Luận văn

Đặc doanh karaoke trá hình - Một vấn đề nóng bỏng - Thực trạng

– Nguyên nhân - Giải pháp” tại Thị Trấn Tứ Hạ - Hương Trà -Huế

LỜI CẢM ƠN

Sau quá trình học tập và nghiên cứu hết sức nghiêm túc, tôi đã hoàn thành báo

cáo với chuyên đề: “Đặc doanh karaoke trá hình - Một vấn đề nóng bỏng - Thực trạng

– Nguyên nhân - Giải pháp” tại Thị Trấn Tứ Hạ - Hương Trà -Huế.

Tôi xin được gửi lời cám ơn tới Ban Chủ Nhiệm Khoa và tập thể các thầy cô giáo

trong Khoa Lịch Sử đã tạo điều kiện để chúng tôi có một kì thực tế bổ ích, đạt hiệu quả

cao. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo – TS. Nguyễn Xuân

Hồng và cô giáo Lê Thị Kim Dung đã tận tình chỉ bảo và chia sẽ cho chúng tôi những

kinh nghiệm trong quá trình thực tế tại địa bàn công tác cũng như trực tiếp hướng dẫn

tôi hoàn thành báo cáo này.

Do hạn chế về thời gian và trình độ nghiên cứu nên báo cáo này sẽ không tránh

khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo

và các bạn sinh viên. Đó sẽ là những ý kiến quý báu giúp tôi có thể rút kinh nghiệm và

hoàn thiện hơn trong các bài viết sau.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đông Hà, ngày 02 tháng 05 năm 2008

Sinh viên

Nguyễn Thị Phượng

MỤC LỤC

A-PHẦN MỞ BÀI

1.Lý do chọn đề tài………………………………………………………………

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn……………………………………………………

2.1. Ý nghĩa lý luận ………………………………………………………………

2.1. Ý nghĩa thực tiễn……………………………………………………………..

2.2.1. Đối với Nhà nước…………………………………………………………..

2.2.2. Đối với người dân………………………………………………………….

2.2.3. Đối với bản thân……………………………………………………………

3. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………

3.1. Mục tiêu tổng quát…………………………………………………………...

3.2. Mục tiêu cụ thể……………………………………………………………….

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu………………………………..

4.1. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………..

4.2.Khách thể nghiên cứu…………………………………………………………

4.3.Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………………

5. Câu hỏi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu……………………………..

5.1. Câu hỏi nghiên cứu…………………………………………………………...

5.2.Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………

5.2.1.Phương pháp luận…………………………………………………………….

5.2.2.Phương pháp thu thập thông tin………………………………………………

5.2.2.1.Phương pháp quan sát……………………………………………………….

5.2.2.2.Phương pháp phân tích tài liệu………………………………………………

5.2.2.3.Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân………………………………………..

5.2.2.4.Phương pháp thảo luận tổ chức cuộc họp …………………………………..

5.2.2.5.Phương pháp ma trận xếp loại ưu tiên………………………………………..

5.2.2.5.Phương pháp thống kê……………………………………………………….

B-PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu………………………………………………...

2. Tổng quan về địa điểm nghiên cứu………………………………………………

2.1. Khái quát đặc điểm tình hình địa bàn Thị Trấn Tứ Hạ………………………….

2.2. Tình hình phát triển kinh tế, những thuận lợi và khó khăn………………………

2.2.1.Tình hình phát triển kinh tế……………………………………………………….

2.2.1.1.Về dịch vụ………………………………………………………………………

2.2.1.2.Về tiểu thủ công nghiệp………………………....................................................

2.2.1.3.Về nông nghiệp…………………………………………………………………

2.2.2.Những thuận lợi và khó khăn của Thị Trấn……………………………………….

2.2.2.1.Những thuận lợi…………………………………………………………………

2.2.2.2.Những khó khăn………………………………………………………………...

2.3. Tình hình văn hoá- xã hội…………………………………………………………..

2.3.1.Về giáo dục………………………………………………………………………..

2.3.2.Hoạt động VHVN-TDTT………………………………………………………....

2.3.3.Về công tác y tế…………………………………………………………………...

2.3.4.Công tác dân số - gia đình và trẻ em……………………………………………...

2.3.5.Thực hiện công tác chính sách……………………………………………………

2.3.6.Thực hiện công tác xã hội ………………………………………………………..

2.4.Công tác nội chính…………………………………………………………………

2.4.1.Công tác ATCT- TTATXH………………………………………………………

2.4.1.1.Tình hình ANCT………………………………………………………………..

2.4.1.2.Tình hình TTATXH…………………………………………………………….

2.4.2.Công tác quốc phòng……………………………………………………………...

2.4.3.Công tác tư pháp hộ tịch …………………………………………………………

2.5.Những tồn tại hạn chế của Thị Trấn……………………………………………….

2.5.1.Về lĩnh vực kinh tế………………………………………………………………

2.5.2.Về lĩnh vực văn hoá xã hội ………………………………………………………

2.5.3.Về lĩnh vực nội chính……………………………………………………………..

2.6.Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội năm 2008………………

2.6.1.Về kinh tế………………………………………………………………………….

2.6.2.Về văn hoá xã hội ………………………………………………………………...

2.6.3.Về công tác nội chính……………………………………………………………..

CHƯƠNG 2- KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1.Tổng quan chung về dịch vụ karaoke trá hình ở Việt Nam…………………………

2. Thực trạng về dịch vụ karaoke trá hình ở Thị Trấn Tứ Hạ………………………….

2.1.Qúa trình hoạt động của các dịch vụ karaoke trá hình……………………………...

2.2.Những bức xúc của người dân xung quanh dịch vụ này…………………………..

3.Nguyên nhân tồn tại của dịch vụ và lý do đưa con người đến với nó………………...

3.1.Nguyên nhân tồn tại…………………………………………………………………

3.2.Lý do thu hút con người…………………………………………………………….

4.Các giải pháp nhằm hạn chế, xoá bỏ hoạt động của các loại hình này………………..

4.1. Đối với Nhà Nước…………………………………………………………………..

4.2. Đối với chính quyền địa phương…………………………………………………

4.3. Đối với chủ quán……………………………………………………………………

4.4. Đối với người dân………………………………………………………………….

4.5. Đối với VTN/TN…………………………………………………………………..

CHƯƠNG 3 - KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1.Kết luận………………………………………………………………………………

2.Khuyến nghị………………………………………………………………………….

PHỤ LỤC – TÀI LIỆU THAM KHẢO

A- PHẦN MỞ BÀI

1.Lý do chọn đề tài.

Từ ngàn xưa cho đến nay hoạt động giải trí được xem như là món quà tinh thần

trong đời sống xã hội mỗi con người chúng ta. Nó là nguồn động lực lớn đem con

người đến với sự thư giãn, sảng khoái sau mỗi giờ làm việc căng thẳng, tạo dược bầu

không khí gần gũi, thân thiện, thoải mái giữa mọi người với nhau, nó tạo được sự tự

tin hưng phấn để có thể làm việc được tốt hơn. Đồng thời thông qua hoạt động giải trí,

đó là cách thức để truyền đạt, chia sẽ kiến thức, kinh nghiêm, kĩ năng cho nhau. Đặc

biệt cũng thông qua hoạt động giải trí, nó sẽ tăng cường sức khoẻ cho mọi người trong

xã hội. Như vậy, hoạt động giải trí có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống tinh

thần của mỗi con người chúng ta.

Karaoke là một loại giải trícó thể giải toả stress sau một ngày làm việc mệt mỏi,

căng thẳng, những người yêu thích ca hát có thểcoi karaoke là nơi để “khoe” giọng hát

hay của mình. Ngoài ra, đây còn là địa điểm lý tưởng để các bạn trẻ có thể tổ chức

sinh sinh nhật, những cuộc thi giọng hát hay giữa các nhóm bạn bè với nhau. Tuy

nhiên, hiện nay một số ngưòi đã lợi dụng karaoke để mở các dịch vụ khác nhằm kiếm

thêm lợi nhuận. Karoke “ôm” hay còn gọi karaoke trá hình, đồi trụy là một trong

những hình thức đó, nó đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống mỗi con người trong xã

hội, đặc biệt là đối với các lứa tuổi VTN/TN đồng thời nó cũng ảnh hưởng không nhỏ

đến các quán karaoke mang tính chất lành mạnh.

Đến với Thị Trấn Tứ Hạ - Hương Trà - Huế, tôi thật sự bất ngờ trước sức mạnh

của các loại hình giải trí karaoke, đặc biệt là các quán kinh doanh karaoke “ôm”. Là

một Thị Trấn sôi động và khá phát triển, đời sống con người cũng khá cao. Do đó nhu

cầu về đời sống tinh thần của họ cũng rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là nhu cầu

“hát” lại càng cao.Vì vậy các quán karaoke mọc lên rất nhiều. Nhìn vào bề ngoài Thị

Trấn, người ta chỉ có thể thấy được bề nổi của nó chính là các quán kinh doanh

karaoke. Lúc đầu, các quán này mọc lên với tính chất lành mạnh, phục vụ nhu cầu

lành mạnh của con người nhưng bởi lòng tham của con người là “vô đáy”, họ biến các

dịch vụ lành mạnh này thành các dịch vụ không lành mạnh nhằm kiếm thêmlợi nhuận.

Mới nhìn thấy thì ai cũng tưởng đó là những quán bình thường, lành mạnh nhưng thật

sự bước vào trong quán và nghe được những bức xúc của người dân cùng những lần

chúng tôi quan sát được thì chúng tôi mới bang hoàng bởi đây là những quánkaraoke

không lành mạnh, là những quán karaoke “ôm”, mang tính chất trá hình, đồi truỵ

Những chiếc biển bên ngoài chỉ mang tính chất minnh hoạ mà thôi.

Trong những năm qua, một trong những nội dung cơ bản đã được xác định nhằm

xoá bỏ triệt để các loại hình hoạt động không lành mạnh, mang tính chất trá hình, đồi

truỵ để đảm bảo ổn định trật tự xã hội. Đây được xác định là một chương trình, nội

dung trọng điểm và có ý nghĩa lớn đối với sự thành công của chiến lược chống các tệ

nạn xã hội của quốc gia Việt Nam.

Từ việc triển khai các chươnng trình, nội dung ở trên, CA Thị Trấn kết hợp với

phòng văn hoá thông tin Huyện đã tích cực xây dựng các phương án hoạt động, xử lý

vi phạm đối với các dịch vụ kinh doanh không lànhv mạnh này và đã đạt được nhiều

kết quả to lớn: Một sốc quán đã được xoá bỏ, nhận thức của con người về vấn đề này

được nâng cao hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một số quán vẫn còn lén lut hoạt

động khi không có sự kiểm soát của CA Thị Trấn và CA huyện vẫn còn sơ hở đới với

một số quán, do đó đã tạo điều kiện cho các quán này lien tục hoạt động dù đã bị xử

phạt nhiều lần. Đây chính là một khó khăn lớn nhất đối với CA Thị Trấn và CA

huyện. Do vậy, các nhà lãnh đạo, các cấp ngành, những người làm công tác xã hội và

công tác thanh niên luôn trăn trở để tìm ra những giải pháp phù hợp với mục tiêu: xoá

bỏ triệt để các loại hình karaoke trá hình đồi truỵ trong thời đại ngày nay.

Do tình thực tiễn của vấn đề như vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “

Đặc doanh karaoke trá hình - một vấn đề nóng bỏng - thực trạng – nguyên nhân - giải

pháp” tại khu vực 7 – TT Tứ Hạ - Hương Trà - Huế.

2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

2.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sang tỏ một số lý thuyết xã hội học như:

Thuyết hành động xã hội, thuyết lựa chon hành vi, thuyết nhân loại học….

2.3. Ý nghĩa thực tiễn

2.2.1. Đối với Nhà Nước

Kết quả nghiên cứu có thể giúp cho quá trình hoạch định, điều chỉnh và bổ sung

những chính sách, chiến lược về các tệ nạn xã hội nói chung và các dịch vụ karaoke trá

hình, đồi truỵ nói riêng.

2.2.2. Đối với người dân

Những kết quả thu thập được từ việc nghiên cứu góp phần giúp cho người dân, đặc

biệt là vị thành niên, thanh niên hiểu được tác hại của các loại hình dịch vụ này và làm

cho họ tự điều chỉnh mình và từ bỏ với con đường đến với các loại hình giải trí không

lành mạnh này.

2.2.3. Đối với bản thân

Qua đợt thực tế này, đặc biệt là việc đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề kinh

doanh karaoke trá hình đồi truỵ - thực trạng – nguyên nhân và giải pháp đã giúp cho

tôi nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề đồng thời đây là một cơ hội tốt để tôi có thế áp

dụng những lý thuyết và phương pháp đã học vào thực tiễn của cuộc sống. Từ đó giúp

tôi có những kinh nghiệm hơn trong những cuộc nghiên cứu tiếp theo và trong quá

trình công tác sau này.

3.Mục tiêu nghiên cứu

3.1.Mục tiêu tổng quát

Nghiên cứu này được thực hiện với một nhận thức rõ rang rằng: Cuộc sống con

người đang cần được giải trí sau những ngày làm việc mệt mỏi căng thẳng. Nhưng loại

hình giải trí này được nghiên cứu với một tính chất đặc biệt: Karaoke “ôm” mang tính

chất trá hình đồi truỵ.

Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu này chính là để cho các cấp, các ngành, địa

phương có những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và dập tắt triệt để các loại hình giải

trí không lành mạnh này đem lại cho con người sự giải trí lành mạnh một cách thoải

mái, vui vẻ có ích.

3.2. Mục tiêu cụ thể

- Tìm hiểu và mô tả quá trình hoạt động của các quán kinh doanh không lành

mạnh.

- Tìm hiểu các cách thức quản lý, các biên bản quyết định xử phạt hành chính

của công an thị trấn.

- Xem xét hệ thống quản lý của Nhà nước đối với các loại hình dịch vụ không

lành mạnh này.

- Kết hợp giữa hình thức quản lý hệ thống và thực tiễn.

- Tìm hiểu các nguyên nhân tồn tại của một số quán “ôm”.

- Giảm bớt các tệ nạn xã hội.

- Quản lý tốt hơn đời sống xã hôị, trật tự an ninh của thị trấn mang lại cuộc sống

ổn định cho người dân.

- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp lên chính quyền để chính quyền có những

biện pháp phù hợp nhằm xoá bỏ triệt để các dịch vụ Karaoke trá hình đồi truỵ này.

- Dự báo những xu hướng biến đổi trong nhận thức của những người hoạt động

trong các dịch vụ này.

- Tìm hiểu những bức xúc của người dân xung quanh dịch vụ này.

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đặc doanh Karaokê trá hình - một vấn đề nóng bỏng, thực trạng nguyên nhân và

giải pháp.

4.2. Khách thể nghiên cứu

Các cán bộ cụm cư dân ở xung quanh các dịch vụ.

4.3. Phạm vị nghiên cứu

- Không gian: Khu vực 7 - thị trấn Tứ Hạ - huyện Hương Trà – TTH

- Thời gian: Từ ngày 14 đến ngày 24/4/2008.

5. Câu hỏi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.

5.1. Câu hỏi nghiên cứu

- Hệ thống quản lý các dịch vụ giải trí không lành mạnh của Nhà nước đang

được triển khai đối với thị trấn như thế nào?

- Hệ thống quản lý các dịch vụ giải trí không lành mạnh của Công an thị trấn đối

với thị trấn như thế nào?

- Công an thị trấn đã xử lý vi phạm hành chính của các dịch vụ này ra sao?

- Tại sao đã bị xử phạt nhiều lần mà các dịch vụ kinh doanh này vẫn còn hoạt

động? đã có những ai đứng sau bảo kê, bao che những vụ xử lý này?

- Những bức xúc của người dân xung quanh các dịch vụ này và những mâu

thuẩn giữa người dân với các dịch vụ này như thế nào?

- Thị trấn và con người ở đây đã thay đổi như thế nào khi các dịch vụ này nổi

lên?

- Những người phục vụ các dịch vụ này chủ yếu đến từ đâu? Hoạt động của các

dịch vụ này như thế nào? Thời gian hoạt động ra sao?

- Những biện pháp trước mắt và lâu dài của công an thị trấn, Phòng văn hoá

thông tin huyện đối với các dịch vụ không lành mạnh này?

- Những dịch vụ này đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân như thế nào? đặc

biệt là đối với các lứa tuổi VTN?

- Những biện pháp cưỡng chế nào đã đuợc áp dụng ?

5.2.Các phương pháp nghiên cứu

5.2.1.Phương pháp luận

Báo cáo này sủ dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử làm nền tảng cho toàn bộ quá trình nghiên cứư vấn đề. “Đặc

doanh karaoke trá hình - một vấn đề nóng bỏng - thực trạng – nguyên nhân và giải

pháp”

“Là thế giới quan của chủ nghĩa Mác-lê nin, chủ nghĩa duy vật biện chứng giải

thích các hiện tượng và quá trình xã hội trong mối quan hệ qua lại, trong sự vận động

và biến đổi không ngừng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là sự mở rộng những nguyên lý

của chủ nghĩa duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu cuộc sống xã hội, sự áp dụng

những nguyên lý ấy vào việc nghiên cứu cuộc sống xã hội cũng như nghiên cứu các

hình thức sinh hoạt xã hội…(chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện

chứng)

Chính vì vậy, khi nhìn nhận và đánh giá về thực trạng, nguyên nhân và giải pháp đối

với đặc doanh karaoke trá hình, chúng ta cần phải xem xét nó trong các mối quan hệ

với các quá trình xã hội khác, phải tim ra và phân tích được những nguyên nhân, nhân

tố kinh tế xã hội tác động đến thực trạng đó

5.2.2.Các phương pháp thu thập thông tin

5.2.2.1.Phương pháp quan sát

Trong thời gian thực tế tại khu vực 7 - TTTứ Hạ - Hương Trà - Huế, tôi đã tiến

hành quan sát quá trình hoạt động của các dịch vụ kinh doanh karaoke “ôm”, không

lành mạnh này đồng thời chúng tôi cũng đã tiến hành quan sát quá trình chính quyền

xử lý vi phạm của các dịch vụ này và cũng đã chứng kiến được những bức xúc của

người dân xung quanh. Với việc quan sát này đã có ý nghĩa rất lớn trong việc đưa ra

những kết luận cuối cùng cho đề tài nghiên cứu này.

5.2.2.2.Phương pháp phân tích tài liệu

-Đọc và phân tích những tài liệu về các tệ nạn xã hội, trật tự an toàn xã hội cùng

các loại hình giải trí có liên quan

-Đọc và phân tích báo cáo, biên bản xéy xử của CA TT đối với các loại hình

kinh doanh karaoke không lành mạnh

-Tham khảo các quyết định xử phạt hành chính của công an thị trấn

-Đọc và phân tích tài liệu về việc gia hạn giấy phép kinh doanh karaoke

-Đọc và phân tích báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm

2007 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2008

-Đọc và phân tích một số bài báo tạp chícó liên quan đến karaoke trá hình nói

riêng và các dịch vụ văn hoá kinh doanh không lành mạnh nói chung

Từ việc phân tích và đọc những tài liệu nói trên mà tôi đã có được những nguồn

thông tin thật quý giá và hiệu quả để thực hiện đề tài nghiên cứu này

5.2.2.3.Phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân

Trong thời gian thực tế nghiên cứu đề tài tại khu vực 7- TT Tứ Hạ - Hương Trà -

Huế, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 10 người, trong đó có 5 người dân, 1 thanh

niên, 1 thiếu niên, 2 người khách hay đến các dịch vụ này và 1 CA Thị trấn

Qua quá trình phỏng vấn này, chúng tôi phần nào thấy được những bức xúc của

người dân, sự thiếu nhận thức về vấn đề này của thanh thiếu niên và sự khó xử của CA

thị trấn đối với các dịch vụ kinh doanh không lành mạnh karaoke “ôm”.

5.2.2.4.Phương pháp thảo luận, tổ chức họp dân

Trong quá trình thực tế tại địa phương về vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành tiếp

xúc với 10 người dân trong khu vực xunng quanh các dịch vụ này. Tổ chức 1 cuộc họp

dân nhằm lấy ý kiến những bức xúc của người dân vào vấn đề hoạt động của các dịch

vụ karaoke “ôm”. Qua cuộc họp dân này, chúng tôi đã tiếp thu được nhiều ý kiến đề

xuất lên chính quyền địa phươngvà có điều kiện để hoàn thành báo cáo thực tế với

chuyên đề này

5.2.2.5.Phương pháp ma trận xếp loại ưu tiên

Phương pháp này để sắp xếp một vấn đề theo một trật tự nhất định dựa trên các tiêu

chí đánh giá đã được cộng đồng đưa ra và thống nhất

Thông qua quá trình họp dân, chúng tôi đã lấy được những bức xúc của người dân

xung quanh vấn đề này. Sau đó, chúng tôi đã phát phiếu điều tra trên đó đã ghi những

bức xúc của người dân, yêu cầu họ chấm điểm cho mỗi vấn đề bức xúc.Qua đây,người

dân đưa ra được vấn đề bức xúc nhất.Qua đây, chúng tôi tiếp thu được và nhờ chính

quyền giải quyết. Đây là cơ sở để cho chúng tôi hoàn thành báo cáo này

5.2.2.6.Phương pháp thống kê

Để nghiên cứu vấn đề này được chính xác và có kế hoạch tốt cần phải bảo đảm công

tác thông tin về vấn đề được đầy đủ và chính xác.Trong việc nghiên cứu vấn đề này,

tôi đã sử dụng phương pháp thống kê nhằm để kiểm tra lại lượng thông tin đã được

cung cấp chính xác hay hay không? Qua đó, tôi đã tiến hành tổng kết thông tin, viết

báo cáo nghiên cứu. Vì vấn đề mang tính chất nóng bỏng, do đó việc nghiên cứu của

chúng tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn.

Như vậy, trên đây là những phương pháp nghiên cứu đã được chúng tôi sử dụng

trong việc nghiên cứu đề tài nóng bỏng này.

B- PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

Như chúng ta đã biết, một trong những hình thức để dẫn đến con đường tệ nạn xã

hội chính là các dịch vụ kinh doanh không lành mạnh. Ngày nay, các dịch vụ này nổi

lên hàng đầu như: Karaoke trá hình, đồi truỵ ,hớt tóc trá hình, cà phê trá hình…Ở đâu

chúng ta cũng có thể bắt gặp các loại hình kinh doanh này. Nó chiếm ưu thế hơn hẳn

so với các dịch vụ kinh doanh lành mạnh. Với thời gian có hạn, quá trình thực tế của

chúng tôi chỉ tập trung vào một vấn đề quan trọng nóng bỏng: “Đặc doanh karaoke tra

hình- một vấn đề nóng bỏng - thực trạng – nguyên nhân và giải pháp”. Đây là một loại

hình kinh doanh không lành mạnh, karaoke mang tính chất lợi dụng “biển bao” để

kiếm thêm lợi nhuận. Đây là một trong những hình thức trá hình, đồi truỵ, đã và đang

đưa đẩy thanh thiếu niên vào con đường tệ nạn xã hội, nhất là con đường mại dâm.

Hơn ai hết, những người chủ kinh doanh các dịch vụ không lành mạnh này, họ đều

biết được tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Nhưng vì muốn kiếm thêm lợi nhuận nên

bản chất con người của họ bị vấy bẩn, họ tự biến mình thành những ông chủ, bà chủ

“tốt bụng” với mục đích đầu tiên tạo công ăn việc làm cho những thanh thiếu niên

không có việc làm. Nhưng với mục đích đầu tiên đó, họ đã dần biến những thanh thiếu

niên này đi vào con đường làm nghề mại dâm để kiếm thêm tiền cho họ. Những dịch

vụ kinh doanh này nhìn vào bề ngoài chúng ta cứ tưởng đó là những dịch vụ bình

thường lành mạnh để giải trí. Nhưng nếu tận mắt chứng kiến bên trong của quán,

chúng tôi đã thật sự thấy được tính chất nghiêm trọng của vấn đề này. Đó là những

quán karaoke “ôm” trá hình đồi truỵ. Bên trong, các cô gái với “quần áo ngắn hơn

không thể ngắn được nữa” đang âu yếm, ôm hôn các chàng trai rất “tự nhiên”, đồng

thời các băng hình đồi truỵ cũng được bật lên để khêu gợi các nhu cầu của các chàng

trai. Khi các chàng trai có nhu cầu, các cô gái sẽ đáp tại một chỗ nào đó để hoạt động

.Với tính chất nghiêm trọng và tràn lan của các dịch vụ kinh doanh không lành mạnh

này đã thu hút chúng tôi tham gia vào đề tài nghiên cứu: “Đặc doanh karaoke - một

vấn đề nóng bỏng - thực trạng – nguyên nhân và giải pháp”

Tại thị trấn tứ hạ, điểm thực tế của chúng tôi, các loại hình dịch vụ kinh doanh

không lành mạnh này cũng rất nhiều, rất phong phú và đa dạng với các biển bao khác

nhau. Nhưng dịch vụ kinh doanh karaoke “ôm” là chủ yếu. Với quá trình thực tế tai

Thị trấn, chúng tôiđã phần nào quan sát được quá trình hoạt động của một số dichj vụ

và thấy được tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Do đó, chúng tôi đã quyết định chọn

đề tài nghiên cứu này qua quá trình tham khảo nhiều tài liệu đã được thu thập và quá

trình chúng tôi quan sát quá trình hoạt động tại các quán. Đây chính là cơ sở để chúng

tôi có được những kinh nghiệm và hoàn thành được báo cáo với tính chất nghiêm

trọng của vấn đề.

Karaoke “ôm” trá hình, đồi truỵ không chỉ là vấn đề nóng bỏng, có tính chất

nghiêm trọng không chỉ riêng đối với thị trấn mà đây là một vấn đề có tính chất hang

đầu mà Đảng và Nhà Nước ta đang quan tâm và đang có những biện pháp phù hợp để

xử lý.

2.Tổng quan về địa điểm nghiên cứu

2.1.Khái quát đặc điểmtình hình địa bàn Thị Trấn Tứ Hạ

TT Tứ Hạ là địa bàn trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của huyện Hương Trà,

cách thành phố Huế 17 km, gồm có 10 khu vực dân cư, mỗi khu vực có đặc điểm kinh

tế, xã hội khác nhau. Từ khu vực 1 đến khu vực 6, hoạt động nông nghiệp là chủ yếu

nhưng từ khu vực 7 đến khu vực 10, đây là những khu vực trung tâm của thị trấn, đặc

biệt là khu vực 7 và khu vực 8, hoạt động kinh doanh, buôn bán và công chức nhà

nước là chủ yếu. Vì vậy,dựa vào các đặc điểm riêng của từng khu vực mà chính quyền

có các biện pháp phát triển phù hợp.

-TT Tứ Hạ có hơn 70 cơ quan, xí nghiệp của trung ương, tỉnh, huyện đóng trên địa

bàn, đặc biệt có nhà máy xi măng LUKS việt nam, lien quan đến yếu tố người nước

ngoài, diện tích đất tự nhiên là 845,4 ha

-Về dân số có 1921 hộ, hang ngày có hang trăm người qua lại làm ăn buôn bán. Có

102 hộ với 386 khẩu theo đạo phật và theo đạo thiên chúa giáo. Là địa bàn được

huyện xác định là trọng điểm về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có 2 chùa và

2 niệm phật đường.

- Về hệ thống chính trị: Đảng bộ thị trấn có 14 chi bộ trực thuộc, trong đó có: 2 chi bộ

quân sự - công an, 2 chi bộ trường học và 10 chi bộ khu vực dân cư, có 222 đảng viên

và 349 đảng viên đang sinh hoạt nơi cư trú trên địa bàn thị trấn. Đảng bộ thị trấn nhiều

năm liền được công nhận là Đảng bộ trong sạch vững mạnh (1999-2007)

-Mặt trận và các đoàn thể quần chúng

+ Mặt trận thị trấn có 10 ban công tác mặt trận 10 khu vực dân cư

+ Hội cựu chiến binh gồm có 9 chi hội với 203 hội viên

+ Hội phụ nữ gồm có 10 chi hội với 972 hội viên

+Hội nông dân gồm có 10 chi hội với 349 hội viên

+ Đoàn thanh niên gồm có 13 chi đoàn với 218 đoàn viên

2.2.Tình hình phát triển kinh tế, những thuận lợi và khó khăn của thị trấn

2.2.1.Tình hình phát triển kinh tế

Trong những năm qua tình hình kinh tế thị trấn tiếp tục phát triển, cở sở hạ tầng đô

thị từng bước được đầu tư xây dựng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh

doanh dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động,

đời sống nhân dân Thị trấn từng bước được nâng lên.

2.2.1.1. Về dịch vụ:

Ngày càng được phát triển, mở rộng các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và

đời sống của nhan dân thị trấn như dịch vụ vận tải, dịch vụ nhà ở

2.2.1.2. Về tiểu thủ công nghiệp

Là địa bàn trung tâm cụm công nghiệp Hương Trà đã được hình thành, các nhà

đầu tư từng bước vào đầu tư xây dựng các nhà máy trên địa bàn đã tạo điều kiện phát

triển các ngành nghề dịch vụ, giải quyết việc làm cho ngườ lao động. Các ngành nghề

thủ công nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân ngày càng phát triển đa dạng.

2.2.1.3. Về nông nghiệp

Trong sản xuất nông nghiệp đã từng bướcchuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Tổng diện tích gieo trồng hang là 306,57 ha, trong đó lúa 170,68 ha, về chuyển đổi cơ

cấu cây trồng đã từng bước thay đổi đưa giống lúa cấp 1 vào sản xuất đến nay đạt 95%

diện tích. Tổng sản lượng lương thực có hạt được giữ vững ổn định hang năm 883 tấn.

Về cây sắn: chuyển sắn công nghiệp KM94 năng suất cao chiếm 100% diện tích. Về

cây lạc mới L14, L18 chiếm 52 % diện tích

2.2.2.Những thuận lợi và khó khăn của thị trấn

2.2.2.1. Những thuận lợi

-Đời sống của nhân dân thị trấn từng bước được ổn định, nhân dân có truyền

thống cách mạng đoàn kết gắn bó xây dựng quê hương. Địa bàn thị trấn thuận lợi cho

việc xây dựng và quản lý lực lượng dân quân tự vệ

- Được sự chỉ đạo trực tiếp của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm

tạo điều kiện về tinh thần lẫn vật chất và chi phí kinh phí hoạt động cho lực lượng dân

quân tự vệ

- Sự phối hợp vận động của mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội

- BCHQS đã nổ lực trong công tác tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền

- Cán bộ chỉ huy quân sự tự giác học tập nâng cao trình về mọi mặt

- Thường xuyên quan tâm củng cố và xây dựng lực lượng dân quân tự vệ,

thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho lực lượng dân

quân tự vệ

2.2.2.2.Những khó khăn

- Nền kinh tế thị trấn đang phát triển chưa mạnh, một số mặt chưa vững chắc,

đời sống của một bộ phận dân cư đang còn gặp rất nhiều khó khăn, một bộ phận nhân

dân chưa có việc làm ổn định

- Đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên đang là vấn đề bức xúc đặt

ra, ý thức tuân thủ pháp luật đang còn hạn chế

- Các thế lực luôn tìm cách chống phá ta trên mọi lĩnh vực, phá hoại công cuộc

đổi mới của Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ nội bộ nhân dân, gây hoang mang trong tư

tưởng của nhân dân

2.3. Tình hình văn hoá xã hội

2.3.1. Về giáo dục

Kết thúc năm học 2007-2008, đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc nói không

với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Số lượng học sinh huy

động đến lớp ngay một đông đảo. Tổ chức tặng quà, gặp mặt cho các em thi đỗ vào các

trường ĐH, CĐ. T ổ chức tốt các hoạt động ngày nhà giáo Việt Nam 20/11

2.3.2. Hoạt động VHVN-TDTT

-Đài truyền thanh thị trấn được xây dựng và hoạt động bước đầu có hiệu quả,

các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và các thông tin của thị trấn được

truyền tải đến nhân dân kịp thời

- Các hoạt động VHVN- TDTT được duy trì, làm tốt công tác trực quan tuyên

truyền nhân dịp các ngày lễ, tết, tích cực tham gia các hoạt động văn hoá TDTT ở

huyện, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư cải tạo khu vui chơi thanh thiếu

niên đến nay đã khai trương đưa vào hoạt động, làm mới 6 cổng chào, bình xét gia

đình văn hoá, gia đình đạt chuẩn văn hoá, tiến hành kiểm tra 17 điểm kinh doanh, xử lý

3 trường hợp vi phạm

2.3.3. Về công tác y tế

Thực hiện có hiệu quả mục tiêu, chương trình y tế quốc gia, quốc tế, làm tốt cônng

tác chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, tiếp tục thực hiện khám chữa bệnh miễn phí

cho trẻ dướ 6 tuổi, quan tâm đến công tác dự phòng, đã chủ động phòng dịch, tổ chức

quán triệt vệ sinh an toàn thực phẩm cho các chủ kinh doanh…

2.3.4. Công tác dân số, gia đình và trẻ em

Tăng cường công tác tuyên truyền lồng ghép dịch vụ, chăm sóc sức khoẻ sinh

sản KHHGĐ với trên 563 lượt phụ nữ tham gia, phối hợp khám bệnh 4 đợt cho 1020

lượt phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ . Tuyên truyền và vận động nhân dânthực hiện tốt

pháp lệnh dân số.

2.3.5.Thực hiện công tác chính sách

Quan tâm thực hiện công tác chính sách xã hội, công tác “đền ơn đáp nghĩa”,

“uống nước nhớ nguồn”. Hỗ trợ kinh phí tu sữa nhà cho các gia đình chính sách, tặng

sổ tiết kiệm cho con thương binh vượt khó học giỏi nhân kỉ niệm 60 năm ngày thương

binh liệt sĩ (27/7)

2.3.6. Thực hiện công tác xã hội

Thường xuyên theo dõi đời sống nhân dân không có trường hợp thiếu đói xảy ra.

Xét trợ cấp khó khăn cho các đối tượmh chính sách xã hội trong dịp lễ, tết với tổng

kinh phí 42.340.000 đồng, phân phồi hang cứu trợ lũ lụt cho nhân dân với 7 tấn gạo và

1,7 tấn mì ăn liền, áo quần may sẵn với tổng trị giá trên 100 triệu đồng…

2.4. Công tác nội chính

2.4.1. Công tác ANCT-TTATXH

-Tình hình hoạt động lợi dụng tôn giáo trên địa bàn để chống phá có những diễn

biến phức tạp nhưng đã phối hợp kịp thời xử lý nên an ninh chính tri vẫn đựoc

giữ vững

-Trong năm qua đã xảy ra 19 vụ, giản4 vụ so với năm 2006 chủ yếu là trộm cắp

tài sản, đánh bạc, uống rượu gây rối trật tự công cộng và một trường hợp tự sát.

2.4.2. Công tác quốc phòng

Tiếp tục xây dựng lực lượng dân quân tự vệ , công tác phát triển lực lượng cơ

động và lực lượng chiến đấu tại chổ ngày càng có chất lượng. Tổ chức học tập chính

trị, giáo dục kiến thức quốc phòng.

2.4.3.Công tác tư pháp hộ tịch

Hoạt động của ban tuyên truyền giáo dục pháp luật trên thị trấn có nhiều cố gắng

tích cực, làm tốt công tác tuyên truyền trên địa bàn KVDC.

2.5. Những tồn tại của thị trấn

2.5.1. Về lĩnh vực kinh tế

- Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ hang hoá chưa phong phú, buôn bán kinh

doanh còn nhỏ lẻ, quy mô dịch vụ phát triển chưa mạnh

- Thực hiện chương trình phát triển tiểu thủ công nghiệp chưa tập trung đúng

mức nên tốc độ phát triển của dịch vụ còn hạn chế

- Thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng chưa chuyển biến tích cực

nhất là trồng rau hiệu quả chưa cao

- Công tác chỉ đạo sản xuất của UBNN chưa thường xuyên

- Công tác quản lý quy hoạch, quản lý xây dựng thiếu chặt chẽ, xử lí vi phạm có

mặt chưa kịp thời, ý thức tự giác chấp hành việc thực hành quy hoạch và xây

dựng trong nhân dân chưa nghiêm túc nên tình hình xây trái phép còn xảy ra

- Một bộ phận nhỏ cán bộ nhân dân thiếu gương mẫu

- Một số công trình thủ tục thực hiện cong chậm so với kế hoạch đã đề ra

- Tình hình thu chi ngân sách còn mất cân đối

2.5.2. Về lĩnh vực văn hoá xã hội

- Tình hình đạo đức ở một bộ phận học sinh thanh thiếu niên chưa tốt. Tình trạng

học sinh bỏ học giữa chừng còn xảy ra

- Quản lí các hoạt động văn hoá thiếu chặt chẽ còn xảy ra một số hiện tượng kinh

doanh không lành mạnh

- Tình hình vi phạm sinh con thứ 3 còn tăng

2.5.3. Về lĩnh vực nội chính

- Sự phối hợp thực hiện phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc chưa nhịp

nhàng thiếu chặt chẽ, trách nhiệm giữa gia đình nhà trường và xã hội còn thiếu tích cực

tro9ng việc nuôi dạy con cái nhất là số đối tượng thanh thiếu niên đang có tình trạng

hư hỏng nên xảy ra trường hợp vi phạm

- Việc xử lí tình hình vi phạm của công an thị trấn một số vụ chưa kịp thời và

thiếu cương quyết, hoạt động của cảnh sát khu vực còn nhiều hạn chế thiếu sâu sát

- Công tác quản lí thanh niên trong độ tuổi nhập ngũ còn thiếu chặt chẽ còn chủ

quan, hoạt động của tổ hoà giải chưa cao

2.6. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế xã hội năm 2008 của thị trấn

2.6.1. Về kinh tế

2.6.1.1. Về thương mại dịch vụ

- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển dịch và khai thác có hiệu quả lợi thế đại bàn trung

tâm. Tạo mọi điều kiện thu hút các thành phần kinh tế vào đầu tư các loại hình dịch vụ

kinh doanh, buôn bán trên địa bàn, mở rộng kinh doanh ở chợ. Tăng cường công tác

quản lí thị trường, bình ổn giá, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. tiếp tục chuẩn bị mọi

thủ tục đề nghị xây dựng mở rộng chợ giai đoạn 2 đảm bảo nhu cầu phát triển của nhân

dân trên địa bàn.

2.6.1.2. Về tiểu thủ công nghiệp.

- Quan tâm tạo mọi điều kiện, khuyến khích các đơn vị tiểu thủ công nghiệp

hiện có mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Tranh thủ vốn khuyến nông để tạo điều

kiện mở rộng sản xuất nghiên cứu khảo sát du nhập các ngành nghề mới. Phối hợp với

các cấp các ngành đẩy mạnh tiến độ hạ tầng khu công nghiệp, điều kiện mặt bằng…

2.6.1.3 Về phát triển nông nghiệp toàn diện

- Tập trung đẩy mạnh hơn nữa chương trình trọng điểm về chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế. Tiếp tục tạo điều kiện cho nhân dân trồng rau màu

có giá trị kinh tế, khảo sát xây dựng các mô hình để nhân điển hình, chuyên canh một

số vùng trồng ra xanh, trồng hoa, trồng cây cảnh phù hợp với địa phương để tăng sản

lượng hàng hoá. phối hợp với các ban ngành cấp huyện khảo sát xây dựng khu chăn

nuôi tập trung ở khu vực dân cư một để khuyến khích nhân dân đẩy mạnh phát triển

chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp nhằm nâng cao năng suất và bảo đảm vệ sinh

môi trường.

2.6.1.4. Về quản lí chỉnh trang đô thị

- Thực hiện tốt các quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt đồng thời phối hợp các

ban ngành soát xét, bổ sung quy hoạch thị trấn thành trung tâm thị xã trong tương lai

và tham gia quy hoạch khu công nghiệp mở rộng. Tiếp tục cũng cố quản lí đô thị bảo

đảm số lượng và chất lượng đáp ứng với yêu cầu công nghiệp, tăng cường quản lí đô

thị ngày càng tốt hơn.

2.6.1.5. Về tài chính ngân sách

Tiếp tục thực hiện tốt quản lí thu và chi tài chính theo luật ngân sách tăng cường khai

thác và bồi dưỡng nguồn thu, thu triệt để các nguồn thu trên địa bàn nhất là mặt bằng

kinh doanh lệ phí chợ.

2.6.2. Về văn hoá xã hội.

2.6.2.1. Về giáo dục

- Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục đào tạo, thực hiện tốt công tác xã hội

hoá giáo dục. coi trọng về quy mô chất lượng và hiệu quả, huy động 100% trẻ 5 tuổi

vào mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1. Hạn chế đến mức thấp nhất học sinh bỏ học giữa

chừng, duy trì số lượng quan tâm chất lượng. Phấn đấu cuối năm học sinh khá giỏi bậc

tiểu học trên 60 , trung học cơ sở đạt 45%, quan tâm phụ đạo học sinh yếu kém. Tiếp

tục có sự phối hợp giữa gia đình nhà trường và trung tâm giáo dục thường xuyên

2.6.2.2 Hoạt động văn hoá văn nghệ thể dục thể thao

- Đẩy mạnh các hạot động VHVN-TDTT sâu rộng trong nhân dân nhất là đối

tượng thiếu niên. Đẩy nhanh xã hội hoá đa dạng các hình thức hoạt động, làm phong

phú đời sống nhân dân

2.6.2.3. Công tác y tế

- Tiếp tục thực hiện các chương trình y tế quốc gia, quốc tế, làm tốt công tác

chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân, tích cực phòng chống các bệnh xã hội

2.6.2.4. Công tác dân số gia đình và trẻ em

- Tăng cường công tác tuyên truyền dân số tập trung vận động các cặp vợ chồng

trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện các biện pháp tránh thai. Quan tâm hơn nữa công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ trẻ em nhất là các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.

Tạo điều kiện hoạt động vui chơi và học tập, tổ chức tặng quà trong các dịp lễ tết.

2.6.2.5. Công tác chính sách xã hội

Quan tâm chăm sóc đời sống cho các đối tượng chính sách phối hợp với các tổ

chức đoàn thể, mặt trận tiếp tục làm tốt công tác “đền ơn đáp nghĩa” giải quyết các chế

độ chính sách kịp thời

2.6.3. Công tác nội chính

Thường xuyên phát động phong tràoquần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, tiếp tục

củng cố và nâng cao trách nhiệm làm việc của công an thị trấn, cảnh sát khu vực, công

an viên, đưa ban và tổ bảo vệ dân số vào hoạt động có hiệu quả.

Như vậy trên đây là một vài nét tổng quát về thị trấn Tứ Hạ mà chúng tôi đã thu

thập được. Qua đây, chúng tôi thấy thị trấn đang ngày càng phát triển và ổn định từng

bước đi lên, phấn đấu tương lai gần sẽ là một thị xã phát triển mạnh về mọi mặt.

CHƯƠNG 2 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

1. Tổng quan chung về dịch vụ karaoke trá hình ở địa phương

Thực tế ở việt nam hiện nayđang rất nhức nhối về vấn đề karaoke trá hình “ôm”,

không lành mạnh, đây chỉ là một trông các dịch vụ không lành mạnh khác trong đời

sống xã hội. Như chúng ta đã biết, karaoke lành mạnh là một loại hình giải trí có

ích cho con người với các vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay các dịch vụ

karaoke lành mạnh này đang bị “biến tướng” trở thành những điểm nóng bỏng nhất

trong các cơ quan chính quyền nhà nước và của người dân: Karaoke “ôm” trá hình,

đồi truỵ. Đây là một loại hình dẫn đến con đường mại dâm gia tăng nhanh nhất.

Việt Namđang phải trải qua giai đoạn tăng nhanh số lượng người nhiễm

HIV/AIDS. Trên 40% các trường hợp xảy ra đối vợi vị thành niên, thanh niên. Số

liệu nghiên cứu năm 2004 cho thấy 10% trường hợp lây nhiễm HIV xảy ra đối với

thanh niên dưới 20 tuổi và trên 50% xảy ra đối với đối tượng từ 20 đến 29

tuổi.(Nguồn :Rũu rungtham and associates, 2004)

Liên tiếp trong nhiều ngày qua, một loạt điểm kinh doanh karaoke biến tướng bị

phá vỡ, hang loạt thanh niên bị bắt quả tang sử dụng thuốc lắc, có những hành vi

mại dâm tại các điểm hát karaoke… Có một số điểm ăn chơi thác loạn chuyên phục

vụ khách nước ngoài, tuy nhiên khi có yêu cầu em út ra ngồi chung nhân viên ở đây

đã từ chối. Hoá ra nếu không phải là những đại gia quen mặt thì khó có thể lọt vào

hang ổ này. Đó cũng là lý do vì sao cái gai lâu nay thanh tra văn hoá muốn nhổ mà

vẫn chưa đủ chứng cớ (Theo báo tuổi trẻ.com)

Tại một địa chỉ karaoke ôm, biểu giá một gói snack là 40.000 đồng( thực tế ở

ngoài chỉ có 1.000 đồng/ gói), một chai rượu ngoại giá 1,6 triệu đồng( khi giá ngoài

chỉ có 180.000 đồng /1 chai), chưa đủ các loại tiền khác mà quán thu đựoc từ kinh

doanh karaoke không lành mạnh này( Theo báo tuổi trẻ. Com)

Báo thanh niên cho biết: Tại SG, tìm một địa chỉ karaoke ôm còn dễ hơn tìm

một nơi há nghiêm túc, nào là Giao Hân trên đường cách mạnh tháng 8, nào là Ban

Mai trên đưòng Lê Hồng Phong…Tại đây luôn có một đội ngũ đào đẹp, chịu chơi,

lực lượng lên tới con số mấy chục em để khách tha hồ lụa chọn. Thậm chí nếu

khách thấy em út không vui vẻ có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Đi ra các quận ven hồ

khách làng chơi cũng dễ dàng tìm được những quán karaoke “ôm” để vui vẻ. Ở

Bình Chánh, thậm chí có quán karaoke ôm có thâm niên hoạt động liên tục từ 6- 7

năm nay, bị các ngành chức năng kiểm tra, xử phạt cả chục lần mà vẫn tồn tại. Một

cán bộ văn hoá liên ngành cho biết, quán này chỉ có giấy phép bán cà phê giải khát

nhưng trong quán có tới 4-5 phong hát karaoke. Mỗi lần đoàn kiểm tra cũng chỉ xử

phạt hành chính vì không có giấy phép kinh doanh hoặc tiếp viên không hợp đồng

lao động

Thực ra việc phát hiện các điểm karaoke này không mấy khó khăn. Một thanh

tra văn hoá cho biết, trong quá trình kiểm tra nột số cơ sở chỉ có 5 phòng hát nhưng

điều đáng khả nghi như lượng tiếp viên rất đông, thậm chí có trường hợp cơ sở chỉ

có 5 phòng hát nhưng hợp đồng lao động lại có tới 40-50 tiếp viên nữ. Sở KH-ĐT

cấp giấy phép nhưng lại bỏ qua chi tiết đáng nghi ngờ này.Theo thống kê của sở,

trong hơn 800 cơ sở hoạt động kinh doanh karaoke có trên 200 cơ sở sử dụng tiếp

viên nữ. Một hiện tượng nữa là nhiều quán nhỏ nhưng vẫn có lực lượng chỉnh nhạc.

Lý do để những quán này cần có lực lượng chỉnh nhạc là để tạo bầu không khí, âm

thanh kích động theo nhu cầu đòi hỏi của dân lắc.

Một vấn đề nữa cũng gây nhức nhối đối với cơ quan quản lí đó là hiện tượng

làm ngơ, bao che của chính quyền địa phương đối với những hoạt động trá hình

không lành mạnh này. Không thể nói rằng, địa phương không nắm rõ những hoạt

động diễn ra trên địa bàn mình. Tuần qua, phóng viên báo đã chứng kiến một vị cán

bộ phường đứng ra đòi bảo lãnh cho một tiếp viên nữ, thậm chí còn ngăn cản lực

lượng kiểm tra làm nhiệm vụ. Thế nhưng khi đoàn kiểm tra yêu cầu làm giấy tờ bảo

lãnh ghi rõ họ tên, chức vụ thì ông cán bộ này thoái thác, rút lui. Có trường hợp nhà

hang karaoke bị kiểm tra lại chính là của một công an quận. Rồi có trường hợp khi

tiến hành kiểm tra, phát hiện cán bộ địa phương đang ăn chơi trong các điểm tệ nạn

này, khi được hỏi về trách nhiệm của địa phương nếu đẻ xảy ra những biến tướng

trên địa bàn mình, một cán bộ quản lí văn hoá cho biết, vẫn chưa có một văn bản

pháp luật nào buộc những cá nhân, đơn vị quản lí ở địa bàn phải chịu trách nhiệm

về những vi phạm này. Chính vì vậy, vấn đề nhức nhối của karaoke vẫn tồn tại bao

nhiêu năm qua.

Karaoke là một loại hình sinh hoạt giải trí rất tốt nhưng vì lợi nhuận mà không

ít nhà hàng, quán bar, quán karaoke đã có những hoạt động kinh doanh bất hợp

pháp. Ranh giới mỏng manh giữa giải trí và cán dỗ đã khiến ít nhiều các cô tú, cậu

tú từ đi hát phải “ bỏ cuộc chơi” khi tương lai đang rộng mở.

Dư luận TPHCM đang xôn xao về đề nghị cấm kinh doanh karaoke, nhưng

dường như việc đó chỉ ảnh hưởng đến các chủ quán. Đối với các cô gái tiếp viên thì

đó là chuyện dễ bởi không tiếp khách chổ này thì sang chổ khác, các cô đều có mối

cả rồi, miễn là còn đẹp thì không lo đói.

Được khuyến khích là “không mặc áo lót” các cô gái karaoke khá khêu gợi và

dùng ngay “vốn tự có” của mình để kích dục và mớm lờiđưa khách về bãi đáp hoặc

giải quyết ngay tại chổ với giá 200-300 ngàn đồng

Thời gian qua dân chơi TPHCM không ngớt lời bàn tán trước việc tồn tại như

“đinh đống cột” của một số điểm nhà hang, bia ôm, karaoke “đen”. Bởi trước đó

không lâu những điểm này đã từng bị công an bắt quả tang vì hành vi mua bán dâm,

nhưng đến nay vẫn tồn tại công khai hoạt động. Nổi bật trong làng “karaoke đen”,

nhà hang bia ôm…ở quận Bình Thạnh, dân chơi thường nhắ đến nhà hang H.M có

hang chục tiếp viên nữ váy cực ngắn, ăn mặc hở hang. Nhà hang này từng bị lực

lượng công an bắt quả tang khi tiếp viên nữ đang thực hiện mua bán dâm cùng

khách, chẳng riêng gì điểm karaoke ôm H.M kể trên, tại điểm bida Q.Q, từng bị coq

quan chức năng đình chỉ kinh doanh hoạt động quá giờ quy định, có hang chục

thanh niên nam nữ nhảy múa điên cuồng vì say thuốc lắc… Nhưng chẳng rõ lý do

gì, các điểm kinh doanh sai phạm nói trên vẫn hoạt động bình thường như không có

chuyện gì xảy ra.(Theo báo tuổi trẻ . com)

Karaoke là một loại hình sinh hoạt văn hoá đáp ứng một nhu cầu có thật của đại

đa số người dân. Những hành vi lợi dụng loại hình này để hoạt động kinh doanh

biến tướng, gây hậu quả xấu cho xã hội phải được xử lý nghiêm minh theo pháp

luật. Như vậy trên đây là một vài nét về karaoke trá hình của cả nước. Qua đó

chúng ta thấy rằng đó là những con số báo động và nóng bỏng.

2. Thực trạng về dịch vụ karaoke trá hình ở thị trấn Tứ Hạ -Hương Trà - Huế

2.1. Qúa trình hoạt động của các dịch vụ karaoke trá hình ở thị trấn

Trong quá trình thực tế tại thị trấn, nhận thấy được tính chất nóng bỏng của các

loại hình kinh doanh karaoke không lành mạnh này. Chúng tôi đã quyết định lựa

chọn đề tài nghiên cứu này. Trong quá trình nghiên cứu vấn đề, chúng tôi đã thu

thập được những thông tin quý báu từ chính quyền và người dân địa phương

Vốn là một thị trấn khá phát triển, nhu cầu về đời sống tinh thần của con người

cũng tăng lên, nhất là các dịch vụ karaoke lành mạnh. Tuy nhiên với tính chất biến

tướng, các quán kinh doanh karaoke này đã liên tục hoạt động lén lút với mục đích

karaoke ôm không lành mạnh nhằm kiếm thêm lợi nhuận từ đồng tiền bất chính.

Đây là một vấn đề nóng bỏng tại thị trấn, qua điều tra chúng tôi đã thu thập được:

cả huyện Hương Trà có đến 17 hộ kinh doanh karaoke không lành mạnh, riêng thị

trấn đã có đến 12 hộ kinh doanh, trong đó có 4 hộ nổi bật, nóng bỏng nhất chư thể

xoá bỏ. Hiện các hộ này đều nằm tại khu vực 7 của thị trấn và nằm trong diện kiểm

tra của phòng văn hoá thông tin Huyện. Tất cả 17 trường hợp trên đều hoạt động

kinh doanh karaoke không có giấy phép, giấy phép đã hết hạn và có chưa tiếp viên

nữ rất đông đảo và các băng hình đồi truỵ đều đã bị xử lý nhiều lần nhưng đến nay

vẫn còn tiếp tục hoạt động. Sau đây là danh sách các điểm karaoke đã bị xử lý vi

phạm tại thị trấn đề nghị kiểm tra xử lý

DANH SÁCH CÁC ĐIỂM KARAOKE ĐÃ BỊ XỬ LÝ VI PHẠM

TT HỌ VÀ TÊN CHỦ

ĐỊA ĐIỂM

LÝ DO KHÔNG ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐỂ

QUÁN

TIẾP TỤC HOẠT ĐỘNG

1 Nguyễn Thị Tâm KV7-TT Tứ Hạ Giấy phép hết hạn, sử dụng nhiều

tiếp viên nữ, đã bị xử phạt 01 lần

Hoàng Aí KV7- TT Tứ Hạ Giấy phép hết hạn, sử dụng nhiều 2

tiếp viên nữ, đã bị xử phạt 02 lần

3 Phan Th ị R ý KV7- TT Tứ Hạ Gấy phép hết hạn, sử dụng tiếp

viên nữ, đã bị xử phạt 2 lần

Hoàng Quang Sơn KV7- TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép 4

Đỗ Thị Lài KV7- TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép 5

Đoàn Thông KV7-TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép, sử 6

dụng nhiều tiếp viên nữ

Trần Thị Thái KV9-TT Tứ Hạ Hoạt động không có giáy phép 7

Dương Thị Trinh KV9- TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép 8

Hoàng Thị Tuyến KV7 –TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép 9

10 Nguyễn Thị Nga KV9- TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép

11 Hoàng Thị Lương KV3 –TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép, sử

dụng nhiều tiếp viên nữ

12 Lê Thị Thu Hằng KV2-TT Tứ Hạ Hoạt động không có giấy phép

13 Lê Thị Liên Giáp Tư, Hương Văn Hoạt động không có giấy phép đã

bị xử phạt 2 lần

14 Đặng Văn Thành T.S Đông, Hương Hoạt động không có giấy phép, đã

Vinh bị xủ phạt nhiều lần

15 Nguyễn Văn Châu Nham Biều, H. Hồ Hoạt động không có giấy phép

16 Tôn Thất Vĩ Bình Lợi, Bình Điền Hoạt động không có giấy phép

17 Phạm Phong Bình Lợi, Bình Điền Hoạt động không có giấy phép

Vì thời gian thực tế có hạn, chúng tôi không thể tiếp cận được với tất cả các

quán. Do vậy, chúng tôi chỉ có thể tiếp cận được 3 quán trọng điểm của huyện tại khu

vực 7 – TT Tứ Hạ. Đó là các quán: Cây Xanh của bà Nguyễn Thị Tâm, Gia Bảo của

Hoàng Aí và quán Lưu Khách của bà Phan Thị Rý. Đây là 3 quán đã có tiền sử hoạt

động không lành mạnh và đã bị xử phạt nhiều lần. Sau đây là một vài nét về các quán

mà chúng tôi thu thập được qua thực tế quan sát và qua việc cung cấp thông tin của

công an thị trấn.

- Thứ nhất: Quán Cây Xanh của Bà Nguyễn Thị Tâm.

Quán này nằm bên quốc lộ 1A rất thuận lợi cho việc hoạt động. Hiện tại quán này

đang hoạt động lén lút vì không có giấy phép và đã bị xử phạt nhiều lần. Bị đình chỉ

hoạt động vào năm 2004 do đánh chết người vì tranh giành gái, công an huyện đã

thụ lý vụ án này. Từ đó đến nay, quán này vẫn âm thầm hoạt động lén lút. Năm 2007,

công an huyện đã phối hợp với công an thị trấn và phòng văn hoá thông tin huyện

tiến hành kiểm tra, thu được bộ dàn máy, đình chỉ hoạt động. Hiện nay, quán này vẫn

lén lút hoạt động khi không có sự kiểm tra của CA.

- Thứ 2: Quán Gia Bảo của Hoàng Aí

Có lẽ đây là quán hoạt động tinh vi nhất, quán này cũng nằm trên đường quốc

lộ, đối diện với quán Cây Xanh. Quán này đã bị xử phạt nhiều lần vì không có giấy

phép hoạt động và có “em út”, bị đình chỉ hoạt động vào năm 2004 nhưng đến nay

vẫn còn hoạt động. Năm 2006, CA tiến hành kiểm tra, thu hồi dàn máy xử lý đình chỉ

hoạt động, phạt 10 triệu đồng. Năm 2007, phạt 7 triệu đồng và thu hồi dàn máy. Tuy

nhiên đến nay, quán này vẫn âm thầm hoạt động.

- Thứ 3: Quán Lưu Khách của bà Phan Thị Rý

Quán này nằm cách đường quốc lộ 200m, nằm về phía sau khu vực dân cư sinh

hoạt. Vì vị trí của quán cũng rất thuận lợi cho việc thu hút nhiều khách, quán này

hoạt động từ trước đến nay đều không có giấy phép kinh doanh. Bị đình chỉ hoạt

động vào năm 2004 nhưng đến nay cũng vẵn hoạt động lén lút khi không có sự kiểm

tra của CA thị trấn. Năm 2007, CA thị trấn kết hợp với phòng văn hoá thông tin

huyện tiến hành kiểm tr thu hồi dàn máy lập biên bản xử phạt.

Như vậy, trên đây là 3 quán trọng điểm nằm trong diện kiểm tra của huyện, quá

trình hoạt động của các quán này rất tinh vi và xảo quyệt. Qua điều tra chúng tôi thấy

cả 3 quán đều đã bị xử phạt nhiều lần vì không có giấy phép kinh doanh, chứa gái và

các băng hình đồi truỵ, loi kéo thanh thiếu niên vào con đường tệ nạn. Chúng tôi đã

tiến hành tiếp cận quán rất nhiều lần nhưng rất khó đem lại được hiệu quả. Tuy nhiên

, hoạt động cao tay nhất vẫn là quán Gia Bảo của Hoàng Aí, quán này đã bị xử phạt

nhiều lần vì kinh doanh karaoke không lành mạnh, bị đình chỉ hoạt động nhưng vì lợi

nhuận bất chính, họ đã cao tay hơn là đã lấy miếng vải bịt kín lại chử karaoke ở biển

nhưng nhìn vào thì ai cũng biết họ đang kinh doanh loại gì không lành mạnh hay lành

mạnh. Với hang chử karaoke bịt kín thay vào đó là hang chử “ Bún bò- các món nhậu

đặc sản”. Nhìn từ xa, ai cũng tưởng đó là những quán ăn bình dân nhưng khi vào tận

trong quán thì đó không phải là một sự thật. Quán này hoạt động rất sớm, khách vào

ra rất nhiều, nhưng chỉ những khách quen thì họ mới cho vào bên trong quán, do đó

việc tiếp cận của chúng tôi cuãng gặp rất nhiều khó khăn.

Tại thị trấn cuộc sống con người khá phát triển, các loại hình này cuãng thu hút

sự tò mò của con người, đặc biệt là của giới trẻ thanh thiếu niên. Trong quá trình thực

tế ở đây, chúng tôi đã chứng kiến được quá trình hoạt động của các quán. Các quán

hoạt động từ khoảng 19hoo tối đến 1- 2 sáng ngày hôm sau. Khách vào ra rất nhiều,

đặc biệt là những đại gia và những thanh thiếu niên muốn thoả mãn sự tò mò. Tiếng

hát và những tiếng dội của loa đài làm cho cuộc sống xung quanh của các gia đình bị

đảo lộn, bị đau đớn bởi nó. Người dân ở xung quanh rấ bức xúc và đã phản ánh rất

nhiều lầnlên chính quyền bởi các hoạt động quá giờ quy định nhưng đến nay vẫn

chưa có phản hồi từ chính quyền, các quán vẫn lén lút hoạt động khi không có sự

kiểm soát của chính quyền địa phương, đặc biệt là của CA huyện Hương Trà phối

hợp hành động. Nhân viên phục vụ đến từ nhiều nơi như Quảng Bình, Quảng Trị….

Chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhỏ với một số thanh thiếu niên và một số

người dân xung quanh các dịch vụ kinh doanh này.

H: Em chưa đến tuổi vị thành niên, tại sao em lại thích vào các dịch vụ như thế này?

TL: Đầu tiên em chỉ đến hát, sau chỉ để thoã mãn sự tò mò.

( PV sâu, HH, THCS, H)

H: Em hiểu như thế nào vềh các dịch vụ kinh doanh như thế này?

TL: Em không hiểu gì cả, hỉ vì bạn rủ thì em đi cho vui thôi

(PV sâu, ĐT, THCS,H)

H: Suy nghĩ của Bác như thế nào khi các dịch vụ này hoạt động ở đây?

TL: Tôi cảm thấy cuộc sống gia đình tôi đang bị đảo lộn bởi tiếng nhạc ồn ào cả đêm,

tôi bức xúc lắm.

( PV sâu, MM, H)

H: Vậy bác đã có đề nghị gì với chính quyền địa phương?

TL: Chính quyền cần xử lý nghiêm các dịch vụ này, cần có các biện pháp cứng rắn hơn

( PV sâu, TT, H)

H: Anh có thường hay lui tới những nơi như thế này không?

TL: Cũng thỉnh thoảng thôi, khi có ai đó rủ hoặc tôi đến để giải khuây

(PV sâu, HP, H)

Trên đây là một cuộc phỏng vấn nhỏ của mọi người xung quanh lien quan đến

các dịch vụ này, qua đó chúng ta thấy trình độ nhận thức của các em thanh thiếu niên

còn hạn chế và những bức xúc của người dân xung quanh vấn đề này.

2.2. Những bức xúc của người dân xung quanh vấn đề này

Để làm rõ hơn những vấn đề mang tính bức xúc của người dân xung quanh các

dịch vụ này, chúng tôi đã trực tiếp mời 10 người dân trong khu phố 7 của thị trấn tổ

chức một cuộc họp dân.

-Danh sách mời họp: 1. Nguyễn Thị Trông

2.Lê Thị Gái

3.Phạm Công Trình

4.Trần Thị Ut

5.Hoàng Thị Ngàn

6.Ngô Thị Dậm

7.Nguyễn Thị Liên

8.Trần Văn Minh

9.Lê Hữu Phong

10. Đàm Văn Chót

- Thời gian tổ chức cuộc họp: từ 13h30 phút- 15h50 phút ngày 19/4/2008

- Địa điểm tổ chức cuộc họp: tại nhà bà Nguyễn Thị Trông

Qua cuộc họp này chúng tôi đã thu thập được nhiều thông tin từ người dân. Sau

quá trình thảo luận hết sức sôi nổi nói về những bức xúc của mình xung quanh các

dịch vụ này được chúng tôi tổng kết lại và đưa lên phiếu điều tra phát cho tưng người

dân và yêu cầu họ chấm điểm cho những bức xúc đã được đưa ra. Chúng tôi đã quy

ước danh sách từ 1 đến 10 tương ứng với thứ tự từ A đến K, thang điểm từ 1 đến 10:

bức xúc nhất: điểm 1, không bức xúc nhất: điểm 10.

PHIẾU ĐIỀU TRA

TT Những bức xúc A B C D E G H I J K Tổng Xếp

điểm loại của người dân

1 Gây ồn ào, ức chế

sinh hoạt và làm

việc

2 Mất trật tự

3 Hoạt động quá giờ

quy định

4 ảnh hưởng đến gia

đình

5 Phát sinh các tệ nạn

xã hội

Chúng tôi đã sử dụng phương pháp ma trận xếp loại ưu tiên để làm phiếu điều

tra này và kết quả chúng tôi thu thập được rất có hiệu quả

TỔNG KẾT PHIẾU ĐIỀU TRA

TT Những bức xúc A B C D E G H I J K Tổng Xếp

của người dân điểm loại

1. Gây ồn ào, ức chế 1 3 2 1 1 4 2 3 5 1 35 1

đến làm việc và

sinh hoạt

2. Mất trật tự 2 1 4 3 5 2 5 3 4 2 31 3

3. Hoạt động quá 4 2 1 3 5 6 9 2 5 3 40 4

giờ quy định

4. ảnh hưởng đến gia 6 4 2 1 7 3 5 8 6 7 49 5

đình

5. Phát sinh các tệ 2 4 3 1 1 3 5 3 2 1 25 2

nạn xã hội

Như vậy qua phiếu điều tra ở trên chúng tôi thấy rằng, điểm bức xúc nhất của

người dân xung quanh các dịch vụ này là gây ồn ào, ảnh hưởng đến sinh hoạt và làm

việc đồng thời bức xúc không kứem phần quan trọng nữa đó là đây là nơi dễ làm phát

sinh ra các tệ nạn xã hội. Những bức xúc của người dân đã được đưa lên chính quyền

nhiều lần nhưng đến nay các dịch vụ này vẫn thường xuyên hoạt động? một câu hỏi

mà người dân cũng như chúng tôi cần một câu trả lời từ cơ quan chính quyền.

3. Nguyên nhân tồn tại và lý do thu hút con người đến với các dịch vụ này

3.1. Nguyên nhân tồn tại

- Muốn kiếm lợi nhuận

Đây là nguyên nhân đầu tiên và cơ bản nhất đối với việc ra đời cũng như sự tồn

tại của các dịch vụ này. Vì muốn kiếm nhiều tiền, họ sẵn sang chuyển từ kinh doanh

lành mạnh sang kinh doanh không lành mạnh.

- Chưa đủ chứng cớ

Các dịch vụ này thường rất tinh vi, không phải ai họ cũng tiếp và “ chiều” cả, họ

chỉ tiếp và “ chiều” những khách làng chơi, đại gia quen thuộc, lắm tiền. Nếu không

phải là những đại gia quen thuộc thì khó có thể lọt vào được hang ổ này. Chính vì

vậy mà các cơ quan thanh tra vẫn không đủ mọi chứng cớ để nhổ được các loại “ gai”

như thế này

- Hiện tượng làm ngơ, bao che của chính quyền địa phương

Qua quá trình thực tế chúng tôi nhận thấy một điều rất quan trọng tiếp tay cho sự

tồn tại của các dịch vụ này đó là có những người đứng sau bao che, bảo kê mà những

người này thường có các chức vị cao trong địa phương nên việc các dịc vụ này vẫn

hoạt động là điều dễ hiểu

- Các cán bộ địa phương còn quá xem nhẹ vấn đề này, đặc biệt có các cán

bộ địa phương còn thường xuyên lui tới các dịch vụ này

- Các cơ quan chức năng còn quá cứng nhắc trong việc quản lý các loại hình

dịch vụ này, chế tài xử lý còn quá nhẹ nên các quán này chấp nhận chịu phạt và tiếp

tục vi phạm

- Sự nhận thức còn kém của các chủ kinh doanh các dịch vụ không lành mạnh

này

Như vậy, trên đây là những nguyên nhân cơ bản nhất đã tạo điều kiện cho các

dịch vụ kinh doanh không lành mạnh này tiếp tục tồn tại và hoạt động tại khu vực

của thị trấn

3.2. Lý do thu hút con người

- Thoã mãn sự tò mò, đặc biệt là các lứa tuổi vị thành niên, thanh niên

- Giải trí có mục đích

- Đó là những đại gia có tiền

- Do nhu cầu sinh lý

- Do hoàn cảnh: chán đời, thất tình…

Như vậy trên đây là những lý do cơ bản đã đưa con người đến với các dịch vụ

này tại khu vực của thị trấn mà chúng tôi đã thực tế vừa qua.

4. Các giải pháp nhằm hạn chế sự hoạt động của các dịch vụ này

4.1. Đối với cơ quan văn hoá Nhà Nước

- Cần phải có những quy định, quyết định, nghị định về việc cấm các loại

hình dịch vụ kinh doanh không lành mạnh một cách khắt khe hơn

- Có phương pháp quản lý đô thị tốt hơn

- Đánh thuế nặng vào các dịch vụ này

- Nâng cao mức xử phạt hơn nữa

4.2. Đối với chính quyền địa phương

- Phải thường xuyên đôn đốc và kiểm tra xử lý vi phạm đối với các dịch vụ

kinh doanh không lành mạnh này

- Theo dõi sát sao các hoạt động của quán

- Chú ý đến việc cấp giấy phép kinh doanh hoạt động

- Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm không được bao che, bảo kê cho

các dịch vụ không lành mạnh này

4.3. Đối với các chủ quán kinh doanh

- Hiểu biết hơn về mục đích kinh doanh không lành mạnh của minh

- Chuyển sang các hoạt động kinh doanh lành mạnh, tích cực hơn

4.4. Đối với người dân

- Nhận thức đúng đắn hơn về các dịch vụ tiêu cực này

- Hạn chế hoặc tránh xa những dịch vụ này

- Tỏ rõ những bức xúc của mình đối với các dịch vụ kinh doanh không lành

mạnh này

4.5. Đối với VTN/TN

- Luôn nâng cao nhận thức của mình về các dịch vụ này

- Nhận thức được các hạn chế, tiêu cực của cá dịch vụ này

CHƯƠNG 3- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Qua thực tế, chúng ta thấy rằng dịch vụ karaoke cũng đáp ứng được một số nhu

cầu nào đó về giải trí cho con người. Nhưng hiện nay, cơ sở kinh doanh lành mạnh

thì ít, số lợi dụng cơ sở kinh doanh để làm mục đích khác thì rất nhiều. Trước đây,

khi bộ văn hoá đư ra đề xuất cấm kinh doanh karaoke, những ý kiến phản bác cho

rằng, ai sai xủ lý người đó, không thể cấm tràn lan. Nhưng vấn đề ở đây bắt được

một ổ trá hình đang hoạt động thì vô cùng khó khăn. Và thực tế hầu như ai cũng

biết, từ khi các dịch vụ này ra đời thì cái tiêu cực nhiều hơn cái tích cực. Vậy trong

2 sự lựa chọn, nếu cấm kinh doanh karaoke thì sẽ có lợi nhiều hơn, không nên coi

đây là một nghề kinh doanh kiếm lời nhằm ngăn ngừa sự lợi dụng biến tướng. Nếu

các câu lạc bộ, cơ quan đơn vị mở karaoke phục vụ miễn phí thì không những

không cấm mà còn được hoan nghênh. Trên thế giới không phải nước nào cũng có

hoạt động kinh doanh karaoke, nhiều nước chỉ có karaoke phục vụ miễn phí. Tuy

nhiên do dư luận còn có ý kiến trái chiều nên trước mắt bộ văn hoá thông tin đề

nghị không nên khuyến khích kinh doanh lĩnh vực này. Với những nơi đã cấp phép

thì phải tăng cường công tác thanh tra quản lý, xử lý nghiêm những trường hợp vi

phạm. Một điều chúng ta thấy rằng, để xoá bỏ các dịch vụ này là vô cùng khó,

karaoke giống như vòi bạch tuộc chặt đứt vòi này, nó sẽ mọc chổ khác ở nơi khác.

Hiên nay các dịch vụ này rất nhiều và mang tính chất tràn lan, việ quản lý nó

cũng là một điều rất khó khăn, mức độ vi phạm của các dịch vụ này cũng rất

nghiêm trọng. Tuy nhiên, số vụ bị bắt so với vụ vi phạm lọt lưới chỉ chiếm tỉ lệ

nhỏ. Để xảy ra tình trạng trên, ngành văn hoá thông tin cũng có phần trách nhiệm

song không thể không nói đến trách nhiệm của chính quyền các cấp, cơ sở, lực

lượng công an và một số bộ ngành có liên quan đến việc cấp giấy phép.

2. Khuyến nghị

Qua chuyến đi thực tế ngắn ngủi vừa qua cùng việc nghiên cứu, tìm hiểu đề tài

này tôi đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho bản thân đồng thời tôi

cũng đưa ra được những khuyến nghị của mình về đề tài nghiên cứu tại thị trấn như

sau:

- Các cơ quan văn hoá thông tin cần quan tâm hơn nữa đến việc xử lý các

trường hợp vi phạm như thế này

- Nâng cao mức xử phạt cho các trường hợp vi phạm

- Có các hình thức răn đe cứng rắn hơn

- Quản lý chặt chẽ hơn nữa các hình thức kinh doanh

- Xử lý một cách công bằng, khách quan vô tư, không được bao che, bảo kê

các trường hợp vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền tại địa phương.

Như vậy, trên đây là toàn bộ báo cáo của tôi về đề tài nghiên cứu: “Đặc

doanh karaoke trá hình - một vấn đề nóng bỏng- thực trạng – nguyên nhân và giải

pháp” tại khu vực 7 - thị trấn Tứ Hạ - Hương Trà - Huế. Qua chuyến đi thực tế này,

tôi đã có được những kinh nghiệm quý giá cho bản thân và rút kinh nghiệm cho các

báo cáo tiếp theo được hoàn thành tốt hơn.

PHỤ LỤC – TÀI LIỆU THAM KHẢO

- www. Google.com.vn

- Lê Thị Kim Lan – Phát Triển Cộng Đồng