Nói chung, ngôn ngữ báo chí cần phải ngắn. Ngôn ngữ chính luận thường dài.
1. CÂU NGẮN
«Câu ngắn thường có đặc điểm rõ ràng, sáng sủa, thích hợp với việc miêu tả những hoạt động, những sự kiện dồn dập cùng xuất hiện. Âm điệu của câu ngắn mang tính chất khẩn trương, mạnh mẽ. »
[Bùi Tất Tươm chủ biên, 1995, 231]
Ví dụ :
Đi đầu quân. Đi đầu quân Tất cả cho tiền tuyến! Mau lên đi ! Hỡi các anh trai làng !
(Hoàng Việt, Lá xanh)
Câu ngắn thích hợp cho việc khẳng định hay phủ định một ý kiến nào đó trong văn bản chính luận.
Trong văn xuôi tiếng Việt, nhà văn Nguyễn Công Hoan và Chủ tịch Hồ Chí Minh là những người thích viết câu ngắn.
2. CÂU DÀI
«Câu dài thường có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều thành phần câu, thích hợp với việc miêu tả một khung cảnh rộng lớn, những suy tưởng, cảm xúc kéo dài, những độc thoại trữ tình tha thiết. »
[Bùi Tất Tươm chủ biên, 1995, 231]
Câu dài có sức tải lớn, dùng để diễn tả những lý lẽ cần được trình bày cụ thể. Vì vậy nó xuất hiện nhiều trong phong cách ngôn ngữ chính luận và phong cách ngôn ngữ khoa học.
135
PHẦN IV CÁC PHÉP TU TỪ CỦA TIẾNG VIỆT
CHƯƠNG I CÁC PHÉP TU TỪ NGỮ ÂM
Là những phép tu từ sử dụng chất liệu ngữ âm để tạo ra hiệu quả diễn đạt đặc biệt.
Những phép tu từ ngữ âm thường được sử dụng: tượng thanh, điệp thanh, điệp âm, điệp vần, hài âm.
I. TƯỢNG THANH (ONAMATOPOEIA)
1. Khái niệm
Tượng thanh là phép tu từ mô phỏng âm thanh của thực tế bằng cách dùng những yếu tố ngữ âm có dáng vẻ tương tự.
Gió đập cành tre khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
(Hồ Xuân Hương, Hang cắc cớ)
2. Phân loại
Có hai loại: tượng thanh trực tiếp và tượng thanh gián tiếp.
2.1. Tượng thanh trực tiếp
Tượng thanh trực tiếp là cách thức biểu hiện âm thanh thực tế bằng từ tượng thanh.
Từ tượng thanh là từ mô phỏng âm thanh, như: ầm ầm, loong coong, tí tách, cộp, bịch, bốp, ... Mỗi từ tượng thanh đều liên quan đến một âm thanh nhất định, như tiếng mưa rơi lộp bộp, tiếng trống thì thùng, tiếng đồng hỗ gõ tích tắc, tiếng lợn kêu eng éc.
Cùng một âm thanh trong thực tế nhưng cách mô tả âm thanh đó lại khác nhau giữa các ngôn ngữ.
L. Uspenski viết: “Hãy lấy một con vịt bình thường làm ví dụ người Nga chúng ta cho rằng con vịt này nó kêu kriskrja, còn theo người Pháp tiếng kêu của con vịt ấy phải là kuen – kuen” (3, 61 – 62) (Tất nhiên người Việt lại nghĩ con vịt ấy kêu cạc cạc).
Ngay trong cùng một ngôn ngữ có thể có những từ tượng thanh khác nhau diễn đạt cùng một nội dung hay với những nội dung gần nhau. Chẳng hạn, trong tiếng Việt để diễn đạt tiếng kêu của gà có từ cục tác, tục tác; tiếng kêu của vịt: cạc cạc, quạc quạc; tiếng khóc trẻ con: oa oa, oe oe v.v…
Trong tiếng Hán, từ tượng thanh còn gọi là từ tự thanh (từ giống với âm thanh), là từ loại đặc thù trong tiếng Hán, không thuộc thực từ cũng không thuộc hư từ.
Trong tiếng Việt, từ tượng thanh rất phong phú (khoảng 700 từ) và được xếp vào từ loại tính từ.
Từ tượng thanh làm cho việc biểu đạt ngôn ngữ thêm sinh động, hình tượng.
136
Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Om sòm trên vách bức tranh gà. Chí cha chí chát khua giầy dép Đen thủi đen thui cũng lượt là.
(Tú Xương, Xuân)
Xét về ngữ pháp, từ tượng thanh có thể dùng độc lập để tạo thành một câu đặc biệt.
Róc rách! Róc rách! Nước luồn qua khóm trúc Lá rơi! Lá rơi! Xoay tròn nước cuốn trôi (Hoàng Việt, Nhạc rừng)
Khi tham gia vào trong câu với những từ khác, từ tượng thanh có thể làm vị ngữ, bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ. Ví dụ:
+ Làm vị ngữ:
Tiệc bày thưởng tướng, khao binh,
Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
(Nguyễn Du. Truyện Kiều)
+ Làm bổ ngữ:
Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt, Chị Dậu rón rén bưng lên một bát lớn đến chỗ chồng nằm.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Từ tượng thanh thường dùng nhiều trong khẩu ngữ hoặc văn viết mang tính miêu tả. Ví dụ:
Mưa đến rồi, lẹt đẹt … lẹt đẹt … mưa giáo đầu. Những giọt nước lăn xuống mái phên nứa: mưa thực rồi. Mưa ù xuống khiến cho mọi người không tưởng tượng được là mưa kéo đến chóng thế. Lúc nãy là mấy giọt lách tách, bây giờ là bao nhiêu nước tuôn rào rào. Nước xiên xuống, lao xuống, lao vào bụi cây. Lá đào, lá na, lá sói vẫy tai run rẩy. Con gà sống ướt lướt thướt ngật ngưỡng tìm chỗ trú. Mưa xuống sầm sập, giọt ngã, giọt bay, bụi nước tỏa trắng xóa. Trong nhà bỗng tối sầm, một mùi nồng ngai ngái, cái mùi xa lạ, man mác của những trận mưa mới đầu mùa. Mưa rào rào trên sân gạch. Mưa đồm độp trên phên nứa, đập bùng bùng vào lòng lá chuối. Tiếng giọt tranh đổ ồ ồ ….
(Tồ Hoài, Mưa rào)
Trong ngôn ngữ nghị luận hoặc thuyết minh thường không dùng loại từ này.
2.2. Tượng thanh gián tiếp
Tượng thanh gián tiếp là cách thức mô phỏng, tái hiện âm thanh thực tế bằng một ấn tượng, biểu tượng âm thanh qua nhịp điệu, tiết tấu của câu thơ, câu văn. Ví dụ:
Cúc cu! Cúc cu! Chim rừng ca trong nắng Im nghe! Im nghe! Ve rừng kêu liên miên Rừng hát gió lay trên cành biếc Lao xao! Rì rào! Dòng suối uốn quanh làn nước trôi trong xanh
(Hoàng Việt, Nhạc rừng)
137
II. ĐIỆP THANH
1. Khái niệm
Điệp thanh là phép tu từ tạo ra sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại thanh điệu
của âm tiết nhằm mục đích tăng sức biểu cảm cho câu thơ, câu văn. Ví dụ: Tài cao phận thấp chí khí uất, Giang hồ mê chơi quên quê hương.
(Tàn Đà, Thăm mả cũ bên đường)
2. Phân loại
2.1. Điệp thanh bằng
Đây là kiểu điệp thanh thường gặp. Nói chung, khi các tiếng có thanh bằng lặp lại thì diễn tả một cái gì đó bằng phẳng, êm ái, dàn trải, du dương, nhẹ nhàng, . . Ví dụ :
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.
(Xuân Diệu, Nhị hồ)
2.1. Điệp thanh trắc
Kiểu điệp thanh này ít gặp. Khi các tiếng có thanh trắc lặp lại thì diễn tả một cái gì đó
khúc mắc, trắc trở, gập ghềnh, . . . Ví dụ : Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối Vài miếng đêm u uất lẫn trong cành
Mây theo chim về dãy núi xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng và lặng lẽ.
(Xuân Diệu, Tương tư chiều)
2.3. Điệp cùng một thanh
Trường hợp này rất hiếm gặp. Tuỳ theo thanh được điệp mà ý nghĩa của câu thơ (văn) sẽ mang âm điệu buồn bã, nặng nề, mệt nhọc, gập ghềnh, khúc khuỷu hoặc thanh thoát, bay bổng, … Ví dụ:
Trời buồn làm gì trời rầu rầu, Anh yêu em xong anh đi đâu? Lắng tiếng gió suối thấy tiếng khóc, Một bụng một dạ một nặng nhọc. Ảo tưởng chỉ để khổ để tủi, Nghĩ mãi gỡ mãi lỗi vẫn lỗi. Thương thay cho em căm thay anh, Tình hoài càng ngày càng tầy đình. (Lê Ta, Tình hoài)
III. ĐIỆP PHỤ ÂM ĐẦU
1. Khái niệm
Điệp phụ âm đầu là phép tu từ tạo ra sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại âm đầu của ấm tiết nhằm mục đích tăng tính tạo hình và biểu cảm cho câu thơ. Ví dụ:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
138
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
(Xuân Diệu, Đây mùa thu tới)
Phụ âm đầu, tự bản thân, có một giá trị tạo hình, biểu cảm nhất định do cơ cấu ngữ âm của nó. Cho nên giá trị tu từ của phép điệp âm do đặc tính ngữ âm của phụ âm được lặp lại.
2. Phân loại
Có hai loại:
+ Trùng điệp phụ âm đầu
+ Điệp phụ âm đầu theo từng nhóm.
2.1. Trùng điệp phụ âm đầu
Đây là kiểu điệp thường gặp. Có thể là dạng điệp liên tiếp hoặc điệp gián cách. Ví dụ:
+ Thông reo bờ suối rì rào Chim chiều chíu chít ai nào kêu ai
(Tố Hữu, Tiếng hát đi đày)
+ Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt Làn ao lóng lánh bóng trăng loe
(Nguyễn Khuyến, Thu ẩm)
2.2. Điệp phụ âm đầu theo từng nhóm
Đây là hình thức điệp rất hiếm gặp. Ví dụ:
Nỗi niềm chi rứa, Huế ơi! Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu, Nước non ngàn dặm)
IV. ĐIỆP VẦN
1. Khái niệm
Điệp vần là phép tu từ tạo ra sự trùng điệp âm hưởng bằng cách lặp lại những âm tiết có phần vần giống nhau nhằm tăng sức biểu hiện và nhạc tính cho câu thơ.
Lá bàng đang đỏ ngọn cây Sếu giang mang lạnh đang bay ngang trời Mùa đông còn hết em ơi Mà con én đã gọi người sang xuân!
(Tố Hữu, Tiếng hát sang xuân)
Điệp vần nhất thiết phải gắn với điệp nguyên âm, nhưng ngược lại thì không đúng.
Theo luật thơ, kiểu điệp vần này được gọi là điệp « vần liền » (vần gieo trong nội bộ một câu thơ).
Tố Hữu là nhà thơ rất hay dùng hình thức điệp vần liền với nhiều kiểu khác nhau.
2. Phân loại Có ba loại: (a) điệp vần móc xích, (b) điệp vần gián cách, và (c) điệp vần theo dãy
139
2.1. Điệp vần móc xích
Là cách thức điệp hai vần kế tiếp, quyện vào nhau làm giàu âm hưởng cho câu thơ.
Mấy chàng lính trẻ măng tơ Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi.
(Tố Hữu, Nước non ngàn dặm)
2.2. Điệp vần gián cách
Là cách thức điệp hai vần cách quãng nhau qua một số âm tiết khác. Cách thức điệp vần này tạo sự hoà phối ngữ âm.
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà rào rạt bến nước Bình Ca
(Tố Hữu, Ta đi tới)
2.3. Điệp vần theo dãy
Là cách thức điệp vần đồng loạt nhiều âm tiết (từ ba âm tiết trở lên) trong cùng một câu thơ, câu văn. Cách điệp vần này nhằm nhấn mạnh, khắc sâu ấn tượng âm thanh mang tính tạo hình, biểu cảm.
Cách điệp vần đồng loạt có thể phối hợp hai cách điệp vần vừa nói ở trên. Ví dụ :
Một lũ xác xè xè, le te, đui què, bẹp dí
Một thân hình ma quỷ Mỹ nằm queo...
(Xuân Diệu)
V. HÀI ÂM (EUPHONY)
Hài âm là phép tu từ sử dụng tổng hợp các yếu tố ngữ âm nhằm tạo nên sự phù hợp giữa hiệu quả biểu hiện cảm xúc của hình tượng âm thanh với nội dung biểu hiện của câu thơ.
Phép tu từ hài âm còn được gọi là hài thanh.
Ví dụ
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thẳm, không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
(Thâm Tâm, Tống biệt hành)
Trong đoạn thơ này có điệp thanh (Đưa người, ta không đưa qua sông; Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?), điệp vần (tiếng sóng ở trong lòng; trong mắt trong), có tượng thanh gián tiếp (thanh điệu của các tiếng thay đổi lên xuống phù hợp với nỗi lòng lúc trầm buồn, lúc xốn xang, buồn lắng, suy tư).
BÀI TẬP
Xác định phép tu từ ngữ âm có trong các ví dụ sau và phân tích giá trị biểu đạt của phép tu từ đó:
a/ Cả cuộc đời cha đi bộ đội
Quà về cho mẹ là mái tóc pha sương
140
Và trên ngực những vết thương
Cứ trở gió lại đau nhức nhối
Chiếc ba lô gió sương đã gội
Gia tài cha tặng mẹ… chỉ thế thôi
(Đoàn Ngọc Thu, Muộn)
b/
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời. Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi (Quang Dũng, Tây Tiến)
c/ Chân trời lui mãi lan lan rộng
Hy vọng tràn lên đồng mênh mông...
(Tố Hữu, Dưới trưa)
d/ Lửa bập bùng, tiếng chày khua cắc cum cụp cùm cum
Cúp cụp cum, cúp cụp cum cắc cum cụp cùm cum
(Xuân Hồng, Tiếng chày trên sóc Bom Bo)
e/ Đã thương thì thương cho chắc
Bằng như trục trặc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ nọ đứng đầu truông
Khi vui giỡn bóng, khi buồn ngắm trăng.
(Ca dao)
f/Vút ngựa vượt qua đèo, Rì rầm tiếng suối reo. Xuống đèo trời mới tối, Vằng vặc mảnh trăng treo. Ngựa mỏi đi bước một Người suy nghĩ vấn vương. Nhiều khi ý kiến lớn Vụt đến lúc đi đường.
(Sóng Hồng, Đi họp)
141
CHƯƠNG II CÁC PHÉP TU TỪ TỪ VỰNG – NGỮ PHÁP
Các phép tu từ từ vựng – ngữ pháp của tiếng Việt được chia làm 6 nhóm:
Nhóm liên tưởng tương đồng
Nhóm liên tưởng tương cận
Nhóm phái sinh
Nhóm quy chiếu về diễn ngôn nguồn Các phép tu từ từ vựng – ngữ pháp
Nhóm trật tự cấu trúc khác thường
Nhóm chuyển nghĩa cấu trúc
Bảng tổng hợp các phép tu từ từ vựng – ngữ pháp
Nhóm LIÊN TƯỞNG TƯƠNG ĐỒNG
Nhóm TRẬT TỰ CẤU TRÚC KHÁC THƯỜNG
1 2 3 4 5 6
1 2 3 4 5 6
điệp ngữ (repetition) điệp hư từ điệp cú pháp sóng đôi cú pháp (parallelism) đảo ngữ (inversion) tương phản (antithesis)
7
7
đảo đối
so sánh (simile) ẩn dụ (metaphor) ẩn dụ bổ sung nhân hoá (personification) vật hoá (reification) phúng dụ (allegory) định ngữ nghệ thuật (épithete artistique)
Nhóm LIÊN TƯỞNG TƯƠNG CẬN
nghịch ngữ (oxymoron + pardox) nghịch dụ (oxymoron) nghịch lý (paradox)
1 2 3 4
hoán dụ (metonymy) cải dung (synecdoche) cải số cải danh
liệt kê (enumeration) tăng cấp tiệm tiến (climax, climbing figure) tiến thoái (anticlimax)
1 2 3 4 5 6
8 9 10 11 đồng nghĩa kép 12 13 14 15 16 đột giáng 17 18 19
Nhóm PHÁI SINH tượng trưng (symbolism) khoa trương (hyperbole) nói giảm (meiosis /litotes) uyển ngữ (litotes) nhã ngữ
im lặng (ellipsis) tách biệt cú pháp câu tuần hoàn (period)
Nhóm QUY CHIỀU VỀ DIỄN NGÔN NGUỒN
1 2
1 2 3 4 5
chơi chữ (pun) nói lái (spoonerism) dẫn ngữ (dụng điển) nhại (parody) tập Kiều
Nhóm CHUYỂN NGHĨA CẤU TRÚC câu hỏi tu từ (rhetorical question) nói mỉa (irony)
142
A. NHÓM LIÊN TƯỞNG TƯƠNG ĐỒNG
I. SO SÁNH (SIMILE)
1. Khái niệm
So sánh là đối chiếu hai đối tượng cùng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tượng định nói tới.
Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
(Ca dao)
2. Cấu tạo
Dạng đầy đủ:
+ có 2 vế: vế cần so sánh (A) và vế dùng so sánh (B)
+ 4 thành tố cấu tạo: (1) đối tượng so sánh; (2) cơ sở so sánh; (3) từ ngữ so sánh; (4) hình ảnh so sánh.
Lòng ta vẫn vững / như kiềng ba chân.
ĐTSS CSSS TNSS HASS A B
Thành tố quan trọng nhất, không thể vắng mặt: hình ảnh so sánh (B).
3. Phân loại
3.1.Phân loại theo công thức so sánh
3.1.1. A như B (như là, giống như, tựa, tựa như, dường như, …)
Thiếp như hoa đã lìa cành Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Áo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
(Đặng Trần Côn, Chinh phụ ngâm)
3.1.2. A bao nhiêu B bấy nhiêu
Qua cầu ngả nón trông cầu Cầu bao nhiêu nhịp, dạ em sầu bấy nhiêu.
(Ca dao)
3.1.3. A là B (*)
Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền Thuyền xô sóng dậy Sóng đẩy thuyền lên
Ghi chú : Một số tài liệu cho dạng « A là B » là ẩn dụ.
(Tố Hữu, Lời đề từ tập Việt Bắc)
143
3.2.Phân loại theo độ đầy đủ về cấu trúc
3.2.1. So sánh có cấu trúc đầy đủ
3.2.2. So sánh tỉnh lược cấu trúc
+ Thiếu cơ sở so sánh:
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Ca dao)
+ Thiếu từ ngữ so sánh
Gái thương chồng đang đông buổi chợ, Trai thương vợ nắng quái chiều hôm.
(Tục ngữ)
3.3.Phân loại theo vị trí của hai vế
3.3.1. Vế B đứng sau vế A (so sánh thuận)
Công thức: A x B
3.3.2. Vế B đứng trước vế A (so sánh đảo)
Công thức: x B, A
Như chiếc đảo bốn bề chao mặt sóng Hồn tôi vang tiếng vọng cả hai miền.
(Tế Hanh, Bài thơ tháng bảy)
3.4. Phân loại theo tương quan cụ thể – trừu tượng
3.4.1. So sánh cụ thể → cụ thể
Quả cà chua như chiếc đèn lồng nhỏ xíu Thắp mùa đông ấm những đêm thâu.
(Phạm Tiến Duật, Lửa đèn)
3.4.2. So sánh cụ thể → trừu tượng
Tình ta như hàng cây Đã qua mùa bão gió Tình ta như dòng sông Đã yên mùa thác lũ
(Xuân Quỳnh, Thơ tình cuối mùa thu)
3.4.3. So sánh trừu tượng → cụ thể
Cỏ bờ đê rất lạ Xanh như là chiêm bao
(Xuân Quỳnh, Thơ xuân viết cho con)
Quả bắt đầu chín lự Ngọt như nỗi nhớ nhà.
(Anh Thơ, Tiếng chim tu hú)
3.4.4. So sánh trừu tượng → trừu tượng
144
Anh nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Nghe xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
3.5. Phân loại theo quy mô
3.5.1. So sánh đơn giản
3.5.2. So sánh phức hợp:
+ So sánh với nhiều đối tượng cùng một lúc (trùng điệp so sánh):
A như B1
B2
B3 . .
Cuộc đời cũng đìu hiu như dặm khách
Mà tình yêu như quán trọ bên đường
Mái tranh tàng đỡ rét một đêm sương
Vò nước lã mát xoàng đôi buổi nắng.
( Xuân Diệu, Chỉ ở lòng ta)
+ Về so sánh phát triển dài, cấu trúc phức tạp hoá:
Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa cũng đứng im, lóng lánh như một giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ quê ta gặp chồng sau mười năm trời gian lao và cách biệt.
(Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi)
4. Tác dụng
+ Tác dụng:
Tác dụng chủ yếu: nhận thức. Cách nói ví von, hình ảnh thấm thía của phép so sánh giúp người nghe hiểu sâu sắc nội dung cần truyền đạt.
So sánh còn tăng cường sức mạnh bình giá, thể hiện khả năng tạo hình, diễn cảm; nêu lên một cách tri giác mới mẻ về đối tượng.
+ Phạm vi sử dụng:
Phép tu từ so sánh được dùng trong nhiều phong cách ngôn ngữ, đặc biệt trong phong cách khẩu ngữ và phong cách văn chương.
5. Lưu ý
Phân biệt so sánh tu từ với so sánh logic:
“Về mặt cấu trúc hình thức, so sánh tu từ và so sánh logic hoàn toàn giống nhau.
Thí dụ :
Tôi cao như anh. (logic)
Tiếng suối trong như tiếng hát xa. (tu từ)
Sự khác nhau nằm trong chiều sâu của hai kiểu so sánh này.
Trong so sánh logic, A và B là những đối tượng cùng loại, cùng bản chất, còn trong so sánh tu từ, A và B là những đối tượng vốn không cùng loại, khác bản chất nhưng theo một 145
cách nhìn nào đó, người ta phát hiện một nét giống nhau, giữa chúng. Nét giống nhau ấy được gọi là hạt nhân nội dung của phép so sánh tu từ tương đồng. Chính thông qua hạt nhân này mà hai đối tượng A và B, vốn rất xa nhau, bỗng xích lại gần nhau mà soi tỏ cho nhau.
Một so sánh tu từ có nhiều giá trị biểu đạt phải bảo đảm được sự thống nhất giữa hai tính chất đối lập: quen và lạ (A và B phải là những đối tượng quen biết của toàn dân tộc; còn nét giống nhau giữa chúng phải là điều phát hiện lần đầu của nhà văn).
Cũng cần phân biệt tính tương đương và tính khái niệm của so sánh logic với tính khoa trương và tính hình tượng của so sánh tu từ.”
[Nguyễn Nguyên Trứ 1988, 100-101]
Nói gọn lại, so sánh tu từ học khác so sánh logic ở ba yếu tố cơ bản sau:
+ Tính hình tượng + Tính biểu cảm + Tính dị loại (không cùng loại) của sự vật.
BÀI TẬP
1.Xác định cấu tạo của những so sánh tu từ có trong các ví dụ sau đây:
a/ Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười tình của một cô gái Mèo.
(Nguyên Ngọc, Rẻo cao)
b/
Đừng viết những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
Như cây quá thẳng chim không về.
(Chế Lan Viên, Sổ tay thơ)
c/
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
(Xuân Diệu, Lời kỹ nữ)
d/ Một giọng hát dân ca, ngân nga bát ngát như cánh cò trên đồng lúa miền Nam chạy tới chân trời, có lúc rụt rè e thẹn như khoé mắt người yêu mới gặp, có lúc tinh nghịch duyên dáng như những đôi chân nhỏ thoăn thoắt gánh lúa chạy trên những con đường làng trộn lẫn bóng tre và bóng nắng.
(Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi)
e/
Hồn anh như hoa cỏ may Một chiều gió cả bám đầy áo em.
(Nguyễn Bính, Hoa cỏ may)
f/
Lòng ta trống lắm, lòng ta sụp Như túp nhà không bốn vách xiêu
(Xuân Diệu, Bên ấy bên này)
2. Phát hiện và phân tích những điểm đắc sắc (về cấu trúc, hính ảnh so sánh, ý nghĩa bình giá,...) của những so sánh tu từ trong những câu sau:
a/ Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái.
(Nam Cao, Một bữa no)
b/ Trên kia, trăng nhởn nhơ như một cô gái non vừa mới có nhân tình.
(Nam Cao, Trăng sáng)
146
c/ Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.
(Thanh Tịnh, Tôi đi học)
d/ Trời thì cay nghiệt như một bà già thiếu ăn ngay từ lúc còn thơ.
(Nam Cao, Trẻ con không được ăn thịt chó)
e/
Buổi diễn thuyết người đông như hội,
Kỳ bình văn khách đến như mưa.
(Thơ văn Đông kinh nghĩa thục)
f/
Xuân là lúc gió về không định trước. Đông đang lạnh bỗng một hôm trở ngược, Mây bay đi để hở một khung trời Thế là xuân. Ngày chỉ ấm hơi hơi, Như được nắm một bàn tay son trẻ...
(Xuân Diệu, Xuân không mùa)
g/
Con người không có tình yêu Như trái đất này không có lá
(Lâm Thị Mỹ Dạ, Như lá)
h/
Mẹ! Cao - Lạng hoàn toàn giải phóng Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn Vệ quốc quân chiếm lại các đồn Người đông như kiến, súng dày như củi.
(Nông Quốc Chấn, Dọn về làng)
i/ Còn Hồ Dzếnh là “giọng kể chân thật, từ tốn với rất nhiều thương cảm xót xa. Mỗi câu chuyện như một tiếng thở dài, như một niềm tự vấn day dứt khôn nguôi.
(Trần Hữu Tá).
k/ Buồn như giọt máu
(Trịnh Công Sơn, Lặng lẽ nơi này)
l/ Tựa một quan toà, cái dạ dày tuy lặng lẽ nhưng vẫn nêu lên những câu hỏi.
(Tục ngữ Nga)
m/
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa Làn nước qua ánh mắt ai đưa Cơn gió đến bàn tay em vẫy
(Tế Hanh, Bài thơ tình ở Hàng Châu)
3. Trong các ví dụ sau đây, đâu là so sánh tu từ, dâu là so sánh logic?
a/ Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo Khi tới trường, cô giáo như mẹ hiền.
(Lời bài hát)
b/ Chao ôi, có ai thích xòe đã nghe thấy cái tiếng thở dài ấy của bà mẹ Thái nó buồn hơn cả cái tiếng vật mình của cối nước giã gạo đêm.
(Nguyễn Tuân, Xoè)
c/ Anh và em cổ xưa như biển cả
147
Biển dịu dàng ru ngủ vỗ về ta Anh và em cổ xưa như nỗi khổ Tự ngàn đời ta muốn tránh cho xa
(Evghenhi Evtushenko, Yên lặng, Người dịch: Bằng Việt)
3/ Những so sánh sau đây là đối tượng nghiên cứu từ vừng học hay của tu từ học?
Mặt xanh như tàu lá Nhanh nhu sóc Chậm như rùa (sên) Tối như hũ nút Gan cóc tía
II. ẨN DỤ (METAPHOR)
1. Khái niệm
Ẩn dụ (so sánh ngầm, ví ngầm) là phép tu từ xây dựng cơ sở trên một phép so sánh tu từ được hiểu ngầm.
Ai làm cho bướm lìa hoa Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.
(Ca dao)
Bướm, chim xanh → chàng trai Hoa → cô gái Vườn hồng → trái tim, tình cảm của người con gái.
2. Cấu tạo
Chỉ có một vế B (hình ảnh so sánh), đối tượng muốn nói tới (vế A) vắng mặt, phải suy luận mới hiểu.
Ẩn dụ tu từ biểu hiện kín đáo, ý vị hơn so sánh tu từ.
3. Phân loại
3.1. Căn cứ vào đặc điểm cụ thể hay trừu tượng của đối tượng so sánh và vật so sánh
3.1.1. Ẩn dụ cụ thể → cụ thể
Có quán tình phụ cây đa Ba năm quán đổ cây đa vẫn còn.
(Ca dao)
3.1.2. Ẩn dụ cụ thể → trừu tượng
Gìn vàng giữ ngọc cho hay Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Vàng, ngọc → thân thể, phẩm hạnh.
3.1.3. Ẩn dụ trừu tượng → cụ thể
Ví dụ:
3.1.4. Ẩn dụ trừu tượng → trừu tượng
Ví dụ:
148
3.2. Căn cứ vào nét tương đồng giữa đối tượng so sánh và vật so sánh [Cù Đình Tú 2001, 180-181]
3.2.1. Ẩn dụ hình thức
3.2.2. Ẩn dụ cấu trúc
3.2.3. Ẩn dụ chức năng
3.2.4. Ẩn dụ tính chất
Tay bưng chén muối đĩa gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
(Ca dao)
3.2.5. Ẩn dụ hoạt động
Liệu bề đát được thì đươn Đừng gầy rồi bỏ thế thường cười chê.
(Ca dao Nam Bộ)
... ...
Kết quả phân loại là một hệ thống mở.
3.3. Căn cứ vào từ loại và chức năng của từ [Đinh Trọng Lạc 1999, 244-246]
3.3.1. Ẩn dụ định danh
Là loại ẩn dụ cung cấp tên gọi mới cho từ vựng, còn gọi là ẩn dụ từ vựng (ẩn dụ chết – dead metaphor). Ví dụ: ruột bút, tay ghế, cổ lọ, má phanh, ...
Quan điểm của giáo trình: Đây không phải là đối tượng nghiên cứu của Phong cách học.
3.3.2. Ẩn dụ nhận thức
Là loại ẩn dụ chuyển nghĩa từ cách dùng cụ thể sang trừu tượng. Ví dụ: tâm hồn giá lạnh, tuổi xuân mơn mởn, dòng sông hiền hoà, lịch sử sang trang, thời gian lên tiếng, ...
Loại ẩn dụ này còn gọi là ẩn dụ tri nhận (cognitive metaphor) hoặc ẩn dụ ý niệm (conceptual metaphor) hiện nay được nghiên cứu rất kỹ trong Ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive linguistics).
3.3.3. Ẩn dụ hình tượng
Là loại ẩn dụ tạo ra những từ ngữ đồng nghĩa hình tượng, biểu cảm trong sáng tạo của cá nhân nhà văn, nhà thơ. Ví dụ:
Nàng rằng khoảng vắng đêm trường Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
hoa → người tình hào hoa, phong nhã.
Loại ẩn dụ này là đội tượng nghiên cứu chủ yếu của tu từ học truyền thống.
4. Tác dụng
Ẩn dụ là cách định danh sự vật bằng hình ảnh, in đậm dấu vết chủ quan của người dùng. Quy luật biểu hiện của ẩn dụ là “lấy xa để nói gần, lấy vòng nói thẳng, lấy kín nói hở, lấy ít nói nhiều” (Lê Anh Hiền). Các ẩn dụ đẹp thường làm bùng nổ nhiều liên tưởng ngữ nghĩa kỳ thú cho người đọc, người nghe. Ví dụ:
149
Anh chị em thân mến, sau Đức Giáo hoàng vĩ đại Gioan Phaolô II, các Hồng y đã
chọn tôi, một người làm công đơn sơ và khiêm nhường trong vườn nho của Chúa.
(Hồng Y Ratzinger, Lời phát biểu nhậm chức Giáo hoàng)
Ẩn dụ được dùng nhiều trong các phong cách ngôn ngữ văn chương, chính luận, báo chí, khẩu ngữ.
Ví dụ trong văn chính luận:
“Đặng Tiểu Bình không phải là Chu Ân Lai, tác phong của ông khác Chu Ân Lai, Chu Ân Lai chú ý sách lược, làm cho mình có thể dừng trên mặt nước, nhưng không thể thay đổi phương hướng chủ yếu của dòng nước chảy xiết. Đặng Tiểu Bình lại không thuận theo dòng nước xiết, mà là lập tức đắp đập ngăn dòng nước ấy lại.”
(Pa-ra-xi Đa-nây-si, Đặng Tiểu Bình)
Sức mạnh chủ yếu của ẩn dụ (ẩn dụ truyền thống) là biểu cảm.
Ẩn dụ là một phép tu từ đặc biệt quan trọng trong diễn đạt (ẩn dụ tu từ) và trong nhận thức về thế giới (ẩn dụ tri nhận).
5. Lưu ý
5.1. Ẩn dụ từ vựng (ẩn dụ chết – dead metaphor) và ẩn dụ tu từ (ẩn dụ sống – live metaphor)
+ ruột bút, lòng sông, chân trời, tâm bão, ...
+ Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ, bỗng bừng lên buổi bình minh của thời đại.
(Lê Duẩn)
5.2. Ẩn dụ tu từ và ẩn dụ tri nhận (cognitive metaphor)
BÀI TẬP
1. Gạch dưới những từ ngữ là ẩn dụ và cho biết dựa vào đâu để anh (chị) khẳng định được như vậy:
a/ Nếu cuộc sống là bông hoa thì tình yêu là mật ngọt ở trong đó.
(Vitor Huygo)
b/ Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời.
(Nam Cao, Chí Phèo)
c/ Bà lão, bị những lời tàn nhẫn ấy hắt vào mặt, quả nhiên không còn nói sao được nữa.
(Nam Cao, Một bữa no)
d/
Ta đẻ ra đời, sao khỏi những cơn đau?
Hãy biết ơn vị muối của đời cho thơ chất mặn!
(Chế Lan Viên, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng)
e/ Thanh đi trở vào rất thong thả. Có cái gì dịu ngọt chăng tơ ở đâu đây, khiến chàng vương phải. Chàng đến trường kỷ ngồi ở bên đèn.
(Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan)
f/
Em tưởng nước giêng sâu em nối sợi dây gầu dài
Ai ngờ nước giếng cạn, cứ tiếc hoài sợi dây!
150
(Ca dao)
g/
Cơn bão nghiêng đêm Cây gãy cành bay lá Ta nắm tay em Qua đường cho khỏi ngã
Cơn bão tạnh lâu rồi Hàng cây xanh thắm lại Nhưng em đã xa xôi
Và cơn bão lòng ta thổi mãi
(Tế Hanh, Bão)
h/ Thà sống dưới chế độ độc tài sắt đá còn hơn sống trong vàng son của vô chính phủ.
(Tục ngữ Na Uy)
2. Bài thơ sau đây có nhiều cách hiểu khác nhau, có một thời nó bị phê phán và bị cấm lưu hành. Theo anh (chị), từ ngữ nào trong bài thơ này là ẩn dụ, và ý nghĩa mà những từ ngữ đó muốn nói tới là gì?
Khói bom lên trời thành một cái vòng đen
Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong yên lặng
Cái yên lặng bình thường đến sau chiến tranh
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang, vòng tròn như một số không
Nhưng bạn ơi ở bên trong vòng trắng
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.
(Phạm Tiến Duật, Vòng trắng, 1/1974)
III. ẨN DỤ BỔ SUNG (Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác)
1. Khái niệm
Là loại ẩn dụ lấy trạng thái cảm giác của giác quan này sang chỉ trạng thái cảm giác của một giác quan khác.
Rằng anh có vợ hay chưa Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào?
(Ca dao)
Vị giác → thích giác
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn.
(Xuân Diệu, Huyền diệu)
Khứu giác → thính giác
151
2. Tác dụng
Là hình tượng nghệ thuật gợi nên những cảm giác lạ lùng thú vị vì như có thể cảm nhận được đối tượng một cách trực giác, cụ thể, có hình khối, màu sắc, mùi vị, âm thanh, trọng lượng, ... Ví dụ:
Chiều chúa nhật buồn Nằm trong căn gác đìu hiu Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều Trời mưa, trời mưa không dứt Ô hay mình vẫn cô liêu
(Trịnh Công Sơn, Lời buồn thánh)
3. Lưu ý
Phân biệt ẩn dụ bổ sung tu từ với những ẩn dụ bổ sung từ vựng.
Ví dụ ẩn dụ bổ sung từ vựng:
Hôm nay thấy trời lạnh quá.
(Khẩu ngữ)
Thị giác → xúc giác
IV. NHÂN HOÁ (PERSONIFICATION)
1. Khái niệm
Nhân hoá là phép tu từ gán cho những đối tượng không phải người (loài vật, sự vật, hiện tượng, khái niệm trừu tượng) những thuộc tính, phẩm chất của con người. Ví dụ:
Cứ thế, hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng.
(Nguyễn Trung Thành, Rừng xà-nu)
2. Phân loại
2.1. Theo đối tượng được nhân hoá
Có 4 loại.
2.1.1. Nhân hoá loài vật
(Nước mất, còn sông núi,
Quốc phá, sơn hà tại Thành xuân, thảo mộc thâm Cảm thời, hoa tiễn lệ Hận biệt, điểu kinh tâm Thành xuân, cỏ um tùm Biệt ly lòng chim hãi Cám cảnh, lệ hoa tuôn
( Đỗ Phủ, Xuân vọng) (Tương Như dịch)
2.1.2. Nhân hoá đồ vật
Cái trống trường em Mùa hè cũng nghỉ Suốt ba tháng liền Trống nằm ngẫm nghĩ (Thanh Hào, Cái trống trường em)
2.1.3. Nhân hoá sự vật
152
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Hàn Mặc Tử, Bẽn lẽn)
2.1.4. Nhân hoá hiện tượng
Tôi cô đơn, tôi góa vợ, buổi chiều ngã lên người tôi.
( Victor Huggo, Booz ngủ)
2.1.5. Nhân hoá khái niệm trừu tượng
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ, Câu đối Tết)
Sắc đẹp và sự trinh bạch thì luôn cãi cọ nhau.
(Tục ngữ Tây Ban Nha)
2.1.6. Nhân hoá một bộ phận cơ thể người
Khi anh vắng, bàn tay em biết nhớ.
(Xuân Quỳnh, “Bàn tay em”)
2.2. Theo cách thức nhân hoá
Có 3 loại.
2.2.1. Khoác cho đối tượng những thuộc tính, phẩm chất của con người (miêu tả)
Một buổi sáng hiền hoà, nó khẽ vươn mình và thở phào nhẹ nhõm bước ra mảnh vườn nhỏ trước nhà, khoan khoái ngắm nhìn những giọt sương vẫn còn cuộn mình trong kẽ lá ngủ ngon lành.
(Bài làm cùa SV)
2.2.2. Cho đối tượng xưng hô, nói năng như người
Buồn ơi chào mi
(Tên tiểu thuyết "Bonjours Tristesse" của nữ nhà văn Pháp, Françoise Sagan)
Con cút cụt đuôi ai nuôi mày lớn Dạ thưa bà, tôi lớn mình ên.
Ghi chú : Mình ên : từ địa phương Nam Bộ, có nghĩa là “một mình”.
(Ca dao Nam Bộ)
2.2.3. Coi đối tượng như người và tâm tình, trò chuyện với chúng (đối thoại)
Núi cao chi lắm núi ơi Núi che mặt trời chẳng thấy người thương.
(Ca dao)
3. Tác dụng
M. Gooc-ky có lần nói về tác dụng của phép nhân hóa như sau:
“Chúng ta thường đọc và thường nghe nói “Gió khóc gió rền rĩ, trăng chiếu mơ màng, sông thì thầm mấy khúc hùng ca xưa cũ, rừng cau mày, sóng muốn dịch đá đi, đá nhăn mặt chịu đòn nhưng không nhường sóng. Chiếc ghế càng cạc như vịt, chiếc ủng không muốn
153
leo lên chân, kính đổ mồ hơi, mặc dù kính làm gì có tuyến mồ hôi – tất cả những cái đó làm cho thiên nhiên dường như dễ hiểu hơn đối với chúng ta và chúng ta gọi đó là nhân hóa”
Nhân hoá làm cho thế giới đồ vật, loài vật trở nên sinh động, gần gũi. Ví dụ:
Con gà cục tác lá chanh, Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi. Con chó khóc đứng khóc ngồi, Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng.
(Ca dao)
Phần lớn các nhân hoá đều nhuốm màu sắc biểu cảm. Nhân hoá là một trong những cách thức để biểu lộ tình cảm của con người.
Nhân hoá có khi là một cách thức gửi gắm ngụ ý về những điều của thế giới loài người:
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
(Xuân Diệu, Vội vàng)
Trong văn chính luận, nhân hoá làm cho cách diễn đạt sinh dộng, di dỏm hơn.
Khi rượu vào thì sự khiêm tốn đội nón ra đi.
(Tục ngữ Italy)
Nhân hoá thường được sử dụng nhiều trong thơ văn thiếu nhi, văn phổ biến khoa học. Tô Hoài (“Dế Mèn phiêu lưu kỳ”) và Trần Đăng Khoa (“Góc sân và khoảng trời”) là hai tác giả sử dụng rất thành công phép nhân hoá trong văn chương tiếng Việt hiện đại.
Phép nhân hoá của người Việt thiên về nhân hoá loài vật, sự vật, ít sử dụng loài nhân hoá khái niệm.
BÀI TẬP
Trong các ví dụ sau, từ ngữ nào được sử dụng theo cách nhân hoá? Xác định loại nhân hoá và phân tích tác dụng biểu đạt của chúng:
a/ Những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong lên, hứng lấy trăng xanh rười rượi như là ướt nước. Thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành đạch như là hứng tình.
(Nam Cao, Chí Phèo)
b/
Cõi đời ơi khi tôi đã chết rồi, Thì trong vắng lặng của Người Chỉ một lời này còn lại: “Tôi đã từng yêu”.
(Tagore, Những con chim bay lạc – 277)
c/
Tôi, con đường quê nhỏ chạy lang thang, Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng. Đến cuối thôn kia hơi cỏ vướng Hương đồng quyến rũ hát lên vang.
(Tế Hanh, Lời con đường quê)
d/
Khi vận rủi gõ cửa thì bạn bè đều ngủ cả.
(Tục ngữ Ba Lan)
e/
PHƯƠNG TRÌNH SUY NGHĨ DÙM CHÚNG TA
154
Nếu bạn không tin rằng một phương trình lại có thể tiên đoán giỏi hơn cả chúng ta, xin bạn
hãy giải bài toán sau :
Một người cha 32 tuổi, con trai ông ta được 5 tuổi. Trong bao nhiêu năm nữa tuổi của cha
sẽ gấp mười lần tuổi con ?
Gọi x là số năm phải tìm.
Trong x năm, tuổi người cha sẽ là 32 + x và số tuổi con là 5 + x. Ta có phương trình :
32 + x = 10 (5+x) hay x = –2
“Trong 2 năm” có nghĩa là “đã hai năm”. Khi đặt phương trình, ta không ngờ được rằng trong tương lai tuổi của của cha sẽ không bao giờ gấp 10 lần tuổi con ; một tỉ số như vậy chỉ có thể tồn tại trong quá khứ. Phương trình đã tỏ ra chín chắn hơn chúng ta và đã vạch cho chúng ta thấy sai lầm của mình.
(Y. Pérelman, Đại số vui)
f/
Có ai thấy con gà mái, con gà mái kiếm thóc nơi đâu Mà sao con gà trống gáy, tiếng gáy khô khan buồn vấn than Lỡ làng bầy đàn, ly tan phũ phàng thân gà trống mang Cục ta cục tác... Cục ta cục tác... nhếch nhác nhếch nhác tội nghiệp gà con Thương con thương con biết sao cho tròn Thương con cho nên gà trống nuôi con Thương con thương con Cố sao cho tròn Thương con nuôi con héo hon mỏi mòn Rồi khi gà gáy ò ó o... Khô khan buồn oán than ò ó o Nghe như lời khóc than Buồn con gà mái, phụ nghĩa quên tình, chỉ sống cho mình ...
(Lời bài hát. Trần Anh Khôi, Gà trống)
g/
Một sớm lên đường Mẹ ra sau vườn Hỏi thăm trái bí Trên giàn còn xanh Một sớm bên hè Vườn sao vắng vẻ Này thôi bí nhé Lên đường cùng Mẹ Bí nằm bí ngủ đường xa Trên vai mẹ già bao nhiêu vốn liếng Nhớ tới một đời đã xới vun Hôm nay bỏ vườn với xóm thôn Chân Mẹ già sao run quá Qua sương trắng với máu hồng Một sớm đã về Dừng chân phố thị Mẹ ôm trái bí Mắt còn ngẩn ngơ Đường vắng bên lề Một thân rất nhỏ Mẹ mang trái bí Đi về chợ xa
155
Mẹ nhớ mái nhà Hàng cau sau hè Còn riêng trái bí Nhớ giàn đầy hoa Mẹ nhớ mái nhà Hàng cau sau hè Còn riêng trái bí Nhớ giàn đầy hoa
(Lời bài hát. Trịnh Công Sơn, Bà mẹ Ô Lý)
V. VẬT HOÁ (REIFICATION)
1. Khái niệm
Vật hoá (reification) là một phép tu từ ngược lại với nhân hoá, trong đó người ta gán cho người những tính chất, đặc trưng của loài vật, sự vật, đồ vật. Ví dụ:
Bị nó đốt cho mấy câu đau điếng.
(Khẩu ngữ)
Bà đồng một mớ đàn ông Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha Ba trăm một mụ đàn bà Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi.
(Ca dao)
2. Phân loại
Thường gặp 2 loại.
2.1. Biến người thành động vật, súc vật
Đàn ông phải có bản lĩnh, lập trường, đừng để người ta dắt mũi.
(Khẩu ngữ)
2.2. Biến người thành đồ vật
Người tình ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ. Đêm qua ba bốn lần mơ Chiêm bao thì thấy, dậy sờ thì không.
(Ca dao)
3. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu: biểu cảm.
Vật hoá thường có tác dụng thể hiện sự khinh bỉ, mỉa mai, miệt thị cao độ của người nói đối với đối tượng (biến người thành vật, coi người như vật) nên thường được sử dụng trong khẩu ngữ thông tục, trong văn trào phúng, châm biếm, đả kích.
Trong văn thơ cổ hoặc trong khẩu ngữ, vật hoá (dạng thức biến người thành đồ vật, hoặc con vật yêu quý) có khi chỉ thể hiện một sắc thái biểu cảm vui đùa, gần như trung hoà.
BÀI TẬP
156
Xác định kiểu vật hoá và phân tích sắc thái biểu cảm của nó:
a/ Con Cún thương của mẹ ơi! Ngoan đi nào, rồi mẹ cho con bú nhé!
(Khẩu ngữ)
Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ, gánh gồng đi chơi. Ai ngờ quang đứt, lọ rơi
b/
Bò ra lổm ngổm, chín nơi chín chồng.
(Ca dao)
c/ Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
(Phùng Gia Lộc, Cái đêm hôm ấy... đêm gì?)
VI. PHÚNG DỤ (ALLEGORY)
1. Khái niệm
“Phúng dụ là một hệ thống ẩn dụ nhằm biểu đạt một vấn đề đạo đức, luân lý, xã hội nào đó có tính chất khuyên răn. Đó là sự miêu tả bằng một loạt hình ảnh, có khi bằng một câu chuyện cụ thể, để nói lên một ý niệm trừu tượng”
[Cù Đình Tú & NTG 1982, 157]
Lắm sãi không ai đóng cửa chùa.
(Tục ngữ)
Khi đền nhà con la, đừng nói gì liên quan đến đôi tai.
(Tục ngữ Gia-mai-ca)
Có thể coi phúng dụ là một dạng thức ẩn dụ nhưng với quy mô lớn hơn, không chỉ ở cấp độ câu, đoạn mà còn bao quát toàn bộ tác phẩm. Phúng dụ dựa trên cơ sở lối nói ngụ ý, bóng gió, biểu đạt một ý tưởng trừu tượng, khái quát bằng hình ảnh trực quan. Chẳng hạn câu Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao diễn tả một triết lý về sự đoàn kết.
2. Cấu tạo
+ một hệ thống ẩn dụ (tạo thành một câu tục ngữ, bài ca dao, một truyện ngụ ngôn)
Con cò chết rũ trên cây
Bồ câu mở lịch xem ngày làm ma Cà cuống uống rượu la đà Bao nhiêu cóc nhái nhảy ra chia phần Chào mào thì đánh trống quân Chim chích mặc quần vác mõ đi rao.
(Ca dao)
+ 2 tầng nghĩa (bề mặt: những hình ảnh miêu tả cụ thể; bề sâu: bài học triết lý nhân sinh, đạo đức, đối nhân xử thế, ...)
+ cách diễn tả: thâm thuý, thường có tính chất trào phúng.
3. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu: nhận thức.
157
Nội dung sâu xa của phúng dụ được gửi gắm dưới hình thức miêu tả và người đọc phải ngẫm nghĩ để giải mã lời khuyên, câu chuyện đó và nhận được một bài học thấm thía về triết lý nhân sinh, về xã hội, về lối sống, về quan niệm đạo đức, ...
Mở cửa cho người vào thì ruồi muỗi cũng vào theo.
(Tục ngữ Trung Quốc)
Khi con lừa của ông quan toà chết, mọi người đều đi đưa đám; khi bản thân ông quan toà chết chẳng có ai đưa tang.
(Tục ngữ A-rập)
Phúng dụ thương được sử dụng trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ chính luận.
BÀI TẬP
Phân tích những từ ngữ cần thiết để chứng minh các ví dụ sau đây là phúng dụ:
a/ Nếu bạn ở bên sông thì phải tử tế với cá sấu.
(Tục ngữ Ấn Độ)
b/ Với nhiều bàn tay, thuyền sẽ được chèo lên núi.
(Tục ngữ Nhật Bản)
c/
Người ta đốn cây để làm cán rìu.
(Tục ngữ Ru-ma-ni)
Trong đầm gì đẹp bằng sen
d/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng Nhị vàng bông trắng lá xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. (Ca dao)
VII. ĐỊNH NGỮ NGHỆ THUẬT (ÉPITHÈTE ARTISTIQUE)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: hình dung ngữ, tính ngữ nghệ thuật.
Định ngữ nghệ thuật là loại định ngữ được xây dựng theo kiểu ẩn dụ (trong tương quan với danh từ trung tâm đứng trước của cụm danh từ).
Tôi muốn viết những dòng thơ tươi xanh Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy.
(Tố Hữu, Có thể nào yên ?)
Hạ trắng
(Tên một bản nhạc của Trịnh Công Sơn, 1961)
Định ngữ nghệ thuật khác định ngữ thông thường về phương diện nội dung. Định ngữ thông thường chỉ có tác dụng miêu tả đặc điểm vốn có của một sự vật, hiện tượng, không đem lại hiệu quả thẩm mỹ. Định ngữ nghệ thuật miêu tả các đặc trưng của sự vật, hiện tượng từ góc nhìn chủ quan biểu cảm, hình tượng của người viết, tạo ra nột ấn tượng thẫm mỹ đặc biệt.
So sánh :
Định ngữ thông thường Định ngữ nghệ thuật
Cái màu vàng tơ của chuối ngự chợ Rồng
“Cái màu vàng giãy nảy” của chuối ngự chợ 158
Rồng (Nam Định) óng (Theo Nguyễn Tuân, Chuyện nghề) nõn
chói lọi
2. Phân loại
Dựa vào từ loại, người ta chia định ngữ nghệ thuật làm 3 loại.
2.1. Định ngữ là danh từ (cụm danh từ)
Người lên ngựa, kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.2. Định ngữ là tính từ (cụm tính từ)
Ông Tú riêng giữa làng thơ ngồi hẳn một chiếu điều hoa nửa cạp hiện thực nửa cạp trữ tình.
(Nguyễn Tuân)
2.3. Định ngữ là động từ (cụm động từ)
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Huy Cận, Ði trên mảnh đất này)
Đây chùm mong nhớ, khóm yêu đương, Đây nụ mơ mòng đợi ánh sương, Đây lá bâng khuâng run trước gió; Đây em, cành thẹn lẩn cành thương.
(Xuân Diệu, Dâng)
3. Tác dụng
Sức mạnh của định ngữ nghệ thuật giống như ẩn dụ. Định ngữ nghệ thuật mang lại cho người đọc, người nghe cái nhìn mới lạ về đặc tính sự vật, và có giá trị tạo hình, biểu cảm.
Và sự sống đã đến rồi, nắng đã hồng rồi, sự sống hồng vàng và hy vọng tươi xanh đã trở lại.
(Chế Lan Viên, Chào mừng)
Định ngữ nghệ thuật được dùng nhiều trong thơ, văn xuôi nghệ thuật.
BÀI TẬP
1. Cho biết đâu là định ngữ nghệ thuật và chứng minh quan điểm của mình:
a/
Một cái ngã tư đông đặc căm thù.
(Nguyễn Tuân)
b/
Nắng thơ dệt sáng trên tà áo, Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài.
(Huy Cận, Áo trắng)
159
c/
Dù là một chiếc hoa dại hoa vườn nhỏ nhặt Ở trong cõi không màu, ta vẫn thấy nó từ xa.
(Chế Lan Viên, Các mùa hoa)
d/
Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị Tận chân trời mây núi có chia đâu
(Tế Hanh, Nói chuyện với sông Hiền Lương)
2. Viết một câu văn (hoặc một đoạn thơ) có sử dụng định ngữ nghệ thuật.
3. Từ in đậm trong đoạn thơ sau đây có phải là định ngữ nghệ thuật? Vì sao?
a/
Ôi những cánh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
b/
Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngát Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh
(Đoàn Phú Tứ, Màu thời gian)
c/ Tôi yêu tha thiết con sông quê toi – một con sông đong đầy yêu thương của tình quê hương xứ sở.
(Bài làm của SV)
B. NHÓM LIÊN TƯỞNG TƯƠNG CẬN
I. HOÁN DỤ (METONYMY)
1. Khái niệm
Hoán dụ là phép tu từ dùng từ ngữ mang nghĩa này để diễn đạt thay cho một từ ngữ mang ý nghĩa khác có liên quan về mặt lôgic.
Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp chi tiêu của một gia đình năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay của người đàn bà con mọn.
(Ngô Tất Tố, Tắt đèn)
Thà rằng ăn bát cơm rau Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.
(Ca dao)
2. Cấu tạo
Chỉ có một vế (B: cái dùng để thay thế). Còn cái được thay thế (A: cái cần nói tới) ẩn đi, phải suy luận mới biết.
Đàn bà dễ có mấy tay Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan?
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Mối quan hệ giữa B và A: có thực, khách quan, lôgic (quan hệ tương cận).
3. Phân loại
Có rất nhiều loại vì có rất nhiều kiểu tương quan lôgic. Thường các sách Phong cách học tiếng Việt chia hoán dụ từ 4 đến 8 loại.
Một số kiểu hoán dụ thường gặp:
160
3.1. Hoán dụ bộ phận ↔ toàn thể
Đầu xanh có tội tình gì Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
Chú ý: phân biệt “bộ phận khả ly” và “bộ phận bất khả ly”.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
3.2. Hoán dụ bộ phận cơ thể → chức năng, đặc điểm
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu ...
(Tố Hữu, Tâm sự)
3.3. Hoán dụ vật sử dụng (đồ dùng, trang phục) → người sử dụng
Những ngày tôi sống đây là những ngày đẹp nhất Ngày mỗi ngày áo trắng đến thăm tôi.
(Chế Lan Viên)
3.4. Hoán dụ dấu hiệu, biểu hiện cụ thể → hành động, tính chất
Mồ hôi mà đổ xuống đồng Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.
(Ca dao)
3.5. Hoán dụ vật chứa ↔ vật bị chứa (cải dung – synecdoche)
Sải Gòn thức đêm đêm theo Hà Nội Nghe thủ đô đập giữa tim mình.
(Giang Nam)
3.6. Hoán dụ số xác định ↔ số phiếm định (cải số)
Học hành ba chữ lem nhem Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua.
(Ca dao)
3.7. Hoán dụ tên riêng → tính cách, đặc tính (cải danh)
Một giọng văn rất Nguyễn Tuân.
(Báo)
Giọng nói đặc sệt chất Huế.
(Khẩu ngữ)
3.8. Hoán dụ tác giả ↔ tác phẩm
Giá đem lòng tôi đọc Nguyễn Du Có phải đã hiểu nhân dân mình thêm chút nữa?
(Chế Lan Viên, Đọc Kiều)
Cái ông Số đỏ ấy là một tay viết cự phách trong làng văn trào phúng Việt Nam.
(Báo)
161
4. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu của hoán dụ là nhận thức. Hoán dụ khắc hoạ, nhấn mạnh một thuộc tính, dấu hiệu nổi bật, quan trọng, độc đáo nào đó (từ góc nhìn của người nói) về đối tượng miêu tả. Vì thế hoán dụ đem lại sự mới lạ về cách gọi tên, một nhận thức mới mẻ, mang nhiều ý nghĩa khám phá về đối tượng.
Hoán dụ là một nhãn hiệu đặc tả về sự vật, hiện tượng.
Tuỳ theo việc chọn lựa dấu hiệu, thuộc tính tích cực, trung tính hay tiêu cực của đối tượng miêu tả khi xây dựng phép hoán dụ mà sắc thái biểu cảm của hoán dụ sẽ là dương tính, trung hoà hay âm tính.
So sánh: Này tóc quăn ơi! Lại đây tớ bảo!
mũi tẹt
Hoán dụ được sử dụng nhiều trong khẩu ngữ và ngôn ngữ văn chương.
5. Lưu ý
5.1. Phân biệt hoán dụ tu từ (metonymy) và hoán dụ từ vựng (lexical metonymy)
Hoán dụ từ vựng (lexical metonymy) là một phương thức chuyển nghĩa của từ đa nghĩa dựa vào mối tương quan lôgic giữa hai sự vật, đối tượng. Nghĩa mới do hoán dụ từ vựng tạo ra hầu hết mọi người đều biết, đều hiểu và sử dụng. Nghĩa mới này cũng được ghi trong từ điển, trở thành vốn tài sản chung của cộng đồng ngôn ngữ. Hoán dụ từ vựng không có tính chất mới mẻ, sáng tạo, bất ngờ.
+ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. → Đó là một tay ghi-ta cực giỏi.
+ Mùa xuân về, hoa khoe sắc nở. → Đã hai mươi mùa xuân trôi qua trên mái tóc xanh của nàng.
Hoán dụ tu từ (metonymy) là một phép tu từ lâm thời chuyển đổi tên gọi của đối tượng này sang cho đối tượng khác dựa trên quan hệ lôgic giữa hai đối tượng. Đây là một sáng tạo mới, có tính chất cá nhân của người sử dụng ngôn ngữ gắn liền với một văn cảnh cụ thể.
5.2. Phân biệt ẩn dụ tu từ (metaphor) và hoán dụ tu từ (metonymy) + Ví dụ ẩn dụ tu từ:
Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước) + Ví dụ hoán dụ tu từ:
Sói không sợ chó chăn cừu mà sợ sợi dây xích của nó.
(Tục ngữ Nga)
Sợi dây xích → tình trạng bị giam cầm, mất tự do, nô lệ.
Giống: chỉ có một vế: cái để biểu thị (B). Vế còn lại: cái được biểu thị (A) vắng mặt.
Khác: quan hệ giữa B và A
+ Ẩn dụ: quan hệ tương đồng (giống nhau)
+ Hoán dụ: quan hệ tương cận (lôgic, khách quan, gần gũi, có thực).
162
II. CẢI DUNG (SYNECDOCHE)
III. CẢI DANH
IV. CẢI SỐ
BÀI TẬP
1.Xác định kiểu hoán dụ có trong các câu sau đây và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Súng đẻ ra chính quyền. (Chính quyền đẻ ra từ đầu họng súng).
(Mao Trạch Đông)
b/ Một lời nói dối sám hối bảy ngày.
(Tục ngữ)
c/
Một ngày tựa mạn thuyền rồng Còn hơn cả kiếp nằm trong thuyền chài.
(Ca dao)
d/
Khi riêng tây, ta thấy mình xấu hổ Khi nhìn đời, mỗi lá tơ non Khi uống ngụm nước trong lưỡi ta không còn đắng chất thị thành Đời tươi mát như ao sen mùa hạ Anh em bốn bên mà ta ở giữa..
(Chế Lan Viên, Người thay đổi đời tôi – Người thay đổi thơ tôi)
e/
Anh kia nhà dột cột xiêu
Không đi lấy vợ, sợ nhiều miệng ăn.
(Ca dao Nam Bộ)
f/ Nếu nói với một viên chức nhà nước thì bạn phải nói bằng đồng rúp.
(Tục ngữ Nga)
g/ Người thiếu nụ cười trên môi thì không nên mở cửa tiệm buôn bán.
(Tục ngữ Trung Quốc)
h/ Nó sinh ra đã là một cô bé xấu xí nên mười bảy mùa tám tháng ba qua đi rồi mà nó vẫn chưa một lần được nhận một món quà đặc biệt hay sự quan tâm của một người bạn khác giới nào.
(Bài viết của SV)
i/
Xa nhau chỉ một mái chèo
Mà đi trăm núi vạn đèo tới đây Xiết tay ôm chặt lấy tay Nói gì, nước mắt tràn đầy đôi môi.
(Thanh Hải, Tám năm nay mới gặp nhau)
2. Trong các câu thơ sau đây, đâu là ẩn dụ từ vựng (hoặc hoán dụ từ vựng), và đâu là ẩn dụ tu từ (hoặc hoán dụ tu từ)?
a/
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
(Viên Phương, Viếng lăng Bác)
163
b/
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
c/
Nắm thắt lưng địch (/lính Mỹ) mà đánh.
(Nguyễn Chí Thanh)
C. NHÓM PHÁI SINH (TỪ LIÊN TƯỞNG TƯƠNG ĐỒNG VÀ TƯƠNG CẬN)
I. TƯỢNG TRƯNG (SYMBOLISM)
1. Khái niệm
Tượng trưng là những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ có tính chất ước lệ xã hội.
Ví dụ: bồ câu → hoà bình; búa liềm → liên minh công nông; Thành đồng Tổ quốc → miền Nam anh dũng, bất khuất.
Cơ sở của tượng trưng là các ẩn dụ, hoán dụ được dùng đi dùng lại nhiều lần, trở nên quen thuộc.
Nghĩa của tượng trưng mang tính tập thể, quen thuộc với nhiều người cùng chung một bối cảnh văn hoá. Khi tách khỏi văn cảnh, tượng trưng vẫn còn những giá trị nhất định vì đó là một “kiểu hình tượng hoá một đối tượng của xã hội” [Cù Đình Tú & NTG 1982, 166].
2. Phân loại
Có hai loại.
2.1. Tượng trưng là ẩn dụ
Thương thay thân phận con rùa Lên đình đội hạc, xuống chùa đội bia.
(Ca dao)
con rùa → người nông dân thân phận thấp hèn, bị đày ải và cam chịu.
2.2. Tượng trưng là hoán d Ðứng lên, thân cỏ, thân rơm Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn !
(Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng)
II. KHOA TRƯƠNG (HYPERBOLE)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: ngoa dụ, thậm xưng, nói quá, phóng đại, cường điệu, ngoa ngữ, nói ngoa.
Khoa trương là phép tu từ phóng đại quy mô, tính chất, đặc điểm của đối tượng nhằm làm nổi rõ đặc trưng bản chất của đối tượng miêu tả, gây sự chú ý, tăng cường sức biểu cảm.
Thương em chẳng biết để đâu Để quán quán đổ, để cầu cầu xiêu.
(Ca dao)
CÂY TRÀM VÀ CON NAI
164
Có một lần bác Ba Phi trèo lên một cây tràm lấy mật ong, bác rủi trật tay té bảy ngày mới tới đất. Cây cao quá xá! Khi rơi bác đói bụng quá, cứ ngày phải nấu cơm ăn hai bữa rồi lại té tiếp.
Một bữa khác, trời nắng, bác xuống một cái bàu tắm, giặt áo phơi ngay trên gạc một con nai mà không hay. Bác ngủ một giấc, khi dậy thì thấy một tổ ong đóng dưới bắp chân. Ăn hết ổ ong mật đó đến nửa chừng, bác mới lấy áo mặc ra về. Con nai lúc đó mới vùng chạy và áo của bác phơi trên gạc nai cũng vừa khô.
(Truyện Bác Ba Phi)
2. Cấu tạo
Khoa trương được diễn tả bằng hình ảnh miêu tả có tính chất cường điệu, phóng đại.
Khoa trương chỉ có một vế: vế hình ảnh miêu tả (B). Vế nội dung cần nói tới, cần nhấn mạnh (A) ẩn đi, phải ngẫm nghĩ mới hiểu.
Khoa trương thường được biểu hiện qua hình thức so sánh phóng đại hoặc một sự miêu tả phi thực.
3. Phân loại
Xét theo phương diện được phóng đại của đối tượng, chúng ta có các loại hai khoa trương cơ bản sau đây:
3.1. Khoa trương quy mô, kích thước của sự vật, hiện tượng
Con rận bằng con ba ba
Nửa đêm nó ngáy cả nhà thất kinh. Hàng xóm vác gậy đi rình Té ra con rận trong mình bò ra.
(Ca dao)
3.2. Khoa trương tính chất, đặc điểm của sự vật, hiện tượng
Nói ngọt lọt đến xương.
(Tục ngữ)
Nghe đồn bác mẹ anh hiền, Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai.
(Ca dao)
4. Tác dụng
Khoa trương có tác dụng nhận thức, tác dụng biểu cảm và gây ấn tượng.
Cách diễn tả khác thường, nhiều khi rất vô lý của phép khoa trương gây sự chú ý, tạo ra sức hấp dẫn đặc biệt.
Tên lửa của chúng tôi có thể bắn trúng mắt một con ruồi bay trong vũ trụ.
(Nhikita Khrushôp, Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô, trả lời phóng viên phương Tây, 1961)
Khoa trương được dùng nhiều trong sử thi, anh hùng ca, thơ văn trữ tình, thơ văn châm biếm, trào phúng.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
(Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo)
165
Khoa trương cũng hay được dùng trong khẩu ngữ tiếng Việt.
Nghe hắn ninh sượng cả mặt.
(Khẩu ngữ)
Làm mửa mật vẫn không xong.
(Khẩu ngữ)
BÀI TẬP
Phân tích ý nghĩa nhận thức và sắc thái biểu cảm của phép khoa trương trong các câu sau đây:
a/
Rượu ngon cái cặn cũng ngon,
Thương em bất luận chồng con mấy đời.
(Ca dao)
b/
Hoa thơm thơm lạ thơm lùng,
Thơm gốc thơm rễ người trồng cũng thơm.
(Ca dao)
c/
Gặp nhau chưa kịp hỏi chào Nước mắt đã trào rơi xuống bỏng tay
(Ca dao)
d/
Bà già tuổi tám mươi tư
Ngồi bên cửa số viết thư lấy chồng
(Ca dao)
e/ Đơn Hà thiêu mộc Phật
Đơn Hà đốt Phật gỗ
Viện chủ lạc tu mi
Viện chủ rụng râu mày
Nhất trường kỳ đặc sự
Một trường hợp hiếm thấy
Thiên hạ thiếu nhân tri
Thiên hạ ít người hay
(Vô danh)
( Ngô Tất Tố dịch)
g/ Bắc phương hữu giai nhân
Phương Bắc có người đẹp,
Đẹp tuyệt thế mà còn đơn chiếc,
Tuyệt thế nhi độc lập
Quay nhìn một lần làm nghiêng thành,
Nhất cố khuynh nhân thành
Quay nhìn lần hai thì nghiêng nước.
Tái cổ khuynh nhân quốc
Ninh bất tri khuynh nhân thành dữ
Thà là không biết cái đẹp khuynh thành
khuynh quốc.
khuynh nhân quốc
Người đẹp khó gặp đến hai lần.
Giai nhân nan tái đắc
(Cổ thi)
III. NÓI GIẢM (LITOTES, MEIOSIS)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: khiêm dụ, nói nhún.
Nói giảm là phép tu từ dùng cách nói giảm nhẹ mức độ hoặc tính chất của sự vật, hiện tương để tránh gây ấn tượng không hay đối với người nghe hoặc để thể hiện sự khiêm tốn, nhún nhường.
166
Rộng thương cỏ nội hoa hèn Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Đây là lời Thuý Kiều nói với Từ Hải tự ví thân phân phận mình thấp kém, trôi nổi như cỏ nội hoa hèn, như bèo bọt rày đây mai đó.
Nói giảm là phép tu từ ngược lại với khoa trương.
2. Cấu tạo
Nói giảm thường được cấu tạo dựa trên ẩn dụ.
3. Phân loại
3.1. Nói giảm với đề tài tự nói về mình (khiêm ngữ)
Loại nói giảm này rất phổ biến trong giao tiếp trước đây của người Á Đông. Nhiều từ ngữ trở thành công thức diễn đạt chung của xã hội (từ vựng hoá). Ví dụ: quả nhân 寡人 (người ít đức tốt), theo ngu ý 愚意 (ý của kẻ ngu dốt) của hạ thần, thiển ý (ý kiến nông cạn) của tôi, ...
Thân lươn bao quản lấm đầu Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Thân lươn: thân phận bị vùi dập phẩm tiết, mất hết tự do của Thuý Kiều (như con lươn sống trong bùn nhơ).
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
Ghi chú: Đây là lời Vương ông nói với Mã Giám Sinh khi gửi gắm Kiều. Cát đằng: dây leo.
Tùng quân: cây tùng. Tầm: đơn vị đo chiều dài thời xưa, bằng 8 thước.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
3.2. Nói giảm với đề tài về người khác
(Khẩu ngữ)
Con gái của anh vóc dáng cũng dễ nhìn đó chứ.
BÀI TẬP
Gạch dưới những từ ngữ thể hiện phép nói giảm:
[…] Nhưng thần trộm nghĩ, làm cho dân được lợi thì không gì quan trọng hơn nghề nông; mở mang dân trí thì không gì lớn hơn việc giáo hóa. Lại không thể nói công thương không đủ để hưng lợi và mở mang trí tuệ! Thần trộm cho rằng: “Công” tất phải học máy móc, việc chế tạo do đó mới có thể phát triển, “Thương” thì hàng hoá xuất nhập khẩu phải được thông suốt, có thế việc buôn bán mới được mở mang. Thần trộm thấy về công nghệ nước ta, thì nghề thủ công chưa được khéo, việc buôn bán thì hàng hóa xuất ra nước ngoài bị cấm, cả công và thương đều chưa có thể mưu cầu lợi ích một cách nhanh chóng. Vậy, triều đình phải dần dần hướng dẫn, lợi dụng cơ hội để mở rộng ra, ngõ hầu làm cho dân chúng không chịu ở yên trong cảnh tạm bợ, được chăng hay chớ; tạo ra thói quen không chịu bó mình trong cảnh an nhàn, khiến cho công thương có cơ hưng thịnh vậy! Thần trộm thấy có điều đáng lo nữa là dân nước ta đông mà đất hoang hóa ở ven biển, ven núi chưa được khai khẩn, vẫn để nguyên như cũ. Bởi vậy, nếu quan ở địa phương bảo trợ họ, cổ vũ họ, thì không cần đợi đốc thúc gắt gao mà dân chúng sẽ nhanh chóng khai hoang vậy.
[…] Thần là kẻ bắt đầu học, mới tiến bộ, không biết kiêng dè, nói năng bộc trực trước đấng
quân vương, lòng khôn xiết run sợ! (Vương Hữu Phu, Bài văn thi đậu đình nguyên. Theo Đào Tam Tỉnh, Tap chí Văn hoá Nghệ An, 11 Tháng 8 2011)
167
IV. UYỂN NGỮ (EUPHEMISM, DYSPHEMISM)
1. Khái niệm
Uyển ngữ là phép tu từ dùng cách nói thanh tao, lịch sự, mềm mỏng, hình tượng thay cho cách gọi tên bình thường hoặc thô tục, khó nghe.
một công cụ giết người → súng
2. Cấu tạo
Uyển ngữ dựa trên hoán dụ hoặc ẩn dụ. Uyển ngữ chỉ có một vế: vế cái dùng để biểu thị (B).
3. Phân loại
Căn cứ vào cách cấu tạo, uyển ngữ được Đinh Trọng Lạc chia làm 2 loại [Đinh Trong Lạc 2002, 71-72]:
3.1. Uyển ngữ lôgic (dựa trên hoán dụ)
+ Lấy đặc điểm để chỉ đối tượng
đội quân tóc dài → phụ nữ; giới mày râu → giới đàn ông
+ Lấy tập hợp để chỉ bộ phận, lấy khái niệm rộng để chỉ khái niệm hẹp
người bảo vệ trật tự đường phố → cảnh sát giao thông
3.2. Uyển ngữ hình tượng (dựa trên ẩn dụ hoặc hoán dụ mở rộng)
Điện Biên Phủ trên không → Chiến thắng của Thủ đô Hà Nội đánh bại chiến dịch ném bom B52 của Mỹ năm 1972; Hòn ngọc Viễn Đông → Sài Gòn, ...
4. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu: biểu cảm.
Uyển ngữ tạo ra cách diễn đạt, cách gọi tên mềm mại, uyển chuyển, tinh tế, văn chương.
Uyển ngữ được dùng nhiều nhất trong ngôn ngữ văn chương, trong giao tiếp trang trọng, nghi thức.
5. Lưu ý
Phân biệt uyển ngữ tu từ (uyển ngữ lời nói) với uyển ngữ từ vựng (uyển ngữ ngôn ngữ)
Uyển ngữ tu từ Uyển ngữ từ vựng
(mới mẻ, cá nhân, lâm thời) (có sẵn, thông dụng, phổ biến rộng rãi)
Biết thân đến bước lạc loài vàng đen → than đá (dầu mỏ)
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. phái yếu (đẹp) → phụ nữ
(Nguyễn Du, Truyện Kiều) cách mạng xanh → cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp. [trinh tiết] năng lượng xanh → năng lượng sinh học
nhũ hoa → núm vú
168
V. NHÃ NGỮ
1. Khái niệm
Tên gọi khác: khinh từ, nói tránh.
Nhã ngữ là phép tu từ dùng những từ ngữ nhã nhặn, lịch sự thay thế cho những từ ngữ thô lỗ, khó nghe.
Nhã ngữ là một biến thể của phép uyển ngữ.
Ông lại nhìn trước nhìn sau lần nữa. Lần này kỹ càng hơn. Rồi cả quyết, ông vén một ống quần lên. Rồi rất sung sướng, rất hể hả, cũng rất hồi hộp nữa, ông làm cái việc giải thoát cho bong bóng...
(Nam Cao)
làm cái việc giải thoát cho bong bóng → đi tiểu (đái)
Thuyền tình vừa ghé tới nơi Thì đà trâm gãy bình rơi bao giờ.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
trâm gãy bình rơi → chết
2. Cấu tạo
Nhã ngữ được cấu tạo dựa trên hoán dụ (ví dụ 1) hoặc ẩn dụ (ví dụ 2).
3. Phân loại
Xét theo đề tài, trong tiếng Việt, chúng ta thường gặp 2 loại nhã ngữ sau:
3.1. Nhã ngữ nói về cái chết
Tiếng Việt rất phong phú loại nhã ngữ về đề tài cái chết.
Kiếp hồng nhan có mong manh Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
3.2. Nhã ngữ nói về hoạt động sinh lý, quan hệ nam nữ
Tiếc thay một đóa trà mi Con ong đã tỏ đường đi lối về.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
4. Lưu ý
Phân biệt nhã ngữ tu từ và nhã ngữ từ vựng.
Nhã ngữ từ vựng:
nhà vệ sinh, toa-lét → chuồng (hố) xí, chuồng tiêu
đại tiện (đi cầu, đi đồng) → ỉa,
tiểu tiện (xả bầu tâm sự) → đái
sản phẩm loại 2 (thứ phẩm) → sản phẩm xấu, kém chất lượng
tham ô của công → ăn cắp tài sản của nhà nước
tình hình chưa có công ăn việc làm → nạn thất nghiệp
những tồn tại cần khắc phục → những thiếu sót, yếu kém
169
BÀI TẬP
1. Xác định từ ngữ thể hiện phép nhã ngữ và phân tích giá trị biểu đạt:
a/
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
b/
Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Quang Dũng, Tây Tiến)
2. Hãy điền vào những chỗ còn thiếu trong phần văn bản tiếp dưới :
Phép nói giảm nói tránh được cấu tạo theo một số cách cơ bản sau đây:
1. Vay mượn từ ngữ của các ngôn ngữ khác vì các từ ngữ vay mượn ít có liên tưởng xấu, thô tục. Ví dụ, dùng từ ngữ Hán Việt thay cho từ ngữ thuần Việt như “thi hài” thay cho “xác chết”, “thổ huyết” thay cho “ … … ”, “lâm chung” thay cho “ … … ”, “thượng thổ hạ tả” thay cho “ … … … … … … ”.
2. Dùng phép hoán dụ. Chẳng hạn, trong hai câu thơ :
Người nằm dưới đất ai ai đó, Giang hồ mê chơi quên quê hương.
Tản Đà đã dùng cụm từ “nằm dưới đất” để chỉ người đã “ … ”. Hoặc khi Nguyễn Du nói về
nghề nghiệp của Tú Bà và Mã Giám Sinh :
Chung lưng mở một ngôi hàng Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.
(Truyện Kiều)
thì ông đã dùng cụm từ “buôn phấn bán hương” để nói tránh đi cái nghề kinh doanh “ … …
… ”.
3. Dùng phép ẩn dụ. Ví dụ, trong hai câu thơ :
Biết thân đến bước lạc loài Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
(Truyện Kiều)
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh “nhị đào” để chỉ cái “trinh tiết” của nguời phụ nữ. Cùng một
cách tương tự, Thúy Kiều tự ví mình là “cỏ nội hoa hèn” “bèo bọt” :
Rộng thương cỏ nội hoa hèn, Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
(Truyện Kiều)
để nói về thân phận “ … … ” và cảnh ngộ “ … … , … … ” của mình.
3. Chọn một trong hai yêu cầu sau để thực hiện:
a/ So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ. Minh hoạ bằng một số ví dụ cụ thể.
b/ Nhã ngữ và khoa trương có điểm gì gần gũi nhau hay không? Nói rõ sự khác nhau giữa hai phép tu từ này. Minh hoạ bằng một số ví dụ cụ thể.
D. NHÓM QUY CHIẾU VỀ DIỄN NGÔN NGUỒN
170
I. CHƠI CHỮ (PUN)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: lộng ngữ.
Chơi chữ là phép tu từ sử dụng một cách độc đáo, sáng tạo chỗ giống nhau (gần giống nhau) về ngữ âm, chữ viết, ngữ nghĩa, ngữ pháp của từ ngữ để tạo ra lượng thông tin liên tưởng bất ngờ, thú vị.
Ai đặt ra cái chữ quốc ngữ cũng đã tài tình lắm, chữ hiền chỉ hơn chữ hèn có một chữ i với một cái dấu mũ đó thôi.
(Nam Cao, Sống mòn)
2. Cấu tạo
Một phép chơi chữ phải có đủ hai bình diện: cấu trúc bề mặt và cấu trúc liên tưởng bề sâu.
Cấu trúc bề mặt: thường phải có ít nhất 2 thành tố giống nhau (gần giống nhau, liên quan gần gũi với nhau) về ngữ âm, chữ viết, ngữ nghĩa, ngữ pháp được người nói (viết) sắp xếp khéo léo bên cạnh nhau.
Cấu trúc liên tưởng bề sâu: những hàm ý, ngụ ý, ẩn ý kín đáo, sâu sắc, hoặc hài hước (humour) gợi ra từ sự giống nhau của các thành tố trên cấu trúc bề mặt.
Thông tin liên tưởng và thông tin cấu trúc bề mặt trong phép chơi chữ là khác loại, hoàn toàn không liên quan gì với nhau. Mối liên hệ khác loại giữa hai loại thông tin càng xa thì sự bất ngờ, lý thú của phép chơi chữ càng lớn.
3. Phân loại
Dựa vào chất liệu dùng tạo nên phép chơi chữ, Cù Đình Tú chia phép chơi chữ ra làm 3 loại, gồm 11 tiểu loại [Cù Đình Tú 2001, 207-208].
3.1. Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm, chữ viết
+ Dùng từ đồng âm (gần âm)
Ruồi đậu mâm xôi đậu Kiền bò đĩa thịt bò.
(Câu đối)
Có tài mà cậy chi tài Chữ tài liền với chữ tai một vần.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
+ Dùng tiếng cùng phụ âm đầu
Chạy chữa chai chân chẳng chịu chừa Chín chiều chua chát chán chê chưa? Cha chài chú chóp chơi chung chạ, Chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ.
(Khuyết danh, Trách người đa tình)
+ Dùng cách chiết tự (phân tích chữ)
Duyên thiên (天) chưa thấy nhô đầu dọc (夫), Phận liễu (了) sao đà nảy nét ngang (子).
(Hồ Xuân Hương, Không chồng mà chửa)
171
+ Dùng cách phiên âm hài hước
Wesmoreland (Oét-mo-len) –> Vét mỡ lợn, Vét mồ lên Marc Artheur (Mác Ác-thơ) –> Mặt ác tệ
3.2. Chơi chữ bằng phương tiện từ vựng – ngữ nghĩa
+ Dùng từ đồng nghĩa
Đi tu Phật bắt ăn chay Thịt chó ăn được, thịt cầy thì không.
(Ca dao)
+ Dùng từ (tiếng) thuần Việt và Hán Việt đồng nghĩa
Con ngựa ô uống hồ nước mã Con gà vàng ăn hạt kê xanh.
(Ca dao)
+ Dùng từ nhiều nghĩa
Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ, cả bốn nhà đều không nhà ở.
(Thanh Tịnh)
Làm bí thư hoài có … bí thơ? Rằng thơ với Đảng nặng duyên tơ Thuyền bơi có lái qua mưa gió Không lái thuyền trôi lạc bên bờ
(Tố Hưu, Chuyện thơ)
+ Dùng từ cùng trường nghĩa
Ngày xuân em đi chợ Hạ Mua con cá thu về chợ hãy còn đông.
(Ca dao)
Cạm bẫy người khéo căng nhỉ? Qua giông tố tưởng nên số đỏ, Số độc đắc văn chương vừa trúng thế! Nỡ dứt tình, không một tiếng vang.
(Câu đối của Bùi Huy Phồn viếng Vũ Trọng Phụng)
3.3. Chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp
+ Dùng lối tách từ, ghép từ
“Châm chích ngôn”, “Ca dao cạo”
(Tên những chuyên mục trên báo Tuổi trẻ cười)
+ Thay đổi trật tự ngữ pháp
Ngựa người và người ngựa
(Nhan đề một truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan)
Sinh sự thì sự sinh.
(Khẩu ngữ)
3.4. Chơi chữ theo bố cục hình học
Cụ già thong thả buông cần trúc Hồ rộng mênh mông mặt nước hồng
172
Muôn vạn đài hoa hương bát ngát Tuổi già vui thú với non sông.
(Vô danh)
4. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu của phép chơi chữ là biểu cảm. Chơi chữ tạo ra sự hài hước (humour), vui đùa hoặc châm biếm, mỉa mai.
Chơi chữ thường có giá trị lật ngược tình huống do những liên tưởng bất ngờ, độc đáo.
Chơi chữ cũng có tác dụng nhận thức. Chơi chữ tạo ra những liên tưởng bất ngờ, kỳ thú, kích thich trí tuệ của người nghe (đọc), đem lại nhận thức mới mẻ về cơ cấu ngôn ngữ hoặc những vấn đề đời sống xã hội mà nó gợi ra.
Chơi chữ được dùng nhiều trong khẩu ngữ, ngôn ngữ văn chương, báo chí.
Người Việt Nam là một dân tộc thích chơi chữ và hay chơi chữ. Chơi chữ là một phép tu từ cực kỳ phong phú trong tiếng Việt. Đã có khá nhiều cuốn sách và luận án tiến sĩ viết về phép chơi chữ.
BÀI TẬP
1. Xác định loại chơi chữ có trong các trường hợp sau:
a/
Kìa ai dưới suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn.
(Câu đối Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương)
b/
Anh đã Đứng trước biển Cù lao tràm kia rồi Những khoảng cách còn lại Xa vời lắm anh ơi! (Xuân Sách, Vịnh nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn)
Từ trong hom giỏ chui ra Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi Định đem cái lạt buộc người Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn
(Xuân Sách, Vịnh nhà văn Vũ Thị Thướng)
Cờ bạc là bác thằng bần
c/
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.
(Ca dao)
d/
Lúa tám gặt chín tháng mười Nồi tư mua năm quan sáu.
(Câu đối)
e/
Tết túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế.
(Câu đối)
f/
Lên phố Mia gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường Bà đồ Giang đi võng đòn tre, đến khóm trúc thở dài hí hóp.
(Câu đối)
173
g/
Vì mày tao phải đánh tao
Vì tao tao phải đánh cả tao lẫn mày.
(Câu đố)
2. Xác định các tiếng (hoặc từ ngữ) sử dụng phép chơi chữ trong những câu đối của chuyện vui và sắp xếp chúng thành các loại sau :
(a) Sử dụng tiếng (từ) đồng âm (b) Sử dụng tiếng (từ) đồng nghĩa (c) Sử dụng tiếng (từ) trái nghĩa (d) Sử dụng tiếng (từ) cùng trường từ vựng-ngữ nghĩa (e) Sử dụng cách đảo từ.
VỪA ĐI ĐƯỜNG VỪA ĐỐI
Năm 1985, năm kỷ niệm nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, tỉnh uỷ Bình Trị Thiên tổ chức một
cuộc họp mặt các văn nghệ sĩ từng gắn bó với mảnh đất khói lửa này.
Trên chuyến xe ca lớn rời Hà Nội vào tham dự cuộc gặp gỡ ấy, người ta thấy có rất nhiều văn nghệ sĩ có tên tuổi như Thanh Tịnh, Xuân Thiều, Đào Hồng Cẩm, Phạm Ngọc Cảnh, Huy Thục, … Trên xe, mọi thứ chuyện tuôn ra, nổ dòn.
Không hiểu bắt đầu từ đâu, hai “kỳ phùng địch thủ” – nhà thơ Thanh Tịnh và nhà văn Xuân Thiều – đã xoay sang chuyện câu đối. Bấy giờ, xe vào đến địa phận Thanh Hoá, Thanh Tịnh chợt nhớ tới một địa danh ở nơi này, liền ra vế đối:
– Bố đợi con nơi cầu Bố. Xuân Thiều đối ngay: – Ông chờ mụ chốn cửa Ông. Xe đến Tĩnh Gia (Thanh Hoá), Xuân Thiều ra vế đối: – Qua chợ Cồng vang tiếng kẻng. Thanh Tịnh ứng khẩu tiếp “chiêu”: – Nhớ Hàng Trống vọng hồi chuông. Vào đến địa phận Nghệ Tĩnh, Xuân Thiều lại ra vế đối : – Cầu Cấm chẳng cấm cầu. Thanh Tịnh đáp : – Cửa Rào không rào cửa. Xuân Thiều ra tiếp: – Vô xứ Nghệ, ghé quán Hành, uống rượu gừng, nói “cà riềng cà tỏi”. Rất nhiều người tham gia đối, nhưng chỉ có câu của Thanh Tịnh là hay: – Đến chợ Voi, nhớ Kỳ Lừa, ăn thịt chó, tán “chuyện hươu chuyện vượn”. Đến Vinh (Nghệ An), trời tối đã lâu, khách sạn nào cũng chật ních người. Mãi đến 11 giờ đêm mới tìm được chỗ nghỉ tạm. Thanh Tịnh than: – Đến Vinh mới thấy nhục! Xuân Thiều thở dài phụ hoạ: – Vô Nghệ rõ mặt vàng! Sáng mai, ăn uống ở Bến Thuỷ. Ăn thì khá, nhưng trà thì quá dở. Thanh Tịnh phàn nàn: – Bến Thuỷ nước chẳng ngon. Xuân Thiều đối: – Thạch Hà sông không đẹp. Chợt họ thấy một người đàn bà dân tộc ăn bánh đa (bánh tráng) trong quán, Thanh Tịnh tủm tỉm : – Người thiểu số chén bánh đa. Xuân Thiều chờ cho Thanh Tịnh đi vệ sinh xong, mới đối: – Ông đại quan vừa đi tiểu. Câu chuyện về đối đáp cứ thế kéo dài vô tận, giúp vui cho chặng đường dài đỡ mệt.
(Theo Ba Quang, Giao tiếp thông minh và tài ứng xử)
174
II. NÓI LÁI (SPOONERISM)
1. Khái niệm
Nói lái là phép tu từ đánh tráo phụ âm đầu, phần vần, thanh điệu giữa các âm tiết để tạo nên những âm tiết khác có một nghĩa mới, bất ngờ, hiểm hóc.
Nói lái là hình thức đặc biệt của phép chơi chữ.
Con cá đối nằm trên cối đá, Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo Anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng.
(Hát đối đáp)
Cơ sở của phép nói lái:
Âm tiết trong tiếng Việt rất ổn định, ranh giới giữa các âm tiết rõ ràng, và ba bộ phận trong âm tiết tiếng Việt là phụ âm đầu, vần, thanh điệu dễ dàng di chuyển vị trí để kết hợp với những bộ phận tương ứng, tạo thành một âm tiết khác.
2. Cấu tạo
Một phép nói lái có 2 thành tố:
+ tổ hợp âm tiết ban đầu
+ tổ hợp âm tiết mới được tạo ra thông qua nói lái (dựa trên tổ hợp âm tiết ban đầu).
Nghĩa của tổ hợp âm tiết ban đầu và tổ hợp âm tiết mới khác nhau rất xa, tạo ra sự hài hước (humour), trào phúng hoặc những hàm ý thâm thuý, nghịch thường, cắc cớ.
Thằng nhỏ ốm tong vác cái ống tôm.
(Khẩu ngữ)
Thầy giáo tháo giầy, tháo giáo án dán áo Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương.
(Câu đối vui)
3. Phân loại
3.1. Dựa vào số lượng âm tiết: Có 3 kiểu cơ bản.
3.1.1. Lái đôi
Trên trời rớt xuống cái mau co, đố là cái gì?
(Câu đố)
3.1.1. Lái ba chà đồ nhôm → chôm đồ nhà; (món) gió đầu cành → (món) cánh đầu giò; Vũ Như Cẩn → vẫn như cũ, …
3.1.1. Lái tư mộc tồn bách diệp = cây còn trăm lá → con cầy tra (già) lắm
3.2. Dựa vào kiểu lái (của lái đôi): Có 6 cách.
3.2.1. Cách 1: Đổi vần, giữ nguyên phụ âm đầu và thanh điệu
mèo cái → mài kéo, cưa ngọn → con ngựa, cháy chợ → chớ chạy
3.2.2. Cách 2: Đổi chỗ toàn bộ phụ âm đầu và vần, giữ nguyên thanh điệu
Thủ tục đầu tiên là tiền đâu?
175
3.2.3. Cách 3: Đổi phụ âm đầu, giữ nguyên vần và thanh điệu
bình định → đình bịnh,
3.2.4. Cách 4: Đổi vần và thanh điệu, giữ nguyên âm đầu
bí mật → bật mí,
3.2.5. Cách 5: Đổi thanh điệu, giữ nguyên phụ âm đầu và vần
bí mật → bị mất, đi tìm → đì tim
3.2.6. Cách 6: Đổi âm chính, giữ nguyên phụ âm đầu, thanh điệu và âm cuối
Đương cơn nắng cực chửa mưa tè (Hồ Xuân Hương, Tát nước)
Trong 5 cách lái này, cách 2, cách 6 phổ biến ở miền Bắc, cách 1 và cách 4, cách 6 phổ biến ở miền Trung, cách 3 và cách 5 chỉ phổ biến ở miền Nam.
Người miền Nam khi nói lái thường biến âm của âm tiết theo kiểu phát âm của Nam Bộ:
đơn giản như đang giỡn, cao đẳng → đau cẳng, trâu cái → trái cau
4. Tác dụng
Nói lái có tác dụng chủ yếu là biểu cảm nhằm tạo sự đùa vui, hài hước (humour) hoặc châm biếm, mỉa mai, đả kích.
Trong khá nhiều trường hợp, nói lái có ý nghĩa tục tĩu.
Một đôi khi phép nói lái cũng gợi ý cho chúng ta những nhận thức mới, bất ngờ, đáng suy ngẫm về sự vật, hiện tượng hoặc những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
Hiện đại thì hại điện; Đấu tranh rồi tránh đâu?
Nói lái được sử dụng nhiều trong câu đố, truyện cười, thơ văn trào phúng, châm biếm, trong tiểu phẩm báo chí.
Nói lái cũng là một phương tiện để truyền đi những thông tin “mật” được mã hoá theo kiểu thức dân gian:
Cam sành nhỏ lá thanh ương Ngọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anh Thanh ương là tuổi mong chờ Một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà. (Ca dao Nam Bộ)
BÀI TẬP
1. Xác định cách nói lái có trong các trường hợp sau:
a/
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo? Chày kình, tiểu để suông không đấm, Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo.
(Hồ Xuân Hương, Chùa Quán Sứ)
b/
Dòng châu lai láng, đĩa dầu chong Công khó đợi chờ, biết có không? Nhắc bạn thêm thương người nhạn bắc Trông đời ngao ngán giữa trời đông.
(Khuyết danh)
176
2. Giải đáp các câu đố có sử dụng phép nói lái:
a/
Cây chi hình dáng xinh xinh, Hễ cà thì nhột cùng mình người ta.
b/
Bằng trang điếu thuốc, Ngủ ngày nó ngáy ton ton.
c/
Ai mua gì mà mãi tới lui Thử hỏi làm vui, gì bán?
d/
Ông khoe ông sống dài lâu Rày ai thấy mặt ông đâu trong nhà?
III. DẪN NGỮ
1. Khái niệm
Tên gọi khác: dụng điển.
Dẫn ngữ là phép tu từ dùng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn, điển cố, câu văn thơ nổi tiếng vào lời nói, bài viết nhằm nâng cao hiệu lực biểu đạt tư tưởng, tình cảm và tăng sức hấp dẫn, thuyết phục.
Chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống.
(Hồ Chí Minh, Xây dựng những con người của chủ nghĩa xã hội, 1961)
Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Nguồn:
Khứ niên kim nhật thử môn trung, Nhân diện đào hoa tương ánh hồng. Nhân diện bất tri hà xứ khứ? Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
(Thôi Hộ, Đề Đô thành nam trang)
(Năm ngoái, trong cổng này, mặt người và hoa đào màu hồng ánh lẫn nhau, năm nay, mặt người không
biết ở chốn nào, chỉ còn hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Đề thơ ở trại phía nam Đô thành).
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2. Phân loại
2.1. Dựa theo loại phương tiện dẫn ngữ
2.1.1. Dẫn thành ngữ
Phong trần mài một lưỡi gươm Những phường giá áo túi cơm sá gì.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.1.2. Dẫn tục ngữ
Nhưng thói đời, tre già măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn? Năm Thọ vừa đi, lại có Bình Chức ở đâu lần về.
(Nam Cao, Chí Phèo)
2.1.3. Dẫn danh ngôn
177
Chắc không ít bạn đã từng nghe câu châm ngôn nổi tiếng của người phương Tây “Mất tiền là mất ít, mất danh dự là mất nhiều, mất niềm tin là mất tất cả”. Thật đúng vậy, niềm tin là nguồn gốc của mọi thành công trong cuộc sống...
(Bài làm của sinh viên)
2.1.4. Dẫn điển cố
Thiếp như con én lạc đàn Phải cung rày đã sợ làn cây cong.
Nguồn: kinh cung chi điểu (con chim sợ cung). Thành ngữ "kinh cung chi điểu" có trong điển tích Chiến quốc sách. Canh Luy đứng trước Ngụy Vương, giương cung không có tên, giả bắn một phát, con chim nhạn rơi xuống. Canh Luy giải thích với vua rằng: "Sở dĩ như vậy là vì con chim này bị thương, vết thương chưa lành và lòng khiếp sợ chưa tan, cho nên thấy giương cung lên là sợ hãi". Nghĩa bóng: Bị nạn hụt một lần thì e ngại, sợ hãi, hoảng hốt.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Nguồn:
Thùy bả kim bôi phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để, bán phù không.
(Cổ thi)
(Ai cầm chén vàng chia ra hai nửa/ Nửa chìm đáy nước, nửa trôi trên không)
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.1.5. Dẫn văn thơ
Quê hương tôi có cây bầu cây nhị Tiếng đàn kêu tích tịch tình tang… Có cô Tấm náu mình trong quả thị Có người em may túi đựng ba gang.
(Nguyễn Bính, Bài thơ quê hương)
2.2. Dựa theo cách thức dẫn ngữ
2.2.1. Dẫn nguyên văn
2.2.2. Dẫn không nguyên văn (dẫn ý; dẫn có thay đổi, thêm bớt)
3. Tác dụng
Dẫn ngữ có tác dụng nhận thức và tác dụng biểu cảm. Dẫn ngữ vừa tăng tính hàm súc vừa tăng tính diễn cảm cho lời nói.
Các phương tiện dẫn ngữ tự nó đã có một hàm lượng ngữ nghĩa phong phú, sâu sắc, có thể gợi lên trong độc giả những liên tưởng đa dạng, nhiều chiều về lịch sử, văn hoá, truyền thống, vì thế dẫn ngữ tạo chiều sâu và sức nặng đáng kể cho lời nói, bài viết.
Dẫn ngữ được sử dụng nhiều trong phong cách ngôn ngữ văn chương, chính luận, báo chí, khoa học.
BÀI TẬP
1. Cho biết loại dẫn ngữ được sử dụng trong các ví dụ sau:
a/
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
178
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
(Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước)
b/
Nhìn về quê mẹ xa xăm Lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa ...
(Nguyễn Duy, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa)
c/
Tôi vỗ về: – Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao
nhiêu?
– Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào
đã ăn hết hạt nấy. […]
– Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái
mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
(Phù Gia Lộc, Cái đêm hôm ấy... đêm gì?)
2. Viết một câu văn có sử dụng phép dẫn ngữ.
IV. NHẠI (PARODY)
1. Khái niệm
Thuật ngữ “nhại” (parody), trong nghiên cứu ngữ văn học, được hiểu với ba nghĩa:
+ một thủ pháp nghệ thuật (“giễu nhại”)
+ một thể văn
+ một phép tu từ
Trong phạm vi bộ môn Phong cách học, nhại được hiểu là phép tu từ bắt chước một cách hài hước (humour) từ ngữ, câu văn, văn bản, phong cách ngôn ngữ của một tác giả nào đó nhằm mục đích chế giễu, châm biếm, đùa vui, ...
Nhại trong giáo trình này được hiểu là nhại về ngôn ngữ và phong cách ngôn ngữ.
Ví dụ:
Văn bản gốc
Nhại
Làm thi sĩ nghĩa là ru với gió Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến Đây là quán tha hồ muôn khách đến Đây là bình thu hợp trí muôn hương Đây là vườn chim nhả hạt mười phương Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc... Nếu "thi sĩ nghĩa là ru với gió, Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây", Ðể tâm hồn treo ngược ở cành cây Hay lả lướt đìu hiu cùng ngọn liễu; Nếu thi sĩ nghĩa là nhăn với mếu, Nghĩa là van Thượng đế rủ lòng thương, Hồn bơ vơ lạc lõng ở mười phương, Khóc rả rích như ve sầu tháng hạ; (Sóng Hồng, Là thi sĩ) (Xuân Diệu, Cảm xúc)
2. Phân loại
2.1. Xét theo yếu tố được nhại
Gồm có nhại từ, ngữ, câu văn, cấu trúc câu văn, cấu trúc đoạn văn, văn bản, phong cách ngôn ngữ, ... Ví dụ (nhại thể thơ và giọng thơ):
179
Văn bản gốc Nhại
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên Xanh kia thăm thẳm tầng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này Thưở trời đất nổi cơn sùng ngoại Nói cái gì cũng khoái đô la Hàng tây chèn ép hàng ta Hàng ngoại có dởm cũng là mốt chơi
(Đặng Trần Côn, Chinh phụ ngâm) (Vô danh, Nhại Chinh phụ ngâm)
2.2. Xét theo tương quan phong cách nhại
2.2.1. Đối tượng thấp được trình bày bằng phong cách cao (burlesque)
Ví dụ:
2.2.1. Đối tượng cao được trình bày bằng phong cách thấp (travesti)
Ví dụ:
2.3. Xét theo mục đích nhại
Gồm có nhại hài hước, nhại đùa vui, nhại phê phán, nhại châm biếm, nhại đả kích, ... Ví dụ:
+ nhại hài hước
Văn bản gốc Nhại
TIẾNG THU GIỜ THI
Em không nghe mùa thu Dưới trăng mờ thổn thức? Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ chinh phu Trong lòng người cô phụ? Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc, Con nai vàng ngơ ngác Đạp lên lá vàng khô? Em không nghe giờ thi Dưới hộc bàn thổn thức Em không nghe rạo rực Hình ảnh kẻ đi thi Luôn nhìn …thầy giám thị Em không nghe giờ thi Tiếng phao kêu xào xạc Em nai nào ngơ ngác “Đạp lên mấy bài thi
(Lưu Trọng Lư) (Vô danh)
+ nhại phê phán
Văn bản gốc Nhại
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn Hai người sống giữa cô đơn Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi Giá đừng có dậu mùng tơi Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng Có con bướm trắng vừa sang bên này… Bướm ơi, bướm hãy vào đây Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi ... Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi Tôi buồn tự hỏi: hay tôi yêu nàng? Nhà hàng ở cạnh trường tôi Cách nhau cái cổng quét vôi xanh rờn Nhà trường sống giữa cô đơn Nhà hàng đâu có nỗi buồn giống tôi Giá đừng nghèo rớt mùng tơi Thế nào tôi cũng sang chơi nhà hàng Tôi lên lớp giảng nhẹ nhàng Xập xình tiếng nhạc vọng sang bên này Tiếng cười giỡn cũng vào đây Gặp ai tôi hỏi câu này chút coi Ở đâu có chuyện nực cười Nhà trường sao nỡ sánh đôi nhà hàng?
(Nguyễn Bính, Người hàng xóm) (Vô danh)
180
BÀI TẬP
1. Anh (chị) hãy nhại câu tục ngữ sau đây để viết một câu văn nói về nghề thầy giáo hoặc một nghề nghiệp khác mà anh chị cảm thấy thích hợp:
Một luật sư giỏi thì am hiểu luật pháp, một luật sư thông minh thì am hiểu quan toà.
(The good lawyer knows the law, the clever lawyer knows the judge.)
(Tục ngữ Mỹ)
2. Sáng tác một bài thơ hoặc bài hát bằng cách nhại một bài thơ hoặc một bài hát nào đó mà anh (chị) ưa thích.
V. TẬP KIỀU
1. Khái niệm
Tên gọi khác: lẩy Kiều. Hữu Đạt phân biệt tập Kiều và lẩy Kiều
Tập Kiều là phép tu từ vay mượn, sao phỏng lời, ý hoặc cách diễn đạt của tác phẩm Truyện Kiều vào câu văn, câu thơ, lời nói để tạo một sắc thái diễn đạt đặc biệt.
Tập Kiều là một hình thức dẫn ngữ của riêng tiếng Việt và người Việt Nam.
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
So sánh:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
(Tố Hữu, Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Tập Kiều là một hình thức đặc biệt của nhại.
2. Phân loại
Có 5 kiểu tập Kiều thường gặp.
2.1. Mượn nguyên văn (từng câu, cặp câu)
2.2. Mượn ý
Tôi xa quê hương đã năm mươi năm rồi. Thường tình người ta xa nhà, lúc trở về thì mừng mừng, tủi tủi. Nhưng tôi không buồn, không tủi...
Quê hương nghĩa nặng tình sâu Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
So sánh:
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
(Hồ Chí Minh, Bài nói chuyện khi về thăm quê, 1957)
2.3. Mô phỏng cách diễn đạt
Có tiền mà cậy chi tiền Có tiền như Mỹ cũng phiền lắm thay.
So sánh:
(Hồ Chí Minh)
181
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.4. Lắp ghép các câu thơ Kiều
Trên vì nước, dưới vì nhà, Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng Nhìn càng lã chã giọt hồng, Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra…
So sánh:
+ Trên vì nước, dưới vì nhà Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
+ Tức gan riêng giận trời già Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng.
+ Nhìn càng lã chã giọt hồng Rỉ tai, nàng mới giải lòng thấp cao
+ Tẩy trần vui chén thong dong Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
(Thơ vịnh Cái ống máng)
Chuyện vui
Một anh học trò quanh năm ở tỉnh, nhân ngày xuân cao hứng về vùng quê chơi. Đi qua bãi cỏ
thấy mấy cô thôn nữ chăn bò đang cười đùa vui vẻ, anh chàng liền sấn đến kiếm chuyện làm quen.
Một cô trong bọn lên tiếng ngay:
Trông chừng thấy một văn nhân…
Rồi cô bỏ lửng. Anh học trò hí hửng, vuốt lại vạt áo đứng ngóng câu tiếp theo.
Chợt một cô khác cất giọng:
… Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Những tưởng mình được là Kim Trọng, đã tấp tểnh mừng thầm, ai ngờ lại bị coi là Mã Giám
sinh, anh học trò vừa thẹn vừa tức. Anh ta bèn đòi đố Kiều (môn sở trường của anh ta bấy lâu nay) với các cô thôn nữ.
Một cô nhanh nhẩu: “Chúng em quê mùa dốt nát đâu dám khoe tài. Biết anh giỏi Kiều, xin
nhờ anh đọc một câu Kiều bảo con bò đang đi chỗ này đứng lại xem nào".
Anh học trò chột dạ, đánh liều đọc:
Tần ngần đứng suốt giờ lâu, Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
Anh ta cố ý đọc to chữ đứng. Con bò vẫn tiếp tục đi. Một cô liền nói: – Thôi, anh chả bảo được nó đâu, để em bảo dùm cho.
Đoạn, cô ngâm:
Họ Chung có kẻ lại già Cũng trong nha dịch lại là từ tâm
Cô đọc to và kéo dài tiếng họ (họ: tiếng vùng quê dùng để bảo trâu bò đứng lại), quả nhiên
con bò đứng lại ngay. Kế đó một cô thách:
– Bây giờ lại đố anh bảo được con bò rẽ sang bên phải đấy.
2.5. Vận dụng thơ Kiều vào cảnh ngộ, tình huống đặc biệt
182
Anh chàng muốn gỡ thẹn, liền đọc luôn:
Nàng rằng phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.
Anh nhấn mạnh cả hai tiếng đi, con bò đi thật nhưng lại đủng đỉnh đi thẳng chứ không rẽ sang bên phải. Anh chạy theo đọc lại lần nữa, nó cũng chẳng nghe cho. Chợt nhớ ra một câu khác, tin chắc lần này thế nào cũng có kết quả, anh dõng dạc ngâm:
Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha
(Dẽ = rẽ theo phát âm miền Bắc)
Anh kéo dài tiếng dẽ. Con bò vẫn chậm rãi đi thẳng đường. Các cô ôm bụng cười. Anh chàng
tiu nghỉu, mặt chín dừ. Bấy giờ một cô trong bọn mới đọc:
Một vùng cỏ mọc xanh rì, Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu
Cô nhấn mạnh tiếng vắt (tiếng vùng địa phương để bảo trâu bò rẽ sang bên phải), quả nhiên
con bò ngoan ngoãn rẽ sang phải.
(Theo Lãng Nhân, Thú chơi chữ)
3. Tác dụng
Tập Kiều có Tác dụng biểu cảm, diễn cảm:
+ Tạo màu sắc Kiều, không khí Kiều.
+ Tạo sự giao hoà, đồng cảm giữa người nói và người nghe trong cùng một mã giao tiếp ngôn ngữ – văn hoá chung là tác phẩm Truyện Kiều.
+ Tạo sự thông hiểu, thấu đạt dễ dàng về vấn đề trình bày trên cơ sở liên tưởng với vốn hiểu biết về Truyện Kiều.
Tập Kiều là được sử dụng phổ biến ở địa phương miền Bắc trong lời nói thường ngày, trong thơ văn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người rất thích tập Kiều, lẩy Kiều.
BÀI TẬP
1. Xác định câu thơ tập Kiều và nêu câu thơ nguyên văn tương ứng trong Truyện Kiều:
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
a/
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như? Mai sau dù có bao giờ Câu thơ thưở trước đâu ngờ hôm nay …
(Tố Hữu, Kính gửi cụ Nguyễn Du)
b/
Bây giờ mới gặp nhau đây Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên!
(Hồ Chí Minh, Diễn văn đón Tổng thống Xu-cê Tu-rê, Cộng hoà Ghi-nê)
2. Điền vào những chỗ còn thiếu trong câu chuyện vui sau:
Xưa, có một cô thiếu nữ ăn nói bặt thiệp, mở quán nước bên đường để kén chồng. các cậu khóa anh đồ nghe tin kéo đến rất đông, ai cũng muốn khoe tài để mong được người đẹp chú ý; nhưng đã bao ngày vẫn chưa có ai địch lại mồm mép của giai nhân.
Nghề đời vỏ quýt dày tất có móng tay nhọn.
183
Một hôm, một nho sinh vào quán nghỉ chân. Cô gái quen như mọi lần, lại giở cái giọng “đàn chị” ra để trêu chọc, nhưng anh chàng đối đáp không kém phần cứng cỏi. Cuối cùng, cô bèn đọc một câu tập Kiều:
... ... ... …mắt tinh đời! Anh hùng đoán giữa trần ai mới già
Cô nhấn mạnh ba tiếng ... ... ..., nghỉ một lát rồi mới nối ba tiếng sau. Lối đọc này mang hàm
ý: “Khen cho con đấy, con ạ!”.
Nho sinh hiểu ý, đọc ngay một câu cũng trong Kiều:
... ... ... …mới thấy đây Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Lúc đọc anh ta dằn mạnh ba tiếng ... ... ... , cũng nghỉ một tí mới đọc tiếp ba tiếng sau, khiến
cho câu thơ có nghĩa là: “Hỗn với tôi thì tôi vả cho bây giờ!”
Thấy nho sinh trả lời hóm hỉnh như vậy, cô gái vừa phục vừa thẹn, mắt đỏ ửng lên và lặng
thinh ngồi mân mê tà áo…
(Theo Lãng Nhân, Thú chơi chữ)
E. NHÓM TRẬT TỰ CẤU TRÚC KHÁC THƯỜNG
I. ĐIỆP NGỮ (REPETITION)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: điệp từ ngữ, phép trùng điệp, phép lặp.
Điệp ngữ là phép tu từ dùng cách lặp lại nhiều lần một từ, ngữ nào đó để nhấn mạnh ý, tăng cường sức biểu đạt.
Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hy sinh để bảo vệ con người.
(Thép Mới, Cây tre)
Điệp ngữ là cách lặp lại từ, ngữ với dụng ý nghệ thuật. Cần phân biệt điệp ngữ với phép lặp (để liên kết) và lỗi lặp.
Điệp ngữ dựa trên cơ sở quy luật tâm lý: cái gì lặp lại nhiều lần sẽ gây được chú ý, tạo ấn tượng mạnh.
2. Phân loại
2.1. Căn cứ vào cấu trúc của yếu tố lặp lại
2.1.1. Điệp từ Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề Trông trời, trông đất, trông mây Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng. (Ca dao)
2.1.2. Điệp ngữ
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà
184
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa Thương em, thương em, thương em biết mấy.
(Phạm Tiến Duật, Gửi em, cô thanh niên xung phong)
2.1.3. Điệp câu
Giận thì giận mà thương thì thương Giận thì giận mà thương thì thương Anh sai đường thì em không chịu nổi Anh yêu ơi xin đừng có giận vội Mà trước tiên anh phải tự trách mình Anh cứ nhủ rằng em không thương Em đo lường thì rất cặn kẽ Chính thương anh nên em bàn với mẹ Phải ngăn anh không đi chuyến ngược Lường Giận thì giận mà thương thì thương Giận thì giận mà thương thì thương.
(Hò ví dặm Nghệ Tĩnh, Giận mà thương)
Giáo trình này không xem loại điệp cú pháp và điệp kiểu phô diễn là điệp ngữ. Chúng được xếp vào phép điệp cú pháp.
2.2. Căn cứ vào vị trí của yếu tố được lặp lại
2.2.1. Điệp đầu
Đã nghe nước chảy lên non Ðã nghe đất chuyển thành con sông dài Ðã nghe gió ngày mai thổi lại Ðã nghe hồn thời đại bay cao...
(Tố Hữu, Ba mươi năm đời ta có Đảng)
2.2.2. Điệp giữa
Cam ba lần ra trái Bưởi ba lần ra hoa
(Trần Hữu Thung, Thăm lúa)
2.2.3. Điệp cuối
Cái con vợ bé trơ tráo lạ! Nó chẳng biết làm gì cả. Nó hát những câu tục tằn. Nó uống rượu tựa đàn ông, hút thuốc tựa đàn ông, búi tóc ngược, mặc quần áo trắng tựa đàn ông.
(Nam Cao, Dì Hảo)
2.3. Căn cứ vào cách thức lặp lại
2.3.1. Điệp nối tiếp
Hôm nay dưới bến xuôi đò Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau. Anh đi đấy, anh về đâu? Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
(Nguyễn Bính, Không đề)
2.3.2. Điệp cách quãng
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2.3.3. Điệp liên hoàn
185
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, Nhắn nhe toan những sự gùn ghè. Gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, Chưa dám cho nên phải rụt rè.
(Hồ Xuân Hương, Trách Chiêu Hổ)
2.4. Căn cứ vào chức năng của yếu tố lặp lại
2.4.1. Điệp chủ ngữ Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín! Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre anh hùng lao động! Tre anh hùng chiến đấu! (Thép Mới, Cây tre Việt Nam)
2.4.2. Điệp vị ngữ
Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù sa
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
2.4.3. Điệp bổ ngữ
(Xem ví dụ Nam Cao, Dì Hảo)
2.4.3. Điệp trạng ngữ
Lâu nay, thằng Xăm gây cho chúng lòng cuồng tín cao độ. Lâu nay, thằng Xăm là tiếng reo hò thúc giục chúng xông vào tội ác.
(Anh Đức, Hòn Đất)
2.4.4. Điệp hô ngữ:
Chao ôi! Mong nhớ! Ôi mong nhớ! Một cánh chim thu lạc cuối ngàn
(Chế Lan Viên, Xuân)
Ngoài ra còn có các loại điệp ngữ khác như: điệp định ngữ, điệp cụm chủ – vị,...
3. Tác dụng
“Điệp ngữ có tác dụng gia tăng lượng nghĩa, nhấn mạnh ý tưởng, khắc sâu ấn tượng. Điệp ngữ còn có tác dụng liên kết, tăng cường văn khí và điều hoà âm luật.”
[Nguyễn Nguyên Trứ 1988, 108]
Điệp ngữ được dùng nhiều trong phong cách ngôn ngữ chính luận và phong cách ngôn ngữ văn chương.
BÀI TẬP
1. Xác định loại điệp ngữ và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu.
(Thép Mới, Cây tre)
b/ Học, học nữa, học mãi.
186
(Lê nin)
c/ Cô ta còn trẻ, còn con nhỏ, còn mẹ, còn nhiều cái ràng buộc với sự sống.
(Anh Đức, Hòn Đất)
d/
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Đặng Trần Côn, Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm dịch))
e/
Những lúc say sưa cũng muốn chừa, Muốn chừa nhưng tính lại hay ưa. Hay ưa nên nỗi không chừa được. Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa.
(Nguyễn Khuyến, Chừa rượu)
f/
Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất. Khăn thương nhớ ai, Khăn vắt trên vai. Đèn thương nhớ ai, Mà đèn không tắt. Mắt thương nhớ ai, Mà mắt không yên.
(Ca dao)
g/
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều
(Phạm Tiến Duật, Gửi em cô thanh niên xung phong)
2. Biến đổi thành câu có điệp ngữ:
Đối với gan vàng dạ sắt của đồng bào, toàn thể quốc dân, Tổ quốc và chính phủ không bao
giờ quên.
3. Bài thơ sau đây có sử dụng phép điệp ngữ hay không?
Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo, Tiền bạc trong kho, chửa lĩnh tiêu. Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu. Bánh đường sắp gói, e nồm chảy, Giò lụa toan làm, sợ nắng thiu. Thôi thế thì thôi, đành tết khác, Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.
(Tú Xương, Cảm Tết)
4. So sánh cách sử dụng điệp ngữ trong hai văn bản sau đây và cho biết cách sử dụng trong văn bản nào hay hơn, nghệ thuật hơn? Vì sao?
a/
Khắp nơi, trên những đường tôi đi, Tôi đã nghe xao xuyến, rầm rì: Ngói mới, Trên những đường tôi dạo, tôi qua Tôi đã nghe nhiều, những khúc ca:
187
Ngói mới. Dù đi nhanh, dù đứng lại nhìn, Trong lòng tôi sắc hãy còn in: Ngói mới. Trong buổi chiều hồng, trong mai xanh, Mắt tôi giở những trang tốt lành: Ngói mới. Giữa khu phố cũ, hoặc ven hồ Trên những vườn hoang, trên ngoại ô: Ngói mới. Cất lên trên ruộng, chạy băng đồng, Chen với lùm cây, soi xuống sông: Ngói mới. Ôi ngàn vạn ngói, nói xôn xao Như đất ta vui bỗng vọt trào Ngói mới! Ôi ngàn muôn sức lực Trải ra thành rộng, dựng thành cao! Quên sao được lúa thì con gái Xanh thẫm, dày, chen, gợn đến trời, Bỗng nở như hoa vừng ngói đỏ Lúa toan vượt ngói, ngói càng tươi. Mái nhà máy mới, mái nhà thương, Mái chợ xum xuê, lại mái trường; Ngói mới trăm nơi cùng cửa sổ Xây lên không khí những toà gương. Tôi đi trên đất nước thân yêu, Không biết bao nhiêu, chỉ biết nhiều: Ngói mới. Muốn trùm hạnh phúc dưới trời xanh, Có lẽ tôi cũng hoá thành: Ngói mới.
(Xuân Diệu, Ngói mới, 9-1959)
b/
Có một bài ca không bao giờ quên là lời đất nước tôi chẳng phút bình yên Có một bài ca không bao giờ quên là lời mẹ ru con đêm đêm Bài ca tôi không quên tôi không quên tháng ngày vất vả Bài ca tôi không quên tôi không quên gót mòn hành quân hối hà Làm bạn cùng trăng và ôm súng ngắm sao khuya Có một bài ca không bao giờ quên là mẹ dõi bước con bạc tóc thời gian Có một bài ca không bao giờ quên là rừng lạnh sương đêm trăng suông
188
Bài ca tôi không quên tôi không quên những người đã ngã Bài ca tôi không quên tôi không quên gửi trọn đời cho tất cả Là đồng đội tôi còn ôm súng giữ biên cương Nhưng giờ đây có giây phút bình yên Sao tôi quên sao tôi quên Bài ca tôi đã hát với quê hương với bạn bè với cả cuộc đời Tôi không thể nào quên .. tôi không thể nào quên …
(Phạm Minh Tuấn, Bài ca không quên)
II. ĐIỆP HƯ TỪ
1. Khái niệm
Điệp hư từ là một hình thức đặc biệt của điệp ngữ, trong đó hư từ (liên từ, giới từ, phụ từ, ...) được lặp lại nhằm nhấn mạnh, tăng cường sức biểu đạt. Ví dụ:
+ Và anh, và tôi, và cả họ đều là nạn nhân của thói quan liêu.
(Theo Lê Đức Trọng)
+ Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi ...
(Nam Cao, Chí Phèo)
Câu văn nhấn mạnh vào sự kéo theo đồng thời của nhiều đặc tính xấu về ngoại hình của Thị Nở qua liên từ “vừa”.
Điệp hư từ thường gắn liền với điệp cú pháp.
2. Phân loại
2.1. Điệp liên từ
Chỉ trong một ngày một đêm thôi mà trái tim Quyên đã đập lên bao nhiều lần vì lo âu, vì thương mến, vì sung sướng và hồi hộp.
(Anh Đức, Hòn Đất)
2.2. Điệp giới từ
Có lẽ rồi anh cũng kiếm cách về đây [Bảo Lộc, Lâm Đồng], làm đồn điền và xa lánh những chen đua vô ích. Tìm một hạnh phúc nào nhỏ nhất cho vừa với đời mình. Làm một căn nhà sàn với bàn ghế bằng những gốc thông ráp lại, sống rất gần với gỗ với cây với núi rừng với đất.
(Trịnh Công Sơn, Thư gửi Ngô Vũ Dao Ánh)
2.3. Điệp phụ từ
Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ.
(Thạch Lam, Dưới bóng hoàng lan)
189
2.4. Điệp quán từ Quán từ (như mạo từ): Từ dùng phụ vào danh từ ở một số ngôn ngữ để phân biệt giống, số, tính xác định và tính không xác định. [Hoàng Phê 2006, 612]
Trước Nam Cao có một Vũ Trọng Phụng tả chân sắc sảo, một Nguyễn Công Hoan trào phúng đôi khi pha chút kịch hề, một Thạch Lam trầm lặng, tinh tế, một Tô Hoài thiên về những nét sinh hoạt phong tục. Đến lượt mình, Nam Cao đã góp vào một phong cách truyện ngắn riêng, một chất giọng riêng không trùng lặp với ai.
(Lâm Kim Ngân, Đặc điểm câu văn xuôi nghệ thuật trong hai truyện ngắn “Trăng sáng” và “Một bữa no” của Nam Cao)
3. Tác dụng
Điệp hư từ nhấn mạnh vào ý nghĩa ngữ pháp mà hư từ đó biểu đạt.
BÀI TẬP
Xác định từ ngữ thể hiện phép điệp hư từ và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/ Kế hoạch của Ngạn đề ra vừa táo bạo, vừa chắc ăn, khiến cho ai cũng vừa thích thú vừa hồi hộp.
(Anh Đức, Hòn Đất)
b/
Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Xuân Diệu, Vội vàng)
c/
Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ...
(Tố Hữu, Từ ấy)
III. ĐIỆP CÚ PHÁP
1. Khái niệm
Tên gọi khác: lặp cú pháp, điệp cú pháp, lặp cấu trúc, điệp cấu trúc, điệp kiểu câu.
Điệp cú pháp là phép tu từ lặp lại cấu trúc của một cụm từ, một câu, một nhóm câu nhằm mục đích nhấn mạnh nội dung biểu đạt và tạo nhịp điệu, âm hưởng cho câu văn, câu thơ.
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương
(Trương Quốc Khánh, Tự nguyện)
Cấu trúc lặp lại: Nếu là A, tôi sẽ B.
190
Cần phân biệt điệp cú pháp có dụng ý tu từ với hiện tượng trùng lặp cấu trúc ngẫu nhiên trong một đoạn văn. Dấu hiệu để nhận ra phép điệp cú pháp là ở chỗ, ngoài phần có chung về cấu trúc, còn có chung một chủ đề, và láy lại một số từ nhất định.
[Cú Đình Tú & NTG 1982, 212].
Cũng cần chú ý là trong phép điệp cú pháp có thể có sự sai biệt đôi chút về một vài thành phần cú pháp nhưng không quan trọng lắm.
Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà.
(Hồ Chí Minh, Di chúc)
(1) CN – nhất định VN + BN
(2) CN nhất định VN
(3) CN nhất định VN + BN
2. Phân loại
Xét theo kiểu cấu trúc được lặp lại, phép điệp cú pháp được chia làm 3 loại.
2.1. Điệp cấu trúc cụm từ
Thị đánh con lớn, chửi con nhỏ, quăng cái chổi, đá cái thúng, và càu nhàu trống không.
(Nam Cao, Trăng sáng)
Cấu trúc lặp lại: V – B.
2.2. Điệp cấu trúc câu
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ về sông nước của quê hương Tôi sẽ về sông nước của tình thương…
(Tế Hanh, Nhớ con sông quê hương)
Cấu trúc lặp lại: C sẽ V – B
Đừng nói tất cả những gì anh biết, đừng tin mọi điều anh nghe, và đừng làm tất cả những gì mà anh có thể.
(Tục ngữ Bồ Đào Nha)
Cấu trúc lặp lại: đừng V1 tất cả (mọi) D anh V2
2.3. Điệp cấu trúc nhóm câu
Tên gọi khác: điệp kiểu phô diễn.
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa? Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu? Buồn trông nội cỏ dầu dầu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Cấu trúc lặp lại: Câu lục: Buồn trông D [tâm trạng]
191
Câu bát: C – V [ngoại cảnh]
3. Tác dụng
Phép điệp cú pháp vừa triển khai được ý một cách hoàn chỉnh, vừa làm cho người nghe dễ nhớ, dễ thuộc. Nhịp điệu và âm hưởng câu văn nhờ sự trùng điệp mà trở nên mạnh mẽ, hùng hồn.
Người người thi đua Ngành ngành thi đua Ngày ngày thi đua Ta nhất định thắng. Địch nhất định thua.
(Hồ Chí Minh, Thơ chúc Tết 1949)
Tác dụng chủ yếu của phép điệp cú pháp là nhận thức (nhấn mạnh thông tin).
Điệp cú pháp được dùng nhiều trong ngôn ngữ chính luận và ngôn ngữ văn chương.
BÀI TẬP
1. Nêu kiểu điệp cú pháp trong các câu sau:
a/ Hai nước Việt – Trung sơn thủy tương liên, văn hóa tương đồng, lý tưởng tương thông, vận mệnh tương quan.
(Hồ Cẩm Đào)
b/ Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
c/ Trên tấm thân đó cái gì cũng mịn màng, từ mái tóc rủ gần tới gót chân, từ khuôn mặt tái đi vì đau đớn, từ bộ ngực căng căng sau lần áo lụa đen mỏng.
(Anh Đức, Hòn Đất)
2. Theo anh (chị) kiểu trùng điệp (với những từ in đậm) trong đoạn văn sau đây có phải là một kiểu điệp cú pháp?
Tôi vẫn có niềm tin và hy vọng, rằng một ngày kia hội nghề nghiệp sẽ thực sự nơi tựa lưng cho những người cầm bút. Chắc phải chờ cho đến khi miếng bánh [quỹ phúc lợi, tiền ngân sách] đã được chia hết. Nhưng để có sự tin tưởng đó thì hiện tại tôi phải nên tránh xa cái sự Dối Trá lộng lẫy huy hoàng trơn lì bóng nhẫy trường kỳ lưu cữu này.
(Y Ban, Thư ngỏ gửi ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và 14 vị Uỷ viên BCH, 2013)
IV. SÓNG ĐÔI CÚ PHÁP (PARALLELISM)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: đối, đối ngữ, đối ngẫu, sóng đôi cấu trúc.
Sóng đôi cú pháp là phép tu từ dựa vào phép điệp cú pháp nhưng có sự sóng đôi từng cặp với nhau, có thể sóng đối bộ phận câu, hay sóng đôi câu.
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
192
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.
(Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn quốc káng chiến)
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non bơi lội trên sông Tôi dang tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ
(Tế Hanh, Nhớ con sông quê hương)
Sóng đôi cú pháp là một hình thức đặc biệt của điệp cú pháp. Đây là hình thức sắp xếp song song các kết cấu cú pháp có cùng chức năng và cùng cấu tạo ngữ pháp. Hình thức song song ngữ pháp này kéo theo sự đối ứng về ngữ nghĩa, thanh điệu, tạo nên tính chất nhịp nhàng, khúc chiết của câu văn, phù hợp với ngữ cảm và tư duy người Việt.
2. Lịch sử hình thành và phát triển
Sóng đôi cú pháp (parallelism, parallelisme) là thủ pháp có mặt ở tất cả các ngôn ngữ trên thế giới.
Ở Việt Nam, phép sóng đôi cú pháp được sử dụng khá phổ biến trong thành ngữ, đặc biệt trong tục ngữ.
Đầu voi đuôi chuột Gần đất xa trời Con nhà lính, tính nhà quan
(Thành ngữ)
Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng méo.
(Tục ngữ)
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng phép sóng đôi cú pháp để tạo nên hình thức tiểu đối nổi tiếng cho thơ lục bát.
+ Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
+ Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
+ Người quốc sắc, kẻ thiên tài Tình trong như đã... mặt ngoài còn e...
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Trong văn học trung đại Việt Nam nói chung, phép sóng đôi cú pháp là một thủ pháp đặc trưng của văn biền ngẫu và đối liên (câu đối). Trong văn biền ngẫu (biền: hai con ngựa chạy song song với nhau; ngẫu: chẵn đôi) và đối liên, phép sóng đôi cú pháp phải gắn liền với đối ý, đối lời và đối thanh.
Giơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
193
(Hồ Xuân Hương, Vịnh cảnh trượt chân ngã)
Trong thơ văn Việt Nam giữa và cuối thế kỷ XX, phép sóng đôi cú pháp vẫn còn được sử dụng nhưng ngày càng ít đi.
Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng đáng là bao, mới lom-lem những học thuyết ông Mạnh (Montesquieu), ông Lư (Rousseau) bập bẹ những cách ngôn họ Trang, họ Liệt, thì đã nghiễm nhiên tự lập thành một đấng văn-hào, tự- xưng khai-hóa quốc dân, mà không ngó lại tự mình đã khai hóa hay chưa; thôi thì bài diễn văn chất đống, sách du ký đầy thùng, thôi thì tán xằng tán nhảm, nói bậy, nói càn, không còn có nghĩa lý chính đáng chi nữa.
(Ngô Đức Kế, Luận chính học cùng tà thuyết, 1924)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những tác giả hiện đại hay sử dụng phép sóng đôi cú pháp để tạo ra những câu văn mang hơi hưởng của truyền thống, cấu trúc cân đối hài hoà. Hồ Chí Minh cũng hay sử dụng phép sóng đôi cú pháp để tạo nên hàng loạt câu châm ngôn, khẩu hiệu:
Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.
Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Những câu châm ngôn, khẩu hiệu đó dễ nhớ, dễ thuộc, dễ truyền, thâm nhập mạnh mẽ trong lòng quần chúng.
3. Tác dụng
Phép sóng đôi có tác dụng nhấn mạnh, bổ sung ý cho hoàn chỉnh, thể hiện cảm xúc, tạo sự nhịp nhàng, cân đối cho lời văn, đúc kết chân lý trong những khuôn hình câu vững chắc, mang vẻ đẹp, tính vĩnh viễn của cấu trúc cân đối.
Phép sóng đôi cú pháp được dùng nhiều trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ chính luận.
BÀI TẬP
Xác định kiểu điệp cú pháp (hoặc sóng đôi cú pháp) trong các ví dụ sau và phân tích tác dụng biểu đạt của chúng:
a/ Thơ : tình là gốc, lời là cành, thanh âm là lá, ý là quả.
(Bạch Cư Dị)
b/
Tăm tăm tình bạn Chếnh choáng tình đời Líu lưỡi tình người Nôn nao thân phận…
(Phùng Quán, Say)
c/
Buổi sáng em lên rẫy Thấy bóng cây Kơ nia Bóng ngả che ngực em Về nhớ anh, không ngủ… Buổi chiều mẹ lên rẫy Thấy bóng cây Kơ nia Bóng tròn che lưng mẹ Về nhớ anh mẹ khóc... Em hỏi cây Kơ nia:
194
– Gió mày thổi về đâu?
– Về phương mặt trời mọc, Mẹ hỏi cây Kơ nia: – Rễ mày uống nước đâu? – Uống nước nguồn miền Bắc. Con giun sống nhờ đất Chim phí sống nhờ rừng Em và mẹ nhớ anh Uống theo nguồn miền Bắc Như bóng cây Kơ nia Như gió cây Kơ nia.
(Dân ca Hrê, Ngọc Anh phỏng dịch)
d/
Lòng em như quán bán hàng, Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi Lòng anh như mảng bè trôi, Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều
Lòng anh như biển sóng cồn Chứa muôn con nước, ngàn con sông dài Lòng em như cánh lá khoai Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu
Lòng anh như hoa hướng dương, Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời Lòng em như cái con thoi, Thay bao nhiêu suốt mà thoi vẫn lành.
(Nguyễn Bính, Hai lòng)
V. ĐẢO NGỮ (INVERSION)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: đảo trí.
Đảo ngữ là phép tu từ thay đổi trật tự thông thường của các thành phần trong câu nhằm nhấn mạnh ý nghĩa, tăng cường sức biểu cảm.
Trật tự thông thường của các thành phần trong câu tiêng Việt là:
Trạng ngữ – chủ ngữ – vị ngữ – bổ ngữ.
Trật tự thông thường này mang sắc thái trung hoà. Thay đổi trật tự này với dụng ý nghệ thuật, sẽ tạo sắc thái tu từ.
Thật vĩ đại cái trầm lặng đầy tin tưởng của những con người.
(Thép Mới)
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng.
(Xuân Diệu, Buồn trăng)
2. Phân loại
Căn cứ vào chức vụ ngữ pháp của thành phần được đảo, người ta chia đảo ngữ làm 3 loại.
195
2.1. Đảo vị ngữ
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ Xanh om cổ thụ tròn xoe tán Trắng xoá tràng giang phẳng lặng tờ.
(Bà Huyện Thanh Quan, Tức cảnh chiều thu)
2.2. Đảo bổ ngữ
Những cuộc vui ấy chị còn nhớ rành rành. (*)
(Ngô Tất Tố)
Ông Tú riêng giữa làng thơ ngồi hẳn một chiếu điều hoa nửa cạp hiện thực nửa cạp trữ tình.
(Nguyễn Tuân)
2.3. Đảo định ngữ
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng. (*)
(Huy Cận, Tràng giang)
3. Tác dụng
Đảo ngữ có tác dụng nhấn mạnh vào thành phần được đưa lên trước. Thông tin của thành phần đảo trở thành ấn tượng nổi bật của câu văn, dòng thơ. Giá trị tạo hình, biểu cảm của thành phần đảo được khắc sâu.
Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông chợ mấy nhà.
(Bà Huyện Thanh Quan, Qua đèo Ngang)
Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Tác dụng chủ yếu của đảo ngữ là nhận thức và gây ấn tượng. «Đảo ngữ làm nổi bật các tiêu điểm thông báo của câu» « tạo thành các biến thể cú pháp lệch chuẩn làm giàu thêm khả năng biểu đạt của tiếng Việt» [Bùi Tất Tươm chủ biên 1995, 252]
Đảo ngữ được dùng nhiều nhất trong thơ và gần như là một kiểu cú pháp đặc trưng, không thể thiếu được của thơ.
BÀI TẬP
Cho biết loại đảo ngữ và nêu tác dụng biểu đạt của chúng:
a/
Từ những năm đau thương chiến đấu Ðã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Ðã bật lên những tiếng căm hờn
(Nguyễn Đình Thi, Đất nước)
b/
Trên xe chễm chệ ngồi một người đàn bà phấn son loè loẹt.
(Dựa theo Nguyễn Công Hoan)
196
VI. TƯƠNG PHẢN (ANTITHESIS)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: đối ngữ, đối chọi, phản ngữ, phản đề.
Tương phản là phép tu từ sắp xếp bên cạnh nhau một cặp từ ngữ biểu thị hai tính chất, sự vật, hiện tượng trái ngược, đối lập nhau nhằm làm nổi rõ đặc điểm của đối tượng diễn đạt.
Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
2. Cấu tạo
+ Cấu trúc: gồm 2 vế A ↔ B
+ Phương tiện diễn đạt: từ ngữ trái nghĩa (trái nghĩa từ điển hoặc trái nghĩa lâm thời)
+ Ý nghĩa: hai vế đối chiếu, soi tỏ cho nhau làm nổi rõ tính chất tương phản, nảy sinh lượng thông tin bổ sung qua đối chiếu.
3. Phân loại
3.1. Tương phản trong cùng một sự vật, hiện tượng
Trường Sơn đông nắng, tây mưa Ai chưa đến đó, như chưa rõ mình.
(Tố Hữu, Nước non ngàn dặm)
3.2. Tương phản giữa các sự vật, hiện tượng
Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn Hoa thì hay héo, cỏ thường tươi.
(Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập)
4. Tác dụng
Tác dụng chủ yếu: nhận thức.
Tương phản khẳng định đặc điểm của đối tượng một cách đậm nét. Đây là cách miêu tả đặc điểm của đối tượng thông qua thế đối lập.
Đôi mắt thâm quầng này là do những lúc thức khi người ta ngủ, khóc khi người ta cười, thương khi người ta ghét ...
(Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Như Tô)
Tương phản cũng là một thủ pháp cơ bản của văn chương, nghệ thuật.
Phép tương phản được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ văn chương, báo chí, chính luận.
Mỗi tôn giáo bắt đầu từ một động lực giải phóng nhưng kết thúc là một nhà tù vĩ đại.
(Tagore)
Upanixat cách xa chúng ta về thời gian nhưng lại gần gũi chúng ta về tư tưởng.
(Radha Krisnhan, Ấn Độ)
BÀI TẬP
197
Gạch dưới từ ngữ thể hiện phép tương phản và nêu tác dụng biểu đạt:
a/
Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
(Ca dao)
b/
Hôm qua còn theo anh Đi ra đường quốc lộ Hôm nay đã chặt cành Đắp cho người dưới mộ
(Hoàng Lộc, Viếng bạn)
c/
Đất đen tạo ra bánh mì trắng.
(Tục ngữ Na Uy)
d/
Khi tiền lên tiếng thì sự thật im lặng.
(Tục ngữ Nga)
e/ Cha mẹ tốt, hôn nhân hạnh phúc; con cái tốt, đám tang linh đình.
(Tục ngữ Trung Quốc)
f/ Hồ Chí Minh, tên giả, ngày sinh giả, ngày mất giả, chỉ có lòng yêu Tổ quốc là có thật”.
(Lời một nhà báo nước ngoài)
VII. ĐẢO ĐỐI
1. Khái niệm
Đảo đối là một phép tu từ vừa sử dụng cách thức đảo cấu trúc vừa sử dụng cách thức đối chọi về ý nghĩa.
Công thức cấu tạo của đảo đối là: A → B & B → A. Ví dụ:
Người ngựa ngựa người
(Nhan đề một truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan)
Bao nhiêu sầu, ôi sầu biết bao nhiêu Khi yêu tình, khi theo mãi tình yêu!
(Xuân Diệu, Yêu mến)
Chồng đánh bạc thì vợ đánh bài Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng.
(Ca dao)
Đinh Trọng Lạc xem đảo đối là một biến thể của phép sóng đôi cú pháp.
2. Tác dụng
Phép đảo đối có tác dụng nhấn mạnh mối tương về ý nghĩa giữa hai vế cấu trúc, tạo ra một vẻ đẹp về sự hài hoà giữa hình thức và nội dung biểu đạt.
Trong thực tế sử dụng, hai vế cấu trúc của phép đảo đối có thể có sự khác biệt chút ít về cấu tạo. Ví dụ:
Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua.
(Hồ Chí Minh)
198
Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta.
(BCH Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Điếu văn Hổ Chủ tịch)
VIII. NGHỊCH NGỮ
1. Khái niệm
Tên gọi khác: nghịch dụ, nghịch hợp, nghịch lý.
Nghịch ngữ là phép tu từ kết hợp hai từ ngữ, hai bộ phận câu bề ngoài có vẻ mâu thuẫn nhưng bên trong chứa đựng một hạt nhân hợp lý về nhận thức – triết lý.
Hài nhi tóc bạc
(Nhan đề quyển sách của Thích Tâm Thiện, NXB Thành phố Hố Chí Minh, 1998)
Nơi hầm tối lại là nơi sáng nhất Nơi con nhìn ra sức mạnh Việt Nam.
(Dương Hương Ly, Đất quê ta mênh mông)
Một ly whisky thì tốt; hai ly thì quá nhiều; ba ly thì quá ít.
(Tục ngữ Scotland)
Nghịch ngữ là trường hợp đặc biệt của phép tương phản.
2. Cấu tạo
Gồm hai bộ phận ngữ nghĩa mâu thuẫn nhau, phủ định nhau, và ý nghĩa hàm ẩn rút ra từ cách nói mâu thuẫn đó.
A > < B ↓
H
A và B có thể là:
+ hai bộ phận của một cụm từ: hài nhi >< tóc bạc
+ hoặc hai bộ phận của một cụm chủ – vị: nơi hầm tối >< lại là nơi sáng nhất
+ hoặc hai vế câu của một câu ghép: hai ly thì quá nhiều >< ba ly thì quá ít
3. Phân loại
Dựa vào cấu trúc, người ta chia nghịch ngữ làm 2 loại.
3.1. Nghịch dụ (nghịch hợp – oxymoron)
Là loại nghịch ngữ cụm từ (cụm từ chính phụ hoặc cụm từ liên hợp).
Anh khoác balô về Ðất trời dồn chật lại Em tái nhợt niềm vui Như trăng mọc ban ngày
(Lê Thị Mây, Những mùa trăng mong chờ)
Đây là bà Phán, một phụ nữ đã thủ tiết với hai đời chồng, một bậc mẹ hiền, có công với làng thể thao!
199
(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống!
(Nam Cao, Sống mòn)
3.2. Nghịch lý (paradox)
Là loại nghịch ngữ mệnh đề (mệnh đề đơn hoặc mệnh đề ghép). Loại nghịch ngữ này thường được giới thiệu trong từ điển lý luận văn học.
Thợ ngoã ở nhà tranh, hàng săng chết bó chiếu.
(Tục ngữ)
Yêu cổ nhân là làm như cổ nhân – cũng có nghĩa là làm khác cổ nhân – tái tục nỗ lực sáng tạo của các cụ.
(Lê Đạt, Dịch Tỳ bà hành)
Kiến thức ít đi Trí tuệ tăng lên.
(Nhan đề bài báo về học thuyết giáo dục mới của Nga, Báo Tuổi trẻ Chủ nhật, số 44/2000)
4. Tác dụng
Nghịch ngữ có tác dụng nhận thức, biểu cảm và gây ấn tượng.
Giá trị nhận thức là một đặc điểm biểu đạt nổi bật và đáng chú ý nhất của nghịch ngữ. Một nghịch ngữ đúng nghĩa bao giờ cũng đem lại cho chúng ta điều gì đó mới mẻ, thâm thuý về nhận thức. Bài học triết lý mang tính cách ngôn, châm ngôn mà nghịch ngữ mang lại được xây dựng trên cơ sở nhận thức lại các mâu thuẫn chứa đựng trong nghịch ngữ, tìm ra cái hạt nhân hợp lý sâu xa ẩn chứa đằng sau đó.
Nghịch ngữ giúp chúng ta hiểu sâu sắc vấn đề, tiếp cận chân lý ở một trình độ cao hơn bình thường. Nghịch ngữ đem lại cho ngôn từ chiều sâu tư tưởng và sự đa thanh về giọng điệu. Nghịch ngữ giúp con người nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện hơn từ nhiều hệ quy chiếu khác nhau.
Giá trị biểu cảm nổi rõ nhất của nghịch ngữ là yếu tố hài (yếu tố gây cười). Cơ sở của yếu tố hài là các mâu thuẫn mang trong mình nghịch ngữ. Tiếng cười của nghịch ngữ có thể là tiếng cười mang sắc thái hài hước (humour), vui đùa nhẹ nhàng, cũng có thể là tiếng cười mang sắc thái mỉa mai, châm biếm (chất trào lộng). Đó là tiếng cười của nghịch ngữ khi những mâu thuẫn, đối lập đặt bên cạnh nhau biểu thị sự lố lăng, kệch cỡm, quái dị.
Kết cấu của những cái nghịch thường, mâu thuẫn mà thống nhất biện chứng cùng nhau cũng đem lại cho tiếng cười của nghịch ngữ một sắc thái hài hước (humour) triết lý thâm thuý. Đó là tiếng cười khi chúng ta đột nhiên bật lên thú vị, sảng khoái vì giác ngộ chân lý của vấn đề.
Xét theo lý thuyết thông tin, nghịch ngữ là một kết hợp có xác suất dự đoán thấp (gần bằng không) nên sẽ có hiệu quả thông tin cao (gần ở mức tối đa). Nói chung, một kết hợp nghịch thường luôn tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ và sự chú ý đặc biệt. Những nghịch ngữ đặc sắc luôn khắc sâu vào trí nhớ của con người. Nhiều người thích dùng nghịch ngữ vì yêu cái ấn tượng mạnh mẽ do nó gây ra. Đó là ấn tượng của cái đẹp khác lạ, độc đáo.
Nói theo ngôn ngữ phê bình hiện đại, nghịch ngữ chính là sự “lạ hoá”, sự phá vỡ trật tự thông thường, quen thuộc, chống lại cái sáo mòn, cái mặc nhiên thừa nhận. Nghịch ngữ thức tỉnh sự tự ý thức.
Nghịch ngữ hay xuất hiện khi người ta nói viết về các đề tài với các thể loại sau đây:
200
+ Nghị luận về các vấn đề chính trị, xã hội, triết học, nghệ thuật,...
+ Trào phúng, châm biếm các vấn đề thời sự, xã hội, đạo đức, ...
+ Bàn luận về các đề tài có tính chất vĩnh cửu của con người, đời người, vũ trụ, v.v.
BÀI TẬP
Xác định kiểu nghịch ngữ và phân tích ý nghĩa hàm ẩn rút ra từ những nghịch ngữ đó:
a/
Nhà văn cổ điển Việt Nam Một cậu bé ở tuổi 70 Có nét mặt mệt mỏi của con rùa già từng trải
(Evghenhi Evtushenko, Nhà văn cổ điển Việt Nam (Tặng cụ Nguyễn Tuân))
b/
Ngọn súng trường ta ơi, ngọn súng rất nhân tình.
(Chế Lan Viên, Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta, 1963)
c/
Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
(Tục ngữ)
d/
Đôi mắt em là tổ quốc những ánh chớp và nước mắt, Sự im lặng biết nói
(Octavio Paz. Đôi mắt em)
f/
Tình ca không lời
(Tên một tập thơ của Paul Verlaine)
Dù nó là con cháu địa chủ, nhưng con hứa với ông bà nông dân cố gắng nuôi dạy nó thành
g/ người nghèo khổ.
(Dương Hướng, Bến không chồng)
h/
Hạnh phúc đang còn, tình yêu đã mất.
(Xuân Quỳnh, Những năm tháng không yên)
Trên bia mồ của nhiều người đáng lẽ phải sửa lại là: Chết lúc ba mươi tuổi, chôn lúc sáu
i/ mươi tuổi.
(Lời một nhà văn Pháp)
k/
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu đồn lại một ngày dài ghê.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
l/
Không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông.
(Heraclite, Triết gia Hy Lạp)
m/
Đôi mắt băn khoăn của em buồn Đôi mắt em muốn nhìn vào tâm tưởng của anh Như trăng kia muốn vào sâu biển cả Anh đã để cuộc đời mình trần trụi dưới mắt em Anh không giấu em một điều gì Ấy thế mà em không biết gì tất cả về anh.
(Tagore, Thơ Dâng, bài 28)
201
IX. ĐỒNG NGHĨA KÉP
1. Khái niệm
Đồng nghĩa kép là phép tu từ dùng (trong một ngữ cảnh hẹp) một loạt từ ngữ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa cùng nói về một đối tượng để nhấn mạnh, làm nổi rõ một vấn đề diễn đạt.
Đặt nghệ thuật ra ngoài xã hội ... cho nghệ thuật có tính chất thiêng liêng, thần bí là phi lý, là nguỵ biện và – thưa ông Thiếu Sơn – đó là gian trá.
(Hải Triều, Nghệ thuật vị nghệ thuật hay Nghệ thuật vị nhân sinh)
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
(Hoàng Cầm, Bên kia sông Đuống)
2. Tác dụng
Đồng nghĩa kép giúp triển khai đầy đủ nội dung một vấn đề từ nhiều phương diện. Cách diễn đạt tập trung của đồng nghĩa kép làm tăng hiệu quả diễn đạt hơn cách diễn đạt riêng lẻ. Tác dụng diễn đạt của đồng nghĩa kép gần giống với phép điệp ngữ.
Từ ngày cô đi lấy chồng Gớm sao có một quãng đồng mà xa Bờ rào cây bưởi không hoa Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo. Lợn không nuôi, đặc ao bèo Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn Giếng thời mưa ngập nước tràn Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều.
(Nguyễn Bính, Qua nhà)
Tác dụng của đồng nghĩa kép là nhận thức và biểu cảm.
Đồng nghĩa kép được dùng nhiều trong phong cách chính luận (đặc biệt là văn hùng biện), ngôn ngữ nghệ thuật.
BÀI TẬP
Những từ ngữ in đậm sau đây có phải là đồng nghĩa kép hay không? Vì sao?
a/
Phàm cái gì chống lại tinh thần dân tộc, độc lập và thống nhất phải thẳng cánh đập tan. Phàm cái gì trái khoa học phản tiến bộ phải kiên quyết bài trừ. Phàm cái gì phản đại chúng xa đại chúng, phải nhất luật san phẳng.
(Trường Chinh, Ba nguyên tắc của cuộc vận động tân văn hoá Việt Nam lúc này)
b/
Mắt nghẹn nhìn thâu dạ; Môi khô hết níu lời... Chân rời, tay muốn rã... Kẻ khuất... kẻ trông vời...
(Xuân Diệu, Viễn khách)
202
X. LIỆT KÊ (ENUMERATION)
1. Khái niệm
Liệt kê là phép tu từ kể ra một loạt đối tượng cùng loại để nhấn mạnh tính chất phong phú, đa dạng hoặc bề bộn, phức tạp của sự vật, hiện tượng đang nói tới.
Người nhà quê bây giờ mở miệng ra là thấy đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực dân, phát xít, phản động, xã hội chủ nghĩa, dân chủ với tân dân chủ nữa mới khổ thiên hạ chứ.
(Nam Cao, Đôi mắt)
Cần phân biệt liệt kê tu từ và liệt kê thông thường (liệt kê lôgic).
Giữa các thành tố của sự liệt kê có thể được sắp xếp theo một trình tự nào đó.
2. Phân loại
Có 2 loại.
2.1. Liệt kê không theo cặp
Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấp nập xuôi ngược, thế là bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két ở các bãi sông xơ xác tận đâu cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi.
(Tô Hoài, Dế Mèn phiêu lưu ký)
2.2. Liệt kê theo cặp
Cái ái tình của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình thoáng qua, cái tình gần gụi, cái tình xa xôi, cái tình chân thật, cái tình ảo mộng, cái tình ngây thơ, cái tình già dặn, cái tình giây phút, cái tình nghìn thu.
(Lưu Trọng Lư)
3. Tác dụng
Liệt kê nhấn mạnh tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của vấn đề nói tới, làm nổi rõ ấn tượng thẩm mỹ, gây chú ý, tạo hiệu quả diễn đạt cao hơn bình thường.
Mợ à, tôi quét nhà, thông cống, dời gạch, chở ngói, xây nền, đắp tường, cày ruộng, bừa đất, gieo mạ, cấy lúa, xây dựng cơ đồ cho nhà mợ.
(Ngô Thừa Ân, Tây du ký – Lời Trư Bát Giới nói với vợ)
Liệt kê làm tăng tính chất nhịp nhàng, cân đối cho lời văn.
Phép liệt kê thường gắn liền với phép điệp cú pháp.
Liệt kê có khi được sử dụng như một thủ pháp “đặc tả” về đặc trưng sự vật, hiện tượng:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
(Câu đối)
Phép liệt kê được sử dụng nhiều trong văn nghệ thuật, văn chính luận.
BÀI TẬP
1. Phân tích tác dụng biểu đạt của phép liệt kê trong các ví dụ sau:
203
a/ Riêng ở người ngài, sự oai vệ cũng đã quá đầy đủ rồi, thế mà đằng sau đằng trước, bên phải, bên trái, còn bày la liệt những thứ khiến người yếu bóng vía phải rùng mình: thanh quất, súng lục, súng trường, gươm, giáo, bát xà mâu, kích,...
(Nguyễn Công Hoan, Bước đường cùng: Chương 8)
b/ Sân bay Tân Sơn Nhất ngổn ngang nhà trại, kho tàng, đường bay, sân bãi, ụ súng, bao cát, kẽm gai ... cũng khuất dần đi trong cái ồn ào, rối rít, mù mịt đất, bụi, khói xăng ấy.
(Nguyễn Tuân)
c/ Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người của đất nước, những người nông dân chịu thương chịu khó, làm nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bền gan bền chí, rất dễ vui, ngay trong kháng chiến gian khổ.
(Nguyễn Đình Thi, Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng, Văn nghệ số 77, 1955)
2. Liệt kê trong đoạn văn sau đây là liệt kê tu từ hay liệt kê lôgic?
Cán bộ giảng dạy đại học có thể chia làm ba loại: một là giảng rất rõ ràng, rành mạch những chân lý giản đơn, muôn thủa, ai cũng biết cả rồi. Nghĩa là bài giảng không làm cho sinh viên khôn thêm lên một tý nào. Hai là diễn đạt quá tối tăm rắc rối, không ai hiểu gì cả, kể cả người giảng cũng không hiểu mình nói gì. Đây là loại không thích nói những điều thông thường ai cũng biết, nhưng những điều mới lạ, độc đáo lại không nghĩ ra, bèn dùng lối khoe chữ nghĩa rắc rối, khoe đọc sách này sách khác, tiếng Tây tiếng Tầu đủ cả, tung ra một mớ hoả mù khái niệm có vẻ uyên bác, cao siêu, thực chất đầu óc rỗng không. Loại một tuy tầm thường, nhưng đứng đắn. Loại hai phải gọi đích danh là lừa bịp, là bất lương trong giới đại học. Còn loại ba là những thầy giáo thực sự giỏi và trung thực. Họ truyền đạt cho học trò một cách dễ hiểu những điều mới lạ, sâu sắc. Họ thực sự là những nhà khoa học, đồng thời là những nhà sư phạm lương thiện. Họ nghĩ ra nhiều điều mới mẻ sâu sắc và hiểu rõ những điều mới mẻ sâu sắc ấy, nên có cách diễn đạt cho học trò hiểu được.
(Nguyễn Đăng Mạnh)
XI. TĂNG CẤP
1. Khái niệm
Tên gọi khác: tăng tiến, tiệm tiến và tiệm thoái.
Tăng cấp là phép tu từ sắp xếp các thành tố ngữ nghĩa xoay quanh một nội dung theo trình tự tăng dần hoặc hoặc giảm dần để tạo ấn tượng đặc biệt về cách diễn đạt và nhấn mạnh vấn đề trình bày.
Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
(Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến)
Tính năng của vũ khí: súng ← gươm ← cuốc ← thuổng ← gậy gộc
Quyết tâm kháng chiến: tương đối cao → cao → rất cao → cực kỳ cao → đặc biệt cao
(thà hy sinh tất cả, chứ
nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ)
Tăng cấp là một hình thức đặc biệt của phép liệt kê.
2. Cấu tạo
Một phép tăng cấp phải gồm các thành tố ngữ nghĩa (từ, cụm từ) sắp xếp xoay quanh nội dung trình bày và có 2 lớp nghĩa:
Lớp nghĩa bề mặt: tăng dần hoặc giảm dần (thường lên đến đỉnh điểm – climax)
Lớp nghĩa hàm ẩn: tăng dần.
204
Người ta sẽ khinh y, vợ y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y.
(Nam Cao, Sống mòn)
Độ xa cách: người ta → vợ → chính y
Mức độ khinh: tương đối cao → rất cao → tuyệt đối cao
3. Phân loại
Căn cứ vào hướng tăng tiến của các thành tố nghĩa trên bề mặt, phép tăng cấp được chia làm 2 loại.
3.1. Tiệm tiến (tiến từ từ; climax, climbing figure)
Nếu bánh mì trong lò bị hỏng, bạn mất một tuần; nếu mùa màng thất bát, bạn mất một năm; nếu hôn nhân bất hạnh, bạn mất một đời.
(Tục ngữ E–xtô–ni–a)
3.2. Tiệm thoái (lui từ từ; anticlimax)
Cưới nàng anh toan dẫn voi Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn Dẫn trâu sợ họ máu hàn Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân Miễn là có thú bốn chân Dẫn con chuột béo mời dân mời làng...
(Ca dao)
4. Tác dụng
Phép tăng cấp tạo nên một ấn tượng đặc biệt về cách diễn đạt nghệ thuật. Thông qua sự tăng tiến, nội dung trình bày được nhấn mạnh, khắc sâu.
Trong phép tăng cấp, tiêu điểm thông báo của lời văn rơi vào đỉnh điểm của sự tăng tiến.
Phép tăng tiến, tuỳ theo từng trường hợp, nghiêng về tác dụng nhận thức hay tác dụng biểu cảm.
Phép tăng cấp được sử dụng nhiều trong ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ chính luận.
BÀI TẬP
Xác định kiểu loại của phép tăng cấp trong những trường hợp sau và phân tích tác dụng biểu đạt của chúng:
a/ Người ta nói sáu mươi tuổi thì tính năm, bẩy mươi tính tháng, tám mươi tính ngày... Tôi muốn sống lâu để xem thời thế ra sao.
(Nguyễn Khải)
b/
Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng Ðến em thơ cũng hóa những anh hùng Ðến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!
(Tố Hữu, Êmily, con ...)
c/ Một con thuyền cô quạnh, hai ba khách văn chương, bốn mái chèo khoả nước, năm cánh buồm gió căng, đi qua sáu bãi bảy bến, nếm đủ tám lận đận, chín lênh đênh, thật đáng tiếc mười phần vì đã đến muộn.
205
Trải qua mười năm đèn sách, theo học chín tám ngôi trường, phớt lờ bảy loại tình cảm, sáu loại thèm muốn, nghiền ngẫm hết ngũ kinh tứ thư, đi thi ba lần hai lượt, hôm nay nhất thiết phải đậu.
(Câu đối của một chàng tú tài đi thi trễ)
d/
Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm, Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều.
(Xuân Diệu, Xuân không mùa)
e/
Cưới em có cánh con gà
Có dăm sợi bún, có vài hạt xôi Cưới em còn nữa anh ơi Có một dĩa đậu, hai môi rau cần Có xa dịch lại cho gần Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi Hay là nặng lắm anh ơi Ðể em bớt lại một môi rau cần?
(Ca dao)
XII. ĐỘT GIÁNG
1. Khái niệm
Đột giáng là phép tu từ sắp xếp các thành phần ngữ nghĩa hạ thấp xuống đột ngột, bất ngờ ở cuối mạch trình bày nhằm nhấn mạnh, gây chú ý, tạo ấn tượng đặc biệt.
Mừng ông nay mới đẻ con trai, Thực giống con nhà chẳng giống ai, Mong cho chóng lớn mà ăn cướp ... Cướp lấy khôi nguyên kẻo nữa hoài!
(Nguyễn Quý Tân, Mừng bạn đẻ con trai)
1
Sơ đồ:
1 2 3 4
Đột giáng là một hình thức đặc biệt của phép liệt kê.
Trong phép đột giáng, nếu nội dung trình bày ở phần đầu là dương tính (tích cực) thì nội dung của chi tiết cuối sẽ là âm tính (tiêu cực), và ngược lại.
Ví dụ (kết thúc âm tính):
Bắt chước ai ta chúc mấy lời: Chúc cho khắp hết ở trong đời. Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước, Sao được cho ra cái giống người.
(Tú Xương, Chúc Tết)
Về hình thức trình bày, trước chi tiết cuối cùng của phép đột giáng, ở phần lớn trường hợp, người ta có thể dùng dấu ba chấm.
206
2. Tác dụng
Do được xây dựng theo một trình tự không bình thường, tạo sự chuyển đổi bất ngở, nên phép đột giáng có tác dụng nhấn mạnh, xoáy sâu vào nội dung của chi tiết hụt hẫng ở cuối.
Phép đột giáng vừa có tác dụng nhận thức vừa có tác dụng biểu cảm.
Tiếng cười do phép đột giáng gây ra thường hồn nhiên, sảng khoái. Phép đột giáng cũng bắt người đọc, người nghe phải nhận thức lại, suy nghĩ lại về vấn đề trình bày.
Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được cái gì hay cái nấy Có chăng chừa rượu với chừa trà!
(Tú Xương, Ba cái lăng nhăng)
Đột giáng thường được sử dụng trong văn thơ trào lộng, châm biếm.
BÀI TẬP
Các bài thơ, đoạn văn sau đây có sử dụng phép đột giáng hay không? Vì sao?
a/
Lạy trời lạy Phật lạy vua Cho tôi sức khoẻ tôi xua con ruồi.
(Ca dao)
Làm trai cho đáng sức trai,
b/
Khom lưng cố sức gánh ... hai hạt vừng.
(Ca dao)
c/
KHEN VÀ CHÊ
Hồi còn giữ chức Viện phó Viện văn học, nhà phê bình Hoài Thanh phân công cho một cán bộ
trong viện có học vị phó tiến sĩ làm báo cáo về tình hình văn học của một năm.
Sau khi đọc bản báo cáo mấy chục trang vừa nộp của anh phó tiến sĩ, Hoài Thanh nhận xét: « Bài viết của anh có nhiều điểm đúng và nhiều điểm mới. Nhưng những điểm đúng thì người ta đã ... nói, còn những điểm mới thì lại ... sai.”
d/
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo. Bà quan tênh nghếch xem bơi trải, Thằng bé lom khom nghé hát chèo. Cậy sức cây đu nhiều chị nhún, Tham tiền cột mỡ lắm anh leo. Khen ai khéo vẽ trò vui thế, Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!
(Nguyễn Khuyến, Hội Tây)
XIII. IM LẶNG (ELLIPSIS)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: phép lặng, nói lửng, phép treo, ẩn ngữ, mặc ngữ, tỉnh lược.
Im lặng là phép tu từ cố ý ngừng lời hoặc lược bớt một từ ngữ cần có trong lời nói để thể hiện những dụng ý diễn đạt đặc biệt.
207
Em nghe họ nói phong phanh Hình như họ biết chúng mình … với nhau.
(Nguyễn Bính, Chờ nhau)
Hôm qua em hứa anh rằng… Sao nay em lại khăng khăng bảo là… Tưởng em yêu thật hóa ra… Cũng vì anh quá thật thà cho nên…
(Nguyễn Nhật Ánh, Chấm chấm chấm)
Chỗ ngừng lời hoặc lướt bớt lời của phép im lặng trong văn bản thường thể hiện bằng dấu chấm lửng (...).
2. Phân loại
Căn cứ vào kiểu yếu tố bỏ trống, người ta chia phép im lặng làm 2 loại.
2.1. Im lặng là sự ngừng lời (với dụng ý nghệ thuật)
Nhiều tác giả phong cách học còn lẫn lộn sự ngừng lời thông thường trong giao tiếp (vì những lý do về vật lý, thể lực, ...) với sự dừng lời có dụng ý nghệ thuật (nhằm tạo sự chú ý, tạo sự bất ngờ, nhằm nhấn mạnh, ...).
Chỉ có sự dừng lời kiểu thứ hai mới thuộc phép im lặng.
Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt giơ tay lên nửa chừng:
– Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi ở tù mà nếu không được thì... thì... thưa cụ... Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn giơ ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp: – Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.
(Nam Cao, Chí Phèo)
2.2. Im lặng là sự lược lời (với dụng ý nghệ thuật)
Thực chất đây là kiểu nói lửng (nói nửa chừng, không hết ý, để cho người nghe tự hiểu). Kiểu thứ hai này là dạng điển hình cho phép im lặng. Quan điểm của các tác giả về kiểu thứ hai này cũng khá thống nhất.
Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã ... mặt ngoài còn e ...
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Sống ở dương gian đánh chén phè Thác về âm phủ cắp ke ke Diêm Vương phán hỏi rằng chi đó Be!
(Phạm Thái)
3. Tác dụng
Phép im lặng chủ yếu thực hiện tác dụng biểu cảm.
Sự ngừng lời, lược lời trong phép im lặng thường thể hiện sự ngẹn ngào, xúc động, sự e thẹn hoặc báo hiệu một sự đe doạ, một lời ám chỉ (allusion), ...
Gạo trắng, nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả ... Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho ...
208
(Giai thoại câu đối giữa Lê Thánh Tông và cô gái vo gạo ở bến sông)
Phép im lặng được dùng nhiều trong văn chương, báo chí, khẩu ngữ.
Kiểu thơ tiệt hạ (cắt bỏ phần tiếp sau) và thơ yết hậu (để trống phần sau) là hai kiểu thơ chuyên dùng phép im lặng (dạng lược bớt lời).
Thơ tiệt hạ:
Thác bức rèm châu chợt thấy mà ... Chẳng hay người ngọc có hay đà ... Nét thu gợn sóng hình như thể ... Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là .... Khuôn khổ ra chiều người ở chốn ... Nết na xem phải thói con nhà ... Dở dang nhắn gửi xin thời hãy ... Tình ngắn , tình dài chút nữa ta ...
(Vô danh)
Thơ yết hậu:
Hôm qua trời tối tới chơi đây Đánh phải địa thần mấy cẳng tay Khi tỉnh thì nào ai có dám… Say!
(Nguyễn Công Trứ)
BÀI TẬP
1. Xác định kiểu loại phép im lặng và phân tích tác dụng biểu đạt:
a/
Ai ơi, chèo chống tôi sang Kẻo trời trưa trật, lỡ làng tôi ra Còn nhiều qua lại lại qua, Gíup cho nhau nữa để mà...
(Nguyễn Du, Thơ gửi cô lái đò)
b/
CHUYỆN VỢ CHỒNG Vợ: Sáng sớm ra đi, tối ngủ khì Có chồng như thế có mà chi Mình ơi! Thức dậy chiều em tí Đi!
Chồng: Hôm nay lao động suốt cả ngày Mỏi hết bắp đùi, mỏi cả vai Chuyện đó cho anh xin khất lại Mai!
(An Trường Mai)
c/
Thấy gái hồng nhan bỗng chốc mà ... Hỏi thăm cô ấy chửa hay đà ... Hình dung yểu điệu in như thể ... Diện mạo phương phi ngó tưởng là ... Ăn mặc ra tuồng người ở chốn ... Nói năng phải lẽ giống con nhà ... Ước gì ta được mà ta để ... Ta để đem về để nữa ta ...
209
( Nguyễn Quý Tân, Gái hồng nhan)
2. Trong các ví dụ sau đây có sử dụng phép im lặng hay không? Vì sao?
a/ Anh Sáu tuyên truyền lại lôi ra một tờ giấy khổ nhỏ in chữ chì, còn thơm phức mùi mực ty-phô, dán vào vách ngang tầm mắt người ngồi ở bàn. Lão Ba Ngù lẩm nhẩm đánh vần:
– Khờ. . . ông . . . không, đờ. . i đi . . . Khô.ng đi lính chờ. . . o ... cho... Không đi lính cho
giặc!
(Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam)
b/
Nếu không có ngày ba mươi tháng Tư Em vẫn như thuở nào, sợ tay mình lấm đất Sẽ không biết tự khuyên mình những lời khuyên nghiêm khắc Không một lần dám sống hy sinh
Và giữa dòng người cuộc sống gấp bon chen Em đâu biết tin một ai, một điều gì tuyệt đối Em sẽ đến với tình yêu bằng nửa trái tim yếu đuối Còn nửa kia, đành giữ lại để... nghi ngờ Em sẽ không hề nghĩ đến mầm cây khi nhìn những giọt mưa Có thể rồi sẽ quên cả màu của lúa
Quên bài địa lý quê hương, những miền nào đất đen đất đỏ Sẽ nhọc nhằn khi định nghĩa chữ "dòng kênh" Sẽ… rất nhiều, anh hiểu phải không anh ?
Ngày tháng trước em là con ốc nhỏ Con ốc đa nghi cuộn mình trong lớp vỏ Sống vô tình mà ngỡ sống thông minh.
(Đinh Thị Thu Vân, Nếu không có ngày 30 – 4)
c/ Việc Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nhật Bản thực ra không cần thiết nữa. Đây chính là Mỹ muốn đánh tín hiệu cho Liên Xô, rằng nếu không dừng lại thì tôi sẽ…
(Lời của Hồ Chí Minh. Hoàng Tùng, Hồi ký)
d/ Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
– Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
– Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau...
(Phùng Gia Lộc, Cái đêm hôm ấy... đêm gì?)
XIV. TÁCH BIỆT CÚ PHÁP
1. Khái niệm
Tách biệt cú pháp là phép tu từ tách một bộ phận của câu ở phía trước (hoặc phía sau) thành một câu độc lập để nhấn mạnh hoặc tạo sắc thái biểu cảm đặc biệt.
Tên gọi khác: tách câu, tách biệt.
Sáng hôm sau, Điền ngồi viết. Giữa tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng. Và cả tiếng chửi bới của một người láng giếng ban đêm mất gà.
(Nam Cao, Trăng sáng)
210
Xét trong nội bộ câu, biện pháp tách câu là “cố ý vi phạm chuẩn mực cú pháp”. Những câu như thế không thể đứng độc lập. Tuy nhiên, trong văn bản, sự tồn tại của chúng là hoàn toàn hợp lý. Thành phần khuyết trong câu tách biệt dường như đã được giải thích bằng sự có mặt của nó ở câu trước đó mà nó có quan hệ tất yếu về ngữ nghĩa.
Câu tách biệt thường có cấu tạo khá giống nhau. Nó có thể là một từ, một cụm danh từ, cụm động từ hoặc cụm tính từ được tách ra từ một câu.
Tách biệt cú pháp là dạng thức thường thấy trong văn xuôi của nhiều tác giả.
2. Phân loại
2.1. Tách thành phần trạng ngữ
Ruột bà đau quằn quại. Ăn một tí gì vào cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy.
(Nam Cao, Một bữa no)
Trong ví dụ trên, Nam Cao tách thành phần trạng ngữ chỉ thời gian nhằm nhấn mạnh đến “nửa tháng” bị hành hạ, quằn quại trong cơn đau từ cái ngày bà lão được ăn no.
2.2. Tách thành phần giải thích ngữ
Như thế người ta gọi là nửa đùa nửa thật. Một cách lấp liếm cái ý định của mình bằng cách nói toạc nó ra.
(Nam Cao, Một bữa no)
2.3.Tách thành phần bổ ngữ
Có khi bà lại khóc lóc, hờ con. Nghe rợn cả người.
(Nam Cao, Một bữa no)
Thành phần bổ ngữ của câu được nhà văn tách ra thành một câu độc lập đứng riêng biệt bên cạnh các câu khác nhằm nhấn mạnh tính chất nào đó (cách thức, đối tượng, mức độ, phạm vi, phương hướng, …) của sự kiện mà tác giả đang bàn đến.
2.4. Tách thành phần vị ngữ
Kể thì cũng là một ý hay. Như thế, tránh được cả cái nạn huých khuỷu tay vào ngực nhau để tranh một cái vé đi xe lửa. Tránh được cả cái nạn ngồi lên đùi người khác và để người khác ngồi lên đùi mình.
(Nam Cao, Trăng sáng)
2.5. Tách vế câu
Nuôi cháu bảy năm trời, mãi cho đến khi nó đã mười hai, bà cho nó đi làm con nuôi người ta lấy mười đồng. Thì cải mả cho bố nó đã mất tám đồng rồi.
(Nam Cao, Một bữa no)
3. Tác dụng
Sau một loạt câu văn bình thường, câu tách biệt xuất hiện có tác dụng thay đổi nhịp điệu một cách đột ngột. Nhịp văn trở nên nhanh gấp, tác động vào tâm lý của người tiếp nhận. Phép tách biệt cú pháp giúp làm nên sự đa dạng, linh hoạt về nhịp văn, tạo được hứng thú cho người đọc.
Câu tách biệt của thường là câu ngắn. Những câu tách biệt ngắn tạo nên nhịp kể nhanh và tạo nên những khoảng trống cho liên tưởng của người đọc. Độ nén của cấu trúc ngắn và tối giản cũng tựa như những nét mực tàu phác họa cho bức tranh. Phép tu từ tách biệt câu khắc phục được tính đơn điệu trong cấu trúc cú pháp, trong nhịp điệu văn xuôi. Các câu tách biệt 211
vừa góp phần chi tiết hóa, đặc tả hiện thực, vừa tránh chỉ sử dụng câu cấu trúc bình thường làm phai nhạt “gia vị” của tác phẩm.
BÀI TẬP
Xác định loại tách biệt cú pháp và nêu tác dụng biểu đạt:
a/ Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Điền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Điền vẫn ao ước có ngày lại khơi.
(Nam Cao, Trăng sáng)
b/ Như vậy, tất cả già dặn lắm mới tốn chừng đồng bạc. Nghĩa là tiêu quá đằng kia hai hào.
(Nam Cao, Trăng sáng)
XV. CÂU TUẦN HOÀN (PERIOD, PERIODIC SENTENCE)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: trường cú.
Một câu dài, thường xuyên phức tạp, được đánh dấu bởi cấu trúc treo, trong đó nghĩa của câu không hoàn chỉnh trước khi đến từ cuối cùng – thường với một đỉnh điểm của cảm xúc.
Đây là một loại câu với những mệnh đề sóng đôi, dùng trong ngôn ngữ trang trọng.
Mười năm nay bao nhiêu triệu cặp mắt mong chờ lo âu chăm chú nhìn về phía chúng ta từ khắp nơi trên trái đất, chăm chú theo dõi ta, từ cái thuở ta còn len lỏi trong rừng đêm bốn bề giặc bủa ; những đôi mắt nặng trĩu chịu đựng và lo chờ, bạc xám như lớp tro phù hòn than vùi trên khuôn mặt đen bóng của châu Phi ; những đôi mắt sôi nổi từ phía châu Mỹ Latinh ; những đôi mắt trầm ngâm của châu Á, long lanh của châu Âu ; những đôi mắt xao động sóng gió từ vô số hòn đảo trên châu Đại dương rộng lớn. (*)
(Nguyễn Trung Thành, Đường chúng ta đi)
Nói về độ dài và cấu trúc của câu tuần hoàn, Phan Ngọc viết: “những trường cú (période) Latinh thường dàn ra đến ba trăm chữ với mọi ý phụ, cách nối, tôn ty làm người đọc kiệt sức.”
(Phan Ngọc, Sự tiếp xúc của văn hoá Việt Nam với Pháp)
2. Tác dụng
Trường cú có tác dụng triển khai đầy đủ nội dung trình bày, nhấn mạnh ý tưởng; tạo sự nhịp nhàng, cân đối về cấu trúc và tạo âm hưởng mạnh mẽ và sắc thái trang trọng cho lời văn.
Trường cú được sử dụng nhiều trong văn chính luận bác học.
Khi chính-học đang quang minh, thì tà thuyết không có chỗ nào xen vào được; tà- thuyết lưu-hành trong nước như gió lướt cỏ, như nước vỡ đê; không ai ngăn cản, thì thường vào lúc chính-học đã suy đồi, mà nhất là lúc việc đời biến cải, việc nước đổi thay, quốc thị mơ màng, nhân tâm bỡ-ngỡ, nền cũ đã đổ, nhà mới chưa thành bậc hiền nhân quân-tử thì kín tiếng dấu tăm, nằm co ở nơi thảo dã, mà bọn bỉ-phu tục tử thì khua chuông gõ mõ, nhảy-nhót ở trên vũ đài; lúc ấy chính là lúc tà thuyết thừa cơ mà lấn lướt chính-học.
(Ngô Đức Kế, Luận chính học cùng tà thuyết, 1924)
212
Nguyễn Nguyễn Trứ: « Câu văn tuần hoàn (période) với cấu trúc nguy nga, có chiều dài, chiều rộng, lẫn chiều cao, chiều sâu chứa đựng một nội dung phức tạp trong một hình thức sáng rõ, hài hòa là tài sản riêng của phong cách chính luận. » [Nguyễn Nguyên Trứ 1988]
F. NHÓM CHUYỂN NGHĨA CẤU TRÚC
I. CÂU HỎI TU TỪ (RHETICAL QUESTION)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: câu nghi vấn tu từ, vấn ngữ, câu hỏi hùng biện, câu chuyển đổi tình thái(*).
Câu hỏi tu từ là loại câu trên bề mặt ở dạng thức hỏi nhưng ý nghĩa đích thực không nhằm tìm kiếm câu trả lời mà để thực hiện những mục đích về biểu cảm, nhận thức hoặc lập luận.
Áo mặc sao qua khỏi đầu?
(Tục ngữ)
Bông huệ trắng và bức tường cũng trắng Sao bóng hoa trên tường lại đen? Anh và em đếu không ai có lỗi Mà sao ta khó gặp nhau?
(Bế Kiến Quốc, Bông huệ trắng)
Trong câu hỏi tu từ, ý nghĩa nghi vấn không phải là quan trọng; ý nghĩa tình thái hàm ẩn mới là ý nghĩa mà người nói (viết) muốn đạt đến, hướng đến.
2. Phân loại
2.1.1. Căn cứ cấu trúc ngữ nghĩa
Có 3 loại cơ bản:
+ Câu nghi vấn – khẳng định
Vợ Điền thế nào chả hơn Điền trong cái môn lo liệu việc nhà? (Nam Cao, Trăng sáng)
+ Câu nghi vấn – phủ định
Núi cao bởi có đất bồi
Núi chê đất thấp, núi ngồi ở đâu? Trăm dòng sông đổ biển sâu Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?
(Tố Hữu. Tiếng ru)
+ Câu nghi vấn – cảm thán
Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm? Nàng là hương hay nhan sắc lên hương? Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường, Lệ tích lại sắp tuôn thành đũa ngọc.
(Bích Khê, Tranh loã thể)
2.1.2. Căn cứ vào tính chất có hay không có câu trả lời
213
+ Câu hỏi tu từ không có câu trả lời (kích vấn)
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây? Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng Đèn ra trước gió còn chăng hỡi đèn?
(Ca dao)
+ Câu hỏi tu từ có câu trả lời (đề vấn)
Thường gặp trong văn chính luận khi người nói (viết) đặt ra câu hỏi để thu hút sự chú ý của người nghe (đọc), sau đó tự trả lời để tiếp tục phần trình bày.
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm! Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc, Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn, Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc. Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng... Những ngày tôi sống đây là ngày đẹp hơn tất cả Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn …
(Chế Lan Viên, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng)
3. Tác dụng
Câu hỏi tu từ là một hình thức diễn đạt tinh tế, khơi dậy ở người đọc những suy tưởng, những cảm xúc mà với cách diễn đạt bình thường sẽ ngủ yên trong tiềm thức.
Vì sao ngày một thanh tân?
Vì sao người lại mến thân hơn nhiều? Vì sao cuộc sống ta yêu Mỗi giây mỗi phút, sớm chiều thiết tha? Vì sao mỗi hạt mưa sa Mỗi tia nắng rọi cũng là tình chung? Xuân vui ca múa mọi vùng Bắc Nam đâu cũng anh hùng vì sao?
(Tố Hữu, Tiếng hát sang xuân, 1966)
Trong văn lập luận, câu hỏi tu từ dồn đối phương vào chân tường, bắt họ phải công nhận những lý lẽ, sự thật không thể chối cãi được.
Câu hỏi tu từ cũng là phương tiện tạo ra sự giao tiếp gần gũi, thân thiết giữa người nói và người nghe, thay đổi mạch văn, tạo sự đồng cảm nghệ thuật.
Không nhất thiết bức tranh nào cũng trình bày những hình ảnh công nông. Một bông hồng rung rinh dưới ánh mặt trời trong sương sớm sao lại không được xem là nghệ thuật vị nhân sinh?
(Lời đồng chí Lê Duẩn trao đổi với hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm)
Câu hỏi tu từ (dạng đề vấn) thường đứng đầu bài văn, đoạn văn. Người ta hay dùng câu hỏi tu từ (dạng kích vấn) để kết thúc một bài văn nhất là bài văn hùng biện.
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ Mà vạn vật là muôn đá nam châm
214
Nếu hương đêm say dậy với trăng rằm Sao lại trách người thơ tình lơi lả?
(Xuân Diệu, Cảm xúc)
Nguyên Hồng đã sống hơn sáu mươi năm, đã viết hơn bốn mươi năm, ai biết được ông đã đổ ra bao nhiêu nước mắt cho đời và cho nghệ thuật? Bây giờ nằm dưới ba thước đất, nguồn nước mắt ấy, liệu có bao giờ khô cạn được chăng?
(Nguyễn Đăng Mạnh, Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng)
4. Lưu ý
Hình thức gọi là “hỏi vặn”, “hỏi kháy” trong khẩu ngữ có thể xem là một dạng câu hỏi tu từ. Ví dụ:
Anh cứ đòi cái người ta không có là nghĩa làm sao! Cụ Hồ không có con gái mà anh cứ đòi làm rể ông Cụ có được không?
(Khẩu ngữ)
BÀI TẬP
Đọc đoạn văn sau đây, sau đó gạch dưới những câu hỏi tu từ và nêu tác dụng biểu đạt của chúng: a/ Nếu người ta không phải ăn thì đời sẽ giản dị biết bao?
(Nam Cao, Một bữa no)
b/ Tôi đã chứng kiến nhiều đám tang của văn nghệ sĩ ở trụ sở 51 Trần Hưng Đạo. Có lẽ sau đám tang Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh thì đám tang Xuân Diệu là đông và xúc động nhất: cả một rừng người và một rừng những vòng hoa màu. Rất nhiều người khóc. Những ai đến viếng ông chắc họ đều hơn một lần đọc và thuộc ít nhiều thơ ông. Biết đâu những câu thơ tình của ông từng là nhịp cầu tình yêu cho bao đôi lứa?
Trong đám tang đó, duy nhất có một bó hoa trắng (màu hoa chỉ sự trinh trắng, thường dùng trong đám tang của người chưa lấy vợ lấy chồng hoặc trẻ em) rất đẹp - giống như hoa tết dùng cho sinh nhật bây giờ, là của đạo diễn Bạch Diệp đến viếng. Tôi đi bên xe tang cạnh nhà thơ Hoàng Trung Thông lúc này cũng đang im lặng nhưng mắt thì đỏ hoe. Chúng tôi nhìn màu trắng của hoa - những bông hoa từ chính người đàn bà danh chính là vợ duy nhất của ông dầu họ sống chung với nhau trong một quãng thời gian không dài; và đưa mắt cho nhau, ngậm ngùi ngẫm nghĩ về ông mà thương ông khôn xiết. Tôi chợt nghĩ: liệu trong bấy nhiêu thành quả lao động đồ sộ mà ông để lại cho đời có bao nhiêu phần trăm là kết quả của một sự lao động để mà lãng quên nỗi bất hạnh về giới tính của mình?
(Tôn Phương Lan, Một góc nhìn Xuân Diệu, Văn hoá Nghệ An, 11/02/2012)
c/ Một lần một cán bộ Miền Nam, chị R. ra thăm Miền Bắc và đến chào anh Ba [Lê Duẩn]. Trong câu chuyện, chị ấy nói:
– Anh Ba này, tôi thấy dân Miền Bắc sao họ keo kiệt bủn xỉn quá, không rộng rãi như đồng
bào Miền Nam.
Lê Duẩn liền hỏi:
– Chị là người Việt Nam hay là người Khơ-me?
R. hỏi:
– Sao anh Ba hỏi lạ vậy? Em là người Việt Nam.
– Tôi hỏi là vì nếu chị là người Việt Nam thì không cha chị thì ông chị, không ông chị thì ông cố chị và nhiều lắm là trên ông cố chị một hai đời đều là người Miền Bắc vào Nam cả. Sao chị lại chửi ông cha chị? Tôi nói cho chị biết, của cải quý nhất của người đàn bà là gì? Là con, nhất là con trai. Thế mà nhiều bà mẹ Miền Bắc vì sự nghiệp giải phóng Miền Nam mà cho con đi Miền Nam, 215
người một con, người hai con, người ba con, người nhiều hơn, có bao nhiêu con trai cho đi hết, mà biết đi thì hy sinh tại chiến trường là cái chắc. Thế chị bảo những bà mẹ ấy keo kiệt bủn xỉn à? Còn dân Miền Nam? Khi tôi ở Miền Nam, khu 7 thiếu quân, kêu thanh niên từ khu 8, khu 9 lên rất khó vì họ sợ gian khổ và hy sinh. Còn chị biết vì sao mà dân Miền Bắc keo kiệt không? Vì đồng bào Miền Bắc còn khổ lắm. Đất ít người đông, thiên tai năm nào cũng năm lần bảy lượt, làm cật lực chưa chắc đã thu hoạch được, chưa chắc đã đủ ăn. Vì vậy họ phải tính toán chi li từng hạt gạo, từng đồng xu.
(Trần Quỳnh, Hồi ký)
II. NÓI MỈA (IRONY)
1. Khái niệm
Tên gọi khác: mỉa mai, biếm dụ, phản ngữ.
Nói mỉa là phép tu từ dùng cách nói mà ý nghĩa đánh giá đích thực ngược hẳn với ý nghĩa bề mặt của phát ngôn.
Lớp này học giỏi quá nhỉ?! (Lớp này học rất tệ.)
(Khẩu ngữ)
Chuột chù chê khỉ rằng hôi Khỉ mới trả lời: “Cả họ mày thơm!”
(Ca dao)
Nói mỉa là phép tu từ ngược lại với nhã ngữ.
2. Cấu tạo
Nói mỉa có hai tầng ý nghĩa: ý nghĩa bề mặt, ý nghĩa đích thực.
Nói mỉa là phép tu từ biểu thị sự phản đối, phủ định, châm biếm, mỉa mia dưới bề ngoài (dưới “mặt nạ” (chữ dùng của Lại Nguyên Ân [Lại Nguyên Ân 2004, 202]) khẳng định, tán dương, ca ngợi.
Sự mâu thuẫn, đối lập giữa hai bề mặt ngữ nghĩa càng lớn thì sức mỉa mai càng mạnh mẽ.
Cơ sở để hiểu phép nói mỉa là dựa vào ngữ cảnh, tình huống giao tiếp, giọng điệu phát ngôn, những cử chỉ phi ngôn ngữ, ...
3. Tác dụng
Nói mỉa là một phương thức biểu thị sự hài hước (humour), trào phúng dí dỏm, thâm thuý, ý vị.
Lươn ngắn mà chê chạch dài Thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.
(Ca dao)
“Lối nói ngược của mỉa mai như nén sức mạnh của phản đối lại để cho nó bùng lên mạnh mẽ trong ý thức người tiếp nhận, nhưng lại tạo được một bề ngoài “mát mẻ”, “dí dỏm”, “nhẹ nhàng” [Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi 2011, 196]
Nói mỉa được sử dụng nhiều trong khẩu ngữ và thơ văn châm biếm, trào phúng.
ÔN TẬP
1. Trả lời các câu hỏi sau đây: a/ Nêu những điểm khác nhau giữa phong cách hành chính và phong cách chính luận.
216
b/ Tính biểu cảm và tính chính xác về biểu đạt được thể hiện như thế nào trong các phong cách ngôn ngữ?
c/ Phân tích các đặc trưng sau đây của phong cách báo chí:
+ Tính thời sự + Tính hấp dẫn + Tính đại chúng
d/ So sánh sự giống nhau và khác nhau giữa ẩn dụ và hoán dụ. Minh hoạ bằng một số ví dụ cụ thể.
e/ Trình bày những hiểu biết của anh (chị) về sự thể hiện của tính khách quan và tính khuôn mẫu trong các phong cách chức năng của tiếng Việt.
2. Phân tích các câu sau đây từ góc độ tu từ:
a/
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
(Chế Lan Viên, Tiếng hát con tàu)
b/
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi Mỗi buổi sáng thần Vui hằng gõ cửa Tháng giêng ngon như một cặp môi gần Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
(Xuân Diệu, Vội vàng)
c/ Lá liễu dài như một nét mi.
(Xuân Diệu, Nhị hồ)
d/
Trăm năm đành lỗi hẹn hò Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
(Ca dao)
e/ Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời Từng giọt long lanh rơi Tôi đưa tay tôi hứng
(Thanh Hải, Mùa xuân nho nhỏ)
f/
Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược Có nhân có trí có anh hùng.
(Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập)
g/ Khách cũng như con cá, qua ba ngày là bốc mùi thối.
(Tục ngữ La-tinh)
h/
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối
(Xuân Diệu, Khi chiều giăng lưới)
i / Âm nhạc dầu sao chăng đi nữa vẫn chưa phải là một ngôn ngữ đại đồng. Cần phải dùng dây cung của lời nói để bắn mũi tên âm thanh vào lòng người” ( tức là phải dẫn giải)
(Romain Rolland)
k/ Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc thơ Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giang thì thật vui mà thật khó vậy”.
(Bùi Văn Nam Sơn)
217
l/
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa Làn nước qua ánh mắt ai đưa Cơn gió đến bàn tay em vẫy
(Tế Hanh, Bài thơ tình ở Hàng Châu)
m/
Bà già tuổi tám mươi hai Nằm trong quan tài hát ví thợ sơn
(Ca dao)
n/
Cả cánh đồng vắng lặng
Trắng màu chuông chuông nhà thờ
(Chế Lan Viên, Bút ký đồng chiêm trũng)
o/
Ðêm nằm than thở, thở than Gối ơi hỡi gối, bạn lan đâu rồi? (Ca dao)
p/
Ðây những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gian Những sông vắng lê mình trong bóng tối Những tượng đài lở lói rỉ rên than. (Chế Lan Viên)
q/
Ðứt tay một chút chẳng đau Xa nhau một chút như dao cắt lòng.
(Ca dao)
t/
Nhác trông thấy bóng anh đây Ăn chín lạng hạt ớt thấy ngọt ngay như đường. (Ca dao)
r/
Thâm nghiêm kín cổng cao tường Cạn dòng lá thắm, dứt đường chim xanh.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
s/ Người đàn ông yêu với cái đầu, người đàn bà suy nghĩ bằng con tim.
(Tục ngữ Pháp)
t/ Con tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không thể hiểu.
(Blaise Pascal)
v/ Nếu người đi săn trở về và chỉ mang theo nấm, đừng hỏi anh ta về chuyện đi săn.
(Tục ngữ Gha-na)
u/ Cái vòng đen của rặng tre làng Bằng bỗng vụt hiện lên trước mặt, tối tăm và dày đặc. Tâm buồn rầu nhìn thấu cả cuộc đời nàng, cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô sơ.
(Thạch Lam, Cô hàng xén)
x/
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp Giấc mơ con đè nát cuộc đời con Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.
(Chế Lan Viên, Người đi tìm hình của nước)
y/
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim
218
Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
(Tố Hữu, Từ ấy)
z/ Bạn có thê mất một tuần để biết một người, một tháng để thân một người, một năm để yêu một người, nhưng phải mất một đời để quên một người.
(Danh ngôn)
3. Thay thế từ ngữ ở cột B sang đúng chỗ cho những từ ngữ in hoa ở cột A và cho biết khi thay thế như vậy anh (chị) đã thực hiện phép tu từ gì ?
A
B
Chồng ta NGHÈO KHỔ ta thương,
ăn cơm đứng
Chồng người GIÀU SANG PHÚ QUÝ mặc người. ăn cơm nằm
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
những con đê vỡ, những nạn đói
TÌNH CẢM lầm chỗ để trên TRÍ TUỆ.
các mùa vàng năm tấn, bảy tấn
áo rách
Nhận của quá khứ những SỰ TÀN PHÁ, KIỆT QUỆ ta đã làm nên CUỘC SỐNG ẤM NO.
áo gấm xông hương
ÍT thì miệng thì kín NHIỀU miệng hở
đầu
trái tim
Ra thế ! To gan hơn béo bụng
chín
Anh hùng đâu cứ phải ĐÀN ÔNG.
một
Làm ruộng RẤT DỄ DÀNG
mày râu
Nuôi tằm RẤT KHÓ KHĂN.
4. Đặt câu văn (thơ) có sử dụng phép tu từ:
a/ Nhân hoá b/ Ẩn dụ c/ Uyển ngữ (Nói giảm nói tránh)
5. Định nghĩa và lấy ví dụ minh hoạ cho các phép tu từ sau:
a/ Thậm xưng (Nói quá) b) Tăng cấp c/ Câu hỏi tu từ d/ Im lặng (Mặc ngữ)
6. Viết đoạn văn có sử dụng các phép tu từ sau:
a/ Hoán dụ b/ Chơi chữ c/ Tăng cấp d/ Đột giáng
219
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Tất Tươm (Chủ biên) – Nguyễn Văn Bằng – Hoàng Xuân Tâm – Nguyễn Thị Quy – Hoàng Diệu Minh 1995, Giáo trình tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Cao Hữu Công – Mai Tổ Lân 2000, Nghệ thuật thơ Đường (Trần Đình Sử – Lê Tẩm dịch), Nxb Văn học.
Cao Xuân Hạo – Hoàng Dũng 2004, Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb Khoa học Xã hội.
Cù Đình Tú 1994, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
Cù Đình Tú 2001, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
Cù Đình Tú – Lê Anh Hiền – Nguyễn Thái Hoà – Võ Bình 1982, Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Đinh Trọng Lạc 1999, Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Đinh Trọng Lạc 2001, 99 phương tiện tu từ và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Đinh Trọng Lạc 1994, Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục.
Đinh Trọng Lạc 1998, 300 bài tập Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
Hoàng Phê chủ biên 2006, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học.
Lại Nguyên Ân 2004, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng Chủ biên) 2004, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
Lê Đức Trọng 1993, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Nguyên Trứ 1988, Đề cương bài giảng về Phong cách học, Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Niên khoá 1988-1989.
Nguyễn Phan Cảnh 1987, Ngôn ngữ thơ, Nxb ĐH&THCN.
Nguyễn Thái Hòa 1997, Dẫn luận Phong cách học, Nxb Giáo dục.
Nguyễn Thái Hoà 2004, Từ điển tu từ – thi pháp – phong cách học, Nxb Giáo dục.
Phan Ngọc 2003, Tìm hiểu Phong cách ngôn ngữ Nguyễn Du trong truyện Kiều. Nxb Thanh niên.
Phan Ngọc 1995, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb Trẻ.
Phan Ngọc 2000, Thử xét văn hóa – văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb Thanh niên.
Trần Đình Sử 2002, Thi pháp truyện Kiều, Nxb Giáo dục.
Võ Bình – Lê Anh Hiền 1983, Phong cách học – thực hành tiếng Việt. Nxb Giáo dục.
Vũ Khắc Xuyên 1990, Từ ngữ bình dân Hoa Kỳ, Nxb Thông tin.
Xuân Diệu 1981, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (Tập I), Nxb Văn học.
Xuân Diệu 1987, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (Tập II), Nxb Văn học.
R. E. Asher (Editor-in-Chief) 1994, The Encyclopedia of Language and Linguistics, Volume 1–10, Pergamon Press.
220
Arisrotle 1987, On Poetry and Style (Translated, with an Introduction by G.M.A.
Grube).
Edward J. Gordon 1964, American Literature, Ginn and company.
Edward J. Gordon 1964, Understanding Literature, Ginn and company.
Gerald Levin 1966, A Brief Handbook of Rhetoric, The University of Akron.
Katie Wales 2001, A dictionary of stylistics (Second edition), Longman.
Paul Simpson 2004, Stylistics, Routledge English Language Introductions.
Nguyễn Trung Tánh 1997, Dẫn luận văn học (An Introduction to Literary Study), NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
陈望道 2002, «修辞学发凡»,上海教育出本社.
黄建霖 (主编) 1995, «汉语修辞格鉴赏辞典», 东南大学出版社.
黎運漢–張維耿 2000, «現代漢語修辭學», 商務印書館.
張志公 1999, «修辭概要», 三聯書店 (香港).
戴维–克里斯特尔 2002, «现大语言学词典» (沈家煊译), 商务印书馆.
谭永祥 1996, «修辞新格»,暨南大学出版社.
陆谷孙(主编)1995, «英汉大词典» The English – Chinese Dictionary (Unabridged),
上卷 &下卷, 上海译文出版社.
于天合–俞长江 1990, «审美修辞原理», 文化艺术出版社.
Tiểu luận khoa học của sinh viên:
Lâm Kim Ngân 2012, Đặc điểm câu văn xuôi nghệ thuật trong hai truyện ngắn “Trăng sáng” và “Một bữa no” của Nam Cao, Tiểu luận Phong cách học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
Phạm Thị Hồng Phương 2012, Phép điệp trong tiểu thuất Hòn đất của Anh Đức, Tiểu luận Phong cách học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
Đỗ Cao Thắng 2012, Khảo sát lớp từ trang trọng và lớp từ kiểu cách trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Tiểu luận Phong cách học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
Nguyễn Vũ Phương Uyên 2012, Khảo sát lớp từ ngữ văn chương trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), Tiểu luận Phong cách học, ĐHSP TP Hồ Chí Minh.