Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly

Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly diễn ra vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV (1395 –

1407) nhằm giải quyết khủng hoảng toàn diện của xã hội cuối Trần, từ khủng

hoảng kinh tế xã hội, khủng hoảng hệ tư tưởng dẫn đến khủng hoảng thiết chế xã

hội và cao nhất là khủng hoảng cung đình.

Bắt đầu từ đổi mới triều đại, giải quyết khủng hoảng cung đình. Năm 1393, thấy

họ Trần bất lực, Nghệ Tông đã nói với Quý Ly: “Bình Chương (tức Quý Ly) là họ

thân thích nhà vua, mọi việc nước nhà đều trao cho khanh cả. Nay thế nước suy

yếu, trẫm thì già nua. Sau khi trẫm chết, quan gia nếu giúp được thì giúp, nếu hèn

kém ngu muội thì khanh cứ tự nhận lấy ngôi vua”. Thực tế đó đã như một di chúc

truyền ngôi. Vì vậy cuộc lên ngôi của Hồ Quý Ly năm 1400 như một sự chín muồi

trong yêu cầu giải quyết khủng hoảng cung đình: Hồ lên thay Trần.

Tiếp theo là cải cách thiết chế chính trị xã hội và hệ tư tưởng phong kiến với các

biện pháp cụ thể: - Phát triển đội ngũ quan lại phong kiến quan liêu thay thế dần

phong kiến quý tộc. Năm 1375, Nghệ Tông “xuống chiếu chọn các quan viên biết

luyện tập võ nghệ, thông hiểu thao lược, thì không cứ là người tôn thất, đều cho

làm tướng coi quân”. Đề cao tuyển chọn nhân tài từ bình dân thay thế quý tộc.

Hạn chế Phật giáo, không ưu đãi tăng ni và phát triển chùa chiền như thời Trần mà

còn có những biện pháp giảm thiểu: “Năm 1396, tháng Giêng, xuống chiếu sa thải

các tăng đạo chưa đến tuổi 50 trở lên, bắt phải hoàn tục…”. Không theo nếp Tiền

Lê, Lý, Trần phong tặng các quan tước cho quý tộc tôn thất. Không đưa nhiều tôn

thất họ Hồ vào bộ máy nhà nước. Hồ Hán Thương “cấm người tôn thất, cung nhân

không được xưng quý hiệu, người vi phạm bị trị tội”. Trong giữ nước, nếu nhà

Trần triệu tập Hội nghị Bình Than chỉ có vương hầu quý tộc đến bàn việc chống

giặc, thì nhà Hồ trong chuẩn bị chống Minh, lại chỉ triệu tập quan lại trong triều và

quan lại đứng đầu các lộ tham dự Hội nghị Tây Đô, nhằm đề cao tác dụng và trách

nhiệm của hệ phong kiến quan liêu, lấy Nguyễn Phi Khanh – ông thân sinh

Nguyễn Trãi (không phải người tôn thất) làm Hàn lâm học sĩ. Đạo quân – thần đã

thay thế quan hệ tông tộc.

Quan trọng nhất là thực hiện cải cách kinh tế - xã hội với các biện pháp:

1. “Hạn điền”

Mục tiêu là nhằm hạn chế chiếm hữu lớn về đất đai của quý tộc phong kiến:

Chiếm hữu lớn về ruộng đất của địa chủ quý tộc nhà Trần vừa là do phân phong

vừa là do chiếm dụng: “Năm 1397, tháng 6 (Âm lịch) xuống chiếu hạn chế danh

điền (ruộng tư). Riêng đại vương và trưởng công chúa thì số ruộng không hạn chế.

Đến thứ dân thì số ruộng là 10 mẫu. Người nào có nhiều thì tuỳ ý được lấy ruộng

để chuộc tội. Bị biếm chức hay mất chức cũng được làm như vậy. Số ruộng thừa

phải hiến cho nhà nước”. “Hạn điền” đánh vào nền tảng kinh tế của quyền uy

chính trị của phong kiến quý tộc. Tuy vậy, cải cách này cũng chỉ là nửa vời. Bởi

vì, trong khi xã hội đang có yêu cầu tư hữu hoá ruộng đất để phát triển kinh tế

hàng hoá tiền tệ và giải quyết nạn đói, thì số lượng đất ngoài 10 mẫu được lấy ra

lại bị xung công “hiến cho nhà nước” biến thành quan điền.

2. Cải cách quan hệ sử hữu sức lao động bằng biện pháp “Hạn nô”.

Năm 1401, lập phép hạn chế gia nô “chiếu theo phảm cấp được có số lượng khác

nhau, còn thừa phải dâng lên. Mỗi tên được trả 5 quan tiền…”. Mục tiêu cũng là

đánh vào cả thế và lực của phong kiến quý tộc nhưng cũng là cải cách nửa vời.

Bởi vì đáng lẽ “hạn nô” để giải phóng sức sản xuất xã hội thì đây lại “đưa nô sung

công” và “sung vào quân địch” củng cố chế độ phong kiến quan liêu. Cũng có thể

nói như ngôn ngữ ngày nay là “Hạn nô” đúng ở “đầu vào” nhưng sai ở “đầu ra”.

3. Cải cách tiền tệ

- Phát hành tiền giấy - một biện pháp mới, lần đầu tiên được thực hiện ở Đại Việt:

“Năm 1396, tháng 4, bắt đầu phát hành (tiền giấy). Thông báo hội sao… Thể thức

(tiền giấy): Tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ

rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng”. Đề ra những biện

pháp nghiêm ngặt để thực thi: “Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản bị tịch

thu. - Cấm tiệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho

Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như trê”.

Nguyên nhân có thể do yêu cầu phát triển của kinh tế Đại Việt mà Hồ Quý Ly đã

cảm nhận được. Nhưng thực tế thì là: Ngay từ thời “thịnh Trần” (có thể kể đến

Anh Tông, Minh Tông) tuy đồng tiền đã được sử dụng rộng rãi nhưng chưa có nhu

cầu phát hành tiền giấy. Huống chi cuối Trần kinh tế đã suy thoái, tiền giấy ra đời

không những chưa cần thiết mà còn gây phiền hà cho dân chúng (người giàu,

thương nhân không muốn thi hành vì không tin ở giá trị đồng tiền. Nông dân ít

tiền khó mua được hàng hoá. Người có thể tích lũy được tiền tệ thì lo lắng, không

yên tâm…). - Việc đề ra những biện pháp cưỡng ép nghiêm ngặt như trên đã phần

nào phản ánh sự mất lòng dân.

4. Cải cách văn hoá, giáo dục:

Khuyến khích sử dụng chữ Nôm, tự mình làm thơ chữ Nôm và giải nghĩa Kinh

Thi bằng chữ Nôm. – Phát huy tác dụng Nho giáo. Năm 1392, làm sách Minh Đạo

(con đường sáng) 14 thiên “cho Chu Công là tiên thánh, Khổng tử là tiên sư”, nêu

ra “bốn chỗ đáng ngờ trong sách Luận ngữ”. Năm 1395, dịch thiên Vô dật (không

lười biếng) trong Kinh thư ra chữ Nôm nêu tấm gương của các vua hiền thời xưa

để dạy vua Thuận Tông. - Đề cao lối học thực dụng cần thiết cho cơ chế quan liêu:

Phê phán những người chỉ biết chấp nhặt văn chương, tuy học rộng nhưng viển

vông. Năm 1397, ban hành chính sách khuyến học cho mở trường đến các phủ

châu, ban quan điền để chỉ về việc học. - Cải tiến thi cử, mở nhiều khoa thi kén

chọn người tài. Chỉ riêng khoa thi Thái học sinh năm 1400 đã có 20 người thi đỗ,

trong đó có những danh nho như Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên,

Nguyễn Mộng Tuân…

5. Cải cách về quân sự:

- Năm 1401 lập sổ hộ tịch để bổ sung quân ngũ. Đóng thuyền đinh sắt để chiến

đấu, chấn chỉnh lại tổ chức quân đội, bổ thêm hương quân. Trong chiến đấu, áp

dụng thuật “làm vườn không nhà trống”. Xây dựng thêm thành trì mới, câu trục lại

các thành trì cũ.

Nhìn chung lại, cải cách Hồ Quý Ly là toàn diện, lấy kinh tế xã hội làm trọng tâm.

Trong đó “Hạn điền”, “Hạn nô” là quan trọng nhất. Nhưng “Hạn điền”, “Hạn nô”

không triệt để. Cải cách tiền tệ, ý đồ thì tốt, nhưng kinh tế xã hội chưa có nhu cầu.

Cải cách văn hoá, giáo dục có tiến bộ nhưng cũng không tránh khỏi bị những phản

ứng của Phật giáo lúc đó vẫn còn cần thiết cho đám quần chúng nông dân khổ ải.

Cải cách quân sự có cái mới nhưng chưa coi trọng chiến tranh nhân dân, còn nặng

dựa vào thành hơn là “dựa vào lòng người”… Mặc dầu vậy, cải cách xã hội của

Hồ Quý Ly cũng có cống hiến đáng kể cho sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội

của dân tộc. Nếu không bị giặc Minh tàn phá thì cũng đưa lại những tiến bộ đáng

kể cho đất nước. Những mục tiêu cải cách mà Hồ Quý Ly mong muốn, sau này đã

được Lê Thánh Tông kế thừa, phát huy mặt tích cực phủ định cái tiêu cực, dẫn tới

thành công.