Chính sách ngoại giao của Trung Quốc
1
A - LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay lợi ích kinh tế và ngoại giao của Trung Quốc đang mở rộng ra toàn
cầu trong hơn 1 thập kỉ vừa qua chứ không còn giới hạn trong phạm vi khu vực
chau Á TBD kể cả ở các khu vực mà trước đây nằm ngoài sự tính toán của Bắc
Kinh, đáng chú ý là Mỹ Latin và Trung Đông. Ngoại giao của Trung Quốc đang
ảnh hưởng đến quan hệ quốc tế ở hầu như tất cả các mức độ của hệ thống toàn cầu.
và các chính sách của ngoại giao TQ hiện đang ảnh hưởng tới nhận thức, các mối
quan hệ, các thể chế và tiến trình của quốc tế. Trung Quốc cũng đã tập trung xử lí
hoặc giải quyết các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống mà cộng đồng
quốc tế đang phải đối phó. Ở Châu Á, khu vực chiến lược của TQ, nước này đã trở
thành nước có sức mạnh vượt trội, tham gia sâu vào tất cả các mặt kinh tế và an
ninh. Trung Quốc đã trở thành một điểm tựa của sự thay đổi trong trật tự khu vực,
đảm bảo một cách chắc chắn rằng vai trò then chốt của quốc gia này ở Châu Á sẽ
được củng cố hơn trong tương lai.
Những xu hướng đó đã làm nảy sinh những câu hỏi sau: Đâu là các mục tiêu
của TQ trong vai trò là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới? Trung Quốc
thực hiện những mục tiêu đó như thế nào và nhửng ảnh hưởng lên các khu vực trên
thế giới. Hành vi quốc tế của Trung Quốc sẽ dẫn đến đâu? Các lợi ich bên ngoài và
chính sách đối ngoại của TQ thay đổi như thế nào khi tiềm lực kinh tế và quốc
phòng của nước này được tăng cường. Và cuối cùng có phải là chính sách đối
ngoại của Trung Quốc là đối trọng với lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ hay
không?
Ở một vài điểm, các nhà lãnh đạo TQ đã có câu trả lời với các câu hỏi quan
trọng này. Những nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc nói về “hòa bình,
phát triển và hợp tác” như là những nét chính của nền ngoại giao Trung Quốc, và
họ cho rằng chính sách đối ngoại của Trung Quốc tìm kiếm “để thúc đẩy một môi
2
trường quốc tế hòa bình và ổn định nhằm xây dựng một xã hội khá giả nhiều mặt.”.
Gần đây các nhà lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố thực hiện chiến lược quốc tế “phát
triển hòa bình” nhằm xây dựng một “thế giới hài hòa”.
Những quan điểm này thường được xuất hiện trong những cuộc tranh luận
công khai của chính quyền TQ về ngoại giao của nước này. Tuy nhiên, các khẩu
hiệu và các chính sách này được cho là không làm các nhà quan sát bên ngoài
không hài lòng, nghi kị và lo lắng. Điều đó không có nghĩa là các mục tiêu của TQ
là hoàn toàn sai lầm hoặc là là sự che đậy một cách khôn ngoan các ý định thực sự
của Bắc Kinh, một điệp khúc phổ biến tại Hoa Kỳ; hơn nữa, các khẩu hiệu và
chính sách này không đủ để giải thích cho tính đa diện của những lợi ích và hành
động của Trung Quốc. Các đặc điểm chính thức của chính sách đối ngoại của TQ
đã bị làm méo mó dưới nhiều mức độ của nhận thức, các động cơ thúc đẩy và
chính sách đã đã tạo nên các hành vi của TQ trên thế giới. Bằng cách đó họ không
nắm bắt được tính năng động của hoạt đối ngoại của Trung Quốc và làm che lấp sự
hiểu biết bên ngoài về hành vi của Trung Quốc. Do đó để trả lời cho câu hỏi về
những ý định của Trung Quốc hiện nay và trong tương lai, các nhà phân tích phải
sử dụng tổng hợp các biện pháp phân tích bao gồm các tuyên bố, phân tích và hành
vi của TQ (và động cơ thúc đẩy của các nhân tố này) nhừm đánh giá các mục tiêu
của nước này với vai trò là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới.
Cuối cùng, tài liệu này đánh giá các hành vi quốc tế trong hiện tại và tương
lai của TQ, bao gồm cả các quan hệ quốc tế (song phương và đa phương) và các
chính sách đối ngoại nước này sử dụng để thực hiện các quan hệ quốc tế. Việc
Trung Quốc nhận thức như thế nào về những lợi ích khu vực và toàn cầu của nó và
những chiến lược và những chính sách nước này sử dụng để theo đuổi những lợi
ích như vậy có tác dụng trực tiếp tới sự ổn định và an ninh khu vực Châu Á và toàn
cầu. Hơn thế nữa, sự hiểu biết về nhận thức, những chiến lược và các công cụ của
3
ngoại giao Trung Quốc sẽ chỉ ra định hướng trong tương lai của hành vi quốc tế
của Trung Quốc.
Tài liệu này chứng cho rằng để hiểu rõ hành vi quốc tế của Trung Quốc thì
cẩn phải xem xét nhiều tầng lớp, mỗi tầng lớp đó lại gắn với việc xem xét các hành
động hiện tại và định hướng trong tương lai của Trung Quốc. Các tầng lớp này bào
gồm: (1) lăng kính lịch sử mà các nhà hoạch định chính sách của TQ nhìn nhận thế
giới và vai trò của nước này trên thế giới. (2) nhận thức của Trung Quốc về môi
trường an ninh quốc tế hiện tại, (3) mục tiêu chính sách đối ngoại của Trung Quốc
và (4) những hoạt động chính sách đối ngoại cụ thể của Trung Quốc nhằm thực
hiện các mục tiêu nước này đặt ra. Cách tiếp cận này nhằm cung cấp một khuôn
khổ phân tích, một mô hình sắp xếp nhằm đánh giá các ý định trong hiện tai và
tương lai của TQ và ý nghĩa với Mĩ bằng việc xem xét sự thay đổi rộng rãi và
nhanh chóng của các hành vi quốc tế của TQ .Cách tiếp cận này phải là biện pháp
xử lí toàn diện với tất cả các mặt của chsinh sách đối ngoại và an ninh quốc gia của
TQ. Ví dụ, nghiên cứu này không xem xét việc hiện đại hóa quân đội TQ và các
hoạt động quân sự của TQ ở khu vực Đông Á khi mà các chủ để này nằm trong các
dự án nghiên cứu độc lập và ngoài phạm vi nghiên cứu này.
Để nghiên cứu hành vi quốc tế của Trung Quốc, tài liệu này sử dụng nguồn
tài liệu công khai của Trung Quốc cũng như các của nhà phân tích của phương
Tây. Những nguồn nguyên bản này đã được bổ sung bằng văn bản một loạt các
cuộc phỏng vấn ở Trung Quốc năm 2005, 2006, 2007 và 2008 với các quan chức,
các nhà phân tích và các học giả đã tham gia nghiên cứu và hoạch định chính sách
trong chính sách đối ngoại và vấn đề an ninh quốc gia của Trung Quốc.
Tài liệu này bao gồm phần giới thiệu, sáu chương nội dung và một chương
kết luận. Tiếp theo phần giới thiệu này, chương hai xem xét các lăng kính mà các
nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc và các nhà phân tích sử dụng để đánh
gia vai trò của Trung Quốc trong các vấn đề toàn cầu. Những lăng kính này, phần
4
lớn bắt nguồn từ lịch sử của Trung Quốc cũng như các ưu tiên quốc gia lâu dài của
nước này đều phản ánh và thể hiện các xu hướng được thể hiện trong việc hoạch
định chính sách đối ngoại của TQ. Những lăng kính này được giới thiệu như là các
đặc điểm truyền thống của hành vi quốc tế của TQ. Chương ba xem xét nhận thức
của Trung Quốc về môi trường an ninh quốc tế hiện nay, trọng tâm cụ thể là các
thách thức mà nước này phải đối mặt. sự nhận thức rõ ràng điều quan trọng về
những thách thức đang ở phía trước. Chương bốn, năm và sáu nói chi tiết về mục
tiêu đối ngoại hiện nay của Trung Quốc như một chủ thể quốc tế và chính sách cụ
thể Bắc Kinh sử dụng khi thực hiện các chính sách này của Bắc Kinh theo đuổi
chúng. Ý nghĩa và sự liên quan của hành động quốc tế của Trung Quốc được diễn
Tóm tặt lại từ chương hai đến chương sáu, chương bảy điểm lại những thách thức
đa chiều mà TQ phải đối mặt khi thực hiện các mục tiêu lâu dài và mục tiêu hiện
nay. Kết luận của nghiên cứu này (Chương 8) tổng hợp các tranh luận trong tài liệu
thành các nhận định phân tích về nội dung hiện tại và tương lai của hành vi quốc tế
của TQ. Chương này đánh giá hệ quả của các nhận định này với quan hệ Mĩ –
Trung với trọng tâm là các điểm tương đồng và đối lập trong lợi ích toàn cầu của
Mĩ và TQ.
5
Chương 2
TỔNG QUAN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI Trung Quốc
Hành vi quốc tế của Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi ba “lăng kính” nhận thức
có tính lịch sử đã định hình cách các quan điểm của các nhà hoạch định chính
sách về môi trường bên ngoài Trung Quốc, về vai trò của Trung Quốc trong các
vấn đề quốc tế, và thi hành các chính sách. Những lăng kính này phản ánh các xu
hướng và quan điểm của Trung Quốc về hệ thống quốc tế và vị trí của Trung
Quốc trong hệ thống ấy. Những lăng kính này là tất cả những quan niệm liên quan
đến khái niệm vai trò quốc gia của Trung Quốc và thường không được bàn luận
một cách công khai, cũng như không được xuất hiện trong các văn bản chính
phủ. Hơn nữa , những ý tưởng này đã ảnh hưởng đến việc nghiên cứu, phân tích,
hoạch định về quan hệ đối ngoại và chính sách đối ngoại Trung Quốc.
Ba lăng kính
Phục hưng quốc gia
Trước hết, có một niềm tin đã ăn sâu ở Trung Quốc rằng nó đang trong quá
trình đòi lại vị trí một “đại quốc” (da guo) đã mất. Các nhà hoạch định chính sách,
phân tích và truyền thông Trung Quốc đã miêu tả sự nổi lên gần đây của Trung
Quốc như là một sự “phục hưng” (fuxing) hay là “chấn hưng” (zhenxing) để giành
lại vị trí cường quốc trên thế giới.
Họ thường đề cập đến ảnh hưởng toàn cầu thực sự của Trung Quốc trong các
triều đại Hán, Tần, và cuối nhà Minh đầu nhà Thanh – mặc dù Trung Quốc chỉ có
những mối liên hệ rất hạn chế với Hy Lạp cổ, đế chế La Mã, Byzantium hoặc Ấn
Độ trong những giai đoạn này. Tờ Global Times bình luận “Trung Quốc đang trên
đường trở thành một “đại quốc xu cường” (da er qu qiang). Đối với nhiều người
Trung Quốc, sự nổi lên gần đây thực ra là lần thứ tư trong lịch sử. Họ chỉ ra rằng
6
trong các triều đại trước, Trung Quốc đã là một xã hội phát triển rất cao, tinh tế về
văn hóa và phát triển về kỹ thuật, đóng góp đáng kể cho nền kinh tế toàn cầu và,
với vị trí này, đã từng được thế giới kính trọng và tôn sùng.
Về các thời kỳ trước đó, các nhà phân tích và hoạch định chính sách Trung
Hoa khẳng định rằng Trung Quốc chưa bao giờ là chưa bao giờ là một kẻ thống trị
chuyên quyền dựa trên áp bức và bạo lực (khái niệm ‘bá đạo’ badao) mà là một
nước lớn ôn hòa (khái niệm ‘vương đạo’ wangdao), đã thu hút được các quốc gia
khác bởi lòng tốt hợp đạo lý, sự giàu có về văn hóa, kinh tế và sự phát triển về kỹ
thuật. Đối với nhiều người Trung Quốc, Trung Quốc gần đây đang quay trở lại với
vai trò một nước lớn ôn hòa như trong quá khứ, điều đó giúp Trung Quốc sửa chữa
những sai lầm trong lịch sử làm nước này suy tàn trong 150 năm qua kể từ cuộc
Chiến tranh nha phiến vào những năm 1840.
Hơn nữa, khái niệm “ cường quốc” hiện nay của Trung Quốc là rất chung
chung và không được các học giả và các nhà hoạch định chính sách định nghĩa rõ
ràng. Khái niệm của Trung Quốc dường như kết hợp xung quanh quan điểm (trong
đó, có cả quan điểm của người Trung Quốc): được can dự đến bất cứ quyết định
quốc tế quan trọng nào ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc (như Trung Quốc
định nghĩa). Việc các nước lớn khác phải làm theo Trung Quốc là một đặc
điểm nhất quán trong những cuộc thảo luận của Trung Quốc về vai trò nước lớn
trong hệ thống quốc tế. Những bài bình luận về Trung Quốc cho đến nay đã thảo
luận rất ít về việc Trung Quốc sẽ làm gì với địa vị cường quốc ngoài việc ngăn
chặn sự áp lực của các nước khác và mở rộng sức mạnh quốc gia toàn diện của nó.
Quan điểm của người Trung Quốc cho rằng những hành vi trong quá khứ
của họ là của một cường quốc ôn hòa không chỉ là cách nói tự tôn dân tộc (cho dù
là 1 phần của quan điểm đó) mà là về quan điểm phổ biến của TQ về quyền và vai
trò toàn cầu mà họ được kế thừa. Nhận thức này có thể được tìm thấy trong những
lập luận của Trung Quốc khi họ cho rằng Trung Quốc hiện nay nên được xem
7
như một cường quốc bởi dân số đông, lịch sử lâu đời, truyền thống văn hóa giàu
có, nền kinh tế lớn đã hội nhập vào kinh tế thế giới, là thành viên thường trực hội
đồng bảo an Liên Hợp Quốc và sở hữu vũ khí hạt nhân. Quan trọng hơn, hình ảnh
vĩ đại của TQ trong quá khứ đã hình thành quan điểm về sự trỗi dậy của TQ trong
các hoạt động quốc tế và cách nhìn của thế giới về TQ. Học giả Yan Xuetong đại
học Thanh Hoa phát biểu:
Sự trỗi dậy của Trung Quốc được cho là tự nhiên…(người Trung Quốc) tin
rằng sự đi xuống của Trung Quốc là một sai lầm mang tính chất lịch sử mà nên
được sửa chữa...người Trung Quốc xem sự nổi lên của họ như việc giành lại vị thế
quốc tế đã mất hơn là đạt được một điều gì đó mới... Họ coi sự nổi lên của Trung
Quốc như việc khôi phục lại sự công bằng hơn là giành được ưu thế so với các
quốc gia khác.
Tâm lí nạn nhân
Quan điểm thứ hai và có liên quan được thể hiện trong những bài viết của
người Trung Quốc là Trung Quốc là nạn nhân của “100 năm của sự xấu hổ và bẽ
mặt” (bainian guochi) trong tay của các nước phương Tây và các nước khác, đặc
biệt là Nhật Bản. Bắt đầu với cuộc chiến tranh nha phiến, Trung Quốc bị xâm lược,
chia rẽ, làm yếu đi bởi các nước bên ngoài đến tận khi Mao Trạch Đông thống nhất
Trung Quốc và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa năm 1949. Di sản
này đã để lại một ấn tượng sâu sắc đến sự nhận thức và bản sắc quốc gia của rất
nhiều người Trung Quốc. Đảng Cộng sản đã đẩy mạnh tuyên truyền câu chuyện
này kể từ lúc mới bắt đầu để họ có thê danh chính ngôn thuận lên cầm quyền. Đảng
cộng sản Trung Quốc khẳng định rằng họ sẽ bảo vệ Trung Quốc khỏi tây
hóa và phong hóa hoặc là bị chia rẽ và bị Phương tây hóa.
Việc đã trở thành nạn nhân trong quá khứ đã khiến các nguy cơ xâm phạm
chủ quyền, lãnh thổ trở nên nhạy cảm, đồng thời khiến TQ nhấn mạnh những
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ
8
của nhau trong ngoại giao của nước này. Những quan điểm này củng cố thêm cách
nhìn nhận về quyền lực đã được nói đến bên trên. Hơn nữa, tâm lí nạn nhân khiến
cho những nỗ lực của nước này nhằm khẳng định lại vị thế đã mất là hai mặt của
cùng một đồng xu, tạo ra những nỗ lực của Trung Quốc để dành lại “vai trò xứng
đáng” của họ trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Tâm lí nạn nhân đã này hiện đang thay đổi trong thời gian gần đây. Những
quan chức và học giả Trung Quốc đã thảo luận về việc hình thành quan điểm “tâm
lí cường quốc”, nhấn mạnh tới những thành tựu đáng kể trong việc phát triển kinh
tế và sự nổi lên của Trung Quốc trong các vấn đề thế giới. Cho đến nay, quan điểm
về vấn đề “nạn nhân” này vẫn tồn tại một cách dai dẳng và phổ biến trong những
người theo chủ nghĩa dân tộc; và rõ ràng đã trở thành một động lực thúc đẩy hình
thành dư luận quần chúng và ảnh hưởng đến chính sách của chính phủ trong các
cuộc khủng hoảng ngoại giao với Mĩ và Nhật.
An ninh phòng thủ là khái niệm thứ ba gây ảnh hưởng tới tư duy của Trung
Quốc trong các vấn đề đối ngoại. Quan điểm này bắt nguồn từ những nỗi sợ hãi
của Trung Quốc đã xuất hiện từ trong lịch sử rằng các cường quốc bên ngoài đang
cố gắng kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy, có thể gây áp lực lên nước này (trong
khủng hoảng) hay lợi dụng sự yếu kém bên trong của Trung Quốc. Những nỗi sợ
hãi này được đề cập đến trong lịch sử chính thức của Đảng Cộng Sản. Họ đã gợi lại
các cuộc xâm lược sau Chiến tranh nha phiến, những nỗ lực của Mỹ và Liên Xô
nhằm ngăn cản việc Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân và tái thống nhất Đài
Loan. Những vấn đề lịch sử này được dùng để củng cố tính hợp pháp của ĐCS như
là vị cứu thế của một TQ yếu kém và bị chia cắt, đồng thời gây nên hiệu ứng lo
ngại về các ý đồ của các nước lớn có thể làm TQ mất an ninh một cách sâu sắc.
Tình trạng mất an ninh trên được phản ánh bằng nhiều cách khác
nhau trong chính sách chính thức của Trung Quốc và là yếu tố quan trọng để hiểu
được các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức thế nào về ý đồ của họ. Những nhà
9
lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố công khai rằng: “Trung Quốc sẽ không bao giờ trở
thành bá quyền và không bao giờ tấn công để bành trướng”. Truyền thống văn hóa
của Trung Quốc là “ủng hộ hòa bình”, “tập trung phòng thủ”, “tạo ra sự đoàn kết”.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng Trung Quốc không đe dọa quốc gia
nào khác, thậm chí họ phải đối mặt với những nguy cơ an ninh từ cả những nước
trong khu vực và các cường quốc có lợi ích trong khu vực, tất cả các nước này đều
đã từng phá hoại Trung Quốc trong quá khứ. Trung Quốc nói rằng họ không theo
đuổi việc chiếm giữ, xâm lấn và chinh phục những vùng lãnh thổ của các quốc gia
khác. Họ thường xuyên nói rằng những lần sử dụng vũ lực trong quá khứ và những
cuộc tranh chấp lãnh thổ đều được giới hạn, có mục đích trừng phạt và là kết quả
của sự khiêu khích từ bên ngoài. Các quan điểm trên đã trở nên phổ biến trong lịch
sử của Đảng Cộng sản về vấn đề can thiệp quân sự ( trong các cuộc chiến tranh
Việt Nam, Triều Tiên, Ấn Độ), khi cho rằng TQ đã thực hiện chiến lược quân sự tự
vệ khi bị khiêu khích bởi các đối tượng thù địch bên ngoài. (Nhiều nhà lịch sử
phương Tây còn đang tranh luận về vấn đề này). Quan điểm an ninh phòng thủ
của Trung Quốc biểu hiện trong các chính sách đặt ưu tiên cao trong việc tối đa
hóa an ninh xung quanh khu vực ngoại vi của Trung Quốc đặc biệt khi liên quan
tới phòng thủ biên giới và toàn vẹn lãnh thổ. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đặc
biệt lo sợ về việc các cường quốc bên ngoài sử dụng vũ lực và các phương tiện
cưỡng bức khác (ví dụ như : lệnh cấm vận, lệnh trừng phạt) nhằm ép Trung
Quốc đưa ra các quyết định không mong muốn, đặc biệt trong một cuộc khủng
hoảng quân sự. Những bài viết của Trung Quốc về học thuyết vũ khí hạt nhân nhấn
mạnh chỉ cần sở hữu đủ số vũ khí hạt nhân để tránh bị đe dọa bởi kẻ thù có trang bị
vũ khí nguyên tử chứ không cần sở hữu một lượng lớn và đa dạng vũ khí nguyên
tử phục vụ cho các mục đích quân sự như chiến tranh hạt nhân.
Một bước phát triển quan trọng trong tư duy của người Trung Quốc là việc
nước này bắt đầu coi trọng vấn đề tình thế “lưỡng nan về an ninh” trong các vấn đề
10
đối ngoại. Các quan chức và học giả Trung Quốc từ giữa những năm 1990 bắt đầu
nhận thấy một số hành động nhất định của Trung Quốc (được thực hiện để bảo vệ
lợi ích an ninh của Trung Quốc) bị cho rằng đang đe dọa đến các nước xung quanh
Trung Quốc; họ đã bắt đầu hiểu rằng hành động “tự vệ” của mình đã làm tăng
những phản ứng từ các nước khác và làm tăng sự mất ổn định và cạnh tranh an
ninh ở Đông Á. Nhận thức này của Trung Quốc đã nhấn mạnh vấn đề tái bảo đảm
là một đặc điểm của ngoại giao Trung Quốc, một đề tài sẽ được chi tiết hơn dưới
đây.
Các ưu tiên ngoại giao dài hạn
Ba lăng kính lịch sử của Trung Quốc được phản ánh rõ hơn bằng ba ưu tiên
ngoại giao lâu dài: chủ quyền và thống nhất lãnh thổ, phát triển kinh tế, vị thế quốc
tê và sự tôn trọng của quốc tế. Trong khi những lăng kính lịch sử tương đối trừu
tượng, những ưu tiên này cụ thể hơn và thúc đẩy một cách rõ ràng chính sách đối
ngoại và an ninh của Trung Quốc từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được
thành lập năm 1949. Những lăng kính này không chỉ là hiện tượng hậu 1978. Biểu
hiện chính sách cụ thể của ba ưu tiên này và trọng tâm tương ứng của giới lãnh
đạo đã thay đổi rất nhiều trong hơn 25 năm qua- và sẽ còn tiếp tục làm thay đổi.
Trong khi chính sách đối ngoại của Mao nhấn mạnh vào chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ và vị thế (giữa các ý kiến cải cách khác), trong thời kỳ cải cách, các nhà lãnh
đạo Trung Quốc đã rõ ràng và kiên định đặt ưu tiên phát triển kinh tế quốc gia
trong các quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.
Chủ quyền và thống nhất lãnh thổ
Bảo vệ chủ quyền và thống nhất lãnh thổ là lợi ích quốc gia then chốt của
Trung Quốc và được thể hiện trong các chính sách đối ngoại như theo đuổi sự an
toàn ở biên giới Trung Quốc, thúc đẩy sự thống nhất Đài Loan, hạn chế những mối
đe dọa của nước ngoài với lãnh thổ Trung Quốc (bao gồm cả các yêu sách lãnh thổ
trên biển), và giảm đến mức thấp nhất sự can thiệp từ bên ngoài vào sự phát triển
11
và chính trị Trung Quốc[13]. Trung Quốc chia sẻ biên giới trên bộ với 14 quốc gia
và đường bờ biển của nước này dài khoảng 14,500km. Trung Quốc thường
xuyên tranh chấp lãnh thổ trên bộ và trên biển với các quốc gia láng giềng trong
sáu thập kỷ qua. Tranh luận về tranh chấp biên giới và ngăn chặn sự xâm lấn của
nước ngoài vào Trung Quốc là mối quan ngại chính của ngoại giao Trung Quốc.
Những nỗ lực thành công của Trung Quốc những năm 1980 trong việc đàm phán
lấy lại Hong Kong và Macao thường xuyên được ca ngợi là những thành công
lớn về phương pháp tiếp cận chính sách đối ngoại của Chủ tịch Giang Trạch Dân.
Tất nhiên, thống nhất hai bờ Đài Loan là một yếu tố lâu dài trong nỗ lực của TQ
nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Gần đây, Trung Quốc nhận thức rằng nước này đang phải đối mặt với nhiều
mối đe dọa bên trong đối với sự thống nhất lãnh thổ của từ “những nhóm ly khai”,
như Hồi giáo Uighurs ở tỉnh Tân Cương, và Đạt La Lạt Ma. Việc chính sách đối
ngoại Trung Quốc gần đây tập trung vào vấn đề chống khủng bố là biểu hiện của
mong muốn ngăn cản các nhóm này liên kết với Al Qaeda hay các nhóm khủng bố
nguy hiểm khác. Có rất ít tranh luận về vị trí ưu tiên hàng đầu của vấn đề chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc.
Phát triển kinh tế
Việc phát triển kinh tế được coi là ưu tiên chính trong chính sách đối ngoại
là một hiện tượng của thời kỳ cải cách. Điều này làm chúng ta liên tưởng đến
những nỗ lực của Trung Quốc trong 30 năm để đảm bảo môi trường ổn định bên
ngoài để cải thiện mức sống của người dân và xây dựng " sức mạnh toàn diện của
quốc gia" giúp đạt được sự hồi sinh thần kỳ. Lời phát biểu của Đặng Tiểu Bình
năm 1992 " chỉ có phát triển mới là điều thuận theo đạo lý " (fazhan caishi ying
daoli 发展才是硬道理) vẫn tiếp tục ảnh hưởng chính đến chính sách đối
ngoại Trung Quốc. Thủ tướng Ôn Gia Bảo phát biểu "Lời cuối cùng là về vấn đề
phát triển, đó không chỉ là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề nội bộ mà còn là cơ
12
sở để tăng cường sức mạnh ngoại giao của chúng ta và là cơ sở để cạnh tranh
quyền lực giữa các quốc gia ". Wang Yizhou, một học giả nổi tiếng của Học viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc, làm cụ thể logic của sự phát triển chính sách đối
ngoại:
Các mối đe dọa chính đến an ninh quốc gia Trung Quốc không phải là bị
lực lượng bên ngoài xâm lược hay tiến hành một cuộc chiến tranh , mà là việc liệu
rằng Trung Quốc có thể duy trì sự ổn định, trật tự, và phát triển lành mạnh hay
không?... Phát triển về chính trị văn hóa xã hội và giá trị là tất cả các thành tố
trong quan niệm về phát triển. Với điều kiện tiên quyết tập trung vào phát triển
kinh tế, thông qua tất cả các khía cạnh của sự phát triển nêu trên, Trung Quốc có
thể nâng cao vị thế và gia tăng một cách mạnh mẽ ảnh hưởng trên trường quốc tế
trong thế kỷ mới, và có thể thực thi chính sách ngoại giao của mình trên cơ sở vị
thế nước lớn. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển của Trung Quốc phải tính đến cả
các yếu tố trong nước và ngoài nước.
Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu của công cuộc cải cách và phát triển (tính đến
khoảng 2002), chính sách của Trung Quốc đã chủ yếu tập trung vào thực hiện ấm
no( wenbao (温饱), hay mức độ phát triển kinh tế để cho nhân dân Trung Hoa đủ
cơm ăn áo mặc. Chủ tịch Giang Trạch Dân, trong Đại hội Đảng lần thứ 16 vào
tháng 11 năm 2002, tuyên bố rằng Trung Quốc đã đạt được mục tiêu trên và đặt ra
mục tiêu phát triển mới bằng cách kêu gọi "xây dựng một xã hội khá giả toàn
diện" trong hai thập kỉ tới (quanmian Jianshe xiaokang
shehui全面建设小康社会) . Mặc dù ý nghĩa cụ thể của khẩu hiệu này còn gây
tranh cãi, nhưng hiểu theo cách chung nhất thì nó có nghĩa là Trung Quốc muốn trở
thành cường quốc hạng trung ổn định và thịnh vượng với một tầng lớp trung lưu
khá lớn vào trước năm 2020.
13
Sự phát triển không ngừng của kinh tế Trung Quốc cũng là yếu tố quan
trọng để duy trì khả năng tiếp tục lãnh đạo của Đảng. Khi những nền tảng, lí luận
của Đảng đã không còn phù hợp nữa thì đã được thay thế bằng logic kinh tế với
yêu cầu những nhà lãnh đạo của Trung Quốc cần phải tạo ra những cơ hội để phát
triển kinh tế lớn hơn nữa cho người dân.
Vị thế quốc tế
Đã từ lâu những nhà hoạch định và học giả của Trung Quốc xem Trung
Quốc là một trung tâm quyền lực đáng được tôn trọng trong hành xử quốc tế. Kể
từ khi thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, lãnh đạo Đảng
cộng sản Trung Quốc đã liên hệ vị thế của TQ với các yếu tố như là ủy viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, ưu thế sỡ hữu vũ khí hạt nhân ,
với một dân số đông, đất đai rộng và vị thế là một cường quốc trong lịch sử ở châu
Á. Nhận thức của Trung Quốc về vị thế quốc tế của mình thay đổi từ sau thời kì
Mao nắm quyền và bắt đầu công cuộc cải cách, đặc biệt là kể từ sự sụp đổ của Liên
Xô và sự kiện Thiên An Môn. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc luôn luôn thổi
phồng các yếu tố này để giữ TQ có vai trò nước lớn. Mặc dù chưa rõ rằng các nhà
lãnh đạo xác định vị thế của họ như thế nào trải qua các thời kì như vậy nhưng việc
tối đa hóa vị thế luôn là mục tiêu hàng đầu trong các quyết định về mặt chính sách
đối ngoại của TQ.
Bên cạnh đó, việc Trung Quốc nhấn mạnh vị thế của mình gắn
liền với sự nhạy cảm của nước này về cả hình ảnh và vai trò của nước này trong
chính trị quốc tế, vốn là những khái niệm dễ nhận thấy với Trung Quốc. Trung
Quốc quan tâm đến hình ảnh của mình vì nước này muốn được thừa nhận là một
thành viên của cộng đồng quốc tế và không muốn bị đứng ngoài hay nói cách khác
là bị cô lập, đặc biệt là trong các thể chế quốc tế. Trung Quốc chú trọng đến danh
tiếng của mình vì những lợi ích mà họ cho rằng có thể có được như thương mại,
viện trợ, công nghệ và đầu tư khi trở thành thành viên tích cực của các tổ chức
14
quốc tế. Việc TQ tăng cường các biện pháp ngoại giao sau sự cố Thiên An Môn
năm 1989 để xây dựng lại hình ảnh và thanh danh của mình là 1 ví dụ của giá trị
của các yếu tố này với CSĐN của Trung Quốc, cả ở mặt hình thức và nội dung.
Biểu hiện nhiều hơn gần đây của ưu tiên dài hạn đó là bắt đầu từ thập kỉ 90 của
chính phủ TQ nỗ lực thiết lập vị thế của Trung Quốc với tư cách là 1 “cường quốc
đầy trách nhiệm”.
Việc TQ nhấn mạnh vào yếu tố vị thế, một thuộc tính phi vật
chất của các nhà nước đã đưa TQ đến vị trí tương ứng của một cường quốc trong
hệ thống chính trị thế giới và tạo nên những ý kiến về sức mạnh của họ. Đó là bởi
vì nhiều nhà chiến lược Trung Quốc nhận thấy vị thế là yếu tố “sống còn” đối với
vị trí của Trung Quốc giữa các trung tâm quyền lực và đảm bảo cho sự tích tụ cả
quyền lực lẫn ảnh hưởng của Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách và học
giả Trung Quốc tranh luận rằng những nỗ lực cải thiện vị thế quốc tế là quan trọng
bởi vì những quốc gia khác đã thể hiện sự quan tâm với sự ảnh hưởng đang lên của
Trung Quốc trong chính trị toàn cầu. Nói cách khác, nâng cao hình ảnh và danh
tiếng (và những chính sách thực hiện) sẽ giúp Trung Quốc cải thiện mối lo ngại về
“mối đe dọa Trung Quốc” và như vậy, sẽ giúp tránh được những khó khăn để trở
thành một thành viên mạnh, thịnh vượng và có ảnh hưởng trong cộng đồng quốc
tế.
Việc Trung Quốc phấn đấu nhằm đạt được uy tín và vị thế quốc
tế thể hiện trong nhiều chính sách và hành động phản ánh sự ủng hộ của Trung
Quốc với luật lệ, quy tắc và thể chế quốc tế. Các nhà hoạch định chính sách và học
giả Trung Quốc thường xuyên nói về việc Trung Quốc đang đóng góp vai trò tích
cực và có tính chất xây dựng hơn trong các tổ chức quốc tế- như Hội Đồng Bảo An
Liên Hợp Quốc, tổ chức Thương Mại Thế Giới và nhiều tổ chức an ninh khu vực
khác-đã chứng minh rằng Trung Quốc là một động lực vì sự ổn định và phát triển
kinh tế. Các nhà phân tích Trung Quốc thường xuyên kêu gọi thực hiện mục tiêu
15
hành động như là một cường quốc có trách nhiệm để giải thích cho các hoạt động
của Trung Quốc đối với các thể chế đa phương và các vấn đề an ninh phi truyền
thống. Những hoạt động trên, theo đại sứ Trung Quốc Wang Yi là để nâng cao vị
thế quốc tế của Trung Quốc và có nhiệm vụ như là “hòn đá tảng cho nỗ lực của
Trung Quốc để gia nhập vào hàng ngũ của những cường quốc hàng đầu trên thế
giới”.
Chương 3:
Nhận thức hiện nay về môi trường an ninh quốc tế
Cách TQ đánh giá môi trường an ninh bên ngoài của họ là nền tảng kinh
nghiệm cho các nhà hoạch định chính sách của TQ khi họ hoạch định chính sách
đối ngoại. Các cách đánh giá này đóng một vai trò không thể thiếu trong các tranh
luận về các mục tiêu và chính sách mà nước này nên theo đuổi và khi các nhận
thức này thay đổi thì hành vi của TQ cũng thay đổi. Các nhà hoạch định chính
sách của TQ và các nhà phân tích đã nhấn mạnh nhiều khía cạnh của môi trường an
ninh hienj nay. Sáu nhận thức nổi bật trong số đó được nghiên cứu trong chương
này.
Nhưng trước tiên phải nói đến hai niềm tin đã bao phủ lên quan điểm của
TQ về môi trường an ninh hiện nay. Thứ nhất là niềm tin rất lớn rằng tương lai của
TQ ngày càng được gắn với cộng đồng quốc tế. Các nhà lãnh đạo TQ hiểu rằng mô
hình phát triển hiện nay của TQ kết hợp với sự gia tăng nhanh chóng của quá trình
16
toàn cầu hóa sẽ đưa TQ ngày càng hội nhập sâu hơn vào cộng đồng quốc tế. Việc
TQ thành công trong việc chấn hưng quốc gia phụ thuộc vào sự gần gũi và các mối
quan hệ với các cường quốc trên thế giới và khu vực, các thị trường và thể thế quốc
tế. Sách trắng quốc phòng của TQ năm 2008 đã viết “ Tương lai và số phận của TQ
ngày càng phụ thuộc chặt chẽ hơn với cộng đồng quốc tế. TQ không thể phát triển
khi bị cô lập với phần còn lại của thế giới cũng như thế giới không thể có thịnh
vượng và ổn định khi không có sự góp mặt của TQ”. Thậm chí trong khi cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới diễn ra từ mùa thu năm 2008 và ảnh hưởng là sự
giảm sút chóng mặt của tốc độ phát triển kinh tế, chủ tịch Hồ Cẩm Đào vẫn trấn an
Hội nghị kinh tế trung ương vào tháng 12 năm 2008 rằng định hướng hội nhập
kinh tế toàn cầu của TQ là hoàn toàn đúng đắn là nên được tiếp tục.
Niềm tin thứ hai liên quan đến những nghi ngại phổ biến trong các nhà
hoạch định chính sách của TQ về phạm vi của các mối đe dọa với TQ. Với một vài
người thì TQ đã ở trong trạng thái an toàn nhất trong 200 năm qua và ảnh hưởng
cũng như vị thế quốc tế của nước này đều đang tăng lên. Với một số khác thì các
mối đe dọa an ninh mà TQ phải đối mặt rất da dạng và đang tăng lên, điều đó thách
thức khả năng của TQ trở lại vị thế của một siêu cường. Sự đối lập giữa hai quan
điểm trên được phản ánh vào các đánh giá an ninh chính thức của TQ như sách
trắng quốc phòng. Nhưng những tranh luận như vậy ít khi được phản ánh vào
chính sách của TQ. Việc các nhà lãnh đạo nhấn mạnh vào yếu tố đồng thuận khi
quyết định các chính sách và thúc đẩy sự thống nhất trong nhận thức trong Đảng đã
hạn chế ảnh hưởng của các tranh luận như vậy với việc xây dựng các chính sách
trên thực tế. Cuối cùng, việc tương đối cân bằng giữa các mối đe dọa bên ngoài và
cơ hội trong các đánh giá của TQ (cả công khai và nội bộ) sẽ là chỉ báo quan trọng
cho nhận thức trong tương lai của TQ.
Quan điểm hiện nay của chính quyền TQ là TQ đang có môi trường an ninh
bên ngoài thuận lợi cho việc tiếp tục tăng trưởng và phát triển. Theo như chi tiết
17
dưới đây thì các nhà lãnh đạo TQ tin tưởng rằng môi trường hiện nay, vì nhiều lí
do, đang tạo ra cơ hội chiến lược mà có thể sẽ kết thúc sau 20 năm nữa và có thể
giúp TQ tiếp tục tăng cường tiềm lực quốc gia và xây dựng xã hội khá giả hài hòa.
Các nhà hoạch định chính sách của TQ tìm kiếm việc mở rộng tối đa cơ hội này và
nếu có thể thì kéo dài tối đa đến mức có thể.
Xung đột giữa các cường quốc.
Đặc điểm quan trọng của đánh giá môi trường an ninh bên ngoài của TQ là
sự tin tưởng vào khả năng chiến tranh giữa các cường quốc, điều sẽ khiến TQ
không tập trung vào phát triển đất nước là ít xảy ra. Sách trắng quốc phòng TQ
năm 2008 đã viết “những yếu tố góp phần gìn giữ hòa bình và ngăn chặn chiến
tranh đã tăng lên….vì vậy hạn chế nguy cơ các cuộc chiến tranh có quy mô toàn
cầu, tổng lực và tương đối kéo dài”. Điều đó không có nghĩa là các nhà chiến lược
của TQ tin tưởng rằng những xung đột giữa TQ và Mĩ xung quanh vấn đề Đài
Loan là không thể xảy ra. (thậm chí, quân đội TQ đặc biệt quan tâm chuẩn bị cho
chiến tranh với Đài Loan), hơn nữa, điều đó có nghĩa là phạm vi của quan hệ giữa
các cường quốc đã thay đổi từ Chiến tranh lạnh, giảm bớt khả năng xảy ra xung đột
vũ trang giữa các cường quốc. Kết luận quan trọng này ban đầu được Đặng Tiểu
Bình đề ra vào giữa những năm 80 và trực tiếp đối lập lại cách đánh giá của Mao
về “đánh sớm, đánh lớn, chiến tranh hạt nhân”. Kết luận của Đặng đã thay đổi
quan điểm bi quan của Mao và tạo nên cơ sở lí thuyết cho chính sách đối ngoại
quốc tế hóa và hỗ trợ cho phát triển kinh tế mà ông ta theo đuổi. Kết luận ban đầu
của Đặng sau đó đã giúp các nhà lãnh đạo kế nhiệm đưa ra khẩu hiệu “hòa bình và
phát triển là xu thể của thời đại”. Kết luận mấu chốt này được Đặng liên tiếp nhắc
lại trong các năm 80 và 90 đã tạo ra cơ sở cho chính sách đối ngoại thời kì mở cửa
của TQ và khẩu hiệu này vẫn tiếp tục tồn tại trong chính sách đối ngoại của TQ.
Tiếp theo sự đi xuống của quan hệ Trung Mĩ vào cuối thập kỉ 90 (đặc biệt là
sau sự kiện đánh bom Đại sứ quán Mĩ ở Belgrade và các sự kiện khác), đã có
18
những tranh luận lớn và quan trọng trong nội bộ TQ về vấn đề “hòa bình và phát
triển” liệu có phải là đặc điểm chính xác của môi trường an ninh bên ngoài của TQ.
Sau nhiều cuộc thảo luận nội bộ, các nhà lãnh đạo TQ kết luận rằng dự báo then
chốt này vẫn không thay đổi. Kết quả của dự báo chiến lược này là vào năm 2002,
chủ tịch Giang Trạch Dân đã tuyên bố ở Đại hội Đảng CS TQ lần thứ 16 rằng 20
năm tói là thời kì của cơ hội chiến lược cho sự phát triển và tăng trưởng của TQ.
Đặc điểm mà Giang Trạch Dân đưa ra và sau đó được Hồ Cẩm Đào tái khẳng định
tiếp tục là kết luận lí thuyết then chốt chứng minh cho việc tiếp tục chính sách đối
ngoại của thời kì mở cửa là tập trung vào giữ ổn định, phát triển kinh tế và ở phạm
vi rộng hơn là tăng cường sức mạnh toàn diện. Đại sứ đã nghỉ hưu Thẩm Quốc
Phương đã phát biểu vào tháng 6 năm 2007 rằng:
20 năm đầu của thế kỉ này là cơ hội chiến lược sống còn mà TQ phải giành
lấy và sử dụng vào mục đích tốt. Hai tập kỉ vừa qua đã xuất hiện những yếu tố
chiến lược để xây dựng một xã hội khá giả toàn diện. TQ đã xây dựng chính sách
đối ngoại, chiến lược chung và các hoạt động đối ngoại xung quanh mục tiêu này.
Mục đích của các hoạt động ngoại gia cũng để đạt được mục tiêu này.
Đánh giá cho rằng khả năng xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc là thấp
được cân bằng bởi lo ngại của TQ về những mối đe dọa đa chiều và đang gia tăng
với TQ, châu Á và thế giới. Sách trắng quốc phòng 2008 đã đưa ra cách đánh giá
toàn diện của TQ về các vấn đề: hòa bình và sự phát triển của thế giới đang phải
đối mặt với một loạt các khó khăn và thách thức khác nhau. Cuộc đua giành giật
những nguồn lợi chiến lược, các vị trí chiến lược và sự thống trị chiến lược đã tăng
lên. Trong khi đó, chủ nghĩa bá quyền và chính trị dựa trên quyền lực vẫn tồn tại,
những bất ổn khu vực tiếp tục chưa có hướng giải quyết, các điểm nóng tiếp tục gia
tăng và các xung đột và chiến tranh cục bộ vẫn xuất hiện. Hậu quả của khủng
hoảng kinh tế có nguyên nhân từ khủng hoảng cho vay dưới chuẩn ở Mĩ đang gia
tăng một cách nhanh chóng. Về mặt phát triển kinh tế thế giới, các vấn đề như
19
năng lượng và thực phẩm đang trở nên nghiêm trọng hơn, tạo nên những sự đối lập
sâu sắc. Các nguy cơ kinh tế được biểu lộ trong một thế giới liên kết lẫn nhau, có
tính hệ thống và mang tính toàn cầu. Các vấn đề như khủng bố, thảm họa môi
trường, biến đổi khí hâu, các bệnh dịch nghiêm trọng, tội phạm xuyên quốc gia và
cướp biển đã trở nên phổ biến.
Các nhà chiến lược của TQ gợi lại các căng thẳng trong quá khứ giữa Mĩ và
EU, Mĩ và Nga trong thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 21 để cho rằng các mâu thuẫn và
đối lập giữa các cường quốc đã tăng lên và những mâu thuẫn này là nguồn gốc của
sự bất ổn toàn cầu. Nhiều nhà phân tích TQ đã gắn vấn đề này với chính sách đơn
phương của Mĩ. Các sách trắng quốc phòng của Mĩ, bao gồm cả bản năm 2008 tiếp
tục xem “ chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền” là nhân tố làm bất ổn tình
hình an ninh quốc tế. Đoạn này rất phổ biến khi TQ đề cập đến chính sách đối
ngoại và các hoạt động trên thực tế của Mĩ. Tiền Kì Tham, nguyên phó thủ tướng
và là người phụ trách CSĐN của TQ lâu năm đã tóm tắt quan điểm của giới lãnh
đạo ĐCSTQ về hiện trạng của quan hệ giữa các nước lớn trong một bài phát biểu
cá nhân thẳng thắn duy nhất
Mĩ muốn thực hiện chủ nghĩa đơn phương nhưng không thể thống trị thế
giới…Quan hệ giữa các cường quốc tiếp tục được đánh dấu bằng hợp tác và cạnh
tranh, trao đổi song phương và kiềm chế song phương cũng như cạnh tranh và
thỏa hiệp trong một thời gian dài nữa. Đặc biệt, xu hướng hợp tác sẽ lấn át xu
hướng mâu thuẫn. Các cường quốc sẽ tiếp tục duy trì quan hệ song phương ổn
định
Lo ngại nổi bật khác của TQ được nêu bật trong 3 sách trắng quốc phòng
gần đây là sự đe dọa đến sự ổn địn của khu vực và thế giới của sự gia tăng quân sự
hóa trong chính trị thế giới. Sách trắng quốc phòng năm 2008 đã đưa ra đánh giá
thẳng thắn nhât trong những năm qua” Ảnh hưởng của an ninh quân sự trong quan
hệ quốc tế đang tăng lên. Cuộc cạnh tranh quân sự trên bình diện quốc tế đang gia
20
tăng một cách nghiêm trọng bởi cuộc cạnh tranh về sức mạnh quốc gia và sự phát
triển của khoa học và công nghệ. …Tất cả các nước đang ngày càng coi trọng sự
hỗ trợ của ngoại giao với quân sự. Kết quả là các cuộc chạy đua vũ trang ở một số
khu vực đang được hâm nóng, tạo ra những thách thức nghiêm trọng với việc kiểm
soát vũ khí và các cơ chế không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt”
Với TQ, các xu hướng trong quan hệ giữa các nước lớn này trực tiếp ảnh
hưởng cách đánh giá của TQ về an ninh và ổn định ở khu vực châu Á, khu vực có
tầm quan trọng bậc nhất với TQ. Mặc dù tình hình châu Á-TBD xét một cách toàn
diện là ổn định với kết quả của sự gia tăng phụ thuộc kinh tế lẫn nhau và ảnh
hưởng của các tổ chức đa phương, các nhà làm chính sách của TQ tiếp tục lo ngại
sâu sắc về vai trò của Mĩ” Mĩ tăng cường sự chú ý chiến lược và đặt chân vào khu
vực châu Á-TBD, củng cố mạnh mẽ hơn các liên minh quân sự, điều chỉnh việc
triển khai quân đội và nâng cấp tiềm lực quân sự”. Một lo ngại có liên quan của
TQ là các xung đột cục bộ và có giới hạn có khả năng xuất hiện ở khu vực xung
quanh TQ và là kết quả của sự gia tăng các tranh chấp về tôn giáo, dân tộc và lãnh
thổ.
Toàn cầu hóa và đa cực
Quan điểm của TQ về các hậu quả của toàn cầu hóa và sự phát triển của chủ
nghĩa đa cực trong quan hệ giữa các quốc gia là trung tâm của nhận thức của họ về
môi trường an ninh bên ngoài. Các kết luận của TQ về 2 xu hướng được coi là một
phong vũ biểu của quan điểm của TQ về sức mạnh kinh tế, mức độ phụ thuộc toàn
cầu và mức độ của thời gian và không gian của TQ có thể tiếp tục phát triển.
Toàn cầu hóa
Các nhà hoạch định chính sách và các học giả TQ cho rằng quá trình toàn
cầu hóa dã định hình lại kinh tế thế giới và các mối quan hệ chính trị từ sau Chiến
tranh lạnh, tạo ra cả cơ hội và thách thức với TQ. Họ thống nhất cho rằng toàn cầu
hóa tạo ra nhiều cơ hội hơn là thách thức. Toàn cầu hóa đã làm tăng tầm quan
21
trọng của sức mạnh kinh tế, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, và làm
nổi bật các cơ hội cho hợp tác kinh tế song phương cùng có lợi. Các nhà hoạch
định chính sách của TQ đã nói về giá trị của ngoại giao kinh tế và sở hữu sức mạnh
mềm trong thế giới toàn cầu hóa. Họ nhìn nhận rằng tất cả những xu hướng này
góp phần vào tạo ra lơi ích của TQ khi họ mở rộng ảnh hưởng. Đại sứ Thẩm Quốc
Phương đã tóm tắt các quan điểm của TQ về ý nghĩa tích cực của toàn cầu hóa
Về cơ bản, xu hướng lịch sử tạo ra bởi quá trình toàn cầu hóa và ảnh hưởng
của quá trình này tạo ra những thay đổi có lợi cho sự phát triển hòa bình của TQ và
tạo ra một không gian chiến lược cũng như khoảng trống cho nước này thử
nghiệm. Một mặt, bên cạnh những mặt trái của toàn cầu hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các thực thể kinh tế đã lớn hơn và không có sự gián đoạn. Tất cả các quốc gia
hiện tại đều nêu bật tầm quan trọng của việc tăng cường hiệu quả của ngoại giao
kinh tế. Những xu hướng về việc đa dạng hóa lợi ích giữa các quốc gia và dân tộc,
hướng đến sự xuất hiện của chính trị đa cực và hướng đến sự đa dạng văn hóa hiện
đang ngày càng tăng lên
Ở mặt khác, hậu quả của toàn cầu hóa đã định dạng lại chính trị thế giới và
chính trị khu vực và tạo ra những hành vi mới của quốc gia. Toàn cầu hóa cũng
thách thức tất cả các quốc gia trên thế giới khi xây dựng một thế giới hài hòa. Thiết
lập những nhận thức ngoại giao mới trong kỉ nguyên của toàn cầu hóa đã trở thành
một vấn đề mới được nhiều quốc gia theo dõi.
Cùng lúc đó, các nhà phân tích TQ đã chú ý cái giá và những nguy hiểm của
quá trình toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa đã làm tăng sự mất công bằng về kinh tế và
xã hội, khiến cho các nước đang phát triển được lợi trong khi các nước đang phát
triển bao gồm cả TQ phải trả giá đắt. Điều đó đã khiến cho căng thẳng Nam-Bắc
tăng lên và sự xuất hiện của chủ nghĩa thực dân kinh tế mới, khi mà các quốc gia
đang phát triển phụ thuộc vào ưu thế vượt trội về mặt công nghệ và kinh tế của các
quốc gia phương Tây. Với TQ, những xu hướng này không chỉ có mặt tiêu cực. Sự
22
mất công bằng Nam Bắc đã tạo ra khoảng trống cho TQ thể hiện vai trò cầu nối
giữa các nước có lợi từ toàn cầu hóa và những nước gặp bất lợi vì TQ có thể nói
chuyện với tất cả các nước kể trên. Với nhiều người TQ, vai trò này giúp cho TQ
uy tín để mở rộng sự ảnh hưởng về chính trị và kinh tế với thế giới các nước đang
phát triển.
Chủ nghĩa đa cực
Tiếp theo sự kết thúc của Chiến tranh lạnh, phần lớn các nhà phân tích dự
đoán quá trình biến đổi nhanh chóng từ hệ thống lưỡng cực sang hệ thống ban đầu
được Mĩ thống trị và sau đó chuyển sang hệ thống đa cực. Vào những năm 90, định
hình một hệ thống đa cực giữa các cường quốc đã tiến triển chậm hơn TQ dự kiến
và có thể không trở thành hiện thực. Các nhà hoạch định chính sách của TQ đã
ngạc nhiên và lo ngại về khả năng của Mĩ duy trì vị thế của hệ thống đơn cực.
Nhiều nhà phân tích TQ ban đầu miêu tả cục diện quốc tế sau Chiến tranh lạnh của
đầu thập kỉ 90 là nhất siêu đa cường với một xu hướng mạnh mẽ hướng tới xu
hướng đa cực. Nhưng vào cuối những năm 90, khi mà sức mạnh kinh tế và quân sự
của Mĩ tiêp tục được duy trì không như mong muốn, TQ đã thay đổi quan điểm
trên bằng “Nhất siêu càng siêu, nhiều cường không cường”.
Quan điểm này đã thay đổi một cách nhanh chóng, Từ năm năm gần đây,
nhiều đánh giá của TQ cho rằng dao động của trật tự thế giới đã trở về xu thế đa
cực. Đây là quan điểm chính thức của ĐCS, một sự phát triển có liên quan tới công
thức việc thực hiện chính sách của TQ. Báo cáo của Hồ Cẩm Đào trước ĐH 17
ĐCS TQ là đánh giá lạc quan nhất từ trước đến nay “ các tiến bộ hướng tới một thế
giới đa cực là không thể ngăn cản được”. Đây là một quan điểm rõ ràng hơn báo
cáo của Giang Trạch Dân trước ĐH 16 ĐCS TQ, khi xem xét “xu hướng tới chủ
nghĩa đa cực là sự phát triển nhưng còn gặp nhiều gập ghềnh, thử thách” trong khi
báo cáo của Giang trước đại hội 16 chỉ là “Cấu trúc của thế giới hiện đang tiến tới
chủ nghĩa đa cực”
23
Các nhà hoạch định chính sách và học giả của TQ hiện có quan điểm chung
rằng chủ nghĩa đa cực sẽ được đẩy nhanh khi ảnh hưởng của TQ bị giảm bớt. Các
đánh giá của TQ về chủ nghĩa đa cực chỉ ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
và sự xuống dốc một cách tương đối của kinh tế Mĩ, và mặt khác là sự tức giận của
cộng đồng quốc tế gia tăng khi Mĩ can thiệp vào Iraq và Mĩ thực hiện cuộc chống
khủng bố trên toàn cầu. Các nhà hoạch định TQ cho rằng những hoạt động này đã
làm suy giảm sức mạnh kinh tế, quân sự và vị thế quốc tế của Mĩ. Một nhà ngoại
giao cấp cao của TQ cho ràng: “Chiến lược bá quyền đơn cực của Mĩ đã phải lùi
bước và chiến lược đối ngoại của nước này đã được đẩy lên”. Nhiều nhà phân tích
và học giả TQ đã nhận định rằng một hệ thống đa cực thực sự sẽ xuất hiện trong
khoảng 20 đến 30 năm nữa.
Một mặt khác trong nhận thức của TQ về sự đẩy nhanh của chủ nghĩa đa cực
là sức mạnh của những nước mới nổi như Ấn Độ, Brazil, Mexico và TQ và các tổ
chức liên quan như G20 “ Sự trỗi dậy của các cường quốc mới nổi đã đẩy nhanh sự
trỗi dậy của các tổ chức khu vực. Tiếng nói của họ trên trường quốc tế đã mạnh mẽ
hơn”. Mặc dù các nhà chiến lược của TQ nhận ra rằng sự xuát hiện của hệ thống đa
cực vẫn còn ở trong trung hạn thì họ vẫn cho rằng các cường quốc mới nối và các
tổ chức có liên quan sẽ đẩy nhanh quá trình này. Sách trắng quốc phòng năm 2008
của TQ đã khẳng định lại quan điểm này:
Toàn cầu hóa kinh tế và đa cực thế giới là động lực đang lên. Bước tiến tới
công nghiệp hóa và thông tin hóa trên toàn thế giới đang được đẩy nhanh và hợp
tác kinh tế giữa các quốc gia hiện rất mạnh, khiến gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau
về mặt kinh tế, liên kết và tương tác giữa các quốc gia.
Sự hưng thịnh và suy vong của các lực lượng chiến lược quốc tế đang được
dẩy nhanh, các cường quốc đang có các nỗ lực đẻ hợp tác với các nước khác và
dựa vào sức mạnh của chính họ. Họ tiếp tục cạnh tranh và kiềm chế lẫn nhau và
24
các nhóm của các nước đang phát triển mới nổi đang trỗi dây. Vì vậy tạp nên sự
điều chỉnh trong hệ thống quốc tế.
Sức mạnh của Mỹ và quan hệ các nước lớn
Phần 3 xem xét nhận thức của TQ về phân phối quyền lực giữa các nước lớn
trong hệ thống quốc tế hiện nay. Trung Quốc được biết đến như một quốc gia với
những suy nghĩ thực dụng thì sự tính toán này ảnh hưởng sâu sắc đến những nhà ra
quyết định. Những nhà phân tích Trung Quốc thường thảo luận về các đánh giá so
sánh mức độ của đơn cực với đa cực trong quan hệ quốc tế. Như đã lưu ý ở
trên, mặc dù đã có những thất bại trong quá khứ nhưng những nhà làm chích
sách Trung Quốc thấy được xu hướng hiện nay tạo điều kiện thuận lợi cho hệt
thống đa cực khi mà các thế lực mới nổi lên và Mĩ phải đối mặt với sự giảm sút
sức mạnh một cách tương đối đều đặn. TQ phân tích các cường quốc tập trung chủ
yếu vào sức mạnh của Mỹ và vai trò của họ trong chính trị quốc tế và quan hệ Mỹ-
Trung Quốc
Ưu thế tương đối của Mỹ hiện nay trong nhiều vấn đề quốc tế mà Trung
Quốc ám chỉ như “tính bá quyền” là nguồn gốc khiến cho các nhà hoạch định
chính sách TQ lo ngại và không hài lòng một cách sâu sắc. Vị trí của Mỹ càng làm
tăng mối lo ngại ở nhiều mức độ của những nhà hoạch định chính sách Trung
Quốc. Nhìn chung, Trung Quốc sợ rằng Hoa Kỳ kìm chế sự phát triển của Trung
Quốc về kinh tế, chính trị và khả năng quân sự, đặc biệt là sẽ ảnh hưởng đến vị trí
của Trung Quốc ở Đông Á. Đây là quan điểm phổ biến trong các nhà hoạch định
chính sách, các nhà học giả, các sĩ quan quân đội,... Năm 2008 sách trắng quốc
phòng đã viết rằng “trong cùng một thời gian, Mỹ đã tăng sự quan tâm chiến lược
của họ đến khu vực Châu Á Thái Bình Dương, củng cố thêm liên minh quân
sự Mỹ, điều chỉnh việc triển khai quân đội và nâng cao khả năng quân sự….”
25
và Trung Quốc phải đối mặt với những sự vận động chiến lược và ngăn chặn từ
bên ngoài”.
Những mối lo ngại chung của TQ về ý đồ chiến lược của Mĩ đặc biệt nhạy
cảm với vấn đề Đài Loan. Việc Mĩ và TQ có sự khác biệt rất lớn về địa vị của Đài
Loan là mối lo lắng lớn nhất của Trung Quốc bởi vì bởi vì đây là lợi ích quốc gia
căn bản và là nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang. Quân đội của cả Mỹ và Trung
Quốc đều chuẩn bị cho một cuộc xung đột mà mỗi bên xem nhau như đối thủ tiềm
năng. Phần lớn người Trung Quốc xem xét chính sách của Hoa Kỳ với Đài Loan,
đặc biệt là việc bán vũ khí của Mỹ tới hòn đảo này, là để ngăn chặn sự thống nhất
và do đó, được xem là một phần nỗ lực lớn hơn của Mỹ để ngăn chặn nguy cơ nổi
lên của Trung Quốc vì họ lo ngại rằng sau đó Trung Quốc sẽ vượt lên trên Hoa
Kỳ. Do đó, việc Trung Quốc đối lập với chính sách của Mỹ về vấn đề Đài Loan là
rất quan trọng, nhưng nó cũng không phải là vấn đề duy nhất đơn nhất, hình thành
quan điểm của Trung Quốc về mục đích chiến lược chủ đạo của Mỹ là gây cản trở
và kìm chế sự nổi lên của Trung Quốc.
Vượt ra ngoài vấn đề Đài Loan, Trung Quốc tin rằng Hoa Kỳ sẽ cho rằng họ
có đạo đức hơn hẳn Bắc Kinh, không chấp nhận tính pháp lý của đảng cộng sản
trung hoa, và do đó tìm kiếm dân chủ hóa Trung Quốc. Trung Quốc tin tưởng Hoa
Kỳ, với chủ nghĩa ngoại lệ và sự vượt trội của họ, sẽ tìm mọi cách để đảm bảo sự
thống trị của họ trong các hoạt động quốc tế trong dài hạn và cụ thể đã được phản
ánh trong các dẫn chứng về hành vi đơn phương và ngoại giao cưỡng bức của họ.
Những mối lo ngại lớn nhất của Trung Quốc về ý đồ của Mỹ hiếm khi được
nói rõ một cách trực tiếp trong các bài phát biểu chính thức, tuy nhiên những chủ
đề này vẫn tiếp tục được các nhà phân tích và học giả bàn luận với một loạt các
chủ đề chứ không dừng lại ở vấn đề quân sự. Nhiều người Trung Quốc đã giải
thích những chính sách của Hoa Kỳ và những tranh luận công khai về Trung Quốc,
như là về việc đánh giá lại đồng nhân dân tệ, cải cách kinh tế Trung Quốc, sự thâm
26
hụt thương mại song phương, vai trò của Trung Quốc ở Đông Á, hiện đại hóa
Quân đội giải phóng nhân dân, nhằm thể hiện những nỗ lực của Mỹ để làm yếu đi
sức mạnh Trung Quốc. Hung Renwei , một học giả nổi tiếng và chính thống về
quan hệ quốc tế của Trung Quốc, đã mô tả chính sách Mỹ theo cách:
Hoa Kỳ đang cố gắng kiểm soát và kìm chế hành vi quốc tế của Trung
Quốc bằng những nguyên tắc và luật quốc tế mà được đặt dưới sự thống trị
của Mỹ, với mục đích làm trì hoãn sự phát triển của Trung Quốc cũng như để ngăn
chặn và loại bỏ đi mối đe dọa Trung Quốc đối với bá quyền của Mỹ.
Hoa Kỳ đang nỗ lực phát huy “tính dân chủ” để ngăn chặn Trung Quốc tiếp
cận với hệ thống quốc tế và thâm nhập vào Trung Quốc các giá trị phương Tây.
Một cách nhìn nhận để biến đổi Trung Quốc từ một quốc gia có “ bản sắc và dặc
điểm khác biệt” thành “ bản sắc và đặc điểm thống nhất. Bên cạnh đó, bằng cách
tước đoạt chủ quyền quốc gia thông qua hệ thống quốc tế, Cùng lúc đó, Trung
Quốc xâm lấn chủ quyền quốc gia thông qua hệ thống quốc tế của Mỹ và phương
tây đã và đang nỗ lực gây ảnh hưởng lên quá trình diễn biến bên trong của Trung
Quốc.
Kết quả là nhiều nhà chiến lược Trung Quốc đã mô tả chính sách của Mỹ là
cả căn dự và ngăn chặn (với ưu tiên quan hệ trong mỗi lẫn thay đổi theo thời gian)
và cũng như quan điểm của Trung Quốc về bạn-thù. Điều này đã trở thành luận
điểm chính của những nhà làm chính sách và học giả Trung Quốc.
Mặc dù có những lo ngại này, những nhà làm chính sách Trung Quốc và
những nhà phân tích chính sách đối ngoại hiện cũng nhấn mạnh sự tin tưởng ngày
càng tăng của Hoa Kỳ đối với Bắc Kinh để cùng điều chỉnh kinh tế toàn cầu và đối
phó với những thách thức an ninh. Quan điểm này bắt đầu từ những năm đầu của
thập kỉ này, và thậm chí được nhấn mạnh hơn khi khủng hoảng tài chính toàn cầu
xảy ra, nền kinh tế Mỹ chịu những hậu quả to lớn và sự thành lập cơ chế G20 trong
27
đó Trung Quốc đóng vai trò dẫn đầu. Huang Renwei đã tóm tắt lại quan điểm
của Trung Quốc:
Mặt khác, Hoa Kỳ đang cố gắng bằng mọi cách để có thể sử dụng hệ thống
kiểu Phương Tây – hệ thống quốc tế vượt trội hơn để quản lý đất nước Trung Quốc
Xã hội chủ nghĩa “xa lạ”, hạn chế khả năng diễn tập quân sự quốc tế của Trung
Quốc đồng thời sát nhập Trung Quốc vào hệ thống này, và ngăn chặn một Trung
Quốc trỗi dậy nhanh chóng gây trở ngại cho bá quyền Mỹ. Có những khác biệt
mang tính chiến lược cơ bản và dài hạn giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ về quan điểm
phát triển của sự thay đổi hệ thống quốc tế và vị trí tương xứng của 2 nước trong
cấu trúc quyền lực.
Khác nữa, vai trò quan trọng mang tính xây dựng của Trung Quốc đang
ngày càng tăng lên trong việc giữ gìn sự ổn định của hệ thống quốc tế, điều này
làm cho Mỹ nhận ra rằng Trung Quốc không giống với Liên Xô trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, và cũng không phải là một thế lực phá hoại đe dọa hệ thống quan
hệ quốc tế đương tại. Hoa Kỳ không thể trả giá ngày càng cao cho việc duy trì ước
mộng bá quyền của mình nhưng sẽ cân nhắc kỹ càng việc hợp tác với Trung Quốc
để Trung Quốc có thể đỡ được một phần cái giá đó cho việc duy trì sự tồn tại của
hệ thống QHQT này.
Những quan tâm của Trung Quốc về ưu thế và những chiến lược ngăn chặn
có thể thực hiện được của Mỹ được nối với nhau bằng sự thừa nhận mà Hoa Kỳ
cho rằng là quan trọng đối với mục tiêu nền tảng là tái sinh quốc gia của Trung
Quốc. Nhiều người Trung Quốc nhận thấy một cách bất đắc dĩ về sự giảm quan hệ
với Mỹ, rằng những mục tiêu phát triển của Trung Quốc không thể thành công nếu
không có quan hệ ổn định với Hoa Kỳ; số ít người Trung Quốc nhìn nhận rằng mối
quan hệ thù địch với Hoa Kỳ có thể làm trật bánh con tàu Trung Quốc hiện tại. Sự
nhận thức phức tạp của người Trung Quốc về Hoa Kỳ và mối quan hệ Trung Quốc
– Hoa Kỳ được diễn đạt rõ ràng bởi Học giả Vương Jisi:
28
Những năm gần đây, hình tượng nước Mỹ trong mắt Trung Quốc đã ngày
càng trở nên phổ biến. Một vài hình ảnh của nước Mỹ bây giờ vẫn đang cùng tồn
tại trong lòng Trung Quốc: một con hổ giấy bị Trung Quốc đánh bại và tự làm yếu
mình bằng sự ngạo mạn và sự mở rộng quá mức; sức mạnh bá quyền duy nhất mà
đe dọa hoà bình và ổn định thế giới; một đối thủ xâm phạm tới sự toàn vẹn lãnh thổ
và phủ nhận sự thống nhất quốc gia của Trung Quốc; một bộ máy kinh tế mà chèo
lái cả nền kinh tế thế giới và, tới một quy mô tăng dần, kinh tế Trung Quốc; một xã
hội tuyệt với sở hữu nền khoa học - kỹ thuật và giáo dục tiến bộ nhất thế giới; một
kiểu mẫu của hiện đại hóa mà Trung Quốc có thể học hỏi từ đó; và một sức mạnh
mang chiều hướng ý thức hệ muốn quyết định vận mệnh chính trị của Trung Quốc.
Mặc dù những quan điểm này về Hoa Kỳ có phần hơi mâu thuẫn, nhiều
người Trung Quốc vẫn tiếp tục cho rằng quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ như là
“chìa khóa của mọi chìa khóa”, một sự triển khai đối nội của Đảng Cộng sản Trung
Quốc đã bắt đầu vào những năm 1990 dưới thời Giang Trạch Dân để nhấn mạnh
xu hướng trung tâm của Mỹ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Dưới thời
Hồ Cẩm Đào, mức độ mà để cho chính sách này có những nét nổi bật là không rõ
ràng. Từ năm 2002, Hồ Cẩm Đào đã thể hiện một cách khôn khéo những thay đổi
trong quan hệ Mỹ - Trung và chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Ông đã dành
nhiều sự quan tâm, nếu không nói là nhiều hơn sự chú ý về quan hệ của Trung
Quốc tới các nước láng giềng Asian. Ông đã tiêm vào mối quan hệ của Trung
Quốc với Hoa Kỳ nhiều sắc thái thực dụng hơn và ít sắc thái cảm xúc hơn, có vẻ
như Trung Quốc tỏ thái độ mong muốn khoan dung hơn trong những căng thẳng
song phương và duy trì những yêu cầu của Mỹ nhưng cũng công bằng muốn mở
rộng sự hợp tác ổn định trong cùng tồn tại và trong các khu vực mới có lợi ích
chung.
Xu thế chủ đạo mà các nhà chiến lược Trung Quốc tranh cãi rằng, sau cùng
thì, mối quan hệ song phương quan trọng nhất của Trung Quốc là với Hoa Kỳ
29
nhưng là trong một thế giới đặc trưng bởi các kiểu thế lực sức mạnh nhiều hơn và
phức tạp hơn và một số lượng lớn hơn về những mối quan hệ quan trọng, bao gồm
giữa các quốc gia, các nhóm quốc gia, và các thể chế. Sự tính toán trong quan hệ
Mỹ - Trung này xuất phát từ 3 quan điểm. Thứ nhất, Hoa Kỳ vẫn là một nguồn
thương mại, đầu tư và kỹ thuật quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Trung
Quốc. Ví dụ như Hoa Kỳ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, và
Trung Quốc là chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ và cũng là thị trường xuất khẩu
tăng trưởng nhanh nhất của Hoa Kỳ. Mức độ phụ thuộc của Trung Quốc đối với
nền kinh tế Mỹ cao và dường như không có dấu hiệu thay đổi đáng kể nào trong
khoảng hai thập kỷ tới.
Thứ hai, Hoa Kỳ cung cấp “hàng hóa công” quốc tế quan trọng tới Châu Á
dưới dạng an ninh, bền vững và tự do khu vực về hàng hải mà Trung Quốc được
lợi từ đó. Có một sự thừa nhận ngụ ý ở Trung Quốc rằng những liên minh, cam kết
an ninh của Mỹ, và những khai triển trước mắt góp phần đáng kể cho sự ổn định
khu vực ở Châu Á tạo thuận lợi cho sự cải tổ và phát triển kinh tế của Trung Quốc
trong 30 năm qua. Cách nhìn nhận này đã bị giảm bớt trong những năm gần đây vì
Trung Quốc đã trở nên lo lắng nhiều hơn về những nỗ lực của Mỹ trong việc mở
rộng liên minh của mình với Nhật Bản và sự hợp tác an ninh của Mỹ với Ấn Độ.
Thứ ba, việc tránh xung đột và công khai sự cạnh tranh về địa chính trị với
Hoa Kỳ là quan trọng đối với nỗ lực của Trung Quốc để đảm bảo một môi trường
an ninh vững chắc và thái bình, cạnh tranh chiến lược lớn hay xung đột vũ trang
công khai với Hoa Kỳ sẽ phá vỡ đáng kể môi trường an ninh của Trung Quốc
nhiều hơn bất kỳ quốc gia khác. Dưới những điều kiện khắt khe đó, có thể sẽ dẫn
đến việc Trung Quốc sẽ thay đổi các nguồn tài nguyên quốc gia từ phát triển kinh
tế sang việc hiện đại hóa quân sự - một kết quả mà các nhà Lãnh đạo Trung Quốc
không mong muốn. Các học giả Trung Quốc viết về sự cần thiết của “không gian”
và “thời gian” cho sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ ổn định với Hoa Kỳ là
30
cần thiết cho cả hai. Để chắc chắn, các nhà phân tích Trung Quốc cũng nhận thấy
rằng mặc dù một mối quan hệ ổn định, nếu không nói là thân mật với Hoa Kỳ là
điều kiện cần cho sự trỗi dậy của Trung Quốc, nhưng nó không có nghĩa là điều
kiện đủ.
Như là một dấu hiệu chỉ ra rằng Trung Quốc cố gắng giữ cân bằng những lợi
ích to lớn của mình trong quan hệ với Hoa Kỳ, một vài nhà chiến lược Trung Quốc
đã tranh cãi về vấn đề Trung Quốc có thể chấp nhận một sức mạnh bá quyền trong
khi lại phản đối cách cư xử bá quyền của mình. Hay nói cách khác, Trung Quốc có
thể tồn tại trong một thế giới với một sức mạnh đơn cực đủ lâu để không làm tổn
hại trực tiếp đến lợi ích Trung Quốc. Nét đặc biệt này có thể cho phép các nhà
hoạch định chính sách và các nhà phân tích Trung Quốc cân bằng sự cần thiết cho
quan hệ Mỹ - Trung bền vững trái ngược với những mối lo lắng của họ về ưu thế
của Hoa Kỳ và cách sử dụng đơn phương sức mạnh Hoa Kỳ của Washington. Một
kiểu công thức như vậy được chấp nhận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo hàng đầu
của Trung Quốc hay không thì nó vẫn chưa rõ ràng.
Cách đây 1 thập kỷ, một số ít các nhà lãnh đạo Trung Quốc chia sẻ những
mối quan tâm, ngày nay, những mối quan tâm ấy được chập nhận một cách toàn
cầu. sự thay đổi to lớn này là điều tât yếu của những trải nghiệm của chính Trung
Quốc trong việc điều chỉnh phản ứng của mình đối với các cuộc khủng hoảng như
vụ khủng bố ngày 11/ 9; sự bùng phát của dịch SARS năm 2003, các vấn đề liên
quan cúm Avian; đại dịch HIV/ AIDS và phổ biến hạt nhân trong khu vực. Bộ
Ngoại giao Trung Quốc đề cập tới vấn đề an ninh phi truyền thống khi có “sự phức
tạp và tàn phá chưa từng có và… đưa ra sự đe dọa trực tiếp đối với hòa bình và an
ninh thế giới”. Bài phát biểu của chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào trong cuộc họp của
nhóm G8 diễn ra vào tháng 7 năm 2006 tại Nga đã đóng góp cho chủ đề trên, thể
hiện ưu tiên của Trung Quốc trong chính sách quốc gia. Chủ tịch cũng đưa ra kiến
31
nghị để đối phó với các thách thức trên. Đây là lần đầu tiên nhà lãnh đạo cấp cao
của Trung Quốc phát biểu về các thách thức phi truyền thống chi tiết đến vậy.
Cũng có tính logic về phương tiện trong các mối quan tâm bất ngờ của
Trung Quốc. Ở cấp độ 1, theo sau sự kiện ngày 11/9, tầm quan mới của Bắc Kinh
trong việc chống khủng bố và phổ biến vũ khí hạt nhân- nhân tố cơ bản để ổn định
và mở rộng quan hệ Mỹ- Trung. Các nhà làm chính sách Trung Quốc xem sự kiện
ngày 11/9 và sự thay đổi kêt quả trong ưu tiên an ninh quốc gia của Mỹ như 1 cơ
hội hiểm có để đưa quan hệ song phương nền tảng ổn đinh, lâu dài. Các nhà lãnh
đạo Trung Quốc cho rằng, sự thay đổi trong ưu tiên của Mỹ sau sự kiện 11/9 đã
đưa Trung Quốc ra khỏi tầm ngắm trong kế hoạch an ninh quốc gia của Mỹ. Thật
ra, các nhà làm chính sách và nhà phân tích Trung Quốc luôn luôn nêu bật Mỹ. Sự
tin cây vào sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết các thách thức an ninh phi
truyền thông chung.
Ở cấp độ thứ 2, Trung Quốc tập trung rất nhiều vào thách thức an ninh phi
truyền thống trong sự tương tác của mình với những người hàng xóm Đông Á, đặc
biệt trong diễn đàn khu vực để tăng cường ảnh hưởng của mình. Trung Quốc tận
dụng các cuộc thảo luận song phương và đa phương về thách thức an ninh phi
truyền thống như một điểm xuất phát cho việc mở rộng phạm vi cam kết chính trị,
quân sự với các quốc gia châu Á; Bắc Kinh cũng mở rộng hợp tác ngoại giao trong
việc phản ứng với các vấn đề như sự bùng nổ của các căn bệnh truyền nhiễm.
Thêm vào đó, các cuộc đối thoại song phương và đa phương về các thách thức phi
truyền thống cúng là trọng tâm trong các nỗ lực để hợp tác một cách toàn diện với
các nước xung quanh. Những cuộc thỏa luận như vậy cũng rút ra một sự tương
phản ngầm với Mỹ. Đối thoại an ninh khu vực và hợp tác hành động với các quốc
gia Đông Nam Á, Hiệp hội này trong những năm gần đây tập trung nhiều vào việc
chống khủng bố và triển khai các hoạt động quân sự chung. Tập trung vào các
thách thức phi truyền thống, Trung Quốc tìm kiếm sự ủng hộ theo thuật ngữ “
32
Đông Nam Á” của an ninh quốc gia nơi mà các thuật ngữ sau này không chỉ là an
ninh quân sự mà còn bao gồm sự quan tâm tới các ưu tiên của Đông Nam Á về ổn
định trong nước, phát triển kinh tế, các giải pháp đồng thuận đối với các bất đồng
song phương.
An ninh năng lượng
Sự quan tâm sâu sắc của Trung Quốc về những nguồn cung cấp năng lượng
là một nhân tố khá mới nhưng quan trọng trong việc hình thành thái độ quốc tế của
họ, đặc biệt là những mối quan hệ của họ với những nước cung cấp chủ yếu ở
Trung Á, Trung Đông và Châu Phi. Nhu cầu của Trung Quốc về dầu nhập khẩu và
khí đốt đã trở thành một vấn đề cấp bách của thế kỉ này khi sự tăng trưởng kinh tế
và sự tăng trưởng nhu cầu năng lượng tái kết hợp lại với nhau, không giống như
giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2000 khi tổng sản lượng nội địa của Trung Quốc
(GDP) tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều so với những nhu cầu về năng lượng. Năm
2001, kinh tế Trung Quốc bắt đầu tăng trưởng nhanh hơn kế hoạch đề ra và sức
mạnh năng lượng của hoạt động kinh tế tăng trưởng nhanh hơn GDP. Sự tái kết
hợp này dẫn đến sự trào lên về nhu cầu năng lượng, cho hoạt động của ngành công
nghiệp cũng như là ngành giao thông vận tải. Mặc dù Trung Quốc đã trở thành một
mạng lưới nhập khẩu vào năm 1993 nhưng họ đã không có sự chuẩn bị kĩ càng cho
sự tăng trưởng gia tốc của quốc gia và sức mạnh năng lượng đang tăng trưởng.
Tình trạng này đã dẫn đến sự thiếu hụt dầu, than đá và điện lực và kéo dài sự thiếu
hụt năng lượng ở nhiều tỉnh. Sự tăng cao nhu cầu này và những nguồn thiếu hụt
tương ứng đã đẩy mạnh tính an toàn năng lượng lên chương trình nghị sự chính
sách đối ngoại của Trung Quốc, khi các công ty Trung Quốc đã có sự lao vào mạnh
mẽ để siết chặt quyền sử dụng những nguồn cung cấp năng lượng.
33
Ở Trung Quốc, an toàn năng lượng được định nghĩa theo hai vấn đề : tính
thay đổi đột ngột về giá cả và an toàn của việc vận chuyển. Trung Quốc cảm thấy
dễ bị nguy hiểm ở cả hai mặt, và chính sự am hiểu đang hình thành nên đường lối
ngoại giao của họ. Chính sách chặt chẽ của Trung Quốc tập trung vào sự an toàn
năng lượng (cái mà vào ban đầu đã có một chất lượng điên cuồng với họ) xuất phát
từ nhu cầu về dầu thô đang tăng lên một cách nhanh chóng và sự tăng lên tương
ứng trong sự tin cậy vào nguồn dầu thô nhập khẩu; gần đây nó đã tăng từ 1,6 triệu
thùng/ngày vào năm 2001 đến 4,1 triệu thùng/ ngày vào năm 2007. Những sự tăng
trưởng này đã đặt đến những mức độ tiêu thụ mà một vài công ty Trung Quốc đã
đặt ra kế hoạch trước đó cho đất nước của họ vào năm 2010. Trung Quốc đã trở
thành nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới (sau Mĩ) vào năm 2003 và nước nhập
khẩu dầu lớn thứ 3 thế giới (sau Mĩ và Nhật Bản) vào năm 2004. năm 2008, Trung
Quốc đã nhập khẩu 45% lượng dầu đáp ứng tổng nhu cầu toàn quốc, với 76% dầu
thô Trung Quốc nhập khẩu đến từ Trung Đông và Châu Phi (trong đó có 45% đến
từ Trung Đông). Những con số này cần được đặt trong bối cảnh: dầu thô nhập khẩu
cung cấp khoảng 10% tổng nhu cầu năng lượng của Trung Quốc.
Có ít nhất ba lý do về mặt địa chính trị dẫn người Trung Quốc quan tâm đến
an toàn của việc vận chuyển. Thứ nhất, khu vuẹc Trung Đông (là khu vực mà
Trung Quốc phụ thuộc vào việc nhập khẩu dầu thô lớn nhất) được nhận định là
không bền vững, nơi mà những nguy cơ của sự gây vỡ nguồn cung cấp là cao.
Châu Phi không được xem là không ổn định. Những nhà phân tích Trung Quốc trở
nên đặc biệt quan tâm sự trông cậy vào nguồn dầu Trung Đông sau cuộc chiến
tranh của Mĩ ở Iraq năm 2003, việc mà một vài người nhìn nhận là đã bị thúc đẩy
mạnh mẽ bởi tham vọng của Mĩ trong việc kiểm soát nguồn dầu của Iraq và đẫn
đến gia tăng đòn bẩy của Mĩ trên thị trượng dầu thế giới. Một bản phân tích nổi
bâttj của Trung Quốc đã kết luận “Không còn nghi ngờ gì nữa về việc Mĩ kiểm
soát nguồn dầu trên thế giới đã được củng cố một cách đáng kể sau sự thành công
34
của cuộc chiến tranh Iraq”. Bên cạnh những lời này, những chuyên gia Trung Quốc
đánh giá sự có mặt trên phạm vi rộng của quân đội Mĩ ở Trung Đông nêu bật lên
sự nguy haik cho Trung Quốc đối với việc cắt nguồn cung cấp tương lại bị bắt
buộc bởi Mĩ. Thứ hai, việc nhập khẩu dầu từ Trung Đông và các khu vực khác đòi
hỏi sự vận chuyển với khoảng cách dài xuyên đại dương là điều mà Trung Quốc có
thể cung cấp được rất ít sự bảo vệ. Eo biển Malacca, nói riêng, là một điểm then
chốt cho hầu hết việc nhập khẩu dầu bằng đường biển của Trung Quốc và là một
đường vào mà hải quân Trung Quốc không có khả năng kiểm soát. Theo như đưa
tin, một số nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã đặt tên cho mối nguy hại
này là “Tình thế khó xử Malacca” của Trung Quốc, mặc dù nguồn gốc và tính
trung thực của cụm từ cụ thể này vẫn chưa rõ ràng. 1/3 trong mối nguy hại của
Trung Quốc là họ dựa vào nhưng công ty tàu chở dầu nước ngoài để vận chuyển
khoảng 90% nguồn dầu nhập khẩu của họ. Ba mối quan tâm này đang thúc đẩy
những nỗ lực của Trung Quốc, thông qua việc ngoại giao để giành lấy quyền sử
dụng những nguồn tài nguyên năng lượng gần hơn đối với Trung Quốc, có hiệu lực
cho đường ống dẫn dầu hoặc vận chuyển trên mặt đất, và vì vậy sẽ không là một
vấn đề dẫn đến sự gây vỡ hoặc có thể xảy ra.
Chương V: Những công cụ mở rộng ngoại giao của Trung Quốc
Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong cách hành xử quốc tế của Trung
Quốc trong thập niên trở lại đây chính là một cơ số các công cụ quyền lực thực
dụng và cấp tiến mà Trung Quốc đưa vào áp dụng trong quá trình theo đuổi các
mục tiêu của họ. Dưới đây sẽ trình bày năm nhóm công cụ đó bao gồm : ngoại giao
kinh tế, ngoại giao lãnh đạo, ngoại giao đa phương, đối tác chiến lược và ngoại
giao quân sự. Trong rất nhiều trường hợp, việc áp dụng các công cụ này có thể bị
35
chồng chéo và chúng hỗ trợ lẫn nhau, sự khác nhau giữa các công cụ quyền lực này
được vẽ ra để dễ cho các hoạt động phân tích.
Ngoại giao kinh tế
Ngoại giao kinh tế (jingji waijiao) đã trở thành tâm điểm trong chính sách
đối ngoại của Trung Quốc dưới thời Hồ Cẩm Đào. Ngoại giao kinh tế đồng nghĩa
với việc sử dụng thương mại, đầu tư, và, làm tăng, chính sách thương mại để hỗ trợ
cho các mục tiêu ngoại giao của Trung Quốc đồng thời sử dụng ngoại giao đơn
thuần để để nâng cao mức phát triển kinh tế của Trung Quốc, ví dụ như việc đảm
bảo con đường tiến vào nền kinh tế thị trường. Cả hai mặt của ngoại giao kinh tế
dường như xa vời đối với Trung Quốc, một nước có truyền thống nhìn nhận các
vấn đề ngoại giao và kinh tế riêng rẽ và khác biệt. Thủ tưởng Ôn Gia Bảo đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của khái niệm này trong một buổi họp Quốc hội quan trọng
vào tháng 8 năm 2004 – cuộc họp này được cho là một cuộc họp trọng yếu đề cập
đến khái niệm này. Ý tưởng này đã được phát triển xa hơn trong cuộc “Thảo luận
về Ngoại giao và Kinh tế” của Bộ ngoại giao tháng 12/2004. Trong cuộc họp này,
Thứ trưởng ngoại giao Lư Quốc Tăng đã giải thích đóng góp của việc ngoại giao
gắn với kinh tế đối với sự phát triển chung của quốc gia :
Những bước phát triển mới của tình hình quốc tế và trong nước đang đặt ra
những yêu cầu ngày càng cao cho công cuộc của chúng ta trên nhiều lĩnh vực.
Chúng ta cũng phải đưa vào thực tế sâu hơn các khái niệm về phát triển khoa học,
kết hợp phát triển trong nước, và mở cửa với thế giới bên ngoài, nắm chắc cơ hội
để phát triển và nỗ lực xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn…Với sự phát triển và thay
đổi của tình hình, tầm ảnh hưởng và chức năng của ngoại giao cũng đang thay đổi.
Ngoại giao đang dần dần mở rộng từ lĩnh vực chính trị và an ninh sang các lĩnh
36
vực kinh tế và văn hóa. Vừa đảm bảo chủ quyền và an ninh quốc gia, ngoại giao
còn phải gánh vác những nhiệm vụ ngày càng nặng nề hơn trong việc bảo vệ lợi
ích kinh tế quốc gia và thúc đẩy sự phát triển quốc nội.
Kinh tế ngoại giao của Trung Quốc có rất đa dạng.Một trong những điểm
nổi bật nhất là do Trung Quốc khởi sướng, đàm phán,hoặc kết luậ của các hiệp
định thương mại tự do (FTA). Đến năm 2009, Trung Quốc đã ký kết hiệp định
thương mại này với Chile, Hồng Kông, Ma Cao, Pakistan, Singapore, Peru và New
Zealand, và đàm phán với một vài nước khác,nhất là Úc và Hội đồng hợp tác vùng
Vịnh (GCC). FTA lớn nhất của Trung Quốc,với 10 thành viên của Hiệp hội các
nước Đông Nam Á (ASEAN), được thiểt lập để có hiệu lực vào năm 2010, mặc dù
một vài gặt hái ban đầu về thuế và các biện pháp tự do hoá đã được thông qua năm
2004.
Tác dụng của FTA góp phần vào ba chính sách đối ngoại của Trung Quốc:
1 : Trung Quốc mở rộng tiếp cận với thị trường đầu tư và công nghệ
2 : Sử dụng tài nguyên chiến lược
3 : Trấn an các quốc gia phát triển rằng sự tăng trưởng của Trung Quốc
không làm tổn hại lợi ích kinh tế của họ.
Bảng 5.1 : Các hiệp định thương mại tự do của Trung Quốc
ASEAN Trung Quốc và Asean kí kết một hiệp định về
hàng hoá trong tháng 11 năm 2004 và bắt đầu cắt giảm
thuế khoảng 90% hàng hoá trong tháng 7 năm 2005.
37
Một thỏa thuận về thương mại dịch vụ có hiệu lực vào
tháng 7 năm 2007 bao gồm xây dựng, bảo vệ môi
trường,du lịch,giao thông vận tải,và giáo dục. Đàm
phán về đầu tư và các dịch vụ được diễn ra với sự kỳ
vọng của một FTA phát triển vào năm 2010
Úc Đàm phán bắt đầu vào tháng 5 năm 2005 và
đang tiếp tục diễn ra. Úc muốn một thoả thuận toàn
diện,trong khi đó,Trung Quốc muốn một thoả thuận
tuần tự,bắt đầu với thương mại hàng hoá.
Chile Trung Quốc và Chi lê đã kí một thoả thuận
thương mại hàng hoá trong tháng 11 năm 2005,với mục
tiêu loại bỏ thuế tới 97% của hàng hoá vào năm
2015.Một thoả thuận thương mại dịch vụ đã được ký
kết trong tháng 4 năm 2008. Cuộc đàm phán vè đầu tư
vẫn đang được tiếp tục.
Costa Rica Một nghiên cứu chung đã được hoàn thành vào
tháng 7 năm 2008
GCC Tháng 4 năm 2005,Trung Quốc và GCC nhất trí
bắt đầu cuộc đàm phán về một thoả thuận hàng hoá và
sau đó là về thương mại dịch vụ. Đàm phán bắt đầu vào
năm 2006 và vẫn đang diễn ra.
38
Hồng Kông CEPA đã được ký kết trong tháng 6 năm 2003.
(Khu vực hành Đây là một FTA toàn diện, hiện nay, bao gồm tất cả
chính đặc biệt) hàng hoá từ Hồng Kông và với 27 ngành dịch vụ
Iceland Nghiên cứu về một FTA khả thi bắt đầu trong
tháng 3 năm 2006 và cuộc đàm phán về một FTA toàn
diện bắt đầu vào tháng 4 năm 2007. Không đạt được
bất kỳ thoả thuận nào.
Ấn Độ Năm 2005, một lực lượng song phương được
thành lập để tiến hành một nghiên cứu về tính khả thi
của FTA. Nghiên cứu này được hoàn thành vào năm
2008 nhưng không có quyết định nào được thực hiện
khi cuộc đàm phán bắt đầu.
Macao (Khu Một CEPA được ký kết vào tháng 10 năm 2004
vực hành chính và gia nhập vào lực lượng trong tháng 1 năm 2004.Tất
đặc biệt) cả sản phẩm của Ma Cao hội đủ điều kiện cho miễn phí
thuế khi vào Trung Quốc, và các công ty của 26 ngành
dịch vụ được ưu đãi trên lãnh thổ.
New Đàm phán song phương được khởi sướng vào
Zealand tháng 12 năm 2004. 1 thoả thuận đã được ký kết trong
tháng 4 năm 2008 và có hiệu lực trong tháng 10 năm
2008. Các thoả thuận thương mại hàng hoá và dịch vụ
39
dần được thay dổi tích cực.
Na Uy Na Uy đưa ra một nghiên cứu khả thi trong tháng
7 năm 2007 và vẫn được tiến hành.
Pakistan Trung Quốc và Pakistan đã ký một thoả thuận
về hàng hoá và dầu tư vào tháng 11 năm 2006, với mục
tiêu là tự do hoá 85-90% thuế vào năm 2011. Một thoả
thuận vè thương mại dịch vụ được ký kết vào tháng 2
năm 2009.
Peru Cuộc đàm phán về một hiệp định thương mại đã
được hoàn thành vào tháng 11 năm 2008, và các thoả
thuận đã được ký trong tháng 4 năm 2009.
Singapore Đàm phán bắt đầu vào tháng 10 năm 2006 và
thoả thuận về hàng hoá và thương mại dịch vụ đã được
ký kết trong tháng 10 năm 2008, nó có hiệu lực vào
ngày 1 tháng 1 năm 2009. Các quy định của thoả thuận
giữa Trung Quốc và Asean trong lĩnh vực đầu tư sẽ
được hợp nhất FTA.
Nam Mỹ ĐÀm phán bắt đàu vào năm 2006,Trung Quốc tự
nguyện giới hạn về xuất khẩu dệt may vào năm 2006.
Phương tiên thong tin đại chúng chỉ ra rằng các cuộc
40
đàm phán đang tạm ngừng.
Liên minh Đàm phán bắt đầu vào tháng 6 năm 2004, nhưng
Hải quan Nam Phi rất ít thoả thuận đực thực hiện cho tới nay. Mối liên hệ
giữa Thuỵ Sỹ với Đài Loan là một rào cản của sự tiến
bộ.
Nam Triều Nghiên cứu về một FTA bắt đầu vào năm 2004
Tiên và một cuộc họp nhóm song phương về tính khả thi đã
diễn ra trong tháng 7 năm 2007. Đến mùa Xuân năm
2009. Hàn Quốc không đồng ý bắt đầu cuộc đàm phán,
dù cho Bắc Kinh ép Seoul làm vậy.
Mặt khác,Trung Quốc dã thành công trong việc sử dụng FTA để đạt được
cam kết từ một số nước hỗ trợ cho Trung Quốc về mặt kinh tế thị trường. ,một
quyết định pháp lý theo thổ chức thương mại Thế giới (WTO) qui định.Với một số
quốc gia khác,như Úc,Trung Quốc yêu cầu MES như là một điều kiện đơn giản để
bắt đầu đàm phán vè một FTA. Tới đầu năm 2009,gần 80 quốc gia đã công nhận
Trung Quốc có một nền kinh tế thị trường theo qui định của WTO. Đáng chú ý là
trường hợp ngoại lệ bao gồm Hoa Kỳ,Nhật Bản và Liên minh Châu Âu (EU). MES
quan trọng với Trung Quốc như một dấu hiệu của sự thành công về cải cách kinh tế
và cũng bởi vì nó làm giảm đi các hình phạt mà các nước khác áp đặt vào Trung
Quốc trong chống bán phá giá và khác biệt về thuế theo quy định của WTO.
Kinh tế đối ngoại của Trung Quốc có tầm cỡ về tài chính lớn. Đầu năm
2006,Trung Quốc bắt đầu cuộc đối thoại kinh tế với một số quốc gia để tiến xa hơn
41
trong trao đổi song phương về thương mại cổ điển và các vấn đề đầu tư.Vấn đề này
đặc biệt mới giữa bộ tài chính và ngân hàng trung ương,nó bao gồm chính sach
kinh tế vĩ mô,tài chính quốc gia và các chính sách thuế,tỷ lệ trao đổi thực tế. Đến
nay,Trung Quốc đã thiết lập đôi thoại với Hoa Kỳ,Anh Quốc, Đức,Bra xin, Ấn
Độ,Nga và Nhật.Với một nhóm các nền kinh tế lớn trên toàn cầu,Trung Quốc bắt
đầu cuộc đối thoại cấp cao vè kinh tế kể cả với Mỹ,Nhật,Anh và EU.
Cuối năm 2008, đầu năm 2009, Trung Quốc đã phát triển xa hơn nền ngoại
giao tài chính bằng cách tổng kết nhanh chóng những hiệp định trao đổi tiền tệ
tổng trị giá 650 tỉ nhân dân tệ với 6 quốc gia; mục đích của những hiệp định này là
nhằm nâng cao việc sử dụng nhân dân tệ của các nước này như là phương tiện làm
thuận tiện hơn giao dịch thương mại trong thời kỳ suy thoái toàn cầu và sự thiếu
hụt đô la Mỹ. Theo website của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa, “Những ngân
hàng trung ương sử dụng trao đổi tiền tệ để chú trọng đến vấn đề khả năng thanh
toán bằng tiền mặt trong ngắn hạn và giải quyết khủng hoảng hiện tại một cách
hiệu quả hơn và bảo vệ sự ổn định của hệ thống tài chính.” Kể từ tháng 4 năm
2009, Trung Quốc đã ký những hiệp định với Argentina (70 tỉ nhân dân tệ), nhà
chức trách tiền tệ của Hong Kong (200 tỉ nhân dân tệ), Malaixia (80 tỉ nhân dân
tệ), Belarus (20 tỉ NDT), Hàn Quốc (180 tỉ NDT), và Indonesia (100 tỉ NDT).
Ngoài ra, Trung Quốc tiếp tục mở rộng đầu tư trực tiếp ra bên ngoài (ODI), với
tổng cổ phần tích lũy là 117,9 tỉ đô la trên toàn thế giới năm 2007. Sự phát triển
nhanh và có thật của ODI một phần là kết quả của chính sách nhà nước quản lý
được ban hành vào cuối những năm 90 và được tăng cường năm 2003. Chính sách
đó được gọi là chiến lược “đi ra ngoài” (zou chu qu 走出去), và nó kêu gọi các
công ty Trung Quốc tham gia vào thị trường toàn cầu để tăng thu nhập, để học hỏi
và có tính cạnh tranh toàn cầu, và, nếu có thể, đạt được thương hiệu quốc tế.
Những công ty Trung Quốc, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, đã đầu tư vào các
dự án nước ngoài về giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng, và truyền thông. Trong một
42
số trường hợp, những dự án này được đảm nhận để cho phép các công ty khác của
Trung Quốc đạt được sự ưu tiên trong việc tiếp cận nguồn năng lượng và những
nguồn lợi chiến lược khác; một số những sự đầu tư này thậm chí đã được tạo ra
trên cơ sở chịu lỗ vốn của các công ty để đạt được sự tiếp cận của Trung Quốc
với những nguồn tài nguyên của các nước này. Sự tiếp cận này có thể thấy ở
châu Phi và châu Mỹ-Latinh. Trung Quốc cũng chào mời về ODI đang tăng trưởng
của mình như là một tín hiệu của Trung Quốc trong việc đóng góp tới sự phát triển
kinh tế của các quốc gia khác, như là những cách thức xa hơn trong việc tái đảm
bảo và tăng cường ảnh hưởng của Trung Quốc với nước khác. (Figure 5.1). Hỗ trợ
nước ngoài là một khía cạnh to lớn thứ tư của ngoại giao kinh tế Trung Quốc. Hỗ
trợ nước ngoài của Trung Quốc bao gồm cả hỗ trợ phát triển và hỗ trợ nhân đạo, và
hỗ trợ nhân đạo là một thông lệ mới. Hỗ trợ phát triển của Trung Quốc dưới dạng
là những khoản cho vay và hỗ trợ kỹ thuật khổng lồ, tương tự như viện trợ phát
triển chính thức (ODA) như được xác định bởi tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD). Theo tiêu chuẩn OECD, hỗ trợ phát triển của Trung Quốc là “một nguồn
tương đối nhỏ của hỗ trợ toàn cầu”, theo báo cáo Nghiên cứu Dịch vụ của Quốc
hội. Tuy nhiên, trong việc đánh giá viện trợ nước ngoài của Trung Quốc cũng phải
kể đến sự tài trợ của chính phủ Trung Quốc hay là sự đầu tư được “trợ cấp” ở nước
ngoài; sự đầu tư này được cung cấp thông qua Ngân hàng phát triển Trung Quốc
hoặc là Ngân hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc, những ngân hàng không phải một
phần của bộ máy viện trợ nước ngoài quan liêu mới mọc lên. Khi các quỹ hỗ trợ
bao gồm cả loại thứ hai này trong danh mục, Trung Quốc “trở thành một nguồn
quan trọng của viện trợ nước ngoài”.
Điều này khiến ta không hiểu rõ làm sao Hội Đồng Nhà Nước có thể tổ
chức và chỉ đạo sự quan liêu trong quỹ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc, điều
đang thể hiện sự đứt đoạn và không mạch lạc. Chính phủ không định rõ quỹ hỗ trợ
nước ngoài mà cũng không công bố những thống kê toàn diện, điều này khiến cho
43
việc tính toán trở nên khó khăn và không nhất quán. Bộ Thương Mại Trung Quốc,
nơi gánh vác nhiệm vụ quản lý chính thức ngân sách viện trợ nước ngoài, đã bắt
đầu công bố những thống kê tổng hợp về sự hỗ trợ bên ngoài trong chỉ riêng năm
2002. Tính toán chính thức của Bộ Thương Mại về viện trợ nước ngoài trong năm
2002 là 602,77 triệu USD; năm 2003 là 630.36 triệu USD; là 731 triệu USD trong
năm 2004; 922 triệu USD vào năm 2005; và đến 2006 là 1,1 tỷ USD. Theo như dữ
liệu của CRS, những thống kê này đã giảm bớt đi đáng kể sự viện trợ nước ngoài
của Trung Quốc bởi đã không tính đến một số khía cạnh khác, có thể lấy ví dụ từ
việc hỗ trợ tài chính cho dự án cung cấp vốn đầu tư ở hải ngoại. “Quỹ viện trợ
nước ngoài PRC và sự hỗ trợ tài chính của chính phủ dành cho dự án kinh tế ở
Châu Phi, Châu Mỹ La tinh và Nam Á đã tăng lên từ dưới 1 tỷ USD vào năm 2002
đến 27,5 tỷ USD vào năm 2006 và lên đến 25 tỷ USD vào năm 2007.”
Quỹ dự trữ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc đã tăng nhanh đặc biệt từ
năm 2004 như là minh chứng của việc Bắc Kinh đã mưu toan sử dụng sự hỗ trợ
của mình để xây dựng và giữ vững mối quan hệ chính trị với các nước láng giềng
trong khu vực Châu Á và đặc biệt là với các quốc gia thuộc Châu Phi. Vào năm
2004, Trung Quốc đã bảo đảm rằng sẽ cung cấp 400 triệu USD để hỗ trợ tài chính,
sử dụng những món vay ưu tiên dành cho việc phát triển trong giai đoạn đầu của
tuyến đường sắt ở Philippines. Trung Quốc đã cam kết rằng sẽ xoá nợ cho những
nước nghèo ở Châu Á (như Campuchia và Lào); trong năm 2005 và 2006, Hồ Cẩm
Đào đã hứa sẽ xoá nợ hơn 10 tỷ USD trong số nợ quá khứ cho các nước Châu Phi.
Đặc biệt, xuyên suốt Diễn đàn hợp tác Trung Quốc – Châu Phi diễn ra vào tháng
11/2006 ở Bắc Kinh, chính phủ Trung Quốc tuyên bố sẽ có gói viện trợ phát triển
nhiều năm cho tất cả các quốc gia Châu Phi. Gói hỗ trợ bao gồm cả viện trợ gấp
đôi, như cấp độ viện trợ Châu Phi của Trung Quốc vào năm 2009 đã gấp đôi năm
2006; 5 tỷ USD là chuyển nhượng tài chính cho các công ty ở Châu Phi; xoá các
món nợ lớn cho những nước nghèo nợ nghiêm trọng; và hỗ trợ kỹ thuật. Vào tháng
44
6/2007, Trung Quốc đã đồng ý xoá nợ gần 10 triệu USD trong món nợ được tích
lũy từ thời chính phủ trước đó – 2 chính phủ – chính phủ hiện thời của Iraq và cả
của các xí nghiệp Trung Quốc ở đó. Thú vị ở chỗ, 1 năm sau, Iraq đã kết luận
những thoả thuận đầu tiên về dầu của nước này với nước ngoài từ 2003, với 1 hãng
trực thuộc Trung Quốc, với việc hỗ trợ kỹ thuật trong phát triển lĩnh vực dầu, thoả
thuận đó đã được báo cáo rằng tốn 3 tỷ USD.
Mặc dù quỹ viện trợ nước ngoài của Trung Quốc vốn có truyền thống là chú
trọng vào việc hỗ trợ phát triển (thường là dành cho thị trường tương thích dành
cho các hãng của Trung Quốc), việc dự trữ dành cho hỗ trợ nhân đạo là một khía
cạnh mới và đang phát triển trong hồ sơ hỗ trợ nước ngoài của Trung Quốc. Hưởng
ứng lại với thảm họa sóng thần (Tsunami) tại Nam Á năm 2004 và 2005, chính phủ
Trung Quốc đã quyên góp giúp đỡ 83 triệu USD, đây là giá trị lớn nhất mà quỹ hỗ
trợ nhân đạo của Trung Quốc đã ủng hộ vào thời điểm đó. Vào đầu năm 2006,
chính phủ Trung Quốc đã báo cáo công khai rằng Trung Quốc đã quyên tặng
(nhưng không cần thiết phân loại) một giá trị kỷ lục dành cho quỹ viện trợ nhân
đạo như sau: gần 1 tỷ nhân dân tệ (123,45 triệu USD) viện trợ thảm họa dành cho 3
kế hoạch lớn (ví dụ như, viện trợ cho thảm họa sóng thần (Tsunami) tại Ấn Độ
Dương, viện trợ cho thảm họa động đất ở Pakistan, và viện trợ cho thảm họa bão
Katrina cũng như lượng viện trợ nhỏ hơn dành cho Bắc Triều Tiên, Việt Nam,
Romania, Iran, Guinea-Bissau, và Ecuador. Một số quan chức Trung Quốc đã
tuyên bố rằng chính phủ của họ đã chính thức hoá một “bộ máy phản ứng khẩn
cấp” để kích hoạt việc phân bổ nhanh chóng quỹ hỗ trợ thảm hoạ trong tương lai.
Một mô hình phát triển mẫu
Ngoại giao kinh tế của Trung Quốc ngay lập tức làm tăng mối quan tâm về
nuớc này cho dù đó là kinh nghiệm của nó trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững như một ví dụ điển hình cho các nước Phương Tây thay thế để
phát triển, một cuộc thi trình bày ý tưởng được gọi là “Bắc Kinh Đồng thuận” với
45
các “Đồng thuận Washington”. Mặc dù Trung Quốc thấy rõ giá trị sử dụng của một
loạt các chính sách kinh tế tài chính để thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc, ít nhất nó
cũng là một mô hình phát triển riêng biệt, mà những người khác có thể sao chép,
và Trung Quốc đang xúc tiến bản thân như một sự thay thế cho Mỹ hoặc các nước
phương Tây có thể tiếp cận.
Cách tiếp cận của Trung Quốc cũng đã được thống nhất với các thuộc tính
của Đồng thuận Washington, Trung Quốc đã nhấn mạnh tầm thấp, thâm hụt tài
chính, cải cách cơ cấu từng bước, tư nhân hóa, xúc tiến thương mại, phát triển cơ
sở hạ tầng, đào tạo lực lượng lao động, và xúc tiến đưa vào những cái mới. Trung
Quốc hưởng lợi từ một thuộc tính của một số nền kinh tế công cộng, chẳng hạn
như năng suất lợi nhuận khổng lồ gắn liền với sự chuyển đổi từ nền kinh tế phần
lón là nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, nhất là với lực lượng nhân công
rẻ ngày càng phát triển về mặt kỹ thuật, hấp dẫn thị trường trong nước và truyền
thống nhấn mạnh cạnh tranh kinh doanh.
Vì những lý do khác nhau mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiếm khi tuyên
bố rằng Trung Quốc đại diện cho một mô hình phát triển duy nhất mà các nước
khác nên làm theo, trừ những điểm nổi bật của Trung Quốc. Lãng đạo của Trung
Quốc rất muốn chia sẻ kinh nghiệm của Trung Quốc với các nước đang phát triển
(bao gồm cả những thành công và thất bại) để làm nổi bật những điểm yếu của các
ý tưởng phương Tây. Nhưng họ cũng không nói rằng sự thành công của Trung
Quốc có thể và cần được nhân rộng bằng cách phát triển ở cấp quốc gia. Cách tiếp
cận này là động lực ngoại giao, một phần, bởi nỗ lực của Trung Quốc để có sự xuất
hiện của hợp tác xã và không áp đặt những ý tưởng của mình vào các nước khác.
Một số người Trung Quốc lo ngại rằng việc thúc đẩy một cách trực tiếp Đồng
thuận Bắc Kinh sẽ đối đầu với Mỹ và các nước phương Tây khác, phá hoại chiến
lược của Trung Quốc. Có một nguồn tin cho rằng ý tưởng về một Đồng thuận Bắc
Kinh đã được phát triển bởi một nhà báo phương Tây, không phải bởi một nhà
46
chính trị Trung Quốc. Không một lãng đạo hàng đầu, hoặc Bộ Trưởng nước ngoài
phát triển ý tưởng này thay vì nhấn mạnh tính độc đáo của Trung Quốc.
Trong phạm vi mà Trung Quốc được xem như thúc đẩy một mô hình như
vậy là do nhiều quốc gia đang phát triển chiêm ngưỡng những thành công trong
kinh tế của Trung Quốc và được cho là hỗ trợ cho Trung Quốc. Ví dụ những quốc
gia Châu Phi trong suốt tiến trình diễn ra Diễn đàn hợp tác Châu Phi ở Bắc Kinh
mong muốn nhân rộng những kinh nghiệm của Trung Quốc mặc dù chỉ là lấy một
số ít các bước tương tự trong chính sách của Trung Quốc. Một số quốc gia đang
phát triển như Braxin và Venezuela, đã tìm kiếm đối tác trong một số nước ở
phương Tây và có xem xét đến Trung Quốc để được hỗ trợ, họ cố gắng đưa Trung
Quốc thành một thế lực nhằm phản đối các chính sách này và thực tế, mặc dù
Trung Quốc hỗ trợ nhiều nước trong số họ song Trung Quốc quan tâm nhất tới việc
tăng trưởng kinh tế toàn cầu của mình thông qua các tương tác thương mại và tài
chính (như mô tả ở trên) và mở rộng vai trò của mình trong các tổ chức tài chính
quốc tế.
Các nhà lãnh đạo đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung Quốc hiện đang có
những chuyến thăm nước ngoài để thực hiện mục tiêu ngọai giao Trung Quốc đề
ra. Một vài nhà phân tích Trung Quốc gọi xu hướng này là “Ngoại giao lãnh đạo”.
Dẫu cho nhiều nhà lãnh đạo các nước tăng cường thăm hỏi thuờng xuyên các quốc
gia khác nhau nhưng các chuyến thăm đều đặn của các vị lãnh đạo Trung Quốc vẫn
vượt trội hơn cả kể từ thời kỳ cải cách và đặc biệt dưới thời Hồ Cẩm Đào. Trước
năm 1978, các chuyến thăm nước ngoài tương đối ít và không có gì tiêu biểu. Tuy
nhiên, dưới thời của ông Giang Trạch Dân – thế hệ lãnh đạo thứ 3, thì các chuyến
thăm nước ngoài mới được cải thiện. Như đã đề cập ở mục 5.2, các nhà lãnh đạo
cấp cao Trung Quốc (Chủ tịch, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội hay Chủ tịch Đại hội
Đại biểu Nhân dân toàn quốc) có trách nhiệm chính trong việc tăng cường các
47
chuyến thăm nước ngoài từ năm 1992, từ con số 122 lên con số 424 (giữa các năm
1981-1991) trong giai đoạn 1992 – 2006.
Như ta đã thấy ở mục 5.3, sự phân bổ khu vực của các chuyến thăm của các
nhà lãnh đạo từ năm 1949 tới năm 2006 đã nêu bật lên rằng Trung Quốc ưu tiên
ngoại giao lâu dài: Châu Á là trọng tâm chính trong nhiều thập kỷ (250 chuyến
thăm), tiếp theo sau là Châu Âu (196) , Châu Phi (92), Châu Mỹ (50), Châu Đại
Dương (26), và Bắc Mỹ (19). 19 chuyến đi thăm Bắc Mỹ là 1 con số không hề gây
ngạc nhiên bởi chiến tranh lạnh đã gây ra mối quan hệ đóng băng giữa Mỹ và
Trung Quốc. Qua nghiên cứu của học giả Zhang Qingmin và Liu Bing, giữa năm
1949 – 1991 các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc chỉ thăm Bắc Mỹ có 7 lần. Con
số này thấp hơn nhiều so với con số 98 chuyến thăm tới Châu Á, 54 chuyến tới
Châu Âu và 31 chuyến tới Châu Phi. Trong giai đoạn 1992 – 2006, các chuyến
thăm của giới lãnh đạo cao cấp Trung Quốc chủ yếu tới Châu Á, Châu Âu, và Mỹ
La tinh.
Trong 10 năm qua, các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc có những chuyến
đi thăm nước ngoài đều đặn với các mục tiêu ngoại giao được ưu tiên cao. Một vài
cán bộ nội các then chốt đã đi thăm Băc Triều Tiên giữa những năm 2003 – 2008
như là một phần nỗ lực của Trung Quốc để kiểm soát tình hình khủng hoảng hạt
nhân và nỗ lực nối lại đàm phán 6 bên. Các chuyến thăm thường xuyên của Thủ
Tướng Wen Jiabaos đi đầu trong việc cải thiện mối quan hệ với các quốc gia Đông
Á và Nam Á. Có thể nhận thấy mục đích chuyến thăm Thái Lan năm 2003 của ông
Wen (ngay sau khi dịch SARS bùng nổ lại ở Trung Quốc) là muốn khẳng định lại
Trung Quốc và các nước láng giềng của mình đang cùng nỗ lực ngăn cản sự lây lan
của dịch bệnh này. Kể từ đó, Wen trở thành người đại diện cấp cao của Trung
Quốc trong các cuộc họp thường tuần của ASEAN +3 (gồm ASEAN, Trung Quốc,
Nhật, Hàn Quốc) và cuộc họp thượng đỉnh Đông Nam Á. Wen chủ trì hội nghị kỷ
niệm lần thứ 15 mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc ở Nam Ninh năm 2007, là 1
48
cách để nhấn mạnh sự quan trọng của Trung Quốc với ASEAN. Wen cũng là
người đi đầu trong các nỗ lực làm thân với Ấn Độ, ông Wen đã có chuyến thăm Ấn
Độ nhân Hội nghị thượng đỉnh 2 bên vào tháng 4 năm 2005 và qua đó thiết lập
được mối quan hệ hợp tác chiến lược với Ấn Độ – đối thủ lầu đời của Trung Quốc.
Có lẽ chuyến thăm Nhật Bản vào tháng 4 năm 2007 của thủ tướng Wen là một
chuyến đi hướng đến tương lai “Phá tan băng giá trong quan hệ” giữa Trung Quốc
và Nhật bản và làm củng cố mối quan hệ giữa hai nước.
Ngoài Châu Á, ông Wen còn đóng vai trò trung tâm trong các nỗ lực của
Trung Quốc nhằm kiểm soát khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Ông Wen là
đại diện của Trung Quốc tới Diễn đàn Kinh tế thế giới ở Davos, Thụy Sỹ đầu năm
2008 – mục đích tự khẳng định với cộng đồng thế giới, ông này đã cho biết Trung
Quốc hi vọng sẽ đạt mức tăng trưởng 8% năm 2009, bất chấp những dự đoán của
toàn cầu.
Tham gia vào diễn đàn tại Davos còn có đại diện các chính quyền các nước
trong Liên minh Châu Âu (EU) bao gồm Đức, Bỉ, Tây Ban Nha và Anh. Năm
2006, ông Wen đã có chuyến thăm kéo dài một tuần tới 7 nước ở Châu Phi để
chuẩn bị cho chiến lược đẩy Trung Quốc lên một tầm cao mới trong Hội nghị
thượng đỉnh Trung – Phi diễn ra vào tháng 11 năm 2006 (bao gồm 48 các quốc gia
Châu Phi). Wu Bangguo, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc và là người có vị trí cao
thứ 2 tại Đảng Nhân Dân Trung Hoa cũng có những chuyến thăm nước ngoài để
thiết lập đối thoại với các quốc hội được bầu chọn ở các quốc gia. Mục đích của
các chuyến đi này là nâng cao tính pháp lý của quốc hội Trung Quốc trong con mắt
của người dân Trung Quốc và thế giới.
Các chuyến đi thăm nước ngòai của chủ tịch Hồ Cẩm Đào kể từ năm 2002
sau khi ông này cầm quyền được coi là trọng tâm trong các nỗ lực nhằm gây ảnh
hưởng của Trung Quốc tới các vùng đang phát triển (chủ yếu là ở Châu Phi, Trung
Đông, Trung Á, và Châu Mỹ La tinh) qua đó thâm nhập các nguồn tài nguyên và
49
năng lượng tại đây. Bốn chuyến đi của ông Hồ tới Châu Phi (năm 2002, 2006,
2007 và 2009) và 2 chuyến tới Châu Mỹ La tin (2004 và 2008) thể hiện sự tác
động mang tính mở rộng của Trung Quốc ở các khu vực này. Hồ Cẩm Đào đã thăm
Châu Phi 4 lần kể từ 2002, thăm tổng cộng 18 quốc gia Châu Phi. Đầu 2009, ông
Hồ Cầm Đào cũng thăm 4 quốc gia Châu Phi không giàu tài nguyên nhằm khẳng
định đường lối ngoại giao của mình không phải hướng đến tài nguyên khoáng sản,
các quốc gia đó là: Senegal, Mali, Tanzania và Mauritius. Chuyến thăm 4 quốc gia
của ông Hồ diễn ra sau chuyến thăm 12 ngày tới 7 quốc gia Châu Phi vào năm
2007, trong đó có cả những chuyến thăm gây tranh cãi tới Sudan và Zimbabwe.
Không những vậy, Hu Jintao còn tích cực tăng cường quan hệ với các quốc
gia thuộc Liên Xô cũ. Ông này đã có những chuyến thăm thường niên tới Nga kể
từ 2002, và tham gia vào các cuộc họp thượng đỉnh thuộc Tổ chức Hợp tác Thượng
Hải. Năm 2007 và 2008, ông Hồ còn đi thăm Kyrgyzstan, Kazakhstan, Tajikistan
và Turkmenistan.
Trung Quốc cũng triển khai ý định chiến lược khi đồng ý thực hiện cam kết
về các vấn đề quốc tế, nhóm quốc gia. Năm 2003, Hồ Cẩm Đào đã tham dự Hội
nghị thượng đỉnh Âu – Trung khi hợp tác chiến lược giữa Trung Quốc và Châu Âu
được hình thành. Đây là quãng thời gian Bắc Kinh tìm cách gây căng thẳng trong
quan hệ Đại Tây Dương để nâng cao sự hợp tác Âu Trung trong các vấn đề quốc
tế. Trong tháng năm 2008, Hồ Cẩm Đào đã có chuyến thăm tới Nhật Bản để hoàn
thành vấn đề bình thường hóa toàn diện với Nhật Bản, đây là chuyến đi thăm đầu
tiên tới Nhật Bản của lãnh đạo Trung Quốc kể từ chuyến thăm của ông Giang
Trạch Dân vào năm 1998. Chuyến thăm của ông Giang được nhìn nhận là thất bại
bởi ông này đã giáo huấn người Nhật về vấn đề lịch sử giữa 2 nước. Ông Hồ Cẩm
Đào hiện là đại diện của Trung Quốc trong các cuộc họp thường niên của G8 mặc
dù Trung Quốc không hoàn toàn là thành viên của nhóm này. Ông Hồ đã tham dự
50
Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Washington vào tháng 11 năm 2008 và ở London vào
tháng 4 năm 2009.
Ông Hồ và ông Wen được coi như những người thành công trong việc dẫn
dắt chiến dịch “ngoại giao lãnh đạo”. Phó Chủ tịch Trung Quốc, ông Tập Cận Bình
người được tin tưởng là sẽ có những thành công như ông Hồ Cẩm Đào, cũng có sự
coi trọng các chuyến thăm nước ngoài nhằm cải thiện quan hệ của Trung Quốc với
các quốc gia đang phát triển.
Những chuyến công du tới các nước Châu Phi, Trung Đông, Trung Á và Mỹ
La tinh của chủ tịch Hồ Cẩm Đào kể từ khi lên cầm quyền vào năm 2002 trở thành
phần trọng tâm trong chiến lược mở rộng sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của Trung
Quốc ở các nước đang phát triển, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao khả năng
khai thác tài nguyên khoáng sản tại các quốc gia này. Bốn chuyến viếng thăm
chính thức Châu Phi của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào các năm 2002, 2006, 2007,
2009 và 2 lần tới Mỹ La tinh vào các năm 2004 và 2008 đã giúp Trung Quốc trực
tiếp thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực kinh tế của các khu vực này. Trong 4 lần tới
Châu Phi, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tới thăm tổng cộng 18 nước. Điều này bày tỏ
sự quan tâm sâu sắc tới lục địa đen của Trung Quốc. Đầu năm 2009, Hồ Cẩm Đào
đã tới thăm 4 quốc gia Châu Phi không giàu tài nguyên là Senegal, Mali, Tanzania
và Mauritius như để nhấn mạnh rằng quan hệ ngoại giao Trung Quốc Phi Châu
không chỉ hoàn toàn vì dầu mỏ. Chuyến đi tới 4 nước kể trên là sự tiếp nối của
chuyến thăm viếng dài 12 ngày tới 7 nước Châu Phi vào năm 2007, trong đó bao
gồm cả những điểm nóng thế giới như Sudan, Zimbabwe.
Hơn thế nữa, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào còn có những đóng góp hết sức quan
trọng trong việc cải thiện mối quan hệ giữa Trung Quốc với chính quyền Xô Viết
cũ. Kể từ khi nhậm chức, hầu như năm nào ông cũng dành thời gian tới thăm viếng
Nga, đồng thời tham dự các phiên họp thường niên của Tổ chức hợp tác Thượng
51
Hải. Trong 2 năm 2007, 2008, ông này cũng đã có những chuyến thăm viếng chính
thức tới Kyrgyzstan, Kazakhstan, Tajikistan, and Turkmenistan.
Tổng thống Trung Quốc cũng liên tục ra mặt khi quốc gia này có các mục
đích chiến lược như muốn tìm cách nâng cấp cam kết với một quốc gia, một nhóm
các quốc gia hay là một vấn đề quốc tế. Năm 2003, lần đầu tiên và cũng là lần duy
nhất cho đến thời điểm này, Hồ Cẩm Đảo tham dự hội nghị thượng đỉnh Trung
Quốc – Châu Âu khi mà “quan hệ đối tác chiến lược” giữa hai bên được hình
thành. Đây cũng chính là khoảng thời gian Bắc Kinh tận dụng những căng thẳng
trong quan hệ xuyên Đại Tây Dương để nâng cao sự hợp tác giữa Trung Quốc và
Châu Âu trong các vấn đề quốc tế. Năm 2008, Hồ Cẩm Đào cũng có chuyến thăm
viếng chính thức tới Nhật Bản nhằm mục đích bình thường hóa quan hệ hoàn toàn
với quốc gia này. Đây là chuyến viếng thăm chính thức đầu tiên của một lãnh đạo
cao cấp Trung Quốc kể từ chuyến thăm của cực Tổng thống Giang Trạch Dân năm
1998 – chuyến đi được xem như là một sự thất bại khi mà ông Giang lên lớp người
Nhật Bản về các vấn đề lịch sử. Ông cũng là đại diện của Trung Quốc tại các cuộc
họp thường niên của nhóm các quốc gia G8 mặc dù Trung Quốc chưa phải là thành
viên chính thức của tổ chức này. Ông còn tham dự hội nghị thượng đỉnh G20 tại
Washington tháng 11 năm 2008 và tại London tháng 4 năm 2009.
Hồ Cẩm Đào và những người kế nhiệm được xem là thành công ông Ôn Gia
Bảo đã có một bước nhảy vọt trong ngoại giao lãnh đạo. Phó Chủ tịch Tập Cận
Bình, người được tin tưởng là tương tự như vậy đã tập trung các chuyến đi nước
ngoài của mình vào việc cải thiện quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia đang
phát triển. Trong chuyến ra nước ngoài đầu tiên dưới cương vị Phó chủ tịch vào
năm 2008, ông đã tới thăm Bắc Triều Tiên, Mông Cổ và ba quốc gia Trung Đông
(Ả rập Xê Út, Yemen và Qua-ta). Cũng trong năm đó, ông tới thăm 5 nước Mỹ La
tinh (Mexico, Jamaica, Colombia, Venezuela và Brazil) và nước Malta. Tháng 2
năm 2009, ông này lại một lần nữa tới thăm Venezuela, nước cung cấp dầu thô lớn
52
thứ 8 cho Trung Quốc (tính đến năm 2007). Phó Thủ tướng Lý Khắc Cường trong
chuyến viếng công du đầu tiên ra nước ngoài khi còn đương chức đã tới thăm
Kuwait và Indonesia vào tháng 12 năm 2008.
Một khía cạnh khác trong việc đánh giá chiến lược ngoại giao lãnh đạo của
Trung Quốc là việc bổ nhiệm và đưa vào sử dụng “đặc phái viên” để đặc biệt xử lý
các vấn đề trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Từ năm 1993, Trung Quốc
đã bổ nhiệm một số đặc phái viên và triển khai đội ngũ này trên khắp thế giới. Đặc
phái viên đầu tiên của Trung Quốc được chỉ định giải quyết vấn đề hạt nhân của
Bắc Triều Tiên và hiện nay nước này đã cử các đặc phái viên về các vấn đề tại
Châu Phi, Sudan, Trung Đông và trong năm 2009 là vấn đề Afganishtan, Pakistan.
Như mô tả trong hình 5.5, số các chuyến thăm của đặc phái viên nước ngoài tăng
đáng kể trong năm 2006 và 2007, điều này khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc
ngày càng quan tâm tới công cụ ngoại giao mới này.
Ngoại giao đa phương
Một công cụ ngoại giao mới rất quan trọng và được Trung Quốc sử dụng
một cách khéo léo đó là sự tham gia vào các tổ chức đa phương (Bảng 5.2 và bảng
5.3). Trung Quốc đã sớm nhìn ra rằng các tổ chức này chính là môi trường để họ
có thể nâng cao tầm nhìn của mình về một thế giới đa cực, tính dân chủ mạnh mẽ
hơn trong quan hệ quốc tế và xây dựng một thế giới hòa thuận. Những tài liệu quốc
phòng năm 2008 đã chỉ rõ điểm này, “Trung Quốc đang đóng một vai trò năng
động và có tính xây dựng trong các mối quan hệ đa phương, từ đó nâng cao vị thế
và tầm ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế”.
Cụ thể hơn, Trung Quốc sử dụng các tổ chức đa phương như các cơ chế để
bảo đảm, thâm nhập vào các yếu tố đầu vào kinh tế trọng điểm, hạn chế ảnh hưởng
của Mỹ ở các khu vực nhất định, và mở rộng khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc
nói chung. Thực tế là Trung Quốc đang đóng vai trò trung tâm trong việc tạo ra
một loạt các diễn đàn đa phương mới tại các khu vực trên toàn thế giới. Quá trình
53
này đã biến các nhà lãnh đạo Trung Quốc thành những người nắm quyền sinh sát
trong các tổ chức này.
Chiến lược nắm lấy các tổ chức đa phương của Trung Quốc được thể hiện rõ
ràng và hiệu quả nhất trong khu vực Châu Á. Từ những năm đầu thập niên 90 của
thế kỷ XX, Trung Quốc đã rất tích cực tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á
Thái Bình Dương (APEC) (1991), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) (1994), Diễn
đàn ASEAN +1 (ASEAN và Trung Quốc) (1996), ASEAN +3 (1997) và Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á (EAS) (2005). Những sự tham gia này chính là công cụ để
Trung Quốc đánh bóng hình ảnh, tăng cường hợp tác kinh tế và nâng cao tầm ảnh
hưởng trong khu vực. Năm 2003, Trung Quốc đã trở thành nhân tố quyết định
trong việc hình thành và duy trì bàn đàm phán Sáu bên về vấn đề phi hạt nhân hóa
của Triều Tiên. Năm 2002, Trung Quốc trở thành thành viên sáng lập của Diễn đàn
Đối thoại Hợp tác Châu Á, là nơi tìm kiếm tiếng nói chung giữa các tổ chức khu
vực riêng lẻ như ASEAN, Hiệp hội Nam Á vì Sự hợp tác khu vực (SAARC) và
Hội đồng hợp tác Vùng Vịnh.
Trung Quốc cũng đẩy mạnh việc mở rộng các hoạt động hợp tác phi chính
phủ. Năm 2001, một nhóm lãnh đạo các doanh nghiệp Trung Quốc trong và ngoài
nước đã đứng ra thành lập Diễn đàn Hợp Tác kinh tế Châu Á Bác Ngao (BFA),
một tổ chức quốc tế phi chính phủ, phi lợi nhuận có trụ sở đặt tại đảo Hải Nam,
Trung Quốc và được quy mô hóa từ sau Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos. Cũng
như các cuộc họp ở Davos, BFA thu hút sự quan tâm chú ý của các quan chức cấp
cao Châu Á, lãnh đạo các doanh nghiệp và các học giả. Cũng chính tại diễn đàn
này năm 2003, Trung Quốc đã đưa ra chinh sách đối ngoại chiến lược mới: Tăng
cường hòa bình, bình yên phát triển.
Hợp tác chiến lược
Trung Quốc đã phát triển một cơ chế ngoại giao để phục vụ mục tiêu bành
trướng ảnh hưởng quốc tế của mình – sự hình thành của mối quan hệ “hợp tác
54
chiến lược” với cả các quốc gia đơn lẻ lẫn các nhóm quốc gia. Bảng 5.4 sơ lược
các mối quan hệ hợp tác này.
Với Trung Quốc, hợp tác chiến lược có ý nghĩa khác với cách hiểu của
phương Tây về thuật ngữ này. Nó không được đối xử như các khối liên minh bán
quân sự với những hợp tác rộng lớn về an ninh và quân sự, được ám chỉ qua từ
“chiến lược”. Thay vào đó, trong từ điển chính sách đối ngoại của Trung Quốc,
một sự hợp tác có ý nghĩa là chiến lược bởi hai lý do: (1) Nó mang tính bao quát,
bao gồm mọi khía cạnh của các quan hệ song phương và đa phương; và (2) cả hai
nước đều đồng ý cam kết đối với quan hệ song phương lâu dài, trong đó các vấn đề
song phương được xem xét trong bối cảnh đó và quan trọng hơn là những tranh
chấp xảy ra sẽ không ảnh hưởng đến quan hệ đó. Xác lập các mối quan hệ hợp tác
này giúp cho Trung Quốc có thể nâng cao mức độ tương tác của mình với các nước
(nhóm nước) đối tác và đồng thời giúp Trung Quốc có thể đặt ra được phạm vi, nội
dung và nhịp độ tương tác. Lập luận này giúp lý giải cho sự đa dạng của các quốc
gia, các nhóm quốc gia, các tổ chức đa phương mà Trung Quốc đã thiết lập mối
quan hệ hợp tác chiến lược đó.
Các mối quan hệ hợp tác chiến lược này có nội dung rộng và phong phú.
Trung Quốc nhấn mạnh vào một vài đề tài chính, bao gồm cơ hội phát triển kinh tế
chung từ thương mại và đầu tư; điều phối các sự kiện quốc tế, đồng nghĩa với việc
thông qua các quan điểm chính sách đối ngoại chung tại các diễn đàn như Liên
Hợp Quốc; hợp tác trên các lĩnh vực an ninh phi truyền thống; nâng cao ảnh hưởng
của các tổ chức đa phương; cùng ủng hộ các nguyên tắc của Liên Hợp Quốc và
quy tắc pháp luật trong quan hệ quốc tế; và quảng bá khái niệm của Trung Quốc về
“dân chủ và bình đẳng trong quan hệ quốc tế”.
Trung Quốc đồng thời cũng có những mục tiêu cụ thể khi tham gia vào các
mối hợp tác này. Nước này sử dụng chúng như các cơ chế để mở rộng các cơ hội
về kinh tế (đặc biệt là để có được sự ưu tiên tiếp cận đối với các thị trường, đầu tư,
55
và tài nguyên thiên nhiên của quốc gia khác) để ổn định và định hình môi trường
an ninh khu vực của Trung Quốc, làm giảm sức ép từ bên ngoài đối với Trung
Quốc, và để nâng cao uy tín quốc tế của quốc gia này như một cường quốc có trách
nhiệm. Quan trọng là Bắc Kinh sử dụng các cấu trúc ngoại giao này để tạo ra các
lợi thế giao kèo trong các tương tác song phương của mình. Những mối hợp tác đó
giúp cho Trung Quốc có thể xác định được các tiêu chuẩn hợp tác mà các đối tác
phải đáp ứng được; điều này làm tăng khả năng đòi hỏi bên đàm phán phải đáp ứng
các mục tiêu của Trung Quốc.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng đã khởi động các “cuộc đối
thoại chiến lược” với nhiều trong số các quốc gia này; điều này càng khẳng định
những nỗ lực của Trung Quốc nhằm tăng cường quan hệ chính trị để tạo ra ảnh
hưởng và lợi thế. Các cuộc đàm thoại này thường diễn ra ở cấp độ Phó Ngoại
trưởng, và các chủ đề thường bao quát rộng rãi các vấn đề về an ninh như kiểm
soát vũ trang, giải trừ vũ khí hủy diệt hàng loạt, các thách thức an ninh phi truyền
thống, và các tranh chấp lâu năm về lãnh thổ.
Bảng 5.4
Diễn Trung Quốc được Quố Xây Mốc sự tập quân sự công nhận như là một nền c gia dựng quan hệ kiện chung kinh tế thị trường
Những quốc gia đang phát triển
Braz quan hệ 1996. Tháng 11/2004
il đối tác chiến Giang Trạch
lược lâu dài và Dân đi thăm
ổn định
2003 Mex
quan hệ ico Tháng 11/2004
56
đối tác chiến 2005. Hồ
Arge lược toàn Cẩm Đào đi
ntina diện thăm
Tháng 12/2004
quan hệ 2005. Hồ
Ven đối tác chiến Cẩm Đào đi Diễn
ezuela lược toàn diện thăm tập tìm
kiếm cứu
quan hệ 2005. Ôn hộ 2003,
India đối tác chiến Gia Bảo đi 2005.
lược toàn diện thăm Hợp
tác diễn tập
chống quan hệ
khủng bố đối tác chiến
Kaza lược và hợp tác 2005. Hồ 2007 2008 Tháng 9/2004
khstan vì hòa bình và Cẩm Đào đi
thịnh vượng thăm Hợp
tác diễn tập
chống Tháng 6/2004
Indo 2005. Hồ khủng bố
nesia quan hệ Cẩm Đào đi với bang
đối tác chiến thăm SCO 2003
lược toàn diện
2004. Nam
Trương Thanh Phi
57
quan hệ Hồng đi thăm. Tháng 12/2004
đối tác chiến Mở rộng
lược toàn diện thêm vào tháng
6/2006
Tháng 11/2006
Nige quan hệ
ria đối tác chiến 2005
lược Tổng thống
Obasanjo thăm Tháng 11/2004
Trung Quốc
Alge
ria 2004 Hồ
Cẩm Đào thăm
quan hệ Algeria
đối tác chiến
Việt lược Diễn
Nam 2008 tập tuần tra
Tổng bí thư trên Vịnh
Nông Đức bắc bộ
Mạnh thăm 2007
Trung Quốc
quan hệ
đối tác chiến
lược
58
quan hệ
đối tác hợp tác
chiến lược và
toàn diện
Khu vực và tổ chức đa quốc gia
Benin,
Châ quan hệ Cộng hòa dân
u Phi đối tác chiến 2000. Diễn chủ Công Gô,
lược phát triển đàn hợp tác Trung Djibouti,
bền vững trong Quốc và châu phi tổ Nigeria, Togo,
thế kỷ 21 chức lần đầu tiên ở Nam Phi và
Bắc Kinh Suriname
Châ
u Âu
2003.Hội nghị
thượng đỉnh cấp cao Không
quan hệ lần 6 giữa Trung có.
đối tác chiến Quốc và Châu Âu
lược toàn diện
Đôn
2003. Hội nghị g Nam Á
thưởng đỉnh cấp cao 10 nước
59
Asean + 1 tại Bali - Đông Nam Á
Indonesia công nhận
quan hệ Trung Quốc có
đối tác chiến nền kinh tế thị
lược vì hòa trường vào
bình và thịnh tháng 9/2004
vượng
Với các nước đối tác (hoặc các nhóm) cho phép Trung Quốc đặt giới hạn,
nội dung cũng như bước đầu của sự cam kết, trật tự này giải thích sự đa dạng
không bị gò bó của các nhà nước, các nhóm quốc gia, và các tổ chức đa phương
mà với nó Trung Quốc đang xác lập như những đối tác chiến lược.
Những đối tác chiến lược này có ý nghĩa lớn và đa dạng, Trung Quốc nhấn
mạnh vài chủ đề, bao gồm những cơ hội cho sự phát triển kinh tế chung, kết quả
của thương mại và đầu tư; sự phối hợp trong các vấn đề quốc tế, điều này có ý
nghĩa đưa ra các quan điểm chính sách đối ngoại, như tại Liên Hiệp Quốc; sự hợp
tác trên các vấn đề an ninh phi truyền thống; nâng cao ảnh hưởng của các tổ chức
đa phương; sự tán thành chung của các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc và quy tắc
của luật trong các mối quan hệ quốc tế; và Trung Quốc thúc đẩy khái niệm của
mình là “dân chủ và công bằng trong các quan hệ quốc tế”.
Trung Quốc cũng có nhiều hơn mục tiêu đặc biệt trong việc theo đuổi các
đối tác này. Nước này dùng họ như phương tiện để mở rộng các cơ hội kinh tế (đặc
biệt là đạt được sự ưu đãi trong việc thâm nhập thị trường nội địa, đầu tư và nguồn
tài nguyên thiên nhiên của các nước này), để hình thành và ổn đinh môi trường an
ninh vùng của Trung Quốc, làm giảm sức ép bên ngoài lên Trung Quốc, và ủng hộ
danh tiếng quốc tế của họ như một nước lớn có trách nhiệm. Quan trọng là, Bắc
60
Kinh dùng những cơ cấu ngoại giao này để tạo ra ảnh hưởng trong thỏa thuận, đàm
phán song phương. Các quan hệ đối tác như thế cho phép Trung Quốc đặt ra các
tiêu chuẩn hợp tác mà họ yêu cầu phải chấp nhận; điều này làm tăng khả năng của
Trung Quốc nhằm vận động các bên đối thoại chấp nhận mục tiêu của họ.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng đã đề xướng các cuộc “đối
thoại chiến lược” với các quốc gia này; đây là dấu hiệu nữa cho thấy Trung Quốc
đang nỗ lực làm sâu sắc thêm các mối quan hệ chính trị nhằm tạo thêm ảnh hưởng.
Các cuộc đối thoại này thường xuất hiện ở cấp đại diện hoặc Thứ trưởng Bộ Ngoại
giao, và các chủ đề bao trùm là một loạt các vấn đề an ninh như hạn chế vũ trang,
giảm WMD, những thách thức an ninh phi truyền thống, và các tranh chấp lãnh thổ
lâu đời. Trung Quốc lần đầu tiên đã thiếp lập một kênh thông tin với Nga vào năm
1996 tiếp theo một cuộc họp thượng đỉnh, nhưng nó đã không dẫn tới cái gọi là
“đối thoại chiến lược” cho đến những năm gần đây. Một hình mẫu nổi bật với Pháp
trong cuối những năm 1990. Vào năm 2005, Trung Quốc sắp xếp các cuộc đối
thoại chiến lược cất cánh. Trong năm đó, Bắc Kinh tổ chức các phiên họp mở đầu
với Hòa Kỳ, Ấn Độ, Anh, Nhật Bản và Liên minh Châu Âu. Trong năm 2006,
cùng với cuộc họp thượng đỉnh đang diễn ra tại Bắc Kinh, Trung Quốc và Đức
cũng cam kết đề xướng một cuộc đối thoại chiến lược hàng năm.
Tùy các mức độ khác nhau mà Trung Quốc áp dụng mối quan hệ đối tác
chiến lược với các cường quốc, như Nga, Pháp, và Liên minh Châu Âu, để mở
rộng quan hệ kinh tế, tăng cường sự phát triển của các trung tâm quyền lực khác
trong hoạt động chính trị toàn cầu, và tìm kiếm sự ủng hộ cho viễn cảnh của một
trận tự thế giới đa cực của Trung Quốc. Những mối quan hệ với các cường quốc
này không có nghĩa là Trung Quốc muốn tạo ra một liên minh chống Mỹ để cân
bằng lại tầm ảnh hưởng của Mỹ. Tuy nhiên, các quan hệ đối tác này cho phép
Trung Quốc có nhiều lựa chọn hơn và giúp họ tăng cường một môi trường có thể
được sử dụng để ép buộc các hành động đơn phương của Mỹ, đặc biệt nếu những
61
hành động đó chạm đến các lợi ích của Trung Quốc. Trong chính sách ngoại giao
của Trung Quốc không công khai các yếu tố chống Mỹ, nhưng sự lo lắng của họ
với chủ nghĩa đơn phương của Mỹ là một nguyên nhân dẫn đến các mối quan hệ
đối tác chiến lược của Trung Quốc. Những chủ đề và động cơ này đã xuất hiện rõ
ràng vào năm 2003 trong Tuyên bố chung EU – Trung Quốc, nó đã đặt nền móng
cho mối quan hệ đối tác chiến lược trong một thời kỳ căng thẳng xuyên Đại Tây
Dương, cũng như trong Thông cáo chung Nga – Trung Quốc và tuyên bố của Tổ
chức hợp tác Thượng Hải vào tháng 7 năm 2005.
Các quan hệ đối tác chiến lược của Trung Quốc với các cường quốc này bị
giới hạn bởi hai lý do nó hạn chế khả năng của các nước này thành cơ chế hữu hiệu
để cân bằng sức mạnh của Mỹ. Đầu tiên, lợi ích của Trung Quốc với tất cả các
cường quốc này, đặc biệt là Nga và Ấn Độ, tồn tại cả đồng thuận và chia rẽ trên
các vấn đề khác nhau và tới các mức độ khác nhau.
Điều đáng quan tâm sau đó là lịch sử chứng minh Trung Quốc không hề ủng
hộ hoặc ỷ lại vào đồng minh (ngay cả với mối quan hệ đôi bên bền vững nhất)
trong chiến lược ngoại giao của mình. Lịch sử Trung Quốc có thiên hướng độc lập
và không ỷ lại vào đồng minh gợi nên câu hỏi về giới hạn mà Trung Quốc có thể
hoặc sẽ dựa vào đồng minh trong thời điểm hiện tại. Mặc dù Trung Quốc đã từng
thành lập liên minh trong quá khứ (ví dụ, Liên minh Xô-Trung vào những năm
1950), Trung Quốc chưa bao giờ hoàn toàn dễ chịu trong mối quan hệ đó. Bắc
Kinh ưa tự quyền để tối đa hóa tính cơ động và khả năng gây ảnh hưởng của nó.
Quá trình dai dẳng của thiên hướng này là bằng chứng nó đã ăn sâu vào tầng lớp
chóp bu của Trung Quốc trong vấn đề an ninh và kinh tế. Điều này là hệ quả của
tính toàn cầu trong yêu cầu về an ninh quốc gia của Trung Quốc. Khuynh hướng
lịch sử của Trung Quốc càng được khẳng định vào 2001 khi Nga tách ra khỏi liên
kết chống lại nước Mỹ và quay lưng lại với Trung Quốc bằng việc nối lại mối quan
hệ với Mỹ, thậm chí trước cả sự kiện 11/ 9. Đặc biệt, Nga còn bỏ rơi Trung Quốc
62
trong việc phản đối Hệ thống Phòng thủ tên lửa của Mỹ. Những sự kiện này đã đưa
ra giả thuyết thứ ba về tầm giới hạn trong mối quan hệ chiến lược của Trung Quốc:
Phần lớn các thế lực đặt mối quan tâm vào quan hệ của họ với Mỹ hơn là với
Trung Quốc. Một số không sẵn sàng trong việc bỏ rơi mối liên kết với Mỹ để hợp
tác với Trung Quốc trong cố gắng kìm hãm Mỹ dù mặt trong hay mặt ngoài.
Chính sách quân sự
Chính sách quân sự giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động quốc tế của
Trung Quốc. Điểm mốc là năm 2004 khi Trung Quốc thể hiện trong báo cáo phòng
thủ của mình: Nâng chính sách quân sự lên tầm chiến lược trong nghệ thuật quản
lý của nó. Theo sau quyết định quan trọng này, hoạt động của Quân đội Giải phóng
Nhân dân Trung Hoa (PLA) kể từ đó phản ánh ngày một hiệu quả hơn trong các
mối quan hệ quân sự song phương và đa phương để mở rộng quan hệ chính trị với
các quốc gia lân cận ở Đông, Trung và Nam Á, cũng như Châu Phi và Nam Mỹ.
Trung Quốc rõ ràng đang sử dụng chính sách quân sự để mở rộng ảnh hưởng, bảo
đảm vị thế của mình ở Châu Á, bồi dưỡng kinh nghiệm và kiến thức cho quân đội
tinh nhuệ, đồng thời định hướng để PLA trở thành bản sao nhận thức của Trung
Quốc.
Chương 6: Những hoạt động đối ngoại của Trung Quốc
Trung Quốc đã xây dựng và triển khai nhiều chính sách hiệu quả hướng ra
bên ngoài nhằm phục vụ cho những mục tiêu đối ngoại hàng đầu của nước này,
như đã đề cập rõ trong chương IV. Điều này được thể hiện rõ ràng trong nghệ thuật
quản lý theo chủ nghĩa tích cực và đa dạng của Nhà nước Trung Quốc: Trung
Quốc đã mở rộng một cách có hệ thống phạm vi và cải thiện chất lượng các mối
quan hệ song phương; nước này cũng thể hiện rõ sự thắt chặt quan hệ với các tổ
chức đa phương, ở nhiều khu vực và trên những vấn đề thiết thực; ngoại giao kinh
tế đa diện và vững mạnh; Bắc Kinh còn khéo léo hơn nữa trong việc hợp nhất
ngoại giao quân sự với những thay đổi trong chính sách đối ngoại. Trong chương
63
VI, nội dung và đặc điểm của những hoạt động chính sách này sẽ được phân tích rõ
dựa trên sự phản ánh của chúng trong ngoại giao của Trung Quốc với thế giới.
Cơ cấu chính sách cho quan hệ đối ngoại:
Trong thập kỷ cuối thế kỷ XX, Trung Quốc đã hoàn thành việc mở rộng
phạm vi, chiều sâu và chất lượng các mối quan hệ song phương, như một phần
trong nỗ lực hướng ra thế giới của nước này nhằm thúc đẩy ảnh hưởng hiện có,
đồng thời tạo ra ảnh hưởng mới. Đây là một khuynh hướng rõ ràng trong ngoại
giao của Trung Quốc và có vẻ sẽ tiếp tục được duy trì trong sự ưu tiên mang tính
truyền thống của Trung Quốc đối với các mối quan hệ song phương, thậm chí cả
trong bối cảnh chủ nghĩa đa phương đang được sử dụng ngày một rộng rãi hơn.
Những mối quan hệ song phương mà Trung Quốc thiết lập đều tuân theo
nguyên tắc thể hiện cách các nhà lãnh đạo Trung Quốc xếp hạng và đánh giá
chúng. Các quan chức và nhà học giả Trung Quốc thường trích dẫn nguyên tắc chỉ
đạo sau: "Nước lớn là chủ chốt, các nước láng giềng là hàng đầu, các nước đang
phát triển là nền tảng”. Những năm gần đây, Trung Quốc đã bổ sung thêm một
nhân tố thứ tư vào nguyên tắc nói trên: "Ngoại giao đa phương là sân khấu". Như
một biểu hiện cho tính xác đáng của những ý tưởng, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm
Đào thậm chí còn đề cập đến những nhân tố này trong Báo cáo tại Đại hội Đảng
lần thứ 17 của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2007. (1) Các quan chức và học
giả Trung Quốc thường đề cập đến cụm bốn nhân tố này như bốn cột trụ chính của
chính sách đối ngoại Trung Quốc.
Việc áp dụng nguyên tắc nói trên trong hành xử đối ngoại thực tế của Trung
Quốc lại không thật sự hòa hợp. Các học giả Trung Quốc hiện vẫn còn tranh cãi về
mức độ ảnh hưởng của nguyên tắc: Bao nhiêu là đủ? Nó có thể ảnh hưởng thế nào
và thực tế đã ảnh hưởng bao nhiêu đến việc thi hành chính sách trong thực tế. Rõ
ràng là, sự ưu tiên tương đối trong quan hệ giữa hai đối tượng "các nước lớn" và
"các nước láng giềng" thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào nhà lãnh đạo.
64
Nhiều nhà phân tích Trung Quốc cho rằng Trung Quốc nên tập trung hết sức vào
các quốc gia láng giềng, nhằm đảm bảo môi trường an ninh và ổn định trong khu
vực. Các nhà phân tích cũng cho rằng Trung Quốc không nên quá coi trọng quan
hệ với các nước lớn và tình trạng đi cùng với những mối quan hệ này. Trên thực tế,
trong năm 2009, quan điểm này dường như chiếm ưu thế hơn trong quá trình triển
khai chính sách của Trung Quốc. Nhiều người khác lại cho rằng những chính sách
như thế không thể dựa vào các mối quan hệ giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ, Nga,
Nhật, châu Âu – những mối quan hệ được xem là một phần quan trọng giúp đảm
bảo môi trường khu vực ổn định cũng như góp phần thiết lập sự ổn định và thịnh
vượng toàn cầu. Theo quan điểm này, duy trì mối quan hệ ổn định và thân thiết với
các nước lớn là cần thiết, nhưng không phải là nhân tố quyết định hoàn toàn đến
thành công trong sự vươn lên của Trung Quốc, không rõ ràng như mục tiêu của các
nhà hoạch định chính sách Trung Quốc.
Áp lực giữa hai đối tượng ưu tiên (ví dụ căng thẳng giữa các nước lớn trên
thế giới với các nước lớn trong khu vực) đòi hỏi Trung Quốc phải triển khai hoạt
động giữ cân bằng liên tục và cách Trung Quốc xử lý áp lực kể trên sẽ lý giải cụ
thể những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của những nhà lãnh đạo Trung Quốc
tại thời điểm hiện tại và cả trong tương lai. Một số người Trung Quốc vẫn cho rằng
lý do Tổng Bí thư Giang Trạch Dân ưu tiên củng cố quan hệ với các cường quốc là
bởi những ưu tiên mang tính cá nhân trong quan hệ với lãnh đạo các cường quốc.
Các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, ngược lại, có chính
sách cân bằng và thực dụng hơn trong quan hệ với các nước lớn: chỉ chú trọng đến
quan hệ với các nước này khi cần thiết, trong khi tập trung nhiều hơn đến ngoại
giao khu vực nhằm ổn định ngoại biên Trung Quốc và nâng cao sự ảnh hưởng với
các nước đang phát triển. Mối quan hệ của Trung Quốc với mỗi nhóm nước: các
cường quốc, các nước láng giềng và nước đang phát triển sẽ được phân tích ngay
sau đây.
65
Quan hệ với các cường quốc
Từ đầu thập kỷ 90, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã kết hợp 3 nguyên tắc
chỉ đạo sau trong quan hệ với các nước lớn: "không đồng minh, không đối đầu, và
không trực tiếp chống lại bất kì bên thứ ba nào". Về cơ bản, những nguyên tắc này
thể hiện cách tiếp cận chung của các nhà lãnh đạo với việc quản lý các mối quan hệ
với nước lớn. Những nguyên tắc này được cho là phương tiện ý nghĩa và có liên
quan bởi chúng được các cán bộ ở Trung Quốc sử dụng để trao đổi về những mục
tiêu của nhà lãnh đạo. Sẽ là sai lầm nếu chỉ xem những nguyên tắc này hoàn toàn
đơn thuần chỉ để tuyên truyền. Nhìn một cách khái quát, chúng hoàn toàn phù hợp
với cách thức tương tác của Trung Quốc với các nước lớn, nhưng những nguyên
tắc này lại không phản ánh được sự phức tạp và tinh tế trong mối quan hệ của
Trung Quốc với Hoa Kỳ, Nga và một số nước khác. Quan hệ về kinh tế đóng một
vai trò chủ chốt và liên tục trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước lớn, đặc
biệt là với Hoa Kỳ, Nhật Bản và Liên minh châu Âu. Về phía Trung Quốc, có một
lôgic kinh tế phù hợp với những quan hệ này, là chìa khóa để hiểu những chính
sách của Trung Quốc với các quốc gia nói trên: Trung Quốc xây dựng và thắt chặt
quan hệ với các nước lớn để đảm bảo có thể tiếp cận thị trường, vốn đầu tư và công
nghệ từ những nước này. Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản đã và đang là
đối tác kinh tế và nhà đầu tư hàng đầu của Trung Quốc từ 30 năm trở lại đây. Tuy
nhiên, những tuyên bố và hành động hướng đến các nước lớn của Trung Quốc đều
chỉ dựa một phần vào ba nguyên tắc nói trên. Mặc dù Trung Quốc không xây dựng
bất cứ mối quan hệ đồng minh nào, việc nước này cố gắng thu hẹp ảnh hưởng toàn
cầu của Hoa Kỳ và hạn chế những cố gắng của Liên minh Nhật – Mỹ nhằm thu hẹp
ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực Châu Á đã rất rõ ràng, dù không công
khai thể hiện đối đầu với Hoa Kỳ hay Nhật Bản (như một đặc điểm ngoại giao của
nước này), nhưng thực sự là sự cạnh tranh tồn tại (với nhiều mức độ mạnh yếu
khác nhau).
66
HOA KỲ
Quan hệ Mỹ – Trung có sự khác biệt rõ rệt về động lực so với quan hệ của
Trung Quốc với những cường quốc khác. Từ khi bình thường hóa quan hệ, Trung
Quốc đã đặt quan hệ Mỹ – Trung ở vị trí quan trọng trong hầu hết các chính sách
đối ngoại. Những nhà hoạch định chính sách nước này có truyền thống xem quan
hệ Mỹ – Trung như mối quan hệ quan trọng nhất với Trung Quốc. Lý do đầu tiên
là do Hoa Kỳ được xem như nguồn cung cấp thương mại đầu tư, và công nghệ. Lý
do thứ hai là bởi nước này tin rằng nếu mối quan hệ này suy giảm, "giai đoạn của
cơ hội chiến lược" của Trung Quốc để vươn lên phát triển cao hơn sẽ bị gián đoạn.
Với Trung Quốc, mối quan hệ Mỹ – Trung thật sự khác biệt so với quan hệ
với các cường quốc khác bởi chúng bao gồm một loạt các đấu tranh và hợp tác –
trên cả lĩnh vực an ninh và kinh tế. Tại những thời điểm cụ thể, những nhân tố hợp
tác và đấu tranh trong mối quan hệ này đều khá mạnh mẽ; nỗ lực chung của
Washington và Bắc Kinh nhằm hạn chế chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc
Triều Tiên chồng chéo với những bất đồng ngày càng gia tăng về cách thức đối
phó với chương trình hạt nhân của Iran và cách giải quyết những bất đồng còn tồn
đọng trong quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước.
Những khía cạnh hợp tác và đối đầu đan xen xung đột lẫn nhau tạo nên
những đặc điểm cấu trúc của quan hệ Mỹ - Trung. Một mặt, quan hệ song phương
ổn định quan trọng với lợi ích kinh tế và an ninh của cả hai nước; xung đột công
khai có thể sẽ khiến cả hai phải trả giá. Mặt khác, Bắc Kinh luôn cảm thấy bị ưu
thế toàn cầu và một số mặt trong chính sách Mỹ – Á đe dọa; Washington cũng lo
ngại không kém về sức mạnh kinh tế và quân sự đang lên của Trung Quốc. Các
nhà lãnh đạo Mỹ băn khoăn đặc biệt về những dự định tương lai của Trung Quốc.
Khả năng xung đột vũ trang với Đài Loan có ảnh hưởng đến các nhà hoạch định
quân sự và các chương trình hiện đại hóa quân đội ở cả hai quốc gia; khả năng này,
cùng với tình trạng thiếu an ninh mà nó tạo ra có thể hạn chế mặt hợp tác giữa hai
67
nước. Bạo lực tiếp nối sẽ dẫn đến nguy cơ quân sự hóa ở khía cạnh đối đầu trong
quan hệ Trung – Mỹ.
Đối phó với thực tế phức tạp này, các nhà hoạch định chính sách đã sử dụng
quy tắc "kiếm tìm nền tảng chung trong những khác biệt vốn có" để mô tả quan hệ
Mỹ – Trung và xác định rõ những phức tạp trong mối quan hệ này bằng một cách
tinh vi. Hiện tại, các lãnh đạo của cả hai nước đều không đề cập đến mối quan hệ
song phương này như một mối "quan hệ đối tác chiến lược", đặc biệt là về phía
Mỹ. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ và Trung Quốc thường ưu tiên sử
dụng các tính từ như tích cực, có tính xây dựng, hợp tác, thẳng thắn và toàn diện
khi đề cập đến mối quan hệ song phương này.
Tình huống nói trên ảnh hưởng thế nào đến những chính sách về Hoa Kỳ của
Trung Quốc? Điều này được chứng minh trong những chính sách của Trung Quốc
hướng đến việc tìm kiếm mở rộng cơ hội hợp tác (nhằm tránh gia tăng đối đầu trực
tiếp) và nhằm hạn chế Hoa Kỳ mọi lúc có thể. Hai mục tiêu này phản ánh một phần
nguyên tắc chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc với quan hệ Trung – Mỹ: "tăng
tín nhiệm, giảm phiền phức, tăng cường hợp tác không đối địch". Chỉ đạo chiến
lược này được ông Đặng Tiểu Bình đưa ra đầu tiên từ đầu những năm 1990, được
Tổng Bí thư Giang Trạch Dân thường xuyên nhắc lại, tồn tại cho đến ngày nay,
mặc dù thường được nhắc đến một cách chính thức với cách diễn đạt "phát triển
hợp tác, không đối kháng lẫn nhau". Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng nguyên tắc
này với những cụm từ chính thức khác như một nguyên tắc hàng đầu cho các chính
sách hướng đến Hoa Kỳ của nước này.
Việc hoạch định những chính sách liên quan đến Mỹ vào những năm 2000
thể hiện một cách tiếp cận kép. Trung Quốc sử dụng sự kiện 11/9 và những thay
đổi lớn trong các ưu tiên an ninh quốc gia của Hoa Kỳ như một cơ hội thiết lập
những mối quan hệ vững chắc hơn. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đã
đưa ra những tín hiệu rõ ràng bày tỏ việc không muốn trở thành đối tượng trong
68
chiến lược của Mỹ. Kể từ đó, nước này bắt đầu nỗ lực hơn nữa mở rộng hợp tác
song phương trên một vài lĩnh vực chính. Các nhà hoạch định chính sách và các
nhà phân tích Trung Quốc thường xuyên nhấn mạnh hợp tác có hiệu quả cao giữa
hai nước Trung – Mỹ trên mặt trận chống khủng bố và phổ biến vũ khí hạt nhân
toàn cầu, bất kể ở phạm vi hay nội dung hợp tác an ninh nào. Họ nhấn mạnh sự
hợp tác này như một nền tảng mới cho sự ổn định trong quan hệ song phương giữa
hai nước.
Do những lợi ích khu vực và toàn cầu đa dạng, thực tế Trung Quốc đã tăng
cường hơn hợp tác với Mỹ trong các vấn đề an ninh phi truyền thống. Những
chương trình nghị sự giữa hai nước về vấn đề phổ biến vũ khí hạt nhân cũng được
tiến hành thường xuyên trong thập kỷ trước, đồng thời cũng mở rộng thêm nhiều
lĩnh vực hợp tác mới như chống dịch bệnh, ma túy, nạn buôn người và chống kiểu
tội phạm có tổ chức. Theo những đánh giá của chính phủ Mỹ, Trung Quốc đã tỏ ra
rất đắc lực trong nhiều vấn đề toàn cầu, bao gồm cả vấn đề hạt nhân của Bắc Triều
Tiên và Iran; tái thiết kinh tế chính trị ở Iraq và Afghanistan; tham gia vào chiến
dịch gìn giữ hòa bình của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ở các nước như Li
Băng, Mianma và Xu đăng, chủ động hỗ trợ những chương trình về an ninh năng
lượng và sức khỏe toàn cầu. Tuy nhiên, Mỹ vẫn mong đợi rất nhiều điều khác từ
Trung Quốc.
Cũng có một khía cạnh đối đầu trong chính sách Hoa Kỳ của Trung Quốc:
chống lại những nỗ lực hạn chế khả năng và ảnh hưởng của Trung Quốc ra châu Á
và toàn cầu
Bắc Kinh vẫn nỗ lực tạo nên những hoàn cảnh mà chính sách Hoa Kỳ không
thể chặn đứng hay cản trở những mục tiêu chính sách đối ngoại cao nhất của Trung
Quốc trong tương lai gần và mục đích cuối cùng là trở lại thời kỳ hoàng kim khi
còn là một cường quốc. Trung Quốc cũng muốn tham gia vào quyết định những
vấn đề chính có ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế chính trị của nước này. Một mặt,
69
điều này rõ ràng đòi hỏi (chủ yếu ở châu Á) những cách thức nhằm kiềm chế Mỹ
và để hạn chế sự tự do hành động của Mỹ trong khu vực, đặc biệt với những nỗ lực
của Mỹ nhằm đảm bảo hỗ trợ khu vực trong khi theo đuổi xung đột vũ trang ở Đài
Loan. Trung Quốc cố gắng tạo dựng một môi trường khu vực có tính nhạy cảm cao
với những lợi ích và tham vọng của nước này. Mặt khác, Trung Quốc cũng cố gắng
để đạt được mục đích nói trên bằng cách đối đầu với Mỹ một cách không quá trơ
tráo và công khai. Theo cách thể hiện của những nỗ lực của Trung Quốc nhằm cân
bằng các mục tiêu đối kháng, các nhà chiến lược nước này tranh cãi rằng Trung
Quốc có thể đạt đến vị trí bá chủ nhưng sẽ không hành động kiểu bá chủ. Sự phân
biệt rõ này cho phép các nhà hoạch định chính sách và các nhà phân tích nước này
có thể cân bằng sự cần thiết của việc ổn định quan hệ Trung – Mỹ với những lo
lắng về ưu thế vượt trội của Mỹ và việc Washington hoàn toàn đơn phương sử
dụng sức mạnh này, điều mà rất nhiều người Trung Quốc lo sợ có thể sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến Trung Quốc trong tương lai.
Trung Quốc đã cố gắng thực hiện những mục tiêu kép này bằng những nỗ
lực ở nhiều cấp độ, cả khu vực và toàn cầu, nhằm làm giảm khả năng Hoa Kỳ gây
áp lực lên nước này, đồng thời tạo ra không gian và ảnh hưởng rộng hơn cho Trung
Quốc. Vào cuối thập niên 1990, trong nỗ lực nhằm thiếp lập lại vấn đề an ninh khu
vực, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã lôi kéo được nhiều nước Đông Á khác dứt
bỏ quan hệ đồng minh và hợp tác an ninh với Hoa Kỳ. Nỗ lực này đã phản ánh một
phần "khái niệm an ninh mới" mà Trung Quốc tuyên bố. Khái niệm này được đưa
ra lần đầu vào năm 1997, đề xuất một tầm nhìn thay thế cho hệ thống an ninh ở
châu Á dựa vào quan hệ đồng minh với Mỹ theo kiểu "trục và nan hoa". Tuy nhiên,
nỗ lực này vẫn không thực sự suôn sẻ bởi một vài đồng minh và đối tác an ninh
của Mỹ dù đã chấp nhận những đề nghị từ phía Trung Quốc, vẫn ưu tiên sự đáng
tin cậy của những thỏa thuận an ninh với Hoa Kỳ hơn. Nhiều hoạt động gần đây
của Trung Quốc nhằm đảm bảo an ninh ngoại biên đã được đưa ra trong ngoại giao
70
khu vực này của châu Á; hầu hết các hoạt động của Trung Quốc ở Đông Á đều tập
trung vào việc trấn an các nước trong khu vực, tăng cường vai trò của nước này
trong các tổ chức khu vực và hỗ trợ cho vị thế của Trung Quốc so với Đài Loan.
Những nỗ lực này nhằm thiết lập một môi trường an ninh khu vực trong đó, Trung
Quốc được đảm bảo vị thế đứng đầu và các quốc gia khác quan tâm nhiều hơn đến
các quan điểm của nước này.
Ở ngoài phạm vi châu Á, những nỗ lực của Trung Quốc nhằm kìm chế sức
mạnh của Hoa Kỳ được thể hiện trong những kêu gọi "dân chủ trong quan hệ quốc
tế" của nước này, cụm từ có thể xem là đối chọi với ưu thế vượt trội hiển nhiên của
Mỹ. Từ giữa thập kỷ 90, Trung Quốc đã cố gắng mở rộng quan hệ với Nga như
một đối trọng mới với sức mạnh Hoa Kỳ và nhằm kiềm chế Mỹ trong những hội
nghị toàn cầu như Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Nỗ lực này cũng được thể hiện một phần bởi vị thế đối nghịch của Trung
Quốc trong các vấn đề mở rộng NATO, tăng cường quan hệ đồng minh Mỹ – Nhật,
những hoạt động quân sự của NATO tại Kosovo và những chính sách về phòng thủ
tên lửa của Mỹ.
Cuối cùng, Trung Quốc dường như đang nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào Hoa
Kỳ về cả kinh tế và chính trị. Đây là một xu hướng dài hạn.
Nhờ việc tăng cường các hoạt động có tính toàn cầu và ảnh hưởng của mình
lên các tổ chức đa phương, sự giàu có, an ninh và vị thế của Trung Quốc ngày càng
nâng cao.
Việc giảm sự phụ thuộc về cả kinh tế và chính trị vào Hoa Kỳ được thể hiện
trong sự thắt chặt quan hệ của Trung Quốc với Nga và Liên minh Châu Âu trong
thập kỷ qua; sự phát triển quan hệ của Bắc Kinh với các nước Châu Phi, Mỹ La
tinh và Trung Đông; và cả những hoạt động của nước này trong khuôn khổ Liên
Hợp Quốc.
71
Tuy nhiên, hậu quả của xu hướng này là sự ảnh hưởng của nó làm giảm khả
năng duy trì liên tục quan hệ song phương ổn định với Hoa Kỳ mà Trung Quốc
theo đuổi trong mục tiêu đối ngoại. Bởi vậy, Trung Quốc có thể sẽ sẵn sàng hơn để
thử thách và chống lại áp lực của Hoa Kỳ nhằm thay đổi cách cư xử của nước này
trong các vấn đề còn tranh cãi.
NHẬT BẢN
Trong quan hệ với các nước lớn, có thể nói mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Nhật Bản có nhiều điều chỉnh sâu sắc nhất. Về phía Trung Quốc, mối quan hệ
Trung Quốc – Nhật Bản chuyển từ mối quan hệ ràng buộc ổn định, hữu nghị và
hợp tác phát triển kinh tế của những năm 1980 và 1990, sang mối quan hệ mang
tính chất tương tác kinh tế lớn hơn, tăng cường tình trạng đối đầu, tình hình bất ổn
chung và cạnh tranh quyền lực khu vực. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ này, chính sách
của Trung Quốc với Nhật Bản cũng như chính sách của Nhật Bản với Trung Quốc
đã bắt đầu tập trung xây dựng mối quan hệ song phương ổn định hơn. Ở Trung
Quốc, chính sách tân tiến này vấp phải sự phản đối gay gắt bởi quan điểm về mối
quan hệ đi xuống mạnh mẽ giữa Trung Quốc và Nhật Bản, nỗi lo sợ về những
người theo trường phái chống Nhật trong cộng đồng Trung Hoa, và mối lo ngại
tương tự về những người bài Trung Quốc ở Nhật Bản.
Lịch sử cho thấy rằng, trong chính sách Nhật bản của Trung Quốc phần lớn
có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế, và chính sự liên kết chặt chẽ này tạo nên mối
quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản hàng thập kỷ qua. Trong suốt những năm 50, 60,
70, Nhật Bản chưa từng tuyệt giao thương mại với Trung Quốc cho dù hai bên
không thiết lập quan hệ ngoại giao cho tới tận năm 1972. Khi Trung Quốc bước
vào thời kỳ cải tổ, Nhật Bản trở thành đối tác thương mại quan trọng, nguồn đầu tư
trực tiếp, và có lẽ quan trọng nhất là viện trợ phát triển nước ngoài với hình thức
trợ cấp thường xuyên và cho vay viện trợ. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng là
nguồn cung cấp thiết bị nhà máy, chuyên gia và công nghệ quan trọng trong những
72
ngành trọng tâm trong sự nghiệp hiện đại hóa công nghiệp của Trung Quốc như
sản xuất điện thoại, đóng tàu và điện dân dụng.
Những năm 80 và 90, khi lòng thù hận của người dân Trung Quốc đối với
lịch sử Hoàng đế Nhật Bản và chủ nghĩa quốc gia chống Nhật lắng xuống, không
còn là nhân tố chính cản trở mối quan hệ song phương giữa hai nước, các nhà lãnh
đạo Trung Quốc tìm cách hạn chế quan điểm này. Mặc dù Trung Quốc và các hãng
truyền thông tỏ ra hồ nghi mục đích của Nhật Bản cũng như lo ngại sâu sắc Nhật
Bản sẽ tái vũ trang quân sự, nhưng trong mối quan hệ song phương giữa hai nước
hầu như không có sự cạnh tranh về an ninh. Trong hai thập niên đầu tiến trình cải
tổ của Trung Quốc, cả Trung Quốc và Nhật Bản đều hạn chế mục tiêu quốc tế, tập
trung mạnh mẽ thúc đẩy sự ổn định và phát triển kinh tế khu vực. Tranh chấp lãnh
thổ và vấn đề lịch sử kéo dài từ trước đến nay đã được giải quyết trong khuôn khổ
lợi ích hai nước và hợp tác kinh tế trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi.
Cuối những năm 90, mối quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản bắt đầu trở nên
ngày một căng thẳng, cạnh tranh và bất ổn định. Cả hai quốc gia đều bắt đầu đặt ra
những lợi ích bên ngoài rộng lớn hơn cùng với hiện đại hóa quân đội. Điều này
làm thay đổi quan niệm về mối đe dọa Bắc Kinh và Tokyo. Các nhà lãnh đạo
Trung Quốc bắt đầu nói về sự nổi lên của Trung Quốc ở Châu Á, Trung Quốc ngày
càng trở nên năng động hơn trong các vấn đề an ninh khu vực. Chính sách đối
ngoại của Trung Quốc cũng bắt đầu ngờ vực những giá trị hạn chế trong liên minh
Mỹ – Nhật vì quân đội Nhật Bản sẽ tham gia vào quân đội Mỹ – dẫn đầu hợp tác
quân sự toàn cầu và phát triển khả năng phòng thủ cùng Mỹ. Các nhà lãnh đạo
Nhật Bản cũng tìm kiếm cho mình vai trò quan trọng hơn trong các vấn đề an ninh
khu vực và toàn cầu, với sự hỗ trợ khuyến khích nắm lấy trọng trách lớn hơn của
Mỹ. Với kinh tế và thương mại lớn mạnh, Trung Quốc cũng tìm kiếm cho mình vai
trò lãnh đạo khu vực trong vấn đề kinh tế – một vai trò có sức bao phủ rộng lớn và
được Nhật Bản thúc đẩy một cách cẩn trọng. Xu hướng đối xứng này làm gia tăng
73
sự cạnh tranh trong vai trò lãnh đạo khu vực giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Kết
quả là hiện tại, chính sách Nhật Bản của Trung Quốc và ngoại giao khu vực rộng
rãi hơn đang là vấn đề được quan tâm của Trung Quốc trong việc duy trì vị trí
quyền lực của mình ở Đông Á liên quan tới Nhật Bản.
Sự linh hoạt trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc và Nhật Bản nhấn
mạnh vào sự cạnh tranh đang nổi lên này và xây dựng nên tính hay thay đổi của
nó. Những thay đổi nội tại về chính trị của cả hai quốc gia tạo ra không gian, cơ
hội cho những tiếng nói bài Trung Quốc ở Nhật Bản và bài Nhật Bản ở Trung
Quốc khẳng định lẫn nhau. Không giống như trước kia, những ý kiến công luận bắt
đầu đóng vai trò lớn hơn trong sự hoạch định chính sách của cả hai nước với nhau.
Tại Trung Quốc có nhiều tranh cãi về hướng đi của chính sách Nhật Bản ở Trung
Quốc, xung quanh tầm quan trọng của vấn đề lịch sử giữa hai nước. Vì bối cảnh
trong nước thay đổi, vấn đề tranh chấp lãnh thổ lịch sử và vấn đề lịch sử kéo dài đã
từng giữ vị trí trung tâm, nhấn mạnh cảm giác về cuộc chạy đua nổi lên về sự nổi
trội trong khu vực. Trong một vài trường hợp, sự năng động trong nước hạn chế
khả năng lãnh đạo chính trị tới mối quan hệ bình ổn giữa hai nước.
Ngược lại, trong suốt quá trình này, thương mại và đầu tư vẫn tiếp tục tăng
nhanh chóng. Giữa năm 1996 và 2006, thương mại Nhật Bản với Trung Quốc (bao
gồm cả Hồng Kông) tăng đột biến đến 239%, trong khi thương mại toàn cầu tổng
thể của Nhật chỉ tăng 45% (bao gồm cả thương mại với Trung Quốc). Thương mại
Nhật – Mỹ chỉ tăng 12% trong cùng giai đoạn. Năm 2006, kim ngạch thương mại
của Nhật – Trung chiếm 17% kim ngạch thương mại thế giới, bao gồm 14% xuất
khẩu và 21 % nhập khẩu. Điểm khác biệt với thương mại của Nhật Bản với Mỹ là
thương mại của Nhật Bản với Trung Quốc cân bằng và bổ sung cao. Xuất khẩu
tăng, thúc đẩy sự hồi phục tạm thời của kinh tế Nhật từ suy thoái thập kỉ vào giai
đoạn 2005 – 2008, đây không phải là một hậu quả được nhận thấy ở Bắc Kinh.
74
Xu hướng tưởng chừng như mâu thuẫn này có cảnh báo gì cho sự tiếp cận
của Trung Quốc với Nhật Bản và mối quan hệ giữa hai nước không? Trung Quốc
chuyển biến từ vị trí duy trì không điều kiện mối quan hệ tích cực với Nhật Bản
(để tích lũy kinh tế) đến vị trí một mà Bắc Kinh vẫn tiếp tục tìm kiếm thương mại
và duy trì đầu tư nhưng luôn sẵn sàng khẳng định mình khi vấn đề lịch sử và lãnh
thổ giữa hai nước có những bất đồng. Trung Quốc ít phụ thuộc về kinh tế với Nhật
Bản, tự tin hơn vào sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng khu vực của mình, thận trọng
hơn với mục tiêu của Nhật Bản. Trung Quốc mở chiến dịch ngăn cản nỗ lực của
Nhật Bản gia nhập Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc. Nhật Bản triển khai tàu hải
quân ở biển Đông Trung Hoa tuần tra quyền khai thác mỏ tài nguyên hydrocacbon
đang bị tranh chấp (như mỏ ga Chunxiao) và xúc tiến khoan dầu ở khu vực còn gây
nhiều tranh cãi này. Trong mối quan hệ song phương, Trung Quốc sẵn sàng khẳng
định mình và tăng cường vị trí của Nhật Bản trong lợi ích của mình.
Tuy nhiên vẫn có nhiều định hướng cho sự tiếp cận của Trung Quốc, mối
quan hệ của Trung Quốc đang thay đổi một cách từ từ nhưng mang lại những kết
quả quan trọng. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra chiều hướng nguy cơ bất ổn
chính trị trong nước phát sinh đã giảm liên tục trong giai đoạn từ năm 2001 đến
năm 2005, áp đặt chi phí kinh tế và ngoại giao sắc bén. Kết quả là, từ năm 2006
các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã có những nỗ lực chính nhằm ổn định mối quan hệ
song phương này, cả Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đều đã tới thăm Nhật Bản và
tiếp đón chuyến viếng thăm đáp trả của Thủ tướng Fukuda, Abe và Aso. Ôn Gia
Bảo gửi bài diễn văn tới Nghị viện Nhật Bản vào tháng 5 năm 2007, bài diễn văn
nêu bật được những thành tựu của Nhật về chính trị và kinh tế từ sau Thế chiến thứ
2 và được công bố công khai trên cả hai nước. Bài diễn văn bày tỏ mong muốn của
Bắc Kinh muốn đẩy lùi những vấn đề lịch sử quá khứ. Cụ thể hơn, mặc dù đã có
tuyên bố hoàn chỉnh về vấn đề khí ga gần khu vực gây nhiều tranh cãi ở biển Đông
Trung Hoa, Trung Quốc vẫn cố gắng tiếp nhận toàn bộ các nhà sản xuất thay vì
75
đàm phán một khuôn khổ có định hướng giải quyết vấn đề tranh chấp. Các nhà
lãnh đạo Trung Quốc có thể sẽ bị chủ nghĩa quốc gia bài Nhật Bản lên án hơn
trước.
Một điều chưa phải là kết luận đã được dự báo trước là mối quan hệ giữa hai
nước thậm chí sẽ trở nên cạnh tranh và chuyển sang giai đoạn kình địch ngay lập
tức. Mở rộng mối quan hệ kinh tế song phương, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập
kinh tế ở Đông Á là lợi ích chung cơ bản của cả Bắc Kinh và Tokyo, kèm theo là
những lý do và động lực duy trì ổn định trong quan hệ hai nước. Quan trọng là Bắc
Kinh đã hạn chế những hành vi gây rắc rối có chủ đích của những phần tử phiến
động bài Nhật Bản (ví dụ nhóm khẳng định chủ quyền trong vấn đề đảo Diaoyu).
Bắc Kinh nhanh chóng bắt giữ những người đứng đầu đình công không chính thức
trong nhà máy Nhật Bản vào tháng 4 năm 2005 – những phần tử bài Nhật Bản gây
nhiễu loạn. Thêm nữa, Trung Quốc đẩy nhanh Hiệp ước Đầu tư ba bên với Nhật
Bản và Hàn Quốc – Hiệp ước Phát triển đầu tư khí hậu, bảo vệ cho các doanh
nghiệp của các nước này tại Trung Quốc. Trung Quốc cũng kí kết ủng hộ các cuộc
đối thoại ngoại giao ba bên giữa Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản vào năm 2007.
Giữa năm 2009, lãnh đạo hai bên đã cố gắng theo sát khuôn khổ ràng buộc
chính trị song phương nhằm duy trì sự ổn định trong sự cạnh tranh và lo sợ ngày
càng gia tăng ở cả hai nước. Cả hai bên vẫn đối mặt với những thách thức thực sự
như: tình trạng thù địch giữa hai quốc gia với phạm vi rộng vẫn lớn, các vấn đề
tranh chấp lãnh thổ phức tạp chưa được giải quyết đang tiến gần tới giải pháp, gắn
bó chặt chẽ tới sự cạnh tranh chung về khu vực, sự linh hoạt chính trị trong nước
làm xấu đi mối quan hệ cuối những năm 1990 đầu năm 2000 sẽ lại nổi lên dưới
chính quyền mới. Vì thế liệu rằng Bắc Kinh và Tokyo có thành công trong thiết lập
lại mối quan hệ ổn định lâu dài trong thời gian dài hay không tùy thuộc vào các
nhà lãnh đạo hai bên có tiếp tục nỗ lực ưu tiên hàng đầu và sẵn sàng mở rộng trọng
tâm chính trị cần thiết khi đối đầu với sự bùng nổ trong căng thẳng hay không.
76
LIÊN MINH CHÂU ÂU (EU)
Quan hệ giữa Trung Quốc với Liên minh Châu Âu và các nước thành viên
đã phát triển bền vững từ giữa thập kỉ 80 của thế kỉ trước. EU là thị trường lớn của
hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc cũng như là nguồn đầu tư, thiết bị sản xuất và
công nghệ hiện đại của nước này (bao gồm cả tiềm năng hiện đại hóa ngành quân
sự). Sau khi kết nạp thêm một số thành viên mới, năm 2004, EU đã trở thành đối
tác thương mại hàng đầu của Trung Quốc. Các quốc gia Châu Âu tiếp tục là nguồn
viện trợ phát triển quan trọng cho quốc gia này. Nhiều nhà lãnh đạo các nước Châu
Âu ủng hộ, hoặc ít nhất là tỏ ra ủng hộ, quan điểm của Trung Quốc về một trật tự
quốc tế đa cực nhưng mỗi quốc gia có lý do riêng cho sự ủng hộ này. Dù đạt được
những kết quả khác nhau nhưng trong suốt thập kỷ qua, Trung Quốc vẫn luôn tìm
kiếm nhiều hơn nữa trong mối quan hệ với với EU và các quốc gia thành viên.
Quan hệ Trung Quốc – EU đã trở nên ngày càng phức tạp và xuất hiện nhiều
bất đồng khi hai bên đều phát triển, đặc biệt là sự kỳ vọng vào nhau ngày càng
lớn. Sự tương tác về kinh tế đã đặt nền móng cho mối quan hệ hữu nghị và bền
vững giữa hai bên trong quá khứ, nay bị ảnh hưởng xấu do sự gia tăng mạnh và đa
dạng của những bất đồng liên quan đến thị trường, thâm hụt tài chính tăng nhanh
và chính sách kiểm soát tỷ giá hối đoái đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc. Các nhà
lãnh đạo EU đặc biệt chú ý tới những vấn đề trên do sức ép phát triển kinh tế từ
phía những người lao động. Các chính sách liên quan đến quyền con người của
Trung Quốc (như đối với vấn đề Tây Tạng) cũng như các thủ đoạn ngọai giao (như
viện trợ cho Châu Phi) trở thành vấn đề đáng chú ý nhất trong những cuộc tranh
luận công khai. Được ủng hộ bởi những quan điểm chính trị nội khối, các nhà lãnh
đạo EU hiện nay sẵn sàng hơn để đương đầu với Trung Quốc trong những vấn đề
trên và cả những bất đồng khác. Đối với cả Trung Quốc và EU, mối quan hệ với
Hoa Kỳ luôn hiện hữu rất lớn trong mối quan hệ giữa họ và thường xuyên làm
77
hỏng những nỗ lực của Trung Quốc trong việc gây ảnh hưởng đối với việc hoạch
định chính sách của EU.
Ba giai đoạn phát triển: Bắt đầu từ sự thiết lập quan hệ giữa Trung Quốc
và EU (Ủy ban Châu Âu – tiền thân của EU) năm 1975, mối quan hệ giữaTrung
Quốc và EU đã phát triển qua ba giai đoạn. Mỗi giai đoạn đều thể hiện các mục
tiêu, chính sách và những kết quả liên quan.
Trong suốt giai đoạn đầu tiên từ 1975 đến 1995, quan hệ Trung Quốc – EU
không những không phát triển tốt mà còn không được cả hai bên ưu tiên. Châu Âu
xếp Trung Quốc vào mối ưu tiên thứ hai hoặc thậm chí thứ ba và ít quan tâm đến
quốc gia này. Các lợi ích chung phát triển sau những thay đổi về chính sách và dẫn
tới các hoạt động thương mại trao đổi buôn bán mà rực rỡ nhất vào những năm
1980. Trung Quốc tập trung tiếp cận với những nguồn viện trợ phát triển của Châu
Âu, đầu tư kinh tế và chuyển giao công nghệ. Nhiều nhà hoạch định chính sách
Châu Âu theo đuổi mục đích nuôi dưỡng kinh tế Trung Quốc trở thành một thị
trường mới cho Châu Âu; họ cũng tin rằng sự phát triển sẽ dẫn tới cải tổ chính trị
và Trung Quốc sẽ hài lòng với những lợi ích đó. Với Trung Quốc, các quốc gia
Châu Âu là nguồn đầu tư quan trọng cùng với các thiết bị công nghệ cần thiết để
xây dựng hoặc phục hồi ngành công nghiệp trọng điểm như ngành sản xuất ô tô (ví
dụ như từ Volkswagen) , công nghiệp nặng và nhẹ (từ Siemens). Về phương diện
thương mại, các quốc gia Châu Âu mở rộng các cơ hội thương mại và đầu tư cũng
như khuyến khích Trung Quốc gia nhập WTO. Eu đã ban hành báo cáo chiến
lược đầu tiên với Trung Quốc năm 1995, 20 năm sau khi thiết lập quan hệ chính
thức. (Một số quốc gia thành viên chính của EU đã có quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc từ những năm 1950).
Giai đoạn thứ hai từ năm 1995 đến 2005 đã đánh dấu sự phát triển liên tục
và hiệu quả trong quan hệ Trung Quốc – EU. Trong giai đoạn 10 năm, thương mại
hàng hóa phát triển nhanh chóng, đặc biệt là sau khi Trung Quốc gia nhập WTO
78
năm 2001. Ủy ban Châu Âu đã ban hành bốn thông báo (vào năm 1995, 1998,
2000 và 2006) và hai báo cáo chiến lược (vào năm 2002 và 2007) trong quan hệ
với Trung Quốc. Viện trợ phát triển của Ủy ban Châu Âu cùng với viện trợ của các
nước thành viên chiếm tới hàng tỉ euro viện trợ của Trung Quốc. Ủy viên Chính trị
của Ủy ban Châu Âu ( cơ quan cao nhất chuyên trách các vấn đề chính trị của Liên
minh Châu Âu) đã chú trọng vào những vấn đề liên quan đến Trung Quốc như:
chậm phát triển, nhân quyền, chính sách năng lượng và thay đổi khí hậu. Số ủy
viên của Ủy ban tăng lên để kết thúc 27 “cuộc đối thoại khu vực” và kết quả là sự
tương tác của Ủy ban và các quốc gia thành viên ủng hộ Trung Quốc theo đó mà
tăng lên.
Trung Quốc đã có những nỗ lực đặc biệt vào đầu những năm 2000 để mở
rộng quan hệ với EU. Họ đã thấy khả năng có thể xảy ra tình trạng căng thẳng
xuyên Đại Tây Dương ( đặc biệt là sau chiến tranh Iraq năm 2001) và mục đích để
lợi dụng lỗ hổng rõ ràng này. Năm 2003, một số sự kiện khác thường đã diễn ra.
Trung Quốc ban hành chính sách đầu tiên về quan hệ với EU: bổ nhiệm bộ trưởng
chuyên trách về quan hệ với EU; Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào đã tổ hội nghị hàng
năm lần đầu tiên giữa Trung Quốc và EU. Tại hội nghị Trung Quốc và EU đã thiết
lập “ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” và Trung Quốc đã bắt đầu thúc đẩy EU
gỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại quân sự với Trung Quốc từ năm 1989.
Giai đoạn thứ ba, giai đoạn xấu đi giữa EU và Trung Quốc bắt đầu từ năm
2005 đến nay và kéo dài cho đến nay. Nó đánh dấu bởi sự kết thúc của giai đoạn
quan hệ tốt đẹp ngay trước đó và sự trở lại của một số bất đồng về các vấn đề ngoại
giao và kinh tế chưa được giải quyết. Năm 2005, hiệp định Multi-Fiber hết hạn và
EU lại đưa ra hạn ngạch nhập khẩu cho hàng dệt may của Trung Quốc để ngăn
chặn dòng chảy mạnh của nghành hàng này vào EU. Cách giải quyết của vấn đề
căng thẳng này đòi hỏi đàm phán thương mại đối đầu liên tục giữa hai bên EU và
Trung Quốc. Cũng trong năm 2005, nỗ lực của Trung Quốc trong việc thúc đẩy EU
79
gỡ bỏ cấm vận quân sự trở nên vô cùng mạnh mẽ nhưng cuối cùng cũng bị thất bại.
Dựa vào sự ủng hộ của Pháp và Đức, Trung Quốc gặp phải sự chống đối mạnh mẽ
từ Hoa Kì, một số nước ở Scandinavi và Đông Âu thậm chí cả Vương quốc Anh.
Những căng thẳng này đã chuẩn bị cho một loạt những bất đồng về chính
sách kinh tế tiếp theo về việc thâm nhập thị trường, đồng tiền giá trị thấp của
Trung Quốc, thâm hụt thương mại ngày càng tăng và tiêu chuẩn an toàn thấp của
các mặt hàng thức ăn Trung Quốc. Chính trị gia Đảng Lao động Anh Peter
Mandelson đã thành Cao ủy viên chuyên trách vấn đề thương mại của EU vào năm
2005 và đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra một phương pháp quyết đoán hơn
trong đàm phán với Trung Quốc. Ví dụ như, trong suốt hội nghị Trung Quốc – EU
tháng 11 năm 2007, ông và những ủy viên khác đã sử dụng những lời lẽ mạnh mẽ
và đối đầu công khai với Trung Quốc về rất nhiều vấn đề trong quan hệ kinh tế
EU- Trung Quốc. Thông cáo hội nghị năm 2007 được ban hành bốn ngày sau khi
kết thúc hội nghị đã chỉ trích Trung Quốc trong các vấn đề như là ở Tây Tạng cũng
như chỉ ra hơn nữa những khó khăn xung quanh việc đàm phán. Vào cuối năm
2008, Trung Quốc đã lợi dụng cuộc họp mặt song phương giữa cựu Bộ trưởng Liên
minh châu Âu Nicholas Sarkozy với Dalai Latma để trì hoãn hội nghị hàng năm
giữa EU và Trung Quốc. Các sự kiện liên tiếp đã buộc các nhà hoạch định chính
sách Bắc Kinh và Brussels phải nhận ra những hạn chế trong quan hệ và sự nguy
hiểm của những kì vọng của Trung Quốc trong việc sử dụng EU để đối chọi với
Hoa Kì. Kết quả là Trung Quốc đã thay đổi chiến lược đối với châu Âu, bắt đầu tập
trung vào mối quan hệ song phương với từng quốc gia thành viên hơn là với EU.
Điều này cho phép Trung Quốc quay trở lại chính sách “chia để trị”, lợi dụng sự
khác biệt giữa các quốc gia để làm lợi cho chương trình hành động và các lợi ích
của Trung Quốc.
Giải thích động cơ của Trung Quốc:
80
Khá nhiều lí do giải thích sự phát triển này của Trung Quốc trong mối quan
hệ Trung Quốc – EU và cách thức tiếp cận với Châu Âu. Kinh tế đã dẫn dắt mối
quan hệ này và điều khiển, thúc đẩy nó. Quan hệ này sẽ tiếp tục phát triển như vậy
ngay cả giữa những mối bất đồng ngày càng lớn. Giống như Hòa Kì, Châu Âu trở
thành thị trường ngày càng lớn và quan trọng của hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc.
Châu Âu với 27 thành viên là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Năm
2007, đối tác thương mại EU quan trọng nhất của Trung Quốc lần lượt là Đức, Hà
Lan, Anh, Pháp và Ý. Là một khối, các quốc gia Châu Âu cung cấp cho Trung
Quốc một lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hơn là Hoa Kỳ. Những nguồn
viện trợ FDI từ Châu Âu cao nhất của Trung Quốc lần lượt là Đức, Hà Lan, Anh,
Pháp và Ý. Các quốc gia Châu Âu duy trì nguồn chuyển giao công nghệ quan trọng
cho Trung Quốc. Ví dụ Đức là nhà cung cấp máy móc thiết bị lớn nhất cho Trung
Quốc, theo sau là Nhật Bản. Nhưng vẫn còn một số hạn chế trong quan hệ hợp tác
kinh tế này. Ví dụ, Trung Quốc đã cố gắng nhưg hoàn toàn thất bại trong việc thúc
đẩy EU công nhận “tình trạng kinh tế thị trường” ở Trung Quốc theo các nguyên
tắc của WTO. Trung Quốc tìm kiếm điều này bởi nó cho phép hàng hóa Trung
Quốc dễ dàng đi vào thị trường Châu Âu bằng các đạo luật chống bán phá giá và
đền bù. Châu Âu có công nhận tình trạng này ở Trung Quốc hay không và như thế
nào (trước hạn định trên lí thuyết của hiệp định Trung Quốc gia nhập WTO) sẽ là
yếu tố chủ chốt dẫn đầu mối quan hệ này.
Thành phần chắc chắn của sự tương tác kinh tế giữa EU và Trung Quốc là
nguồn viện trợ của EU để giúp Trung Quốc giải quyết những thách thức trong quá
trình phát triển. EU và các quốc gia thành viên đã cung cấp cho chính phủ cũng
như các tổ chức phi chính phủ của Trung Quốc nguồn viện trợ về công nghệ và tài
chính lớn. Trong nhiều năm, chương trình viện trợ của EU đã tập trung vào phát
triển cơ sở hạ tầng và nông thôn Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 2002, chương trình
viện trợ chuyển tập trung vào cải cách kinh tế xã hội, phát triển môi trường, quản
81
trị công và hệ thống pháp luật. Trong Báo cáo chiến lược về Trung Quốc của EU
trước đó, từ 2000 đến 2006, Ủy ban Châu Âu sẽ cung cấp viện trợ 250 triệu Euro;
và trong Báo cáo chiến lược về Trung Quốc gần đây, EU viện trợ 225 triệu Euro
cho Trung Quốc trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 7 năm.
Quan điểm của Trung Quốc về địa vị chính trị thế giới của các nước Châu
Âu đã mở rộng đáng kể từ những năm 1980 và nó thay đổi kỳ vọng của Trung
Quốc trong hợp tác ngoại giao với EU. Trung Quốc hầu như không nhắc đến quá
khứ thực dân và đế quốc của Anh, Pháp và Đức trên các phương tiện thông tin
cũng như các phân tích và nghiên cứu học thuật. Mặc dù Trung Quốc vẫn duy trì
sự nghi ngờ về NATO (đặc biệt là sự mở rộng của tổ chức này) nhưng trong thời kì
Hoa Kỳ lãnh đạo NATO thì những điều này đã che đậy sự nghi ngờ của Trung
Quốc trong cùng bối cảnh khi mà quốc gia này bất đồng, phản đối xu hướng đơn
cực hoặc bá chủ của Mỹ.
Kết quả là với Trung Quốc, các quốc gia Châu Âu là một sự hấp dẫn đặc biệt
vì họ không thể hiện sự ngờ vực hoặc sợ hãi trước mục đích của Trung Quốc như
là đối với Hoa Kỳ. Trong khi các nhà phân tích Trung Quốc tin rằng Hoa Kỳ muốn
kìm hãm sự phát triển của Trung Quốc thì các nhà hoạch định chính sách Châu Âu
lại muốn khuyến khích và thúc đẩy Trung Quốc phát triển bền vững. Theo quan
điểm của Trung Quốc, các quốc gia Châu Âu cũng không tán thành chương trình
đẩy mạnh dân chủ mạnh mẽ hay mở rộng lợi ích an ninh ở Châu Á, chính những
điều đó đã tạo nên sự nghi ngờ sâu sắc trong mối quan hệ Mỹ và Trung Quốc. Một
số thành viên EU nhận thức thật rõ ràng về tình trạng nhận quyền ở Trung Quốc và
vấn đề Tây Tạng nhưng đó chỉ là những khó chịu nhất thời chứ không phải là rào
cản cố định trong việc thúc đẩy quan hệ.
Vì những lí do trên nhiều người Trung Quốc tin rằng mối quan hệ Trung
Quốc – EU xét về chiến lược ít cạnh tranh hơn mối quan hệ Trung – Mỹ. Quan hệ
với các nước Châu Âu tạo cho Bắc Kinh cơ hội tương đối tốt với phương Tây, bao
82
gồm cả Mỹ. Đối với Bắc Kinh, phát triển quan hệ thân thiết với Châu Âu là một
phần trong nỗ lực đa dạng hóa các nguồn phát triển kinh tế, an ninh và tính hợp
pháp quốc tế.
Số lượng và chất lượng của quan hệ ngoại giao Trung Quốc – EU đã phát
triển phù hợp từ cuối những năm 1990, phản ánh ưu tiên rõ ràng của Trung Quốc.
Theo một nghiên cứu của Mỹ về ngoại giao Trung Quốc, Châu Âu là khu vực được
các Chủ tịch nước và Thủ tướng Trung Quốc viếng thăm nhiều nhất từ năm 2000
đến năm 2005. Trong năm 2002 và 2004, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc đã
giành thời gian đi thăm Châu Âu nhiều hơn tất cả các khu vực khác. Chủ tịch Hồ
Cẩm Đào đã có chuyến công du nước ngoài đầu tiên tới Anh sau khi trở thành chủ
tịch nước năm 2003; tới tận năm 2006 ông mới có chuyến thăm đầu tiên tới Mỹ.
Trung Quốc và Liên minh Châu Âu đã tổ chức các hội nghị hàng năm nơi mà họ
cam kết về các vấn đề kinh tế, phát triển an ninh và quân sự song ít khi đi vào chi
tiết. Trung Quốc và các quốc gia Châu Âu cũng trao đổi qua lại trong khuôn khổ
những hội nghị cấp cao Châu Âu – Châu Á giữa những người đứng đầu nhà nước
được tổ chức hai năm một lần.
Nỗ lực không thành công của Trung Quốc trong việc thuyết phục EU bãi bỏ
lệnh cấm vận quân sự với nước này năm 1989 thể hiện những thiếu sót trong nhận
thức của Bắc Kinh về lợi ích của các quốc gia Châu Âu; và cũng dạy cho Bắc Kinh
bài học quan trọng về ranh giới của mối quan hệ này. Bắt đầu vào những năm
2003, các quan chức cao cấp của Trung Quốc bắt đầu thúc đẩy các đối tác ở Châu
Âu cân nhắc về việc bãi bỏ lệnh cấm này trong trao đổi thương mại với Trung
Quốc về phòng thủ. Trung Quốc đã rõ ràng là rất nỗ lực trong việc đẩy mạnh căng
thẳng trong mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương sau chiến tranh Iraq. Dựa vào các
nhà lãnh đạo Pháp và (cụ thể là Jacques Chirac và Gerhard Schroeder), các nhà
hoạch định chính sách Trung Quốc biện luận rằng lệnh cấm vận đó là một “hàng
rào tượng trưng” trong quan hệ ngày càng phát triển giữa Trung Quốc – EU và chỉ
83
ra những yêu cầu của Trung Quốc trong mục tiêu vào năm 2003 – năm quan hệ
đối tác chiến lược toàn diện Trung Quốc – EU. Trung Quốc đã sử dụng mục tiêu
sau để thúc đẩy sự tiến bộ dựa trên mục tiêu trước đó và thường được coi là mục
đích hợp tác chiến lược của Trung Quốc. Sự phản đối mạnh mẽ của Hoa Kỳ trong
việc bãi bỏ lệnh cấm vận cùng với sự bất đồng giữa các nước thành viên rút cục đã
làm chệch hướng những nỗ lực của Trung Quốc vào nửa sau năm 2005. Sau viêc
Trung Quốc thông qua đạo luật chống li khai đầu năm 2005 (đạo luật đã hợp pháp
hóa việc Trung Quốc sử dụng quân sự chống lại Đài Loan, giữa các mục đích
khác), sự phản đối của EU chống lại việc bãi bỏ lệnh cấm vận thực sự phát triển và
duy trì đến tận bây giờ. Mặc dù các nhà hoạch định chính sách Chấu Âu vẫn ám
chỉ việc bãi bỏ, cấm vận như là mục tiêu cuối cùng, các ý kiến phản đối tiếp tục tồn
tại giữa phần đông các quốc gia thành viên EU – cả cũ và mới.
Đối với Trung Quốc, việc thất bại của những nỗ lực trên đã ghi nhận một số
bài học: Mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương ngày càng sâu sắc và mở rộng ngay cả
trong suốt giai đoạn bất đồng mạnh mẽ; khả năng của Trung Quốc trong việc gây
ảnh hưởng ở Châu Âu vẫn còn bị hạn chế đặc biệt là trong vấn đề liên quan tới
quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Trung Quốc không thể chỉ dựa vào Đức và Pháp
trong khi Liên minh Châu Âu có tới 27 thành viên; Châu Âu và các quốc gia của
nó phải luôn đề phòng bị lôi kéo vào những nỗ lực chủ động, ngấm ngầm hoặc
công khai của Trung Quốc để kiềm chế Hoa Kỳ. Hoa Kỳ tiếp tục gây ảnh hưởng
mạnh mẽ với những nhà hoạch định chính sách Châu Âu trong các vấn đề liên
quan đến Trung Quốc.
Dễ dàng nhận thấy trong quan hệ của Trung Quốc với Ủy ban và Hội đồng
Châu Âu, Bắc Kinh có những nỗ lực thích hợp để mở rộng quan hệ với những
quốc gia thành viên chính. Nước này đã đạt được quan hệ đối tác chiến lược song
phương với một số quốc gia chính ở Châu Âu bao gồm Pháp, Đức, Ý, Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha và Anh. Trung Quốc cũng triệu tập “những cuộc đối thoại chiến
84
lược” và thảo luận về an ninh với Anh, Pháp, Ý, Đức và Ba Lan. Những cuộc thảo
luận này nhìn chung là tập trung vào một số vấn đề như kiểm soát và cắt giảm vũ
trang, đánh giá môi trường an ninh quốc tế, nhân quyền và các quy tắc pháp luật.
Năm 2007, Trung Quốc đã tổ chức cuộc đối thoại kinh tế cấp cao với Anh và EU,
theo mô hình đối thoại với Mỹ từ năm 2005, ngoại giao song phương với các quốc
gia Châu Âu đã trở thành điểm nổi bật trong chiến lược Châu Âu của quốc gia này
và nó được duy trì cho đến bây giờ. Trung Quốc nản chí trước những trao đổi bất
thành với EU ở Brussels và nhận ra rằng nên thúc đẩy hợp tác song phương, bao
gồm tất cả các quốc gia thành viên.
Sau khi cân nhăc kĩ, Bắc Kinh không coi EU hoặc các quốc gia riêng biệt là
một nhân tố quan trọng trong vấn đề toàn cầu hay an ninh Châu Á, ngoại trừ Anh
và Pháp do vị trí thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc của hai
quốc gia này. Bắc Kinh mong muốn các quốc gia Châu Âu đứng ngoài vấn đề Đài
Loan. Trung Quốc đã từng nổi giận với những dính líu của EU tại Đài Loan, như
trong suốt cuộc đàm phán bất đồng của thông cáo cuối cùng trong Hội nghị EU –
Trung Quốc năm 2007. Kết quả là mặc dù các cuộc đối thoại an ninh và phòng thủ
của Trung Quốc với các quốc gia Châu Âu ngày càng tăng về số lượng nhưng
không có nội dung cụ thể. Bắc Kinh coi những tác động này là một cách để định
hình nhận thức với EU cũng như tạo ra một lỗ hổng đối với chính sách và quan
điểm của Hoa Kỳ. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc tiếp tục tranh luận
về việc quan hệ hợp tác thực tế này sẽ có kết quả như thế nào. Về vấn đề Trung
Quốc nghĩ rằng các nước Châu Âu trở thành các nhà lãnh đạo thế giới, như là viện
trợ cho Châu Phi và các nước kém phát triển, Trung Quốc muốn Châu Âu chú ý và
coi trọng mình hơn nữa.
Thậm chí khi Trung Quốc có quan hệ ngoại giao với các nước EU chính, sự
phối hợp các chính sách riêng biệt vẫn bị hạn chế. Trong giai đoạn cầm quyền của
ông Chirac, Bắc Kinh có mối quan hệ ngoại giao thân thiết nhất với Pháp. Bắc
85
Kinh và Pari đều bất mãn với những nỗ lực của chính quyền sử dụng các hành
động đơn phương phá vỡ thể chế quốc tế. Thậm chí trong hoàn cảnh này, sự hợp
tác quan trọng này cũng rất mong manh. Pháp không sẵn sàng đối đầu với Mỹ như
Trung Quốc, ví dụ như với chính sách Iraq của Mỹ năm 2002 và 2003. Tổng thống
Pháp Nicholas Sarkozy và chính phủ của ông không tán thành quan hệ thân thiết và
hợp tác với Trung Quốc của ông Chirac. Một loạt những cuộc tranh luận song
phương về sự tham dự của ông Sarkozy trong lễ khai mạc Thế vận hội Olympic
Bắc Kinh năm 2008 và chính sách về Tây Tạng của Pháp đã thúc đẩy những chia
rẽ này vào năm 2008.
Một số quốc gia Châu Âu, đặc biệt là các nước Scandinavi, vẫn duy trì chỉ
trích vấn đề nhân quyền của Trung Quốc. Trong nhiều năm, các quốc gia Châu Âu
vẫn không sẵn sàng ủng hộ việc Mỹ chỉ trích những hàng động về nhân quyền của
Trung Quốc ở Liên Hợp Quốc. Nhiều nước Châu Âu đàm phán song phương với
Trung Quốc về vấn đề nhân quyền nhưng một số nước vẫn sẵn sàng đối đầu với
Trung Quốc về những chính sách khác. Tuy nhiên, điều đó có thể thay đổi. Năm
2008, nhà lãnh đạo của Đức và Anh sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc trong chính
sách Tây Tạng bằng việc các nhà lãnh đạo quốc gia gặp gỡ với Dalai Lama dù đó
là những hoạt động không được sắp xếp trước. Đáng chú ý, Bắc Kinh mạnh mẽ chỉ
trích Thủ tướng Đức Angela Merkel và quan hệ hai nước bị xấu đi tạm thời trong
vòng một năm sau cuộc gặp của Merkel với Dalai Lama tháng 9 năm 2007. Vào
đầu năm 2008, một số nhà lãnh đạo Châu Âu – nổi bật nhất là ông Sarkozy của
Pháp – đã công khai đặt điều điều kiện sự có mặt của họ tại lễ khai mạc Olympic
Bắc Kinh năm 2008 với sự thay đổi chính sách của Trung Quốc với Tây Tạng.
Như đã nói ở trên, Trung Quốc đã hoãn Hội nghị Trung Quốc – EU tháng 12 năm
2008 ngay sau cuộc gặp của Sarkozy với Dalai Lama.
Mối quan hệ mật thiết trong lịch sử của Trung Quốc với các nước Đông Âu (
như Cộng hòa Séc, Anbani, Romania và Hungary) đã bị xấu đi đáng kể khi phần
86
lớn số họ có thân thiết hơn với Mỹ, gia nhập NATO và ủng hộ Mỹ trong những
vấn đề đối thoại an ninh như cấm vận quân sự Trung Quốc và chính sách phòng
thủ tên lửa của Mỹ. Đặc biệt nhất, năm 2006, Albani – quốc gia bạn bè lâu năm
trong suốt giai đoạn chiến tranh lạnh – đã công nhận một số nhóm người Duy Ngô
Nhĩ Hồi giáo Trung Quốc vừa thoát từ nhà tù khủng bố Guantanamo. Bắc Kinh đã
thất bại trong việc ép buộc Washington trao trả những người này để Trung Quốc
tiếp tục xét xử. Hầu hết các nước Đông Âu có mối quan hệ thương mại và kinh tế
tương đối nhỏ với Trung Quốc mặc dù hàng hóa tiêu dùng xuất khẩu của Trung
Quốc vào thị trường này tăng ngày càng nhanh.
Ngoại giao quân sự của Trung Quốc với các quốc gia Châu Âu mở rộng cả
về số lượng và chất lượng từ năm 2000. Động thái này phần nào được thúc đẩy bởi
sự đổi mới của PLA và nhu cầu tăng cao của PLA. Trao đổi về mặt quân sự với
Châu Âu có giá trị đặc biệt với PLA vì họ có triển vọng học tập học thuyết chủ
nghĩa, chương trình rèn luyện, chiến thuật, các thủ tục cũng như cơ chế hoạt động
của NATO. Những hoạt động này bao gồm cả các cuộc thảo luận về chính sách ở
cấp cao với trao đổi đào tạo và rèn luyện chuyên nghiệp. Một số quốc gia Châu Âu
như Pháp và Anh đã thực hiện những chương trình quân sự căn bản và theo
chương trình có sẵn với PLA, chủ yếu tập trung an ninh hàng hải (ví dụ như cứ hộ
và tìm kiếm trên biển). Vì Trung Quốc tiếp tục hiện dịa hóa công nghiệp quốc
phòng và nhu cầu của PLA về hệ thống vũ khí hiện đại ngày càng cao, ngành công
nghiệp quốc phòng Châu Âu tiếp tục giúp đỡ. Không quá lâu để tìm kiếm việc
buôn bán hệ thống vũ khí toàn diện, PLA và ngành quân sự Trung Quốc đã coi các
công ty của Châu Âu như nguồn tiềm năng của các công nghệ và hệ thống vũ khí
hiện đại phục vụ cho việc xây dựng hệ thống vũ khí thế hệ mới của Trung Quốc.
VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG
Ngoại giao với các nước láng giềng chiếm phần lớn các thời lượng các hoạt
động cũng như là yếu tố có nhiều đổi mới nhất trong hoạt động đối ngoại của
87
Trung Quốc. Quan hệ giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực đóng vai trò
cực kì quan trọng với cả 5 mục tiêu trong Chính Sách Đối Ngoại của nước này, đặc
biệt là mục tiêu hàng đầu là phát triển kinh tế. Nguồn gốc của chính sách đối ngoại
khu vực có từ đầu những năm 1990, ngay sau khi xảy ra sự kiện Thiên An Môn
khiến cho Trung Quốc phải tìm cách khôi phục lại địa vị quốc tế. Từ thời điểm đó,
Trung Quốc đã dần mở rộng phạm vi và nội dung của chính sách đối ngoại khu
vực và từ đó đã phát triển quan hệ với phần lớn các quốc gia ở Đông, Nam và
Trung Á. Trung Quốc cũng đã cải thiện đáng kể chiều sâu của các mối quan hệ
giữa Trung Quốc với các nước trong khu vực Châu Á. Tuy nhiên điều đó cũng
không có nghĩa rằng Trung Quốc đã hoàn toàn đạt được thành công trong việc phát
triển quan hệ với mọi quốc gia ở Châu Á hay nói một cách khác là nước này đã gạt
bỏ ý đồ ảnh hưởng về mặt chính trị lên những nước này. Những nghi ngờ về sự
phát triển kinh tế, quân sự của Trung Quốc và ý đồ vươn lên của nước này luôn
thường trực trong suy nghĩ của các nước láng giếng với Trung Quốc khiến quan hệ
giữa các nước láng giếng với Bắc Kinh luôn ở trong trạng thái dò xét.
ĐÔNG Á
Trong toàn bộ châu Á, khu vực Đông Á là trọng tâm trong việc mở rộng
quan hệ của Trung Quốc. Nguyên nhân là để thực hiện một loạt các mục tiêu: mở
rộng sự thâm nhập và đầu tư của Trung Quốc vào các thị trường khu vực, đảm bảo
các quốc gia trong khu vực hiểu rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không đe dọa họ
cả về mặt kinh tế lẫn quân sự, tìm kiếm tài nguyên thiên nhiên và công nghệ phục
vụ cho sự phát triển kinh tế và ngăn cản các nỗ lực của Mĩ và đồng minh hạn chế
ảnh hưởng về mặt kinh tế, ngoại giao và quân sự của Trung Quốc. Chính sách
ngoại giao khu vực Đông Á của Trung Quốc đã giành được sự ưu tiên hàng đầu
trong chiến lược toàn cầu của nước này trong thập kỉ vừa qua.
Bắt đầu từ đầu những năm 1990, tiếp theo sự kiện Thiên An Môn, Trung
Quốc đã thúc đẩy một hệ thống các chiến lược và chính sách nhằm liên kết chặt
88
chẽ hơn với các nước ở Đông Á. Nỗ lực này đã liên tục được duy trì và mở rộng
trong suốt thập kỉ 90 của thế kỷ XX và tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay. Đầu tiên,
Trung Quốc lựa chọn chính sách “ngoại giao láng giềng thân thiện và hữu nghị”
nhằm tìm kiếm sự ủng hộ dành cho Trung Quốc trong thời điểm mà nước này
tương đối bị cô lập trên trường quốc tế. Để thực hiện chính sách này, vào đầu
những năm 1990, Trung Quốc đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao chính thức với
một loạt nước ở khu vực Đông Á (đặc biệt là ở Đông Nam Á) nhằm bắt đầu quá
trình phá vỡ thế bị cô lập một cách tương đối. Trung Quốc đã bắt đầu tham gia một
số tổ chức quốc tế như Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
(APEC). Từ năm 2000, ngoại giao khu vực đã có sự đổi mới và được nâng tầm với
việc thay đổi chiến lược thành “chiến lược ngoại giao khu vực mở rộng”. Tính toán
của Trung Quốc trong việc quan hệ với khu vực Đông Á trong những năm đầu thế
kỉ XXI có một cơ sở chính sách vững chắc và là chính sách duy nhất được thảo
luận và thông qua ở cấp lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc. Báo cáo chính trị của
Đại hội Đảng lần 16 đưa ra phương châm 8 điểm cho chính sách ngoại giao khu
vực của Trung Quốc là: “thân thiện vói láng giềng, coi láng giềng là bạn”. Theo
Đại sứ Vương Nghị, một trong những chuyên gia Châu Á hàng đầu của Bộ Ngoại
giao Trung Quốc thì đây là lần đầu tiên hợp tác khu vực được đề cập trong bản báo
cáo cao nhất của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Nhằm thực hiện phương châm này,
theo Đại sứ Vương Nghị, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau đó đã lựa chọn chính
sách cụ thể hơn là “hòa mục với láng giềng, đảm bảo an ninh cho láng giềng và
làm cho láng giềng giàu mạnh” nhằm đẩy mạnh hợp tác và phối hợp giữa Trung
Quốc và các nước láng giềng Châu Á. Biểu hiện cụ thể của các chính sách này
được liệt kê dưới đây: sự thay đổi của các phương châm chỉ đạo này sẽ chỉ ra định
hướng ngoại giao trong tương lai của Trung Quốc ở Đông Á.
Quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước Đông Á đã tăng nhanh trong
10 năm qua và là lĩnh vực dẫn đầu trong việc hợp tác của Trung Quốc với các nước
89
khu vực. Năm 2008, trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất hiện và có
sự sụt giảm đáng kể của thương mại toàn cầu thì một nửa tổng thương mại của
Trung Quốc là thương mại khu vực (được thúc đẩy bởi 1 mạng lưới thương mại
khu vực) và tỉ lệ này tăng đều hàng năm. Thương mại Trung Quốc – ASEAN tăng
từ 6 tỉ năm 1991 lên 202,5 tỉ USD năm 2007. Thương mại của Trung Quốc với các
nước Đông Nam Á tăng nhanh hơn thương mại của Mĩ với các nước trong khu
vực. Nhiều chuyên gia dự đoán rằng Trung Quốc sẽ trở thành đối tác thương mại
hàng đầu của ASEAN. Năm 2004, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại hàng
đầu của cả Nhật và Hàn Quốc. Năm 2007, nước này trở thành đối tác thương mại
số 1 của Australia, vượt trên cả Nhật Bản. Kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung
Quốc với các nước Đông Á đều tăng và ít gặp vấn đề rắc rối cũng như bền vững
hơn việc mất cân bằng cán cân thương mại với Mĩ và EU. Một trong những sáng
kiến mạnh mẽ nhất của Trung Quốc là việc khởi động Hiệp định Thương mại tự do
Trung Quốc – ASEAN dự định có hiệu lực vào năm 2010 và đến trước năm 2015
sẽ gỡ bỏ hoàn toàn các hàng rào thuế quan của các nước tham gia. Khi được thành
lập, một khu vực rộng lớn với 1,7 tỉ dân sẽ nằm trong phạm vi điều chỉnh của Hiệp
định này với GDP tổng cộng là 2 nghìn tỉ USD. Quá trình gỡ bỏ các hàng rào thuế
quan trong các nước tham gia hiệp định đã được bắt đầu từ cuối năm 2004 với việc
lựa chọn phương pháp “Gặt sớm”, nghĩa là kêu gọi giảm thuế quan trong một số
mặt hàng lương thực. Kim ngạch thương mại Trung Quốc – ASEAN được dự đoán
sẽ tăng lên 1,2 nghìn tỉ USD khi Hiệp định này có hiệu lực. Đây sẽ là thị trường
lớn thứ 3 thế giới sau Khu vực Tự do thương mại Bắc Mĩ và EU.
Bên cạnh thương mại, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc vào
khu vực ĐNÁ tăng trưởng đều đặn giống như tăng trưởng của đầu tư ra nước ngoài
của Trung Quốc trên toàn cầu. Theo số liệu của Trung Quốc, dòng vốn đầu tư của
Trung Quốc tăng từ 150 tỉ USD năm 2005 lên 970 tỉ USD năm 2007. Và tổng đầu
tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN tăng từ 1.2 tỉ USD lên 3.9 tỉ USD năm
90
2007. Đây là mức tăng trưởng rất ấn tượng nếu so sánh với FDI ra nước ngoài trên
phạm vi toàn cầu của Trung Quốc 10 năm trước. Năm 1996. Tổng đầu tư ra nước
ngoài của Trung Quốc là khoảng 300 triệu USD. Tuy nhiên, con số này là rất nhỏ
nếu so với đầu tư của Mĩ, Nhật và các nước thuộc EU. Năm 2006, đầu tư của
Trung Quốc vào ASEAN (theo số liệu của ASEAN) chỉ chiếm 1.8 % tổng mức đầu
tư của các nước vào khu vực này, trong khi Mĩ chiếm tới 7.4%, Nhật chiếm 20.6%
và các nước EU chiếm 25.5%.
Trung Quốc cũng mở rộng quan hệ tiểu khu vực với khu vực ĐNÁ lục địa.
Trung Quốc là thành viên tích cực của dự án phát triển Tiểu vùng sông Mekong
mở rộng (GMS). Dự án này nhằm thúc đẩy các hiệp định mới về quyền sử dụng
nguồn nước và các thỏa thuận về giao thông vận tải giữa các nước trong khu vực
này. Vấn đề sử dụng nguồn nước đã trở nên căng thẳng khi mà các tỉnh ở nam
Trung Quốc đã xem xét việc xây dựng các đập thủy điện trên các con sông mà hạ
lưu nằm ở ĐNÁ.
Kim ngạch thương mại tiểu ngạch và xuất nhập cư giữa Trung Quốc với Lào
và Myanmar có khối lượng rất lớn. Đặc biệt đáng kể là đầu tư của Trung Quốc vào
hệ thống hạ tầng giao thông ở những quốc gia này. Hệ thống giao thông đó giúp
Trung Quốc có khả năng tiếp cận thị trường ĐNÁ cũng như các cảng biển có giá
trị to lớn cả về mặt kinh tế lẫn chiến lược của khu. vực này.
Về các vấn đề an ninh và đối ngoại, Trung Quốc đã thực hiện một loạt bước
đi được tính toán kĩ nhằm liên kết toàn diện với các nước Đông Á với một tốc độ
ổn định và với cách thức mới. Đó là cách tiếp cận được phổ biến với tên gọi “tấn
công ngầm”. Trung Quốc đã thực hiện với 2 mục tiêu chính là: xoa dịu và chống
lại việc ngăn cản. Về cả phương diện song phương và đa phương, Trung Quốc đã
phát triển quan niệm về an ninh quốc gia không chi bao gồm an ninh quân sự
truyền thống mà bao gồm cả các vấn đề như ổn định kinh tế và phát triển quốc gia.
Những khái niệm được mở rộng này rất tương đồng với các nước ĐNÁ và giúp
91
Trung Quốc đảm bảo rằng, Trung Quốc chia sẻ quan điểm với các nước này về các
thách thức với an ninh quốc gia. Khái niệm này cũng khiến chính sách của Trung
Quốc đối lập với các mục tiêu của chính sách của Mĩ dưới thời tổng thống Bush là
chỉ tập trung vào chống khủng bố và đặt nặng mặt an ninh quân sự trong đảm bảo
an ninh quốc gia.
Việc Trung Quốc tham gia vào các cơ chế an ninh đa phương ở Đông Á là
biểu hiện của nhân tố nổi bật và lâu dài nhất của chính sách Đông Á và đã được
thay đổi so với những gì họ đã làm trong quá khứ. Vào đầu những năm 90, Trung
Quốc rất lo ngại những diễn đàn như vậy, cho rằng đó là những nơi để các nước sử
dụng nhằm chỉ trích và liên kết chống Trung Quốc. Hiện nay thì quan điểm của
Bắc Kinh là tham gia các diễn đàn này nhằm điều chỉnh các luật lệ quốc tế, phát
triển quan hệ với các nước láng giềng, xoa dịu những lo ngại về việc tăng cường
tiềm lực của Trung Quốc và hạn chế các nỗ lực của Mĩ nhằm hạn chế ảnh hưởng
của Trung Quốc.
Trung Quốc đã tham gia vào tất cả các tổ chức khu vực chính ở Đông Á
như Diễn đàn khu vực ASEAN, APEC, ASEAN+1, ASEAN+3, và Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á. Về Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, sau nhiều lần cân nhắc
Trung Quốc đã đồng ý để ASEAN đóng vai trò chủ trì cơ chế đa phương mới này
cho dù ban đầu Trung Quốc mong muốn đóng vai trò lãnh đạo. Vào năm 2006,
Trung Quốc đồng tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Trung Quốc tại miền
Nam nước này để kỉ niệm 15 năm thiết lập quan hệ và Tại hôi nghị, Thủ tướng Ôn
Gia Bảo đã phát biểu rằng Trung Quốc và ASEAN đã” cùng vượt qua những nghi
ngờ và phát triển việc đối thoại cũng như thúc đẩy sự tin tưởng song phương”.
“dẫn đến kết luận rằng quan hệ này đang ở mức tốt nhất trong lịch sử”
Những nỗ lực của Trung Quốc về vấn đề đảm bảo an ninh chủ yếu tập trung
vào giải quyết các cằng thẳng trong quá khứ với các nước ASEAN. Trung Quốc đã
giải quyết hàng loạt những tranh chấp biên giới và trì hoãn nghị quyết về các xung
92
đột lãnh thổ cả ở trên bộ và trên biển. Vào tháng 11 năm 2002, Trung Quốc đã kí
Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Nam Hoa nhằm ngăn chặn việc leo
thang các tranh chấp lãnh thổ cở khu vực quần đảo Trường Sa (Văn kiện này
không bao gồm quần đảo Hoàng Sa, vốn là lãnh thổ được cả Trung Quốc và VN
tuyên bố chủ quyền). Năm 2003, Bắc Kinh cũng kí Hiệp ước thân thiện và hợp tác
với ý nghĩa là đồng ý trên danh nghĩa việc sử dụng các nguyên tắc an ninh của
ASEAN nhằm dàn xếp một cách hòa bình các tranh chấp. Trung Quốc là nước nằm
ngoài ASEAN đầu tiên kí Hiệp ước này, tiếp sau là Ấn Độ. Cũng vào năm 2003,
Trung Quốc và ASEAN đã kí Tuyên bố chung về đối tác chiến lược nhằm thể hiện
cam kết của Trung Quốc trong việc hợp tác lâu dài trong giải quyết các vấn đề an
ninh trong khu vực. Trong một chừng mực nào đó thì những cam kết này đã được
thể hiện ở những hành động thực tế của Trung Quốc.
Trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên biển, năm 2004, Trung Quốc đã đồng
ý tham gia vào việc điều tra chung tài nguyên dưới biển với Philippines ở biển
Nam Hoa và tham gia chương trình nghiên cứu chung kéo dài 3 năm với Việt Nam
vào năm 2005. Bắc Kinh cũng đồng ý thực hiện những cuộc tuần tra chung trên
khu vực biển mà đã được phân giới như là khu vực Vịnh Bắc Bộ. Mục đích đằng
sau của những việc này của Trung Quốc hiện vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng.
Đó có thể là đưa VN và Philippines vào các cơ chế đàm phán song phương nhằm
giảm vai trò mục tiêu của ASEAN là đảm bảo rằng những tranh chấp lãnh thổ trên
biển phải được giải quyết bằng cơ chế đa phương. Trong khi tập hợp các nước
nhỏ với nhau có nhiều cơ hội hơn để đấu tranh với Bắc Kinh. Những tranh chấp
trên biển khác của Trung Quốc như là đảo Senkaku hay còn gọi là dảo Diaoyu và
vùng dự trữ khí thiên nhiên ở khu vực Đông Trung Quốc hiện còn xa mới đạt được
những thoả thuận cần thiết và thậm chí còn căng thẳng hơn trong những năm gần
đây.
93
Những điểm cuối cùng là về vấn đề tranh chấp quân sự. Trung Quốc là nước
ủng hộ việc thành lập một tổ chức có vai trò giải quyết các vấn đề an ninh ở ĐBÁ,
mà sau này trở thành đàm phán 6 bên nhằm giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc
Triều Tiên. Một nhóm làm việc về việc xây dựng cơ chế an ninh khu vực cho ĐBÁ
đã được thành lập trong khuôn khổ quá trình đàm phán 6 bên vào tháng 2 năm
2007.
Trung Quốc đã rất tích cực trong các vấn đề liên quan đến xây dựng các cơ
chế hợp tác ở khu vực. Trung Quốc đã ủng hộ mạnh mẽ việc tổ chức Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á như là bước đầu tiên nhằm xây dựng một Cộng đồng Đông Á.
Sự hăng hái ban đầu của Trung Quốc với Hội nghị này (dựa trên việc Bắc Kinh lên
tiếng ủng hộ mở rộng chủ nghĩa khu vực châu Á) bị dội một gáo nước lạnh khi mà
rất nhiều quốc gia ASEAN đã đòi hỏi quyền lợi của họ trong các kế hoạch của hội
nghị, giảm bớt ảnh hưởng tương đối của Trung Quốc trong việc định hình một thể
chế mới. Các quốc gia ĐNÁ đã phối hợp với Nhật Bản chọn địa điểm, lên chương
trình của hôi nghị, và mở rộng thành phần tham gia cho cả Ấn Độ, Australia và
New Zealand. Hội nghị thượng đỉnh lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lumpur
vào tháng 12 năm 2005 và diễn ra cùng lúc với Hội nghị bộ trưởng ASEAN +1 và
ASEAN +3.
Hơn thế nữa, Trung Quốc đã hết sức nỗ lực nhằm đẩy mạnh chính sách đối
tác chiến lược như 1 phần của việc thúc đẩy chất lượng của quan hệ song phương
trong khu vực. Mặc dù những hành động như vậy là chủ yếu mang tính hình thức,
nhưng là cơ sở của việc Trung Quốc nâng tầm đối thoại ngoại giao và an ninh với
các chủ thể ở khu vực và quan trọng hơn là việc xoa dịu lo ngại của các nước này.
Nội dung của đối tác chiến lược hiện nay bao gồm cả các chuyến viếng thăm cấp
cao (hay đối thoại chiến lược) về các chủ đề an ninh truyền thống và phi truyền
thống giữa các nhà ngoại giao và các nhà lãnh đạo cấp cao. Trung Quốc nhấn
mạnh vào việc giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống là trung tâm
94
trong việc xoa dịu với các nước láng giềng châu Á về một “mối đe dọa Trung
Quốc”, nhằm đối lập với chính sách đối ngoại của Mĩ và và tăng cường phạm vi
của hợp tác an ninh. Mục tiêu tổng quát của những nỗ lực này là nhằm nâng tầm sự
kêu gọi của Trung Quốc, mở rộng ảnh hưởng của nước này và giúp Trung Quốc
hội nhập sâu hơn vào các diễn đàn an ninh khu vực.
Cùng với những nỗ lực của Trung Quốc nhằm nâng cao chất lượng của các
mối quan hệ trong khu vực, Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) đã có
những bước quan hệ đối ngoại quân sự với các nước Đông Á láng giềng. Đây là
một trong những nỗ lực của Trung Quốc nhằm giải quyết các vấn đề trong khu vực
và đảm bảo với quân đội các nước châu Á rằng sự hiện đại hóa của PLA không đe
dọa an ninh của họ. Ví dụ như vào năm 2008, các nhà lãnh đạo của quân đội Trung
Quốc đã bắt đầu xoa dịu các người hàng xóm về kế hoạch triển khai tàu sân bay.
PLA cũng có xu hướng sử dụng những cuộc đối thoại nhằm tìm kiếm thông tin về
mối quan hệ giữa các nước này, đặc biệt là các nước đồng minh của Mĩ với quân
đội Mĩ, khi mà việc đào tạo và chuyển giao vũ khí với Mĩ là một phần rất quan
trọng trong hoạt động của quân đội các nước này.
Ngoại giao quân sự của Trung Quốc với các nước khu vực đã không ngừng
được đa dạng và nâng tầm Hiện tại, Trung Quốc có các cuộc trao đổi chuyến thăm
cấp cao với phần lớn các nước ở ĐBÁ và ĐNÁ. Trung Quốc cũng cho phép các sĩ
quan quân đội từ các nước láng giềng quan sát các cuộc tập trận của quân đội nước
này; làm một việc chưa có tiền lệ là mời một số nước tham gia các cuộc tập trận;
các chuyến viếng thăm của Hải quân Trung Quốc đến các nước trong khu vực cũng
thường xuyên hơn; các chuyến trao đổi học thuật và chức năng giữa quân đội
Trung Quốc và các nước châu Á liên tục tăng lên và Trung Quốc đã mời chào bán
vũ khí cho các nước trong khu vực như Campuchia, Indonesia và Philippines.
TRUNG Á
95
Quan hệ của Trung Quốc với các nước ở khu vực Trung Á đã trải qua một
giai đoạn phát triển liên tục và quan trọng trong thập kỉ vừa qua. Khu vực này ngày
càng trở nên quan trọng hơn với kinh tế và các lợi ích an ninh của nước này. Do
đó, Trung Quốc đã tăng cường các hoạt động ngoại giao và tăng đầu tư tài chính
nhằm tìm kiếm con đường tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhằm hạn
chế ảnh hưởng của Mĩ (và một mặt nào đó là Nga) , chống khủng bố và nói chung
là giảm bớt bất ổn trong khu vục. Bắt đầu vào đầu những năm 90, tiếp theo việc
thiết lập quan hệ với những nước từng thuộc Liên Xô cũ này, quan hệ giữa Trung
Quốc với những nước này không phải là ưu tiên của Trung Quốc. Chính sách của
Bắc Kinh chủ yếu tập chung vào việc cải thiện sự ổn định trong khu vực, an ninh
biên giới và tìm cách tiếp cận những nguồn năng lượng. Vào đầu những năm 90,
Trung Quốc đã có những cuộc đàm phán về vấn đề biên giới với Kazakhstan,
Kyrgyzstan và Tajikistan nhằm giải quyết các vấn đề về lãnh thổ còn tồn đọng
bằng việc phân giới cắm mốc. Trong một vài trường hợp thì Trung Quốc đã nhận
được 50% hoặc ít hơn của những vùng lãnh thổ tranh chấp.
Khi mà Trung Quốc trở thành nhà nhập khẩu dầu vào năm 1993, nước này
bắt đầu tìm kiếm các nguồn tài nguyên như là dầu thô hay khí ga ở nước ngoài. Để
thể hiện cam kết của mình, Trung Quốc đưa ra những cơ hội kinh tế có lợi cho cả
đôi bên. Vấn đề chống khủng bố không là mối quan tâm của chính sách của Trung
Quốc với khu vực này cho đến cuối những năm 90 khi mà Trung Quốc tìm kiếm
sự hợp tác của các quốc gia ở Trung Á nhằm loại trừ những nhóm Hồi giáo Uighur
được huấn luyện và hoạt động trong khu vực.
Đối lập với quan hệ với các nước ở Đông Á, thương mại giữa Trung Quốc
và các nước Trung Á luôn duy trì ở tốc độ vừa phải cho đến tận hôm nay. Quan hệ
kinh tế không ngừng được mở rộng, chủ yếu nhờ việc mua bán các nguồn tài
nguyên. Tổng thương mại giữa Trung Quốc với các nước Trung Á đã tăng từ mức
rất thấp sau khi LIÊN XÔ sụp đổ đến hơn 30 tỉ USD trong năm 2008. Chỉ từ năm
96
2004 đến năm 2008, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và Trung Á đã tăng
hơn 4 lần mặc dù cơ sở cho thương mại song phương là tương đối thấp. Tuy nhiên,
mặc dù đã không ngừng tăng trưởng nhưng thương mại với Trung Á chỉ chiếm 1.3
% tổng thương mại của Trung Quốc. Bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc trong khu
vực là Kazakhstan với 90% lượng nhập khẩu từ khu vực này (trong đó hơn 50% là
nhập khẩu dầu thô)). Xuất khẩu của Trung Quốc sang khu vực này, chủ yếu là
hàng tiêu dùng gấp gần 4 lần so với nhập khẩu. Mặc dù nếu không tính các ngành
năng lượng thì thương mại với các nước Trung Á không quan trọng với Trung
Quốc nhưng lại hết sức thiết yếu với các nước Trung Á. Trung Quốc là nhà nhập
khẩu hàng đầu của các nước này, và Trung Quốc là con đường thuận tiện nhất
không qua Nga để đi đến các nước khác trên thế giới. Điều đó giúp các nước này
giảm bớt sự phụ thuộc vào Nga.
Đầu tư của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào phát triển hạ tầng cơ sở, viễn
thông và các ngành năng lượng. Trung Quốc đã xây dựng những đường ống dẫn
dầu và khí ở Kazakhstan và Turkmenistan, đường sắt ở Kazakhstan và
Kyrghyztan, thêm vào đó là rất nhiều con đường, cầu và những dự án thủy điện ở
Tajikistan và Uzebekistan. Trung Quốc đã sử dụng việc đầu tư vào hạ tầng này
nhằm dễ dàng tiếp cận các nguồn tài nguyên và làm thuận lợi cho việc giao thương
với khu vực này. Bắc Kinh cũng muốn khôi phục lai con đường tơ lụa Á Âu nhằm
đa dạng bạn hàng và nhằm giúp khu vực phía Tây của nước này, đặc biệt là giúp
khu tự trị Tân Cương bắt kịp sự phát triển của kinh tế Trung Quốc. Với các nước
Trung Á, đầu tư của Trung Quốc đặc biệt quan trọng vì việc đầu tư của Trung
Quốc thể hiện tinh thần thiện chí của nước này khi đầu tư vào các dự án do nhà
nước bảo trợ, cho dù hiệu quả thực sự của các dự án này với sự phát triển kinh tế
đến đâu chăng nữa.Những nhà đầu tư phương Tây thường ít làm như vậy mà họ
chủ yếu thực hiện theo lời kêu gọi đầu tư của Trung Quốc.
97
Từ năm 2001, ngoại giao của Trung Quốc đã hướng sự chú ý cao hơn vào
khu vực Trung Á. Hiện nay, một mặt Trung Quốc nhấn mạnh vào việc tăng cường
quan hệ thương mại và đầu tư và mặt khác tham gia vào các vấn đề trong khu vực
nhằm hạn chế ảnh hưởng của Nga và Mĩ. Trung Quốc vẫn tiếp tục lo ngại về việc
các nhóm khủng bố Hồi giáo huấn luyện và hoạt động trong khu vực. Trung Quốc
đã tiếp tục mở rộng hợp tác an ninh và quân sự với các nước Trung Á nhằm ngăn
chặn những bất ổn trong khu vực này có thể thâm nhập vào khu vực Tân Cương.
An ninh năng lượn và cạnh tranh ảnh hưởng với Mĩ trở thành ưu tiên hàng
đầu của Trung Quốc ở khu vực Trung Á sau 2 sự kiện quan trọng là việc Mĩ triển
khai quân ở khu vực này sau sự kiện 11/9 và việc liên quân do Mĩ cầm đầu can
thiệp vào Iraq năm 2003. Trung Quốc tìm kiếm việc đa dạng nguồn dầu và khí
nhập khẩu, giảm bớt phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung Đông. Điều này khiến
cho Trung Á trở nên hấp dẫn với Trung Quốc ơn vì vị trí địa lí gần gũi và một
thuận lợi lớn là việc vận chuyển dầu mỏ dễ dàng hơn nhờ có các tuyến đường trên
bộ. Thêm vào đó, các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng sự có mặt của quân đội
Mĩ trong khu vực đã tạo nên một môi trường an ninh không thuận lợi cho Trung
Quốc và Trung Quốc nên đảm bảo rằng khu vực này không nằm trong tầm kiểm
soát của Mĩ hay một siêu cường nào khác. Với nhiều người Trung Quốc, sự có mặt
của Mĩ ở khu vực Trung Á vừa hỗ trợ hoạt động của liên quân ở Afghanistan và
vừa khiến Mĩ trở thành bá quyền trong khu vực. Những nhà bình luận của quân đội
Trung Quốc liên tục dấy lên lo ngại cho rằng sự hiện diện của quân đội Mĩ trong
khu vực sẽ khiến cho Mĩ có thể khống chế được Trung Quốc. Những tướng lĩnh
của PLA đã đưa ra quan điểm này với Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld
trong chuyến thăm của ông này đến Trung Quốc vào năm 2005. Trong quân đội
Trung Quốc, quan điểm chung là sự can thiệp của Mĩ ở Trung Á sẽ tạo áp lực lên
Trung Quốc, đặc biệt là trong trường hợp khủng hoảng. Tuy nhiên, việc Mĩ sẽ thực
hiện điều này như thế nào thì ít được đề cập tới.
98
Tiếp theo việc Mĩ đưa quân vào Iraq năm 2003 và những bất ổn trong khu
vực Trung Á năm 2004 thì các nhà phân tích của Trung Quốc đã bắt đầu đưa ra
những lo ngại đặc biệt về sự có mặt của quân đội Mĩ. Những cuộc cách mạng màu
ở Ukraine, Georgia và Kyrgyzstan đã làm nâng cao mối lo ngại này vì nhiều
chuyên gia tin tưởng rằng những sự kiện này nếu không được tài trợ thì cũng được
Mĩ ủng hộ. Nhiều người Trung Quốc lo ngại rằng những cuộc cách mạng kiểu đó
có thể lan tràn khắp khu vực Trung Á. Một số chuyên gia ở Trung Quốc nhận định
rằng sự có mặt của các tổ chức chính phủ và phi chính phủ của Mĩ ở Trung Á sẽ
được sử dụng như là công cụ nhằm xuất khẩu những phong trào đó sang Trung
Quốc.
Trung Quốc đã tiếp tục sử dụng cả những sáng kiến song phương và đa
phương nhằm tăng cường sự hiện diện và mở rộng tầm ảnh hưởng. Nước này đã
nâng cấp quan hệ song phương với các nước Trung Á sau khi sao nhãng vào những
năm 90. Một điển hình của những nỗ lực của Trung Quốc là chuyến thăm cấp nhà
nước của Tổng thống Uzbekistan Karimov đến Bắc Kinh năm 2005, gần 2 tuần sau
khi lực lượng đặc biệt chính phủ Uzbekistan mở cuộc tấn công vào những người
biểu tình chống chế độ ở thành phố Andijion. Trong chuyến thăm này, vấn đề
Adijion không được đề cập đến, Trung Quốc và Uzbekistan đã kí một Hiệp định
(thường được biết đến như là 1 tuyên bố chung) thiết lập đối tác hợp tác hữu nghị.
Đây là Hiệp định đầu tiên giữa 2 nước sau khi bình thường hóa năm 1992. Trong
chuyến thăm, Trung Quốc và Uzbekistan đã kí một thỏa thuận trị giá 600 triệu
USD nhằm phát triển những mỏ dầu ở Uzbekistan. Thực hiện bước đi này, Trung
Quốc đã cho nhà lãnh đạo Uzbekistan 1 cơ hội chính trị và kinh tế khi mà nước này
đang chịu áp lực quốc tế về vấn đề Adijion. Vơi những nhà hoạch định chính sách
trong khu vực, cách ứng xử của Trung Quốc với nhà lãnh đạo Uzbekistan thể hiện
sự khác biệt rõ ràng với sự chỉ trích của Mĩ với nước này về việc giải quyết vấn đề
Adijion và tình hình nhân quyền nói chung là tồi tệ của nước này.
99
Trung Quốc đã có rất nhiều nỗ lực nhằm phát triển quan hệ chính trị và kinh
tế với Kazakhstan và đã đạt được rất nhiều thành công. Những hoạt động song
phương của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào nâng tầm quan hệ chính trị để đảm
bảo việc tiếp cận với những nguồn năng lượng của Kazakhstan. Nhiều nhà lãnh
đạo cấp cao của Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp với những người đồng cấp ở
Kazakhstan vào năm 2004 và 2005. Đặc biệt, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có ít nhất 3
cuộc gặp với Tổng thống Kazakhstan từ năm 2004. Trong chuyến thăm tới
Kazakhstan tháng 7 năm 2005, các nhà lãnh đạo đã nâng cấp quan hệ song phương
lên đối tác chiến lược (lần đầu tiên với 1 quốc gia Trung Á) đồng thời đạt được
thỏa thuận về việc xây dựng 1 đường ống dẫn dầu và mở rộng quan hệ thương mại.
Vào năm 2005, Trung Quốc mua thành công một mỏ khí tự nhiên lớn ở
Kazakhstan sau khi thương lượng rất nhiều năm
Tập đoàn Dầu khí QG Trung Quốc đã mua một đối thủ cạnh tranh ở khu vực
là tập đoàn dầu khí Kazakhstan với giá 4.18 tỉ USD. Đó là một trong những khoản
đầu tư ra nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc. Vào tháng 5 năm 2006, Trung
Quốc đã cung cấp tài chính cho việc lắp đặt 1 đường ống dài 975km từ miền Trung
Kazakhstan để chuyển đầu tới miền Tây Trung Quốc với kế hoạch nhằm nâng gấp
3 lần lượng dầu từ biển Caspi. Đường ống này được thiết kế để vận chuyển được
20 triệu tấn dầu, chiếm 10 % của tổng lượng dầu thô mà Trung Quốc nhập khẩu
được trong năm 2007.
Ngoại giao ở cấp lãnh đạo là cơ chế quan trọng cho việc phát triển quan hệ
song phương với các nước Trung Á. Bên cạnh những chuyến thăm kể trên, Thủ
tướng Ôn Gia Bảo đã có các chuyến thăm đến Nga, Uzbekistan và Turmekistan
trong năm 2007 và đã đạt được những hợp đồng kinh tế lớn trong những chuyến
thăm đó. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã có những chuyến thăm cấp nhà nước đến
Kyrgyzstan và Kazakhstan năm 2007 và tới Tajikistan và Turkemenistan năm
2008. Các chuyến thăm này đều nằm trong nghị trình hàng năm của việc Chủ tịch
100
Hồ xuất hiện tại Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO). Điều
đáng chú ý là chủ tịch Trung Quốc tham gia Hội nghị thượng đỉnh của SCO hàng
năm là cơ hội để có những chuyến thăm đến các quốc gia quan trọng trọng khu
vực.
Bên cạnh ngoại giao song phương, Trung Quốc đã phát triển và mở rộng
SCO để nâng cao lợi ích trong khu vực của nước này. SCO giống như là phương
tiện cho Trung Quốc tiếp cận với kinh tế và chính trị an ninh của Trung Á. Nhiều
người cho rằng Trung Quốc sử dụng SCO để hạn chế ảnh hưởng của Mĩ và Nga.
Điều đó được biểu hiện bằng việc Trung Quốc không ngừng hỗ trợ về mặt vật chất
cho các nước SCO và các hoạt động của tổ chức này. Vào năm 2003, Trung Quốc
đã cung cấp khoản hỗ trợ tài chính cho ban thư ki của SCO được thành lập tại Bắc
Kinh. Đây là khoản hỗ trợ đầu tiên cho SCO từ khi tổ chức này được thành lập
năm 2001. Trong hội nghị thượng đỉnh của SCO tháng 6 năm 2004. Chủ tịch Hồ
Cẩm Đào đã hứa sẽ cung cấp khoản xuất khẩu ưu tiên trị giá 900$ cho những
doanh nghiệp của các nước SCO và đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ thành lập 1 quỹ
đặc biệt cho việc đào tạo 1500 sinh viên từ các nước SCO tại Trung Quốc. Chủ
tịch Hồ cũng kêu gọi SCO nâng tầm mức phát triển của tổ chức này. Ông ủng hộ
việc tổ chức này chuyển trọng tâm để đặt ra những mục tiêu cụ thể và lựa chọn
những biện pháp hiệu quả . Những từ ngữ và hành động này chỉ ra 1 cách mạnh mẽ
rằng Trung Quốc cố gắng xây dựng SCO thành 1 tổ chức khu vực mạnh mẽ với vai
trò giải quyết tất cả các vấn đề về kinh tế và an ninh trong khu vực. Vào năm 2005,
Trung Quốc đã có nhiều bước đi nhằm nâng tầm hơn nữa vị thế quốc tế của SCO.
Ấn Độ, Pakistan và Iran đã được cho phép có vị trí quan sát viên. SCO đã có vị trí
quan sát viên tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc và SCO đã kí 1 bản ghi nhớ với
ASEAN.
Trung Quốc phải cân bằng 1 loạt các mục tiêu khi thực hiện các hoạt động
trong SCO. Gây tranh cãi nhất là một ủy ban hỗn hợp của Hội nghị thượng đỉnh
101
SCO năm 2005 đã kêu gọi có kế hoạch cho việc rút quân đội của Mĩ ra khỏi các
nước Trung Á khi các hoạt động chống khủng bố kết thúc tại Afghanisan. Để thể
hiện lo ngại của các nước SCO, bản tuyên bố của SCO đã có tiền lệ là tuyên bố của
Hội nghị thượng đỉnh Nga –Trung về “Trật tự thế giới trong thế kỉ 21” vốn cũng
bị Mĩ chỉ trỉ trích mạnh m ẽ việc Mĩ sử dụng quyền lực và và việc Mĩ xem thường
các tổ chức đa phương. Mặc dù Uzbekistan và Nga nỗ lực kêu gọi việc rút quân
của Mĩ, Trung Quốc ủng hộ yêu cầu này hay ít nhất là không có động thái nào
chống lại yêu cầu này. Cùng năm đó, Trung Quốc và Nga đã tổ chức một cuộc tập
trận tấn công đổ bộ ở vùng biển của Trung Quốc. Cuộc tập trận này được các nước
này cho là một phần của kế hoạch chống khủng bố của SCO.
Một ví dụ điển hình hơn của việc cân bằng của Trung Quốc là ngôn ngữ của
tuyên bố của Hôi nghị thượng đỉnh năm 2006 của SCO đã ít gay gắt hơn năm
2006. Nhưng năm 2006, bản tuyên bố này vẫn có nội dụng giống như năm trước đó
trong việc phản đối chính sách nhân quyền của Mĩ trong khu vực và kế hoạch ủng
hộ dân chủ của chính quyền Bush. Bản tuyên bố khẳng định “sự khác biệt về
truyền thống văn hóa, chính trị và hệ thống xã hội, giá trị và mô hình phát triển…
không nên được xem như là căn cứ để can thiệp vào công việc nội bộ của nước
khác” và sau đó tuyên bố thẳng thừng “các mô hình phát triển xã hội không nên
xuất khẩu ra nước ngoài”.
Trung Quốc cũng nỗ lực hạn chế ảnh hưởng của Nga ở khu vực Trung Á cho
dù thành công xen lẫn với thất bại. Những nỗ lực này nhằm chống lại ý đồ của Nga
nhằm kiểm soát SCO và hạn chế quyền lợi của Trung Quốc. Với quan hệ đối tác
chiến lược Nga – Trung, mối quan hệ kỹ thuật quân sự giữa 2 nước và những lợi
ích chung trong việc chống lại chủ nghĩa đơn cực của Mĩ, việc hạn chế Nga là một
mục tiêu tương đối thâm sâu của Trung Quốc. Trung Quốc không muốn khiêu
khích Nga nhưng cũng không muốn nước này kiểm soát Trung Á. SCO giúp Trung
Quốc cân bằng các mục tiêu này bằng cách đưa các quốc gia Trung Á vào một
102
khuôn khổ đa phương. Không giống như Mĩ, Nga có khả năng kiểm soát ảnh
hưởng của Trung Quốc ở khu vực vì Nga có mối liên kết lâu đời với những nước
thuộc Liên Xô cũ và khả năng sử dụng chiến thuật đối đầu của nước này. Tình
huống đó tạo nên nhiều lớp trong đấu tranh và hợp tác giữa Nga và Trung Quốc ở
Trung Á.
Hai ví dụ cho thấy sự phức tạp của các lợi ích của Trung Quốc khi mà chúng
liên quan đến Nga là sự đẩy và kéo của một cuộc cạnh tranh ngầm để giành ảnh
hưởng trong khu vực. Trong nhiều năm, Bắc Kinh đã chống lại Tổ chức hiệp ước
an ninh tập thể (CSTO) do Nga đứng đầu bao gồm nhiều nước SCO và có quan hệ
chính thức với SCO. Cho dù Nga cổ vũ cho hoạt động của CSTO trong khi Trung
Quốc và các nước SCO còn lại phản đối vì lo ngại rằng tổ chức này sẽ giúp Nga
biến SCO thành tổ chức an ninh chống phương Tây hơn là một tập trung vào hơp
tác an ninh và kinh tế. Một vài bản báo cáo nhận định rằng Nga tìm kiếm liên kết
giữa CSTO và SCO để hình thành 1 phiên bản ở khu vực Á-Âu của NATO. Trung
Quốc không đồng ý vì nước này không muốn SCO có tính đối đầu và không muốn
các kế hoạch an ninh do Nga khởi xướng. Những nỗ lực ban đầu của Trung Quốc
đã thất bại vào tháng 10 năm 2007 khi mà CSTO kí một thỏa thuận với SCO nhằm
mở đường cho việc hợp tác trong các vấn đề an ninh khu vực như buôn lậu ma túy
và tội phạm có tổ chức. Vào năm 2008, các nước thành viên SCO đã thành công
hơn trong việc hạn chế những áp lực của Nga. Bản tuyên bố chung năm 2008 của
Hội nghị thường niên SCO không tán thành quan điểm của Nga trong việc công
nhận độc lập của vùng lãnh thổ thuộc Georgia là Nam Ossetia và Abkhazia. Tuyên
bố này chỉ chia sẻ quan điểm với Nga nhưng không tiến xa hơn và đã khiến cho
Moscow tương đối thất vọng.
Nói một cách tổng thể, hoạt động ngoại giao song phương và đa phương của
Trung Quốc ở khu vực này thể hiện sự gia tăng lợi ích của nước này trong khu vực
với trọng tâm là việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở, tăng cường tiếp cận tài nguyên thiên
103
nhiên, gia tăng ảnh hưởng chính trị và ủng hộ các hoạt động chống khủng bố.
Ngoại giao của Trung Quốc bước đầu tập trung vào xây dựng quan hệ kinh tế với
các nước trong khu vực nhằm tiếp cận thị trường và các nguồn tài nguyên thiên
trong khu vực. Những lo ngại về sự có mặt của quân đội Mĩ trong khu vực cũng
như lo ngại về ý đồ của Nga sẽ còn là mối bận tâm lâu dài của Trung Quốc. Trung
Quốc sẽ tiếp tục xây dựng vị thế và cơ chế của SCO để tạo ra một môi trường để ít
nhất có thể kiềm chế ảnh hưởng của Mĩ hoặc tốt nhất là khiến cho ảnh hưởng của
Mĩ đi xuống. Trung Quốc cũng xem SCO là cách thức để ngăn Nga một mình
hoạch định các lịch trình giải quyết các vấn đề an ninh và tranh chấp trong khu
vực. Trung Quốc có khả năng sẽ không trở thành thách thức với các lợi ích của Mĩ
đặc biệt khi mà các nước khác sẵn sang chỉ trích và đối đầu với Mĩ. Việc chấp
nhận một cách tương đối của Bắc Kinh với sự xuất hiện của Mĩ sẽ không còn nữa
khi mà nước này lo ngại các hành động nhằm hỗ trợ cho các phong trào dân chủ
của Mĩ có thể gây mất ổn định cho chính trị của Trung Quốc.
Hướng tới tương lai, cách thức tiếp cận của Trung Quốc với Trung Á sẽ
mang tính bền vững và lâu dài. Những lợi ích của nước này trong khu vực là dài
hạn, khó thay đổi và phần lớn liên quan đến các mục tiêu hàng đầu của ĐảNG
CộNG SảNTrung Quốc trong việc ổn định trong nước và phát triển kinh tế. Hơn
nữa, những bất ổn có thể đe dọa lợi ích của Trung Quốc ở Đông Á như vấn đề Đài
Loan và quan hệ với Nhật không ảnh hưởng đến chính sách của Trung Quốc ở
Trung Á. Sự hiện diện của Mĩ ở Trung Á cũng ít hơn nhiều so với ở Đông Á và
khiến cho các chính sách của Mĩ ít tác động đến những lợi ích của Trung Quốc ở
khu vực này hơn. Với ảnh hưởng của Nga, mặc dù hạn chế đối đầu trực diện với
Nga nhưng mục tiêu hạn chế và kiểm soát Nga là mục tiêu dài hạn của Trung
Quốc.
Nam Á
104
Vấn đề chính trong chính sách của Nam Á là sự đổi mới có tính lịch sử và
việc lập lại quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Trung Quốc đã thực hiện những
nỗ lực để mở rộng quan hệ chính trị, quân sự và kinh tế với Ấn Độ. Hơn thế nữa,
Bắc Kinh còn tiếp tục giải quyết các vấn đề phức tạp và khó khăn nhưng là vấn đề
truyền thống đó là quan hệ với Pakistan. Điều đó đã làm xảy ra căng thẳng trong
cách tiếp cận của Trung Quốc. Ý đồ ban đầu của Trung Quốc trong việc chuyển
hướng đối ngoại đột ngột là nhằm 3 mục đích: ổn định khu vực biên giới phía Nam
của nước này khỏ những nguy cơ mới (như là một nước Ấn Độ có ý đồ cạnh tranh
hay thậm chí là thù địch với Trung Quốc), mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư
song phương và giảm thiểu việc Ấn Độ liên minh với Mĩ và khả năng Washington
và Delhi cùng kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc. Ở mục tiêu cuối cùng, ngay từ
đầu tập niên này, các nhà phân tích đã gi tăng mối quan ngại về sự mở rộng của
quan hệ an ninh Mĩ - Ấn và mối quan hệ quân sự mà Trung Quốc xem như là
những nỗ lực của Mĩ nhằm cân bằng quyền lực với Trung Quốc. Trung Quốc đã
tìm cách hạn chế khả năng đó bằng cách mở rộng quan hệ ngoại giao, quân sự và
kinh tế với Trung Quốc. Không có sự tương đồng giữa những nỗ lực của Trung
Quốc nhằm nâng cấp quan hệ với Ấn Độ (đặc biệt là trao đổi quân sự) với sự thay
đổi về chất trong quan hệ Mĩ - Ấn các năm 2001 và 2002. Đặc biệt khi mà chính
quyền của tổng thống Bush mở rộng quan hệ quân sự với Mĩ.
Nhà nghiên cứu John Garver giải thích ý đồ của Trung Quốc trong quan hệ
với Ấn Độ: Mục tiêu chiến lược lớn của Trung Quốc là thuyết phục Ấn Độ tích
cực xem xét việc mở rộng sự hiện diện về kinh tế, chính trị và quân sự của nước
này ở Nam Á và vùng Ấn Độ Dương, giảm bớt nghi ngờ trong quan hệ Trung - Ấn
và đưa Ấn Độ trở thành đối tác của Trung Quốc. Bằng cách này, sự trỗi dậy của
Trung Quốc ở châu Á sẽ không khiến Ấn Độ phải chống lại Trung Quốc bằng cách
thành lập liên minh với Mĩ . Tuy nhiên, việc thiết lập quan hệ hữu nghị với Ấn Độ
khong có nghĩa là Trung Quốc sẽ nhượng bộ với Ân Độ về vấn đề thể chế của Tây
105
Tạng, quan hệ chiến lược Trung – Pakistan hay hạn chế việc Trung Quốc mở rộng
quan hệ quân sự, an ninh và giao thông vận tải với các nước Nam Á khác.
Đối lập với chính sách đối ngoại của Trung Quốc ở Đông Á, ngoại giao của
Trung Quốc ở Nam Á chủ yếu là mang tinh song phương một phần bởi vì thiếu
một tổ chức đa phương đủ mạnh ở tiểu lục địa này. Những nhà hoạch định chính
sách của Trung Quốc đã có nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao với các người đồng cấp ở
Ấn Độ và phần lớn đã đạt được sự đồng thuận trong các mục tiêu mở rộng quan hệ
kinh tế và đối thoại an ninh.
Những chuyến thăm cấp cao này đặc biệt quan trọng trong quá trình xây
dựng lại mối quan hệ giữa 2 nước. Đầu tiên, vào năm 2003, Trung Quốc đã mời
thủ tướng Ấn Độ Vajpayee thăm Trung Quốc (chuyến thăm này tiếp sau chuyến
thăm quan trọng vào tháng 4 của Bô trưởng quốc phòng George Fernandez, người
đã gây tranh cãi vì đã liên quan đến việc hiện đại hóa vũ khí hạt nhân của Ấn Độ,
một mối đe dọa an ninh với Trung Quốc). Trong chuyến thăm của Vajpayee, cả 2
bên đã đồng ý xây dựng một kế hoạch cơ bản để nâng tầm quan hệ qua bản tuyên
bố chung gọi là “Các nguyên tắc cho quan hệ và hợp tác toàn diện” Đây là một
bước đi quan trọng cho cả 2 nước như các nhà lãnh đạo đã chỉ ra rằng (cho dù có
mang tính cường điệu đi chăng nữa) rằng cả 2 bên không xem bên kia là một mối
nguy cơ và do đó mở ra một chương mới trong quan hệ giữa 2 nước. Tại cuộc gặp,
Vajpayee đã gọi mối quan hệ này là “ổn định và hướng tới tương lai” và cả 2 bên
đồng ý thành lập những đại diện đặc biệt để đàm phán về vấn đề biên giới.
Mặc dù phần lớn các văn kiện và các tuyên bố chính đều tương tự như các
văn kiện có trong chuyến thăm có tính phá băng của chủ tịch Giang Trạch Dân
năm 1996 và của thủ tướng Chu Dung Cơ năm 2002, chuyến thăm của Vajpayee
đã chính thức bình thường hóa quan hệ Trung - Ấn sau những căn thẳng chính chị
tháng 5 năm 1998 khi mà Ấn Độ thực hiện những vụ thử hạt nhân. Chuyến thăm
106
này mang tầm quan trọng vì tạo ra lộ trình mở rộng quan hệ Trung - Ấn khi mà cả
2 bên đều thực hiện các hành động sau khi chuyến thăm kết thúc.
Thứ hai, chuyến thăm năm 2005 của thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đánh dấu một
sự kiện quan trọng trong quan hệ Trung Ấn. Trong chuyến thăm đầu tiên của 1 thủ
tướng Trung Quốc đến Ấn Độ sau chuyến thăm của thủ tướng Chu Dung Cơ vào
năm 2002, cả hai bên đã đồng ý nâng cấp quan hệ lên thành “đối tác chiến lược và
hợp tác vì hòa bình và thịnh vượng” từ “đối tác hợp tác và xây dựng” như được
thiết lập từ năm 1996. Việc thiết lập công thức mới và có tầm quan trọng lớn như
vậy là kết quả của quá trình không ngừng tăng cường trao đổi ngoại giao, kinh tế
và quân sự từ chuyến thăm năm 2003 của Vajpayee năm 2003, bao gồm cả việc lần
đầu tiên thành lập đối thoại chiến lược Trung - Ấn tháng 1 năm 2005. Các nhà
phân tích Trung Quốc cũng cho rằng tuyền thông Trung Quốc đã tường thuật
chuyến thăm của thủ tướng Ôn Gia Bảo đậm nét hơn chuyến thăm của Chu Dung
Cơ và cả chuyến thăm của Ôn Gia Bảo đến Pakistan.
Nội dung về kinh tế và an ninh trong chuyến thăm của thủ tướng Ôn Gia
Bảo là đặc biệt quan trọng. Các nhà lãnh đạo đều đồng ý rằng thương mại song
phương đã tăng gấp 4 lần từ 3.6 triệu USD lê 13.6 triệu USD trong 3 năm 2001 đến
2004, vượt những mục tiêu ban đầu. Các nhà lãnh đạo đều đồng ý bắt đầu nghiên
cứu tiền khả thi về hiệp định thương mại tự do. Ngay trước chuyến thăm của Ôn
Gia Bảo, Trung Quốc đã xuất bản một bản đồ công nhận chủ quyền của Ấn Độ với
vùng Sikkim và trong bản tuyên bổ chung, 2 bên tuyên bố rằng vùng Sikkim là 1
phần của Ấn Độ. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công nhận chủ quyền của Ấn Độ
trên vùng đất này khi mà từ năm 1975, Trung Quốc đã không công nhận việc Ấn
Độ tuyên bố chủ quyền v ới Sikkim. Các nhà hoạch định chính sách của hai bên đã
kí vào văn kiện quan trọng khẳng định phương châm chỉ đạo để giải quyết tranh
chấp biên giới giữa hai bên. Thủ tướng Ôn Gia Bảo nói rằng đây là lần đầu tiên hai
bên đồng ý có một phương châm chỉ đạo có tính chính trị từ khi việc đàm phán về
107
biên giới tái khởi động vào năm 1981. Trong một động thái cho thấy cam kết của
Trung Quốc nâng tầm quan hệ song phương với Ấn Độ, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã
có chuyến thăm lần đầu tiên tới Ấn Độ vào tháng 11 năm 2006. Đó là chuyến thăm
đầu tiên của nhà lãnh đạo nhà nước Trung Quốc tới Trung Quốc sau 10 năm kể từ
khi chủ tịch Giang Trạch Dân thăm nước này năm 1996. Trong chuyến thăm này,
Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh đề án 5 điểm để phát triển quan hệ Trung-Ấn.
Có khả năng đây là nỗ lực nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn đọng khi mà có
tương đối ít tiến bộ trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới. Cả 2 bên đã
đồng ý khởi động nghiên cứu về Hiệp định thương mại tự do song phương. Điều
thú vị là chuyến thăm của chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến Pakistan sau đó cũng có thời
gian bằng chuyến thăm đến Ấn Độ.
Sự thay đổi trong quan hệ Trung - Ấn được thể hiện rõ rằng hơn trong việc
tăng cường quan hệ song phương trong các vấn đê an ninh và quân sự. Thông qua
những hoạt động như vậy, Bắc Kinh tìm kiếm sự đảm bảo với Ấn Độ về sự hợp
tác của Trung Quốc, làm rõ những động thái của PLA và giảm bớt việc New Delhi
mong muốn hợp tác với Mĩ nhằm cân bằng quyền lực với Trung Quốc. Bộ trưởng
quốc phòng Ấn Độ đã thăm Trung Quốc vào năm 2003 và người đồng cấp Trung
Quốc đã đáp lễ vào năm 2004. Vào cuối năm 2004, tổng tư tham mưu trưởng quân
đội Ấn Độ đã có chuyến thăm Trung Quốc sau 10 năm gián đoạn và chuyến thăm
này đã được người đồng cấp phía Trung Quốc là tướng Lương Quang Liệt đã có
chuyến thăm tới Ấn Độ, đây là chuyến thăm đầu tiên của một tổng tham mưu
trưởng quân đội Trung Quốc đến Ấn Độ trong 7 năm. Tuyền thông Ấn Độ cũng
đưa tin việc lãnh đạo lực lượng tình báo quân đội của Ấn Độ đã có chuyến thăm
Trung Quốc vào tháng 6 năm 2005. Vào tháng 12 năm đó, Trung Quốc và Ấn Độ
đã thực hiện cuộc diễn tập tìm kiếm và cứu nạn chung lần đầu tiên. Vào tháng 5
năm 2006. Trung Quốc và Ấn Độ kí kết văn bản ghi nhớ vè việc hợp tác quân sự
có nội dung về một loạt các hoạt động trong tương lai bao gồm “thường xuyên trao
108
đổi…một cuộc đối thoại quốc phòng thường niên…và những cuộc tập trận chung”.
Trong chuyến thăm của Tổng tham mưu trưởng J.J.Singh đến Trung Quốc tháng 5
năm 2007, hai bên đã đồng ý cuộc diễn tập chống khủng bố chung vào tháng 12
năm 2008 tại Ấn Độ.
Trung Quốc và Ấn Độ hiện phải đối mặt với những thách thức dai dẳng và
lâu dài với quan hệ song phương. Việc Ấn Độ quan ngại và nghi ngờ ý đồ của
Trung Quốc kể từ xung đột năm 1962, vấn đề tranh chấp đường biên giới và việc 2
nước vừa cạnh tranh vừa là những cường quốc đang lên ở châu Á trở thành những
nhân tố cản bước quan hệ an ninh. Trung Quốc tiếp tục ủng hộ quân sự với
Pakistan khiến Ấn Độ nhìn nhận như là nỗ lực nhằm kiểm soát sức mạnh của Ấn
Độ ở Nam Á là một nguồn gốc của những căn thẳng có thể nổ ra bất cứ lúc nào
mặc dù Trung Quốc đã có một vài động thái chứng tỏ việc nước này chú ý hơn đến
việc giữ cân bằng giữa Ấn Độ và Pakistan thì ít nhà chiến lược Ấn Độ đồng ý với
quan điểm này (Trung Quốc đã không ủng hộ Pakistan trong khủng hoảng ở Kargil
năm 1999). Hơn nữa, khi mà nhu cầu nhập khẩu năng lượng tăng lên ở cả 2 nước,
những căng thẳng được châm ngòi khi mà họ cạnh tranh để tiếp cận các nguồn tài
nguyên dầu khí tự nhiên ở nước ngoài bao gồm các khu vực gần với cả 2 nước như
là Myanmar. Trung Quốc đã nhanh chóng mở rộng quan hệ thương mại với Ấn Độ
cũng là 1 nguồn gốc của va chạm lợi ích khi mà trong số các công ty thương mại
của Ấn Độ, gần một nửa các vụ việc chống chon lấp rác xuất phát từ các hợp đồng
với các công ty Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, những nhà sản xuất phần mềm
của nước này lo ngại về việc cạnh tranh với những nhà xuất khẩu phần mềm của
Ấn Độ. Khi mà Bắc Kinh và New Delhi đồng ý thực hiện các cuộc đàm phán về
FTA và việc đàm phán thành công FTA sẽ có thể giúp họ giải quyết sự canh tranh
đang tăng lên trong quan hệ kinh tế giữa 2 nước.
Ngoại giao bên ngoài châu Á
Châu Phi và Mỹ Latinh
109
Quan hệ đối giữa Trung Quốc với châu Phi và (ở mức độ nhỏ hơn) với châu
Mỹ Latinh có một truyền thống lịch sử độc đáo. Quay lại thời điếm thực hiện chính
sách đối ngoại cách mạng và định hướng tiền-phát triển đất nước của Mao, Trung
Quốc đã cung cấp nhiều viện trợ vật chất (như tiền cho những kế hoạch lớn về cơ
sở hạ tầng) cho các phong trào cách mạng và các vị lãnh đạo tiền-Trung
Quốc ở châu Phi. Trung Quốc có quan hệ kinh tế và chính trị rất ít với khu
vực châu Mỹ Latinh, ít hơn nhiều so với châu Phi. Ở cả hai khu vực này, ngoại
giao của Trung Quốc chủ yếu bị điều khiển bởi những nỗ lực nhằm phá hoại sự
ủng hộ dành cho chủ nghĩa đế quốc của Mỹ và chủ nghĩa xét lại của Liên Xô
(trong Chiến tranh lạnh), và quan trọng hơn là để cô lập Đài Loan. Không như Liên
Xô, Bắc Kinh ít hứng thú hơn với việc trải rộng mô hình phát triển kinh tế và chính
trị của mình, ngay cả với những quanh đó ở trong khu vực như Tanzania. Mặc dù
Trung Quốc tự nhận có nền tảng đạo đức cao qua việc chống lại chủ nghĩa thực
dân ở châu Phi và châu Mỹ Latinh, các mục tiêu của Trung Quốc lại phần
nhiều dựa trên lợi ích quốc gia hơn là được gợi mở từ sự hùng biện về cách mạng
của mình. Hỗ trợ lớn về vật chất của Trung Quốc cho Châu Phi và Châu Mỹ
Latinh (ở mức độ nhỏ hơn) bắt đầu giảm đáng kể vào những năm cuối thập kỉ 70
do Đặng Tiểu Bình đã bớt dần đi những sự biểu thị mang lý tưởng nhất trong chính
sách đối ngoại của Trung Quốc và bắt đầu chuyển hướng các tài nguyên quốc
gia vào phục vụ việc phát triển nội địa.
Quan hệ hiện tại của Trung Quốc với các nước ở châu Phi và châu
Mỹ Latinh cho thấy một cuộc cách mạng trong chính sách đối ngoại thời kì-cải
cách của Trung Quốc, tuy vậy, chính sách này vẫn có những liên quan
tới các chính sách và lợi ích trước đó. Những cam kết về kinh tế và ngoại giao của
Trung Quốc với châu Phi và châu Mỹ latinh đang ngày một lớn hơn trong thập kỉ
này so với thời những năm 80 và 90. Ngoại giao của Trung Quốc bị chi phối bởi 4
mục tiêu chính: làm phong phú đường tới các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc
110
biệt là dầu mỏ và khoáng sản (chủ yếu là dầu mỏ); mở rộng đường tới các thị
trường ở châu Phi và châu Mỹ Latinh, nơi đang mua ngày càng nhiều hàng hóa, xe
hơi và các loại vũ khí của Trung Quốc; tạo ra sự ủng hộ đối với nỗ lực của Trung
Quốc nhằm thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và xây dựng một thế giới đa cực; và cô
lập Đài Loan hơn về ngoại giao ở châu Phi, châu Mỹ Latinh và vùng Caribe - nơi
tập trung nhiều sự ủng hộ dành cho Đài Loan.
Các mục tiêu kinh tế của Trung Quốc. Luôn có một logic kinh tế nhất
quán trong chủ nghĩa tích cực của Trung Quốc ở vùng cận Sahara châu
Phi. Thương mại hàng hóa của Trung Quốc với vùng cận Sahara châu phi đã tăng
từ chỉ 3 tỉ đôla năm 1995 lên 45,4 tỉ đôla năm 2006, với mức tăng hàng năm vào
khoảng 40% kể từ 2004. Hàng nhập từ châu Phi vào Trung Quốc tăng từ 4, 5 tỉ
đôla năm 2001 lên tới 26, 31 tỉ đôla vào năm 2006, tăng trưởng tới 485 %. Hơn 5
năm qua, khoảng 90% hàng nhập từ châu phi vào Trung Quốc, dưới dạng giá trị,
gồm có dầu thô, quặng sắt, gỗ thô,sợi bông thô, kim cương thô, các mặt hàng nhập
khẩu lại từ những sản phẩm xuất khẩu trước đó, kim loại, các nguồn cung cấp thép
không gỉ và thuốc lá sợi. Hàng nhập từ châu Phi vào Trung Quốc không những hầu
hết là các nguyên vật liệu thô mà chúng còn đến từ một tập hợp nhỏ các nước.
Hàng nhập từ bảy nước – Angola, Nam Phi, Sudan, Cộng hòa dân chủ Congo,
Equatorial Guinea, Gabon, và Nigeria – chiếm khoảng 90% lượng nhập khẩu của
Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2006. Hàng nhập vào Trung Quốc
từ những nước này phần lớn là dầu thô, ngoại trừ Nam Phi, nước có hàng nhập
khẩu vào Trung Quốc chủ yếu là kim loại.
Hơn thế nữa, hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào châu Phi đã tăng từ 4,42 tỉ
đôla năm 2001 lên 19,04 tỉ đôla vào năm 2006, đạt mức tăng trên 330%. Các sản
phẩm xuất khẩu chủ yếu là vải sợi bông, xe máy, giày vải, sợi tổng hợp, pin, thiết
bị phát sóng, thiết bị điện thoại, xăm xe, đồ thêu và các loại vải lẫn lộn. Các nước
vùng cận Sahara ở châu Phi, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đang nhanh
111
chóng trở thành các thị trường xuất khẩu chính của hàng hóa Trung Quốc. Theo
các quan chức chính phủ Hoa Kỳ, “các nhà đầu tư nhỏ và tư nhân của Trung Quốc
đã rót hàng triệu đôla để mở các doanh nghiệp chuyên về dệt may, sản xuất bóng
đèn, xây dựng và nông nghiệp ở châu Phi.
Sự tăng trưởng trong thương mại Trung Quốc – Châu Phi rất ấn tượng
nhưng cần phải được đánh giá trong tổng thể thương mại với thế giới và các xu
hướng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc. Thương mại của Trung Quốc với các
nước cận Sahara ở châu Phi vẫn chỉ có tầm quan trọng khiêm tốn xét trong tổng
thương mại của Trung Quốc. Vào năm 2006, thương mại với cùng
cận Sahara ở châu phi chỉ chiếm 2,6% trong tổng thương mại toàn cầu của Trung
Quốc. Theo dữ liệu của chính phủ Mỹ,
Trong năm 2006, giá trị của thương mại giữa Trung Quốc với châu Phi thấp
hơn so với thương mại của Trung Quốc với Trung Đông hay với châu Mỹ Latinh
và là một phần trăm âm trong thương mại của Trung Quốc với các nước châu Á
khác. Về mặt đầu tư, dòng vốn đầu tư của Trung Quốc vào châu phi chỉ chiếm
2,9% trong tổng số đầu tư trực tiếp của Trung Quốc ra bên ngoài thế giới. Tổng
vốn đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào châu phi chỉ chiếm khoảng 1% trong tổng
số vốn đầu tư của toàn cầu vào châu Phi.
Thương mại của Trung Quốc với các nước châu Phi mang một vài đặc điểm.
Thứ nhất, hàng xuất và nhập khẩu vào châu Phi đều tăng trưởng đáng kể. Thứ hai,
giá trị của hàng nhập khẩu vào Trung Quốc từ châu phi, chủ yếu là Angola, là lớn
nhờ vào lượng dầu nhập khẩu. (Vào năm 2007, lượng dầu nhập khẩu từ Angola
chiếm tới hơn 50% trong tổng giá trị tất cả các hàng nhập vào Trung Quốc từ vùng
cận Sahara ở châu Phi; và bốn trong năm bạn hàng thương mại lớn nhất của Trung
Quốc ở vùng cận Sahara ở châu phi đều là các nước cung cấp dầu). Thứ ba, tăng
trưởng về thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi mang đặc tính không ổn
định, do tùy thuộc vào việc nhập khẩu dầu của Trung Quốc cũng như những biến
112
động về giá dầu trên thế giới. Thứ tư, hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào châu
phi tăng trưởng ổn định và một vài nước châu Phi vùng cận Sahara hiện đang bị
thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Kết quả là, hàng xuất từ Trung Quốc vào
châu Phi không phải lúc nào cũng đem lại kết quả có lợi cho cả hai như những nhà
bình luận Trung Quốc đã đưa ra, từ đó dẫn đến những rạn nứt chính trị với các
nước châu phi bị tước quyền bầu cử. Ví dụ như, hàng dệt may xuất khẩu của Trung
Quốc đã làm tổn hại đến hàng loạt các nước châu Phi, khiến cho các nhà máy sản
xuất vải sợi ở Kenya, Lesotho, Nam Phi phải đóng cửa. Trong một vài trường hợp,
hàng dệt may xuất khẩu của Trung Quốc được coi như là “cú giáng hai lần”
vào các nhà sản xuất châu Phi: hàng xuất khẩu của Trung Quốc phá hủy cả nhu cầu
nội địa lẫn ngoại địa đối với hàng dệt may của Châu Phi.
Đầu tư của Trung Quốc vào Châu Phi đã tăng đáng kể do thương mại đã trở
thành một phần cấu thành chính trong quan hệ kinh tế của Trung Quốc với châu
Phi. Theo dữ liệu của chính phủ Trung Quốc, dòng vốn đầu tư hàng năm tới toàn
bộ lục địa châu phi đã tăng từ 74 triệu đôla năm 2003 lên 1,5 tỉ đôla năm 2007;
tổng vốn đầu tư của Trung Quốc đã tăng từ 491 triệu đôla năm 2003 lên 4,4 tỉ đôla
năm 2007. Nhưng dữ liệu chính thức của Trung Quốc dường như thiếu một
vài khoản đầu tư chính, vậy nên tính toàn diện của nó không rõ là bao nhiêu. Hơn
800 doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước Trung Quốc có các dự án đầu tư ở 40
nước châu Phi. Tính đến cuối năm 2008, vụ đầu tư ra bên ngoài lớn nhất của Trung
Quốc là vụ mua 20% cổ phần của ngân hàng trung ương nam phi năm 2007, với
thỏa thuận có giá trị ước tính là 5,5 tỉ đôla.
Một thành tố quan trọng và chưa được khảo sát trong đầu tư của Trung Quốc
ở châu Phi là những dự án về cơ sở hạ tầng. Những cam kết tài chính của Trung
Quốc dành cho những dự án về cơ sở hạ tầng ở châu Phi tăng từ khoảng 1 tỷ
đôla/năm trong thời gian từ 2001-2003 lên 4,5 tỷ đôla vào năm 2007 – và đỉnh
điểm là 7 tỉ đôla trong năm 2006. Khoảng 70% tổng vốn đầu tư về cơ sơ hạ tầng
113
của Trung Quốc được dành cho 4 nước là Nigeria, Ethiopia, Angola và Sudan.
Phần lớn các dự án của Trung Quốc tập trung vào hai lĩnh vực: máy phát điện (chủ
yếu là thủy điện) và giao thông (chủ yêú là đường sắt). Trung Quốc cũng cung cấp
tài chính và các trang thiết bị cho việc xây dựng các hệ thống thông tin viễn thông
quốc gia ở Ethiopia, Sudan và Ghana. Việc Trung Quốc tập trung đầu tư về cơ sở
hạ tầng đã tạo điền kiện cho một sự bù đắp kinh tế được nảy nở: sự thiếu hụt về cơ
sở hạ tầng của châu phi là một trong những thách thức phát triển lớn nhất, còn lĩnh
vực xây dựng của Trung Quốc lại thuộc một trong những lĩnh vực mạnh nhất và
cạnh tranh nhất trên thế giới. Sự bù đắp này cho thấy mô hình đầu tư vào cơ sở hạ
tầng của Trung Quốc như hiện nay sẽ tiếp tục phát triển.
Những khoản đầu tư lớn nhất của Trung Quốc vào châu Phi, tính cho đến
nay, là dành vào việc khai thác tài nguyên (chủ yếu là dầu), nhưng quy mô, máy
móc và kết quả của những khoản đầu tư này thường bị thổi phồng. Theo một
nghiên cứu của Ngân hàng Thế Giới về đầu tư của Trung Quốc vào châu Phi trong
khoảng thời gian từ 2001 đến 2005 thì Trung Quốc đã rót khoảng 10 tỉ đôla vốn
đầu tư vào lĩnh vực dầu ở 15 quốc gia châu Phi, với các khoản đầu tư lớn nhất ở
Angola và Sudan. Tuy nhiên, khoản đầu tư này chưa thấm vào đâu so với 168 tỉ
đôla mà các tập đoàn dầu khí quốc tế khác đã đầu tư vào châu phi. Trong năm
2006, 55% lượng dầu xuất khẩu từ châu phi được chuyển đến Hoa Kỳ và Châu Âu,
trong khi đó chỉ 15% là được chuyển đến Trung Quốc. Các khoản đầu tư
khác, ngoài dầu mỏ, ước tính khoảng 2 tỷ đôla và tập trung vào việc khai thác tài
nguyên (như đồng, quặng sắt) ở những nước như Cộng Hòa Dân chủ nhân dân
Congo, Gabon, Guinea, Zambia, và Zimbabwe. Đáng thú vị ở chỗ, trái ngược với
một số nghiên cứu gần đây, một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã biện luận
rằng chỉ có khoảng 7% các khoản đầu tư về cơ sở hạ tầng của Trung Quốc là liên
quan trực tiếp tới việc khai thác tài nguyên và vào những nơi thuận tiện cho việc
tiếp cận các tài nguyên được dành cho xuất khẩu sang Trung Quốc. Một mô
114
hình đầu tư phổ biến hơn của Trung Quốc là “mô hình Angola”, trong đó các tài
nguyên thiên nhiên được dùng để trả cho khoản vay đã được sử dụng để tài trợ việc
phát triển cơ sở hạ tầng của Trung Quốc. Ví dụ, vào năm 2007, Trung Quốc đã đưa
cho Cộng hòa dân chủ Congo một gói các khoản vay và đầu tư trị giá 9 tỷ đôla, và
sẽ được trả lại bằng coban và đồng lấy từ các mỏ của Congo. Các thỏa thuận này
thường được thực hiện thông qua ngân hàng xuất nhập khẩu của Trung Quốc hơn
là một cơ quan phát triển của Trung Quốc. Bản báo cáo của Ngân hàng Thế giới
cũng chỉ ra rằng các khoản vay của chính phủ dành cho các công ty Trung Quốc để
thực hiện các dự án này và các dự án cơ sở hạ tầng khác “tương xứng với lĩnh
vực cho vay tư nhân dành cho châu phi (với một sự trợ cấp là 36%) nhưng chúng
không hấp dẫn như là ODA, vốn có xu hướng đưa ra một khoản trợ cấp dành cho
châu Phi vào khoảng 66%.
Trung Quốc cũng cung cấp nhiều viện trợ phát triển cổ điển dành cho các
nước Châu Phi dưới dạng các khoản trợ cấp và sự hỗ trợ về kĩ thuật (nhằm chống
lại việc cấp vốn -mà đã được nhà nước trợ cấp- vào các dự án đầu tư) . Vào tháng
11/2006, tại diễn đàn hợp tác Trung – Phi, Trung Quốc đã cam kết sẽ có một gói
viện trợ phát triển lớn bao gồm các khoản trợ cấp, các khoản vay và hỗ trợ về kĩ
thuật; đây là cam kết viện trợ lớn nhất của Trung Quốc dành cho châu Phi trong
hàng thập kỉ qua. Một chuyên gia phân tích người Mỹ đã lý giải sức hấp dẫn của
Trung Quốc dành cho các nước Châu Phi như sau: Trung Quốc đã đưa ra một
“gói hoàn chỉnh” dành cho các nước châu Phi: tiền, hỗ trợ về kĩ thuật và ảnh
hưởng tại các tổ chức quốc tế nhằm bảo vệ nước chủ nhà khỏi các trừng phạt quốc
tế[14]. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới đã nhấn mạnh những cảm nghĩ này qua
việc chỉ rõ sức hấp dẫn của cái gần như là viện trợ phát triển của Trung Quốc:
“Các nhà lãnh đạo châu Phi đã hoan nghênh cái gần như là viện trợ phát triển kiểu
mới của Trung Quốc, vì nó tránh bất kì sự can thiệp nào vào các vấn đề nội địa,
115
nhấn mạnh sự cộng tác và tình đoàn kết giữa các nước đang phát triển, và đưa ra
một mô hình phát triển khác trong đó nhà nước giữ vai trò trung tâm hơn.
Thương mại, viện trợ và đầu tư của Trung Quốc vào châu Phi đưa đến ít
nhất ba gợi mở cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc và ngoại giao của
phương Tây ở châu Phi. Thứ nhất, những lợi ích kinh tế đa dạng và các mối quan
hệ lịch sử của Trung Quốc với các nước ở châu Phi đã dẫn đến việc Trung Quốc
ủng hộ các chế độ vốn có tiếng không minh bạch về nhân quyền, như Sudan và
Zimbabwe. Các khoản tiền viện trợ và giúp đỡ của Trung Quốc đã bảo vệ các chế
độ đó từ sức ép của phương Tây, bao gồm cả các trừng phạt đa phương. Điều này
đã cản trở khả năng của ngoại giao phương Tây là đem lại thay đổi ở những nước
châu Phi này trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, sự chú ý đang ngày càng tăng của cộng đồng quốc tế cũng có
khả năng tạo ra một sự thay đổi dần trong ngoại giao của Trung Quốc ở châu
phi. Sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho Sudan không thể là tuyệt đối, do chịu sức
ép của quốc tế và Liên Hiệp Quốc; ví dụ, Bắc Kinh đã không cản trở (thậm
chí trong một vài trường hợp đã ủng hộ) các nỗ lực của Liên Hiệp Quốc nhằm áp
đặt các biện pháp trừng phạt hạn hẹp đối với Sudan, mặc dù rất miễn cưỡng. Nỗ
lực của các tổ chức phi chính phủ quốc tế đầu năm 2007 nhằm kết nối sự kiện thế
vận hội Olympic Bắc Kinh năm 2008 với sự ủng hộ hiện tại của Trung Quốc đối
với chính phủ Sudan qua việc gọi Thế vận hội năm 2008 là Thế vận hội “diệt
chủng” hoặc “Daufur” đã buộc các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải can thiệp nhiều
hơn vào việc giải quyết khủng hoảng nhân đạo ở Darfur. Một cách thông thường
hơn, các phản ứng tiêu cực từ công chúng các nước cộng hòa Châu Phi đối với các
hoạt động kinh doanh của Trung Quốc đã thúc đẩy các nhà lãnh đạo ở Bắc kinh
phải tìm cách khiến cho các nhà ngoại giao và lãnh đạo doanh nghiệp có những ấn
tượng tích cực về các hoạt động kinh doanh và các mối quan hệ chính trị của Trung
Quốc ở châu phi và các khu vực khác.
116
Thách thức thứ hai là viện trợ kinh tế của Trung Quốc đã làm suy giảm khả
năng gây sức ép của phương tây, ví dụ như các giới hạn trong viện trợ hay đầu
tư của Quỹ tiền tệ quốc tế, nhằm cải thiện việc cai quản đất nước của một số quốc
gia châu Phi. Thách thức thứ ba là sự ủng hộ đối với việc đầu tư vào châu Phi của
chính phủ Trung Quốc tạo ra một cuộc cạnh tranh không công bằng đối với các
doanh nghiệp châu Âu vốn không có khả năng tiến hành đầu tư phi lợi nhuận hoặc
đưa ra các loại hình viện trợ và giúp đỡ đa dạng (như chính phủ Trung Quốc làm)
để có thể giành được các hợp đồng. Trong cuộc cạnh tranh kinh doanh ở châu Phi,
các công cụ gây ảnh hưởng này của Trung Quốc là thứ không thể kiếm được đối
với các doanh nghiệp phương Tây.
Việc dính líu ngày càng nhiều của Trung Quốc vào khu vực châu mỹ Latinh
về căn bản (nhưng không hoàn toàn) được thúc đẩy bởi những cân nhắc về kinh tế:
mở đường tới các thị trường, các khoản đầu tư và các nguồn tài nguyên. Sự tăng
trưởng trong thương mại hàng hóa và đầu tư ở khu vực này là bằng chứng mạnh
mẽ về những động cơ kinh tế của Trung Quốc. Thương mại giữa Trung Quốc và
châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribe đã tăng lên nhanh chóng trong một vài năm
vừa qua, kết quả là, khu vực này ngày càng trở nên quan trọng đối với Trung Quốc.
Từ 1999 đến 2006, tổng giá trị thương mại hàng hóa đã tăng từ 8,2 tỷ đôla lên gần
70 tỷ đôla, tăng gần gấp 10 lần. Vào năm 2006, Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe
chiếm 4 % trong tổng thương mại toàn cầu của Trung Quốc, tăng phần đóng góp
của khu vực này lên 1,7 % kể từ 1999.
Trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến 2006, hàng nhập khẩu từ khu vực
này vào Trung Quốc đã tăng từ gần 3 tỷ đôla lên sát 34 tỷ đôla. Xét về giá trị,
Brazil, Chile, Argentina, Peru và Venezuela đóng góp hầu hết vào lượng nhập
khẩu của Trung Quốc năm 2006 Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ khu vực
này vào Trung Quốc bao gồm sắt, đồng, chì và các loại quặng khác, đậu nành, dầu
thô và các loại dầu khoáng sản khác, và điện máy. Hàng nhập khẩu của bất kì một
117
quốc gia nào ở Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe vào Trung Quốc chỉ bao gồm một
hay hai loại hàng hóa. Từ 1999 đến 2006, xuất khẩu của Trung Quốc tới Châu Mỹ
Latinh và vùng Caribe đã tăng từ 5,3 tỷ đôla lên 35,8 tỷ đôla,với các thị trường chủ
yếu là Mexico, Brazil, Panama, Chile, và Argenina. Trong khoảng thời gian nói
trên, Trung Quốc chủ yếu xuất khẩu các loại máy điện, các dụng cụ, đồ thêu, giầy
vải và các loại hóa chất hữu cơ khác.
Thương mại của Trung Quốc với châu Mỹ Latinh vừa là điềm may lại cũng
là điểm rủi đối với khu vực. Nó mở ra nhiều cơ hội cho các quốc gia giàu có tài
nguyên thiên nhiên như Brazil và Argentina, và cũng đem đến sự cạnh tranh khốc
liệt đối với những nước sản xuất các sản phẩm công nghiệp giá rẻ như Mexico. Cụ
thể, các sản phẩm dệt may và ngành kinh doanh quần áo của Mexico đã bị
tổn hại bởi sự nổi lên của Trung Quốc như là một nhà sản xuất vải sợi và quần áo
chủ yếu của thế giới, điều nay đã làm giảm sức cạnh tranh của Mexico ở các thị
trường vải sợi khác ở các quốc gia khác.
Đầu tư của Trung Quốc ở châu Mỹ Latinh cũng tăng trưởng không kém.
Trung Quốc hiện có nhiều dự án ở Argentina, Brazil, Chile, Cuba và Cộng hòa
Dominica, Guyana và Venezuela. Đầu tư của Trung Quốc ở Brazil, Argentina,
Chile và Venezuela tập trung chủ yếu vào cải thiện đường dẫn đến các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như quặng sắt, đồng và dầu (đối với Venezuela); theo đó, các
khoản đầu tư thường được rót vào các lĩnh vực khai thác mỏ, giao thông vận tải,
sản xuất và dầu khí. Từ 2003 đến 2007, dòng vốn đầu tư hàng năm của Trung
Quốc đã tăng từ 1 tỷ đôla lên 4, 9 tỷ đôla và tích lũy đầu tư của Trung Quốc đã
tăng từ 4,6 tỷ đôla lên 24,7 tỷ đôla. Tuy nhiên, sự đầu tư của Trung Quốc vào khu
vực có thể thực sự không được cao như trên giấy tờ. Vào năm 2007, điểm đến của
khoảng 95% FDI của Trung Quốc trong khu vực này là các đảo Cayman và các
đảo British Virgin – các quốc gia vốn được biết đến như là thiên đường về thuế. Và
khi một lượng lớn FDI vào Trung Quốc từ ba quốc gia trên, có khả năng các nhà
118
đầu tư Trung Quốc đã tái đầu tư khoản tiền ở Trung Quốc như vốn từ nước ngoài
nhằm kiếm lợi từ những sự phân bổ dành cho các nhà đầu tư nước ngoài (giống
như vé khứ hồi) .Đối với các vùng khác ở khu vực, vào năm 2007, FDI phi tài
chính của Trung Quốc chủ yếu được nhắm trực tiếp vào Mexico, Peru, Argentina,
Brazil, và Venezuela. Đầu tư phi tài chính vào châu Mỹ Latinh chủ yếu dành cho
việc khai thác và sản xuất tài nguyên, tuy vậy vẫn có một số hướng vào lắp ráp sản
xuất, viễn thông và dệt may.
Các mục tiêu về đối ngoại của Trung Quốc. Ngoài thương mại và đầu tư,
các hoạt động của Trung Quốc ở cả Châu Mỹ La tinh và châu Phi cũng phản ánh
những mục tiêu ngoại giao rõ ràng. Thứ nhất, ngoại giao Trung Quốc chủ yếu được
thiết kế nhằm hướng đến việc giảm sự ủng hộ dành cho Đài Loan. Trong 23 nước
có quan hệ ngoại giao chính thức với Đài Loan, hiện có 12 nước ở Châu Mỹ
Latinh. Con số này đã giảm xuống từ 14 hồi năm 2004, sau khi Costa Rica (2007),
Grenada (2005) và Dominica (2004) thay đối sự công nhận ngoại giao sang Bắc
Kinh ( và St. Lucia quay trở lại với Đài Loan vào năm 2007).[21] Bốn trong số 23
quốc gia có quan hệ ngoại giao với Đài Loan là ở châu Phi; con số này đã giảm
dần khi những quốc gia như Malawi (2008), Chad (2006), Senegal (2005) và
Liberis (2003) thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc.
Ngoại giao của Trung Quốc ở Châu Mỹ Latinh và Châu Phi hàng thập kỉ qua
là để thuyết phục, ép buộc và hối lộ các quốc gia để chuyển hướng lòng trung
thành trong ngoại giao của họ; các nỗ lực của Trung Quốc đã nhận được cường
độ mới trong những năm gần đây do khả năng đề nghị các viện trợ, đầu tư và các
sự lôi kéo tài chính sáng tạo khác ngày càng tăng. Ví dụ, Trung Quốc, trong một
thương vụ ngầm, đã bị phát hiện vào năm 2008, đã đồng ý vào tháng 6 năm
2007 mua 300 triệu đôla công trái chính phủ Costa Rica như một phần trong gói kế
hoạch lớn hơn nhằm lôi kéo Costa Rica chuyển hướng công nhận ngoại giao về
phía đại lục Trung Quốc. Trung Quốc đã và đang tạo ra các nỗ lực linh hoạt nhằm
119
thúc Paraguay, Guatemala và Panama làm giống như vậy. Như một sự biểu thị dấu
hiệu của một bầu không khí mới và ít đối đầu công khai hơn trong cách đề nghị đối
với khu vực. Như một sự biểu thị cho thái độ mới và ít công khai đối đầu hơn trong
cách thu hút khu vực của Trung Quốc, Bắc Kinh đã đồng ý góp các lực lượng cảnh
sát của mình vào chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc ở Haiti năm
2004, bất chấp quan hệ ngoại giao giữa Haiti và Đài Loan.
Thứ hai, Trung Quốc đang cố gắng xây dựng và duy trì các quan hệ song
phương nhằm bảo đảm đường đến các thị trường và các nguồn tài nguyên thiên
nhiên ở châu Phi và Mỹ Latinh. Trung Quốc đã và đang dùng ngoại giao cấp cao
trong ba đến năm năm qua nhằm đạt được những mục tiêu trên. Chỉ riêng năm
2004, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, hai nhân vật cấp cao nhất của đảng Cộng Sản
Trung Quốc, đều đã đến thăm Mỹ Latinh. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng
thường xuyên gặp gỡ với những đồng nghiệp Mỹ Latinh tại Bắc Kinh.
Ngoại giao cấp lãnh đạo ở châu Phi của Trung Quốc thậm chí còn sâu sắc
hơn so với ở Châu Mỹ Latinh (bảng 6.1). Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tận
dụng những chuyến viếng thăm này nhằm điều chỉnh mối quan hệ kinh tế và chính
trị đang ngày càng phức tạp với các nước châu Phi cũng như những hàm ý
trong chính sách Châu phi của mình đối với việc mở rộng hình ảnh quốc tế của
Trung Quốc (ví dụ, cuộc khủng hoảng nhân đạo ở Dafur, Sudan). Như đã ghi ở
trên, từ năm 2003, Hồ Cẩm Đào đã thăm Châu phi bốn lần và với tổng số là 18
quốc gia, một khối lượng từng có trong lịch sử mà một nhà lãnh đạo Trung Quốc
đã tạo ra trong một thời gian ngắn. Điều này phản ánh một cách rõ ràng ưu tiên
ngoại giao ở châu lục này.
Bảng 6.1
Các chuyến thăm tới châu Phi của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, 1996-
2009
120
Thời gian Lãnh đạo Trung Quốc Các quốc gia đến thăm
Tháng 5 Chủ tịch nước Jiang Zemin; Ai
– 1996 chuyến thăm đầu tiên trên cương cập, Ethiopia, Kenya, Mali, Na
vị chủ tịch nước mibia, Zimbabwe
Tháng 5 Thủ tướng Li Peng Cameroon,Gabon,Moza
– 1997 mbique,
Nigeria, Seychelles, Tan
zania,
Zambia
Tháng 1 Phó chủ tịch nước Hồ Cẩm Bờ biển Ngà, Ghana,
– tháng 2 – Đào; chuyến viếng thăm đầu tiên Madagascar, Nam Phi
1999 trên cương vị phó chủ tịch nước
Tháng 10 Chủ tịch nước Jiang Zemin Ma rốc, Nigeria
– tháng 11 –
1999
Tháng 4 Chủ tịch nước Jiang Zemin, Ai Cập, Nam Phi
– 2000 chủ tịch nước đầu tiền tới thăm
Nam Phi, làm chuyển hướng quan
hệ ngoại giao của Nam Phi sang
Trung Quốc thay vì với Đài Loan
vào năm 1998
Tháng 4 - Chủ tịch nước Jiang Zemin Li bi,Nigeria, Tunisia
2002
Tháng 4 - Chủ tịch nước Zhu Rongji Ai cập, Kenya
2002
Tháng 8 Chủ tịch nước Zhu Rongji Angieri, Cameroon, Ma
121
rốc, Nam Phi – tháng 9 –
2002
Tháng Thủ tướng Ôn Gia Bảo Ethiopia
12- 2003
Tháng 1- Chủ tịch nước Ôn Gia Bảo Angieri, Ai Cập, Gabon
tháng 2 – 2004
Tháng 6 - Phó chủ tịch nước Zeng Benin, Nam Phi, Togo,
2004 Qinghong Tunisia
Tháng 4 - Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào Kenya, Ma rốc, Nigeria
2006
Tháng 6 Thủ tướng Ôn Gia Bảo Angola, Ai cập, Ghana,
– 2006 Cộng Hòa Dân Chủ
Côngô, Nam Phi, Tanzania
Tháng 1- Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào Camerron, libi,
tháng 2 – 2007 Mozambique, Namibia,
Seychelles, Sudan, Zambia
Tháng 2 Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào Mali, Mauritius, Senegal
– 2009 , Tanzania
Nguồn: báo cáo trên các phương tiện truyền thông
Vào tháng hai năm 2007, Hồ Cẩm Đào đã thực hiện một cuộc viếng thăm
cấp nhà nước đến tám quốc gia Châu Phi, bao gồm cả chuyến dừng chân đầy tranh
cãi tại Sudan và Zimbabwe. Đáng chú ý, trong chuyến viếng thăm Sudan, Hồ
đã lần đầu tiên đưa ra những tuyên bố công khai ủng hộ chính phủ Sudan trong
122
việc giải quyết khủng hoảng nhân đạo ở Darfur, bao gồm việc kêu gọi Sudan cho
phép Liên Hiệp Quốc và các lực lượng gìn giữ hòa bình của Hiệp hội các quốc gia
châu Phi vào Darfur. Năm 2006, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đã tiến hành các
cuộc viếng thăm riêng rẽ tơi tổng cộng 11 quốc gia châu Phi, trong năm 2005, Ôn
Gia Bảo và một thành viên Hội Đồng chính trị khác đã tới thăm 8 nước châu Phi,
và trong năm 2004, Hồ Cẩm Đào và ba thành viên khác trong Hội đồng chính trị
đã tới thăm 12 nước châu Phi. Mục tiêu chủ chốt của các cuộc viếng thăm cấp lãnh
đạo này là mở thêm đường dẫn đến các nguồn tài nguyên của Châu Phi. Chuyến đi
thăm của Hồ Cẩm Đào năm 2004 và 2006 đều bao gồm những lần dừng chân ở các
quốc gia nhiều dầu như Nigeria và Angola. Nhưng chuyến thăm gần đây hơn của
Hồ, tới bốn quốc gia vào đầu năm 2009, đến những quốc gia không giàu về tài
nguyên là đưa ra tín hiệu rằng Trung Quốc đang hết lòng đối với sự phát triển kinh
tế và chính trị lâu dài của Châu Phi.
Mục tiêu ngoại giao thứ ba của Trung Quốc tại châu Phi và Mỹ Latinh là
nhằm thúc đẩy lợi ích của các nước đang phát triển và đưa họ vào trong các hệ
thống quốc tế. Trung Quốc thường tự quảng bá mình là “quốc gia đang phát triển
lớn nhất” và do đó, là một nhà bảo hộ tự nhiêm đối với quyền của các quốc gia
đó. Trung Quốc đã thúc đẩy một cách khoa trương một viễn cảnh chung bằng việc
ủng hộ các nguyên tắc ngoại giao như là bình đẳng, chủ quyền, hợp tác cùng có lợi,
phát triển kinh tế và không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia. Hướng
tiếp cận này đã đem lại cho Trung Quốc những lợi ích về kinh tế và địa chính trị.
Trung Quốc đã thực hiện một “biện pháp mềm mỏng” đối với viện trợ của Mỹ và
phương tây và đưa ra những chính sách, mà có thời điểm đã mang lại cho Trung
Quốc những đường đi thuận tiện. Trung Quốc cũng đúng vào hàng ngũ của các
nước Châu Phi và Mỹ Latinh nhằm đạt được những mục tiêu ngoại giao chuyên
biệt. Các nước đang phát triển có thể là một khối có sức mạnh bẩu cử trong các tổ
chức quốc tế. Họ có thể giúp ngăn ngừa những lá phiếu chống lại Trung Quốc, như
123
trong nghị quyết của Liên Hiệp Quốc về nhân quyền trước đây. Sự vận động các
quốc gia đang phát triển ở trong Liên Hiệp Quốc của Trung Quốc sẽ được bàn luận
kĩ hơn ở dưới đây.
Trung Quốc đã theo đuổi các mục tiêu chính trị của mình thông qua ngoại
giao song phương và đa phương rộng rãi. Tại châu Phi, Trung Quốc đã thiết lập
các quan hệ chiến lược với Nam Phi, Nigeria, và Angola, cũng như là với toàn thể
khu vực. Vào năm 2003, 2004, Trung Quốc đã thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược
với Argentina, Brazil, Mẽico và Venezuela ( bảng 5.4). Trung Quốc cũng cố gắng
sử dụng nhưng mối quan hệ đối tác này ở châu Mỹ Latinh nhằm đánh tín hiệu đầy
đủ với Hoa Kỹ rằng Bắc Kinh đang nắm giữ ảnh hưởng ở khu vực vốn truyền
thống chịu ảnh hưởng của Hoa Kỳ.
Thực tế là ngoại giao phát triển, chủ quyền và chủ nghĩa đa phương của
Trung Quốc cùng với nhiều quỹ vốn Mỹ Latinh và châu Phi, các quan hệ với
Trung Quốc đem lại cho các nước này những sự nâng cấp về kinh tế và ngoại giao
trong nên ngoại giao đôi khi không hấp dẫn của Hoa Kỳ và các nước phương Tây.
Hugo Chavez ở Venezuela và vươn ra ở một mức độ nhỏ hơn, Luiz Inácio Lula da
Silva ở Brazil đã sử dụng những mối quan hệ của họ với Bắc Kinh nhằm điều
chỉnh quan hệ của chính nước họ với Hoa Kỳ. Chavez đã liên tục – nhưng không
thành công- lôi kéo Trung Quốc, bằng đề xuất mở rộng hơn việc tiếp cận các mỏ
dầu thô, nhằm đưa Trung Quốc vào liên minh chống lại sức mạnh của Hoa
Kỳ. Mặc dù Trung Quốc đã chấp nhận những đề nghị về việc mở rộng sự tiếp cận
đối với dầu thô và các dự án đầu tư có liên quan, Trung Quốc đã từ chối những nỗ
lực của Chavez nhăm đưa Trung Quốc thành một phần của mối quan hệ đối tác
cùng chống lại Hoa Kỳ.
Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với những khu vực này cũng có
một yếu tố đa phương đang phát triển,ở cả trong những mục tiêu và việc thực
thi của Trung Quốc. Vào năm 2000, Trung Quốc đã thiết lập Diễn đàn hợp tác
124
Trung Quốc – Châu Phi nhằm cũng nhau thảo luận các biện pháp phát triển kinh tế
của khu vực và “để tiến tới một sự đồng thuận lớn hơn về việc thiết lập một trật tự
kinh tế và chính trị quốc tế công bằng trong thế kỉ 21. Diễn đàn này đã cho phép
Trung Quốc tăng ảnh hưởng chính trị của mình đối với các nhà lãnh đạo châu Phi,
ví dụ, Trung Quốc thường tận dụng các cuộc gặp CACF nhằm giới thiệu các gói
viện trợ chính và tăng cường thương mại, như vào tháng 11 năm 2006[26]. Trung
Quốc đã tham gia vào Tổ chức của các chính phủ châu Mỹ trong tháng 5 năm 2004
với tư cách là người quan sát và đã sử dụng vị trí của mình nhằm cản trở những nỗ
lực tương tự của Đài Loan. Trung Quốc cuối cùng cũng đã đạt được thỏa thuận
để tham gia vào Ngân hàng phát triển xuyên châu Mỹ năm 2008, qua đó tăng khả
năng giành được những dự án phát triển có lợi nhuận cao hơn ở châu Mỹ Latinh.
Trung Đông
Các lợi ích kinh tế và an ninh của Trung Quốc ở Trung Đông đang ngày
càng lớn và đa dạng. Đây không còn là vùng đất chỉ có lợi ích cấp ba và chỉ thỉnh
thoảng được quan tâm bởi các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc. Sự dính líu
của Trung Quốc vào khu vực Trung Đông đang ngày càng tăng. Trong thập kỉ vừa
qua, Trung Quốc đã nâng tầm quan hệ ngoại giao, kinh tế, văn hóa và quân sự của
mình với một vài quốc gia trong khu vực. Nhu cầu năng lượng ngày càng tăng của
Trung Quốc là một động cơ quan trọng cho việc làm trên nhưng không phải là duy
nhất. Ngoại giao song phương và đa phương của Trung Quốc ở Trung Đông cũng
được thúc đẩy bởi sự tìm kiếm các thị trường ngoài nước và các cơ hội đầu tư, bởi
nguyện vọng thúc đẩy ổn định ở một khu vực đang ngày càng trở nên quan trọng
đối với Bắc Kinh, và bởi ước muốn tạo ra cấp độ trong ngoại giao đa phương của
Trung Quốc vượt ra ngoài Trung Đông.
Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc cũng duy trì sự thận trọng trong
việc tham gia vào các vấn đề chính trị trong khu vực, đặc biệt là vấn đề Israel –
Palestine. Trung Quốc đã tìm kiếm và đạt được tiếng nói lớn hơn nhưng điều này
125
sẽ khẳng định sự can thiệp sâu hơn, ngay cả khi bị lôi kéo bởi các chủ thể trong
khu vực. Điều này đang nổi lên như một căng thẳng mới trong nỗ lực mở rộng sự
hiện diện và ảnh hưởng của Trung Quốc ở Trung Đông.
Sự gia tăng can thiệp của Trung Quốc vào Trung Đông đang được bắt đầu từ
một vạch ranh giới thấp. Trung Quốc hiếm khi dành các nguồn chính trị hay ngoại
giao cho các vấn đề Trung Đông trước những năm 2000. Trung Quốc thiếu chuyên
môn sâu rộng về khu vực này, nhất là so với mức độ hiểu biết chuyên môn mà họ
có về Mỹ hay Đông Á. Sự ủng hộ mạnh mẽ mang tính khoa trương của Trung
Quốc (đặc biệt là dưới thời Mao) đối với những động cơ của Palestine và Ả rập đã
thay đổi khi Trung Quốc giảm bớt những yếu tố lý tưởng trong chính sách đối
ngoại của mình trong những năm 1980 và, đi theo hướng thực dụng hơn, như khi
họ cố gắng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn với Israel nhằm mở đường cho việc
nhập khẩu vũ khí loại thường và các công nghệ liên quan.( kể từ những năm
1980, Israel đã trở thành một trong những nước cung cấp vú khí bên ngoài lớn nhất
cho quân đội Trung Quốc).
Hơn thế nữa, Trung Đông chưa bao giờ là một khu vực có giá trị chiến lược
cao đối với Trung Quốc và đương nhiên là cũng không đạt được gần với mức độ
quan trọng như Đông và Nam Á. Sự bất ổn định ở Trung Đông hiếm khi gây được
sự quan tâm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, như đã chỉ ở phần trên về thiên
hướng giới thiệu các hệ thống vũ khí gây bất ổn định vào trong các cuộc xung
đột khu vực.
Vào những năm 1980 và 1990, nét chính trong ngoại giao với Trung Đông
của Trung Quốc là việc bán vũ khí cho khu vực này, bên cạnh việc ủng hộ một
cách hùng hồn cho các động cơ của Ả rập. Mối quan hệ này chủ yếu là vì lợi
nhuận, ngoại trừ trường hợp của Iran, nơi mà Trung Quốc cũng tận dụng những
giao dịch này nhằm duy trì một vài ảnh hưởng của khu vực và nâng cấp độ của
mình trong việc đương đầu với Hoa Kỳ. Các ví dụ về việc xuất khẩu các loại vũ
126
khí chính của Trung Quốc bao gồm việc buôn bán các loại vũ khí thông thường và
thủy lôi cho Iraq và Iran trong cuộc xung đột của họ trong những năm 1980; việc
buôn bán những tên lửa tầm trung tới Ả rập Saudi ( 1987 – 1988); hợp tác về
nguyên tử thường dân với Iran, đã chấm dứt vào năm 1997, và sự trợ giúp lâu dài
và rộng lớn đối với các chương trình tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và thủy lôi của
Iran.
Kể từ những năm 1980, mối quan hệ của Trung Quốc với Iran đã trở thành
một khía cạnh quan trọng nhất và nhức nhối nhất trong chính sách của Trung Quốc
đối với Trung Đông- tới mức độ mà Bắc Kinh đã có một chính sách rõ ràng và chặt
chẽ đối với khu vực này. Mối quan hệ Trung Quốc – Iran luôn hiện ra lù lù đối với
Bắc Kinh bởi vì những sự phức tạp mà nó tạo ra cho mối quan hệ của Trung Quốc
với Hoa Kỳ, nói theo cách khác, sự qua lại giữa Trung Quốc và Iran đã (và đang)
bị ảnh hưởng lớn, theo con mắt của Trung Quốc, bởi những gắn kết của mối quan
hệ Mỹ - Trung. Những khác biệt rõ rệt trong cách nhìn của Trung Quốc và Mỹ về
các dự định của Iran như mà một chủ thể khu vực và như một tác nhân làm tăng
thêm những căng thẳng trong mối quan hệ Mỹ - Trung. Trong khi các nhà hoạch
định Hoa Kỳ nhìn nhận Iran như là nguồn chính gây bất ổn khu vực ( do việc Iran
tài trợ cho các hoạt động khủng bố và việc theo đuổi WMD), Trung Quốc lại tìm
kiếm mối quan hệ ổn định và thân tình với Iran trên cở sở mối quan hệ thương mại
về vũ khí cùng có lợi cho cả hai bên, việc có cùng nhận định là cả hai nước đều là
những nền văn minh lớn, những nỗ lực chung nhằm phát triển hệ thống quốc tế đa
cực hơn, và những nghi ngờ chung của họ đối với Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng lợi dụng
mối quan hệ của mình với Iran nhằm nâng tầm của mình trong quan hệ Mỹ -
Trung, cụ thể là trong việc chống lại những chính sách của Hoa Kỳ như là buôn
bán vũ khí với Đài Loan. Một vài trong số những động lực đó vẫn còn cho đến
ngày nay.
127
Trái ngược lại với sự chống đối Trung Đông trước đây, Trung Quốc đang
tăng cường sự qua lại song phương và đa phương đối với các quốc gia trong khu
vực, và Bắc Kinh giờ đây không còn là một chủ thể bị động như trước nữa. Trung
Quốc đã thức đẩy “các mối quan hệ đối tác chiến lược” với hai nước chủ chôt là Ả
rập Xê-út (1999) và Iran (2000), và có các cuộc trao đổi ngoại giao thường xuyên
và mở rộng hơn với cả hai. Những nỗ lực tận tâm của Trung Quốc nhằm phát triển
quan hệ của Trung Quốc với các nước Ả rậplà một ví dụ điển hình cho mục tiêu
của Trung Quốc nhằm đa dạng hóa ảnh hưởng chính trị và kinh tế của mình ở khu
vực này. Trung Quốc đã thiết lập Diễn đàn hợp tác Trung - Ả rập năm 2004 nhằm
khuyến khích hợp tác về chính trị trong khu vực, thương mại, khoa học, giáo dục,
văn hóa, và chăm sóc sức khỏe giữa Trung Quốc và các nước Ả rập. Bắc Kinh đã
duy trì đối thoại với Hội đồng hợp tác Vịnh Ả rập; Hồ Cẩm Đào đã tiếp xúc với
giới lãnh đạo của GCC vào tháng 4 năm 2006. Ngay sau vụ tấn công khủng bố
nhằm vào nước Mỹ ngày 11/9, Trung Quốc đã cử một đặc phải viên đến Trung
Đông nhằm “thúc đẩy sự hòa giải và đối thoại hòa bình” đối với tiến trình hòa bình
ở Trung Đông, mặc dù Trung Quốc đã tránh việc can thiệp thực sự vào tiến trình
đó. Vào tháng 10 năm 2006, tiếp ngày sau cuộc xung đột giữa Israel và Li băng
xảy ra trướ đó trong mùa hè, Trung Quốc đã cam kết tăng quân số của lực lượng kĩ
thuật Trung Quốc đang hồ trợ lực lượng tạm thời của Liên Hiệp Quốc trong chiến
dịch gìn giữa hòa bình ở Li Băng lên 1000 lính; đáng chú ý là sự cam kết của
Trung Quốc đến sau khi Liên Hiệp Quốc phải gặp phải vấn đề tìm kiếm các nhà tài
trợ (ngay cả từ ác nước thành viên thường trực trong Hội Đồng Bảo An) cho các
hành động mở rộng việc gìn giữ hòa bình ở Nam Li Băng.
Nhằm tăng cường ảnh hưởng chính trị chung của mình và mức độ kinh tế (ví
dụ năng lực của Trung Quốc nhằm đạt được các hợp đồng kinh doanh), Trung
Quốc đã đưa ra viện trợ phát triển và hỗ trợ về cơ sở hạ tầng đối với nhiều nước
Trung Đông, đáng kể nhất nhát là chính quyền Palestine và Iran. Trung Quốc đã
128
tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận đa phương về tương lai của Iraq. Trung
Quốc đã đóng góp vào công cuộc tái thiết Iraq qua việc chấp thuận, vào tháng 6/
2007, xóa khoản nợ hàng tỉ đô của Iraq và đề nghị hàng triệu đôla về viện trợ nhân
đạo. Vào giữa năm 2008, công ty dầu nhà nước Trung Quốc đã được chính
phủ Iraq trao cho hợp đồng nước ngoài đầu tiên về việc phát triển một lĩnh vực dầu
của Iraq. Việc sử dụng viện trợ nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường này cũng
tương tự ở Châu Phi như đã đề cập ở trên.
Động cơ nào đã thúc đẩy những sự thay đổi chính sách này? Ngoại giao
Trung Đông của Trung Quốc đang ngày càng, nhưng không hoàn toàn, bị ảnh
hưởng bởi như cầu về dầu và khí gas tự nhiên, Vào năm 2008, khoảng 50% lượng
dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đến từ Trung Đông, điều này đã khiến cho khu
vực này thành nơi Trung Quốc nhập khẩu dầu chủ yếu. Con số đó vẫn duy trì trong
nhiều năm, ngay cả khi lượng nhập khẩu của Trung Quốc từ những khu vực khác,
đáng kể nhất là Nga và Châu Phi, đang tăng lên một cách thực chất. Nhu cầu dầu
của Trung Quốc đang gia tăng và dường như sẽ được đáp ứng bởi sự gia tăng nhập
khấu, bao gồm cả từ khu vực này. Các dự án của cơ quan năng lượng quốc tế mà
Trung Quốc dựa vào nguồn nhập khẩu dầu sẽ tăng từ 46% về tổng nhu cầu năm
2004 lên 63% vào năm 2015 và 77% vào năm 2030. Hơn một nửa lượng dầu nhập
khẩu này có khả năng tiếp tục đến từ khu vực Trung Đông, bất chấp những sự dự
đoán có thể dao động. Chưa gì Trung Quốc đã có một sự thâm hụt thương mại với
các nước sản xuất dầu chính ở Trung Đông, đặc biệt là Ả rập Xê út, Iran và Oman.
Đồng thời, cả ba quốc gia này đã cung cấp cho Trung Quốc 37% lượng dầu thô
nhập khẩu năm 2007. Không ngạc nhiên gì, dầu, và không phải việc xuất khẩu các
mặt hàng của Trung Quốc, chiếm lượng lớn trong quan hệ thương mại của Trung
Quốc với các quốc gia Trung Đông. Israel, Ai cập và các tiểu vương quốc Ả rập
thống nhất là những ngoại lệ trong khuynh hướng này. Các tiểu vương quốc Ả rập
thống nhất từ nhiều năm này đã trở thành nhà nhập khẩu hàng Trung Quốc lớn nhất
129
trong khu vực. Trung Đông có khả năng trở thành một thị trường xuất khẩu sinh lời
cho Trung Quốc khi mà các quốc gia nhập khẩu công nghệ của Trung Quốc, như
trường hợp Ai cập.
Tầm quan trọng của năng lượng được phản ảnh trong ngoại giao khu vực
của Trung Quốc. Trung Quốc tiếp tục hành động siêng năng nhằm bảo đảm thương
mại về dầu và khí gas thiên nhiên cũng như những thỏa thuận đầu tư với Iran và Ả
rập Xê út như là một cách nhằm đảm bảo hướng tiếp cận lâu dài. Một công ty dầu
thuộc sở hữu của nhà nước Trung Quốc, Sinopec, vào tháng 12 năm 2007, đã kĩ
một thỏa thuận có trị giá từ 70 tỷ đến 100 tỷ đôla nhằm phát triển giếng dầu khổng
lồ Yadavaran ở Iran (để đổi lấy những cam kết về việc mua khí gas tự nhiên từ
Iran), mặc dù thỏa thuận này chưa được hoàn thành. Vào tháng 12 năm 2006, một
công ty khác thuộc quyền sở hưu của nhà nước là Tập đoàn dầu ngoài khơi quốc
gia Trung Quốc, đã kí bản ghi nhớ về thỏa thuận sơ bộ với Iran trong việc đầu tư
16 tỷ đôla vào phát triển mỏ dầu ở Bắc Pars và việc xây dựng các thiết bị khí hóa
lỏng. Tại Ả rập Xê út, Sinopec vào tháng 1 năm 2004, cũng đã đảm bảo việc khai
thác mỏ khí gas tự nhiên ở Rub al-Khaili trong một cuộc bán đấu giá mà đã thất bại
trong việc thu hút lợi ích của hầu hết các công ty quốc tế. Vào tháng ba năm 2006,
Sinopec, Saudi Aramco, Exxon Mobil, và chính quyền địa phương Fuji đã kết thúc
các thỏa thuận mạo hiểm chung về mở rộng năng lực của nhà máy tinh chế Fuji,
nhà máy sẽ chủ yếu lọc dầu thô của Ả Rập.
Mong muốn tiếp cận rộng hơn đối với các nguồn cung năng lượng ở Trung
Đông của Trung Quốc không nên được coi là động cơ cho ngoại giao của Trung
Quốc ở khu vực này. Bất chấp sự phụ thuộc của Trung Quốc vào lượng dầu nhập
khẩu đang tăng nhanh và việc Trung Quốc nhập nhiều dầu thô từ Trung Đông, điều
cũng khởi động cho một sự đa dạng hóa chiến lược năng lượng quốc gia mà cuối
cùng có thể làm dịu đi sự gia tăng về nhập khẩu. Trung Quốc cũng đa dạng hóa các
nguồn năng lượng nhập khẩu, đặc biệt từ các khu vực có sự bất ổn chính trị và
130
ngoại giao phức tạp như Trung Đông. Trung Quốc đang lo lắng về việc phụ thuộc
vào những chuyến hàng chở năng lượng bằng thuyền qua những tuyến đường biển
nguy hiểm, những tuyến đường mà phần lớn dầu ở Trung Đông đi qua. Trung
Quốc đang tìm kiếm thêm cả các nhà cung cấp và các tuyến đường vận chuyển các
nguồn năng lượng đến Trung Quốc. Lượng dầu thô Trung Quốc nhập khẩu từ Nga
lớn (9% năm 2007) và tăng lên nhanh chóng (với mức tăng 25% năm 2007). Trung
Quốc đang đầu tư vào rất nhiều dự án trong khu vực Trung Á (đáng kể nhất là ở
Kazakhstan) nhằm tạo điều kiện cho việc vận chuyển dầu và các nguồn khí gas tự
nhiên bằng đường bộ. Nỗ lực này đã được phản ánh ở mức độ nào đó trong việc
nhập khấu thô của Trung Quốc: Mức tăng trưởng nhập khấu của Trung Quốc từ
Trung Đông đã chậm dần xuống 9% vào năm 2006, và mức tăng trưởng trong nhập
khẩu từ Châu Phi và châu âu – á đã tăng đáng kể lên 19% và 30%.
Bên cạnh an ninh năng lượng, Bắc Kinh còn lo ngại đến sự gia tăng chủ
nghĩa cực đoán Hồi giáo ở Trung Đông, họ lo lắng rằng nó có thế khuyến khích và
trợ giúp về mặt vật chất cho các phần tử ly khai Hồi giáo Uighur ở tỉnh
Xinjiang. Những lo ngại về chủ nghĩa cực đoan và mạng lưới khủng bố xuyên quốc
gia là một lý do mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc bày tỏ thường
xuyên hơn, trong những năm vừa qua, các mối quan ngại về sự bất ổn khu vực.
Những quan ngại này đã thúc đẩy những nỗ lực của Trung Quốc nhằm gia tăng sự
ổn định thông qua nhiều viện trợ và can thiệp ngoại giao hơn. Trung Quốc đã cử
một đặc phải viên đến khu vực và tham gia vào các cuộc đàm phán về tiến trình
hòa bình, như tiến trình Annapolis năm 2007- 2008. Cùng lúc đó, một mục tiêu rõ
ràng đối với các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc là tránh bị kéo sâu vào các
vấn đề chính trị ở Trung Đông, vốn được họ coi là quá phức tạp để giải quyết và
phá hoại các nguồn ngoại giao của Trung Quốc. Cuối cùng, việc hoạch định chính
sách Trung Đông của Trung Quốc là một phần nằm trong nỗ lực rộng lớn của Bắc
Kinh nhằm thúc đẩy quan điểm của Trung Quốc về việc xây dựng một hệ thống đa
131
cực quốc tế trong đó Bắc kinh có thể thúc đẩy sự liên minh giữa các quốc gia đang
phát triển nhằm tăng cường vị thế của Trung Quốc tại ác tổ chức đa phương quan
trọng như là Liên Hiệp Quốc.
Sự tiếp cận của Trung Quốc đối với Trung Đông tiếp tục được định hình
thông qua quan hệ của Trung Quốc với Mỹ và nhận thức của Trung Quốc đối với
các mục tiêu của Mỹ tại khu vực. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra rằng sự
hiện diện của Mỹ tại Trung Đông được Washington coi như là một lợi ích chiến
lược, rằng sự hiện diện ngoại giao và quân sự của Trung Quốc sẽ kéo dài hàng thập
kỉ, và rằng chính sách cảu Mỹ là thiết yếu cho sự ổn định khu vực cũng như là một
nguồn của của nhiều bất ổn định. Các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc nuôi
dưỡng những sự nghi ngờ sâu sắc rằng những dự định lâu dài của Mỹ là thống trị
khu vực này và các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường bất đồng với những chính
sách chuyên biệt mà Mỹ đã sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra (đáng
chú ý là cuộc xâm lược vào Iraq năm 2003) . Các nhà chiến lược Trung Quốc cũng
nhận ra rằng sự can thiệp của Mỹ vào Iraq cũng làm bận tâm các nhà lãnh đạo Mỹ
(và cũng kéo các nguồn quân sự và ngoại giao của Mỹ) và điều này cũng đã chào
đón một khoảng trống để thở trong mối quan hệ Mỹ - trung và chuyển hướng quan
tâm của Mỹ ra khỏi Đông Á.
Những nhìn nhận của Trung Quốc về vai trò khu vực của Mỹ biểu thị trong
một hành động cân bằng trong ngoại giao Trung Đông của Trung Quốc – một điều
mà đang ngày càng trở nên phứ tạp đối với Bắc Kinh khi mà các lợi ích của Trung
Quốc đang ngày càng gia tăng. Trugn Quốc đang cố duy trì quan hệ tích cực một
mặt là với cả hai nhà nước Ả rập Sunni và Shia,mặt khác, với Israel và các nước Ả
rập. Trung Quốc cũng cố tránh cá hành động có thể đẩy Trung Quốc vào thế đối
đầu trực tiếp với Mỹ, như là việc buôn bán vũ khí tối tân hay một sự liên hệ mật
thiết với Iran. Cùng lúc đó, Bắc Kinh muốn xây dựng và duy trì các mối quan hệ
chính trị mà sẽ đảm bảo việc tiếp cận các nguồn tài nguyên và thị trường, ngay cả
132
khi điều này bao gồm việc giữ vững quan hệ với các quốc gia đầy tranh cãi như
Iran. Bắc Kinh cũng theo đuổi những chính sách mà có thể ngăn ngừa Mỹ siết chặt
khả năng của Trung Quốc trong việc thực hiện ảnh hưởng chính trị và kinh tế; điều
này biểu lộ trong viện trợ vùng của Trung Quốc, việc mở rộng các quan hệ đối
ngoại, và tiếp tục theo đuổi các thỏa thuận năng lượng và xuất khẩu công nghệ vũ
khí tới Iran bất chấp những sự chống đối của Mỹ.
Hướng tiếp cận “người trung gian” của Trung Quốc đối với những tranh cãi
của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc trong vấn đề chương trình vũ khí hạt nhân
của Iran xa hơn phản ánh nỗ lực của Trung Quốc nhằm cân bằng những mực tiêu
đa phương ở khu vực, đặc biệt là những lợi ích của Trung Quốc trong việc không
phát triển nhanh và ổn định khu vực, về một mặt và sự tiếp cận đến những nguồn
cung cấp năng lượng và các mối quan hệ ổn định với Iran, về mặt khác.
Tóm lại, việc can thiệp hoạch định chính sách đối với Trung Đông của
Trung Quốc là nhằm tập trung vào việc đa dạng hóa các quan hệ chính trị và kinh
tế để đảm bảo những quyền lợi hợp lý của Trung Quốc trong khu vực. Mong muốn
của Trung Quốc nhằm tiêos cận các nguồn cung năng lượng đóng vai trò chủ đạo
nhưng không phải hoàn toàn trong những tính toán của Bắc Kinh. Khi những lợi
ích vật chất này gia tăng, Tiền đặt cọc của Trung Quốc trong việc tăng cường sự ổn
định khu vực dường như sẽ gia tăng theo; thực chất đã có bằng chững về việc này.
Sự phát triển này, đổi lại, có thế thúc giục sự từ bỏ có thể tránh được trước đây
trong ngoại giao Trung Đông của Trung Quốc điều mà đẩy Bắc Kinh đóng góp vào
các tiến trình khu vực hoặc quốc tế nhằm điều chỉnh các hành vi quốc gia( như
việc Iran ủng hộ chủ nghĩa khủng bố và phổ biển các loại vũ khí). Gạt những xu
hướng này sang một bên,nội dung rộng lớn hơn của ngoại giao Trung Đông của
Trung Quốc không nên bị đánh mất: Chính sách đối ngoại của Trung Quốc sẽ tiếp
tục có nhiệm vụ hàng đầu là các nước láng gi ềng châu Á của Trung Quốc và mối
quan hệ của Trung Quốc với các cường quốc. Ngay cả trong các mối quan hệ của
133
Trung Quốc với các nước đang phát trine, Trung Đông cũng không hiện ra nhằm
thu vào kho như là các nguồn kinh tế và chính trị của Trung Quốc tương tự như
mối quan hệ của Trung Quốc với châu Phi, mặc dù dự tính và các hoạt động của
Bắc Kinh ở Trung Đông đang gia tăng.
Ngoại giao đa phương
Từ giữa thập niên 1990, quan điểm của Trung Quốc về những tổ chức đa
phương đã chuyển đổi từ thụ động và hoài nghi thành chủ động. Những người
hoạch định chính sách của Trung Quốc cho rằng những tổ chức đa phương là cơ sở
để đạt được những mục tiêu của nước này là tiến tới “đa cực hoá”, thúc đẩy sự nổi
lên của một “trật tự quốc tế công bằng và hợp lý”, và “xây dựng một thế giới hài
hòa”. Tầm quan trọng của sự đa phương hoá đang ngày càng nâng cao. Từ năm
2002, những nhà lãnh đạo Trung Quốc, các nhà hoạch định chính sách và hãng
truyền thông đã bắt đầu giảm dần việc kêu gọi “vì thế giới nhiều cực hơn” và ít nói
tới “những siêu cường chính trị và bá quyền”; thay vào đó, họ bắt đầu nhấn mạnh
đến vai trò của các tổ chức đa phương trong việc giải quyết những thách thức về
kinh tế và an ninh toàn cầu.
Những khẩu hiệu này không chỉ dừng lại ở giá trị biểu tượng. Vào năm
2004, những nhà lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc đã dứt khoát giương cao tư tưởng
về “sự hợp tác”, cùng với quan niệm chung về “hoà bình và phát triển”, như là ba
nguyên tắc chính của ngoại giao Trung Quốc. Quan điểm thứ ba đã nhấn mạnh
cam kết của Trung Quốc với chủ nghĩa đa phương như là một cơ chế của việc bảo
đảm và cũng là một dấu hiệu của việc Trung Quốc tăng cường sử dụng một cách
rộng rãi những tổ chức như vậy. Do đó, có một cơ sở chính sách vững chắc cho sự
ưu tiên này trong ngoại giao chính thức của Trung Quốc – một trong số đó là phê
chuẩn ở cấp độ cao nhất của ĐảNG CộNG SảN Trung Quốc. Điều chú ý nhất là
chủ nghĩa đa phương đã trở thành một cột trụ trong chính sách ngoại giao của chủ
tịch Hồ Cẩm Đào và là cách để tạo nên sự khác biệt (cho dù không rõ ràng lắm)
134
với các chính quyền trước đó ở Trung Quốc trong cách tiếp cận các vấn đề ngoại
giao.
Trung Quốc trong Liên Hợp Quốc
Biểu hiện chủ yếu của việc nước này sử dụng những tổ chức đa phương để
thúc đẩy việc thực hiện những mục tiêu của mình được thể hiện qua các hoạt động
của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc đã ngày càng tham gia và khẳng
định mình trong những hoạt động của Liên Hiệp Quốc; bao gồm cả trong Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc và những cơ quan khác của Liên Hiệp Quốc, như là Cơ
quan năng lượng nguyên tử quốc tế, Hội nghị về giải trừ quân bị. Với Bắc Kinh thì
nước này ủng hộ Liên Hiệp Quốc như là cơ quan có vai trò phát triển chủ nghĩa đa
phương và xây dựng một hệ thống đa cực quốc tế. Như chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã
nói trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm Liên Hiệp Quốc lần thứ 60 năm 2005:
“Chúng ta nên duy trì thể chế đa cực để thấy rõ được nền an ninh chung… Liên
Hiệp Quốc với tư cách là nòng cốt của cơ cấu an ninh tập thể, giữ một vai trò
không thể thay thế trong hợp tác quốc tế để đảm bảo an ninh toàn cầu. Với vai trò
như vậy, Liên Hiệp Quốc chỉ có thể được tăng cường sức mạnh chứ không thể bị
suy giảm vai trò của mình.
Trung Quốc đang tiếp tục theo đuổi một số mục tiêu trong các hoạt động tại
Liên Hiệp Quốc của mình. Đầu tiên, nước này nỗ lực nâng tầm của Liên Hiệp
Quốc với vai trò là tổ chức đa phương đứng đầu mà có thể giúp thực hiện mục tiêu
của Trung Quốc về “Nền dân chủ trong quan hệ quốc tế” và xây dựng “một trật tự
quốc tế công bằng và hợp lý”. Với việc nắm quyền phủ quyết, là thành viên thường
trực của hội đồng bảo an, những mục tiêu nêu trên không mang tính chất thực hiện
tư tưởng của chủ nghĩa Cộng sản mà trực tiếp thuc đẩy quan hệ đối ngoại của
Trung Quốc.
Về mặt thực tế, điều có ý nghĩa là việc Trung Quốc sử dụng vị trí của mình
để thay đổi những hoạt động của Liên Hiệp Quốc đối với những việc Trung Quốc
135
phản đối và thúc đẩy những việc mà Trung Quốc ủng hộ. Ví dụ như, mặc dù hoan
nghênh Liên Hiệp Quốc như là một thành trì vững chắc cho hợp tác đa phương,
nhưng vì những mục đích thực tế, Trung Quốc phản đối việc tăng số lượng thành
viên thường trực trong Hội đồng bảo an, gồm có: Nhật Bản, Ấn Độ, và Brazil.
Việc Trung Quốc sử dụng Liên Hiệp Quốc như là công cụ thực hiện các mục tiêu
toàn cầu của nước này ngày càng được phản ánh một cách mạnh mẽ hơn trong việc
Trung Quốc kiềm chế hay thay đổi lập trường của Mĩ trong các vấn đề an ninh gây
tranh cãi ở HĐBA như Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan và Myanmar.
Thứ hai, từ trước đến nay, Trung Quốc luôn coi Liên Hiệp Quốc như là một
tổ chức hàng đầu để giảm sự ủng hộ của quốc tế đối với Đài Loan và thúc đẩy các
quốc gia chuyển quan hệ ngoại giao chính thức từ Đài Loan sang Bắc Kinh. Hai
trong sáu quyền phủ quyết của Trung Quốc trong hội đồng bảo an đã được dùng để
phản đối việc Liên Hiệp Quốc sử dụng lực lượng giữ gìn hoà bình để hỗ trợ các
quốc gia công nhận độc lập của Đài Loan. Trong các hoạt động ngoại giao liên
quen đến vấn đề Đài Loan ở Liên Hiệp Quốc, Trung Quốc ngày càng trở nên tế nhị
hơn nhưng cách thức phản đối như vậy thì vẫn mang tính điển hình trong chính
sách của nước này.
Thứ ba, Trung Quốc lợi dụng Liên Hiệp Quốc để cải thiện và thúc đẩy xây
dựng hình ảnh của mình như là một siêu cường xứng đáng được tôn trọng; trong
những năm gần đây, Trung Quốc đã sử dụng những hoạt động trong hội đồng bảo
an để thể hiện rằng nước này là “một nước lớn đang phát triển có trách nhiệm”,
đang tìm kiếm việc giải quyết cho những thách thức chung về an ninh toàn cầu như
việc phát triển vũ khí có sức huỷ diệt lớn và chủ nghĩa khủng bố.
Mục tiêu này của Trung Quốc ám chỉ chất lượng sự tham gia của Trung
Quốc vào các hoạt động của Liên Hiệp Quốc đã được củng cố, và nó sẽ trở nên
minh bạch hơn như vai trò là một chính phủ. Những hoạt động tích cực của Trung
Quốc đã được phản ánh một cách rõ ràng trong những đóng góp toàn diện của
136
Trung Quốc đối với nhưng hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc; Nước
này đã đóng góp nhiều hơn so với những nước thành viên thường trực khác trong
Hội đồng bảo an. Ngoài ra, Trung Quốc đã tham gia vào các quá trình do tăng
cường sự minh bạch trong các vấn đề quốc phòng do Liên Hiệp Quốc chỉ đạo. Quá
trình này đòi hỏi có báo cáo chi phí quốc phòng hàng năm cho Liên Hiệp Quốc, và
vào năm 2008 Trung Quốc bắt đầu lại việc báo cáo hàng năm của mình cho Ban
đăng kí của Liên Hiệp Quốc về việc xuất khẩu vũ khí thông thường hàng năm, việc
báo cáo này đã bị bỏ lửng năm 1997 sau việc tranh cãi làm thế nào để phân loại
việc bán vũ khí của Mỹ sang Đài Loan.
Cuối cùng, điểm trọng tâm, nhưng rất nhạy cảm là việc Trung Quốc sử dụng
ngoại giao trong khuôn khổ Liên Hiệp Quốc nhằm hạn chế Mĩ thể hiện sức mạnh
và áp đặt quan điểm lên việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhiều nhà phân tích
của Trung Quốc nhìn nhận Liên Hiệp Quốc là một cơ cấu để dung hòa chủ nghĩa
đơn cực của Mỹ qua việc tăng cường khả năng của tổ chức này trong việc kiểm
soát những đặc quyền của Mỹ và đồng minh. Điều này thể hiện rõ nhất trong
những vấn đề nhân quyền, vấn đề nhân đạo, và việc áp đặt hình phạt và trừng phạt.
Hiếm khi được đề cập trong các bài phát biểu công khai, mục tiêu này được thể
hiện trong nhiều hoạt động của Trung Quốc tại Hội đồng bảo an (chi tiết ở phía
dưới) và thể hiện tinh đối lập trong quan điểm của Mỹ và Trung Quốc đối với chủ
quyền quốc gia và vấn đề liên quan đến công việc nội bộ của quốc gia đó.
Trong thập kỷ này, Trung Quốc đã công khai phản đối đối những chính sách
của Mỹ mà ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích kinh tế và an ninh của Trung Quốc, ví
dụ như những nỗ lực của Mỹ áp đặt sắc lệnh trừng phạt kinh tế đối với Sudan, hay
việc Mĩ cổ vũ cho việc áp đặt những lệnh trừng phạt lên Bắc Triều Tiên hay
Iran… Trung Quốc đã hợp tác với Nga để định hướng những cuộc thảo luận của
Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là nhằm phản đối với quan điểm của Mỹ, khi nội dung
137
thảo luận về các vấn đề này đã gia tăng một cách đều đặn vào nửa cuối của thập kỉ
này
Với Trung Quốc thì đây là mục tiêu phức tạp và đã có sự thay đổi chủ yếu
bởi vì chính sách đối ngoại đấu tranh của nước này là không đối đầu hay gây thù
địch một cách công khai với Washington Điều này đã được thể hiện trong việc
Trung Quốc sử dụng hạ sách nhưng là sự phản đối có nguyên tắc đối với những nỗ
lực của Mĩ nhằm tìm kiếm sự cho phép của Liên Hiệp Quốc can thiệp quân sự vào
Iraq năm 2003; Bắc Kinh đã để Matxcơva và Paris đứng đầu trong việc phản đối
các hoạt động của Mỹ. Kể từ thời điểm đó thì Trung Quốc đã liên tục gia tăng sự
bất đồng với Mĩ ở Liên Hiệp Quốc. Lí do là bởi một số nguyên nhân sau đây: (1)
Trung Quốc ngày càng tự tin hơn ở tiềm lực của chính mình, Trung Quốc sẵn sàng
chịu những phản ứng tiêu cực của Mĩ và cuối cùng là quan điểm cho rằng Mĩ cần
Trung Quốc hơn bao giờ hết. (2) Quan điểm của Trung Quốc cho rằng hình ảnh và
ảnh hưởng của Mĩ đã giảm sút trong thời kì Bush lên nắm quyền (3) sự mở rộng
các lơi ích kinh tế toàn cầu của nước này và khả năng Trung Quốc hợp tác với các
nước khác như là Nga để tránh việc một mình bất đồng với Mĩ.
Những hoạt động của Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc
Sự tham gia, tính chủ động và sự khẳng định vai trò của Trung Quốc trong
Liên Hiệp Quốc được thể hiện ở những hoạt động trong HĐBA. Một số ví dụ sẽ
được cung cấp dưới đây: những hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc,
Somalia, Sudan, Đài Loan, và những cuộc thảo luận khác của hội đồng bảo an.
Hoạt động giữ gìn hoà bình
Trung Quốc đã mở rộng cả về số lượng và chất lượng những sự tham gia của
mình trong hoạt động giữ gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc trong năm năm qua.
Kể từ năm 2008, Trung Quốc là nước đóng góp lớn nhất cho những hoạt động giữ
gìn hoà bình của Liên Hiệp Quốc trong năm thành viên thường trực của Hội đồng
bảo an và gần như là nước đóng góp lớn nhất mà không phải thành viên của
138
NATO. Năm 2008 Trung Quốc là nước thứ 12 đóng góp lớn nhất cho các hoạt
động bảo vệ hoà bình của Liên Hiệp Quốc trong những thành viên của Liên Hiệp
Quốc. Trung Quốc hiện nay đang triển khai 1861 lính, 88 giám sát viên quân sự và
208 cảnh sát tại 12 hoạt động giữ gìn hoà bình trên khắp thế giới của Liên Hiệp
Quốc (biểu đồ 6.2). Trung Quốc bắt đầu tham gia vào các hoạt động này từ năm
1990 nhưng trong suốt thập kỷ đó sự đóng góp của Trung Quốc còn giới hạn chỉ
gửi một vài giám sát hoạt động quân sự và cảnh sát cho một số hoạt động của Liên
Hiệp Quốc. Trong thập niên 2000, Trung Quốc tăng đáng kể những đóng góp của
mình, ước tính đã tăng gấp 20 lần từ năm 2000 (trong khi của Mỹ, Nga và Anh đã
giảm đóng góp hay không còn tăng nữa). Khoảng 75% đóng góp của Trung Quốc
trong các hoạt động giữ gìn hoà bình là ở các hoạt động ở Châu Phi, và trong hè
năm nay nước này dự định sẽ triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình tại khu vực
Darfur ở Sudan, Liberia, và Cộng hoà Dân chủ Công gô. Đóng góp của Trung
Quốc chủ yếu ở các lĩnh vực như khoa học, dịch vụ y tế và giao thông vận tải.
Trung Quốc cũng là nước đóng có số lượng cảnh sát bảo vệ dân thường (từ Bộ
Công An) trong lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên Hiệp Quốc.
Chất lượng của việc Trung Quốc tham gia vào các hoạt động bảo vệ hoà
bình của Liên Hiệp Quốc cũng có bước phát triển. Vào tháng 9 năm 2007, Liên
Hiệp Quốc đã bổ nhiệm Tướng Triệu Kinh Dân là chỉ huy trưởng lực lượng Liên
Hiệp Quốc hỗ trợ trưng cầu dân ý ở Tây Sahara.
Theo Bates Gill và Chin-hao Huang thì có ít nhất 3 công dân Trung Quốc
hiện đang làm việc tại Đơn vị quân lực, văn phòng kế hoạch nghĩa vụ quân sự và
văn phòng thường trực của Lực lượng gìn giữ hòa bình khu vực châu Á và Trung
Đông tại trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã những biện pháp xử lí yếu tố chính trị một cách
linh hoạt hơn khi thực hiện các hoạt động trợ giúp. Vào năm 2004, nước này bắt
đầu gửi 130 sĩ quan tới lực lượng GGHB của Liên Hiệp Quốc tại Haiti mặc dù
139
Haiti công nhận Đài Loan và sau đó nâng số lượng sĩ quan lên 143 vào đầu năm
2009. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đã thực hiện một động thái như vậy. Vào
cuối những năm 90 Trung Quốc đã phủ quyết những nghị quyết của HĐBA cho
phép các hoạt động gìn giữ hòa bình tại các quốc gia cong nhận Đài Loan như
Guatemala năm 1997 và Macedonia năm 1999. Gill và Chin – hao Guang cho rằng
kể cả những vấn đề cực kì nhạy cảm, có ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh quốc tế
của Trung Quốc như khủng hoảng nhân đạo ở Darfur thì “Bắc Kinh lựa chọn cách
tiếp cận tích cực hơn,ủng hộ sự cần thiết phải có biện pháp hòa giải chính trị và lực
lượng gìn giữ hòa bình kết hợp của cả Liên Minh Châu Phi và Liên Hiệp Quốc
nhằm giải quyết khủng hoảng nhân đạo.
Đầu năm 2008, Trung Quốc đã gửi 140 lính công binh đến Darfur để chuẩn
bị cho lực lượng Liên Hiệp Quốc đông đảo hơn đến khu vực này.
Somalia.
Vào các năm 2003 và 2004, Trung Quốc đã chủ trì các cuộc tranh luận ở
HĐBA về quá trình hòa bình ở Somali. Vào năm 2003, nước này đã sử dụng việc
được quyền soạn thảo nghị quyết về quá trình hòa bình để đưa ra những tuyên bố
và những nghị quyết có liên quan đến vấn đề này. Vào năm 2004. Trung Quốc đã
hối thúc HĐBA thường xuyên ra các tuyên bố của chủ tịch HĐBA về vấn đề
Somali với số lượng gần đôi so với năm trước đó. Trong một hội nghị bất thường
của HĐBA tổ chức tại Nairobi, Kenya (được triệu tập nhằm giải quyết vấn đề
khủng hoảng Darfur) thì Trung Quốc đã thúc giục các thành viên hội đồng đưa ra
tuyên bố về vấn đề Somali trước. Trung Quốc đã thành công trong việc đưa các
nhà lãnh đạo Somali phát biểu tại hội nghị của HĐBA ở Nairobi trước khi thảo
luận về vấn đề Sudan. Kết quả của những nỗ lực của Trung Quốc là HĐBA đã đưa
ra 5 tuyên bố và 5 nghị quyết của chủ tịch hội đồng về vấn đề Somali.
Ý đồ của Trung Quốc khi thực hiện những động thái như vậy là chưa rõ
ràng. Trung Quốc không có những lợi ích kinh tế hay ngoại giao ở Somali. Một
140
giải thích tương đối hợp lí là Trung Quốc tìm kiếm việc nâng cao vị thế với các
nước Đông Phi, là khu vực mà Đài Loan các những mối quan hệ ngoại giao và Mĩ
luôn bị cô lập từ trước đến nay.
Sudan
Các hoạt động của Trung Quốc ở HĐBA rất nổi bật và công khai khi thảo
luận về vấn đề khủng hoảng Darfur. Trung Quốc liên tục sử dụng vị trí của mình ở
Liên Hiệp Quốc để che chắn cho chính phủ Sudan khỏi trừng phạt và sự chỉ trích
của quốc tế.
Từ đầu năm 2004, Trung Quốc đã bắt đầu tìm cách đưa vấn đề Darfur ra
khỏi nghị trình của HĐBA, cho dù ngay cả khi Kofi Anan và các quan chức Liên
Hiệp Quốc khác hướng sự chú ý của công luận vào khủng hỏang nhân đạo bắt đầu
nổi lên tại khu vực đó. Khi vấn đề Darfur được đưa vào nghị trình của HĐBA,
Trung Quốc đã phản đối hàng hoạt dự thảo áp đặt trừng phạt kinh tế cho chính phủ
Khartoum vì đã ủng hộ các hoạt động quân sự của Janjaweed ở Darfur. Trong các
cuộc thảo luận ở HĐBA, Bắc Kinh đã đe dọa phủ quyết những nghị quyết như vậy
thậm chí ngay cả khi Washington tuyên bố rằng những hành động của Khartoum
được coi là “tội diệt chủng”. Trung Quốc đã chủ động chống lại những nghị quyết
áp đặt trừng phạt của Ủy ban trừng phạt Sudan của HĐBA với lĩnh vực dầu mỏ, áp
đặt cấm vận vũ khí, mở rộng phạm vi cấm vận vũ khí với tất cả các bên tham chiến
ở Darfur, áp đặt những biện pháp bổ sung như cấm ra nước ngoài hay phong tỏa tài
sản cá nhân và đưa vấn đề Sudan đến Tòa án hình sự quốc tế.
Trung Quốc (thường là thông qua Pakistan hay Syria để không phải hứng
chịu những lời chỉ trích) cũng tìm kiếm việc thu hẹp phạm vi các nghị quyết trừng
phạt sau khi giảm bớt ngôn ngữ của các nghị quyết này, bao gồm cả các điều
khoản dẫn nguồn Chương VII của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Bắc Kinh đành
phải chấp nhận nghị quyết của HĐBA số 1590 có nội dung kêu gọi thành lập phái
đoàn Liên Hiệp Quốc ở Sudan (UNMIS) và triển khai 10000 lính. Vào tháng 8
141
năm 2006, Bắc Kinh đã ngăn chặn một buổi bỏ phiếu của HĐBA về nghị quyết
1706 có nội dung tăng quân số của lực lượng UNMIS và kêu gọi triển khai
LLGGHB ở Darfur.
Quan điểm của Bắc Kinh là cần phải có sự chấp thuận của Khartoum khi
triển khai lực lượng của Liên Hiệp Quốc tại Darfur. Tuy nhiên, cho đến giữa năm
2007 thì Khartoum vẫn chưa đồng ý với đề xuất này.
Bắt đầu vào cuối năm 2006, Trung Quốc bắt đầu đóng vai trò chủ động hơn
trong giải quyết vấn đề Darfur bao gồm cả việc gây áp lực lên chính phủ Sudan.
Theo chứng nhận của ủy ban hỗn hợp lưỡng viện do hai phó trợ lí cho bộ trưởng là
Thomas Christensen và James Swan thực hiện thì từ cuối năm 2006, Trung Quốc
đã cho thấy khả năng họ sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế về vấn đề Darfur.
Và nước này đã sử dụng áp lực ngoại giao lên chính phủ Sudan để thay đổi cách
ứng xử của nước này cũng như sử dụng giải pháp chính trị để đàm phán hòa bình
giải quyết vấn đề Darfur. Trung Quốc đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết 1769
thành lập phái đoàn liên hợp của Liên Hiệp Quốc và châu Phi ở Darfur nhưng
chính phủ Sudan lại phản đối việc triển khai lực lượng này.
Trung Quốc đã cam kết triển khai 300 lính công binh và 140 người đã được
gửi đi. Vì vậy, Trung Quốc là nước đầu tiên ngoài châu Phi gửi lực lượng của mình
đến Darfur. Trung Quốc cũng tham gia vào giải quyết các cuộc khủng hoảng nhân
đạo, cung cấp viện trợ trực tiếp và viện trợ 1.8 triệu dollar cho khu vực Darfur và
phái đoàn đặc biệt của liên minh châu Phi.
Các nhà ngoại giao và nhà phân tích của Trung Quốc tương đối rõ ràng cả
công khai lẫn không chính thức về cả mặt hình thức lẫn nội dung của các động thái
của Trung Quốc ở Darfur. Các nhà ngoại giao Trung Quốc đã công khai đưa ra
quan điểm lâu dài của Trung Quốc trong việc phản đối can thiệp từ bên ngoài với
công việc nội bộ của nước khác, đặc biệt trong trường hợp vi phạm nhân quyền
hay khủng hoảng nhân đạo. Nhiều người Trung Quốc lo ngại rằng những cơ sở luật
142
pháp để áp đặt những lệnh trừng phạt hay việc sử dụng vũ lực như vậy có thể
hướng vào Trung Quốc trong tương lai.
Ở cấp độ thấp hơn, những học giả cao cấp của Trung Quốc cho rằng những
nhà lãnh đạo Trung Quốc đơn giản là nghi ngờ các hoạt động chính trị nội bộ của
các đối tác nước ngoài của Trung Quốc. Với các nhà lãnh đạo Trung Quốc thì
không có hệ thống giá trị chung nào nên được Liên Hiệp Quốc áp dụng hoặc sử
dụng trên cơ sở quan hệ song phương.
Quan điểm chủ đạo của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là đẩy mạnh phát triển
và tăng trưởng kinh tế, giải quyết tính hợp pháp của chế độ và các hoạt động của
chính quyền không phải mối quan tâm của Trung Quốc trong các quan hệ song
phương. Những vấn đề như vậy trở nên gần gũi với các nhà lãnh đạo và ngoại giao
Trung Quốc chỉ khi cách tiếp cận của Trung Quốc với các vấn đề nhân đạo làm
ảnh hưởng hình ảnh quốc tế và khả năng nước này tăng cường quan hệ kinh tế
song phương của Trung Quốc. Có nhiều yếu tố cho thấy quan điểm của Trung
Quốc về khủng hoảng ở Darfur bắt đầu thay đổi bởi những tính toán như vậy. Có
sự liên quan rõ nét giữa các ý đồ của Trung Quốc.
Vào cuối năm 2006, nước này đã gây áp lực lên chính phủ Sudan để cho
phép LLGGHB được triển khai ở Darfur và sự gia tăng trong chiến dịch chỉ trích
sự ủng hộ của Trung Quốc với Khartoum của các tổ chức phi chính phủ như là việc
cho rằng Olympic Beijing 2008 là “Olympic của diệt chủng”.
Một ảnh ưởng khác trong việc thay đổi quan điểm của Trung Quốc đã được
nhiều nhà lãnh đạo châu Phi thể hiện trong Hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc –
châu Phi ở Bắc Kinh tháng 11 năm 2006.
Hơn nữa, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã nói một cách không chính thức
rằng Trung Quốc có lợi ích kinh tế lâu dài ở Sudan mà cụ thể là việc tham gia vào
ngành dầu khí ở nước này. Vào các năm 2004 và 2005, khi diễn ra những buổi thảo
luận quan trọng của HĐBA về vấn đề Darfur, Sudan là một trong 10 nước xuất
143
khẩu dầu hàng đầu sang Trung Quốc (khoảng 5%). Sudan cũng là nơi mà các tập
đoàn dầu khí lớn nhất của nước này như Sinopec hay tập đoàn dầu khí quốc gia
Trung Quốc có lượng đầu tư rất lớn, biến nước này thành nguồn cung cấp dầu mỏ
cho việc khai thác dầu ở nước ngoài lớn nhất của Trung Quốc (tiếp theo là
Kazakhstan). Kết quả là những nhà lãnh đạo Trung Quốc không muốn làm mất
một nguồn cung năng lượng quan trọng trong thời điểm mà nước này rất cần tiếp
cận các nguồn dầu mỏ ở nước ngoài.
Đài Loan
Nỗ lực của Trung Quốc nhằm cô lập Đài Loan và thu hẹp quan hệ quốc tế
của nước này đã là nhân tố chính của các hoạt động của Trung Quốc ở Liên Hiệp
Quốc. Từ năm 1971, 3 trong số 6 lần sử dụng quyền phủ quyết, Trung Quốc đã
dung để ngăn chặn viện trợ của Liên Hiệp Quốc cho các quốc gia có quan hệ chính
thức với Đài Loan. Chính sách chống Đài Loan gần đây của Trung Quốc phản ánh
cách tiếp cận mềm dẻo và ít tính đối đầu hơn. Với việc không sử dụng quyền phủ
quyết hay đe dọa dùng quyền này, Trung Quốc đã rất sáng tạo khi xác định việc hỗ
trợ của nước này cho LLGGHB của Liên Hiệp Quốc nhằm giảm bớt không gian
cho các quan hệ quốc tế của Đài Loan và do đó giảm bớt các quốc gia công nhận
Đài Loan. Trung Quốc không còn sử dụng quyền phủ quyết với những hoạt động
như vậy (nếu không thì thường xuyên tìm kiếm sự nhất trí của HĐBA) mà sử dụng
biên pháp tiếp cận ở cấp độ thấp hơn và có vẻ như là hiệu quả hơn. Vào năm 2003,
Trung Quốc đã làm phức tạp khả năng Liên Hiệp Quốc triển khai LLGGHB nhằm
ổn định tình hình ở Liberia cho đến khi Bắc Kinh được đảm bảo rằng chính phủ
mới sẽ chuyển công nhận từ Đài Loan sang Trung Quốc (Chính phủ cũ được lãnh
đạo bởi Charles Taylor đã có quan hệ ngoại giao với Đài Loan từ năm 1987). Khi
HĐBA bắt đầu thiết lập phái đoàn đại diện và gửi lực lượng ổn định tình hình đến
Liberia sau khi chế độ của Charles Taylor sụp đổ, Trung Quốc đã ủng hộ một kế
hoạch triển khai kéo dài 3 tháng cho dù phải cần ít nhất 6 tháng thì mới triển khai
144
và bắt đầu hoạt động của LLGGHB. Sau đó, Trung Quốc đã thuyết phục Liên Hiệp
Quốc để can thiệp nhằm đảm bảo rằng chính phủ hậu Taylor sẽ công nhận Trung
Quốc. Một tháng sau khi nghị quyết 1509 của HĐBA cho phép triển khai lực
lượng ổn định tình hình kéo dài 12 tháng tại Liberia, Trung Quốc và Liberia đã tái
thiết lập quan hệ ngoại giao (vào 11 tháng 10 năm 2003) .
Trái ngược với vấn đề này, Trung Quốc đã sẵn sàng hỗ trợ và gửi quân đến
LLGGHB ở Haiti mặc dù chính phủ nước này có quan hệ ngoại giao chính thức
với Đài Loan. Sự sắp xếp này không phải là không gây ra vấn đề với Bắc Kinh khi
mà một số quan chức Haiti cho rằng hành động của Trung Quốc mang tích khiêu
khích, nhưng sự hỗ trợ của Trung Quốc vẫn được tiếp tục.
Sự mở rộng của Liên Hiệp Quốc.
Vào đầu năm 2005, các hoạt động và ảnh hưởng của Trung Quốc tại HĐBA
đã rõ ràng khi phản ứng về đề xuất mở rộng thành viên HĐBA. Mạc dù Trung
Quốc tương đối thụ động trong các cuộc thảo luận của Liên Hiệp Quốc về cải cách
Liên Hiệp Quốc. (bằng việc tán thành hầu hết các đề xuất của nhóm G77). Trung
Quốc đã hoàn toàn phản đối một đề xuất chính thức vào tháng 4 năm 2005 đề nghị
mở rộng HĐBA có cả Đức, Ấn Độ, Brazil và Nhật. Lí do là sự mở rộng này có sự
góp mặt của Nhật. Trung Quốc cho rằng việc Nhật không đủ tư cách thành viên khi
không muốn đối mặt với quá khứ đầy máu khi nước này xâm lược Trung Quốc và
các nước châu Á khác trong Chiến tranh thế giới 2.
Những người ủng hộ Nhật cho rằng nước này chi tới 19% ngân sách của
Liên Hiệp Quốc trong khi Mĩ chi 21% và Trung Quốc chỉ có 2%. Trung Quốc đã
sử dụng hàng loạt các biện pháp ngoại giao mang tính sáng tạp để ngăn chặn đề
xuất này. Các nhà ngoại giao Trung Quốc đã vận động các đồng nghiệp ở Liên
Hiệp Quốc không ủng hộ nghị quyết này và sau đó là từ chối thông qua. Trung
Quốc gia tăng quan hệ với các nước châu Phi nhằm hủy bỏ đề xuất này 1 cách
thành công. Trung Quốc ủng hộ các nhà ngoại giao châu Phi đòi hỏi ít nhất 2 nước
145
châu Phi được có tên trong bản đề xuất trở thành thành viên của HĐBA và được
quyền phủ quyết. Yêu cầu thứ 2 khiến cho bản đề xuất mở rộng bị hủy bỏ vào
tháng 8 năm 2005.
Với Trung Quốc thì có nhân tố trong nước khiến cho nước này phản đối bản
đề xuất nói trên. Đề xuất của Nhật Bản đã khiến xuất hiện một cuộc vận động rất
lớn trên Internet nhằm phản đối tư cách thành viên của Nhật. Sự kiện này cùng với
các sự kiện khác đã khiến bùng nổ một loạt cuộc biểu tình chống Nhật ở Bắc Kinh
và Thượng Hải vào mùa xuân năm 2005, đã gây thiệt hại hàng triệu dollar cho cả
các doanh nghiệp Trung Quốc. Không rõ rằng liệu chính phủ Trung Quốc có châm
ngòi cho các hoạt động công khai nhu vậy, tạo điều kiện cho các hoạt động này
hay đơn giản chỉ là không phản đối một cách mạnh mẽ. Chính phủ sau đó đã can
thiệp nhằm ngăn chặn biểu tình ở Thượng Hải sau vài ngày cho thấy rằng mặc dù
chính phủ nhận thấy các phong trào biểu tình là có ích nhưng sau đó có thể họ lo
ngại rằng những cuộc biểu tình sẽ được chuyển hướng, vượt ra khỏi vòng kiểm
soát và chuyển thành các cuộc biểu tình chống chính phủ.
Các vấn đề liên quan đến không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở
Liên Hiệp Quốc.
Trung Quốc đã tham gia một cách tích cực vào các diễn đàn của Liên Hiệp
Quốc về kiểm soát vũ khí và không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt như là Hôi
nghị về không phổ biến vũ khí ở Geneve và Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế
ở Vienna. Trung Quốc đã dử dụng những diễn đàn đó để phản đối chính sách an
ninh của Mĩ (như là chương trình phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mĩ), hạn chế ảnh
hưởng của Mĩ trong những vấn đề quan trọng và nâng vị trí của Trung Quốc trong
vấn đề không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và kiểm soát vũ khí. Vào cuối
những năm 90, đầu những năm 2000, Trung Quốc đã sử dụng Hội nghị không phổ
biến vũ khí (CD) làm nơi để phản đối chương trình phòng thủ tên lửa của Mĩ.
Trung Quốc đã phong tỏa các hoạt động của hội nghị cho đến khi Mĩ đồng ý với
146
một “hòa ước” có nội dung bắt đầu đàm phán về Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí
trên không gian. Mĩ đã phản đối bước đi này từ rất lâu, thay vào đó, nước này thiên
về hướng đàm phán không chính thức. Trung Quốc tìm kiếm một vị trí trong CD
để tạo ra sự phản đối quốc tế với chương trình phòng thủ tên lửa đạn đạo của Mĩ và
buộc Mĩ phải đồng ý giới hạn sự phát triển của lực lượng phòng thủ tên lửa đạn
đạo.
Cuối cùng, Trung Quốc đã phải từ bỏ quan điểm này vào năm 2003 khi nước
này nhận ra rằng điều đó là không hiệu quả và Trung Quốc đã chờ đợi quá nhiều
vào CD. Các hoạt động của Trung Quốc trong khuôn khổ IAEA đã trở nên có tính
hợp tác hơn và đồng nhất với các mục tiêu về vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng
loạt của Mĩ. Trung Quốc tìm cách trung hòa các thành viên (chủ yếu là Mĩ) muốn
IAEA trở thành cơ quan có khả năng ngăn chặn mạnh mẽ hơn và quan tâm hơn đến
việc một số nước phớt lờ Hiệp ước không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và các
Hiệp định của IAEA. Ví dụ như nhiều năm Trung Quốc đã phản đối việc ban lãnh
đạo IAEA báo cáo các trường hợp các nước không tuân thủ NPT lên HĐBA.
Trung Quốc cho rằng những vấn đề như vậy nên được giải quyết trong khuôn khổ
của IAEA. Trung Quốc lo ngại rằng một khi những vụ việc như vậy được đưa lên
HĐBA thì các quốc gia như Bắc Triều Tiên hay Iran sẽ trở thành đối tượng của sự
trừng phạt. Trung Quốc cho rằng những sự trừng phạt sẽ trở nên phản tác dụng với
việc giải quyết thông qua con đường đàm phán mà Trung Quốc luôn mong muốn.
Cách tiếp cận của Trung Quốc bắt đầu thay đổi vào khoảng năm 2003, tuy
nhiên vào tháng 2 năm 2003 và tháng 3 năm 2004, tình hình ở Bắc Triều Tiên đã
có diễn biến leo thang. Trung Quốc đã ủng hộ Ban lãnh đạo IAEA đệ trình một
nghị quyết lên HĐBA báo cáo về vấn đề Bắc Triều Tiên phớt lờ HĐBA. Trung
Quốc đã không hề có cách làm như vậy với Bình Nhưỡng trong suốt những năm
90. Vào tháng 9 năm 2005 và tháng 2 năm 2006, Trung Quốc đã kiềm chế và sau
147
đó đã bỏ phiếu thông qua lời kêu gọi bỏ phiếu 2 nghị quyết báo cáo việc không
tuân thủ của Iran lên HĐBA.
Sự thay đổi này của Trung Quốc là kết quả của việc gia tăng lo ngại về sự
ngoan cố của Bắc Triều Tiên và Iran, quan tâm nhiều hơn đến ảnh hưởng của việc
phổ biến vũ khí hạt nhân với sự ổn định ở Đông Bắc Á và Trung Đông và có lẽ
rằng Trung Quốc đã nhận ra rằng quốc tế ngày càng lo ngại vấn đề phổ biến vũ khí
hạt nhân và Trung Quốc đã ngày càng đứng ngoài cộng đồng thế giới.
Một ví dụ khác của sự thay đổi các hoạt động của Trung Quốc về vấn đề
không phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở các cơ quan của Liên Hiệp Quốc là
việc nước này ủng hộ nghị quyết 1540 của HĐBA chống lại phổ biến vũ khí hủy
diệt hàng loạt. Trong quá trình soạn thảo nghị quyết 1540, Trung Quốc đã ủng hộ
một cách mạnh mẽ việc gọi sự phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt là “mối đe dọa
với hòa bình và an ninh quốc tế” theo như nội dung Chương VII của Hiến chương
Liên Hiệp Quốc.
Cho đến giờ thì nước này vẫn chưa muốn nghị quyết có ngôn ngữ tạo nên cơ
sở pháp lí cho việc trừng phạt các hoạt động liên quan đến vũ khí hủy diệt, điều mà
chính phủ Trung Quốc cho rằng là vi phạm Luật quốc tế. Với sự ủng hộ của Trung
Quốc và các nước khác, Nghị quyết 1540 đã từ một sáng kiến chống phổ biến vũ
khí hủy diệt (không cấm việc trừng phạt) thành một nghị quyết ràng buộc nghĩa vụ
pháp lí với các quốc gia thành viên với việc ngăn chặn phổ biến vũ khí hủy diệt.
Nghị quyết yêu cầu các nước thành viên có bản báo cáo kiểm soát việc không phổ
biến vũ khí hủy diệt ở trong nước và một cơ chế đa phương hợp tác giải quyết vấn
đề không phổ biến vũ khí hủy diệt.
Tóm lại, Trung Quốc đã có những hoạt động có tính tích cực hơn trong
khuôn khổ Liên Hiệp Quốc và sử dụng việc giải quyết Liên Hiệp Quốc để đạt được
các lợi ích của chính sách đối ngoại toàn cầu đang ngày càng tăng của Trung Quốc.
Thậm chi khi mà nước này xung đột với Mĩ và các cường quốc khác. Ý muốn của
148
Bắc Kinh là đi đầu trong việc giải quyết các vấn đề có xu hướng gia tăng. Sự hợp
tác của Bắc Kinh với Moscow đã tạo nên cơ hội để nước này thực hiện các mục
tiêu của chính sách đối ngoại mà không bị cô lập hay không theo kịp ý kiến của
công luận của cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đã phản đối các sáng kiến của Mĩ và
tìm kiếm việc trung hòa các hành động của Liên Hiệp Quốc có va chạm với lợi ích
của Trung Quốc như là các trường hợp Sudan và Iran. Trung Quốc sẽ tiếp tục sử
dụng những biện pháp này để thúc đẩy việc thực hiện trật tự thế giới theo quan
điểm của họ và nếu có thể thì hạn chế việc Mĩ thể hiện sức mạnh ngoại giao và
quân sự trong tương lai, đặc biệt khi mà điều đó ảnh hưởng tới lợi ích của Trung
Quốc.
Quá khứ lẫn lộn trong việc thực hiện những lời hứa về thương mại quốc tế,
không phổ biến vụ khí hạt nhân và nhân quyền của Trung Quốc cho thấy đây sẽ là
một khó khăn mà quốc gia này cần xử lý. Việc Trung Quốc diễn giải một số cam
kết thương mại đã từng dẫn tới xích mích với các quốc gia ASEAN và những đối
tác kinh tế ở Châu Phi. Mối quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia kể trên cũng
như nhiều quốc gia khác có thể bị phá hủy một khi những nước này đặt câu hỏi về
mức độ đáng tin cậy của Trung Quốc hay hơn hết là những dự định của nước này.
Thứ hai, cách Trung Quốc tiếp cận với những câu hỏi về vấn đề Đài Loan
càng làm phức tạp thêm hình ảnh của Bắc Kinh. Cách tiếp cận đôi khi tỏ ra đối
đầu, hung hăng của Bắc Kinh với các quốc gia khác về những vấn đề liên quan tới
Đài Loan cho thấy những hạn chế trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm tỏ ra ôn hòa
và tử tế hơn. Mặc dù cách cư xử này không thường xuyên như trước đây, song vẫn
có thể thấy những ví dụ tiêu biểu của thái độ đó trong thập kỷ qua. Năm 2004, các
quan chức Trung Quốc công khai phê phán Thử tướng sắp nhậm chức của
Singapore, ông Lý Hiển Long, về chuyến thăm Đài Loan chưa được quyết định của
thể, sau đó, chỉ trích ông này vì cuối cùng đã thức hiện chuyến thăm. Trong hai
năm tiếp đó, Trung Quốc ngừng tất cả các cuộc hội đàm cấp cao với Singarpore.
149
Vào tháng 3 năm 2005, một cán bộ ngoại giao Trung Quốc công khai yêu cầu
Australia dừng can thiệp vào một xung đột quân sự ở Đài Loan, bất chấp cam kết
của Canberra với Washington thông qua Hiệp ước An ninh giữa Autralia – New
Zealand và Hoa Kỳ. Việc Trung Quốc thông qua Luật Chống lại các hoạt động ly
khai vào mùa xuân năm 2005 đã đóng góp thêm vào quyết định của nhiều nước
Châu Âu về việc hủy bỏ quyết định sắp tới của Liên minh Châu Âu (EU) về việc
dỡ bỏ cấm vận vũ trang năm 1989 lên Trung Quốc. Mùa xuân năm 2006, Đại sứ
Trung Quốc tại Hàn Quốc…, công khai khuyên các quan chức Hàn Quốc nên hạn
chế vai trò của lực lượng quân đội Mỹ đóng tại Hàn Quốc vì an ninh của nước này
và không cho phép quân đội Mỹ được sử dụng trong những vấn đề khu vực có thể
xảy ra (như vấn đề Đài Loan). Việc này khơi ngòi những vấn đề nhạy cảm của Hàn
Quốc đối với việc Trung Quốc can thiệp vào liên minh chính trị, góp phần làm
căng thẳng thêm những cuộc tranh luận về nhu cầu cắt giảm sự phụ thuộc về mặt
kinh tế của Hàn Quốc vào Trung Quốc.
Những hành động và tuyên bố trên từ phía Bắc Kinh cho thấy “sự gia tăng”
của một tia sáng thiếu thiện chí và thường xuyên nhắc nhở các nước về mức độ sẵn
sằng tham gia ngoại giao cuỡng bức của Trung Quốc. Cuối cùng, bất kỳ hoạt động
sử dụng quân đội nào của Trung Quốc (dù giới hạn hay trên diện rộng) để trả lời
câu hỏi về Đài Loan đều làm gia tăng những quan ngại vốn đã tiềm tàng, đặc biệt
trong các quốc gia Đông Nam Á về lịch sử của sự can thiệp và ép buôc của Trung
Quốc cũng như sự tham gia ngày càng nhiều của Trung Quốc vào các vấn đề của
khu vực có thể đe dọa lợi ích an ninh của các nước ASEAN.
Thứ ba, những thách thức về khả năng điều hành một cách nhạy bén của
Trung Quốc đang trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến nhận thức về tình hình bên
ngoài của quốc gia này, những tác động này do vậy mang sắc thái tiêu cực. Vấn đề
về quản lý nghiêm trọng nhất của Trung Quốc là vấn đề tham nhũng, một sự gia
tăng những căng thẳng bên ngoài trung tâm, những yếu kém trong việc kiểm soát
150
các vấn đề môi trường, hệ thống chăm sóc sức khoẻ tồi tàn và sự gia tăng của chủ
nghĩa dân tộc, cản trở khả năng của Bắc Kinh quản lý những nhân vật hết sức phức
tạp trong nền kinh tế khổng lồ và bộ máy hành chính cồng kềnh của quốc gia này.
Những nhược điểm này giới hạn khả năng điều hành một cách có hiệu quả của
chính phủ đối với các vấn đề trong nước có thể lan sang cả các quốc gia láng
giềng. Những phản ứng ban đầu chậm chạp và tuỳ tiện của Trung Quốc trước sự
bùng phát của dịch SARS ở phía nam nước này đã cho các quốc gia khu vực Đông
Nam Á thấy rõ mức độ khủng hoảng của hệ thống y tế công cộng và những vấn đề
môi trường có thể đe dọa nền kinh tế của họ do sự lơ là từ phía Bắc Kinh. Cuối
năm 2005, sự thất bại của chính phủ Trung Quốc trong việc nhanh chóng kiểm soát
quá trình ô nhiễm chất hóa học trên sông Tùng Hoa, Đông Bắc Trung Quốc dẫn tới
việc những chất độc này sau đó chảy tràn sang Liên bang Nga. Những ví dụ có
thừa đó cho thấy những quan ngại của các quốc gia khác liên quan tới khả năng
không thể đáp ứng những cam kết đa dạng của Trung Quốc như là hệ quả của tệ
tham nhung, căng thẳng bên trong bộ máy cầm quyền và hoạt động kiểm soát trì
trệ của chính phủ Trung Quốc trong một vài lĩnh vực.
Thách thức thứ tư bắt nguồn từ sự yếu kém của hệ thống ra quyết định về an
ninh quốc gia, đặc biệt những hệ thống liên quan tới việc quyết định giải quyết
khủng hoảng. Bộ máy cầm quyền của Trung Quốc trong việc đưa ra những quyết
định liên quan tới an ninh quốc gia bị ràng buộc bởi những đòi hỏi kín đáo quá
mức; sự xa cách trong cấu trúc ra quyết định của người dân, của giới trí thức và
của quân đội; và sự thiếu hụt những cách giải quyết có tính chất kết hợp giữa các tổ
chức dân sự và các tổ chức của quân đội. Múc độ hiển nhiên của những yếu kém
trên bao gồm cả những phản ứng chậm trễ và tùy tiện của Trung Quốc trước dịch
SARS và sự nổi bật trong khả năng giải trình của Quân đội giải phóng nhân dân
Trung Quốc (PLA) trong sự cố Đảo Hải Nam (EP-3), tháng 4 năm 2001, và phản
ứng chậm chạp, những lời giải thích không rõ ràng về vụ thử nghiệm vũ khí trực
151
tiếp chống vệ tinh tháng 1 năm 2007. Những hạn chế này thậm chí có thể sẽ trở
thành trở ngại lớn hơn đối với Trung Quốc khi PLA đẩy mạnh khả năng quân sự
cũng như điều hành những hoạt động quân sự bên ngoài lãnh thổ Trung Quốc, như
các tầu ngầm tuần tra, điều mà chắc hẳn sẽ làm dấy lên những câu hỏi về tham
vọng của Trung Quốc tại khu vực.
Thách thức thứ năm là trữ lượng cũng như khả năng huy động các nguồn
lực quốc gia của Trung Quốc để có thể đóng vai trò tích cực tại khu vực Đông Á –
đặc biệt khi so sánh với nguồn lực mà Hoa Kỳ và các nước đồng minh sở hữu. Bất
chấp những hoạt động ngoại giao đang được xúc tiến mạnh mẽ, Trung Quốc vẫn bị
giới hạn về các nguồn lực mà quốc gia này có thể sử dụng và sẵn sàng huy động để
theo đuổi lộ trình ngoại giao. Ví dụ rõ ràng nhất cho sự giới hạn trên là khoản trợ
giúp ít ỏi mà Trung Quốc tham gia quyên góp cho những nạn nhân sóng thần ở
Đông Nam Á đầu năm 2005. Trung Quốc đã cung cấp khoản cứu trợ tài chính và
vật chất trị giá 83 tỷ đôla. Mặc dù đây là khoản cứu trợ nhân đạo lớn nhất của
Trung Quốc từ trước tới nay, song nó lại tỏ ra ít ỏi so với con số hàng triệu đôla mà
Mỹ, Australia và Nhật Bản đóng góp cho những hoạt động cứu trợ. Khả năng tập
hợp quân đội một cách lô-gíc của Hoa Kỳ và những đồng minh tại khu vực châu Á
(chủ yếu là Nhật Bản và Ấn Độ) để phân phát những khoản cứu trợ này cũng vượt
xa những gì mà Trung Quốc sở hữu.
Thứ sáu, khi Trung Quốc “vươn ra toàn cầu” với những hoạt động đầu tư và
mua tài nguyên thiên nhiên ở nước ngoài, Bắc Kinh đứng trước nguy cơ bị xem
như một nền kinh tế chuyên đi khai thác, gây thiệt hại cho các nước đang phát triển
trong khi đóng góp rất ít cho nền kinh tế của các nước này. Chính phương thức vận
hành của các công ty Trung Quốc hoạt động ở nước ngoài, trong đó các công ty
này nhập khẩu nhân công và hàng hóa Trung Quốc phục vụ các dự án cơ sở hạ
tầng ở địa phương nước sở tại, khiến Trung Quốc phải đối mặt với thách thức này.
Những quan điểm này đã được nhận định bởi một vài quốc gia Mỹ La tinh và châu
152
Phi. Quan niệm trên về Trung Quốc, một khi được phát triển thêm, có thể hủy hoại
đặc tính bên trong của cách cư xử mang tính quốc tế của Trung Quốc: tính đồng
nhất của quốc gia này với tư cách một quốc gia đang phát triển, chống lại chủ
nghĩa thực dân mới như là một cách thức mới để khai thác tài nguyên.
Thách thức ngoại giao cuối cùng cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc là hiệu
quả hạn chế của những quan điểm mang tính dân tộc về những quyết định chính
sách đối ngoại. Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã sử dụng quan điểm dân
tộc như là một công cụ để hình thành khuôn khổ của những quyết định chính sách,
họ vẫn phải đối mặt với những hạn chế cố hữu trong nỗ lực vận dụng chủ nghĩa
dân tộc. Sự phát triển của quan điểm chống Nhật tại Trung Quốc nói riêng đã hạn
chế khả năng của những nhà hoạch định chính sách Trung Quốc theo đuổi một
hướng tiếp cận cân bằng hơn trong mối quan hệ Trung Quốc – Nhật Bản – mối
quan hệ phản ánh tốt hơn những lợi ích kinh tế và an ninh mà Bắc Kinh có được
một khi có quan hệ ổn định và thân thiện hơn với Tokyo. Trong giai đoạn quan hệ
song phương của Trung Quốc với Nhật Bản, Mỹ và các quốc gia khác căng thẳng,
những người phản đối theo chủ nghĩa dân tộc đã và sẽ tiếp tục có những tác động
dần dần lên khả năng hạ nhiệt và giải quyết vấn đề của chính phủ.
Có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc tỏ
ra đã bắt đầu ý thức được những hạn chế trên và họ đang tập trung xử lý nhận thức
của công chúng. Trong những năm gần đây, những tuyên bố của Bộ Ngoại Giao
cũng như Đảng Cộng sản Trung Quốc về những vấn đề quốc tế trở nên đầy đủ hơn
với việc nhắc tới tầm quan trọng của ngoại giao “lấy con người là trung tâm” và
“cân bằng lợi ích tổng thể của quốc tế và tình hình cụ thể của quốc gia”. Cả hai
điều trên đều dẫn dắt tới việc tránh những phản đối công khai đối với những quyết
định chính sách mang tính quyết định. Bao gồm cả việc đem lại cơ hội cho những
quyết sách.
Tổng Kết
153
Động lực trong nước của Trung Quốc hiện rõ ràng đã mở rộng ra đến cách
thái độ ứng xử quốc tế. Trung Quốc đang mở rộng đến những khu vực cũng như
vấn đề mà trước đó chứa rất ít lợi ích của nó, thêm vào là việc sử dụng hiệu quả
những công cụ trước đó ngoài tầm. Thực sự Trung Quốc đã trở thành một diễn
viên đích thực, với lợi ích và tầm ảnh hưởng đã vượt ra khỏi Châu Á. Trung Quốc
đang phát triển và được định hình bởi các quốc gia, tổ chức khắp mọi nơi trên thế
giới. Trung Quốc vẫn chưa thể trở thành cường quốc trên thế giới nhưng khoảng
cách đang ngày càng ngắn dần, phụ thuộc vào thước đo của mỗi người. Và khi
Trung Quốc hoành thành quá trình này, khái niệm cường quốc thế giới có thể sẽ có
một tầng nghĩa khác ngoài ý nghĩa vị trí bá chủ của Hoa Kỳ trên hệ thống quốc tế
sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh.
Chủ nghĩa toàn cầu của Trung Quốc đang được kích thích bởi một tập hợp
rất nổi bật về nhận thức, mục tiêu và chính sách - một vài trong số đó đã có từ lâu
đời trong khi một số mới mẻ hơn, như được dẫn chứng trong chuyên khảo này.
Đến một chừng mực mà bất cứ quốc gia nào sở hữu và ban hành chiến lược chính
sách đối ngoạ, Trung Quốc cũng không thể thiếu. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc
luôn ám ảnh những mục tiêu lâu dài đưa đến một quốc gia phát triển, bảo vệ biên
giới lãnh thổ và chủ quyền đất nước, và bảo vệ vị thế của một quốc gia lớn mạnh.
Và để làm được điều đó, các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc đã vẽ nên
chính sách đối ngoại tìm kiếm hoàn thành năm mục tiêu cụ thể: tăng trưởng và
phát triển kinh tế, tái cam kết, chống lại những kiềm chế, đa dạng hóa các nguồn
lực, giảm bớt không gian quốc tế của Đài Loan. Đến mùa hè 2009, những mục tiêu
lau dài cũng như hiện thời đều là những bánh lái bền bỉ và phù hợp của thái độ ứng
xử quốc tế của Trung Quốc.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiếp tục tiếp cận chính sách đối ngoại và quan
hệ quốc tế thông qua lăng kính quan hệ bên trong: các chính sách đối ngoại sẽ phục
vụ như thế nào cho những nhiệm vụ ngày càng phức tạp như phát triển kinh tế và
154
xã hội trong nước. Điều đó không có nghĩa Trung Quốc là một quốc gia thiển cận
chỉ muốn khép trong mình ốc hay các nhà lãnh đạo Trung Quốc tiếp cận chính
sách đối ngoại ít hơn. Sự thực về hành xử quốc tế của Trung Quốc không thể sâu
hơn thế. Sự liên kết giữa chính sách đối nội và đối ngoại giúp cho Trung Quốc
mạnh hơn và đảm nhận phạm vi mới từ thập kỉ trước, nhưng cũng chính những liên
kết này sẽ tiếp tục có ảnh hưởng rõ nét lên hành vi đối ngoại của Trung Quốc.
Mối liên kết trong-ngoài đã chuyển từ thụ động sang chủ động. Sự phát triển
và ổn định bên trong yêu cầu một chính sách đối ngoại chủ động. Đối với Trung
Quốc, những hành động cục bộ hiện tại yêu cầu nó phải có suy tính mang tầm tổng
thể. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc không còn chủ là tạo ra môi trường an
toàn và ổn định để tiếp tục tái thiết, như Deng đặt ra 3 thập kỷ trước. Hiện tại,
chính sách đối ngoại của Trung Quốc góp một phần đáng kể vào việc đối mặt
những thách thức ngày càng phát triển của nó: Trung Quốc cần ngoại giao để thâm
nhập vào thị trường, đầu tư, công nghệ, và nguồn tài nguyên – các nguồn quan
trọng để phát triển bền vững. Thực sự, trong suốt hơn hai thập kỷ đầu tái thiết,
những nhu cầu nội tại của Trung Quốc đã trở thành bánh lái cũng như kiềm chế
hành động với bên ngoài.
Logic của chính sách đối ngoại của Trung Quốc được chấp nhận rộng rãi từ
các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc và có vẻ sẽ còn tiếp tục như vậy.
Nhưng cũng chính xác khi cho rằng mục tiêu quốc tế của Trung Quốc sẽ còn tiếp
tục phát triển. Không một mục tiêu lâu dài nào của Trung Quốc (ví dụ chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ) hay những mục tiêu trước mắt (như tái cam kết và phòng
chống kiềm chế) có vẻ sẽ thay đổi trong thời gian tới, giả dụ không có một sự
chấm dứt đột ngột nào trong chính sách đối nội và đối ngoại cả Trung Quốc. Các
thế hệ lãnh đạo hiện tại và kế tiếp của Trung Quốc đều chia sẻ hệ tư tưởng của
Đảng Cộng Sản Trung Quốc về việc phát triển toàn diện các sức mạnh quốc gia để
155
giúp đất nước tái sinh, họ cũng hiểu các chính sách đối nội điều chỉnh các chính
sách đối ngoại.
Điều đó có nghĩa, các lợi ích và mục tiêu của Trung Quốc đang dần tiến
triển khi Trung Quốc có những trách nhiệm và gánh nặng mới khi tham gia vào các
vấn đề quốc tế, đặc biệ trong các khu vực như Trung Đông hay Mỹ La tinh, những
nơi mà hàng thế kỷ chỉ là thứ yếu trong những tính toán trong hoạt động đối ngoại
của Trung Quốc. Tuy nhiên các mối lợi ích và trách nhiệm mới này cần xem xét
trong tình huống các lô gíc đối nội thông thoáng hơn đối với chính sách đối ngoại.
Ví dụ, Trung Quốc biết rằng nó cần phải đảm đương các trách nhiệm mới tuy
nhiên cũng cảm thấy mệt mỏi với điều đó vì lo sợ nó thiếu các chuyên môn cần
thiết để thành công các dự án mạo hiểm đó sẽ thâm hụt các nguồn lực phát triển đất
nước.
Sự thay đổi bản tính về đối ngoại của Trung Quốc được phản ánh sâu hơn
qua sự tiến triển từ việc giữ vững lập trường cứng nhắc sang những nguyên tắc
chính sách đối ngoại lâu dài, như không can thiệp vào chính sách đối nội của các
quốc gia khác. Những nhận thức và lợi ích mới của Trung Quốc giúp nó có sự thay
đổi dần từ cứng nhắc ban đầu qua những nguyên tắc này – hoặc như cách nói của
Trung Quốc, “cách giải thích linh hoạt”. Trung Quốc đã làm điều đó để cho phép
quản lý các vấn đề địa phương có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và an ninh
cũng như danh tiếng (như khủng hoảng Darfur ở Sudan hay sự bất ổn chính trị ở
Myanmar). Cùng với sự phát triển của các nước khác ở Châu Phi và Đông Nam Á
và việc Trung Quốc dễ dàng hơn khi sử dụng ảnh hưởng để tác động đến sự thay
đổi, Trung Quốc cũng dần nhận ra giá trị của việc thúc đẩy ổn định chính trị và
giảm bạo lực ở những khu vực này. Sự thay đổi trong phương pháp tiếp cận của
Trung Quốc cũng được xúc tác từ sức ép bên ngoài ở dạng những lời lẽ của Hoa
Kỳ, các nước Châu Phi cũng như các tổ chức phi chính phủ. Cuối cùng, các nhà
156
lãnh đạo Trung Quốc đã lựa chọn giúp đỡ trong quá trình ổn định và quản lý các
khủng hoảng khu vực này.
Những hàm ý về sự ổn định khu vực và quốc tế
Ba ngụ ý lớn nhất về ổn định khu vực và quốc tế được nói đến trong phần
nghiên cứu này. Thứ nhất, Trung Quốc đang hoạt động mạnh hơn bên trong hệ
thống quốc tế hiện tại để hoàn thành các mục tiêu chính sách đối ngoại của nó.
Trung Quốc không phải đang cố gắng hủy hoại hay thay đổi đáng kể hệ thống luật
lệ quốc tế, các điều luật trong chính sách kinh tế và an ninh. Mà có vẻ nó muốn tìm
cách để kiểm soát chúng để tăng cường cho những lợi ích quốc tế của nó – một
phương pháp được chứng minh là thành công đối với Trung Quốc.
Nói chung, các chính sách đối ngoại của Trung Quốc thì tập trung nhiều vào
ảnh hưởng quy mô, sự hấp dẫn, và những mong đợi của nền kinh tế Trung Quốc và
sự liên kết sâu của nó với các thể chế đa phương – quốc tế và khu vực – để phát
triển tầm ảnh hưởng và tầm cỡ, để tăng cường cơ hội tiếp cận các yếu tố giúp phát
triển đất nước, và giảm các kiềm chế lên tự do hành động của Trung Quốc. Trong
lúc Trung Quốc tăng cường ảnh hưởng vào một số khu vực nhất định và các thể
chế đa phương, nó cùng lúc cố gắng điều chỉnh sao cho chúng phù hợp các mục
tiêu của mình. Vai trò Trung Quốc trong việc hình thành EAS và SCO và những nỗ
lực phòng chống mở rộng Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc là những minh chứng
rõ ràng nhất về khả năng tác động của Trung Quốc trong các tổ chức đa phương để
đưa đến những mục tiêu cụ thể của Trung Quốc.
Trung Quốc đã thành công trong việc thi hành phương pháp này theo cách
có vẻ như không ngay lập tức tỏ ra hung hăng hay đe dọa đối với các nước Đông
Nam Á và hơn thế. Ở thế cân bằng, Trung Quốc đã có những hiệu quả trong việc
tái khẳng định nhiều nước Châu Á và ngăn chặn trước sự phát triển của những liên
minh khu vực tìm kiếm cân bằng quyền lực với Trung Quốc. Kể từ đầu thập kỉ
này, các chiến lược của Trung Quốc đã cho phép nó đối nghịch với những chính
157
sách đối ngoại của Hoa Kỳ, điều mà dường như là đơn phương, cưỡng bức và có
xu hướng quân sự đối với nhiều quốc gia. Nhận định của nhiều quốc gia rằng chính
quyền Bush đã bỏ qua các thể chế quốc tế và xu hướng sử dụng quân sự đã tạo
thêm lý do khiến những nỗ lực của Trung Quốc có vẻ dễ hợp tác và dự đoán hơn là
Hoa Kỳ.
Hiện tại, các ảnh hưởng của Trung Quốc đối với thể chế quốc tế đã bị giới
hạn và rời rạc. Có nhiều ví dụ hơn Trung Quốc dần chấp nhận các luật lệ quốc tế
hơn là phản đối hay cố gắng thay đổi chúng (và thành công). Nhìn tổng thể, Trung
Quốc đã chấp nhận nhiều dự luật về thươn mại liên kết và hạn chế phổ biến vũ khí
hạt nhân, mặc dù có một lý lịch phức tạp. Thậm chí ở Đông Á, ngoại vi chiến lược
của Trung Quốc, nó đã phải nhân nhượng khi vấp phải sự phản đối của các quốc
gia trong khu vực về việc thành lập một tổ chức đa phương lãnh đạo là Trung Quốc
(như EAS). Ở Đông Nam Á, Trung Quốc tỏ ra cho tới hiện giờ đều chấp nhận
những quy phạm khu vực về cách giải quyết xung đột và hứa sẽ giải quyết các mâu
thuẫn lãnh hải bằng con đường hòa bình. Mặc dù thái độ cuối cùng của Trung
Quốc về…
Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Trung Quốc tập trung mạnh vào việc
làm đòn bẩy kích cỡ, sự kêu gọi, và những mong muốn của nền kinh tế Trung Hoa
và sự liên quan sâu sắc của nó đến sự thành lập – toàn cầu và khu vực - nhằm mở
rộng ảnh hưởng và tầm vóc của nó, gia tăng con đường đi đến tăng trưởng kinh tế,
đồng thời giảm thiểu những o ép trong việc tự do hành động của Trung Hoa. Một
khi sự liên quan của Trung Hoa với khu vực và quan hệ đa phương đã trở nên sâu
sắc nó vẫn đang luôn kiếm tìm phương thức hình thành những mục tiêu của Trung
Hoa. Vai trò của Trung Hoa trong việc tạo dựng EAS và SCO, cũng như những nỗ
lực nhằm giảm bớt sự bành trướng của Liên Hiệp Quốc. Hội Đồng Bảo An là ví dụ
điển hình mà Trung Quốc sự dụng trong sắp xếp trật tự đa phương nhằm củng cố
mục tiêu chính của nó
158
Trung Quốc đã thành công khi thực hiện cách tiếp cận này đó là không xuất
hiện ngay lập tức 1 cách gây hấn hay mang đe dọa đến cho các quốc gia khác ở
Đông Nam Á và… Về thế cân bằng, Trung Quốc tỏ ra hiệu quả trong việc bảo hộ
cho một số quốc gia châu Á và đầu cơ cho sự phát triển của hợp tác khu vực, tìm
kiếm thế cân bằng cho quyền lực của Trung Quốc. Từ đầu thập kỷ, những mục tiêu
của Trung Quốc đã cho phép nó hình thành nên 1 thế đối lập rõ ràng so với chính
sách đối ngoại đơn phương, cưỡng bức và sử dụng quân lực đối với 1 số quốc gia
của Mỹ.
Nhận thức được điều mà chính quyền Bush đã làm tổn hại đến sự thành lập
quốc tế và việc nghiên về sự dụng vũ trang của Mỹ đã càng chứng tỏ thêm rằng
những nỗ lực của Trung Quốc xem ra mang tính hợp tác và có thể lường trước
được hơn là Hoa Kỳ . Để thích hợp với thời đại, việc thành lập các thể chế quốc tế
của Trung Quốc đã được giới hạn và chia theo từng giai đoạn. Có thêm những ví
dụ về việc Trung Quốc đang từng bước chấp hành theo luật quốc tế thay vì chống
đối, và sau đó nỗ lực chỉnh sửa lại cho phù hợp 1 cách thành công). Với quốc tế,
Trung Quốc đã loại bỏ 1 lượng khổng lồ những thương mại phức tạp và những ký
kết mọc lên như nấm dù là với 1 sự bằng lòng…
Tại Đông Nam Á, chính quyền Bắc kinh xuất hiện như để chấp thuận những
luật thông thường trong giải quyết xung xung đột và những nỗ lực của Trung Quốc
nhằm ảnh hưởng lên chính sách của các quốc gia khác và đã phần nào dc giới hạn
và tập trung sâu vào những vấn đề đặc biệt nhạy cảm của Trung Quốc ví dụ như
vấn đề Đài Loan và Mông Cổ. Trong những ví dụ này, cái giá phải trả cho những
vấn đề mục tiêu trong việc điều tiết của Trung Quốc thường thấp và lợi nhuận là
rất quan trọng. Cũng có thêm vài ví dụ nữa trong việc ra quyết định xác đáng (vì
những lợi ích quốc gia) đáp lại nhưng can thiệp chính sách của Trung Quốc.
Trung Quốc tỏ ra hiệu quả nhất trong việc nâng cao vị thế bản thân so với
các quốc gia Châu Á, Phi và Mỹ Latin; những thành phần mà hiện nay đã nhận
159
thức đc quan điểm và mối quan tâm của Trung Quốc. Nhưng ảnh hưởng hành động
lên hành vi của các chủ thể khác đã bị giới hạn và chia theo giai đoạn. Bất chấp sự
hiện diện gia tăng và ảnh hưởng lẫn nhau đối với các quốc gia và thế chế khác trên
khắp quốc tế, những ví dụ cho thấy Trung Quốc thành công trong việc sử dụng
chính sách ngoại giao của mình nhằm thay đổi hành vi của các chủ thể khác là rất
ít.
Một điều chắc chắn rằng Trung Quốc bất mãn với 1 vài thuộc tính của hệ
thống quốc tế hiện thời. Trung Quốc không chấp nhận khẩu hiệu hiện thời của Đài
Loan ngăn cản đảo quốc này tách biệt khỏi Trung Hoa lục đia vẫn luôn là mối quan
tâm an ninh quốc gia hàng đầu. Tuy nhiên, chính sách của Trung Quốc về vấn đề
này.
Cách giải quyết của Trung Quốc trước hàng loạt vấn đề lãnh thổ gây tranh
cãi trên vùng đất biên giới và sự dàn xếp trong thập kỷ vừa qua về những tranh cải
lãnh hải. Tuy nhiên, cho dù Trung Quốc đang tìm kiếm những giải pháp tái kết hợp
với Đài Loan thì mục tiêu này tỏ ra không thực tế. Có nghĩa là, chính quyền Bắc
Kinh nhìn nhận sự mở rộng đất đai như là 1 cách để khẳng định sự hồi sinh quốc
gia như là 1 đại quyền lực. Hành vi của Trung Quốc về những tranh cãi vùng lãnh
hải vẫn đang dc theo dõi, đặc biệt là đối với vùng biển phía Nam Trung Quốc.
Ngoài ra Trung Quốc cũng bất mãn với vị trí của toàn cầu vượt trội hơn của Mỹ,
thúc đẩy phần nào sự nhận thức về việc Mỹ đang tìm cách thông qua đường lối
ngoại giao, kinh tế và sức mạnh quân sự thúc đẩy một xu hướng phát triển của nền
thị trường tự do dân chủ. Lịch trình thúc đẩy dân chủ của chính quyền bush đã là 1
mối quan tâm đặc biệt qua suốt các đời lãnh đạo Trung Hoa.
Chiến tranh Iraq và “Cuộc cải cách màu sắc” ở Trung Đông đã làm tăng
thêm những mối quan ngại. Chính sách tiếp cận gần đây của Mỹ đã khiến cho
Trung Quốc trở nên thận trọng đề phòng sức mạnh cũng như sự đe dọa từ Mỹ mà
có khả năng là nhằm vào Trung Quốc. Điều này đã thúc đẩy Trung Quốc phải nỗ
160
lực liên kết với các quốc gia khác đặc biệt là Nga, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của
Mỹ trên toàn cầu cũng như ở châu Á.
Sự đa dạng hóa
Cả trên lý thuyết và trong thực tế, Trung Quốc đang đuổi theo chiến lược đa
dạng hóa quốc tế. Trung Quốc đang tiến hành việc đó cùng lúc với việc mở rộng
nguồn lực kinh tế mạnh mẽ, an ninh, và khẩu hiệu.
Trung Quốc đang sử dụng chính sách của mình nhằm rộng mở đường vào
thị trường đầu tư, công nghệ và tài nguyên – chìa khóa mở cánh cửa tăng trưởng
kinh tế và công cuộc hiện đại hóa. Trong những năm đầu Trung Quốc bắt tay vào
cải tổ và mở cửa nguồn lực bên ngoài của sự tăng trưởng chủ yếu là thương mại và
đầu tư với 1 lượng nhỏ của những nền kinh tế dc công nghiệp hóa quy mô rộng,
chẳng hạn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, hay Đông Âu. Chỉ trong vòng thập kỷ vừa qua,
các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đi đến nhận thức rằng con đường duy nhất để duy
trì mức hiện đại hóa cao đó là phải chủ động hơn trong giao lưu quốc tế. Tìm kiếm
thị trường mới, đầu tư, kỹ thuật và công nghệ và tài nguyên sự hội nhập của nền
kinh tế nội quốc Trung Hoa vào với các quốc gia ĐNA và mối liên hệ ngày càng
thắt chặt với châu Phi, Mỹ Latin và cả Trung Đông đã dẫn đường cho xu hướng
này. Việc mở rộng thông thương với 3 khu vực hứa hẹn sẽ là chiếc chìa khóa để
duy trì xuất khẩu trong bối cảnh thụt lùi hiện nay trên toàn cầu. Chính sách này cho
phép Trung Quốc giảm bớt sự phụ thuộc vào 1 hay thậm chí là 1 số ít các cường
quốc kinh tế như Mỹ . Trung Quốc cũng sử dụng mối quan hệ kinh tế này nhằm
gây dựng ảnh hưởng chính trị - như việc tạo ra 1 sự độc lập rõ ràng đối với Trung
Quốc – từ đó chính quyền Bắc Kinh có thể làm đòn bẩy cho việc thúc đẩy các mối
quan tâm ngoại giao khác. Chẳng hạn như việc làm cho các quốc gia đưa những ưu
tiên và những quyền lợi của Trung Quốc lên trên. Trung Quốc cũng đang đa dạng
hóa những nguồn anh ninh của nó bằng những mối quan hệ vốn có sẽ ngày càng dc
làm mới và mở rộng với các trung tâm quyền lực khác nhau. Trung Quốc đang cập
161
nhật những quan hệ song phong bằng việc xây dựng nên những mối quan hệ chiến
lược và những cuộc đối thoại chiến lược với các quốc gia phát triển lẫn đang phát
triển, cũng như là với các tổ chức khu vực chính yếu như ASEAN, EU hay là
GCC… Trung Quốc đã ôm ấp các thể chế đa phương trên hầu như khắp thế giới,
trong vài trường hợp còn tạo ra chúng ở nơi mà chúng chưa từng tồn tại. Trung
Quốc sử dụng những cơ chế này nhằm đảm bảo với các quốc gia về ý định của
mình để biểu dương những ích lợi từ sự trỗi dậy Trung Quốc, và cuối cùng là để
mở rộng những ảnh hưởng chính trị của mình – thường liên quan tới việc tiếp cận
những thị trường và nguồn nguyên liệu. Một hệ quả tự nhiên của sự đa dạng hóa về
an ninh này chính là việc Trung Quốc đã tự đánh mất đi những mối quan hệ đồng
minh bền vững và tích cực với một số cường quốc, như là Mỹ. Do việc đa dạng
hóa an ninh này mà giờ đây Trung Quốc đã tạo ra được đòn bẩy, tránh những ràng
buộc trong cách hành xử của mình và đạt được rất nhiều từ những nguồn nguyên
liệu của mình. Cuối cùng, Trung Quốc đang đa dạng hóa chính vị thế quốc tế và
tính hợp pháp của mình. Hàng thập kỷ qua, nó được dựa trên những thống kê cơ
bản như: dân số và diện tích lớn, lịch sử lâu đời và một cường quốc Châu Á, thành
viên Hội đồng Bảo an, Liên hợp quốc, và sở hữu vũ khí hạt nhân. Ngày nay, trở
nên nổi bật hơn với những thành tích về kinh tế trong suốt 30 năm qua và đang cho
thấy sự sẵn sàng để chia sẻ những thành tích đó với các quốc gia khác. Các lãnh
đạo Trung Quốc cũng đang dần dần đánh giá lại tiếng tăm với bên ngoài của mình:
họ đang cố gắng thay đổi quan điểm của thế giới từ chỗ một cuộc đấu tranh chống
lại bá quyền sang một cái nhìn tích cực hơn, trong đó nhấn mạnh hòa bình, phát
triển và hợp tác để xây dựng một thế giới hài hòa. Trung Quốc cũng là một trong
những bên ủng hộ mạnh mẽ nhất nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của
các quốc gia khác (mặc dù quan điểm này của Trung Quốc là trung hòa trong
những năm gần đây), đây chính là uy tín quan trọng của Trung Quốc so với các
nước đang phát triển khác. Đối với rất nhiều người Trung Quốc, việc đăng cai Thế
162
vận hội 2008 trở thành một dấu mốc thành tựu trong nỗ lực được chấp nhận là
thành viên của CLB cường quốc.
Ngoại giao Trung Quốc trong thời kỳ quá độ
Hành xử quốc tế của Trung Quốc chính là một hiện tượng của sự thay đổi
sâu sắc. Trung Quốc đã chấp nhận một cách rõ ràng và rộng rãi những mục tiêu
trong chính sách đối ngoại, thế nhưng họ cũng có những tiến bộ về kinh tế, xã hội
và về mặt chính thể.
Hơn lúc nào hết, những gì xảy ra bên trong liên quan trực tiếp tới hành xử
bên ngoài của Trung Quốc, và tình hình trong nước thì trong tình trạng thay đổi
liên tục. Ngoại giao Trung Quốc phản ánh sự cân bằng những đòi hỏi ngày càng
tăng lên cả trong nước và bên ngoài. Việc Trung Quốc xử lý vấn đề này như thế
nào có một tác động trực tiếp lên những hành xử với bên ngoài của họ, cả mặt
thuận lợi cũng như là ràng buộc các chính sách của mình.
Ví dụ, những thách thức trong điều hành của Trung Quốc là một rào cản đối
với những quyết sách đối ngoại cũng như thực thi nó một cách hiệu quả. Một yếu
tố các của hiện tượng này chính là thương hiệu quốc tế của Trung Quốc đã thay
đổi: một cách đồng thời, Trung Quốc thể hiện rất nhiều bộ mặt đối với rất nhiều
quốc gia. Trung Quốc vừa là một nước phát triển, một nước đang phát triển đối với
rất nhiều quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Đó là một cường quốc khu vực ở Châu
Á và là diễn viên chính trong sân khấu toàn cầu.
Những nhà hoạch định chính sách Trung Quốc mò mẫm cách thức tiến lên
phía trước với những ảnh hưởng, vị thế và cả trách nhiệm mới tìm thấy. Khi nào
thì nên lãnh đạo thế giới, khi nào thì nên đi theo thế giới? Họ đang thử nghiệm tính
hiệu quả và giới hạn những khả năng của mình. Mặc dù những nhà hoạch định
chính sách có những mục tiêu rõ ràng trong đầu và trong chính sách đối ngoại hiện
tại, họ vẫn theo đuổi chúng và rồi hiệu chỉnh lại để đáp ứng những nhu cầu cấp
163
bách và ràng buộc trong nước, những hành xử với bên ngoài và một môi trường an
ninh quốc tế năng động mà trong đó nguy cơ và cơ hội đã sẵn sàng nổi lên.
Cuối cùng, quá trình này đem lại cho cộng đồng quốc tế - bao gồm cả Mỹ -
một cơ hội quan trọng để tiến hóa. Nhưng cũng là khó khăn cho cộng đồng quốc tế
có thể hiểu được bằng cách nào những mối quan tâm lợi ích của Trung Quốc sẽ
tiến bộ theo thời gian.
Những sự dính líu với lợi ích an ninh của Mỹ
Chuyên khảo này đưa ra rất nhiều những sự liên quan tới lợi ích an ninh toàn
cầu của Mỹ, lợi ích của Mỹ ở Châu Á, quan hệ Mỹ - Trung, và tương lai của chính
sách Trung Quốc của Mỹ.
Những thách thức toàn cầu
Trung Quốc không tìm cách để thay thế vị trí của Mỹ như là một siêu cường
toàn cầu. Các lãnh đạo Trung Quốc cũng không muốn trở thành một cường quốc
toàn cầu ngang hàng với Mỹ - một kẻ đấu tranh ngang hàng. Họ xem những thách
thức trong nước đã là quá lớn để có thể vượt qua và đảm nhận một vai trò như vậy,
và họ nhận ra rằng mình hiện đang thiếu những nguồn nguyên liệu để có thể phát
triển và nuôi dưỡng sức mạnh quân đội, sức mạnh kinh tế trên phạm vi toàn cầu.
Họ cũng sợ rằng đóng vai trò đó có thể làm mất đi những nguồn nguyên liệu
cần thiết và cổ xúy cho những thế lực chống lại Trung Quốc. Với những lãnh đạo
Trung Quốc, việc cố gắng sắm vai trò đó sẽ phá vỡ tính chính thống trong đối
ngoại – một rào cản chính trị quan trọng nhưng không thể vượt qua được để có
được những thay đổi lớn trong chiến lược. Một sự sửa chữa như vậy sẽ chỉ có thể
thực hiện được khi môi trường an ninh bên ngoài của Trung Quốc thay đổi – điều
mà được thúc đẩy xem xét lại bởi những lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. Thêm
nữa, nếu Trung Quốc có đang tìm kiếm để trở thành một đối thủ toàn cầu của Mỹ
hay không, thì hành xử của họ sẽ khác xa những gì mà chúng ta đã thấy, như sẽ đề
cập phía dưới.
164
Điều này không có nghĩa rằng sẽ không có những khía cạnh đấu tranh trong
chính sách đối ngoại của Trung Quốc để thách thức những lợi ích an ninh của Mỹ.
Một vài ứng xử quốc tế của Trung Quốc đã trực tiếp xóa đi ảnh hưởng của Mỹ tại
những khu vực đặc biệt và trong một số cơ chế nhất định. Ví dụ rõ ràng nhất cho
điều này là khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc hiện không chủ tâm
đẩy Mỹ ra khỏi khu vực này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra sự nguy hiểm
và xu hướng thất bại của cách tiếp cận đó, và một vài người thì nhận ra sự ổn định
mà những đồng minh của Mỹ mang lại.
Hơn nữa, Trung Quốc đang cố gắng tăng cường sức mạnh và ảnh hưởng
tương đối lên Mỹ. Mục đích cốt lõi của Trung Quốc là ngăn chặn khả năng Mỹ
ràng buộc Trung Quốc; điều đó có nghĩa, Trung Quốc muốn tối đa hóa quyền tự do
hành động và đòn bẩy nhưng là phương tiện để chống lại những nỗ lực đã được
thừa nhận của Mỹ để giới hạn những sự lựa chọn của Trung Quốc. Trung Quốc tìm
kiếm ảnh hưởng chính trị để tăng chi phí tổn thất, đối với Mỹ và đồng minh, trong
việc ràng buộc Trung Quốc.
Vì thế, Trung Quốc đang thách thức Mỹ bằng việc cố gắng cắt giảm những
ảnh hưởng quan hệ, nhưng cũng không tìm cách đối đầu Mỹ bằng cách đẩy Mỹ ra
khỏi khu vực của mình.
Như đã đề cập ở trên, Trung Quốc đang theo đuổi cách tiếp cận này bằng
việc tăng cường đan xen kinh tế với các nước châu Á, tham gia vào các tổ chức đa
phương để hình thành nên những chương trình nghị sự khu vực, mở rộng quan hệ
song phương để hình thành những ưu tiên từ các quốc gia này, và nhìn chung là tái
khẳng định với các quốc gia về những mục đích cũng như khả năng của Trung
Quốc. Với ý nghĩa như vậy, cách tiếp cận của Trung Quốc là hấp dẫn hơn là đối
đầu – lôi kéo các quốc gia đi theo Trung Quốc (để trói buộc họ) hơn là đẩy họ
tránh xa Mỹ hay các nước khác.
165
Trong con mắt Trung Quốc, logic của những chính sách đối ngoại mang tính
cạnh tranh chính là phòng thủ cần thiết. Trung Quốc tìm kiếm các ảnh hưởng để
Mỹ và đồng minh không thể cùng nhau giới hạn được các lựa chọn của mình.
Những hành động của Trung Quốc ở châu Á – Thái Bình Dương, như là một ví dụ,
là để tìm cách tạo ra một môi trường mà trong đó Mỹ không thể ràng buộc Trung
Quốc, cả ở hiện tại và tương lai.
Mặc dù Trung Quốc đã cố gắng chinh phục với nhiều lựa chọn hấp dẫn,như
là đưa ra những tầm nhìn khác về trật tự an ninh khu vực, không một nước nào
chấp nhận và Trung Quốc cũng không theo đuổi chúng.
Thêm nữa, Trung Quốc đã chủ động sử dụng ngoại giao kinh tế, sự ảnh
hưởng đa phương, và mối liên hệ song phương để tạo ra một môi trường an ninh
khu vực mà trong đó các quốc gia không xem Trung Quốc như là một mối đe dọa,
nhạy cảm hơn với những quyền lợi của Trung Quốc, sẵn sàng điều chỉnh Trung
Quốc về một số vấn đề, và không tập hợp đối trọng với sức mạnh của Trung Quốc.
Cách tiếp cận này rõ ràng đã thành công với Trung Quốc.
Với giới lãnh đạo Trung Quốc, cố gắng thực hiện vai trò này sẽ thể hiện
bước đột phá lớn những truyền thống trong lĩnh vực ngoại giao-một rào cản chính
trị rất quan trọng nhưng khó có thể vượt qua để tạo ra được sự thay đổi lớn về
chiến lược. sự cân nhắc về phương hướng phát triển cũng có thể tạo ra sự xoay
chuyển trong phản ứng trước những thăng trầm trong môi trường an ninh nội địa
Trung Quốc - thứ đã thúc đẩy giới lãnh đạo Trung Quốc hoàn chỉnh tái định mức
thuế. Thêm nữa, nếu Trung Quốc đang tìm kiếm cơ hội để trở thành đối thủ toàn
cầu của Mỹ, những hành động của Trung Quốc sẽ khác xa so với những gì họ đang
tiến hành, như phần tranh luận dưới đây.
Điều này không có nghĩa là không có bất kì khía cạnh mang tính cạnh tranh
nào của các chính sách ngoại giao của Trung Quốc thách thức các lợi ích an ninh
của Mỹ. một vài hành vi trên trường quốc tế của Trung Quốc xói mòn trực tiếp
166
những ảnh hưởng của Mỹ tại 1 vài khu vực riêng biệt và trong 1 số thể chế nhất
định. Khía cạnh mang tính cạnh tranh nhất của chính sách ngoại giao Trung Quốc
biểu hiện rõ rệt tại khu vực châu á-thái bình dương. Hiện tại Trung Quốc không cố
gắng để đẩy mỹ ra khỏi khu vực này. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra mối
nguy hiểm và nguy cơ thất bại cho sự tiếp cận như vậy, và cũng nhận ra sự ổn định
được tạo ra bởi các đồng minh của Mỹ. hơn thế, Trung Quốc cố gắng làm tăng sức
mạnh và ảnh hưởng cân xứng với Mỹ. một mục tiêu nòng cốt của Trung Quốc là
cản trở khả năng của Mỹ trong việc thúc ép Trung Quốc, điều này có nghĩa là,
Trung Quốc cố gắng làm tăng đến lớn nhất sự tự do của họ trong hành động như 1
công cụ chống lại những nỗ lực dễ thấy của Mỹ nhằm hạn chế những lựa chọn của
Trung Quốc. Trung Quốc tìm kiếm những ảnh hưởng chính trị để làm tăng sự khó
khăn, trước Mỹ và đồng minh, cho việc cưỡng ép Trung Quốc.
Vì vậy, Trung Quốc đang thách thức Mỹ bằng cách cố gắng lamg giảm ảnh
hưởng của Mỹ, nhưng Trung Quốc không hề cố gắng giáp mặt với Mỹ, mà cố gắng
làm bật những ảnh hưởng đó ra. Theo trên, Trung Quốc đang theo đuổi sự tiếp cận
bằng cách làm sâu sắc hơn những ảnh hưởng kinh tế với các quốc gia châu Á, tham
gia các tổ chức đa phương nhằm định hướng cho các chương trình nghị sự trong
khu vực, mở rộng các tác động tay đôi nhằm tạo ra sự ưu tiên tại các quốc gia đó,
và tái đảm bảo với các nước về ranh giới trong mục đích và khả năng của Trung
Quốc. Cảm tưởng sự tiếp cận của Trung Quốc nhằm hút các nước hơn là đối đầu
trực tiếp - kéo các quốc gia lại gần với Trung Quốc (để trói buộc) hơn là đẩy họ ra
khỏi những ảnh hưởng của mỹ hay ảnh hưỡng lẫn nhau.
Trong con mắt của Trung Quốc, lập luận về những chính sách đối ngoại
mang tính cạnh tranh nhất của họ về cơ bản có tính chất phòng vệ. Trung Quốc tìm
kiếm những ảnh hưởng để qua đó ngăn chặn Mỹ và các nước đồng minh không thể
cùng nhau hành động giới hạn các lựa chọn của Trung Quốc. Những hành động
của Trung Quốc, ví dụ, tại khhu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm tạo một môi
167
trường mà tại đó Mỹ ko thể chế ngự được Trung Quốc, trong thời điểm hiện tại
hoặc trong tương lai. Mặc dù họ đã thử nhiều lựa chọn công kích hơn, như đề nghị
một sự thay thế trong cách nhìn nhận về trật tự an ninh khu vực, ko có lựa chọn
nào được giữ lại và Trung Quốc cũng ko hề muốn theo đuổi chúng. Hơn nữa,
Trung Quốc đã sử dụng chính sách ngoại giao kinh tế, tác động đa phương và hợp
tác song phương để tạo ra môi trường an ninh khu vực mà trong đó các nước ko
xem Trung Quốc như 1 mối đe dọa, nhạy bén với các lợi ích của Trung Quốc, và
sẵn lòng dàn xếp với Trung Quốc trong một số vấn đề gây tranh cãi, và sẽ ko cân
bằng được với quyền lực của Trung Quốc. Sự tiếp cận này đã khá thành công với
Trung Quốc.
Tiến xa hơn, một thách thức trọng điểm với Trung Quốc là duy trì cán cân
giữa thách thức và đương đầu với những lợi ích của Mỹ. Mặc dù Trung Quốc có
thể coi những hành động của họ mang tính chất phòng vệ (tức là phản ứng với
những nỗ lực của Mỹ như phá hoại ngầm họ), một vài chính sách của Mỹ, phụ
thuộc vào sự thị uy của chính phủ, có thể làm xuất hiện những sự đối đầu với Mỹ
và những nhà hoạch định chính sách khu vực. Các hành động của Trung Quốc, như
chính chính sách ngoại giao quân sự của họ, có thể khiến cho sự cạnh tranh có vẻ
trực tiếp hợn, căng thẳng hơn, và tiềm tàng…. vì Trung Quốc trở nên tích cực hơn
trênt toàn cầu, lợi ích của Mỹ và Trung Quốc sẽ va chạm xung đột ccungx như
chồng chéo lên nhau. Kết quả là, một chính sách thách thức cho cả Washington và
bắc kinh là tối đa hóa cái gần nhất và tối thiểu hóa cái cũ nhất. để có thể đàm phán,
Washington và bắc kinh đã thành công trong việc tránh những kết cục tiêu cực,
nhưng nhiều sự thử nghiệm có lẽ đúng.
Thách thức với chính sách với Trung Quốc của Mỹ.
Một sự kiện lớn thứ 2 tới lợi ích của Mỹ là chiến lược đa dạng hóa của
Trung Quốc đang thấy thế khả năng của Mỹ trong việc kiềm chế các hành động
của Trung Quốc và sự điều khiển những mối quan hệ song phương. Wasshington,
168
theo đuổi sự bình thường hóa trong hàng thập kỉ, thúc đẩy có hiệu quả những ưu
tiên của bắc kinh về mối quan hệ bền vững và tích cực với Mỹ nhằm gợi ra sự thay
đổi trong chính sách của Trung Quốc về kinh tế thế giới và các vấn đề an ninh.
Chính sách của Mỹ đóng vai trò trung tâm trong việc cổ vũ (vào 1 số thời điểm là
ép buộc) sự chấp thuận của Trung Quốc về những luật quốc tế liên quân đến buôn
bán và đầu tư, kiểm soát vũ khí và các vấn đề an ninh khu vực. Chính sách của Mỹ
chắc chắn ko phải là yếu tố duy nhất kiến tạo quá trình quốc tế hóa hậu Mao, mà
còn đóng vai trò xúc tác bằng cách đem lại sức sống mới cho cho các cuộc tranh
luận bên trong và làm tăng nhanh những tranh luận đã có sắn, bao gồm bằng cách
hỗ trợ những người chủ trương thay đổi bên trong Trung Quốc. Những chính sách
đối ngoại của Trung Quốc dã từng đề cập đến mối quan hệ Mĩ –Trung như một
trong những chìa khóa then chốt nhất- một sự phản ánh xu hướng chính của Mỹ
trước quan điểm về TG và các chính sách đặc biệt của Trung Quốc. Động lực này
hiện nay đang thay đổi dần.
Nhờ sự mở rộng vị thế về mặt kinh tế, an ninh cũng như uy tín của Trung
Quốc các nhà lãnh đạo Trung Quốc ko còn phải bận tâm tới các quan điểm của Mỹ
nữa. Theo thời gian Bắc Kinh sẽ trở nên kém sẵn lòng hơn trước sự ưu đãi với Mỹ
và có khả năng chống lại những áp lực từ phía Washington, thậm chí còn phát sinh
những yêu cầu ngược trở lại. Cách thức truyền thống của Mỹ chủ yếu dựa vào con
đường ngoại giao song phương để định hướng những chính sách thi hành với
Trung Quốc giờ đây đã bộc lộ những mặt hạn chế.
Thách thức khu vực.
Uy thế của Trung Quốc ở châu Á đang làm thay đổi bản chất những mối
quan hệ với những liên mình và đối tác trong khu vực của Mỹ. Khi Trung Quốc
ngày càng ảnh hướng nhiều hơn về kinh tế, thương mại và quân sự đến những
nước đồng minh, đối tác của Mỹ thì nhu cầu của họ về phía Washington cũng sẽ
thay đổi vì Trung Quốc chi phối lớn hơn bởi sự phát triển kinh tế và kế hoạch an
169
ninh khu vực, điều này gây khó khăn cho washington trong việc thiết lập hợp tác
với các nước khác trong vùng châu Á-TBD. Ví dụ điều này sẽ dẫn đến sự lựa chọn
chính sách ko cần thiết và sự ép buộc hợp tác an ninh với các quốc gia này; những
thách thức giữa thập kỉ này trong quan hệ đồng minh Mỹ-Hàn là 1 mình chứng
mặc dù họ tỏ ra khá kiên quyết dưới chính quyền mới của Hàn quốc. Những xu
hướng này liên quan chủ yếu đến dự án phòng thủ của Mỹ trước cuộc xung đột có
thể xảy ra giữa Đài Loan. Những đồng minh của Mỹ ở châu Á cần phải cân bằng
tầm nhìn cùng với những đòi hỏi của Washington và bắc kinh. Tiến trình đang tiếp
diễn này đã biểu thị chiến lược Mỹ-Á với những thách thức lâu dài.
Ở Châu phi và châu Mỹ Latin, những thay đổi tương tự nhưng kém phần sâu
sắc hơn trong mối quan hệ song phương cũng đã xuất hiện. Ở châu Phi những
chính sách thương mại và đầu tư của Trung Quốc đang thách thức những nỗ lực
của châu Âu trong việc cải thiện quyền con người và thi hành quyền cai trị. Trung
Quốc đã tác động 1 cách hiệu quả đến quan hệ ngoại giao với những nhà nước
châu Phi nhằm thúc đẩy những diễn đàn đa phương, ví dụ như việc tranh luận của
Liên Hiệp Quốc về vấn đề cải cách Hội đồng Bảo an, tương tác về sự phát triển
thương mại-tài chính của Trung Quốc với chính phủ các nước như Brazil,
Venezuela và Bolivia đã đưa ra cho mỗi quốc gia này những sự lựa chọn và quyền
lựa chọn cái mà ko hề có khi họ chủ yếu dựa vào những mối quân hệ kinh tế và
cam kết an ninh từ phía Mỹ. điều này làm thay đổi định hướng của họ với
Washington, làm cản trở đường lối đối ngoại của Mỹ. sự ủng hộ của Venezuela
với Trung Quốc như 1 sự chế giễu Mỹ là 1 minh chứng rõ ràng cho hiện tượng
này.
Sự ảnh hưởng trong khu vực của Trung Quốc không chỉ thay đổi khu vực ấy
mà còn định hướng thái độ của Trung Quốc. Sự tác động gia tăng của Trung Quốc
với các nước châu Phi đã làm nhạy cảm chính sách của những chính phủ này dẫn
đến việc Trung Quốc nhận ra giá trị của việc liên kết chính phủ châu Phi và thúc
170
đẩy cách giải quyết khủng hoảng Dafur, Sudan. Ví dụ những mối liên hệ trong khu
việc này khiến Trung Quốc giảm bớt vai trò của họ trong nguyên tắc không can
thiệp vào vấn đề nội bộ của các nước khác.
Sự thách thức lớn hơn đối với Mỹ là việc kiếm soát bản chất, phạm vi và tốc
độ của sự lan rộng toàn cầu của Trung Quốc. Bằng cách nào và ở đâu, Trung Quốc
tích lũy sự ảnh hưởng vượt ra ngoài việc đơn thuần chỉ là hiện diện và thiết lập
những mối quan hệ tương tác khu vực. Trung Quốc ảnh hưởng như thế nào tới lưu
lượng hàng hóa, đầu tư, buôn bán tiền tệ, khoa học, công nghệ trong khu vực. Liệu
điều này có làm thay đổi tham vọng toàn cầu và trong khu vực của Trung Quốc,
nó có hướng bành trướng hay thận trọng hơn. Ngoại giao Mỹ cần hòa hợp trong
việc đánh giá những phương thức mà Trung Quốc đang tích lũy ảnh hưởng, liệu
Trung Quốc có thể sư dụng những ảnh hưởng đó và những tiến triển này định
hướng được mục đích của Trung Quốc ra sao. Những nhà hoạch định chính sách
Mĩ cần tính đến việc phát triển sự cân bằng ảnh hưởng Mĩ –Trung theo một hướng
xác định ở châu Á và những vùng khác.
Một thách thức nữa mà Mĩ phải đối mặt là việc đảm bảo sự ổn định ở châu á
theo 3 khuynh hướng tập trung; sự đi lên của Trung Quốc, khả năng quân sự của
Nhật Bản và việc trở thành cường quốc châu Á của Ấn Độ. Mặc dù nghiên cứu tập
trung vào thái độ quốc tế của Trung Quốc nhưng động thái ngoại giao của Trung
Quốc lại đang có những ảnh hưởng sâu sắc đến những mối liên hệ chính chủ yếu ở
châu Á. Về phương diện lịch sử, Trung Quốc đã có những cuộc xung đột lãnh thổ.
Trong lịch sử, Trung Quốc đã có những xung đột về lãnh thổ với cả Nhật
Bản và Trung Quốc, cả hai quốc gia này đều quan ngại sâu sắc về mâu thuẫn với
Trung Quốc.Nguyên nhân chính là do sự nghi kị lâu dài giữa 3 quốc gia này, tạo ra
tình huống lưỡng nan về an ninh. Mối quan hệ giữa 3 trung tâm quyền lực đã
nhanh chóng lan tỏa và kéo theo các đồng minh cũng như các đối thủ, thường là
đồng thời. Một nhiệm vụ quan trọng đối với Hoa Kỳ là tiếp tục sử dụng vai trò cân
171
bằng của nó, đến mức có thể, với quan hệ giữa ba chủ thể đó để giảm sự nghi ngờ,
khả năng xung đột, và điều hòa khủng hoảng
Cách tiếp cận Phản thực tiễn
Một phương pháp phân tích hữu ích để đánh giá hành vi trong quan hệ quốc
tế của Trung Quốc và những thách thức liên quan đến lợi ích của Hoa Kỳ là nhìn
lại những gì Trung Quốc đã không thực hiện. Bằng cách điểm lại những lựa chọn
trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc ta có thể thấy được quan điểm, mục
tiêu cũng như chính sách của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Trước tiên, Trung Quốc cho theo đuổi mục tiêu chính sách đối ngoại thông
qua mở rộng lãnh thổ, sự can thiệp quân sự, triển khai quân sự thường trú ở nước
ngoài, tạo ra các thị trường hàng hóa (thông qua mở các đại lý bán hàng), hay
khẳng định vai trò trong các tổ chức quốc tế và khu vực là cốt yếu. Hành xử của
Trung Quốc trong quan hệ quốc tế tích cực hơn nó có vẻ là trong giai đoạn hiện
thời, dù là trong phạm vi khu vực hay phạm vi toàn cầu. Điều này không có nghĩa
là hành vi của Trung Quốc không thách thức một số lợi ích của Mỹ, nhưng đó là
những thách thức cụ thể hơn và nhạy cảm hơn rất nhiều.
Thứ hai, Trung Quốc không cổ súy quan điểm thay thế triệt để việc toàn cầu
hóa hay hoặc xây dựng không gian châu Á. Trung Quốc cũng không thúc đẩy một
"Đồng thuận Bắc Kinh" như là một thay thế cho "Đồng thuận Washington" . Mặc
dù một số quốc gia cho rằng phương hướng phát triển và tiếp cận của Trung Quốc
giống như tư bản độc tài mở rộng với rất ít tiếp xúc, ủng hộ toàn cầu. Trong thực
tế, con đường phát triển của Trung Quốc xác nhận các tiên đề cốt lõi của Đồng
thuận Washington thay vì thách thức nó. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vào
giữa năm 2008 đã làm nổi bật hơn các giới hạn của các chính sách thị trường tự do
(đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính) hơn bất kỳ động thái ngoại giao chủ trương
ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào quá trình hoạch định chính sách về kinh tế
nào của Trung Quốc có thể. Hơn nữa, Trung Quốc đã gia nhập hầu hết các tổ chức
172
an ninh và kinh tế toàn cầu. Tỷ lệ tham gia của nó trong các tổ chức liên chính phủ
đang trong giai đoạn đỉnh cao.
Ở châu Á, Trung Quốc không còn tích cực thúc đẩy "quan niệm an ninh
mới” của riêng mình bởi chính Bắc Kinh cũng nhận ra rằng điều này không cộng
hưởng với các quốc gia châu Á khác-những đối tượng luôn muốn duy trì mối quan
hệ tốt với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trung Quốc nỗ lực để phát triển quyền lực
mềm của mình bằng cách nỗ lực xây dựng sự an tâm của các quốc gia về mục đích
của Trung Quốc thay vì cố ép các nước phải tách ra khỏi Mỹ dựa trên một mô hình
phát triển của Trung Quốc hoặc an ninh khu vực. Hầu hết các quốc gia đang hướng
về Trung Quốc là bởi sự phát triển và lớn mạnh của Trung Quốc chứ không phải lí
tưởng của Trung Quốc. Trung Quốc đã làm tốt việc sử dụng sức mạnh cứng của
mình một cách mềm dẻo hơn là tạo ra sức mạnh mềm, như Joseph Nye đã nhận
định ban đầu. Rất nhiều các ý tưởng chính sách ngoại giao Trung Quốc khuyến
khích được rộng rãi phù hợp với tiền lệ của chủ nghĩa coi trọng các cơ chế hợp tác
tự do mà Mỹ theo đuổi sau Thế chiến II (với ngoại lệ rõ ràng tự do hóa chính trị).
Nói cách khác, Trung Quốc thiên về tham gia các tổ chức để thiết lập ảnh hưởng
của mình hơn là đấu tranh đối lập và sửa đổi chúng. Hành xử trong quan hệ quốc tế
của Trung Quốc giống như một Hoa Kỳ trong tám năm qua của chính quyền Bush.
Nhiều quốc gia đã xem Bush như là hạn chế của sự can thiệp của Hoa Kỳ vào các
tổ chức quốc tế. Trung Quốc đã thành công trong việc ngầm tạo ra một tương phản
với chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời George W. Bush. Dưới thời Barack
Obama, khó có thể chắc chắn rằng Trung Quốc có thể tạo nên sự tương phản hoàn
toàn trong chính sách đối ngoại tương tự hay không?
Thứ ba, Trung Quốc đã không thể tạo nên một tư thế đối đầu với Hoa Kỳ,
mặc dù khó chịu với tình trạng đơn cực Mỹ và nền dân chủ Hoa Kỳ-xúc tiến
chương trình nghị sự. Ngay cả trong những năm dướu chính quyền Bush, nhà lãnh
đạo Trung Quốc vẫn luôn tránh đối đầu với Hoa Kỳ (chẳng hạn như trong vấn đề
173
Iraq năm 2003), đặt nỗ lực vào ổn định quan hệ Mỹ-Trung Quốc (đặc biệt sau sự
kiện 11/9), và tìm cách mở rộng các lĩnh vực hợp tác thiết thực (ví dụ, Bắc Triều
Tiên). Mỹ và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã mở rộng các kênh trao đổi ngoại
giao. Nhưng chỉ có kết quả trong giới hạn các thay đổi trong hành vi của Trung
Quốc về các vấn đề an ninh chính quốc tế như Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan, và
Miến Điện. Những hành xử trong quan hệ quốc tế của Trung Quốc đã phản ánh
một sự thừa nhận hành vi tiếp tục mối quan hệ thù địch với Hoa Kỳ sẽ có một tác
động rất tiêu cực đến môi trường an ninh của Trung Quốc và về khả năng Trung
Quốc thực hiện cả mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn của mình.
Hơn nữa, Trung Quốc đã không tìm cách tạo ra một liên minh chống
Hoa Kỳ để cân bằng quyền lực. Bắc Kinh đã theo đuổi quan hệ song phương với
các quốc gia thân Hoa Kỳ cũng như các quốc gia bị Hoa Kỳ xa lánh. Trung Quốc
đã có mối quan hệ đa phương không chỉ với các tổ chức mà Hoa kỳ là thành viên
mà còn cả các tổ chức không có Hoa Kỳ như SCO và EAS.
Đồng thời, Trung Quốc vẫn theo đuổi các cơ hội để thách thức sự tự do và
vượt trội trong hành động của Hoa Kỳ. Quan hệ Trung-Nga có dấu hiệu chống Mỹ
rất rõ ràng , biểu hiện trong hành động trong Liên Hiệp Quốc để ép Mỹ hành động.
Trung Quốc đã thành công trong việc ép Mỹ sử dụng trong các vấn đề chính sách
đối ngoại để thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc. Trung Quốc đã giúp đỡ cho EU sau
cuộc chiến tranh Iraq để cố gắng khai thác căng thẳng xuyên Đại Tây Dương để
xoá bỏ các lệnh cấm vận vũ khí của EU vào Trung Quốc. Trung Quốc cũng giúp
đỡ cả Philippin và Thái Lan trong năm 2004 và năm 2006 khi quan hệ của họ với
Hoa Kỳ trở nên căng thẳng.
Thứ tư, tại châu Á, Trung Quốc không tích cực tìm cách chia liên minh Hoa
Kỳ. Trung Quốc không phải là cung cấp cho đồng minh của Mỹ bảo đảm an ninh
và hợp tác quân sự như là một thay thế cho thỏa thuận an ninh với Hoa Kỳ. Thực
tế, quân sự ngoại giao và hợp tác quốc phòng, có lẽ là một phần nhỏ nhất của ngoại
174
giao song phương của Trung Quốc với các quốc gia châu Á. Trung Quốc không
xây dựng hình tượng của mình như một đối tác an ninh thay thế cho Hoa Kỳ. Thay
vào đó, Trung Quốc đã cố gắng tăng cường các hợp tác kinh tế với các đồng minh
của Hoa Kỳ, tham gia các tổ chức và cam kết thực hiện các quy chế ít nhất là trong
giai đoạn hiện nay. Từ đầu thập kỷ này, nhiều nhà chiến lược của Trung Quốc
nhận ra rằng các đồng minh chính thức của Mỹ đang giữ vai trò ổn định ở châu Á.
Một khía cạnh cuối cùng cần chú ý đến khi xem xét vấn đề này là những
khác biệt trong chính sách cân bằng của Trung Quốc sẽ như thế nào . Nó có thể
bao gồm thúc đẩy một khái niệm khác về an ninh toàn cầu, ép các quốc gia châu Á
phải lựa chọn giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Trung Quốc sẽ thay đổi trong tương lai?
Kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, nhận thức của Trung Quốc đã nghiêng
về tập trung vào sự phát triển dần dần của sức mạnh kinh tế của Trung Quốc và
khả năng quân sự của họ, và tìm cách giảm thiểu mối đe dọa từ bên ngoài. Trước
mắt, một câu hỏi quan trọng được đặt ra là quá trình kép trong chiến lược của
Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào? Liệu sự lớn mạnh về kinh tế và tầm ảnh hưởng
có tạo nên những thay đổi trong tư duy, mục tiêu và chính sách đối ngoại của
Trung Quốc, tạo ra những hành vi khác trước đây chưa từng thấy? Cụ thể, nếu như
sức mạnh của Trung Quốc tăng lên liệu Trung Quốc có trở nên táo bạo hơn trong
mối quan hệ với Mỹ?
Các tác giả cho thấy rằng điều này là không có khả năng xảy ra trong hai
thập kỷ tới, một gián đoạn lớn trong quỹ đạo hiện hành của Trung Quốc sẽ là sự
mất ổn định lan rộng trong nước hoặc một cuộc xung đột vũ trang với Hoa Kỳ
hoặc một quốc gia Á. Tại sao? Một cách đơn giản: Tiềm lực Trung Quốc chỉ có thể
dần phát triển trong khi các khó khăn nội bộ và những hạn chế bên ngoài đề ra
trong chính sách đối ngoại không biến động nhiều.
175
Sức mạnh quốc gia của Trung Quốc sẽ chỉ dần dần tăng lên khi sự kiềm chế
bên trong và ngoài nước về một chính sách đối ngoại xét lại vẫn còn quan trọng.
Sự lớn mạnh về quyền lực và ảnh hưởng của Trung Quốc trong hai thập kỷ tới sẽ
dần dần và bị giới hạn. Trung Quốc hiện đang đối mặt với rất nhiều sự kiềm chế
khả năng để duy trì tăng trưởng mãnh liệt như thế. Ít dự án tăng trưởng trong hai
thập kỷ tới cho thấy rằng Trung Quốc phải cần có nguồn tài nguyên quốc gia lớn
đủ để đáp ứng những nhu cầu phát triển của đất nước trong khi muốn có một cuộc
chạy đua nước rút mang tính quốc tế để cạnh tranh vị trí với Mỹ. Tất nhiên, sự tăng
lên dần dần sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc cũng xảy ra trong bối cảnh sự
lớn mạnh của các cường quốc khu vực khác như Nhật Bản và Ấn Độ, hai quốc gia
đang theo sát Trung Quốc và đánh giá những thành tựu của nước này. Những điều
trên cho thấy những sự kiềm chế và tự kiềm chế về những sự thay đổi lớn lao trong
chiến lược toàn cầu của Trung Quốc.
Những thách thức bên trong của Trung Quốc sẽ tiếp tục lớn mạnh trong
những tính toán đối ngoại của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, cho thấy khó có sự
thay đổi quan điểm về cơ bản trong chính sách đối ngoại của nước này. Vô số
những thách thức nội bộ của Trung Quốc sẽ vẫn tồn tại và một số còn lớn hơn
trong hai thập kỷ tới, như việc kiềm chế tăng dân số và nhu cầu chuyển sang một
mô hình phát triển dựa vào tiêu dùng.
Với thế hệ lãnh đạo thứ 4 và thứ 5 hiện nay, những khái niệm của Đảng
Cộng sản Trung Quốc cầm quyền lâu dài rằng sử dụng chính sách đối ngoại để tạo
ra môi trường bên ngoài ổn định, tiếp cận các thị trường và tài nguyên thiên nhiên,
tối thiểu hoá những cam kết với bên ngoài, tránh tình thế hạn chế buộc Trung Quốc
phải lựa chọn sẽ tiếp tục tồn tại dai dẳng. Lãnh đạo Trung Quốc sẽ tiếp tục nhìn
nhận chính sách đối ngoại qua lăng kính thúc đẩy sự phát triển và ổn định trong
nước. Như đã trình bày ở trên, những thách thức bên trong của Trung Quốc ngày
càng có vai trò cả như thúc đẩy và kiềm chế trong chính sách đối ngoại của Trung
176
Quốc, không có cái nào có khả năng thay đổi cơ bản lợi ích dân tộc của Trung
Quốc.
Ngoài ra, lãnh đạo Trung Quốc rất lưu tâm đến những sai lầm trong quá khứ
của những cường quốc mới nổi lên và muốn tránh lặp lại những sai lầm đó. Họ đã
học tập những kinh nghiệm buồn của các đế chế Nhật Bản, đế chế Weimar của
Đức và Liên Xô cũng như những kinh nghiệm tốt khi Mỹ tăng cường quyền lực
sau Thế chiến II. Họ đã rút ra kết luận từ những kinh nghiệm này tầm quan trọng
của việc không dựa vào sức mạnh quân sự để bảo đảm tầm vóc của quốc gia và
không đối đầu với những cường quốc vượt trội hơn mình. Do đó, lãnh đạo Trung
Quốc tập trung vào việc tăng cường sức mạnh tổng thể của quốc gia như là một
cách để bảo đảm sự tái sinh của dân tộc. Những học giả nghiên cứu quan hệ quốc
tế của phương Tây đã tranh luận khả năng Trung Quốc tránh những cuộc chuyển
giao quyền lực như thế nhưng về điểm này thì mục tiêu quốc tế của các nhà lãnh
đạo của Trung Quốc rất rõ ràng.
Khi Trung Quốc theo đuổi chiến lược chính sách đối ngoại hiện tại của nó,
vị trí của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế hiện nay ngày càng lớn và có thể gắn
với nó là ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm cách để
kéo dài vĩnh viễn hệ thống đó một khi hệ thống đó giúp Trung Quốc trở nên thịnh
vượng hơn và đảm bảo an ninh. Hiện tượng kỳ lạ này đã được chứng minh qua vị
trí của Trung Quốc ở Bắc Triều Tiên, Iran, Sudan và Myanmar. Trong tất cả các
trường hợp này, Trung Quốc đều sẵn sang hành động để giải quyết vấn đề hoặc ít
nhất là ngăn chặn vấn đề trở nên tệ hơn hơn là từ chối can thiệp như trước đây. Sự
thay đổi này trong hành vi của Trung Quốc là hệ quả trực tiếp trong những thay đổi
tư duy của Trung Quốc về lợi ích quốc gia, cái mà ngược lại là kết quả trực tiếp
của quá trình quốc tế hoá của Trung Quốc. Trung Quốc có thể thay đổi một vài
trong số các quy tắc và đóng vai trò quan trọng hơn trong việc định hình các tổ
chức quốc tế mới (và xa hơn nữa có tiềm năng kiềm chế Mỹ) nhưng những thay
177
đổi do Trung Quốc khởi xướng trong hệ thống quốc tế hiện tại thì ít có khả năng đó
hơn. Suy nghĩ sâu hơn chúng ta thấy rằng, thậm chí cả khi sức mạnh và ảnh hưởng
của Trung Quốc lớn mạnh hơn, thì cái giá của việc đối đầu với Mỹ cũng vẫn cao,
còn lợi ích của việc đó thì chưa rõ ràng, nếu không muốn nói là thấp. Sức mạnh
kinh tế và quân sự của Mỹ sẽ không bất biến trong suốt 20 năm tới, thậm chí nếu
những khoảng cách về tiềm lực tương đối được thu hẹp lại. Và dường như Mỹ sẽ
không thực hiện một chiến lược đối đầu công khai với Trung Quốc, điều sẽ cơ bản
thay đổi tính toán được-mất của Trung Quốc trong các hành vi quốc tế của nước
này. Mỹ sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng (nhưng không phải là trung tâm như
trước đây) đối với nhận thức của Trung Quốc về môi trường an ninh bên ngoài và
cấu trúc của hệ thống quốc tế. Thậm chí giả định rằng thế giới sẽ trở thành thế giới
đa cực rõ rang hơn, nền kinh tế và quân sự Mỹ vẫn sẽ tiếp tục phủ bóng lên các vấn
đề Châu Á và thế giới. Theo cách nói này, nhận thức của Trung Quốc về cái giá
của việc đối đầu với Mỹ vẫn sẽ tồn tại dai dẳng.
Những tranh luận này không muốn ngụ ý rằng các hành vi quốc tế của Trung
Quốc sẽ không thay đổi trong hai thập niên tới. Những hành vi đó sẽ thay đổi khi
tiềm năng của Trung Quốc dần dần mở rộng, khi hệ thống quốc tế trở nên đa cực
hơn, và khi vai trò của Mỹ trong các vấn đề quốc tế thay đổi. Ngoại giao Trung
Quốc khi đó sẽ phản ánh sự tự tin và đường hoàng. Các quốc gia khác sẽ trông cậy
vào Trung Quốc nhiều hơn và Trung Quốc sẽ cảm thấy thoải mái hơn khi sử dụng
sức mạnh của mình trong việc định hình quốc gia và thể chế quốc tế. Trung Quốc
còn có thể thoải mái bất đồng với Mỹ và thậm chí có thể chống lại áp lực của Mỹ.
Những thách thức đối với chính sách của Mỹ nằm ở việc hành vi quốc tế của
nước này để hiểu đường đi của Trung Quốc. Những nhà hoạch định chính sách của
Mỹ cũng cần tìm ra những cách mới để đạt được những mục tiêu: giảm khả năng
Trung Quốc cắt xén lợi ích của Mỹ và ngăn cản những hành động hiếu chiến, tái
cam đoan với Trung Quốc rằng Mỹ không coi Trung Quốc là kẻ thù để bỏ qua mối
178
bất an lớn nhất của Trung Quốc là ý đồ của Mỹ, và để tạo ra các cơ hội cho mối
quan hệ đối tác trong việc giải quyết những vấn đề xuyên quốc gia tạo ra mối đe
doạ cho sự ổn định của hệ thống quốc tế.
Ngụ ý cuối cùng của phân tích này là mong đợi của Mỹ về đường lối tương
lai không nên bắt đầu với phỏng đoán rằng những hành động của Mỹ là tự trị đối
với tiến triển về nhận thức, mục tiêu và chính sách của Trung Quốc. Chính sách
của Mỹ với Trung Quốc sẽ tiếp tục là ảnh hưởng quan trọng nhất đối với hành vi
tương lai của Trung Quốc và đối với nội dung, tính chất của quan hệ Mỹ-Trung.
Điều này nên tiếp tục là tiền đề trung tâm cho các nhà hoạch định chính sách Mỹ.
Thậm chí khi lợi ích của Trung Quốc đa dạng hơn, Mỹ vẫn sẽ tiếp tục có vị trí
quan trọng, chứ không phải là vượt trội hẳn trong các tính toán của Trung Quốc về
lợi ích kinh tế và an ninh của nước này. Chính sách Mỹ có cách tiếp cận mang tính
cạnh tranh cao với Trung Quốc có thể biến mối quan hệ thù địch trở thành kết quả
không thể tránh khỏi. Mặt khác, những nỗ lực của Mỹ nhằm mở rộng các lĩnh vực
hợp tác có thể tái bảo đảm cho Trung Quốc và khuyến khích nước này đặt sang
một bên lợi ích của hẹp hòi của mình vì lợi ích của khu vực và toàn cầu. Các nhà
hoạch định chính sách Mỹ nên sử dụng tất cả các chiều trong sức mạnh của Mỹ để
báo hiệu cho Bắc Kinh về tỷ lệ được và mất trong việc điều chỉnh cho phù hợp hay
đối đầu với lợi ích của Mỹ.
Suy xét sâu hơn về vấn đề này, ta bắt gặp mối quan hệ đang lộ dần ra giữa
chính sách của chính quyền Obama và quan hệ Mỹ-Trung Quốc.
Một chính sách đối ngoại của Mỹ được coi là ít đơn phương hơn, ít mang
tính ý thức hệ và ít mang tính cưỡng bức hơn so với dưới chính quyền Bush sẽ phủ
nhận cơ hội của Trung Quốc muốn đối lập hoàn toàn với Mỹ, trên thực tế nó sẽ
củng cố môi trường an ninh trong đó Trung Quốc tìm thấy ít cơ hội để kiềm chế
các lựa chọn của Mỹ hơn. Một chính sách đối ngoại mà tích cực và thích hợp sử
dụng các thể chế đa phương và nhấn mạnh, cả theo cách nói hoa mỹ và bằng hành
179
động, giá trị của các giải pháp được đàm phán (bao gồm cả những giải pháp có
được thông qua việc sử dụng vũ lực) cũng có thể làm cho sức mạnh của Mỹ trở
nên ít đe doạ hơn đối với Trung Quốc và các nước khác, giảm bớt sự căng thẳng
của tình thế lưỡng nan về an ninh trong quan hệ Mỹ-Trung, làm gia tăng sức lôi
cuốn của Mỹ trên toàn cầu.
Kiến nghị chính sách
Một vài kiến nghị chính sách cho Mỹ theo sau những kết luận trên. Ở mức
độ chính sách quốc gia đối với Mỹ, Mỹ nên theo đuổi “chiến lược hỗn hợp” với cả
những nhân tố hợp tác và cạnh tranh. Đặc biệt, chiến lược hỗn hợp như thế sẽ bao
gồm ba nhân tố: dính líu, sự gắn bó về thể chế và cân bằng an ninh.
Logic của theo đuổi một chiến lược hỗn hợp về hướng thân Trung Quốc từ
hai kích thước lõi của hành vi quốc tế của Trung Quốc: (1) trí trung tâm ngày càng
tăng của Trung Quốc với sự ổn định và phồn vinh ở châu Á và trên toàn cầu và (2)
sự không chắc chắn về hướng tương lai của Trung Quốc như là một năng lượng
tăng cao và tương ứng hoặc là một niềm tin rằng rất yếu hoặc rất mạnh Trung
Quốc có thể phát triển và sẽ hoặc là một trong những thách thức Hoa Kỳ quan tâm.
Khía cạnh thứ hai của Trung Quốc là thách thức đặc biệt quan trọng: Các điểm của
việc áp dụng một chiến lược hỗn hợp là để hedge USD an ninh "cược" chống lại sự
không chắc chắn về tương lai của Trung Quốc. Không chắc chắn là lái xe của
phương pháp này, không giấu dự Hoa Kỳ về ý định của Trung Quốc.
Mỗi thành phần của chiến lược này hỗn hợp có chính sách cụ thể các thành
phần. Hoa Kỳ cam kết với Trung Quốc đã trở thành một thực tế được chấp nhận
của Mỹ-chính sách Trung Quốc trong ba thập kỷ qua. Có vài vấn đề về an ninh
toàn cầu-cả- truyền thống và phi truyền thống và có thể được giải quyết mà không
có sự tham gia của Trung Quốc. Và như Trung Quốc trở nên tham gia vào các khu
vực ngoài châu Á, nó đã trở thành trung tâm để quản lý bất ổn của họ cũng như
cuộc khủng hoảng Darfur ở Sudan.
180
Trong theo đuổi tham gia, Hoa Kỳ nên nhờ đến cả hình dạng và thử nghiệm
ý đồ của Trung Quốc, là logic đằng sau những cách tiếp cận chính sách khuyến
khích Trung Quốc là một "chịu trách nhiệm các bên liên quan". CÓ lẽ quan trọng
hơn, Hoa Kỳ hoạch định chính sách có thể sử dụng để báo hiệu sự dính líu của
Trung Quốc rằng Hoa Kỳ không tìm cách chống Trung Quốc, không tìm cách đem
lại những cuộc cách mạng chính trị bạo lực ở Trung Quốc, là một ổn định và thịnh
vượng ở Trung Quốc là lợi ích của Hoa Kỳ, và rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận và
thích nghi một số lợi ích của Trung Quốc. Trong khi đó, Hoa Kỳ cũng có thể tín
hiệu cho Trung Quốc mà hơn dự kiến của nó và rằng nếu nó muốn một vai trò lớn
hơn trên toàn cầu.
Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn nhất Trung Quốc, và Trung Quốc là lớn
thứ hai thương mại đối tác của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ và Trung Quốc là lớn nhất và lớn
thứ ba, quyền hạn, kinh doanh trên thế giới và Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn
nhất thế giới. Hoa Kỳ và Trung Quốc đã chịu trách nhiệm cho gần một nửa số tăng
trưởng kinh tế toàn cầu đã xảy ra giữa năm 2003 và 2008. Trung Quốc nắm giữ
trên 100 tỷ đô la Mỹ nợ. Hoa Kỳ cần mở rộng chiều rộng và chiều sâu của đối
thoại song phương về các vấn đề quốc phòng, kinh tế, ngoại giao, và để đảm bảo
rằng tất cả các bên liên quan ở Trung Quốc đang tham gia. Sự quản lý của Obama
đối thoại chiến lược và kinh tế với Trung Quốc là bước quan trọng theo hướng này.
Một thách thức đối với chính sách của Mỹ tại Trung Quốc là có hiệu quả hấp dẫn
để làm điều đó trong khi cũng đang theo đuổi những khía cạnh cạnh tranh hơn của
Mỹ về chính sách, địa chỉ dưới đây.
Ngoài cam kết song phương, có hơn Hoa Kỳ có thể làm được trên mặt trận
đa phương. Hoa Kỳ cần phải trở thành chủ động hơn trong khu vực ngoại giao ở
châu Á để củng cố sự tin cậy và tính hợp pháp của Hoa Kỳ hiện diện. Trung Quốc
đã hưởng lợi trong năm năm qua, từ nhận thức rằng Hoa Kỳ là bị phân tâm với Iraq
và Afghanistan và từ một hoài nghi trong khu vực liên quan về quyền lực Hoa Kỳ
181
và lý tưởng. Tình hình này cung cấp một cơ hội mà Trung Quốc có thể nhận thức
hình khu vực và mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. Do đó, một yếu tố quan
trọng của một chính sách tham gia Hoa Kỳ là để được quan tâm thêm đến và
thường xuyên có mặt tại cuộc họp đa phương lớn ở châu Á để báo hiệu sự thống
nhất và chất lượng của các cam kết với Hoa Kỳ đồng minh trong khu vực và đối
tác. Điều này sẽ hình bối cảnh khu vực của tăng của Trung Quốc. Một Mỹ gia hạn
cam kết đa phương ở Đông Á, bao gồm tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á,
đang nắm giữ một hội nghị thượng đỉnh với các nhà lãnh đạo ASEAN, và luôn
luôn tham dự các cuộc họp lớn trong khu vực, sẽ đi một chặng đường dài về hướng
nâng cao nhận thức của khu vực Mỹ cam kết đến vùng.
Câu hỏi về kinh tế, chính sách của Mỹ nên tập trung vào đàm phán nâng cao
chất lượng các thỏa thuận thương mại khu vực và các hiệp ước đầu tư và góp phần
vào cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, cơ chế quản lý. Mỹ chính sách cần tái
khẳng định chính nó như là trung tâm để các nền kinh tế của khu vực Đông Á.
Những giai điệu của chính sách của Mỹ về hướng Trung Quốc và chính sách Hoa
Kỳ ở Đông Á là rất quan trọng là tốt. Hoa Kỳ nên theo đuổi chương trình nghị sự
này tham gia của khu vực và đa phương tăng cường với sự tự tin, không phải là
một phản ứng tự vệ để lo ngại về Trung Quốc. Hoa Kỳ không cần phải tham gia
vào tất cả các tổ chức đa phương rằng Trung Quốc gia nhập hoặc thiết lập. Phản
ứng của ngoại giao Mỹ đối với Trung Quốc sẽ làm suy yếu các mục tiêu tối hậu
của Hoa Kỳ ủng hộ uy tín và tính chính đáng của vai trò hiện tại của nó như là một
nhà cung cấp chính của hàng hoá công cộng và tư nhân để các quốc gia châu Á.
Những tiền đề trung tâm của một chiến lược ràng buộc là phải góp ý muốn
của Trung Quốc để có một chỗ ngồi tại bàn và để được truy cập vào các nguồn lực
thể chế như một cách để khóa nó vào cam kết. Khuyến khích sự tham gia của
Trung Quốc cũng phục vụ như là một cách để kiểm tra ý đồ của Trung Quốc.
Trung Quốc không chấp nhận các quy định hiện hành hay không nó tìm cách viết
182
lại chúng? Quan trọng hơn, chẳng hạn ràng buộc được thực hiện trước mặt đồng
nghiệp của Trung Quốc, trong đó tăng thêm các chi phí cho Trung Quốc từ các quy
tắc hay chỉ tiêu. Ràng buộc không cần phải được xem như là một phương pháp
cưỡng chế; ràng buộc tìm kiếm để tạo cơ hội cho Trung Quốc chấp nhận hạn chế
để trao đổi với cả quốc tế cộng đồng của sự chấp nhận của một số lợi ích của nó và
truy cập của Trung Quốc để các nguồn lực và tầm vóc của các tổ chức khu vực và
toàn cầu.
Đối với chính sách của Mỹ, điều này có nghĩa là mở rộng sự tham gia của
Trung Quốc trong các tổ chức quốc tế lớn và khu vực, như Interna-tional và Quỹ
Tiền tệ Quốc tế Cơ quan Năng lượng. Điều này sẽ tín hiệu Mỹ sẵn sàng để cung
cấp cho Trung Quốc cơ hội giọng nói "không" quan hệ "và giúp Hoa Kỳ đo khả
năng hoạch định chính sách của Trung Quốc để đóng góp để giải quyết vấn đề toàn
cầu. Tương tự như chính sách của Hoa Kỳ đã có một định nghĩa ảnh hưởng về sự
tiến triển của thương mại của Trung Quốc và cam kết khuôn khổ không phổ biến
kể từ đầu những năm 1980. Nhìn về phía trước, sự tham gia của Trung Quốc sẽ là
cần thiết cho sự thành công của cuộc đàm phán toàn cầu về biến đổi khí hậu, an
ninh năng lượng, dịch bệnh, và những thách thức an ninh xuyên quốc gia khác.
Các khía cạnh cuối cùng của một chiến lược an ninh nhà nước là hỗn hợp
cân bằng. Chủ đề này sẽ không được giải quyết một cách chi tiết ở đây, cho rằng
Trung Quốc hiện đại hóa quân sự không phải là một đối tượng được bảo hiểm
trong chuyên khảo này. Trong điều kiện Eral-gen, bảo đảm cân đối các thành phần
liên quan đến chiến lược của Hoa Kỳ tăng cường hợp tác liên minh Mỹ và uy tín
của Hoa Kỳ cam kết an ninh đến Châu Á-Thái Bình Dương. Bảo đảm ổn định cho
khu vực bởi ngăn chặn hành động tích cực của bất kỳ nhà nước vẫn là một mục
tiêu trung tâm của Hoa Kỳ và triển khai lực lượng liên minh trong khu vực. Hoa
Kỳ cũng nên cải thiện chất lượng hợp tác an ninh khu vực của mình để đảm bảo
rằng đồng minh của Hoa Kỳ và các đối tác an ninh không phải là dễ bị tổn thương
183
đến trước dation của Trung Quốc và không ai trong số họ cảm thấy rằng, nếu như
Hoa Kỳ muốn họ phải lựa chọn giữa Washington và Bắc Kinh.
Hoa Kỳ cũng có thể sử dụng hợp tác an ninh như vậy để mở rộng tính hợp
pháp sự hiện diện của nó theo địa chỉ secu cả truyền thống và những thách thức phi
truyền thống. Trung Quốc đã được khá hiệu quả tại nước châu Á tham gia vào các
thứ hai, do đó, Hoa Kỳ sẽ được hưởng lợi từ tận dụng khả năng phòng thủ của cấp
trên để làm như vậy.
Cuối, cân bằng bảo mật không nên theo đuổi theo một cách mà được xem
như là ganging lên trên Trung Quốc, như rằng sẽ xa lánh các đồng minh chủ chốt
và các đối tác. Tăng cường phối hợp liên minh sẽ xuất hiện bên cạnh những hoạt
động quân sự để tham gia chương trình quân sự giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng
như giữa các đồng minh của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Những nỗ lực như vậy có thể
giúp làm giảm an ninh-động thái tiến thoái lưỡng nan trong khi cũng đảm bảo khả
năng quân sự Hoa Kỳ có thể tiếp tục ngăn chặn các mối đe dọa tiềm năng và trấn
an các đồng minh của Hoa Kỳ và các đối tác.