intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chủ đề 5: Dân tộc Việt Nam

Chia sẻ: Phú Anh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:36

218
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng trang bị cho người học những kiến thức câm thiết về về quá trình hình thành và phát triển của Dân tộc Việt Nam, các đặc điểm của Dân tộc Việt Nam, làm cơ sở cho học tập, nghiên cứu tại trường, góp phần nâng cao trình độ tay nghề trong quán triệt và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chủ đề 5: Dân tộc Việt Nam

  1. Chủ đề 5: DÂN TỘC VIỆT NAM A.MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU Trang bị cho người học những kiến thức câm thiết về về quá trình hình  thành và phát triển của Dân tộc Việt Nam, các đặc điểm của Dân tộc Việt  Nam, làm cơ sở cho học tập, nghiên cứu tại trường, góp phần nâng cao trình  độ tay nghề trong quán triệt và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà  nước ta hiện nay. B. NỘI DUNG I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM II. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM C. THỜI GIAN: 3 tiết D. PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ­ Thuyết trình, nêu ví dụ chứng minh, diễn giải, pháp vấn ­ Sử dụng phương tiện trình chiếu (nếu có) E. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Dân tộc hoc, Nxb QĐND. H 2001 2. Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục. H 1997 3. Tổng cục chính trị, Một số vấn đề  dân tộc và quan điểm, chính sách  dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Nxb QĐND. H 1995 4. Phan Huy Lê, Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb ĐH & THCN. H 1983 5. Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của Dân tộc Việt Nam,  Nxb ĐH&THCN. H 1983 1
  2. NỘI DUNG Do điều kiện tự nhiên, lịch sử quy định nên các dân tộc có quá trình hình   thành và đặc điểm khác nhau. Trong mấy ngàn năm lịch sử  dựng nước và   giữ  nước, dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên truyền thống ngàn năm văn   hiến. Bởi vậy cần nghiên cứu nắm vững đặc điểm dân tộc làm cơ sở khoa  học để hoạch định, quán triệt và thực hiện tốt chiến lược và sách lược phát   triển đất nước. Với mỗi quân nhân đây là việc làm cần thiết để  xây dựng   lòng tự  hào dân tộc, và để  quán triệt thực hiện tốt chức trách của mỗi  người, nhất là trong công tác dân vận. Đây là một vấn đề nghiên cứu rộng lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau cả  về không gian và thời gian và cũng có nhiều ý kiến chưa thống nhất, nên trong   thời gian ngắn chúng ta chỉ đề cập những vấn đề khái lược nhất mà thôi, vấn  đề này còn được bổ trợ thêm bởi các môn học khác như lịch sử học, văn hóa  học, khảo cổ học…và nó còn tiếp tục được làm sáng tỏ hơn nữa trong quá trình  tự nghiên cứu của mỗi người. Xung quanh vấn đề  dân tộc Việt Nam hình thành khi nào, lâu nay có   nhiều quan điểm khác nhau. Tựu trung lại có hai loại quan điểm cơ  bản  sau: 1. Dân tộc Việt Nam hình thành muộn, chỉ vào khoảng thế kỷ XVIII khi   mà trong nước đã có các mầm mống kinh tế  TBCN nảy sinh ( Trần Huy   Liệu, Văn Tạo, Minh Trang) 2. Dân tộc Việt Nam hình thành từ  sớm gắn liền với quá trình dựng  nước và giữ  nước ( hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước Văn Lang,   Âu Lạc) Hiện nay đa số  học giả  ngả  theo hướng này, chúng ta tiếp cận   theo hướng này. I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 1. Điều kiện lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam. 2
  3. Nghiên cứu khoa học đã chỉ ra: Dân tộc Việt Nam hình thành trong những   điều kiện lịch sử khác với loại hình dân tộc phương tây. Ở phương Tây dân  tộc chỉ ra đời và phát triển cùng chủ nghĩa tư bản do các hình thái kinh tế ­ xã   hội tiền tư  bản không những không dẫn đến hình thành dân tộc mà còn đối  lập với quan hệ  dân tộc. Ở  Việt Nam dân tộc ra đời sớm hơn do đặc điểm   của hình thái kinh tế ­ xã hội tiền tư bản mang đặc trưng của xã hội phương   đông ( Mác gọi là phương thức sản xuất châu Á ) và do những điều kiện lịch   sử cụ thể. a. Do đặc điểm hình thái kinh tế  xã hội tiền tư  bản  ở  Việt Nam quy  định ­ Việt Nam trải qua chế độ  công xã nguyên thủy hàng vạn năm (từ   hậu kỳ  đồ  đá cũ kéo dài cho đến giai đoạn sơ  kỳ  đồ  đồng cách đây   khoảng 4000 năm) để lại nhiều tàn dư  dấu ấn trong các xã hội sau, sự   tồn tại của công xã nguyên thủy cũng tạo điều kiện cho cố  kết cộng   đồng. Chế độ công xã nguyên thủy (công xã thị tộc, chế độ thị tộc, chủ nghĩa   cộng sản nguyên thủy ) là hình thái kinh tế  ­ xã hội đầu tiên trong lịch sử  loài người. Bắt đầu từ thời kỳ xuất hiện người tinh khôn ( Homo sapiens )  và kết thúc với sự hình thành xã hội có giai cấp và xuất hiện nhà nước. Các tài liệu khoa học ( đặc biệt là khảo cổ  học ) đã chứng minh Việt   nam đã trải qua chế độ công xã nguyên thủy hàng vạn năm và mang đầy đủ  những đặc điểm của nó, với cả hai mặt tích cực và hạn chế ( tiêu cực) Mặt tích cực: cố kết dân tộc, thúc đẩy quá trình sớm hình thành DTVN biểu  hiện thông qua hình thức cộng đồng tộc người phổ biến ở công xã nguyên   thủy là thị tộc + Về kinh tế:  thị tộc là một tập thể kinh tế thống nhất. Đất đai nơi thị  tộc cư trú là tư liệu sản xuất của cả thị tộc. Cơ sở của quan hệ sản xuất là   sở hữu chung về tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ  3
  4. thấp, công cụ sản xuất thô sơ (công cụ bằng đá thô sơ không cho phép đơn   độc đấu tranh với lực lượng thiên nhiên và thú dữ để sinh tồn) nên lao động  phải tập thể  và do đó hưởng chung thành quả  lao động. Lợi ích của mọi  thành viên trong thị tộc được bảo đảm như nhau. Đây là điều kiện vật chất  quan trọng bảo đảm cố kết các thành viên trong cộng đồng + Về xã hội: Hạt nhân của chế độ CXNT là thị tộc mẫu quyền và chế độ  mẫu hệ (sau đó được thị tộc phụ quyền và phụ hệ thay thế). Mỗi thị tộc gồm   nhiều gia đình, số lượng thành viên của gia đình này có khi rất đông, bao gồm  một nhóm người gần gũi nhau về huyết thống, có khi đến bốn, năm thế hệ.   Cách tổ chức này tạo điều kiện cho các thành viên gắn bó chặt chẽ với nhau,  quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Do đó tạo nên sự thống nhất và mang tính xã hội   cao. Tóm lại: chế độ công xã nguyên thủy với hình thái tổ chức cơ bản của   nó là thị  tộc – một tập thể  người quan hệ  vững chắc với nhau bằng lao   động chung và được củng cố xây dựng trên cơ sở huyết thống. Nó tạo nên  sự  thống nhất, đoàn kết xã hội, là cơ  sở  thúc đẩy quá trình sớm hình thành   DTVN Mặt tiêu cực: góp phần  làm cho xã hội trì trệ, chậm phát triển + Về  kinh tế: phân phối bình quân, kế  thừa tài sản thuộc về  tập thể  không phát huy được động lực của người lao động, kìm hãm sự  phát triển  của xã hội + Về xã hội: tạo tâm lý thụ động dựa dẫm vào nhau của các thành viên   trong gia đình, vai trò cá nhân không được đề cao, tư tưởng cục bộ còn ảnh  hưởng đến tận ngày nay. Tuy nhiên,  ở  phương tây cũng trải qua chế  độ  công xã nguyên thủy  nhưng dân tộc với tư cách là một cộng đồng người hình thành đầy đủ cùng  với sự  ra đời và phát triển của chủ  nghĩa tư  bản. Thì  ở  phương đông nói  4
  5. chung và Việt Nam nói riêng dân tộc được hình thành sớm hơn. Tại sao lại   có vấn đề như vậy. Câu trả lời là: ­ Việt Nam không trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ như phương tây   mà     phát   triển   dưới   hình   thức   nô   lệ   gia   trưởng   và   đặc   trưng   của   phương thức sản xuất châu Á. Về phương thức sản xuất châu Á: một trong những phát minh vĩ đại của Mác là chủ  nghĩa duy vật lịch sử, qua đó chỉ ra lịch sử vận động và phát triển của xã hội là sự thay thế  nhau của các hình thái kinh tế ­ xã hội ( CSNT, CHNL, PK, TBCN ). Tuy nhiên, khi nghiên  cứu các trường hợp ở phương đông ( Ấn Độ ) thì Mác thấy không thể lấy các hình thái KT   – XH trên để giải thích. Khi nghiên cứu về Ấn Độ Mác đã phát hiện những đặc thù cơ bản  của xã hội phương đông, đó là nhà nước chuyên chính phương đông và chế  độ  công xã   nông thôn. Nghiên cứu tổng thể các mặt kinh tế ( quan hệ sở hữu ), chính trị, xã hội Mác   gọi phương thức sản xuất bao trùm xã hội phương đông thời bấy giờ là phương thức sản   xuất châu Á với các đặc trưng: Về chính trị: sự tồn tại của nhà nước chuyên chế, quyền lực tối cao nằm trong tay một   người Về kinh tế: sự phổ biến của sở hữu tập thể về ruộng đất với người đứng đầu là   vua, không có chế  độ  tư  hữu về  ruộng đất. Phát triển nông nghiệp và thủ  công nghiệp  không tách rời nhau. Thành thị chậm phát triển, hình thức bóc lột theo kiểu cống nạp. Về xã hội: sự tồn tại dai giẳng của công xã nông thôn và sự khắc nghiệt của chế độ đẳng   cấp. Về văn hóa: ảnh hưởng nặng nề bởi tôn giáo. Đối với Việt Nam, qua các công trình nghiên cứu được công bố, tuy vẫn còn   có ý kiến khác nhau nhưng có thể khẳng định ở nước ta đã từng tồn tại phương  thức sản xuất châu Á. Tuy nhiên đối chiếu với các đặc trưng về phương thức   sản xuất châu Á của Mác thì ở Việt Nam hoàn toàn không trùng khớp. Cụ thể ở  Việt Nam: + Công xã nguyên thủy phát triển dần lên công xã nông thôn. Công xã   nông thôn thời kì bấy giờ  gọi là các kẻ, chạ, chiềng ( sau này gọi là làng,   xã). Trong xã hội công xã duy trì hai mối quan hệ huyết thống và láng giềng   – là sợi dây gắn kết các thành viên thành cộng đồng. 5
  6. Ở  vào giai đoạn cuối của công xã nguyên thủy, chế  độ  phụ  hệ  dần dần   được xác lập. Và khi gia đình nhỏ phát triển, trở thành tế bào – đơn vị kinh tế cơ  bản của xã hội, công xã thị tộc dần dần tan rã và nhường chỗ cho công xã nông  thôn – một hình thái xã hội xuất hiện phổ biến vào giai đoạn tan rã của chế độ  công xã nguyên thủy để chuyển sang xã hội có giai cấp. Và khi Nhà nước xuất  hiện người ta căn cứ vào địa vực cư trú, chứ không phải là huyết tộc như trước  để phân chia dân cư. Mỗi công xã nông thôn gồm một số gia đình sống quây quần trong một   khu vực địa lí nhất định. Công xã nông thôn  ở  nước ta, ngoài quan hệ  láng  giềng, địa lý, quan hệ huyết tộc được bảo tồn. Trong làng còn có họ và rất   nhiều làng mang tên họ  như: Hoàng xá, Đặng xá, Cao xá, Lê xá…Công xã  nông thôn có kết cấu “ vừa làng vừa họ” đó là sự  kết hợp lâu dài với công  xã gia đình ( công xã thị tộc tồn tại dai dẳng ) trên cơ  sở  quan hệ  địa lý và  quan hệ  huyết thống. Đặc điểm này làm cho sự  gắn bó bên trong công xã  càng trở nên bền chặt hơn. + Quyền sở  hữu ruộng đất thuộc về  công xã, các gia đình trong công   xã nhận một phần ruộng đất theo hình thức định kỳ  hoặc một lần và nộp   một phần sản phẩm cho nhà nước. Đây là cơ  sở  xã hội bền vững và phổ   biến, là sợi dây quan trọng liên kết các thành viên. Đặc trưng của công xã nông thôn là quyền sở  hữu ruộng đất ( tư  liệu  sản xuât quan trọng nhất lúc bấy giờ ) thuộc về công xã. Toàn bộ ruộng đất  cày cấy cùng với rừng núi, ao hồ, sông ngòi trong phạm vi công xã đều  thuộc quyền sở hữu của công xã. Vùng đồng bằng, chế  độ  công thổ, công  điền của làng vẫn tồn tại phổ biến mãi đến thế kỷ XV. Ruộng đất công xã   được phân chia cho các gia đình thành viên sử dụng, ngoài ra công xã có thể  giữ một bộ phận ruộng đất để cày cấy chung nhằm sử dụng cho những chi   phí công cộng. Công cuộc khai hoang, làm thủy lợi và những lao động công  ích khác đều được tiến hành bằng lao động hợp tác của toàn công xã. Mọi   6
  7. tài sản chung của công xã đều thuộc quyền sử  dụng của các thành viên  công xã. Cách phân chia ruộng đất lúc bấy giờ  được thực hiện theo các tục lệ  mang tính bình đẳng, dân chủ của cộng đồng công xã. Tựu trung có hai cách  phân chia ruộng đất công của làng xã: phân chia theo định kỳ  và phân chia  một lần. Cách phân chia định kỳ  ra đời chậm hơn và là một biện pháp để  đối phó với chế độ tư hữu ruộng đất. Tóm lại, sở hữu chung, lao động chung và sử dụng thành quả lao động  chung tạo nên sự  gắn bó, liên kết chặt chẽ  giữa các thành viên công xã về  mặt kinh tế ­ xã hội. + Phân hóa xã hội diễn ra chậm, trong xã hội có 3 tầng lớp: quý tộc, nô   tỳ và nông dân công xã tự do. Mâu thuẫn trong xã hội diễn ra không quá sâu   sắc. Tiền đề vật chất có ý nghĩa quyết định đến sự phân hóa xã hội là sự phát triển của   sức sản xuất đến mức độ tạo ra sản phẩm thặng dư của xã hội. Do vậy khi kỹ thuật đồ  đồng và đồ sắt phát triển, năng suất lao động được nâng cao và sản phẩm thặng dư tăng  lên đưa đến sự phân công lao động lần thứ nhất: các bộ  lạc chăn nuôi tách khỏi các bộ  lạc trồng trọt. Tuy nhiên nghề chăn nuôi chỉ phát triển dưới dạng chăn nuôi gia súc nhỏ  và kết hợp chặt chẽ  với trồng trọt và các ngành kinh tế  khác (chứ  không tách rời phát   triển biệt lập thành một loại hình kinh tế  độc lập như  các bộ  lạc chăn nuôi du mục ),   bên cạnh việc tạo ra một số  sản phẩm phục vụ nhu cầu hằng ngày thì chăn nuôi còn   phục vu cho trồng trọt. Sự  phân công lao động lần thứ  hai diễn ra khi thủ  công nghiệp tách khỏi nông  nghiệp.  Ở  nước ta, nghề  trồng lúa nước phải tôn trọng thời tiết theo đúng lịch nông   nghiệp, nên công việc lao động chỉ tập trung vào một số  tháng trong năm, do đó cư  dân   nông nghiệp có thời gian nông nhàn làm và phát triển các nghề thủ công. Sản phẩm làm   ra chủ  yếu để  phục vụ  bản thân và nhu cầu của công xã chứ  chưa trở  thành hàng hóa  như sau này. Thủ công nghiệp ra đời ở nước ta về chừng mực nào đó không phải là do  sự  phát triển của nền sản xuất hàng hóa và chuyên môn hóa lao động rõ rệt ( như   ở  phương tây ). Những người thợ  thủ  công ban đầu sống trong các công xã nông nghiệp  7
  8. sau đó tách thành các công xã thủ  công nghiệp và phát triển thành phường thủ  công   nghiệp sau này. Quá trình phân hóa xã hội trên diễn ra từ từ và chậm chạp đưa đến tình  trạng phân biệt của cải và thân phận con người. Một số người bị tụt xuống   vị trí thấp kém, một số người vươn lên trên tập trung của cải và quyền lực  trong khi mọi người vẫn giữ mức sống bình thường. Như vậy trong xã hội  có ba tầng lớp tồn tại: quý tộc, nô tỳ và nông dân công xã tự do. Quý tộc vốn là những người thuộc tầng lớp thống tri, dựa vào địa vị và  quyền lực của mình để  chiếm đoạt sản phẩm thặng dư của xã hội làm tài  sản riêng, họ  biến sự   đóng góp của cộng đồng thành hình thức bóc lột  người sản xuất. Cơ  sở  bóc lột chủ  yếu của họ  là công xã nông thôn. Họ  vừa đại diện cho công xã trên những lợi ích chung, vừa xem công xã như  một đơn vị  để  bóc lột. Với tài sản và quyền lực trong tay họ có phần tách   khỏi cộng đồng nhưng mức độ  phân hóa chưa cao và chưa mang tính đối  kháng gay gắt. Nô tỳ  là tầng lớp thấp nhất trong xã hội, họ  có thể  là các thành viên   công xã  nghèo khổ hay vi phạm tục lệ công xã nên bị bắt làm nô tỳ. Nô tỳ  cũng tham gia sản xuất nhưng chủ yếu là phục dịch trong các gia đình quý   tộc. Thực chất họ là những nô lệ gia đình tồn tại phổ biến ở xã hội phương   đông. Họ không trực tiếp là cơ sở của sản xuất mà gián tiếp với tính cách là   một nhân tố trong gia đình. Nông dân công xã tự do là lực lượng sản xuất chính, họ bị tầng lớp quý  tộc   bóc   lột   thông   qua   cống   nạp   hay   lao   dịch.   Tuy   nhiên   đặc   điểm   của  phương thức sản xuất châu Á ( sở  hữu công cộng về  ruộng đất ) vẫn bảo  đảm cho công xã có quyền tự trị rộng lớn và các thành viên tự do của công  xã có cuộc sống tương đối ổn định, tự do, không bị nô lệ hóa ( như trong xã   hội CHNL). Trong khi đó ở phương tây nô lệ bị xem là “công cụ biết nói”. +  Mâu thuẫn trong xã hội diễn ra không quá sâu sắc, quan hệ bóc lột   và bị bóc lột diễn ra dưới dạng nô lệ gia trưởng. 8
  9. Việc tồn tại lâu dài của công xã nông thôn với tính tự trị cao đã hạn chế  xu hướng nô lệ hóa và nông nô hóa trong xã hội Việt Nam. Hình thức bóc lột   cống nạp hay lao dịch dù có chứa đựng mầm mống của chế  độ  nô dịch  nhưng không thể  coi những thành viên của công xã nông thôn là nô lệ  hay  nông nô. Tầng lớp nô tỳ ( gia nô ) chỉ chiếm số lượng nhỏ và phục vụ trong  các gia đình quý tộc chứ chưa trở thành lực lượng sản xuất chính của xã hội,   mâu thuẫn giữa quý tộc và nô tỳ  không mang tính chất xã hội mà chỉ  trong  phạm vi gia đình. Tóm lại, phân hóa xã hội diễn ra chậm chạp, mâu thuẫn trong xã hội  không quá sâu sắc cùng với việc công xã nông thôn tồn tại lâu dài đảm bảo   duy trì sự đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng. Đó là những điều kiện cơ  bản thúc đẩy quá trình sớm hình thành DTVN ­ Kể từ thế kỉ X Việt Nam bước vào thời kỳ phong kiến hóa, chế độ   phong kiến của “xã hội phương Đông” khác với phương Tây: Từ  thế  kỷ  thứ  X, sau ngót 1000 năm bắc thuộc, Việt Nam khôi phục  quyền độc lập tự chủ, xã hội nước ta bước vào thời kỳ phong kiến hóa với sự  từng bước xác lập phương thức sản xuất phong kiến. Tuy nhiên chế độ phong  kiến Việt Nam có những điểm khác biệt so với chế độ phong kiến điển hình  kiểu phương Tây, cụ thể: + Công xã nông thôn tồn tại phổ  biến, bền vững, có quyền tự  trị  rất   lớn; công xã nông thôn sở  hữu hầu hết ruộng đất, nông dân công xã nhận   một phần ruộng đất công và nộp tô thuế cho nhà nước. Chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất chưa phổ biến, ruộng đất vẫn  là ruộng công, nhà nước có vai trò sở  hữu tối cao và gián tiếp; làng xã sở  hữu trực tiếp nhưng có tính chất tương đối (trong điều kiện nhất định, nhà   nước có quyền lấy ruộng đất của làng xã để  ban cấp cho quan lại ). Làng   xã phân cho dân đinh cày cấy và thu tô thuế nộp cho nhà nước ( ở đây làng  xã đóng vai trò trung gian ) người nông dân chỉ có quyền chiếm hữu và một   9
  10. phần quyền sử dụng chứ không có quyền định đoạt đối với ruộng đất. Bên   cạnh đó còn tồn tại ruộng quốc khố, ruộng nhà chùa. Từ thế kỷ XV ( thời Lê sơ ) trở đi, phương thức sản xuất phong kiến với mối quan hệ  địa chủ ­ tá điền  dần thay thế phương thức sản xuất châu Á với mối quan hệ nhà nước –  nông dân công xã. Các chính sách về ruộng đất của nhà nước đã khẳng định chế độ sở hữu   phong kiến về ruộng đất + Kinh tế điền trang, thái ấp có xuất hiện nhưng tỷ trọng nhỏ và chịu   sự quản lý, phân phong chặt chẽ của triều đình; hoàn toàn không mang tính   cát cứ kiểu phương tây. Sở  hữu tư nhân về  đất đai được nhà nước thừa nhận nhưng quyền sở  hữu tư  nhân bị  quyền sở  hữu của nhà vua hạn chế. Chỉ  có quyền sở  hữu  của nhà vua mới là tuyệt đối. Ví dụ  chế  độ  thái  ấp thời Trần, nhà nước   phong cho quan lại, vương hầu một vài làng xã nhưng vẫn có quyền thu lại,  con cháu không được hưởng thái ấp của ông cha. Chủ thái ấp chỉ có quyền   thu tô của làng xã đó. Xét ch cùng thái ấp không thuộc phạm trù tư hữu một  cách hoàn toàn, nhà nước vẫn có quyền sở  hữu tối cao, khác rất nhiều so  với các lãnh địa phương tây, nơi các lãnh chúa có quyền tuyệt đối trong lãnh   địa của mình. + Nhà nước phong kiến trung  ương tập quyền ra đời sớm, được tổ  chức   thành một hệ thống chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Triều đình mà đại   diện là vua là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất, bóc lột làng xã bằng tô thuế và   lao dịch. Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền ra đời sớm (nhà Ngô ) từng   bước   được   củng   cố   và   phát   triển,   hình   thành   và   mở   rộng   các   cơ   quan  chuyên trách để  quản lý xã hội.  Bộ  máy nhà nước được tổ  chức chặt chẽ  thống nhất từ trung ương đến địa phương. Vua là người nắm trọn mọi quyền lực ( lập pháp, hành pháp, tư  pháp)   và cả thần quyền. Là chủ sở hữu tối cao ruộng đất cả nước. Tuy nhiên tính  chất chuyên quyền không mạnh như ở các nước khác, vua vừa là hoàng đế  10
  11. của nhà nước quân chủ, vừa là thủ lĩnh của cả cộng đồng dân tộc ( thời Lý,   Trần vua còn trực tiếp ra trận ), vừa là đại diện của giai cấp thống trị vừa   là “ người cha của số đông công xã (Mác)” Vua có quyền sở hữu tối cao về ruộng đất, có toàn quyền thu thuế hoặc  phong cấp đất đai (ruộng thác đao), người được phong không có quyền mua  bán, trao đổi. Nhà nước bóc lột nông dân làng xã thông qua tô thuế và lao dịch. Như  vậy chế  độ  phong kiến Việt Nam với các đặc điểm trên đã không  đưa đến tình trạng cát cứ  như   ở  phương tây. Nó góp phần tăng cường tính  thống nhất về lãnh thổ, về chế độ kinh tế… nhằm cố kết cộng đồng dân tộc   bền chặt hơn. Tóm lại: Nước ta không trải qua chế  độ  chiếm hữu nô lệ  và chế  độ  phong kiến kiểu phương Tây, các hình thái kinh tế ­ xã hội tiền tư bản chủ  nghĩa  ở  Việt Nam có những đặc điểm khác biệt, không những không cản  trở  quan hệ  dân tộc mà trái lại còn chứa đựng những điều kiện thuận lợi   cho quan hệ  dân tộc và thúc đẩy sự  liên kết cư  dân trong cộng đồng quốc  gia. b. Yêu cầu của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, phát triển nông  nghiệp trồng lúa nước. ­ Vị  trí địa lí, khí hậu nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên đa dạng phong   phú vừa thuận lợi, vừa khó khăn thách thức. Việt nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, nóng  ẩm, mưa nhiều  thuận lợi cho nông nghiệp trồng lúa nước. Nước ta nằm trong vùng có nhiều thiên tai, hạn hán, lũ lụt xảy ra hằng  năm. Sinh sống trên vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, hoàn cảnh thiên nhiên  khắc nghiệt người Việt vừa phải tự rèn luyện, tự  thích ứng, vừa phải hợp   quần, dựa vào nhau để  lao động sản xuất, để  chống thiên tai. Câu chuyện   Lạc Long Quân và Âu Cơ  cùng các con chia nhau xuống biển, lên rừng để  11
  12. khai khẩn, xây dựng đời sống kinh tế, tổ  chức đời sống xã hội hình thành  quốc gia dân tộc. Truyền thuyết đó nói lên ý chí và quyết tâm chinh phục tự  nhiên của cộng đồng người Việt. Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh là  sự  phát triển cao của ý chí, bản lĩnh nhằm trị  thủy, chống thiên tai, phát  triển kinh tế nông nghiệp. ­ Để  trồng lúa nước phải hợp sức chống lụt bão, hạn hán đòi hỏi   phải có sự can thiệp của quyền lực tập trung của chính phủ. + Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, là một trong cái nôi phát triển   nông nghiệp lúa nước sớm trên thế giới.  Cùng với miền nam Trung Hoa, Đông Nam Á là một trong những cái   nôi phát triển nông nghiệp lúa nước sớm trên thế  giới vì  ở  đây có những   điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa nước ­ Lượng mưa hằng năm lớn: 2000 – 2500 mm ­ Thời kỳ tăng trưởng cần : 125mm/ tháng ­ Thời kỳ thu hoạch có nhiều nắng ­ Nhiệt độ môi trường thích hợp: 21­ 27 oC ­ Nhiều đồng bằng rộng lớn quanh lưu vực các con sông lớn ( sông Hồng, Mê Kong, Trường Giang )… Tài liệu khảo cổ  học đã chứng minh: Nông nghiệp trồng lúa nước đã  thấy có dấu tích từ  thời văn hóa Hòa Bình cách đây khoảng một vạn năm,  các nhà khảo cổ  tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu vực khảo cổ  những  hạt thóc hóa thạch có niên đại khoảng 9260 – 7620 năm. Nông nghiệp trồng   lúa nước chiếm vị trí kinh tế chủ yếu vào thời đồ đá mới cách đây khoảng   5­6 ngàn năm ( văn hóa Hạ Long, văn hóa Bàu Tró…). + Đến thời kỳ  Hùng Vương Việt Nam đã có một nền kinh tế  nông   nghiệp trồng lúa nước khá phát triển. Sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp lúa nước được thể hiện thông  qua hai yếu tố cơ bản đó là: nông cụ phục vụ cho canh tác lúa nước và hệ thống   thủy lợi. Khẳng định thời kỳ Hùng vương có một nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước phát  triển vì: 12
  13. Về nông cụ: trong di chỉ khảo cổ học đã tìm thấy số lượng lớn các lưỡi cày, cuốc,   liềm thuộc các nền văn hóa Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn, số  lượng trên dưới 200   chiếc với nhiều hình dạng khác nhau. Những di cốt hóa thạch trâu, bò nhà tìm thấy trong   di tích văn hóa Đông Sơn, hình bò khắc họa trên mặt trống đồng chứng tỏ  cư  dân thời   Hùng vương đã sử dụng trâu bò làm sức kéo trong nông nghiệp. Về thủy lợi: người dân thời kỳ này đã biết đến vai trò của thủy lợi đối với nông   nghiệp trồng lúa nước. Thủy lợi chính là để đảm bảo đủ nước để cây lúa sinh trưởng và   không bị  ngập úng. Dấu vết các công trình thủy lợi còn lưu lại đến tận ngày nay như  công trình thủy lợi bằng đá  ở  Do Linh, Quảng Trị và đặc biệt là những công trình thủy  lợi bậc thang ( giếng Kình, giếng Bà, giếng Ông ) ở quanh núi Cồn Tiên, Vũng Đào, Bảo  Sơn thuộc làng An Nha ( Gio An, Gio Linh, Quảng Trị ). Ban đầu người ta trồng lúa theo  thủy triều lên xuống (thế  kỷ  VII tr.CN ) sau đó họ  biết đắp đê giữ  nước trong ruộng  ( bằng chứng vết tích đoạn đê còn sót lại của thành Cổ  Loa có niên đại khoảng 200   tr.CN). Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh đã phản ánh công cuộc đắp đê trị thủy của   cư dân Việt cổ. Nền kinh tế  nông nghiệp trồng lúa nước phát triển đưa đến sự  ra đời   của nền văn minh sông Hồng nổi tiếng. Toàn bộ  đời sống xã hội đều vận   hành trên nền tảng nông nghiệp trồng lúa nước từ  tôn giáo, tín ngưỡng,  phong tục tập quán, lễ tết, hội hè, lối sống, nếp sống. Tôn giáo, tín ngưỡng: thờ  thần đất, thần trời, mây, mưa, sấm, sét…các thần thiên   nhiên Phong tục, tập quán: gắn với các hoạt động nông nghiệp, bánh chưng,bánh giày Lễ, tết: vào thời gian nông nhàn, lễ tịch điền. Lối sống: trọng tĩnh, trọng tình, trọng hòa, cầu mong sự yên ổn… Tục ngữ ca dao: liên quan đến nông nghiệp. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nên thiên tai xảy ra thường xuyên. Vì  thế nền nông nghiệp lúa nước đặt ra yêu cầu trị thủy và thủy lợi hết sức to   lớn nhằm tưới tiêu, phục vụ  cho sản xuất nông nghiệp ( như  phân tích  trên ). Cư  dân Văn Lang sớm  phải hợp quần  để  đấu tranh chống thiên  nhiên. Cha ông ta đã làm nên kỳ  tích trong đắp đê, ngăn lũ, khai hoang… Công cuộc trị  thủy và khai khẩn đất đai tiếp tục phát triển dưới các triều   13
  14. đại phong kiến sau này như: Cao Biền đắp đê quanh thành Đại La dài 2125  trượng để  ngăn nước sông ( Đào Duy Anh ). 1209 Lý Thánh Tông cho đào   sông Nan Nhãi ở Thanh Hóa, ở Kinh thành sông Tô Lịch được nạo vét nhiều   lần để  lưu thông nước, Lý Nhân Tông đắp đê Cơ  xá, Trần Thái Tông cho   đắp hai bờ đê sông Nhị Hà, Lê Thánh Tông đặt chức quan hà đê chánh / phó   sứ để trông coi đê điều. Đối với đồng bào vùng cao, để  duy trì sản xuất nông nghiệp, dù canh  tác theo lối “ đao canh hỏa chủng” (đốt rẫy làm nương) hay thủy nậu ( làm  ruộng nước bằng trâu quần) cũng đòi hỏi phải hợp sức giữa các làng bản,  các thành phần dân cư  trong khai phá đồng ruộng, làm “ mương phai” dẫn   nước. Để tiến hành công cuộc trị thủy, xây dựng các công trình thủy lợi đòi hỏi   phải có sức mạnh cộng đồng, phải có nhiều người đoàn kết chung sức đồng  lòng đấu tranh với thiên nhiên. Chỉ  có sức mạnh cộng đồng mới có thể  tiến   hành cải tạo và chinh phục được thiên nhiên, xây dựng các công trình thủy  lợi… Bên cạnh đó để có thể huy động nhiều người, tổ chức các hoạt động trị  thủy, thủy lợi phải có sự  can thiệp quyền lực tập trung của nhà nước, lúc  này nhà nước là người đứng ra huy động, tổ  chức nhân dân tiến hành công   cuộc trị thủy, thủy lợi bằng các biện pháp động viên hoặc cưỡng chế. Phải  có sự can thiệp của một nhà nước tập quyền mạnh thì mới thực hiện được. Như  vậy: công cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, làm thủy lợi,  phát triển nông nghiệp lúa nước đã đặt ra yêu cầu sống còn tạo điều kiện  khách quan để cố  kết các làng xã, vùng miền, các thành phần dân cư  trong  cộng đồng quốc gia thống nhất dưới sự  quản lý, điều hành của nhà nước  trung ương tập quyền mạnh. Và như thế yêu cầu trị thủy và thủy lợi đã tạo   điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình hình thành dân tộc Việt Nam. c. Yêu cầu chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc 14
  15. ­ Chống ngoại xâm không phải là đặc điểm riêng của quốc gia nào   nhưng đối với Việt Nam nó mang tính thường xuyên và cấp bách hơn. + Do đặc điểm địa lý, Việt Nam là quốc gia có vị trí chiến lược về kinh   tế, chính trị, quân sự ở khu vực Đông Nam Á, đồng thời có nhiều tài nguyên   khoáng sản phong phú, nhất là tài nguyên rừng và biển. do đó thường xuyên   bị kẻ thù nhòm ngó và xâm lược. Về  kinh tế: Việt Nam nằm  ở ngã tư  hàng hải và hàng không quốc tế  quan trọng cùng các bến cảng và sân bay quốc tế, các tuyến đường bộ  và  đường sắt xuyên Á thuận lợi cho trao đổi hàng hóa, giao thương buôn bán   với các nước. Về  chính trị, Quân sự: Việt nam có vị  trí địa lý quan trọng, được ví  như ban công để nhìn ra biển đông, nằm trên đương giao lưu từ bắc xuống   nam, từ đông sang tây, từ đất liền ra biển cả. Kẻ thù thường coi Việt Nam   là mục tiêu đánh chiếm tạo bàn đạp nhằm thực hiện mục đích quân sự và ý  đồ chính trị. Tuy diện tích nhỏ hẹp nhưng tài nguyên khoáng sản phong phú, nhất là  tài nguyên rừng và biển. Do vậy Việt Nam luôn là mục tiêu xâm chiếm của các thế  lực hiếu  chiến. + Việt Nam lại  ở  cạnh bên một đế  chế  khổng lồ, hùng mạnh ( Trung   Hoa ) luôn có tư tưởng bành trướng Đại Hán xuống Đông Nam Á. Từ khi ra đời cho đến nay nước ta thường xuyên phải chống giặc ngoại   xâm, phải đương đầu với những kẻ thù hung bạo mạnh hơn mình gấp bội.   Lịch sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta đầy gian khổ và ác liệt.  Thời kỳ các vua Hùng cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã diễn ra  gay go ác liệt. Điều đó được phản ánh qua các huyền tích, huyền thoại  chống nhều thứ giặc: giặc Ân, giặc Xích quỷ, giặc Man, giặc Hồ  tôn. Qua  15
  16. các di chỉ khảo cổ giai đoạn Gò Mun, Đông Sơn số vũ khí chiếm đến 50% di  vật tìm được. Từ 179 tr.CN kéo dài đến thế kỷ XVIII, Việt Nam luôn phải đương đầu  với những âm mưu và hành động xâm lược của các triều đại phong kiến  Trung Hoa. Chúng ta có các cuộc kháng giữ  nước tiêu biểu như: An Dương   Vương chống quân Tần, chống giặc Tống thời tiền Lê, Lý; nhà Trần chống   Giặc Nguyên… Từ  1858 dến 1975 dân tộc ta liên tiếp phải đấu tranh chống thực dân   Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ. Lịch sử  ghi nhận trong vòng 22 thế  kỷ dân tộc ta đã phải tiến hành 15  cuộc kháng chiến giữ  nước và hơn 100 cuộc khởi nghĩa dành độc lập với   thời gian chống ngoại xâm lên đến 12 thế kỷ, chiếm quá nửa thời gian lịch  sử. ­ Trước vận mệnh chung, lợi ích chung, các thành phần dân tộc   Việt Nam sớm phải đoàn kết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ lãnh thổ… điều đó đặt ra yêu cầu khách quan cố kết và đoàn kết dân tộc, tạo điều   kiện thuận lợi cho quan hệ dân tộc phát triển. Kẻ  thù áp bức thống trị  không chỉ  đối với đất nước mà cả  cộng đồng  các dân tộc, từng gia đình, mỗi cá nhân con người. Nước mất thì nhà tan. Vì  vậy để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù lớn mạnh hơn ta gấp bội, dân tộc   ta phải huy động sức mạnh của cả dân tộc. Đó là sức mạnh tổng hợp của  nhiều yếu tố trong đó đoàn kết là một nhân tố cơ bản. Trước vận mệnh chung, lợi ích chung các thành phần dân tộc Việt Nam   sớm phải đoàn kết chặt chẽ, chung sức đồng lòng, tương trợ  nhau trong   một quốc gia thống nhất. Qua các cuộc kháng chiến đánh giặc, giữ  làng,  giữ  nước truyền thống đoàn kết dân tộc được hun đúc, kế  thừa và phát  triển, tạo điều kiện thuận lợi cho sự cố kết cộng đồng, một trong những cơ  sở khách quan để hình thành dân tộc. 16
  17. d. Kết cấu thành phần tộc người của cộng đồng cư dân Việt Nam ­ Do vị trí địa lý mà Việt Nam là nơi sinh thành, tụ  cư của nhiều tộc   người. Theo số  liệu thống kê, cả  nước ta hiện nay có 54 tộc người, trong số  đó có những dân tộc vốn sinh ra và phat triển trên mảnh đất Việt Nam, có  những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta dao  lưu hết sức thuận lợi nên nhiều dân tộc  ở  các nước xung quanh vì nhiều  nguyên nhân đã di cư từ bắc xuống, từ nam lên, từ tây sang. ­ Mặc dù khác nhau về  nguồn gốc, hoàn cảnh lịch sử  và thời gian   sinh tụ   ở  Việt Nam, nhưng do các biến động lịch sử­ xã hội, điều kiện   sống nên các tộc người nước ta không cư trú riêng rẽ, không có lãnh thổ   tộc người riêng. Các thành phần dân tộc cư trú xen kẽ trong cùng một đơn   vị hành chính. Nhìn chung, các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ  riêng biệt như  một số  nước trên thế  giới. Địa bàn cư  trú của người kinh  chủ  yếu  ở  đồng bằng và trung du, các dân tộc ít người chủ  yếu cư  trú  ở  miền núi và vùng cao. Các dân tộc thiểu số  tuy có sự  tập trung  ở  một số  vùng nhưng không cư trú thành những khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các  dân tộc khác trong phạm vi tỉnh, huyện, xã và bản, mường. VD: ở Cao Bằng, Lạng Sơn là nơi sinh sống của người Tày, Thái, Nùng,   Mông, Quảng Trị, Huế có người Bru – Vân Kiều, người Cơ tu, người Tà Ôi sinh  sống ­ Cuộc sống xen kẽ, cộng cư lâu đời làm cho sự giao tiếp ngôn ngữ,   giao thoa văn hóa mạnh mẽ, hình thành nền văn hóa chung thống nhất   là điều kiện thuận lợi để sớm hình thành dân tộc. Cuộc sống xen kẽ, cộng cư lâu đời tạo điều kiện để các tộc người tăng   cường hiểu biết, hòa hợp và xích lại gần nhau, sự giao lưu kinh tế ­ văn hóa   cũng như sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Do sống gần nhau, việc kết hôn giữa  17
  18. nam nữ thanh niên thuộc các tộc người khác nhau ngày càng phổ biến. Cuộc   sống xen kẽ tạo ra tính cộng đồng cao, là điệu kiện thuận lợi để đoàn kết,  hòa hợp giữa các dân tộc anh em Cư trú xen kẽ, cộng cư lâu đời hình thành một nền văn hóa thống nhất   trong đa dạng. Tuy thuộc các tộc người khác nhau nhưng thống nhất vì: Có chung môi trường sống ( điều kiện địa lý nhiệt đới, nóng ẩm…) Chung vận mệnh lịch sử ( chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm ) Trên cơ sở một nền văn hóa chung thống nhất là điều kiện quan trọng  để góp phần hình thành dân tộc Việt Nam. Các đặc điểm trên đây đã liên kết, tác động và thúc đẩy nhanh chóng  quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. 2. Quá trình hình thành và phát triển dân tộc Việt Nam. ­ Việt Nam nằm trong cái nôi quê hương của loài người Trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai  ở  Lạng Sơn đã tìm thấy răng  người vượn trong lớp trầm tích màu đỏ  có hình dạng giống với vượn người   Bắc Kinh Ở núi Đọ, Thanh Hóa phát hiện hàng vạn công cụ lao động thuộc sơ kỳ  đồ đá cũ của người vượn cách đây hơn 30 vạn năm… Tiếp theo,  ở  hang Hùm( Yên Bái), hang Kéo Lèng ( Lạng Sơn ) đã tìm  thấy   di   cốt   người   hiện   đại   Homo   Sapiens.   Ở   núi   đá   Ngườm   (   Thái  Nguyên ), hang Nà Ngùn phát hiện được hàng vạn công cụ  lao động thuộc   hậu kỳ đá cũ của người hiện đại. Như vậy có thể khẳng định người Việt đã là chủ thể lâu đời sinh sống, tồn  tại và phát triển trên lãnh thổ Việt nam. ­ Việt Nam là một trong những trung tâm phát sinh nghề  trồng lúa   nước. 18
  19. Vào hậu kỳ đồ đá mới, trên khắp nước ta đã tụ cư các bộ lạc trồng lúa với  trình độ chế tác đá và làm đồ gốm tinh xảo mang các sắc thái địa phương khác  nhau. Như  vậy, Việt Nam cùng với Đông Nam Á không những là một trung  tâm tiến hóa của loài người mà còn là một trong những trung tâm phát minh  ra nông nghiệp trồng lúa nước. Việc này đã khẳng định ngay từ đầu cư dân   người Việt đã có tính cộng đồng trong các hoạt động sản xuất, sinh hoạt… * Các giai đoạn hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam ­ Thời kỳ Văn Lang – Âu Lạc: xuất hiện những tiền đề mầm mống   của quá trình dân tộc, đánh dấu sự  ra đời của dân tộc Việt Nam ( trên   nềm tảng bản sắc văn hóa Việt Nam ). Cụ thể: + Thời kỳ Văn Lang: theo kết quả nghiên cứu hiện nay, nhà nước Văn   Lang của các vua Hùng ra đời vào thế kỷ VII trước công nguyên. Đó là một   quá trình tập hợp các bộ lạc rồi chuyển hóa thành nhà nước. Nhà nước Văn Lang là kết quả phát triển hàng nghìn năm của nền văn  minh sông Hồng mà đỉnh cao là văn hóa Đông Sơn. Đồng thời đây cũng là   quá trình liên kết các thành phần tộc người thuộc khối cư  dân Lạc Việt  thành cộng đồng bộ tộc Lạc Việt. Về lãnh thổ: Bắc bộ, Bắc Trung bộ. Về  kinh tế: nông nghiệp với hình thức canh tác trồng lúa nước là phổ  biến. Người cổ  thời Hùng vương là những cư  dân nông nghiệp dùng cày.  Do yêu cầu của nông nghiệp trồng lúa nước, cư  dân Văn Lang sớm phải  hợp sức lại trị  thủy và làm thủy lợi. Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh   phản ánh công cuộc chinh phục và cải tạo thiên nhiên đầy gian khổ của cư  dân Lạc Việt. Xã hội thời Hùng Vương đã có sự phân hóa giai cấp. Tuy nhiên đây là xã  hội có giai cấp sơ kỳ mang các đặc điểm của “ xã hội phương đông”, trong xã  19
  20. hội có 3 tầng lớp: quí tộc, nô tỳ và nông dân công xã tự do ( chế độ nô lệ gia  trưởng). Thời đại Hùng vương đã sáng tạo ra nền văn minh sông Hồng rực rỡ,   cung với nó là một nền văn hóa tộc người giàu bản sắc trên các lĩnh vực.   Nhà nước Văn Lang – bộ  tộc Lạc Việt đã tạo dựng những mầm mống và   tiền đề của quá trình dân tộc, làm cơ sở cho những bước phát triển dân tộc   tiếp theo. + Thời kỳ Âu Lạc: vào thế kỷ thứ III tr.CN, do kinh tế xã hội phát triển   và nạn ngoại xâm đe dọa; hai bộ phận người Lạc Việt và Âu Việt hợp nhất   thành nước Âu Lạc. Lịch sử ghi nhận đã có những mâu thuẫn, xung đột giữa hai khối cư dân Âu   Việt và Lạc Việt. Tuy nhiên đứng trước đe dọa của nạn ngoại xâm đã có sự gác   bỏ mâu thuẫn để thống nhất lại nhằm tăng cường sức mạnh của khối cộng đồng  người Việt trong đấu tranh dựng nước và giữ nước Nhà nước Âu Lạc kế thừa và phát triển cao hơn nước Văn Lang. Tổ chức   nhà nước chặt chẽ  hơn. Đứng đầu nước Âu Lạc là An Dương Vương. Đất  nước được chia thành các bộ do Lạc tướng cai quản, dưới bộ là các công xã   nông thôn. Kết cấu xã hội gồm các thành tố: Nhà – Làng – Nước ngày càng phát   triển theo hướng liên kết chặt chẽ. Nền văn hóa Âu Lạc ở vào giai đoạn phát triển cao của nền văn hóa Đông  Sơn ­ Thời kỳ bắc thuộc ( 179 tr.CN – 938): thời kỳ này quan trọng nhất   là chống đồng hóa và tiếp thu các giá trị văn hóa. Từ năm 179 tr.CN Việt Nam bước vào thời kỳ ngàn năm bắc thuộc. Các   triều đại phương bắc kế tiếp nhau cai trị nước ta hơn 10 thế kỷ. Đây là thời  kỳ lịch sử khắc nghiệt nhất đối với sức sống của dân tộc. Các đế chế trung  hoa vừa đô hộ  vừa   thực hiện chính sách Hán hóa cưỡng bức nhằm biến   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2