
Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
150
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO KẾ TOÁN THEO NĂNG LỰC - XU HƯỚNG
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN
Nguyễn Thị Hoa
1,*
, Phan Thị Thu Hiền
1
, Nguyễn Thị Hồng Vân
1
, Nguyễn Thị Phương Chi
1
1Trường ĐH kinh tế Nghệ An, *Email: nguyenhoa@naue.edu.vn
Tóm tắt: Đào tạo theo năng lực tập trung vào những năng lực cần thiết để người học có
thể thực hiện được công việc chuyên môn một cách chuyên nghiệp. Xây dựng và thực hiện
chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực là một xu thế tất yếu, giúp người học có
khả năng giải quyết các vấn đề thực tiễn ngay khi tốt nghiệp, đào tạo như vậy sẽ phù hợp với
nhu cầu xã hội. Ngoài ra, với hướng tiếp cận năng lực, người học sẽ được trang bị kỹ năng để
có thể học cả đời và trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0 thì đây là điều bắt buộc. Bài viết đề
cập đến khái niệm, tính tất yếu và xu hướng đào tạo theo năng lực, cụ thể là đối với chuyên
ngành kế toán tại Trường Đại học kinh tế Nghệ An từ năm 2022.
Từ khóa: Năng lực, Kế toán, Đào tạo theo năng lực.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năng lực có thể hiểu là sự kết hợp của
các khả năng, kỹ năng, phẩm chất, thái độ
và hành vi của một cá nhân hay tập thể để
thực hiện một công việc có hiệu quả. Đào
tạo dựa trên năng lực nhấn mạnh việc áp
dụng lý thuyết vào thực tế cuộc sống và lấy
người học làm trung tâm. Giáo dục dựa trên
năng lực được định nghĩa như là một hướng
tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra của người
học (outcome - based education), kết hợp
chặt chẽ giữa các phương thức giảng dạy và
hình thức đánh giá được thiết kế nhằm đánh
giá việc học của học sinh thông qua việc thể
hiện kiến thức, thái độ, giá trị, kỹ năng và
hành vi của chúng đối với yêu cầu đề ra ở
mỗi trình độ.
Năm 1970, mô hình đào tạo theo năng
lực được hình thành tại Mỹ, phát triển ở một
số cơ sở giáo dục tại America, England, Úc,
NewZealand vào những năm 1990. Và thực
tế đã khẳng định cách tiếp cận này là cách
thức có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất để tạo
ra sự phù hợp giữa đào tạo và nhu cầu về
năng lực. Kế toán tương lai nên được đào tạo
và nhận thức được trách nhiệm của họ với
nhiều bên liên quan. Kế toán tương lai cũng
nên được định hướng như một tác nhân đạo
đức quan trọng trong xã hội để đảm bảo tính
trách nhiệm và tính minh bạch của quy trình
kế toán.
2. NỘI DUNG
2.1. Đào tạo dựa trên nội dung và đào
tạo dựa trên nng lực
Mô hình đào tạo dựa trên năng lực nhấn
mạnh đến kết quả đầu ra của người học.
Người học được đánh giá đạt yêu hoàn thành
học phần hay chương trình khi chứng minh
được việc nắm bắt và ứng dụng kiến thức,
kỹ năng, thái độ, giá trị và hành vi dựa trên
các tiêu chí năng lực được đề ra. Tuy nhiên,
cần lưu ý kết quả đầu ra của đào tạo dựa trên

Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 2, Tháng 12/2022
151
năng lực khác với đào tạo dựa trên nội dung.
Đầu ra của đào tạo dựa trên nội dung thể
hiện ở thì tương lai, tức là khả năng người
học sẽ làm được trong tương lai còn đào tạo
dựa trên năng lực được thể hiện ở thì hiện
tại, tức là dựa trên những gì người học làm
được ngay sau khi kết thúc chương trình học.
Do vậy, khác với đào tạo kiến thức là thay
vì coi trọng kiến thức người học phải nắm
được, đào tạo theo năng lực đòi hỏi người
học phải nắm rõ mình cần biết gì và có thể
làm gì trong các vai trò khác nhau ở các môi
trường khác nhau.
2.2. Khung nng lực đào tạo kế toán
Nhân viên kế toán có nhiệm vụ thu thập,
xử lý và báo cáo thông tin kinh tế tài chính
cho các đối tượng sử dụng ở trong và ngoài
đơn vị. Để thực hiện nhiệm vụ này, kế toán
phải ghi nhận và lập báo cáo tài chính theo
hệ thống pháp lý kế toán. Bên cạnh đó, kế
toán cần xác định được nhu cầu thông tin để
cung cấp và tư vấn cho nhà quản trị trong
quá trình ra quyết định, do đó phải hiểu về
kinh doanh, chiến lược kinh doanh, có khả
năng xây dựng và thực hiện chiến lược. Vậy
năng lực chuyên môn của vị trí kế toán cần
phải có bao gồm các năng lực liên quan đến
kế toán tài chính, kế toán quản trị, báo cáo
tài chính, quản trị kinh doanh, chiến lược
kinh doanh,…. Năng lực đó là khả năng thể
hiện các kỹ năng, giá trị, đạo đức và thái độ
kỹ thuật cần thiết ở mức độ thành thạo đủ
để hoàn thành vai trò của một kế toán viên
chuyên nghiệp theo cách đáp ứng nhu cầu và
mong đợi của nhà tuyển dụng, khách hàng,
đồng nghiệp công chúng.
Hiện nay có một số tiêu chuẩn quốc tế
cho đào tạo kế toán theo năng lực. Đầu tiên,
là tiêu chuẩn đạo tạo kế toán theo năng lực
của Ủy ban Tiêu chuẩn Đào tạo kế toán Quốc
tế ™ (IAESB). Trên cơ sở các tiêu chuẩn
đào tạo kế toán quốc tế do IAESB cùng các
hướng dẫn, các tổ chức thành viên và các Hội
nghề nghiệp quốc gia xây dựng và phát triển
các bản đồ năng lực để đào tạo các thành
viên của tổ chức mình. Cụ thể:
- Hội kế toán viên chuyên nghiệp của
Canada (CPA Canada) quy định năng lực
của nhân viên kế toán chuyên nghiệp gồm 6
năng lực kỹ thuật (Báo cáo tài chính, Chiến
lược và quản trị, Kế toán quản trị, Kiểm toán
và đảm bảo, Tài chính doanh nghiệp, Thuế)
và 7 nâng cao năng lực (Hành động có đạo
đức và thể hiện giá trị nghề nghiệp, Dẫn đầu,
Cộng tác, Quản lý bản thân Năng lực ứng
xử chuyên nghiệp và đạo đức, Năng lực giải
quyết vấn đề và ra quyết định, Giao tiếp).
- Hiệp hội kế toán Australia (CPA
Australia) đưa ra tiêu chuẩn năng lực cho
nhân viên kế toán chuyên nghiệp gồm: Năng
lực chuyên môn (thành thạo các kỹ năng
tính toán, thống kê và CNTT, kỹ năng phân
tích rủi ro và các mô hình ra quyết định, kỹ
năng đo lường, báo cáo và tuân thủ yêu cầu
của luật pháp); Năng lực cá nhân (kỹ năng
ứng xử chuyên nghiệp, tự (lỗi chính tả) bản
thân, sáng tạo, có ảnh hưởng và tự học tập,
có khả năng lựa chọn và ưu tiên giải quyết
các vấn đề trong điều kiện nguồn lực khan
hiếm, kỹ năng tổ chức công việc, chấp nhận
sự thay đổi, thực hành giá trị đạo đức và
hoài nghi nghề nghiệp); Năng lực quản trị
và kinh doanh (xây dựng chiến lược, quản
trị dự án, quản trị con người và nguồn lực, ra
quyết định, biết cách tổ chức và đàm phán,
tạo động lực, kỹ năng lãnh đạo và xét đoán

Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
152
nghề nghiệp); Năng lực giao tiếp và liên lạc
(cho phép nhân viên kế toán chuyên nghiệp
làm việc với những người khác trong quá
trình tư vấn, chịu đựng và giải quyết các
xung đột, tương tác trong môi trường đa văn
hóa, khả năng đàm phán trong công việc,
biết cách trình bày, thảo luận, báo cáo và
bảo vệ quan điểm một cách hiệu quả; biết
cách lắng nghe).
- Hội kế toán quản trị toàn cầu (GCIMA)
đưa ra bản đồ năng lực gồm 5 nhóm năng
lực cơ bản: Năng lực chuyên môn cho phép
các chuyên gia tài chính thu thập, lưu trữ, xử
lý và phân tích thông tin được chia sẻ với
các bên liên quan khác nhau; Năng lực kinh
doanh cho phép các chuyên gia tài chính sử
dụng kiến thức về kinh doanh và các hệ sinh
thái hoạt động của doanh nghiệp để chuyển
đổi dữ liệu thành sự hiểu biết phục vụ cho
đánh giá vị thế chiến lược, liên kết các mô
hình kinh doanh với chiến lược, hệ thống đo
lường hiệu suất và với các cơ hội kinh doanh;
Năng lực con người bao gồm năng lực giao
tiếp hiệu quả, năng lực hợp tác và làm việc
với đối tác để tác động đến các quyết định,
hành động và hành vi của những người ra
quyết định và những người khác trong doanh
nghiệp và các bên liên quan; Năng lực lãnh
đạo đòi hỏi sự hiểu biết về ý nghĩa tài chính
của các sự kiện trong môi trường hoạt động
bên trong và bên ngoài doanh nghiệp; Năng
lực công nghệ số bao gồm các kiến thức kỹ
thuật số cơ bản về điện toán đám mây, an
ninh mạng, phân tích dữ liệu và hạch toán chi
phí kỹ thuật số.
2.3. Xu hướng về đào tạo kế toán theo
nng lực và đề xuất tại Trường Đại học
kinh tế Nghệ An
Chương trình đào tạo dựa trên năng lực
thường được thiết kế linh hoạt theo hướng
mở nhằm có thể bổ sung, cập nhật kịp thời
nội dung kiến thức mới và nội dung thường
được thiết kế theo module hoặc tín chỉ. Giáo
trình chỉ mang tính chất là tài liệu tham khảo
cho giảng dạy chứ không thể hiện là chương
trình giảng dạy như hướng tiếp cận nội dung.
Chương trình giảng dạy phải đảm bảo phát
triển theo hướng cả chiều rộng và chiều sâu,
tính tương hỗ giữa các học phần nhằm hình
thành kiến thức, kỹ năng, giá trị, hành vi, và
thái độ. Hiện nay, chương trình đào tạo ngành
kế toán tại Trường Đại học kinh tế Nghệ An
đã thiết kế được thiết kế theo hướng mở,
cụ thể là năm 2022 đã đưa vào một số tín
chỉ tự chọn để sinh viên lựa chọn linh hoạt
phù hợp với năng lực học tập và thời gian
của bản thân nhưng số lượng tín chỉ tự chọn
chưa nhiều. Cụ thể: Trong khối kiến thức
giáo dục đại cương, sinh viên có thể lựa chọn
học phần Lịch sử các học thuyết kinh tế hoặc
học phần Phương pháp nghiên cứu kinh tế.
Trong khối kiến thức cơ sở ngành, sinh viên
có thể lựa chọn học phần Marketing căn bản
hoặc học phần Quản trị học. Trong khối kiến
thức ngành, sinh viên có thể lựa chọn học
phần Tài chính công hoặc học phần Kiểm
toán hoạt động, lựa chọn học phần Thuế Nhà
nước hoặc học phần Kế toán doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Trong lộ trình rà soát định kỳ,
chương trình đào tạo kế toán cần tăng cường
tín chỉ tự chọn nhằm hình thành kiến thức,
kỹ năng, giá trị, hành vi và thái độ. Tỷ lệ phù
hợp khoảng 15% tổng số tín chỉ của chương
trình đào tạo (khoảng 20 tín chỉ), trong đó có
thể tăng cường sự lựa chọn học phần kế toán
của các mô hình và quy mô của đơn vị khác

Tạp chí Khoa học, Tập 1, Số 2, Tháng 12/2022
153
nhau; hoặc lựa chọn giữa các học phần kỹ
năng mềm và kỹ năng nghề nghiệp kế toán;
hoặc lựa chọn giữa các học phần sinh viên có
định hướng nghề nghiệp nghiên cứu và định
hướng nghề nghiệp ứng dụng; …
Các học phần giảng dạy chủ yếu sử dụng
tài liệu bắt buộc là giáo trình, tuy nhiên, một
số giáo trình có nội dung tương đối cũ dẫn
tới hiện tượng chương trình giảng dạy không
cập nhật kiến thức thực tế. Do đó, Trường
Đại học kinh tế Nghệ An cần rà soát lại hệ
thống giáo trình, tài liệu sử dụng trong giảng
dạy nhằm đảm bảo kiến thức cập nhật và phù
hợp với xu thế xã hội.
Thực tế cho thấy, cách tiếp cận đào tạo
kế toán ở các cơ sở đào tạo của Việt Nam
nói chung và Trường Đại học kinh tế Nghệ
An vẫn giảng dạy các quy tắc dựa trên kiến
thức, thường dựa trên việc ghi lại đúng các
giao dịch và ghi nhớ hệ thống tài khoản,
tức là thiên về kỹ thuật theo hướng tuân
thủ các quy định của chế độ kế toán để đáp
ứng nhu cầu của khung kế toán địa phương,
đặc biệt là quá coi trọng việc đào tạo các
kỹ thuật hạch toán, ghi sổ. Việc đào tạo các
nguyên tắc, chuẩn mực kế toán đã được
tiếp cận song chưa mang tính phổ biến. Các
học phần chuyên ngành đặc biệt là chuyên
ngành kế toán sâu còn được biên soạn chủ
yếu theo thông tư, nghị định và chưa được
tiếp cận theo các chuẩn mực kế toán quốc tế
hay chuẩn mực kế toán Việt Nam. Tính liên
kết, liên thông của Trường Đại học kinh tế
Nghệ An và hiệp hội nghề nghiệp cũng như
đơn vị sử dụng lao động còn yếu, việc liên
kết mới chỉ ký kết hợp tác còn mang tính
hình thức. Bên cạnh đó, rào cản về kỹ năng
công nghệ thông tin, tư duy tổng hợp, phân
tích chuyên sâu và trình độ ngoại ngữ cũng
là một thách thức đáng kể đối với kế toán
viên trong lộ trình hội nhập. Với thực trạng
hiện nay, thách thức này cần có sự nỗ lực
lớn và thời gian khá dài để vượt qua. Do
đó, Trường Đại học kinh tế Nghệ An cần
xây dựng chương trình đào tạo ngành Kế
toán tiếp cận các chuẩn mực. Hệ thống giáo
trình, đặc biệt là các học phần chuyên ngành
kế toán cần được biên soạn theo chuẩn mực
- nghĩa là hướng theo bản chất và nguyên
tắc, còn các hướng dẫn thực thi theo luật,
nghị định, thông tin nên đưa vào tài liệu
tham khảo, tài liệu phát tay. Các giảng viên
chuyên ngành cần thường xuyên cập nhật
kiến thức về chuẩn mực, tham gia các hội
thảo khoa học để cập nhật và nâng cao kiến
thức trong xu thế hội nhập quốc tế. Ngoài
ra, cần tăng cường nội dung liên kết với
hiệp hội nghề nghiệp và đơn vị sử dụng lao
động nhằm đạt mục tiêu nắm bắt nhu cầu về
vị trí việc làm kế toán cũng như phối hợp
đào tạo thông qua việc mời hiệp hội nghề
nghiệp và đơn vị sử dụng lao động về giảng
dạy, tăng kiến thức thực tế và kỹ năng cho
các bạn sinh viên.
Định hướng phát triển chương trình đào
tạo theo năng lực:
+ Phát triển chương trình đào tạo cần
xuất phát từ thực tế nghề nghiệp/chuyên môn
và các yếu tố liên quan đến hoạt động lao
động nghề nghiệp. Cần nghiên cứu phân tích
rõ đặc điểm chuyên môn nghề, phân tích các
công việc thực tế trong môi trường lao động
nghề nghiệp cụ thể để thiết kế, xây dựng
chương trình đào tạo.
+ Xây dựng chương trình đào tạo theo
định hướng các mục tiêu học tập cụ thể

Trường Đại học Kinh tế Nghệ An
154
để hình thành năng lực chuyên môn. Các
chương trình phải bao hàm mục tiêu đào tạo,
nội dung, phương pháp, phương tiện, hình
thức tổ chức học tập, kiểm tra đánh giá, ...
+ Phát triển các chương trình đào tạo
mở, tạo điều kiện thường xuyên cập nhật
tri thức, kỹ năng mới và khuyến khích sự
sáng tạo của người học. Thực hiện đánh giá
thường xuyên và kiểm định chương trình
đào tạo.
+ Chú trọng yêu cầu phát triển năng lực
hành nghề, giảm bớt các tri thức hàn lâm,
tăng cường năng lực hành động và thích ứng
nhanh với những biến đổi trong lao động
nghề nghiệp.
Việc phát triển chương trình đào tạo
theo năng lực cần được thực hiện theo quy
trình các bước sau:
Bước 1: Phân tích, đánh giá bối cảnh/
nhu cầu đào tạo
Bước 2: Khảo sát/phân tích đặc điểm
chuyên môn ngành/nghề;
Bước 3: Xây dựng chuẩn đầu ra/mục
tiêu đào tạo, tiêu chí đánh giá
Bước 4: Thiết kế chương trình khung;
Bước 5: Biên soạn chương trình đào tạo
chi tiết;
Bước 6: Thực nghiệm, đánh giá chương
trình đào tạo;
Bước 7: Thẩm định chương trình đào tạo;
Bước 8: Triển khai chương trình đào tạo.
Trong quy trình phát triển chương trình
đào tạo ngành Kế toán, Trường Đại học kinh
tế Nghệ An chưa thực hiện bước 6 mà đây là
một bước quan trọng trong quy trình. Do đó,
Trường Đại học kinh tế Nghệ An cần thực
hiện đầy đủ quy trình 8 bước như trên để đảm
bảo chương trình đào tạo ngành Kế toán đáp
ứng được nhu cầu xã hội và đảm bảo năng
lực người học.
Đánh giá là một trong những biện pháp
quan trọng để giúp cho người học biết mình
đã đạt mức độ nào trong các năng lực cần
phải có của CTĐT. Các cơ sở đào tạo cần
xây dựng hệ thống đánh giá toàn diện năng
lực của người học phù hợp với yêu cầu năng
lực và mức độ thành thạo cần thiết. Các bài
đánh giá cần kiểm tra được khả năng vận
dụng kiến thức chuyên môn và các kỹ năng
nghề nghiệp với tư duy phê phán để đưa ra
các đánh giá phù hợp trong các tình huống
mô phỏng phức tạp thực tế. Thực tế hiện nay
tại Trường Đại học kinh tế Nghệ An đã có
quy định tạm thời về đánh giá theo chuẩn
đầu ra và đang được đưa vào thử nghiệm. Để
việc đánh giá có hiệu quả chính xác, các bộ
môn cần tuân thủ quy trình đánh giá theo quy
định đó. Đồng thời, việc ra đề thi cần chú ý
chuẩn đầu ra, ánh xạ chuẩn đầu ra học phần
với chuẩn đầu ra CTĐT. Cần thiết kế các
công cụ đánh giá phù hợp với từng học phần
đảm bảo tính khả thi. Và khi kết thúc giai
đoạn thử nghiệm cần đánh giá lại quy trình
đánh giá đã phù hợp và hiệu quả chưa, nếu
chưa thì cần có biện pháp khắc phục ngay
để việc đánh giá người học kịp thời và chính
xác nhất.
Nâng cao chất lượng đào tạo là vấn
đề trọng tâm cần quan tâm của các trường
đại học nói chung và Trường Đại học kinh
tế Nghệ An nói riêng. Kế toán là một nghề
nghiệp có tính quốc tế cao, đòi hỏi trách
nhiệm và đạo đức nghề nghiệp để tạo ra sự
minh bạch và niềm tin cho xã hội. Do vậy,
đào tạo kế toán cần phải đặt trong sự kiểm
soát để đạt được chất lượng theo yêu cầu.