'Đảng viên góp ý văn kiện cần tránh chung chung, lệch lạc'
- "Không ít đàm thoại, góp ý của ngay một số n bộ, đảng viên cho dthảo
các văn kiện Đại hội XI còn chung chung, cảm nh, thậm chí ngy biện, lệch
lạc" - Ý kiến ca nguyên Phó Vin trưởng Viện CNXH Khoa học.
LTS: Sau khi đăng tải những bài đầu tiên góp ý cho dthảo các văn kiện Đại hội
Đảng XI, chúng tôi nhận được nhiều ý kiến đồng cảm, bên cạnh đó, một số ý
kiến theo chiều khác. Để tôn trọng tính đa chiều trong thông tin, VietNamNet giới
thiệu bài viết của PGS.TS Nguyễn Đức Bách (nguyên Phó Viện trưởng Viện
CNXH Khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Mời
bạn đọc cùng tranh luận.
Để thể hiện thông tin đa chiều, trong bài này tôi xin dùng “văn nói” chđể bàn v
việc một số cán bộ, đảng viên đàm thoại, góp ý cho các dthảo văn kiện Đại hội
XI của Đảng trên nhiều phương tiện thông tin hiện nay .
1) “Cái chung” một trong những phạm trù bản của triết học nhân loại. Bởi
vậy “cái chung” luôn giá trị bao quát. Còn “chung chung” thì không phải phạm
trù triết học mà một thuật ngữ thường phản ánh việc nói và viết không thông
tin, gây nhàm chán; hoặc là giá trị, thậm chí còn gây nhiễu thông tin (t
những i mà ai nói cũng đúng, nói đâu ng đúng, không nói thì ai cũng biết;
thậm chí là lm dụng cái chungđúng đắn để nói về một cái gì đó nhưng chưa
nói thẳng ra, thậm chí i sai… cho nên thường dưới dạng ám chỉ, mà ai hiểu thế
nào là…tùy!). Bi thế, cách “nói và viết chung chung” là không rõ ràng, gây phân
tâm xã hội và nhận thức lệch lạc, tác hại xã hội .
2) Thông tin trên một số diễn đàn, trên Internet… nhiều bổ ích, thể hiện rõ hơn
tự do - dân chvề ngôn luận. Cũng không ít những đàm thoại, góp ý của ngay một
s cán bộ, đảng viên cho d thảo các n kiện Đại hội XI Đảng ta còn chung
chung, cm tính, thậm chí ngụy biện, lệch lạc. Tôi tin rằng các ý kiến đó đều có
thể nhiệt tâm vì snghiệp chung. Xin quý vị đừng phật lòng do những “bàn thêm”
thẳng thắn của tôi dưới đây, vì nó không gợn chút mâu thuẫnnhân nào. Tên các
vị góp ý kiến đã được công khai. Tôi chỉ bàn về nội dung các ý kiến.
- ý kiến rằng: “Cần tuyển lựa từ xã hội để tạo bứt phá cho đảng”; hoặc: “Phải
dân chthật sự, tự do tranh cử, bầu cử… nhưng việc này còn chưa thể làm ngay
được khó lm”. Xin bàn thêm: bầu cấp ủy đảng Cộng sản sao lại tuyển lựa từ xã
hội? Và, cái khó chính vì chung chung… ngay cả trong cách góp ý như vậy!
- Có ý kiến rằng: “Ta còn ngại dân chủ, mãi không dám đưa vào văn kiện, gần đây
mới đưa vào”(?); hoặc “…thành tựu trong đổi mới đảng đã chấp nhận dân
chủ…, song đảng lại cho đó là diễn biến hòa bình”(?); hoặc “…đó là những vấn đề
rất căn bản, nếu không làm rõ thì rất dễ bị quy chụp…”; “…phải thay đổi hoặc xác
định rõ hơn chủ thuyết của chúng tanếu không stội với Bác, với chế độ,
với nhân dân”? Xin bàn thêm: đó những góp ý vừa chung chung, ngụy biện, sai
lệch; vừa sáo rỗng. Vì Đảng ta đâu có ngại dân chủ? Đâu phải Đổi mới thì Đảng ta
mới chấp nhận dân chủ? Đảng đâu có coi thành tựu dân chủ là diễn biến hòa bình?
Ta vẫn theo chủ thuyết Mác - Lênin mà Bác Hồ đã theo, sao lại lo có tội? Những ý
kiến đó chưa nêu cụ thể, chưa dám chịu trách nhiệm về những góp ý thay đổi dân
chủ và chủ thuyết như thế nào?
- ý kiến nhấn mạnh: Đảng phải đảng của dân tộc…”. Xin bàn thêm: u
này trích dẫn ý Bác Hồ nhưng đã cắt xén những ý Bác nhấn mạnh về tính giai cấp
tính tiên phong của Đảng. Do vậy, dễ làm nhiều người hiểu lầm là Bác Hch
có tư tưởng về tính dân tộc của Đảng ta. Ý kiến đó còn “bỏ qua” hoàn cảnh lịch sử
của câu Bác nói năm 1945 - 1946, khi chính quyền của ta trong trứng nước mà
Pháp lại sắp xâm lược nước ta lần nữa. Khi đó phải đặt đại đoàn kết dân tộc trực
tiếp lên hàng đầu ngay để đủ sức chống giặc . Khi đó không thể chưa cần công
khai về CNXH, về Mác - Lênin, về tính chất giai cấp công nhân của Đảng ta… Vì
khi đó đại đa số dân ta chưa thể kịp hiểu về những tính chất đó của Đảng để tin
theo “Tất cả cho kháng chiến". Trong hoàn cảnh như vậy, Đảng ta còn phải t
giải tán thì làm sao mà công khai cho đủ tính chất của Đảng?
Ý kiến này còn “khéo léo” ct bỏ lời giải thích của Bác Hồ rằng: “Thực ra là Đảng
ta rút vào mật để tiếp tục lãnh đạo cách mạng”. Mà lãnh đạo cách mạng tất
nhiên vẫn phải đảng Cộng sản Đông Dương bản chất và htưởng của giai
cấp công nhân Việt Nam, theo học thuyết Mác - Lênin. Ý kiến này còn “quên”
rằng, Bác Hồ khẳng định dứt khoát: “Muốn giải phóng n tộc, không con
đường nào khác con đường cách mạng sản- tức con đường cách mạng của
giai cấp công nhân. Đây một trong những “cái bất biến” trong tư tưởng Bác Hồ,
kcả khi Bác nói “đảng phải đảng của dân tộc”. Không thấy rõ điều đó là hiểu
sai vbản chất tưởng Bác Hồ: dân tộc phải gắn liền với CNXH; chỉ CNXH mới
đảm bảo độc lập, phồn vinh cho dân tộc (mới đây lại cựu chuyên viên cao cấp
của Đảng “cảnh tỉnh” Đại hội XI rằng: “Cương lĩnh phải lợi ích dân tộc”, trong
khi v này lại “kỵ CNXH” mà vẫn tự cho là mình… theo Bác Hồ? Quả là hài
hước!).
- ý kiến rằng: Thế giới đã những giá trcác Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân
quyền của Mỹ, của Pháp… về độc lập, tự do, dân chủ, cộng hòa, bình đẳng, bác ái,
nhà nước pháp quyền… còn ta thì chẳng theo khuôn mẫu nào của thế giới…”; và
còn nêu ý của bà Virginia Foote (quan chức Mỹ mới thăm nước ta) để phhọa
rằng: “Việt Nam làm chẳng giống ai thì chthể làm ăn với mình thôi”(?). ý
kiến còn châm chọc: “Việt Nam cứ đi quay ng về phía mặt trời thì chng bao giờ
ợt qua cái bóng của mình”(?).
Xin bàn thêm: những góp ý đó vừa chung chung, ám chỉ, ngụy biện; vừa trái với
thực tiễn 25 m Đổi mới. Bởi vì, ta hội nhập, đương nhiên vẫn “những i
chẳng giống ai”, nhưng ta đâu chỉ làm ăn với mình? Chc là các ý kiến đó
muốn Việt Nam hội nhập, cần “mô hình” dân chủ, kinh tế và mọi mặt kiểu Mỹ,
Pháp… mới đúng “khuôn mẫu chung”! Sao không góp ý thẳng rằng: ta cần theo
CNTB “cgói”?
- ý kiến rằng: Cần trở lại thực hiện đúng Hiến pháp Việt Nam 1946 đã quy
định là dân mới quyền lập hiến, còn Quốc hội chỉ quyền lập pháp… Mọi
việc quyết định đến vận mệnh quốc gia đều phải do dân phúc quyết. Xin bàn thêm:
Ý kiến này cthể hơn… song lại vẫn chung chung, dễ gây ngnhận và phân tâm,
đã bquahoàn cảnh cthể nước ta năm 1946 - như phân tích trên. Hiện
nay, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta, những vấn đề đại đa số nhân dân biết rõ
gắn thiết thân, cụ thể… với n thì thvà cần phải hỏi dân. Song, không thể
cái gì quan hđến vận mệnh quốc gia đều “trưng cầu dân ý” để dân phúc quyết (
như : có nên theo chủ nghĩa Mác - Lênin không? Có nên theo CNXH sau khi Đông
Âu, Liên Xô tan rã không? Có nên đa đảng không? v.v… rồi Đảng nghe dân, trọng
dân, theo ý dân) thì sự thể sẽ thế nào?
Kcả trong chế độ TBCN - một chế độ đảng cầm quyền, quốc hội, chính phủ
thường “đổ xoành xoạch” - có vẻ dân chủ, vì họ không bao giờ lo tự sụp đổ chế đ
TBCN… mà chẳng bao giờ họ đdân phúc quyết” những vấn đề về bản chất và
htưởng của họ; huống chi chế độ ta? Chế độ ta nếu không thống nhất nhận
thức hành động thì Đảng, nhà nước ta sẽ sụp đổ và chuyển sang CNTB. Đó là
skhác nhau rất rõ tbản chất và mục tiêu ca hai chế độ quy định! Nếu Đảng và
nhà nước ta “theo đuôi quần chúng” như vậy thì nhân dân cũng chẳng cần Đảng
lãnh đạo, nhà nước quản lý xã hội!
Xin nhắc lại một cách m na rằng: Mọi quy luật xã hội đều do nhân dân tạo ra.
Nhưng tuyệt đại đa số trong nhân dân lại không thể tự nhận thức và vận dụng đúng
các quy luật do chính mình tạo ra . Vì vậy mà nhân dân mới nuôi nấng và yêu cầu
nền giáo dục phải dạy, rèn đào tạo ra các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo quản
lý… đnhận thức và vận dụng các quy luật, dẫn dắt nhân dân làm đúng quy luật
cho stồn tại và phát triển ngày càng tốt đẹp của nhân dân. Đó mới là những nhà
khoa học, những nhà lãnh đạo - quản gần dân, thân dân, hỏi dân, nghe dân,
trọng dân… nhưng không mị dân - không hại dân… thì mới thực svì dân do
đó dân mới cần họ!
Trong “tam quyền phân lập” tư sản, rất nhiều giá trị ta đã chon lọc, vận dụng
theo điều kiện của ta ngay từ Hiến pháp 1946 - ta không phân lập theo nghĩa
đối lập. Song, nhiều nội dung luật pháp của CNTB rất “minh bạch” thì ta lại không
thvà không bao givận dụng. Đó cũng là do bản chất và mục tiêu hai chế đ
khác hẳn nhau, dù hai chế độ vẫn cần giao u, hợp tác, cùng lợi…(trước Đổi
mới không hợp tác là trái quan điểm Mác - Lênin. Ta đã sửa và thành tựu 25
năm đổi mới).
Quốc hội ta do mỗi công dân bầu trực tiếp để quyền lực, lợi ích của dân ta tập
trung i Quốc hội; và quan trọng n Quốc hội quyền lực cao nhất(ch
không phải Tổng thống, Thủ tướng cao nhất, thể giải n Quốc hội như trong
dân chsản). Quốc hội ta thể hiện quyền lực và lợi ích của dân hay không là
do Quốc hội… chứ không phải do chế dân ủy quyền lực cao nhất cho Quốc hội
lập hiến, lập pháp, giám sát và buộc nh pháp, pháp toàn dân thực thi pháp
luật. Nói “nhân dân lập hiến” là rất chung chung, hồ. Nhân dân là khái nim
chung rất rộng gồm từng người dân và hkhông thể “tự phát tụ tập bàn bạc để lập
hiến”. Rốt cuộc lại phải qua một tổ chức đại diện cho dân đủ khả năng lập hiến,
lập pháp. Không ai khác, Việt Nam hiện nay, tổ chức đại diện đó chỉ thể là
Quốc hội.
Có ý kiến hiểu lệch lạc mà đã góp ý cho vấn đề lý luận vào loại cơ bản và phức tạp
nhất, rằng: “Không thđánh tráo hai vấn đề: sự không “tồn vong” của CNTB và
“loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH” (dthảo văn kiện Đảng ta vẫn khẳng
định vấn đề này mà không “đánh tráo” gì cả).