thực hiện trật tự thế giới theo quan

điểm của họ và nếu có thể thì hạn chế việc Mĩ thể hiện sức mạnh ngoại giao và

quân sự trong tương lai, đặc biệt khi mà điều đó ảnh hưởng tới lợi ích của Trung

Quốc.

Quá khứ lẫn lộn trong việc thực hiện những lời hứa về thương mại quốc tế,

không phổ biến vụ khí hạt nhân và nhân quyền của Trung Quốc cho thấy đây sẽ là

một khó khăn mà quốc gia này cần xử lý. Việc Trung Quốc diễn giải một số cam

kết thương mại đã từng dẫn tới xích mích với các quốc gia ASEAN và những đối

tác kinh tế ở Châu Phi. Mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia kể trên cũng

như nhiều quốc gia khác có thể bị phá hủy một khi những nước này đặt câu hỏi về

mức độ đáng tin cậy của Trung Quốc hay hơn hết là những dự định của nước này.

Thứ hai, cách Trung Quốc tiếp cận với những câu hỏi về vấn đề Đài Loan

càng làm phức tạp thêm hình ảnh của Bắc Kinh. Cách tiếp cận đôi khi tỏ ra đối

đầu, hung hăng của Bắc Kinh với các quốc gia khác về những vấn đề liên quan tới

Đài Loan cho thấy những hạn chế trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm tỏ ra ôn hòa

và tử tế hơn. Mặc dù cách cư xử này không thường xuyên như trước đây, song vẫn

có thể thấy những ví dụ tiêu biểu của thái độ đó trong thập kỷ qua. Năm 2004, các

quan chức Trung Quốc công khai phê phán Thử tướng sắp nhậm chức của

Singapore, ông Lý Hiển Long, về chuyến thăm Đài Loan chưa được quyết định của

thể, sau đó, chỉ trích ông này vì cuối cùng đã thức hiện chuyến thăm. Trong hai

năm tiếp đó, Trung Quốc ngừng tất cả các cuộc hội đàm cấp cao với Singarpore.

149

Vào tháng 3 năm 2005, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc công khai yêu cầu

Australia dừng can thiệp vào một xung đột quân sự ở Đài Loan, bất chấp cam kết

của Canberra với Washington thông qua Hiệp ước An ninh giữa Autralia – New

Zealand và Hoa Kỳ. Việc Trung Quốc thông qua Luật Chống lại các hoạt động ly

khai vào mùa xuân năm 2005 đã đóng góp thêm vào quyết định của nhiều nước

Châu Âu về việc hủy bỏ quyết định sắp tới của Liên minh Châu Âu (EU) về việc

dỡ bỏ cấm vận vũ trang năm 1989 lên Trung Quốc. Mùa xuân năm 2006, Đại sứ

Trung Quốc tại Hàn Quốc…, công khai khuyên các quan chức Hàn Quốc nên hạn

chế vai trò của lực lượng quân đội Mỹ đóng tại Hàn Quốc vì an ninh của nước này

và không cho phép quân đội Mỹ được sử dụng trong những vấn đề khu vực có thể

xảy ra (như vấn đề Đài Loan). Việc này khơi ngòi những vấn đề nhạy cảm của Hàn

Quốc đối với việc Trung Quốc can thiệp vào liên minh chính trị, góp phần làm

căng thẳng thêm những cuộc tranh luận về nhu cầu cắt giảm sự phụ thuộc về mặt

kinh tế của Hàn Quốc vào Trung Quốc.

Những hành động và tuyên bố trên từ phía Bắc Kinh cho thấy “sự gia tăng”

của một tia sáng thiếu thiện chí và thường xuyên nhắc nhở các nước về mức độ sẵn

sằng tham gia ngoại giao cuỡng bức của Trung Quốc. Cuối cùng, bất kỳ hoạt động

sử dụng quân đội nào của Trung Quốc (dù giới hạn hay trên diện rộng) để trả lời

câu hỏi về Đài Loan đều làm gia tăng những quan ngại vốn đã tiềm tàng, đặc biệt

trong các quốc gia Đông Nam Á về lịch sử của sự can thiệp và ép buôc của Trung

Quốc cũng như sự tham gia ngày càng nhiều của Trung Quốc vào các vấn đề của

khu vực có thể đe dọa lợi ích an ninh của các nước ASEAN.

Thứ ba, những thách thức về khả năng điều hành một cách nhạy bén của

Trung Quốc đang trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến nhận thức về tình hình bên

ngoài của quốc gia này, những tác động này do vậy mang sắc thái tiêu cực. Vấn đề

về quản lý nghiêm trọng nhất của Trung Quốc là vấn đề tham nhũng, một sự gia

tăng những căng thẳng bên ngoài trung tâm, những yếu kém trong việc kiểm soát

150

các vấn đề môi trường, hệ thống chăm sóc sức khoẻ tồi tàn và sự gia tăng của chủ

nghĩa dân tộc, cản trở khả năng của Bắc Kinh quản lý những nhân vật hết sức phức

tạp trong nền kinh tế khổng lồ và bộ máy hành chính cồng kềnh của quốc gia này.

Những nhược điểm này giới hạn khả năng điều hành một cách có hiệu quả của

chính phủ đối với các vấn đề trong nước có thể lan sang cả các quốc gia láng

giềng. Những phản ứng ban đầu chậm chạp và tuỳ tiện của Trung Quốc trước sự

bùng phát của dịch SARS ở phía nam nước này đã cho các quốc gia khu vực Đông

Nam Á thấy rõ mức độ khủng hoảng của hệ thống y tế công cộng và những vấn đề

môi trường có thể đe dọa nền kinh tế của họ do sự lơ là từ phía Bắc Kinh. Cuối

năm 2005, sự thất bại của chính phủ Trung Quốc trong việc nhanh chóng kiểm soát

quá trình ô nhiễm chất hóa học trên sông Tùng Hoa, Đông Bắc Trung Quốc dẫn tới

việc những chất độc này sau đó chảy tràn sang Liên bang Nga. Những ví dụ có

thừa đó cho thấy những quan ngại của các quốc gia khác liên quan tới khả năng

không thể đáp ứng những cam kết đa dạng của Trung Quốc như là hệ quả của tệ

tham nhung, căng thẳng bên trong bộ máy cầm quyền và hoạt động kiểm soát trì

trệ của chính phủ Trung Quốc trong một vài lĩnh vực.

Thách thức thứ tư bắt nguồn từ sự yếu kém của hệ thống ra quyết định về an

ninh quốc gia, đặc biệt những hệ thống liên quan tới việc quyết định giải quyết

khủng hoảng. Bộ máy cầm quyền của Trung Quốc trong việc đưa ra những quyết

định liên quan tới an ninh quốc gia bị ràng buộc bởi những đòi hỏi kín đáo quá

mức; sự xa cách trong cấu trúc ra quyết định của người dân, của giới trí thức và

của quân đội; và sự thiếu hụt những cách giải quyết có tính chất kết hợp giữa các tổ

chức dân sự và các tổ chức của quân đội. Múc độ hiển nhiên của những yếu kém

trên bao gồm cả những phản ứng chậm trễ và tùy tiện của Trung Quốc trước dịch

SARS và sự nổi bật trong khả năng giải trình của Quân đội giải phóng nhân dân

Trung Quốc (PLA) trong sự cố Đảo Hải Nam (EP-3), tháng 4 năm 2001, và phản

ứng chậm chạp, những lời giải thích không rõ ràng về vụ thử nghiệm vũ khí trực

151

tiếp chống vệ tinh tháng 1 năm 2007. Những hạn chế này thậm chí có thể sẽ trở

thành trở ngại lớn hơn đối với Trung Quốc khi PLA đẩy mạnh khả năng quân sự

cũng như điều hành những hoạt động quân sự bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, như

các tầu ngầm tuần tra, điều mà chắc hẳn sẽ làm dấy lên những câu hỏi về tham

vọng của Trung Quốc tại khu vực.

Thách thức thứ năm là trữ lượng cũng như khả năng huy động các nguồn

lực quốc gia của Trung Quốc để có thể đóng vai trò tích cực tại khu vực Đông Á –

đặc biệt khi so sánh với nguồn lực mà Hoa Kỳ và các nước đồng minh sở hữu. Bất

chấp những hoạt động ngoại giao đang được xúc tiến mạnh mẽ, Trung Quốc vẫn bị

giới hạn về các nguồn lực mà quốc gia này có thể sử dụng và sẵn sàng huy động để

theo đuổi lộ trình ngoại giao. Ví dụ rõ ràng nhất cho sự giới hạn trên là khoản trợ

giúp ít ỏi mà Trung Quốc tham gia quyên góp cho những nạn nhân sóng thần ở

Đông Nam Á đầu năm 2005. Trung Quốc đã cung cấp khoản cứu trợ tài chính và

vật chất trị giá 83 tỷ đôla. Mặc dù đây là khoản cứu trợ nhân đạo lớn nhất của

Trung Quốc từ trước tới nay, song nó lại tỏ ra ít ỏi so với con số hàng triệu đôla mà

Mỹ, Australia và Nhật Bản đóng góp cho những hoạt động cứu trợ. Khả năng tập

hợp quân đội một cách lô-gíc của Hoa Kỳ và những đồng minh tại khu vực châu Á

(chủ yếu là Nhật Bản và Ấn Độ) để phân phát những khoản cứu trợ này cũng vượt

xa những gì mà Trung Quốc sở hữu.

Thứ sáu, khi Trung Quốc “vươn ra toàn cầu” với những hoạt động đầu tư và

mua tài nguyên thiên nhiên ở nước ngoài, Bắc Kinh đứng trước nguy cơ bị xem

như một nền kinh tế chuyên đi khai thác, gây thiệt hại cho các nước đang phát triển

trong khi đóng góp rất ít cho nền kinh tế của các nước này. Chính phương thức vận

hành của các công ty Trung Quốc hoạt động ở nước ngoài, trong đó các công ty

này nhập khẩu nhân công và hàng hóa Trung Quốc phục vụ các dự án cơ sở hạ

tầng ở địa phương nước sở tại, khiến Trung Quốc phải đối mặt với thách thức này.

Những quan điểm này đã được nhận định bởi một vài quốc gia Mỹ La tinh và châu

152

Phi. Quan niệm trên về Trung Quốc, một khi được phát triển thêm, có thể hủy hoại

đặc tính bên trong của cách cư xử mang tính quốc tế của Trung Quốc: tính đồng

nhất của quốc gia này với tư cách một quốc gia đang phát triển, chống lại chủ

nghĩa thực dân mới như là một cách thức mới để khai thác tài nguyên.

Thách thức ngoại giao cuối cùng cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc là hiệu

quả hạn chế của những quan điểm mang tính dân tộc về những quyết định chính

sách đối ngoại. Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã sử dụng quan điểm dân

tộc như là một công cụ để hình thành khuôn khổ của những quyết định chính sách,

họ vẫn phải đối mặt với những hạn chế cố hữu trong nỗ lực vận dụng chủ nghĩa

dân tộc. Sự phát triển của quan điểm chống Nhật tại Trung Quốc nói riêng đã hạn

chế khả năng của những nhà hoạch định chính sách Trung Quốc theo đuổi một

hướng tiếp cận cân bằng hơn trong mối quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản – mối

quan hệ phản ánh tốt hơn những lợi ích kinh tế và an ninh mà Bắc Kinh có được

một khi có quan hệ ổn định và thân thiện hơn với Tokyo. Trong giai đoạn quan hệ

song phương của Trung Quốc với Nhật Bản, Mỹ và các quốc gia khác căng thẳng,

những người phản đối theo chủ nghĩa dân tộc đã và sẽ tiếp tục có những tác động

dần dần lên khả năng hạ nhiệt và giải quyết vấn đề của chính phủ.

Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc tỏ

ra đã bắt đầu ý thức được những hạn chế trên và họ đang tập trung xử lý nhận thức

của công chúng. Trong những năm gần đây, những tuyên bố của Bộ Ngoại Giao

cũng như Đảng Cộng sản Trung Quốc về những vấn đề quốc tế trở nên đầy đủ hơn

với việc nhắc tới tầm quan trọng của ngoại giao “lấy con người là trung tâm” và

“cân bằng lợi ích tổng thể của quốc tế và tình hình cụ thể của quốc gia”. Cả hai

điều trên đều dẫn dắt tới việc tránh những phản đối công khai đối với những quyết

định chính sách mang tính quyết định. Bao gồm cả việc đem lại cơ hội cho những

quyết sách.

Tổng Kết

153

Động lực trong nước của Trung Quốc hiện rõ ràng đã mở rộng ra đến cách

thái độ ứng xử quốc tế. Trung Quốc đang mở rộng đến những khu vực cũng như

vấn đề mà trước đó chứa rất ít lợi ích của nó, thêm vào là việc sử dụng hiệu quả

những công cụ trước đó ngoài tầm. Thực sự Trung Quốc đã trở thành một diễn

viên đích thực, với lợi ích và tầm ảnh hưởng đã vượt ra khỏi Châu Á. Trung Quốc

đang phát triển và được định hình bởi các quốc gia, tổ chức khắp mọi nơi trên thế

giới. Trung Quốc vẫn chưa thể trở thành cường quốc trên thế giới nhưng khoảng

cách đang ngày càng ngắn dần, phụ thuộc vào thước đo của mỗi người. Và khi

Trung Quốc hoành thành quá trình này, khái niệm cường quốc thế giới có thể sẽ có

một tầng nghĩa khác ngoài ý nghĩa vị trí bá chủ của Hoa Kỳ trên hệ thống quốc tế

sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh.

Chủ nghĩa toàn cầu của Trung Quốc đang được kích thích bởi một tập hợp

rất nổi bật về nhận thức, mục tiêu và chính sách - một vài trong số đó đã có từ lâu

đời trong khi một số mới mẻ hơn, như được dẫn chứng trong chuyên khảo này.

Đến một chừng mực mà bất cứ quốc gia nào sở hữu và ban hành chiến lược chính

sách đối ngoạ, Trung Quốc cũng không thể thiếu. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc

luôn ám ảnh những mục tiêu lâu dài đưa đến một quốc gia phát triển, bảo vệ biên

giới lãnh thổ và chủ quyền đất nước, và bảo vệ vị thế của một quốc gia lớn mạnh.

Và để làm được điều đó, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã vẽ nên

chính sách đối ngoại tìm kiếm hoàn thành năm mục tiêu cụ thể: tăng trưởng và

phát triển kinh tế, tái cam kết, chống lại những kiềm chế, đa dạng hóa các nguồn

lực, giảm bớt không gian quốc tế của Đài Loan. Đến mùa hè 2009, những mục tiêu

lau dài cũng như hiện thời đều là những bánh lái bền bỉ và phù hợp của thái độ ứng

xử quốc tế của Trung Quốc.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiếp tục tiếp cận chính sách đối ngoại và quan

hệ quốc tế thông qua lăng kính quan hệ bên trong: các chính sách đối ngoại sẽ phục

vụ như thế nào cho những nhiệm vụ ngày càng phức tạp như phát triển kinh tế và

154

xã hội trong nước. Điều đó không có nghĩa Trung Quốc là một quốc gia thiển cận

chỉ muốn khép trong mình ốc hay các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiếp cận chính

sách đối ngoại ít hơn. Sự thực về hành xử quốc tế của Trung Quốc không thể sâu

hơn thế. Sự liên kết giữa chính sách đối nội và đối ngoại giúp cho Trung Quốc

mạnh hơn và đảm nhận phạm vi mới từ thập kỉ trước, nhưng cũng chính những liên

kết này sẽ tiếp tục có ảnh hưởng rõ nét lên hành vi đối ngoại của Trung Quốc.

Mối liên kết trong-ngoài đã chuyển từ thụ động sang chủ động. Sự phát triển

và ổn định bên trong yêu cầu một chính sách đối ngoại chủ động. Đối với Trung

Quốc, những hành động cục bộ hiện tại yêu cầu nó phải có suy tính mang tầm tổng

thể. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc không còn chủ là tạo ra môi trường an

toàn và ổn định để tiếp tục tái thiết, như Deng đặt ra 3 thập kỷ trước. Hiện tại,

chính sách đối ngoại của Trung Quốc góp một phần đáng kể vào việc đối mặt

những thách thức ngày càng phát triển của nó: Trung Quốc cần ngoại giao để thâm

nhập vào thị trường, đầu tư, công nghệ, và nguồn tài nguyên – các nguồn quan

trọng để phát triển bền vững. Thực sự, trong suốt hơn hai thập kỷ đầu tái thiết,

những nhu cầu nội tại của Trung Quốc đã trở thành bánh lái cũng như kiềm chế

hành động với bên ngoài.

Logic của chính sách đối ngoại của Trung Quốc được chấp nhận rộng rãi từ

các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc và có vẻ sẽ còn tiếp tục như vậy.

Nhưng cũng chính xác khi cho rằng mục tiêu quốc tế của Trung Quốc sẽ còn tiếp

tục phát triển. Không một mục tiêu lâu dài nào của Trung Quốc (ví dụ chủ quyền

và toàn vẹn lãnh thổ) hay những mục tiêu trước mắt (như tái cam kết và phòng

chống kiềm chế) có vẻ sẽ thay đổi trong thời gian tới, giả dụ không có một sự

chấm dứt đột ngột nào trong chính sách đối nội và đối ngoại cả Trung Quốc. Các

thế hệ lãnh đạo hiện tại và kế tiếp của Trung Quốc đều chia sẻ hệ tư tưởng của

Đảng Cộng Sản Trung Quốc về việc phát triển toàn diện các sức mạnh quốc gia để

155

giúp đất nước tái sinh, họ cũng hiểu các chính sách đối nội điều chỉnh các chính

sách đối ngoại.

Điều đó có nghĩa, các lợi ích và mục tiêu của Trung Quốc đang dần tiến

triển khi Trung Quốc có những trách nhiệm và gánh nặng mới khi tham gia vào các

vấn đề quốc tế, đặc biệ trong các khu vực như Trung Đông hay Mỹ La tinh, những

nơi mà hàng thế kỷ chỉ là thứ yếu trong những tính toán trong hoạt động đối ngoại

của Trung Quốc. Tuy nhiên các mối lợi ích và trách nhiệm mới này cần xem xét

trong tình huống các lô gíc đối nội thông thoáng hơn đối với chính sách đối ngoại.

Ví dụ, Trung Quốc biết rằng nó cần phải đảm đương các trách nhiệm mới tuy

nhiên cũng cảm thấy mệt mỏi với điều đó vì lo sợ nó thiếu các chuyên môn cần

thiết để thành công các dự án mạo hiểm đó sẽ thâm hụt các nguồn lực phát triển đất

nước.

Sự thay đổi bản tính về đối ngoại của Trung Quốc được phản ánh sâu hơn

qua sự tiến triển từ việc giữ vững lập trường cứng nhắc sang những nguyên tắc

chính sách đối ngoại lâu dài, như không can thiệp vào chính sách đối nội của các

quốc gia khác. Những nhận thức và lợi ích mới của Trung Quốc giúp nó có sự thay

đổi dần từ cứng nhắc ban đầu qua những nguyên tắc này – hoặc như cách nói của

Trung Quốc, “cách giải thích linh hoạt”. Trung Quốc đã làm điều đó để cho phép

quản lý các vấn đề địa phương có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và an ninh

cũng như danh tiếng (như khủng hoảng Darfur ở Sudan hay sự bất ổn chính trị ở

Myanmar). Cùng với sự phát triển của các nước khác ở Châu Phi và Đông Nam Á

và việc Trung Quốc dễ dàng hơn khi sử dụng ảnh hưởng để tác động đến sự thay

đổi, Trung Quốc cũng dần nhận ra giá trị của việc thúc đẩy ổn định chính trị và

giảm bạo lực ở những khu vực này. Sự thay đổi trong phương pháp tiếp cận của

Trung Quốc cũng được xúc tác từ sức ép bên ngoài ở dạng những lời lẽ của Hoa

Kỳ, các nước Châu Phi cũng như các tổ chức phi chính phủ. Cuối cùng, các nhà

156

lãnh đạo Trung Quốc đã lựa chọn giúp đỡ trong quá trình ổn định và quản lý các

khủng hoảng khu vực này.

Những hàm ý về sự ổn định khu vực và quốc tế

Ba ngụ ý lớn nhất về ổn định khu vực và quốc tế được nói đến trong phần

nghiên cứu này. Thứ nhất, Trung Quốc đang hoạt động mạnh hơn bên trong hệ

thống quốc tế hiện tại để hoàn thành các mục tiêu chính sách đối ngoại của nó.

Trung Quốc không phải đang cố gắng hủy hoại hay thay đổi đáng kể hệ thống luật

lệ quốc tế, các điều luật trong chính sách kinh tế và an ninh. Mà có vẻ nó muốn tìm

cách để kiểm soát chúng để tăng cường cho những lợi ích quốc tế của nó – một

phương pháp được chứng minh là thành công đối với Trung Quốc.

Nói chung, các chính sách đối ngoại của Trung Quốc thì tập trung nhiều vào

ảnh hưởng quy mô, sự hấp dẫn, và những mong đợi của nền kinh tế Trung Quốc và

sự liên kết sâu của nó với các thể chế đa phương – quốc tế và khu vực – để phát

triển tầm ảnh hưởng và tầm cỡ, để tăng cường cơ hội tiếp cận các yếu tố giúp phát

triển đất nước, và giảm các kiềm chế lên tự do hành động của Trung Quốc. Trong

lúc Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng vào một số khu vực nhất định và các thể

chế đa phương, nó cùng lúc cố gắng điều chỉnh sao cho chúng phù hợp các mục

tiêu của mình. Vai trò Trung Quốc trong việc hình thành EAS và SCO và những nỗ

lực phòng chống mở rộng Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc là những minh chứng

rõ ràng nhất về khả năng tác động của Trung Quốc trong các tổ chức đa phương để

đưa đến những mục tiêu cụ thể của Trung Quốc.

Trung Quốc đã thành công trong việc thi hành phương pháp này theo cách

có vẻ như không ngay lập tức tỏ ra hung hăng hay đe dọa đối với các nước Đông

Nam Á và hơn thế. Ở thế cân bằng, Trung Quốc đã có những hiệu quả trong việc

tái khẳng định nhiều nước Châu Á và ngăn chặn trước sự phát triển của những liên

minh khu vực tìm kiếm cân bằng quyền lực với Trung Quốc. Kể từ đầu thập kỉ

này, các chiến lược của Trung Quốc đã cho phép nó đối nghịch với những chính

157

sách đối ngoại của Hoa Kỳ, điều mà dường như là đơn phương, cưỡng bức và có

xu hướng quân sự đối với nhiều quốc gia. Nhận định của nhiều quốc gia rằng chính

quyền Bush đã bỏ qua các thể chế quốc tế và xu hướng sử dụng quân sự đã tạo

thêm lý do khiến những nỗ lực của Trung Quốc có vẻ dễ hợp tác và dự đoán hơn là

Hoa Kỳ.

Hiện tại, các ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thể chế quốc tế đã bị giới

hạn và rời rạc. Có nhiều ví dụ hơn Trung Quốc dần chấp nhận các luật lệ quốc tế

hơn là phản đối hay cố gắng thay đổi chúng (và thành công). Nhìn tổng thể, Trung

Quốc đã chấp nhận nhiều dự luật về thươn mại liên kết và hạn chế phổ biến vũ khí

hạt nhân, mặc dù có một lý lịch phức tạp. Thậm chí ở Đông Á, ngoại vi chiến lược

của Trung Quốc, nó đã phải nhân nhượng khi vấp phải sự phản đối của các quốc

gia trong khu vực về việc thành lập một tổ chức đa phương lãnh đạo là Trung Quốc

(như EAS). Ở Đông Nam Á, Trung Quốc tỏ ra cho tới hiện giờ đều chấp nhận

những quy phạm khu vực về cách giải quyết xung đột và hứa sẽ giải quyết các mâu

thuẫn lãnh hải bằng con đường hòa bình. Mặc dù thái độ cuối cùng của Trung

Quốc về…

Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Trung Quốc tập trung mạnh vào việc

làm đòn bẩy kích cỡ, sự kêu gọi, và những mong muốn của nền kinh tế Trung Hoa

và sự liên quan sâu sắc của nó đến sự thành lập – toàn cầu và khu vực - nhằm mở

rộng ảnh hưởng và tầm vóc của nó, gia tăng con đường đi đến tăng trưởng kinh tế,

đồng thời giảm thiểu những o ép trong việc tự do hành động của Trung Hoa. Một

khi sự liên quan của Trung Hoa với khu vực và quan hệ đa phương đã trở nên sâu

sắc nó vẫn đang luôn kiếm tìm phương thức hình thành những mục tiêu của Trung

Hoa. Vai trò của Trung Hoa trong việc tạo dựng EAS và SCO, cũng như những nỗ

lực nhằm giảm bớt sự bành trướng của Liên Hiệp Quốc. Hội Đồng Bảo An là ví dụ

điển hình mà Trung Quốc sự dụng trong sắp xếp trật tự đa phương nhằm củng cố

mục tiêu chính của nó

158

Trung Quốc đã thành công khi thực hiện cách tiếp cận này đó là không xuất

hiện ngay lập tức 1 cách gây hấn hay mang đe dọa đến cho các quốc gia khác ở

Đông Nam Á và… Về thế cân bằng, Trung Quốc tỏ ra hiệu quả trong việc bảo hộ

cho một số quốc gia châu Á và đầu cơ cho sự phát triển của hợp tác khu vực, tìm

kiếm thế cân bằng cho quyền lực của Trung Quốc. Từ đầu thập kỷ, những mục tiêu

của Trung Quốc đã cho phép nó hình thành nên 1 thế đối lập rõ ràng so với chính

sách đối ngoại đơn phương, cưỡng bức và sử dụng quân lực đối với 1 số quốc gia

của Mỹ.

Nhận thức được điều mà chính quyền Bush đã làm tổn hại đến sự thành lập

quốc tế và việc nghiên về sự dụng vũ trang của Mỹ đã càng chứng tỏ thêm rằng

những nỗ lực của Trung Quốc xem ra mang tính hợp tác và có thể lường trước

được hơn là Hoa Kỳ . Để thích hợp với thời đại, việc thành lập các thể chế quốc tế

của Trung Quốc đã được giới hạn và chia theo từng giai đoạn. Có thêm những ví

dụ về việc Trung Quốc đang từng bước chấp hành theo luật quốc tế thay vì chống

đối, và sau đó nỗ lực chỉnh sửa lại cho phù hợp 1 cách thành công). Với quốc tế,

Trung Quốc đã loại bỏ 1 lượng khổng lồ những thương mại phức tạp và những ký

kết mọc lên như nấm dù là với 1 sự bằng lòng…

Tại Đông Nam Á, chính quyền Bắc kinh xuất hiện như để chấp thuận những

luật thông thường trong giải quyết xung xung đột và những nỗ lực của Trung Quốc

nhằm ảnh hưởng lên chính sách của các quốc gia khác và đã phần nào dc giới hạn

và tập trung sâu vào những vấn đề đặc biệt nhạy cảm của Trung Quốc ví dụ như

vấn đề Đài Loan và Mông Cổ. Trong những ví dụ này, cái giá phải trả cho những

vấn đề mục tiêu trong việc điều tiết của Trung Quốc thường thấp và lợi nhuận là

rất quan trọng. Cũng có thêm vài ví dụ nữa trong việc ra quyết định xác đáng (vì

những lợi ích quốc gia) đáp lại nhưng can thiệp chính sách của Trung Quốc.

Trung Quốc tỏ ra hiệu quả nhất trong việc nâng cao vị thế bản thân so với

các quốc gia Châu Á, Phi và Mỹ Latin; những thành phần mà hiện nay đã nhận

159

thức đc quan điểm và mối quan tâm của Trung Quốc. Nhưng ảnh hưởng hành động

lên hành vi của các chủ thể khác đã bị giới hạn và chia theo giai đoạn. Bất chấp sự

hiện diện gia tăng và ảnh hưởng lẫn nhau đối với các quốc gia và thế chế khác trên

khắp quốc tế, những ví dụ cho thấy Trung Quốc thành công trong việc sử dụng

chính sách ngoại giao của mình nhằm thay đổi hành vi của các chủ thể khác là rất

ít.

Một điều chắc chắn rằng Trung Quốc bất mãn với 1 vài thuộc tính của hệ

thống quốc tế hiện thời. Trung Quốc không chấp nhận khẩu hiệu hiện thời của Đài

Loan ngăn cản đảo quốc này tách biệt khỏi Trung Hoa lục đia vẫn luôn là mối quan

tâm an ninh quốc gia hàng đầu. Tuy nhiên, chính sách của Trung Quốc về vấn đề

này.

Cách giải quyết của Trung Quốc trước hàng loạt vấn đề lãnh thổ gây tranh

cãi trên vùng đất biên giới và sự dàn xếp trong thập kỷ vừa qua về những tranh cải

lãnh hải. Tuy nhiên, cho dù Trung Quốc đang tìm kiếm những giải pháp tái kết hợp

với Đài Loan thì mục tiêu này tỏ ra không thực tế. Có nghĩa là, chính quyền Bắc

Kinh nhìn nhận sự mở rộng đất đai như là 1 cách để khẳng định sự hồi sinh quốc

gia như là 1 đại quyền lực. Hành vi của Trung Quốc về những tranh cãi vùng lãnh

hải vẫn đang dc theo dõi, đặc biệt là đối với vùng biển phía Nam Trung Quốc.

Ngoài ra Trung Quốc cũng bất mãn với vị trí của toàn cầu vượt trội hơn của Mỹ,

thúc đẩy phần nào sự nhận thức về việc Mỹ đang tìm cách thông qua đường lối

ngoại giao, kinh tế và sức mạnh quân sự thúc đẩy một xu hướng phát triển của nền

thị trường tự do dân chủ. Lịch trình thúc đẩy dân chủ của chính quyền bush đã là 1

mối quan tâm đặc biệt qua suốt các đời lãnh đạo Trung Hoa.

Chiến tranh Iraq và “Cuộc cải cách màu sắc” ở Trung Đông đã làm tăng

thêm những mối quan ngại. Chính sách tiếp cận gần đây của Mỹ đã khiến cho

Trung Quốc trở nên thận trọng đề phòng sức mạnh cũng như sự đe dọa từ Mỹ mà

có khả năng là nhằm vào Trung Quốc. Điều này đã thúc đẩy Trung Quốc phải nỗ

160

lực liên kết với các quốc gia khác đặc biệt là Nga, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của

Mỹ trên toàn cầu cũng như ở châu Á.

Sự đa dạng hóa

Cả trên lý thuyết và trong thực tế, Trung Quốc đang đuổi theo chiến lược đa

dạng hóa quốc tế. Trung Quốc đang tiến hành việc đó cùng lúc với việc mở rộng

nguồn lực kinh tế mạnh mẽ, an ninh, và khẩu hiệu.

Trung Quốc đang sử dụng chính sách của mình nhằm rộng mở đường vào

thị trường đầu tư, công nghệ và tài nguyên – chìa khóa mở cánh cửa tăng trưởng

kinh tế và công cuộc hiện đại hóa. Trong những năm đầu Trung Quốc bắt tay vào

cải tổ và mở cửa nguồn lực bên ngoài của sự tăng trưởng chủ yếu là thương mại và

đầu tư với 1 lượng nhỏ của những nền kinh tế dc công nghiệp hóa quy mô rộng,

chẳng hạn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, hay Đông Âu. Chỉ trong vòng thập kỷ vừa qua,

các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đi đến nhận thức rằng con đường duy nhất để duy

trì mức hiện đại hóa cao đó là phải chủ động hơn trong giao lưu quốc tế. Tìm kiếm

thị trường mới, đầu tư, kỹ thuật và công nghệ và tài nguyên sự hội nhập của nền

kinh tế nội quốc Trung Hoa vào với các quốc gia ĐNA và mối liên hệ ngày càng

thắt chặt với châu Phi, Mỹ Latin và cả Trung Đông đã dẫn đường cho xu hướng

này. Việc mở rộng thông thương với 3 khu vực hứa hẹn sẽ là chiếc chìa khóa để

duy trì xuất khẩu trong bối cảnh thụt lùi hiện nay trên toàn cầu. Chính sách này cho

phép Trung Quốc giảm bớt sự phụ thuộc vào 1 hay thậm chí là 1 số ít các cường

quốc kinh tế như Mỹ . Trung Quốc cũng sử dụng mối quan hệ kinh tế này nhằm

gây dựng ảnh hưởng chính trị - như việc tạo ra 1 sự độc lập rõ ràng đối với Trung

Quốc – từ đó chính quyền Bắc Kinh có thể làm đòn bẩy cho việc thúc đẩy các mối

quan tâm ngoại giao khác. Chẳng hạn như việc làm cho các quốc gia đưa những ưu

tiên và những quyền lợi của Trung Quốc lên trên. Trung Quốc cũng đang đa dạng

hóa những nguồn anh ninh của nó bằng những mối quan hệ vốn có sẽ ngày càng dc

làm mới và mở rộng với các trung tâm quyền lực khác nhau. Trung Quốc đang cập

161

nhật những quan hệ song phong bằng việc xây dựng nên những mối quan hệ chiến

lược và những cuộc đối thoại chiến lược với các quốc gia phát triển lẫn đang phát

triển, cũng như là với các tổ chức khu vực chính yếu như ASEAN, EU hay là

GCC… Trung Quốc đã ôm ấp các thể chế đa phương trên hầu như khắp thế giới,

trong vài trường hợp còn tạo ra chúng ở nơi mà chúng chưa từng tồn tại. Trung

Quốc sử dụng những cơ chế này nhằm đảm bảo với các quốc gia về ý định của

mình để biểu dương những ích lợi từ sự trỗi dậy Trung Quốc, và cuối cùng là để

mở rộng những ảnh hưởng chính trị của mình – thường liên quan tới việc tiếp cận

những thị trường và nguồn nguyên liệu. Một hệ quả tự nhiên của sự đa dạng hóa về

an ninh này chính là việc Trung Quốc đã tự đánh mất đi những mối quan hệ đồng

minh bền vững và tích cực với một số cường quốc, như là Mỹ. Do việc đa dạng

hóa an ninh này mà giờ đây Trung Quốc đã tạo ra được đòn bẩy, tránh những ràng

buộc trong cách hành xử của mình và đạt được rất nhiều từ những nguồn nguyên

liệu của mình. Cuối cùng, Trung Quốc đang đa dạng hóa chính vị thế quốc tế và

tính hợp pháp của mình. Hàng thập kỷ qua, nó được dựa trên những thống kê cơ

bản như: dân số và diện tích lớn, lịch sử lâu đời và một cường quốc Châu Á, thành

viên Hội đồng Bảo an, Liên hợp quốc, và sở hữu vũ khí hạt nhân. Ngày nay, trở

nên nổi bật hơn với những thành tích về kinh tế trong suốt 30 năm qua và đang cho

thấy sự sẵn sàng để chia sẻ những thành tích đó với các quốc gia khác. Các lãnh

đạo Trung Quốc cũng đang dần dần đánh giá lại tiếng tăm với bên ngoài của mình:

họ đang cố gắng thay đổi quan điểm của thế giới từ chỗ một cuộc đấu tranh chống

lại bá quyền sang một cái nhìn tích cực hơn, trong đó nhấn mạnh hòa bình, phát

triển và hợp tác để xây dựng một thế giới hài hòa. Trung Quốc cũng là một trong

những bên ủng hộ mạnh mẽ nhất nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của

các quốc gia khác (mặc dù quan điểm này của Trung Quốc là trung hòa trong

những năm gần đây), đây chính là uy tín quan trọng của Trung Quốc so với các

nước đang phát triển khác. Đối với rất nhiều người Trung Quốc, việc đăng cai Thế

162

vận hội 2008 trở thành một dấu mốc thành tựu trong nỗ lực được chấp nhận là

thành viên của CLB cường quốc.

Ngoại giao Trung Quốc trong thời kỳ quá độ

Hành xử quốc tế của Trung Quốc chính là một hiện tượng của sự thay đổi

sâu sắc. Trung Quốc đã chấp nhận một cách rõ ràng và rộng rãi những mục tiêu

trong chính sách đối ngoại, thế nhưng họ cũng có những tiến bộ về kinh tế, xã hội

và về mặt chính thể.

Hơn lúc nào hết, những gì xảy ra bên trong liên quan trực tiếp tới hành xử

bên ngoài của Trung Quốc, và tình hình trong nước thì trong tình trạng thay đổi

liên tục. Ngoại giao Trung Quốc phản ánh sự cân bằng những đòi hỏi ngày càng

tăng lên cả trong nước và bên ngoài. Việc Trung Quốc xử lý vấn đề này như thế

nào có một tác động trực tiếp lên những hành xử với bên ngoài của họ, cả mặt

thuận lợi cũng như là ràng buộc các chính sách của mình.

Ví dụ, những thách thức trong điều hành của Trung Quốc là một rào cản đối

với những quyết sách đối ngoại cũng như thực thi nó một cách hiệu quả. Một yếu

tố các của hiện tượng này chính là thương hiệu quốc tế của Trung Quốc đã thay

đổi: một cách đồng thời, Trung Quốc thể hiện rất nhiều bộ mặt đối với rất nhiều

quốc gia. Trung Quốc vừa là một nước phát triển, một nước đang phát triển đối với

rất nhiều quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Đó là một cường quốc khu vực ở Châu

Á và là diễn viên chính trong sân khấu toàn cầu.

Những nhà hoạch định chính sách Trung Quốc mò mẫm cách thức tiến lên

phía trước với những ảnh hưởng, vị thế và cả trách nhiệm mới tìm thấy. Khi nào

thì nên lãnh đạo thế giới, khi nào thì nên đi theo thế giới? Họ đang thử nghiệm tính

hiệu quả và giới hạn những khả năng của mình. Mặc dù những nhà hoạch định

chính sách có những mục tiêu rõ ràng trong đầu và trong chính sách đối ngoại hiện

tại, họ vẫn theo đuổi chúng và rồi hiệu chỉnh lại để đáp ứng những nhu cầu cấp

163

bách và ràng buộc trong nước, những hành xử với bên ngoài và một môi trường an

ninh quốc tế năng động mà trong đó nguy cơ và cơ hội đã sẵn sàng nổi lên.

Cuối cùng, quá trình này đem lại cho cộng đồng quốc tế - bao gồm cả Mỹ -

một cơ hội quan trọng để tiến hóa. Nhưng cũng là khó khăn cho cộng đồng quốc tế

có thể hiểu được bằng cách nào những mối quan tâm lợi ích của Trung Quốc sẽ

tiến bộ theo thời gian.

Những sự dính líu với lợi ích an ninh của Mỹ

Chuyên khảo này đưa ra rất nhiều những sự liên quan tới lợi ích an ninh toàn

cầu của Mỹ, lợi ích của Mỹ ở Châu Á, quan hệ Mỹ - Trung, và tương lai của chính

sách Trung Quốc của Mỹ.

Những thách thức toàn cầu

Trung Quốc không tìm cách để thay thế vị trí của Mỹ như là một siêu cường

toàn cầu. Các lãnh đạo Trung Quốc cũng không muốn trở thành một cường quốc

toàn cầu ngang hàng với Mỹ - một kẻ đấu tranh ngang hàng. Họ xem những thách

thức trong nước đã là quá lớn để có thể vượt qua và đảm nhận một vai trò như vậy,

và họ nhận ra rằng mình hiện đang thiếu những nguồn nguyên liệu để có thể phát

triển và nuôi dưỡng sức mạnh quân đội, sức mạnh kinh tế trên phạm vi toàn cầu.

Họ cũng sợ rằng đóng vai trò đó có thể làm mất đi những nguồn nguyên liệu

cần thiết và cổ xúy cho những thế lực chống lại Trung Quốc. Với những lãnh đạo

Trung Quốc, việc cố gắng sắm vai trò đó sẽ phá vỡ tính chính thống trong đối

ngoại – một rào cản chính trị quan trọng nhưng không thể vượt qua được để có

được những thay đổi lớn trong chiến lược. Một sự sửa chữa như vậy sẽ chỉ có thể

thực hiện được khi môi trường an ninh bên ngoài của Trung Quốc thay đổi – điều

mà được thúc đẩy xem xét lại bởi những lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Thêm

nữa, nếu Trung Quốc có đang tìm kiếm để trở thành một đối thủ toàn cầu của Mỹ

hay không, thì hành xử của họ sẽ khác xa những gì mà chúng ta đã thấy, như sẽ đề

cập phía dưới.

164

Điều này không có nghĩa rằng sẽ không có những khía cạnh đấu tranh trong

chính sách đối ngoại của Trung Quốc để thách thức những lợi ích an ninh của Mỹ.

Một vài ứng xử quốc tế của Trung Quốc đã trực tiếp xóa đi ảnh hưởng của Mỹ tại

những khu vực đặc biệt và trong một số cơ chế nhất định. Ví dụ rõ ràng nhất cho

điều này là khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc hiện không chủ tâm

đẩy Mỹ ra khỏi khu vực này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra sự nguy hiểm

và xu hướng thất bại của cách tiếp cận đó, và một vài người thì nhận ra sự ổn định

mà những đồng minh của Mỹ mang lại.

Hơn nữa, Trung Quốc đang cố gắng tăng cường sức mạnh và ảnh hưởng

tương đối lên Mỹ. Mục đích cốt lõi của Trung Quốc là ngăn chặn khả năng Mỹ

ràng buộc Trung Quốc; điều đó có nghĩa, Trung Quốc muốn tối đa hóa quyền tự do

hành động và đòn bẩy nhưng là phương tiện để chống lại những nỗ lực đã được

thừa nhận của Mỹ để giới hạn những sự lựa chọn của Trung Quốc. Trung Quốc tìm

kiếm ảnh hưởng chính trị để tăng chi phí tổn thất, đối với Mỹ và đồng minh, trong

việc ràng buộc Trung Quốc.

Vì thế, Trung Quốc đang thách thức Mỹ bằng việc cố gắng cắt giảm những

ảnh hưởng quan hệ, nhưng cũng không tìm cách đối đầu Mỹ bằng cách đẩy Mỹ ra

khỏi khu vực của mình.

Như đã đề cập ở trên, Trung Quốc đang theo đuổi cách tiếp cận này bằng

việc tăng cường đan xen kinh tế với các nước châu Á, tham gia vào các tổ chức đa

phương để hình thành nên những chương trình nghị sự khu vực, mở rộng quan hệ

song phương để hình thành những ưu tiên từ các quốc gia này, và nhìn chung là tái

khẳng định với các quốc gia về những mục đích cũng như khả năng của Trung

Quốc. Với ý nghĩa như vậy, cách tiếp cận của Trung Quốc là hấp dẫn hơn là đối

đầu – lôi kéo các quốc gia đi theo Trung Quốc (để trói buộc họ) hơn là đẩy họ

tránh xa Mỹ hay các nước khác.

165

Trong con mắt Trung Quốc, logic của những chính sách đối ngoại mang tính

cạnh tranh chính là phòng thủ cần thiết. Trung Quốc tìm kiếm các ảnh hưởng để

Mỹ và đồng minh không thể cùng nhau giới hạn được các lựa chọn của mình.

Những hành động của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương, như là một ví dụ,

là để tìm cách tạo ra một môi trường mà trong đó Mỹ không thể ràng buộc Trung

Quốc, cả ở hiện tại và tương lai.

Mặc dù Trung Quốc đã cố gắng chinh phục với nhiều lựa chọn hấp dẫn,như

là đưa ra những tầm nhìn khác về trật tự an ninh khu vực, không một nước nào

chấp nhận và Trung Quốc cũng không theo đuổi chúng.

Thêm nữa, Trung Quốc đã chủ động sử dụng ngoại giao kinh tế, sự ảnh

hưởng đa phương, và mối liên hệ song phương để tạo ra một môi trường an ninh

khu vực mà trong đó các quốc gia không xem Trung Quốc như là một mối đe dọa,

nhạy cảm hơn với những quyền lợi của Trung Quốc, sẵn sàng điều chỉnh Trung

Quốc về một số vấn đề, và không tập hợp đối trọng với sức mạnh của Trung Quốc.

Cách tiếp cận này rõ ràng đã thành công với Trung Quốc.

Với giới lãnh đạo Trung Quốc, cố gắng thực hiện vai trò này sẽ thể hiện

bước đột phá lớn những truyền thống trong lĩnh vực ngoại giao-một rào cản chính

trị rất quan trọng nhưng khó có thể vượt qua để tạo ra được sự thay đổi lớn về

chiến lược. sự cân nhắc về phương hướng phát triển cũng có thể tạo ra sự xoay

chuyển trong phản ứng trước những thăng trầm trong môi trường an ninh nội địa

Trung Quốc - thứ đã thúc đẩy giới lãnh đạo Trung Quốc hoàn chỉnh tái định mức

thuế. Thêm nữa, nếu Trung Quốc đang tìm kiếm cơ hội để trở thành đối thủ toàn

cầu của Mỹ, những hành động của Trung Quốc sẽ khác xa so với những gì họ đang

tiến hành, như phần tranh luận dưới đây.

Điều này không có nghĩa là không có bất kì khía cạnh mang tính cạnh tranh

nào của các chính sách ngoại giao của Trung Quốc thách thức các lợi ích an ninh

của Mỹ. một vài hành vi trên trường quốc tế của Trung Quốc xói mòn trực tiếp

166

những ảnh hưởng của Mỹ tại 1 vài khu vực riêng biệt và trong 1 số thể chế nhất

định. Khía cạnh mang tính cạnh tranh nhất của chính sách ngoại giao Trung Quốc

biểu hiện rõ rệt tại khu vực châu á-thái bình dương. Hiện tại Trung Quốc không cố

gắng để đẩy mỹ ra khỏi khu vực này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra mối

nguy hiểm và nguy cơ thất bại cho sự tiếp cận như vậy, và cũng nhận ra sự ổn định

được tạo ra bởi các đồng minh của Mỹ. hơn thế, Trung Quốc cố gắng làm tăng sức

mạnh và ảnh hưởng cân xứng với Mỹ. một mục tiêu nòng cốt của Trung Quốc là

cản trở khả năng của Mỹ trong việc thúc ép Trung Quốc, điều này có nghĩa là,

Trung Quốc cố gắng làm tăng đến lớn nhất sự tự do của họ trong hành động như 1

công cụ chống lại những nỗ lực dễ thấy của Mỹ nhằm hạn chế những lựa chọn của

Trung Quốc. Trung Quốc tìm kiếm những ảnh hưởng chính trị để làm tăng sự khó

khăn, trước Mỹ và đồng minh, cho việc cưỡng ép Trung Quốc.

Vì vậy, Trung Quốc đang thách thức Mỹ bằng cách cố gắng lamg giảm ảnh

hưởng của Mỹ, nhưng Trung Quốc không hề cố gắng giáp mặt với Mỹ, mà cố gắng

làm bật những ảnh hưởng đó ra. Theo trên, Trung Quốc đang theo đuổi sự tiếp cận

bằng cách làm sâu sắc hơn những ảnh hưởng kinh tế với các quốc gia châu Á, tham

gia các tổ chức đa phương nhằm định hướng cho các chương trình nghị sự trong

khu vực, mở rộng các tác động tay đôi nhằm tạo ra sự ưu tiên tại các quốc gia đó,

và tái đảm bảo với các nước về ranh giới trong mục đích và khả năng của Trung

Quốc. Cảm tưởng sự tiếp cận của Trung Quốc nhằm hút các nước hơn là đối đầu

trực tiếp - kéo các quốc gia lại gần với Trung Quốc (để trói buộc) hơn là đẩy họ ra

khỏi những ảnh hưởng của mỹ hay ảnh hưỡng lẫn nhau.

Trong con mắt của Trung Quốc, lập luận về những chính sách đối ngoại

mang tính cạnh tranh nhất của họ về cơ bản có tính chất phòng vệ. Trung Quốc tìm

kiếm những ảnh hưởng để qua đó ngăn chặn Mỹ và các nước đồng minh không thể

cùng nhau hành động giới hạn các lựa chọn của Trung Quốc. Những hành động

của Trung Quốc, ví dụ, tại khhu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm tạo một môi

167

trường mà tại đó Mỹ ko thể chế ngự được Trung Quốc, trong thời điểm hiện tại

hoặc trong tương lai. Mặc dù họ đã thử nhiều lựa chọn công kích hơn, như đề nghị

một sự thay thế trong cách nhìn nhận về trật tự an ninh khu vực, ko có lựa chọn

nào được giữ lại và Trung Quốc cũng ko hề muốn theo đuổi chúng. Hơn nữa,

Trung Quốc đã sử dụng chính sách ngoại giao kinh tế, tác động đa phương và hợp

tác song phương để tạo ra môi trường an ninh khu vực mà trong đó các nước ko

xem Trung Quốc như 1 mối đe dọa, nhạy bén với các lợi ích của Trung Quốc, và

sẵn lòng dàn xếp với Trung Quốc trong một số vấn đề gây tranh cãi, và sẽ ko cân

bằng được với quyền lực của Trung Quốc. Sự tiếp cận này đã khá thành công với

Trung Quốc.

Tiến xa hơn, một thách thức trọng điểm với Trung Quốc là duy trì cán cân

giữa thách thức và đương đầu với những lợi ích của Mỹ. Mặc dù Trung Quốc có

thể coi những hành động của họ mang tính chất phòng vệ (tức là phản ứng với

những nỗ lực của Mỹ như phá hoại ngầm họ), một vài chính sách của Mỹ, phụ

thuộc vào sự thị uy của chính phủ, có thể làm xuất hiện những sự đối đầu với Mỹ

và những nhà hoạch định chính sách khu vực. Các hành động của Trung Quốc, như

chính chính sách ngoại giao quân sự của họ, có thể khiến cho sự cạnh tranh có vẻ

trực tiếp hợn, căng thẳng hơn, và tiềm tàng…. vì Trung Quốc trở nên tích cực hơn

trênt toàn cầu, lợi ích của Mỹ và Trung Quốc sẽ va chạm xung đột ccungx như

chồng chéo lên nhau. Kết quả là, một chính sách thách thức cho cả Washington và

bắc kinh là tối đa hóa cái gần nhất và tối thiểu hóa cái cũ nhất. để có thể đàm phán,

Washington và bắc kinh đã thành công trong việc tránh những kết cục tiêu cực,

nhưng nhiều sự thử nghiệm có lẽ đúng.

Thách thức với chính sách với Trung Quốc của Mỹ.

Một sự kiện lớn thứ 2 tới lợi ích của Mỹ là chiến lược đa dạng hóa của

Trung Quốc đang thấy thế khả năng của Mỹ trong việc kiềm chế các hành động

của Trung Quốc và sự điều khiển những mối quan hệ song phương. Wasshington,

168

theo đuổi sự bình thường hóa trong hàng thập kỉ, thúc đẩy có hiệu quả những ưu

tiên của bắc kinh về mối quan hệ bền vững và tích cực với Mỹ nhằm gợi ra sự thay

đổi trong chính sách của Trung Quốc về kinh tế thế giới và các vấn đề an ninh.

Chính sách của Mỹ đóng vai trò trung tâm trong việc cổ vũ (vào 1 số thời điểm là

ép buộc) sự chấp thuận của Trung Quốc về những luật quốc tế liên quân đến buôn

bán và đầu tư, kiểm soát vũ khí và các vấn đề an ninh khu vực. Chính sách của Mỹ

chắc chắn ko phải là yếu tố duy nhất kiến tạo quá trình quốc tế hóa hậu Mao, mà

còn đóng vai trò xúc tác bằng cách đem lại sức sống mới cho cho các cuộc tranh

luận bên trong và làm tăng nhanh những tranh luận đã có sắn, bao gồm bằng cách

hỗ trợ những người chủ trương thay đổi bên trong Trung Quốc. Những chính sách

đối ngoại của Trung Quốc dã từng đề cập đến mối quan hệ Mĩ –Trung như một

trong những chìa khóa then chốt nhất- một sự phản ánh xu hướng chính của Mỹ

trước quan điểm về TG và các chính sách đặc biệt của Trung Quốc. Động lực này

hiện nay đang thay đổi dần.

Nhờ sự mở rộng vị thế về mặt kinh tế, an ninh cũng như uy tín của Trung

Quốc các nhà lãnh đạo Trung Quốc ko còn phải bận tâm tới các quan điểm của Mỹ

nữa. Theo thời gian Bắc Kinh sẽ trở nên kém sẵn lòng hơn trước sự ưu đãi với Mỹ

và có khả năng chống lại những áp lực từ phía Washington, thậm chí còn phát sinh

những yêu cầu ngược trở lại. Cách thức truyền thống của Mỹ chủ yếu dựa vào con

đường ngoại giao song phương để định hướng những chính sách thi hành với

Trung Quốc giờ đây đã bộc lộ những mặt hạn chế.

Thách thức khu vực.

Uy thế của Trung Quốc ở châu Á đang làm thay đổi bản chất những mối

quan hệ với những liên mình và đối tác trong khu vực của Mỹ. Khi Trung Quốc

ngày càng ảnh hướng nhiều hơn về kinh tế, thương mại và quân sự đến những

nước đồng minh, đối tác của Mỹ thì nhu cầu của họ về phía Washington cũng sẽ

thay đổi vì Trung Quốc chi phối lớn hơn bởi sự phát triển kinh tế và kế hoạch an

169

ninh khu vực, điều này gây khó khăn cho washington trong việc thiết lập hợp tác

với các nước khác trong vùng châu Á-TBD. Ví dụ điều này sẽ dẫn đến sự lựa chọn

chính sách ko cần thiết và sự ép buộc hợp tác an ninh với các quốc gia này; những

thách thức giữa thập kỉ này trong quan hệ đồng minh Mỹ-Hàn là 1 mình chứng

mặc dù họ tỏ ra khá kiên quyết dưới chính quyền mới của Hàn quốc. Những xu

hướng này liên quan chủ yếu đến dự án phòng thủ của Mỹ trước cuộc xung đột có

thể xảy ra giữa Đài Loan. Những đồng minh của Mỹ ở châu Á cần phải cân bằng

tầm nhìn cùng với những đòi hỏi của Washington và bắc kinh. Tiến trình đang tiếp

diễn này đã biểu thị chiến lược Mỹ-Á với những thách thức lâu dài.

Ở Châu phi và châu Mỹ Latin, những thay đổi tương tự nhưng kém phần sâu

sắc hơn trong mối quan hệ song phương cũng đã xuất hiện. Ở châu Phi những

chính sách thương mại và đầu tư của Trung Quốc đang thách thức những nỗ lực

của châu Âu trong việc cải thiện quyền con người và thi hành quyền cai trị. Trung

Quốc đã tác động 1 cách hiệu quả đến quan hệ ngoại giao với những nhà nước

châu Phi nhằm thúc đẩy những diễn đàn đa phương, ví dụ như việc tranh luận của

Liên Hiệp Quốc về vấn đề cải cách Hội đồng Bảo an, tương tác về sự phát triển

thương mại-tài chính của Trung Quốc với chính phủ các nước như Brazil,

Venezuela và Bolivia đã đưa ra cho mỗi quốc gia này những sự lựa chọn và quyền

lựa chọn cái mà ko hề có khi họ chủ yếu dựa vào những mối quân hệ kinh tế và

cam kết an ninh từ phía Mỹ. điều này làm thay đổi định hướng của họ với

Washington, làm cản trở đường lối đối ngoại của Mỹ. sự ủng hộ của Venezuela

với Trung Quốc như 1 sự chế giễu Mỹ là 1 minh chứng rõ ràng cho hiện tượng

này.

Sự ảnh hưởng trong khu vực của Trung Quốc không chỉ thay đổi khu vực ấy

mà còn định hướng thái độ của Trung Quốc. Sự tác động gia tăng của Trung Quốc

với các nước châu Phi đã làm nhạy cảm chính sách của những chính phủ này dẫn

đến việc Trung Quốc nhận ra giá trị của việc liên kết chính phủ châu Phi và thúc

170

đẩy cách giải quyết khủng hoảng Dafur, Sudan. Ví dụ những mối liên hệ trong khu

việc này khiến Trung Quốc giảm bớt vai trò của họ trong nguyên tắc không can

thiệp vào vấn đề nội bộ của các nước khác.

Sự thách thức lớn hơn đối với Mỹ là việc kiếm soát bản chất, phạm vi và tốc

độ của sự lan rộng toàn cầu của Trung Quốc. Bằng cách nào và ở đâu, Trung Quốc

tích lũy sự ảnh hưởng vượt ra ngoài việc đơn thuần chỉ là hiện diện và thiết lập

những mối quan hệ tương tác khu vực. Trung Quốc ảnh hưởng như thế nào tới lưu

lượng hàng hóa, đầu tư, buôn bán tiền tệ, khoa học, công nghệ trong khu vực. Liệu

điều này có làm thay đổi tham vọng toàn cầu và trong khu vực của Trung Quốc,

nó có hướng bành trướng hay thận trọng hơn. Ngoại giao Mỹ cần hòa hợp trong

việc đánh giá những phương thức mà Trung Quốc đang tích lũy ảnh hưởng, liệu

Trung Quốc có thể sư dụng những ảnh hưởng đó và những tiến triển này định

hướng được mục đích của Trung Quốc ra sao. Những nhà hoạch định chính sách

Mĩ cần tính đến việc phát triển sự cân bằng ảnh hưởng Mĩ –Trung theo một hướng

xác định ở châu Á và những vùng khác.

Một thách thức nữa mà Mĩ phải đối mặt là việc đảm bảo sự ổn định ở châu á

theo 3 khuynh hướng tập trung; sự đi lên của Trung Quốc, khả năng quân sự của

Nhật Bản và việc trở thành cường quốc châu Á của Ấn Độ. Mặc dù nghiên cứu tập

trung vào thái độ quốc tế của Trung Quốc nhưng động thái ngoại giao của Trung

Quốc lại đang có những ảnh hưởng sâu sắc đến những mối liên hệ chính chủ yếu ở

châu Á. Về phương diện lịch sử, Trung Quốc đã có những cuộc xung đột lãnh thổ.

Trong lịch sử, Trung Quốc đã có những xung đột về lãnh thổ với cả Nhật

Bản và Trung Quốc, cả hai quốc gia này đều quan ngại sâu sắc về mâu thuẫn với

Trung Quốc.Nguyên nhân chính là do sự nghi kị lâu dài giữa 3 quốc gia này, tạo ra

tình huống lưỡng nan về an ninh. Mối quan hệ giữa 3 trung tâm quyền lực đã

nhanh chóng lan tỏa và kéo theo các đồng minh cũng như các đối thủ, thường là

đồng thời. Một nhiệm vụ quan trọng đối với Hoa Kỳ là tiếp tục sử dụng vai trò cân

171

bằng của nó, đến mức có thể, với quan hệ giữa ba chủ thể đó để giảm sự nghi ngờ,

khả năng xung đột, và điều hòa khủng hoảng

Cách tiếp cận Phản thực tiễn

Một phương pháp phân tích hữu ích để đánh giá hành vi trong quan hệ quốc

tế của Trung Quốc và những thách thức liên quan đến lợi ích của Hoa Kỳ là nhìn

lại những gì Trung Quốc đã không thực hiện. Bằng cách điểm lại những lựa chọn

trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc ta có thể thấy được quan điểm, mục

tiêu cũng như chính sách của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.

Trước tiên, Trung Quốc cho theo đuổi mục tiêu chính sách đối ngoại thông

qua mở rộng lãnh thổ, sự can thiệp quân sự, triển khai quân sự thường trú ở nước

ngoài, tạo ra các thị trường hàng hóa (thông qua mở các đại lý bán hàng), hay

khẳng định vai trò trong các tổ chức quốc tế và khu vực là cốt yếu. Hành xử của

Trung Quốc trong quan hệ quốc tế tích cực hơn nó có vẻ là trong giai đoạn hiện

thời, dù là trong phạm vi khu vực hay phạm vi toàn cầu. Điều này không có nghĩa

là hành vi của Trung Quốc không thách thức một số lợi ích của Mỹ, nhưng đó là

những thách thức cụ thể hơn và nhạy cảm hơn rất nhiều.

Thứ hai, Trung Quốc không cổ súy quan điểm thay thế triệt để việc toàn cầu

hóa hay hoặc xây dựng không gian châu Á. Trung Quốc cũng không thúc đẩy một

"Đồng thuận Bắc Kinh" như là một thay thế cho "Đồng thuận Washington" . Mặc

dù một số quốc gia cho rằng phương hướng phát triển và tiếp cận của Trung Quốc

giống như tư bản độc tài mở rộng với rất ít tiếp xúc, ủng hộ toàn cầu. Trong thực

tế, con đường phát triển của Trung Quốc xác nhận các tiên đề cốt lõi của Đồng

thuận Washington thay vì thách thức nó. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào

giữa năm 2008 đã làm nổi bật hơn các giới hạn của các chính sách thị trường tự do

(đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính) hơn bất kỳ động thái ngoại giao chủ trương

ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào quá trình hoạch định chính sách về kinh tế

nào của Trung Quốc có thể. Hơn nữa, Trung Quốc đã gia nhập hầu hết các tổ chức

172

an ninh và kinh tế toàn cầu. Tỷ lệ tham gia của nó trong các tổ chức liên chính phủ

đang trong giai đoạn đỉnh cao.

Ở châu Á, Trung Quốc không còn tích cực thúc đẩy "quan niệm an ninh

mới” của riêng mình bởi chính Bắc Kinh cũng nhận ra rằng điều này không cộng

hưởng với các quốc gia châu Á khác-những đối tượng luôn muốn duy trì mối quan

hệ tốt với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trung Quốc nỗ lực để phát triển quyền lực

mềm của mình bằng cách nỗ lực xây dựng sự an tâm của các quốc gia về mục đích

của Trung Quốc thay vì cố ép các nước phải tách ra khỏi Mỹ dựa trên một mô hình

phát triển của Trung Quốc hoặc an ninh khu vực. Hầu hết các quốc gia đang hướng

về Trung Quốc là bởi sự phát triển và lớn mạnh của Trung Quốc chứ không phải lí

tưởng của Trung Quốc. Trung Quốc đã làm tốt việc sử dụng sức mạnh cứng của

mình một cách mềm dẻo hơn là tạo ra sức mạnh mềm, như Joseph Nye đã nhận

định ban đầu. Rất nhiều các ý tưởng chính sách ngoại giao Trung Quốc khuyến

khích được rộng rãi phù hợp với tiền lệ của chủ nghĩa coi trọng các cơ chế hợp tác

tự do mà Mỹ theo đuổi sau Thế chiến II (với ngoại lệ rõ ràng tự do hóa chính trị).

Nói cách khác, Trung Quốc thiên về tham gia các tổ chức để thiết lập ảnh hưởng

của mình hơn là đấu tranh đối lập và sửa đổi chúng. Hành xử trong quan hệ quốc tế

của Trung Quốc giống như một Hoa Kỳ trong tám năm qua của chính quyền Bush.

Nhiều quốc gia đã xem Bush như là hạn chế của sự can thiệp của Hoa Kỳ vào các

tổ chức quốc tế. Trung Quốc đã thành công trong việc ngầm tạo ra một tương phản

với chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời George W. Bush. Dưới thời Barack

Obama, khó có thể chắc chắn rằng Trung Quốc có thể tạo nên sự tương phản hoàn

toàn trong chính sách đối ngoại tương tự hay không?

Thứ ba, Trung Quốc đã không thể tạo nên một tư thế đối đầu với Hoa Kỳ,

mặc dù khó chịu với tình trạng đơn cực Mỹ và nền dân chủ Hoa Kỳ-xúc tiến

chương trình nghị sự. Ngay cả trong những năm dướu chính quyền Bush, nhà lãnh

đạo Trung Quốc vẫn luôn tránh đối đầu với Hoa Kỳ (chẳng hạn như trong vấn đề

173

Iraq năm 2003), đặt nỗ lực vào ổn định quan hệ Mỹ-Trung Quốc (đặc biệt sau sự

kiện 11/9), và tìm cách mở rộng các lĩnh vực hợp tác thiết thực (ví dụ, Bắc Triều

Tiên). Mỹ và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã mở rộng các kênh trao đổi ngoại

giao. Nhưng chỉ có kết quả trong giới hạn các thay đổi trong hành vi của Trung

Quốc về các vấn đề an ninh chính quốc tế như Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan, và

Miến Điện. Những hành xử trong quan hệ quốc tế của Trung Quốc đã phản ánh

một sự thừa nhận hành vi tiếp tục mối quan hệ thù địch với Hoa Kỳ sẽ có một tác

động rất tiêu cực đến môi trường an ninh của Trung Quốc và về khả năng Trung

Quốc thực hiện cả mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn của mình.

Hơn nữa, Trung Quốc đã không tìm cách tạo ra một liên minh chống

Hoa Kỳ để cân bằng quyền lực. Bắc Kinh đã theo đuổi quan hệ song phương với

các quốc gia thân Hoa Kỳ cũng như các quốc gia bị Hoa Kỳ xa lánh. Trung Quốc

đã có mối quan hệ đa phương không chỉ với các tổ chức mà Hoa kỳ là thành viên

mà còn cả các tổ chức không có Hoa Kỳ như SCO và EAS.

Đồng thời, Trung Quốc vẫn theo đuổi các cơ hội để thách thức sự tự do và

vượt trội trong hành động của Hoa Kỳ. Quan hệ Trung-Nga có dấu hiệu chống Mỹ

rất rõ ràng , biểu hiện trong hành động trong Liên Hiệp Quốc để ép Mỹ hành động.

Trung Quốc đã thành công trong việc ép Mỹ sử dụng trong các vấn đề chính sách

đối ngoại để thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc. Trung Quốc đã giúp đỡ cho EU sau

cuộc chiến tranh Iraq để cố gắng khai thác căng thẳng xuyên Đại Tây Dương để

xoá bỏ các lệnh cấm vận vũ khí của EU vào Trung Quốc. Trung Quốc cũng giúp

đỡ cả Philippin và Thái Lan trong năm 2004 và năm 2006 khi quan hệ của họ với

Hoa Kỳ trở nên căng thẳng.

Thứ tư, tại châu Á, Trung Quốc không tích cực tìm cách chia liên minh Hoa

Kỳ. Trung Quốc không phải là cung cấp cho đồng minh của Mỹ bảo đảm an ninh

và hợp tác quân sự như là một thay thế cho thỏa thuận an ninh với Hoa Kỳ. Thực

tế, quân sự ngoại giao và hợp tác quốc phòng, có lẽ là một phần nhỏ nhất của ngoại

174

giao song phương của Trung Quốc với các quốc gia châu Á. Trung Quốc không

xây dựng hình tượng của mình như một đối tác an ninh thay thế cho Hoa Kỳ. Thay

vào đó, Trung Quốc đã cố gắng tăng cường các hợp tác kinh tế với các đồng minh

của Hoa Kỳ, tham gia các tổ chức và cam kết thực hiện các quy chế ít nhất là trong

giai đoạn hiện nay. Từ đầu thập kỷ này, nhiều nhà chiến lược của Trung Quốc

nhận ra rằng các đồng minh chính thức của Mỹ đang giữ vai trò ổn định ở châu Á.

Một khía cạnh cuối cùng cần chú ý đến khi xem xét vấn đề này là những

khác biệt trong chính sách cân bằng của Trung Quốc sẽ như thế nào . Nó có thể

bao gồm thúc đẩy một khái niệm khác về an ninh toàn cầu, ép các quốc gia châu Á

phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ thay đổi trong tương lai?

Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhận thức của Trung Quốc đã nghiêng

về tập trung vào sự phát triển dần dần của sức mạnh kinh tế của Trung Quốc và

khả năng quân sự của họ, và tìm cách giảm thiểu mối đe dọa từ bên ngoài. Trước

mắt, một câu hỏi quan trọng được đặt ra là quá trình kép trong chiến lược của

Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào? Liệu sự lớn mạnh về kinh tế và tầm ảnh hưởng

có tạo nên những thay đổi trong tư duy, mục tiêu và chính sách đối ngoại của

Trung Quốc, tạo ra những hành vi khác trước đây chưa từng thấy? Cụ thể, nếu như

sức mạnh của Trung Quốc tăng lên liệu Trung Quốc có trở nên táo bạo hơn trong

mối quan hệ với Mỹ?

Các tác giả cho thấy rằng điều này là không có khả năng xảy ra trong hai

thập kỷ tới, một gián đoạn lớn trong quỹ đạo hiện hành của Trung Quốc sẽ là sự

mất ổn định lan rộng trong nước hoặc một cuộc xung đột vũ trang với Hoa Kỳ

hoặc một quốc gia Á. Tại sao? Một cách đơn giản: Tiềm lực Trung Quốc chỉ có thể

dần phát triển trong khi các khó khăn nội bộ và những hạn chế bên ngoài đề ra

trong chính sách đối ngoại không biến động nhiều.

175

Sức mạnh quốc gia của Trung Quốc sẽ chỉ dần dần tăng lên khi sự kiềm chế

bên trong và ngoài nước về một chính sách đối ngoại xét lại vẫn còn quan trọng.

Sự lớn mạnh về quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc trong hai thập kỷ tới sẽ

dần dần và bị giới hạn. Trung Quốc hiện đang đối mặt với rất nhiều sự kiềm chế

khả năng để duy trì tăng trưởng mãnh liệt như thế. Ít dự án tăng trưởng trong hai

thập kỷ tới cho thấy rằng Trung Quốc phải cần có nguồn tài nguyên quốc gia lớn

đủ để đáp ứng những nhu cầu phát triển của đất nước trong khi muốn có một cuộc

chạy đua nước rút mang tính quốc tế để cạnh tranh vị trí với Mỹ. Tất nhiên, sự tăng

lên dần dần sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc cũng xảy ra trong bối cảnh sự

lớn mạnh của các cường quốc khu vực khác như Nhật Bản và Ấn Độ, hai quốc gia

đang theo sát Trung Quốc và đánh giá những thành tựu của nước này. Những điều

trên cho thấy những sự kiềm chế và tự kiềm chế về những sự thay đổi lớn lao trong

chiến lược toàn cầu của Trung Quốc.

Những thách thức bên trong của Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh trong

những tính toán đối ngoại của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, cho thấy khó có sự

thay đổi quan điểm về cơ bản trong chính sách đối ngoại của nước này. Vô số

những thách thức nội bộ của Trung Quốc sẽ vẫn tồn tại và một số còn lớn hơn

trong hai thập kỷ tới, như việc kiềm chế tăng dân số và nhu cầu chuyển sang một

mô hình phát triển dựa vào tiêu dùng.

Với thế hệ lãnh đạo thứ 4 và thứ 5 hiện nay, những khái niệm của Đảng

Cộng sản Trung Quốc cầm quyền lâu dài rằng sử dụng chính sách đối ngoại để tạo

ra môi trường bên ngoài ổn định, tiếp cận các thị trường và tài nguyên thiên nhiên,

tối thiểu hoá những cam kết với bên ngoài, tránh tình thế hạn chế buộc Trung Quốc

phải lựa chọn sẽ tiếp tục tồn tại dai dẳng. Lãnh đạo Trung Quốc sẽ tiếp tục nhìn

nhận chính sách đối ngoại qua lăng kính thúc đẩy sự phát triển và ổn định trong

nước. Như đã trình bày ở trên, những thách thức bên trong của Trung Quốc ngày

càng có vai trò cả như thúc đẩy và kiềm chế trong chính sách đối ngoại của Trung

176

Quốc, không có cái nào có khả năng thay đổi cơ bản lợi ích dân tộc của Trung

Quốc.

Ngoài ra, lãnh đạo Trung Quốc rất lưu tâm đến những sai lầm trong quá khứ

của những cường quốc mới nổi lên và muốn tránh lặp lại những sai lầm đó. Họ đã

học tập những kinh nghiệm buồn của các đế chế Nhật Bản, đế chế Weimar của

Đức và Liên Xô cũng như những kinh nghiệm tốt khi Mỹ tăng cường quyền lực

sau Thế chiến II. Họ đã rút ra kết luận từ những kinh nghiệm này tầm quan trọng

của việc không dựa vào sức mạnh quân sự để bảo đảm tầm vóc của quốc gia và

không đối đầu với những cường quốc vượt trội hơn mình. Do đó, lãnh đạo Trung

Quốc tập trung vào việc tăng cường sức mạnh tổng thể của quốc gia như là một

cách để bảo đảm sự tái sinh của dân tộc. Những học giả nghiên cứu quan hệ quốc

tế của phương Tây đã tranh luận khả năng Trung Quốc tránh những cuộc chuyển

giao quyền lực như thế nhưng về điểm này thì mục tiêu quốc tế của các nhà lãnh

đạo của Trung Quốc rất rõ ràng.

Khi Trung Quốc theo đuổi chiến lược chính sách đối ngoại hiện tại của nó,

vị trí của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế hiện nay ngày càng lớn và có thể gắn

với nó là ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm cách để

kéo dài vĩnh viễn hệ thống đó một khi hệ thống đó giúp Trung Quốc trở nên thịnh

vượng hơn và đảm bảo an ninh. Hiện tượng kỳ lạ này đã được chứng minh qua vị

trí của Trung Quốc ở Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan và Myanmar. Trong tất cả các

trường hợp này, Trung Quốc đều sẵn sang hành động để giải quyết vấn đề hoặc ít

nhất là ngăn chặn vấn đề trở nên tệ hơn hơn là từ chối can thiệp như trước đây. Sự

thay đổi này trong hành vi của Trung Quốc là hệ quả trực tiếp trong những thay đổi

tư duy của Trung Quốc về lợi ích quốc gia, cái mà ngược lại là kết quả trực tiếp

của quá trình quốc tế hoá của Trung Quốc. Trung Quốc có thể thay đổi một vài

trong số các quy tắc và đóng vai trò quan trọng hơn trong việc định hình các tổ

chức quốc tế mới (và xa hơn nữa có tiềm năng kiềm chế Mỹ) nhưng những thay

177

đổi do Trung Quốc khởi xướng trong hệ thống quốc tế hiện tại thì ít có khả năng đó

hơn. Suy nghĩ sâu hơn chúng ta thấy rằng, thậm chí cả khi sức mạnh và ảnh hưởng

của Trung Quốc lớn mạnh hơn, thì cái giá của việc đối đầu với Mỹ cũng vẫn cao,

còn lợi ích của việc đó thì chưa rõ ràng, nếu không muốn nói là thấp. Sức mạnh

kinh tế và quân sự của Mỹ sẽ không bất biến trong suốt 20 năm tới, thậm chí nếu

những khoảng cách về tiềm lực tương đối được thu hẹp lại. Và dường như Mỹ sẽ

không thực hiện một chiến lược đối đầu công khai với Trung Quốc, điều sẽ cơ bản

thay đổi tính toán được-mất của Trung Quốc trong các hành vi quốc tế của nước

này. Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng (nhưng không phải là trung tâm như

trước đây) đối với nhận thức của Trung Quốc về môi trường an ninh bên ngoài và

cấu trúc của hệ thống quốc tế. Thậm chí giả định rằng thế giới sẽ trở thành thế giới

đa cực rõ rang hơn, nền kinh tế và quân sự Mỹ vẫn sẽ tiếp tục phủ bóng lên các vấn

đề Châu Á và thế giới. Theo cách nói này, nhận thức của Trung Quốc về cái giá

của việc đối đầu với Mỹ vẫn sẽ tồn tại dai dẳng.

Những tranh luận này không muốn ngụ ý rằng các hành vi quốc tế của Trung

Quốc sẽ không thay đổi trong hai thập niên tới. Những hành vi đó sẽ thay đổi khi

tiềm năng của Trung Quốc dần dần mở rộng, khi hệ thống quốc tế trở nên đa cực

hơn, và khi vai trò của Mỹ trong các vấn đề quốc tế thay đổi. Ngoại giao Trung

Quốc khi đó sẽ phản ánh sự tự tin và đường hoàng. Các quốc gia khác sẽ trông cậy

vào Trung Quốc nhiều hơn và Trung Quốc sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi sử dụng

sức mạnh của mình trong việc định hình quốc gia và thể chế quốc tế. Trung Quốc

còn có thể thoải mái bất đồng với Mỹ và thậm chí có thể chống lại áp lực của Mỹ.

Những thách thức đối với chính sách của Mỹ nằm ở việc hành vi quốc tế của

nước này để hiểu đường đi của Trung Quốc. Những nhà hoạch định chính sách của

Mỹ cũng cần tìm ra những cách mới để đạt được những mục tiêu: giảm khả năng

Trung Quốc cắt xén lợi ích của Mỹ và ngăn cản những hành động hiếu chiến, tái

cam đoan với Trung Quốc rằng Mỹ không coi Trung Quốc là kẻ thù để bỏ qua mối

178

bất an lớn nhất của Trung Quốc là ý đồ của Mỹ, và để tạo ra các cơ hội cho mối

quan hệ đối tác trong việc giải quyết những vấn đề xuyên quốc gia tạo ra mối đe

doạ cho sự ổn định của hệ thống quốc tế.

Ngụ ý cuối cùng của phân tích này là mong đợi của Mỹ về đường lối tương

lai không nên bắt đầu với phỏng đoán rằng những hành động của Mỹ là tự trị đối

với tiến triển về nhận thức, mục tiêu và chính sách của Trung Quốc. Chính sách

của Mỹ với Trung Quốc sẽ tiếp tục là ảnh hưởng quan trọng nhất đối với hành vi

tương lai của Trung Quốc và đối với nội dung, tính chất của quan hệ Mỹ-Trung.

Điều này nên tiếp tục là tiền đề trung tâm cho các nhà hoạch định chính sách Mỹ.

Thậm chí khi lợi ích của Trung Quốc đa dạng hơn, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục có vị trí

quan trọng, chứ không phải là vượt trội hẳn trong các tính toán của Trung Quốc về

lợi ích kinh tế và an ninh của nước này. Chính sách Mỹ có cách tiếp cận mang tính

cạnh tranh cao với Trung Quốc có thể biến mối quan hệ thù địch trở thành kết quả

không thể tránh khỏi. Mặt khác, những nỗ lực của Mỹ nhằm mở rộng các lĩnh vực

hợp tác có thể tái bảo đảm cho Trung Quốc và khuyến khích nước này đặt sang

một bên lợi ích của hẹp hòi của mình vì lợi ích của khu vực và toàn cầu. Các nhà

hoạch định chính sách Mỹ nên sử dụng tất cả các chiều trong sức mạnh của Mỹ để

báo hiệu cho Bắc Kinh về tỷ lệ được và mất trong việc điều chỉnh cho phù hợp hay

đối đầu với lợi ích của Mỹ.

Suy xét sâu hơn về vấn đề này, ta bắt gặp mối quan hệ đang lộ dần ra giữa

chính sách của chính quyền Obama và quan hệ Mỹ-Trung Quốc.

Một chính sách đối ngoại của Mỹ được coi là ít đơn phương hơn, ít mang

tính ý thức hệ và ít mang tính cưỡng bức hơn so với dưới chính quyền Bush sẽ phủ

nhận cơ hội của Trung Quốc muốn đối lập hoàn toàn với Mỹ, trên thực tế nó sẽ

củng cố môi trường an ninh trong đó Trung Quốc tìm thấy ít cơ hội để kiềm chế

các lựa chọn của Mỹ hơn. Một chính sách đối ngoại mà tích cực và thích hợp sử

dụng các thể chế đa phương và nhấn mạnh, cả theo cách nói hoa mỹ và bằng hành

179

động, giá trị của các giải pháp được đàm phán (bao gồm cả những giải pháp có

được thông qua việc sử dụng vũ lực) cũng có thể làm cho sức mạnh của Mỹ trở

nên ít đe doạ hơn đối với Trung Quốc và các nước khác, giảm bớt sự căng thẳng

của tình thế lưỡng nan về an ninh trong quan hệ Mỹ-Trung, làm gia tăng sức lôi

cuốn của Mỹ trên toàn cầu.

Kiến nghị chính sách

Một vài kiến nghị chính sách cho Mỹ theo sau những kết luận trên. Ở mức

độ chính sách quốc gia đối với Mỹ, Mỹ nên theo đuổi “chiến lược hỗn hợp” với cả

những nhân tố hợp tác và cạnh tranh. Đặc biệt, chiến lược hỗn hợp như thế sẽ bao

gồm ba nhân tố: dính líu, sự gắn bó về thể chế và cân bằng an ninh.

Logic của theo đuổi một chiến lược hỗn hợp về hướng thân Trung Quốc từ

hai kích thước lõi của hành vi quốc tế của Trung Quốc: (1) trí trung tâm ngày càng

tăng của Trung Quốc với sự ổn định và phồn vinh ở châu Á và trên toàn cầu và (2)

sự không chắc chắn về hướng tương lai của Trung Quốc như là một năng lượng

tăng cao và tương ứng hoặc là một niềm tin rằng rất yếu hoặc rất mạnh Trung

Quốc có thể phát triển và sẽ hoặc là một trong những thách thức Hoa Kỳ quan tâm.

Khía cạnh thứ hai của Trung Quốc là thách thức đặc biệt quan trọng: Các điểm của

việc áp dụng một chiến lược hỗn hợp là để hedge USD an ninh "cược" chống lại sự

không chắc chắn về tương lai của Trung Quốc. Không chắc chắn là lái xe của

phương pháp này, không giấu dự Hoa Kỳ về ý định của Trung Quốc.

Mỗi thành phần của chiến lược này hỗn hợp có chính sách cụ thể các thành

phần. Hoa Kỳ cam kết với Trung Quốc đã trở thành một thực tế được chấp nhận

của Mỹ-chính sách Trung Quốc trong ba thập kỷ qua. Có vài vấn đề về an ninh

toàn cầu-cả- truyền thống và phi truyền thống và có thể được giải quyết mà không

có sự tham gia của Trung Quốc. Và như Trung Quốc trở nên tham gia vào các khu

vực ngoài châu Á, nó đã trở thành trung tâm để quản lý bất ổn của họ cũng như

cuộc khủng hoảng Darfur ở Sudan.

180

Trong theo đuổi tham gia, Hoa Kỳ nên nhờ đến cả hình dạng và thử nghiệm

ý đồ của Trung Quốc, là logic đằng sau những cách tiếp cận chính sách khuyến

khích Trung Quốc là một "chịu trách nhiệm các bên liên quan". CÓ lẽ quan trọng

hơn, Hoa Kỳ hoạch định chính sách có thể sử dụng để báo hiệu sự dính líu của

Trung Quốc rằng Hoa Kỳ không tìm cách chống Trung Quốc, không tìm cách đem

lại những cuộc cách mạng chính trị bạo lực ở Trung Quốc, là một ổn định và thịnh

vượng ở Trung Quốc là lợi ích của Hoa Kỳ, và rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận và

thích nghi một số lợi ích của Trung Quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng có thể tín

hiệu cho Trung Quốc mà hơn dự kiến của nó và rằng nếu nó muốn một vai trò lớn

hơn trên toàn cầu.

Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất Trung Quốc, và Trung Quốc là lớn

thứ hai thương mại đối tác của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Trung Quốc là lớn nhất và lớn

thứ ba, quyền hạn, kinh doanh trên thế giới và Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn

nhất thế giới. Hoa Kỳ và Trung Quốc đã chịu trách nhiệm cho gần một nửa số tăng

trưởng kinh tế toàn cầu đã xảy ra giữa năm 2003 và 2008. Trung Quốc nắm giữ

trên 100 tỷ đô la Mỹ nợ. Hoa Kỳ cần mở rộng chiều rộng và chiều sâu của đối

thoại song phương về các vấn đề quốc phòng, kinh tế, ngoại giao, và để đảm bảo

rằng tất cả các bên liên quan ở Trung Quốc đang tham gia. Sự quản lý của Obama

đối thoại chiến lược và kinh tế với Trung Quốc là bước quan trọng theo hướng này.

Một thách thức đối với chính sách của Mỹ tại Trung Quốc là có hiệu quả hấp dẫn

để làm điều đó trong khi cũng đang theo đuổi những khía cạnh cạnh tranh hơn của

Mỹ về chính sách, địa chỉ dưới đây.

Ngoài cam kết song phương, có hơn Hoa Kỳ có thể làm được trên mặt trận

đa phương. Hoa Kỳ cần phải trở thành chủ động hơn trong khu vực ngoại giao ở

châu Á để củng cố sự tin cậy và tính hợp pháp của Hoa Kỳ hiện diện. Trung Quốc

đã hưởng lợi trong năm năm qua, từ nhận thức rằng Hoa Kỳ là bị phân tâm với Iraq

và Afghanistan và từ một hoài nghi trong khu vực liên quan về quyền lực Hoa Kỳ

181

và lý tưởng. Tình hình này cung cấp một cơ hội mà Trung Quốc có thể nhận thức

hình khu vực và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Do đó, một yếu tố quan

trọng của một chính sách tham gia Hoa Kỳ là để được quan tâm thêm đến và

thường xuyên có mặt tại cuộc họp đa phương lớn ở châu Á để báo hiệu sự thống

nhất và chất lượng của các cam kết với Hoa Kỳ đồng minh trong khu vực và đối

tác. Điều này sẽ hình bối cảnh khu vực của tăng của Trung Quốc. Một Mỹ gia hạn

cam kết đa phương ở Đông Á, bao gồm tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á,

đang nắm giữ một hội nghị thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo ASEAN, và luôn

luôn tham dự các cuộc họp lớn trong khu vực, sẽ đi một chặng đường dài về hướng

nâng cao nhận thức của khu vực Mỹ cam kết đến vùng.

Câu hỏi về kinh tế, chính sách của Mỹ nên tập trung vào đàm phán nâng cao

chất lượng các thỏa thuận thương mại khu vực và các hiệp ước đầu tư và góp phần

vào cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, cơ chế quản lý. Mỹ chính sách cần tái

khẳng định chính nó như là trung tâm để các nền kinh tế của khu vực Đông Á.

Những giai điệu của chính sách của Mỹ về hướng Trung Quốc và chính sách Hoa

Kỳ ở Đông Á là rất quan trọng là tốt. Hoa Kỳ nên theo đuổi chương trình nghị sự

này tham gia của khu vực và đa phương tăng cường với sự tự tin, không phải là

một phản ứng tự vệ để lo ngại về Trung Quốc. Hoa Kỳ không cần phải tham gia

vào tất cả các tổ chức đa phương rằng Trung Quốc gia nhập hoặc thiết lập. Phản

ứng của ngoại giao Mỹ đối với Trung Quốc sẽ làm suy yếu các mục tiêu tối hậu

của Hoa Kỳ ủng hộ uy tín và tính chính đáng của vai trò hiện tại của nó như là một

nhà cung cấp chính của hàng hoá công cộng và tư nhân để các quốc gia châu Á.

Những tiền đề trung tâm của một chiến lược ràng buộc là phải góp ý muốn

của Trung Quốc để có một chỗ ngồi tại bàn và để được truy cập vào các nguồn lực

thể chế như một cách để khóa nó vào cam kết. Khuyến khích sự tham gia của

Trung Quốc cũng phục vụ như là một cách để kiểm tra ý đồ của Trung Quốc.

Trung Quốc không chấp nhận các quy định hiện hành hay không nó tìm cách viết

182

lại chúng? Quan trọng hơn, chẳng hạn ràng buộc được thực hiện trước mặt đồng

nghiệp của Trung Quốc, trong đó tăng thêm các chi phí cho Trung Quốc từ các quy

tắc hay chỉ tiêu. Ràng buộc không cần phải được xem như là một phương pháp

cưỡng chế; ràng buộc tìm kiếm để tạo cơ hội cho Trung Quốc chấp nhận hạn chế

để trao đổi với cả quốc tế cộng đồng của sự chấp nhận của một số lợi ích của nó và

truy cập của Trung Quốc để các nguồn lực và tầm vóc của các tổ chức khu vực và

toàn cầu.

Đối với chính sách của Mỹ, điều này có nghĩa là mở rộng sự tham gia của

Trung Quốc trong các tổ chức quốc tế lớn và khu vực, như Interna-tional và Quỹ

Tiền tệ Quốc tế Cơ quan Năng lượng. Điều này sẽ tín hiệu Mỹ sẵn sàng để cung

cấp cho Trung Quốc cơ hội giọng nói "không" quan hệ "và giúp Hoa Kỳ đo khả

năng hoạch định chính sách của Trung Quốc để đóng góp để giải quyết vấn đề toàn

cầu. Tương tự như chính sách của Hoa Kỳ đã có một định nghĩa ảnh hưởng về sự

tiến triển của thương mại của Trung Quốc và cam kết khuôn khổ không phổ biến

kể từ đầu những năm 1980. Nhìn về phía trước, sự tham gia của Trung Quốc sẽ là

cần thiết cho sự thành công của cuộc đàm phán toàn cầu về biến đổi khí hậu, an

ninh năng lượng, dịch bệnh, và những thách thức an ninh xuyên quốc gia khác.

Các khía cạnh cuối cùng của một chiến lược an ninh nhà nước là hỗn hợp

cân bằng. Chủ đề này sẽ không được giải quyết một cách chi tiết ở đây, cho rằng

Trung Quốc hiện đại hóa quân sự không phải là một đối tượng được bảo hiểm

trong chuyên khảo này. Trong điều kiện Eral-gen, bảo đảm cân đối các thành phần

liên quan đến chiến lược của Hoa Kỳ tăng cường hợp tác liên minh Mỹ và uy tín

của Hoa Kỳ cam kết an ninh đến Châu Á-Thái Bình Dương. Bảo đảm ổn định cho

khu vực bởi ngăn chặn hành động tích cực của bất kỳ nhà nước vẫn là một mục

tiêu trung tâm của Hoa Kỳ và triển khai lực lượng liên minh trong khu vực. Hoa

Kỳ cũng nên cải thiện chất lượng hợp tác an ninh khu vực của mình để đảm bảo

rằng đồng minh của Hoa Kỳ và các đối tác an ninh không phải là dễ bị tổn thương

183

đến trước dation của Trung Quốc và không ai trong số họ cảm thấy rằng, nếu như

Hoa Kỳ muốn họ phải lựa chọn giữa Washington và Bắc Kinh.

Hoa Kỳ cũng có thể sử dụng hợp tác an ninh như vậy để mở rộng tính hợp

pháp sự hiện diện của nó theo địa chỉ secu cả truyền thống và những thách thức phi

truyền thống. Trung Quốc đã được khá hiệu quả tại nước châu Á tham gia vào các

thứ hai, do đó, Hoa Kỳ sẽ được hưởng lợi từ tận dụng khả năng phòng thủ của cấp

trên để làm như vậy.

Cuối, cân bằng bảo mật không nên theo đuổi theo một cách mà được xem

như là ganging lên trên Trung Quốc, như rằng sẽ xa lánh các đồng minh chủ chốt

và các đối tác. Tăng cường phối hợp liên minh sẽ xuất hiện bên cạnh những hoạt

động quân sự để tham gia chương trình quân sự giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng

như giữa các đồng minh của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Những nỗ lực như vậy có thể

giúp làm giảm an ninh-động thái tiến thoái lưỡng nan trong khi cũng đảm bảo khả

năng quân sự Hoa Kỳ có thể tiếp tục ngăn chặn các mối đe dọa tiềm năng và trấn

an các đồng minh của Hoa Kỳ và các đối tác.

184