intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc điểm lâm sàng rối loạn bộ ba nhận thức theo beck trên bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện giai đoạn trầm cảm

Chia sẻ: Nguyễn Tuấn Anh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

88
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tiến hành nghiên cứu 34 bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần từ tháng 9/2017 đến tháng 6/2018 với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn bộ ba nhận thức theo Beck trên bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện giai đoạn trầm cảm. Kết quả thu được cái nhìn tiêu cực về bản thân (88,2%); cái nhìn tiêu cực về tương lai (85,3%); cái nhìn tiêu cực về thế giới xung quanh (8,8%). Cái nhìn tiêu cực bản thân: trầm cảm mức độ nặng (95,5%), 1 - 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ (92,3%); Cái nhìn tiêu cực về xung quanh: trầm cảm mức độ nặng (9,1%), có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ (12,5%). Cái nhìn tiêu cực về tương lai: mức độ nặng (86,4%), trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ (87,5%), dưới 4 đợt tái phát bệnh (86,4%).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc điểm lâm sàng rối loạn bộ ba nhận thức theo beck trên bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện giai đoạn trầm cảm

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> <br /> ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN BỘ BA NHẬN THỨC<br /> THEO BECK TRÊN BỆNH NHÂN RỐI LOẠN CẢM XÚC LƯỠNG CỰC<br /> HIỆN GIAI ĐOẠN TRẦM CẢM<br /> Nguyễn Văn Tuấn1, Nguyễn Viết Chung1, Vũ Sơn Tùng2<br /> 1<br /> <br /> Trường Đại học Y Hà Nội; 2Bệnh viện Bạch Mai<br /> <br /> Tại Việt Nam chưa có đề tài nào nghiên cứu về rối loạn bộ ba nhận thức theo Beck trên bệnh nhân rối<br /> loạn cảm xúc lưỡng cực giai đoạn trầm cảm. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 34 bệnh nhân điều trị nội trú tại<br /> Viện Sức khỏe Tâm thần từ tháng 9/2017 đến tháng 6/2018 với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn<br /> bộ ba nhận thức theo Beck trên bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện giai đoạn trầm cảm. Kết quả thu<br /> được cái nhìn tiêu cực về bản thân (88,2%); cái nhìn tiêu cực về tương lai (85,3%); cái nhìn tiêu cực về thế<br /> giới xung quanh (8,8%). Cái nhìn tiêu cực bản thân: trầm cảm mức độ nặng (95,5%), 1 - 2 giai đoạn trầm cảm<br /> trong quá khứ (92,3%); Cái nhìn tiêu cực về xung quanh: trầm cảm mức độ nặng (9,1%), có trên 2 giai đoạn<br /> trầm cảm trong quá khứ (12,5%). Cái nhìn tiêu cực về tương lai: mức độ nặng (86,4%), trên 2 giai đoạn trầm<br /> cảm trong quá khứ (87,5%), dưới 4 đợt tái phát bệnh (86,4%). Đa số bệnh nhân có cái nhìn tiêu cực về bản<br /> thân và tương lai; Bệnh nhân trầm cảm nặng mức độ rối loạn bộ ba nhận thức cao hơn mức độ vừa.<br /> Từ khóa: Rối loạn trầm cảm lưỡng cực, Rối loạn bộ ba nhận thức theo Beck<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện giai đoạn<br /> trầm cảm đặc trưng là quá trình ức chế toàn<br /> <br /> khởi phát ở tuổi trẻ (20 - 30 tuổi) với các giai<br /> đoạn trầm cảm (60%) [4].<br /> <br /> bộ tâm thần, biểu hiện bằng hội chứng trầm<br /> <br /> Lí thuyết về bệnh nguyên bệnh sinh của<br /> <br /> cảm, giai đoạn này kéo dài ít nhất 2 tuần và<br /> <br /> trầm cảm lưỡng cực có rất nhiều. Trong đó,<br /> <br /> trước đó phải có ít nhất một giai đoạn mà khí<br /> <br /> giả thuyết nhận thức dành được nhiều sự chú<br /> <br /> sắc biểu hiện bằng hội chứng hưng cảm hoặc<br /> <br /> ý về mặt thực nghiệm nhất đó là thuyết nhận<br /> <br /> hưng cảm nhẹ [1].<br /> <br /> thức về trầm cảm của Beck. Điểm cốt lõi của<br /> <br /> Rối loạn cảm xúc lưỡng cực gặp tỷ lệ 1,5 -<br /> <br /> thuyết này là cấu trúc gồm có: (1) một cái nhìn<br /> <br /> 2,5% dân số, nghiên cứu của Merikangas và<br /> <br /> tiêu cực về bản thân; (2) một cái nhìn tiêu cực<br /> <br /> cộng sự (2011) thực hiện trên 11 nước ước<br /> <br /> về thế giới bên ngoài; (3) một cái nhìn tiêu cực<br /> <br /> tính tỷ lệ Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là 2,4%<br /> <br /> về tương lai [5].<br /> <br /> dân số [2]. Theo Lancet (2016), tỷ lệ Rối loạn<br /> <br /> Những bệnh nhân trầm cảm họ có 3 xu<br /> <br /> cảm xúc lưỡng cực là 1% dân số thế giới với<br /> <br /> hướng chính trong suy nghĩ của mình. Bệnh<br /> <br /> tỷ lệ thường gặp của giai đoạn trầm cảm là<br /> <br /> nhân có xu hướng tự đánh giá bản thân, tự ý<br /> <br /> trong khoảng 31% đến 52% [3]. Bệnh thường<br /> <br /> thức về mình nhiều hơn những người khác.<br /> Thêm vào đó, họ luôn luôn suy nghĩ, cảm xúc<br /> <br /> Địa chỉ liên hệ: Vũ Sơn Tùng, Viện Sức khỏe Tâm thần,<br /> Bệnh viện Bạch Mai<br /> Email: vusontung269@gmail.com<br /> Ngày nhận: 22/10/2018<br /> Ngày được chấp thuận: 14/12/2018<br /> <br /> 112<br /> <br /> tiêu cực về các vấn đề của chính mình.Điều<br /> này sẽ ảnh hưởng đến sự chú ý, trí nhớ. Do<br /> đó, rối loạn chức năng nhận thức biểu hiện<br /> trong trạng thái trầm cảm có thể do sự ức chế<br /> <br /> TCNCYH 117 (1) - 2019<br /> <br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> tạm thời bộ não trên cơ sở những nhận thức<br /> <br /> 3. Đạo đức nghiên cứu<br /> <br /> tiêu cực trên.<br /> <br /> Số liệu được mã hoá nhằm giữ bí mật<br /> <br /> Hiện nay, tại Việt Nam đã có nhiều đề tài<br /> <br /> thông tin cho bệnh nhân. Đây là nghiên cứu<br /> <br /> nghiên cứu về những khía cạnh khác nhau<br /> <br /> mô tả không can thiệp chẩn đoán và điều trị,<br /> <br /> của rối loạn cảm xúc lưỡng cực, nhưng chưa<br /> <br /> không ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh.<br /> <br /> có đề tài nào nghiên cứu về rối loạn bộ ba<br /> <br /> Bệnh nhân, người nhà được thông báo đầy đủ<br /> <br /> nhận thức trên bệnh nhân rối loạn trầm cảm<br /> <br /> phương pháp, cách lấy số liệu nghiên cứu và<br /> <br /> lưỡng cực. Với tầm quan trọng và tính chất<br /> <br /> đồng ý tham gia nghiên cứu. Đề cương đã<br /> <br /> như tình trạng hiện nay, chúng tôi thực hiện<br /> <br /> được thông qua hội đồng Bộ môn Tâm thần,<br /> <br /> nghiên cứu với mục tiêu mô tả đặc điểm lâm<br /> <br /> Trường Đại học Y Hà Nội.<br /> <br /> sàng rối loạn bộ ba nhận thức theo Beck trên<br /> bệnh nhân rối loạn cảm xúc lưỡng cực hiện<br /> giai đoạn trầm cảm điều trị nội trú.<br /> <br /> II. Đối tượng nghiên cứu<br /> 1. Đối tượng, địa điểm nghiên cứu<br /> Cỡ mẫu gồm 34 bệnh nhân được chẩn<br /> đoán xác định Rối loạn cảm xúc lưỡng cực<br /> hiện tại giai đoạn trầm cảm theo tiêu chuẩn<br /> chẩn đoán của ICD-10 (F31.3, F31.4, F31.5)<br /> điều trị nội trú tại Viện sức khỏe tâm thần<br /> Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9/2017 đến<br /> tháng 6/2018.<br /> <br /> III. KẾT QUẢ<br /> 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên<br /> cứu<br /> Nhóm tuổi nhiều nhất là 25 - 34 tuổi với 12<br /> bệnh nhân, ít nhất là nhóm dưới 25 tuổi và 35<br /> - 44 tuổi cùng 3 bệnh nhân.<br /> Nữ mắc nhiều hơn nam. Viên chức là<br /> nhóm bệnh nhân nhiều nhất 11 bệnh nhân, ít<br /> nhất là nông dân với 4 bệnh nhân.<br /> Nhóm bệnh nhân thành thị và nông thôn là<br /> gần tương đương nhau. Nhóm bệnh nhân có<br /> trình độ trung cấp trở lên chiếm chủ yếu với<br /> <br /> Tiêu chuẩn loại trừ<br /> <br /> 18 bệnh nhân, không có bệnh nhân nào<br /> <br /> - Những bệnh nhân có bệnh thực tổn,<br /> <br /> không biết chữ.<br /> <br /> nghiện chất, bệnh cơ thể nặng.<br /> - Bệnh nhân chậm phát triển tâm thần.<br /> - Bệnh nhân không thực hiện được trắc<br /> nghiệm tâm lí.<br /> - Bệnh nhân không đồng ý vào nhóm<br /> nghiên cứu.<br /> <br /> Trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu chủ<br /> yếu là có gia đình với 24 bệnh nhân và không<br /> có bệnh nhân góa (bảng 1).<br /> 2. Đặc điểm mức độ trầm cảm theo chẩn<br /> đoán lâm sàng<br /> Nhóm bệnh nhân trầm cảm mức độ vừa và<br /> <br /> 2. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả chùm<br /> ca bệnh.<br /> <br /> trầm cảm nặng có loạn thần chiếm tỉ lệ cao<br /> <br /> Xử lý số liệu: Số liệu được phân tích xử lí<br /> <br /> mức độ nặng không có loạn thần chiếm 29,4%<br /> <br /> bằng phần mềm SPSS 20.0.<br /> <br /> TCNCYH 117 (1) - 2019<br /> <br /> nhất với 35,3%. Nhóm bệnh nhân trầm cảm<br /> (biểu đồ 1).<br /> <br /> 113<br /> <br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu<br /> Nam<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> < 25<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 25 - 34<br /> <br /> 4<br /> <br /> 8<br /> <br /> 35 - 44<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1<br /> <br /> 44 - 59<br /> <br /> 1<br /> <br /> 5<br /> <br /> > 59<br /> <br /> 0<br /> <br /> 10<br /> <br /> Công nhân<br /> <br /> 0<br /> <br /> 6<br /> <br /> Nông dân<br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> Viên chức<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> Kinh doanh<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4<br /> <br /> Nghề khác, tự do<br /> <br /> 1<br /> <br /> 7<br /> <br /> Không biết chữ<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Tiểu học<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4<br /> <br /> Trung học cơ sở<br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> Phổ thông trung học<br /> <br /> 0<br /> <br /> 7<br /> <br /> TC, CĐ, ĐH<br /> <br /> 6<br /> <br /> 12<br /> <br /> Nông thôn<br /> <br /> 3<br /> <br /> 11<br /> <br /> Thành thị<br /> <br /> 5<br /> <br /> 15<br /> <br /> Chưa kết hôn<br /> <br /> 5<br /> <br /> 2<br /> <br /> Có gia đình<br /> <br /> 3<br /> <br /> 21<br /> <br /> Li hôn, li thân<br /> <br /> 0<br /> <br /> 3<br /> <br /> Góa<br /> <br /> 0<br /> <br /> 0<br /> <br /> Đặc điểm<br /> <br /> Tuổi<br /> <br /> Nghề nghiệp<br /> <br /> Trình độ văn hóa<br /> <br /> Môi trường sống<br /> <br /> Tình trạng hôn nhân<br /> <br /> Biểu đồ 1. Đặc điểm mức độ trầm cảm theo chẩn đoán lâm sàng<br /> 114<br /> <br /> TCNCYH 117 (1) - 2019<br /> <br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> 3. Tỷ lệ rối loạn bộ ba nhận thức của BECK<br /> <br /> Biểu đồ 2. Tỷ lệ rối loạn bộ ba nhận thức theo BECK<br /> Bệnh nhân có cái nhìn tiêu cực về bản thân và cái nhìn tiêu cực về tương lai (88,2%; 85,3%).<br /> Bệnh nhân có cái nhìn tiêu cực về thế giới xung quanh (8,8%).<br /> 4. Tỷ lệ rối loạn bộ ba nhận thức của Beck trên các nhóm bệnh nhân<br /> Bảng 2. Tỷ lệ rối loạn bộ ba nhận thức của Beck trên các nhóm bệnh nhân<br /> <br /> Bộ ba nhận thức của Beck<br /> <br /> Cái nhìn tiêu cực<br /> <br /> Cái nhìn tiêu cực<br /> <br /> về bản thân (%)<br /> <br /> về thế giới (%)<br /> <br /> Cái nhìn<br /> tiêu cực về<br /> tương lai (%)<br /> <br /> Mức độ<br /> <br /> Mức độ vừa<br /> <br /> 75<br /> <br /> 8,3<br /> <br /> 83,3<br /> <br /> trầm cảm<br /> <br /> Mức độ nặng<br /> <br /> 95,5<br /> <br /> 9,1<br /> <br /> 86,4<br /> <br /> Số giai đoạn<br /> trầm cảm<br /> <br /> 1 - 2 giai đoạn<br /> <br /> 92,3<br /> <br /> 7,7<br /> <br /> 84,6<br /> <br /> > 2 giai đoạn<br /> <br /> 75<br /> <br /> 12,5<br /> <br /> 87,5<br /> <br /> trong quá khứ<br /> Số đợt<br /> <br /> < 4 đợt<br /> <br /> 95,5<br /> <br /> 9,1<br /> <br /> 86,4<br /> <br /> tái phát bệnh<br /> <br /> ≥ 4 đợt<br /> <br /> 75<br /> <br /> 8,3<br /> <br /> 83,3<br /> <br /> Thời gian<br /> <br /> ≤ 36 tháng<br /> <br /> 95<br /> <br /> 10<br /> <br /> 90<br /> <br /> bị bệnh<br /> <br /> > 36 tháng<br /> <br /> 78,6<br /> <br /> 7,1<br /> <br /> 78,6<br /> <br /> Bệnh nhân có cái nhìn tiêu cực về bản thân gặp nhiều hơn ở bệnh nhân trầm cảm mức độ<br /> nặng (95,5%) bệnh nhân, có 1-2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ (92,3%), có dưới 4 đợt tái<br /> phát bệnh và thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng.<br /> Cái nhìn tiêu cực về thế giới xung quanh gặp nhiều hơn ở bệnh nhân trầm cảm mức độ nặng<br /> (9,1%), có trên 2 giai đoạn trầm cảm trong quá khứ (12,5%), có dưới 4 đợt tái phát bệnh (9,1%)<br /> và thời gian bị bệnh từ dưới 36 tháng (10%).<br /> TCNCYH 117 (1) - 2019<br /> <br /> 115<br /> <br /> TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br /> Cái nhìn tiêu cực về tương lai gặp nhiều hơn ở bệnh nhân mức độ nặng (86,4%), có trên 2<br /> giai đoạn trầm cảm trong quá khứ (87,5%), có dưới 4 đợt tái phát bệnh (86,4%) và thời gian bị<br /> bệnh từ dưới 36 tháng (90%).<br /> <br /> IV. BÀN LUẬN<br /> <br /> 23,9% số bệnh nhân[7]. Kết quả này so với<br /> <br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi với 34<br /> <br /> nghiên cứu của chúng tôi sự khác biệt không<br /> <br /> bệnh nhân, chủ yếu là nữ giới với 26 bệnh<br /> <br /> đáng kể vì cỡ mẫu đều thực hiện nghiên cứu<br /> <br /> nhân. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên<br /> <br /> trên bệnh nhân nội trú.<br /> <br /> cứu của Arianna Diflorio năm 2010, nữ giới có<br /> <br /> Về mặt bộ ba nhận thức trong trầm cảm<br /> <br /> tỷ lệ cao hơn bị mắc rối loạn cảm xúc lưỡng<br /> <br /> của Beck, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy<br /> <br /> cực II [6]. Nhóm tuổi tập trung cao nhất là 25 -<br /> <br /> rằng có hầu hết bệnh nhân có cái nhìn tiêu<br /> <br /> 34 tuổi, kết quả này phù hợp với nghiên cứu<br /> <br /> cực về bản thân và cái nhìn tiêu cực về tương<br /> <br /> của Lê Thị Thu Hà với độ tuổi trung bình là<br /> <br /> lai của mình, số ít bệnh nhân có cái nhìn tiêu<br /> <br /> 42,34 ± 13,9 [7]. Nhóm bệnh nhân viên chức,<br /> <br /> cực về thế giới xung quanh.<br /> <br /> có trình độ trên phổ thông trung học chiếm<br /> <br /> Những bệnh nhân trầm cảm đều có thể<br /> <br /> chủ yếu phù hợp với nghiên cứu của Katie M<br /> <br /> thấy sự suy giảm trong quá trình xử lý cảm<br /> <br /> Douglas và cộng sự là 14,5 năm [8]. Qua đây<br /> <br /> xúc tích cực, họ ưu tiên xử lý thông tin phù<br /> <br /> có thể thấy rối loạn cảm xúc lưỡng cực tập<br /> <br /> hợp với cảm xúc thường được đề cập đến là<br /> <br /> trung nhiều nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, có công<br /> <br /> “khuynh hướng tiêu cực”, trong khi kích thích<br /> <br /> việc ổn định, trình độ trí thức cao.<br /> <br /> cảm xúc tiêu cực hoạt động như một nhân tố<br /> <br /> Về môi trường sống không có sự chênh<br /> lệch lớn về nhóm bệnh nhân nhưng tập trung<br /> <br /> gây gián đoạn tiềm tàng và làm cảm trở quá<br /> trình nhận thức cấp cao.<br /> <br /> chủ yếu ở nhóm bệnh nhân đã lập gia đình,<br /> <br /> Những nghiên cứu cấu trúc hình ảnh trên<br /> <br /> kết quả này cũng tương tự như những kết quả<br /> <br /> bệnh nhân trầm cảm điển hình có sự khác biệt<br /> <br /> nghiên cứu trước đó của Lê Thị Thu Hà: tỷ lệ<br /> <br /> ở hạnh nhân và thể tích não hồi hải mã, cho<br /> <br /> đang kết hôn 74,6%, chưa kết hôn 22,5% và<br /> <br /> thấy những thay đổi về hình thái học có thể<br /> <br /> ly dị/goá chiếm 2,8% [7].<br /> <br /> liên quan đến xu hướng tiêu cực [9]. Tương tự<br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm<br /> <br /> như vậy, hồi hải mã có thể tiếp tục củng cố xu<br /> <br /> những bệnh nhân mức độ vừa và nặng có<br /> <br /> hướng quá trình xử lý cảm xúc tiêu cực bằng<br /> <br /> loạn thần chiếm tỷ lệ cao hơn với 35,3% số<br /> <br /> cách giữ lại những thông tin (ví dụ kích thích<br /> <br /> bệnh nhân, chiếm tỷ lệ thấp hơn là số bệnh<br /> <br /> tiêu cực, nhận thức tiêu cực và kỳ vọng tiêu<br /> <br /> nhân trầm cảm mức độ nặng chiếm 29,4%.<br /> <br /> cực), sau đó điều hành hạnh nhân để đáp ứng<br /> <br /> Không có bệnh nhân nào là mức độ nhẹ, điều<br /> <br /> khác nhau đối với những kích thích tiêu cực<br /> <br /> này có thể lí giải là do bệnh nhân điều trị nội<br /> <br /> trong trường hợp bệnh nhân trầm cảm [10].<br /> <br /> trú nên thường giai đoạn vừa và nặng, còn<br /> giai đoạn nhẹ thường điều trị ngoại trú.<br /> Theo Lê Thị Thu Hà (2018), tỷ lệ phân bố<br /> <br /> Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy<br /> nhóm bệnh nhân trầm cảm nặng tỷ lệ có cái<br /> nhìn tiêu cực về bản thân, về tương lai và về<br /> <br /> bệnh nhân mức độ vừa là 46,5%, mức độ<br /> <br /> thế giới bên ngoài gặp cao hơn so với nhóm<br /> <br /> nặng là 29,6%, mức độ nặng có loạn thần là<br /> <br /> bệnh nhân trầm cảm mức độ vừa. Theo Beck,<br /> <br /> 116<br /> <br /> TCNCYH 117 (1) - 2019<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
22=>1