
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ M INH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Đề cương bài giảng
DÂN SỐ HỌC
VÀ ĐỊA LÝ DÂN CƯ
Biên soạn
ThS. Nguyễn Văn Thanh
THÀ
NH PH
Ố
H
Ồ
CHÍ M INH
–
8/ 2005
Su tm b i:
www.daihoc.com.vn

2
NHẬP MÔN DÂN SỐ HỌC
1.1. ĐỊNH NGHĨA DÂN SỐ HỌC
Thuật ngữ Dân số học hay Nhân khẩu học -
Demography có nguồn gốc từ tiếng Latin: demos (dân
chúng, dân cư) và grapho (mô tả). Thuật ngữ này được
nhà khoa học Pháp A. Guillard đưa ra năm 1855 trong
một quyển sách có nhan đề: “Các thành phần thống kê
của con người hay Dân số học so sánh”. Sau đó, thuật
ngữ này được thừa nhận chính thức trong Hội nghị
quốc tế về Vệ sinh học và Dân số học tại Genève năm
1882 và được sử dụng rộng rãi vào cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX.
Theo các nhà khoa học của tám nước Mỹ, Anh,
Pháp, Đức, Italia, Thụy Điển, Brazil, Ấn Độ trong
quyển Nghiên cứu dân số, 1953: “Dân số học là khoa
học nghiên cứu số lượng, phân bố và cơ cấu dân số
cũng như biến động tự nhiên, biến động cơ học, biến
động xã hội của nó”.
Liên hiệp Quốc, 1958, xác định: “Dân số học là
khoa học nghiên cứu về dân số, về cơ bản có liên quan
đến quy mô, cơ cấu và sự phát triển của dân số”.
Theo tự điển Dân số học đa ngữ của Vande
Walle, 1982: “Dân số học là nghiên cứu khoa học về
dân số nhân loại, trước hết là quy mô, cấu trúc và sự
phát triển của nó”.
Trong giáo trình xuất bản 1985 của một số trường
đại học thuộc Liên Xô cũ định nghĩa: “Dân số học là
Su tm b i:
www.daihoc.com.vn

3
khoa học nghiên cứu số lượng, phân bố theo lãnh thổ
và cơ cấu của dân số với những biến động của chúng,
giải thích nguyên nhân và hậu quả của những biến
động đó. Mối quan hệ lẫn nhau giữa yếu tố kinh tế xã
hội với những biến động trong dân cư”.
Theo tự điển Dân số học (The Dictionary of
Demography) do Pressat chủ biên, 1985, thì “Dân số
học là khoa học nghiên cứu về dân số loài người trong
mối tương quan với những biến đổi do tác động tương
hỗ của các yếu tố sinh, chết và di dân”.
Theo giáo trình Dân số học và Địa lý dân cư của
Nguyễn Minh Tuệ, 1992: “Dân số học là khoa học
nghiên cứu những quy luật của tái sản xuất dân số
trong những điều kiện xã hội và lịch sử cụ thể, trên
một lãnh thổ nhất định”.
Tuy có nhiều định nghĩa về Dân số học của nhiều
nhà nghiên cứu khác nhau đưa ra, nhưng chung quy
lại, các định nghĩa đều có một số điểm chung nhất
định: Dân số học là môn khoa học xã hội độc lập,
nghiên cứu tính quy luật của tái sản xuất dân cư thông
qua các chỉ báo cơ bản như sinh, tử, chuyển cư, hôn
nhân… và các điều kiện kinh tế xã hội liên quan đến
nó.
Nói cách khác, Dân số học là khoa học về dân số,
có nhiệm vụ nghiên cứu các quy luật tái sản xuất dân
cư trong những điều kiện lịch sử, kinh tế xã hội cụ thể
trên một lãnh thổ nhất định.
Như một ngành khoa học xã hội độc lập, Dân số
học tìm hiểu tính quy luật và những điều kiện xã hội
liên quan đến các quá trình sinh, tử, hôn nhân, chấm
Su tm b i:
www.daihoc.com.vn

4
dứt hôn nhân, tái sản xuất dân cư trong mối quan hệ
thống nhất biện chứng của các quá trình này.
Dân số học không những xem xét sự thay đổi kết
cấu dân số theo lứa tuổi và giới tính, theo tình trạng
hôn nhân và gia đình, mối quan hệ qua lại giữa các
quá trình với kết cấu dân số, mà còn đề cập đến tính
quy luật thay đổi số dân và gia đình như là kết quả của
sự tác động lẫn nhau giữa các hiện tượng nói trên.
1.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ NỘI DUNG NGHIÊN
CỨU
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Theo quan điểm duy vật biện chứng, xã hội loài
người tồn tại và phát triển không ngừng nhờ quá trình
tái sản xuất xã hội. Quá trình này gồm hai bộ phận: tái
sản xuất vật chất tạo ra của cải vật chất nuôi sống loài
người và tái sản xuất dân cư để duy trì và phát triển
nhân loại.
Đối tượng nghiên cứu của Dân số học chính là
quá trình tái sản xuất dân cư. Đó là quá trình thay đổi
liên tục các thế hệ con người, trong đó, thế hệ trẻ thay
thế thế hệ già thông qua hai quá trình bộ phận là sinh
sản và tử vong trong những điều kiện kinh tế - xã hội
cụ thể.
1.2.2. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu dân số bao gồm việc trình bày tình
hình dân số, phân tích các xu hướng và nhân tố ảnh
hưởng tới các quá trình dân số theo lãnh thổ (không
gian) hay theo nhóm dân cư ở các thời kỳ khác nhau.
Từ việc nghiên cứu các đặc điểm sinh, tử ở các thế hệ,
các nhóm xã hội và các lãnh thổ khác nhau, Dân số
Su tm b i:
www.daihoc.com.vn

5
học đánh giá một cách khách quan, chính xác sự thay
đổi của chúng trong tương lai dựa vào những dự báo
dân số. Trên thực tế, có ba lĩnh vực nghiên cứu chính:
Quy mô và cơ cấu dân số
Đối với khoa học dân số thì vấn đề đầu tiên khi
nghiên cứu một dân cư nào đó là quy mô của nó, tức
là tổng số dân, thường được thống kê theo những
phạm vi hành chính lãnh thổ nhất định. Tuy mỗi thành
viên dân cư của một vùng đều có điểm chung là cùng
sống trên một lãnh thổ nhưng họ cũng có nhiều điểm
khác nhau do đó dân số còn được nghiên cứu về mặt
cơ cấu. Việc tìm hiểu quy mô và cơ cấu dân số nhằm
cung cấp những đặc điểm về tình trạng của dân số tại
một thời điểm nhất định.
Các quá trình ảnh hưởng đến quy mô và cơ
cấu dân số
Dân số không chỉ được nghiên cứu ở trạng thái
tĩnh tại một thời điểm, mà còn được nghiên cứu ở
trạng thái động. Sự đổi mới không ngừng của dân cư
một vùng là kết quả tổng hợp của các sự kiện sinh,
chết, di dân và các yếu tố xã hội tạo nên quá trình biến
động dân số. Biến động dân số hay phát triển dân số là
nội dung quan trọng của Dân số học được nghiên cứu
theo ba khía cạnh: biến động tự nhiên, biến động cơ
học và biến động xã hội của dân số.
Biến động dân số diễn ra liên tục từ quá khứ đến
hiện tại và tương lai. Dân số hiện tại là kết quả của sự
gia tăng dân số trong quá khứ, dân số tương lai là kết
quả của khuynh hướng gia tăng trong hiện tại. Vì vậy,
Su tm b i:
www.daihoc.com.vn