NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br />
<br />
Một số giải pháp cơ bản hướng đến quản lý tài<br />
nguyên đất đai vùng Đồng bằng sông Cửu Long<br />
trong giai đoạn hiện nay<br />
Some solutions towards basic land resources<br />
management area during current period<br />
TS. Trần Mai Ước*<br />
Tóm tắt<br />
Thực tiễn đã chứng minh rằng, Đồng<br />
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất<br />
có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình<br />
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Với lợi<br />
thế về đất đai, ĐBSCL đang từng bước phát<br />
triển để khẳng định mình. Giai đoạn sắp tới, để<br />
thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội<br />
của vùng theo hướng bền vững, theo chúng<br />
tôi, ĐBSCL cần chú trọng vào công tác quản<br />
lý đất đai. Bài viết đi vào những vấn đề cơ bản<br />
về công tác quản lý đất đai của vùng ĐBSCL<br />
trong giai đoạn hiện nay.<br />
<br />
Abstract<br />
Mekong Delta has been proved<br />
naturally to be a specially important area for<br />
the process of socio-economic development<br />
of country. With the advantage of the land,<br />
the Mekong Delta is taking steps to assert<br />
its development. In our opinions, to perform<br />
the orientation for the socio-economic<br />
development steadily, Mekong Delta should<br />
be focus on land management. This article<br />
raises fundamental issues about the land<br />
managements of the Mekong Delta in the<br />
current period.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Trong bối cảnh hiện nay, ÐBSCL là vùng đất có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá<br />
trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Với vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên thuận lợi,<br />
trong đó có tài nguyên đất sẵn có, ÐBSCL có nhiều lợi thế để phát triển bền vững trong bối<br />
cảnh hội nhập.<br />
ÐBSCL thuộc châu thổ sông Mê Kông có diện tích đất tự nhiên gần 4 triệu ha1, chiếm<br />
12% diện tích của cả nước, trong đó khoảng 2,6 triệu ha được sử dụng để phát triển nông<br />
nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản chiếm 65%. Trong quỹ đất nông nghiệp, đất trồng cây hàng<br />
năm chiếm trên 50%, trong đó chủ yếu đất lúa trên 90%. Đất chuyên canh các loại cây màu<br />
và cây công nghiệp ngắn ngày khoảng 150.000 ha, đất cây lâu năm chiếm trên 320.000 ha,<br />
khoảng 8,2% diện tích tự nhiên. Đất đai tại vùng ÐBSCL vừa đóng vai trò là nguồn lực, vừa<br />
đóng vai trò là yếu tố đầu vào không thể thiếu trong hoạt động kinh tế của vùng. Trong các<br />
ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ sở không gian và<br />
vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ trong lòng đất. Trong các ngành<br />
nông - lâm nghiệp, đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất, là điều kiện vật chất - cơ<br />
<br />
1. vi.wikipedia.org/wiki/, truy cập lúc 9h, ngày 14 tháng 8 năm 2013<br />
<br />
* Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh<br />
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Sao Đỏ 29<br />
<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br />
sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động và công cụ hay phương tiện lao động. Trong<br />
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói<br />
riêng, tài nguyên đất đai vẫn chưa được quản lý, khai thác hợp lý, sử dụng còn lãng phí và kém<br />
hiệu quả, ở nhiều nơi đất đai bị suy thoái, ô nhiễm, phá hoại đến mức báo động; tranh chấp,<br />
khiếu nại về đất đai vẫn là vấn đề nóng của vùng ĐBSCL; đóng góp về kinh tế của vùng cho cả<br />
nước chưa tương xứng với tiềm năng của tài nguyên đất sẵn có…. Do vậy, việc phát triển bền<br />
vững nguồn tài nguyên đất vùng ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng<br />
đối với sự phát triển bền vững của vùng.<br />
<br />
Bản đồ Đồng bằng Sông Cửu Long (Map of the Mekong Delta)<br />
Nguồn: http://ctu.edu.vn/guide_det.php?id=14<br />
<br />
2. Nội dung<br />
2.1. Quản lý và sử dụng đất đai vùng ĐBSCL: Những bất cập và hạn chế<br />
Hiện nay, vùng ĐBSCL có các nhóm đất chính, bao gồm: Đất phù sa sông (1,2 triệu<br />
ha) tập trung ở vùng trung tâm Đồng bằng sông Cửu Long. Chúng có độ phì nhiêu tự nhiên<br />
cao và không có các yếu tố hạn chế nghiêm trọng nào. Nhiều loại cây trồng có thể canh tác<br />
được trên nền đất này; Đất phèn (1,6 triệu ha) có đặc trưng bởi độ axit cao, nồng độ độc tố<br />
nhôm tiềm tàng cao và thiếu lân. Nhóm đất này cũng bao gồm cả các loại đất phèn nhiễm<br />
mặn nặng và trung bình. Các loại đất phèn tập trung tại Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long<br />
Xuyên còn các loại đất phèn mặn tập trung tại vùng trung tâm bán đảo Cà Mau; Đất nhiễm<br />
mặn (0,75 triệu ha), các loại đất này chịu ảnh hưởng của nước mặn trong mùa khô và khó<br />
có thể được cung cấp nước ngọt. Hiện nay lúa được trồng vào mùa mưa và ở một số khu<br />
vực người ta nuôi tôm trong mùa khô; Các loại đất khác (0,35 triệu ha) gồm đất than bùn<br />
(vùng rừng U Minh), đất xám trên phù sa cổ (cực Bắc của Đồng bằng sông Cửu Long) và<br />
đất đồi núi (phía Tây - Bắc Đồng bằng sông Cửu Long)2.<br />
<br />
2. Số liệu được lấy từ Báo cáo đã được chỉnh sửa theo kết luận của Chủ tịch Hội đồng thẩm<br />
định Nhà nước về vùng ĐBSCL, họp ngày 15/7/1997 tại Hà Nội<br />
30 Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Sao Đỏ<br />
<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br />
Giai đoạn vừa qua, công tác quản lý nhà nước về đất đai đã đạt được những tiến<br />
bộ rõ rệt, hệ thống quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường3, từng bước phân cấp<br />
và phát huy tính tự chủ của địa phương như việc lập và thực hiện qui hoạch, kế hoạch sử<br />
dụng đất, giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng, thu hồi đất<br />
bồi thường giải phóng mặt bằng để chuyển sang mục đích sử dụng khác. Pháp luật về đất<br />
đai ngày càng được hoàn thiện; các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được<br />
Nhà nước bảo đảm; thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất đã được hình<br />
thành và phát triển nhanh. Những kết quả trên tạo điều kiện cho việc sử dụng đất đai hợp<br />
lý và hiệu quả hơn.<br />
Tuy nhiên, tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay vùng ĐBSCL còn bộc lộ<br />
nhiều yếu kém thể hiện ở chỗ:<br />
Một là, việc thực thi chính sách về đất đai, trong thực tế chưa thực sự mang lại hiệu<br />
quả như mong đợi. Những hạn chế yếu kém trong việc thực thi chính sách pháp luật đất<br />
đai đã dẫn đến những tồn tại:<br />
Sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng về đất đai thiếu rõ ràng,<br />
không chặt chẽ; việc đồng nhất các quyền của người sử dụng đối với các loại đất đai khác<br />
nhau đã dẫn đến nhiều bất cập trong các chính sách, biện pháp quản lý đối với các loại đất<br />
đai khác nhau.<br />
Luật pháp và các chính sách về đất đai đã quy định quyền sử dụng đất có giá trị và<br />
được đem ra trao đổi chuyển nhượng trên thị trường, song các chính sách đất đai chưa phù<br />
hợp với các yêu cầu và quy luật hoạt động của nền kinh tế thị trường.<br />
Luật pháp và các chính sách về đất đai chưa thể hiện được nguyên tắc phân phối địa<br />
tô giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu đất đai làm thất thoát các nguồn lợi do đất đai<br />
mang lại từ Nhà nước chuyển sang người sử dụng và chiếm giữ đất đai.<br />
Luật pháp đã thừa nhận sự tồn tại và phát triển của thị trường bất động sản song chưa<br />
có hệ thống luật pháp và chính sách quản lý và điều tiết hoạt động của thị trường này.<br />
Công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai còn mang tính hình thức, chưa phù<br />
hợp với yêu cầu thực tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội.<br />
<br />
3. Thời gian vừa qua, nhiều văn bản mới về lĩnh vực nói trên được ban hành như Nghị định 38/2011/NĐCP sửa đổi, bổ sung Nghị định 181/2004/NĐ-CP; Nghị định 149/2004/NĐ-CP quy định về thủ tục hành chính<br />
trong quản lý đất đai; Thông tư 16/2011/TT-BTNMT quy định sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến<br />
thủ tục hành chính về lĩnh vực đất; Nghị định 121/2010/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số<br />
142/2005/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt; Nghị định 120/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của<br />
Nghị định số 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất; Nghị định 20/2011/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng<br />
dẫn thi hành Nghị quyết 55/2010/QH12 về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thông tư 39/2011/TT-BTC<br />
sửa đổi, bổ sung Thông tư 83/2007/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg việc sắp xếp<br />
lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước; Thông tư liên tịch 07/2011/TTLT-BNNPTNT-BTNMT hướng dẫn một<br />
số nội dung về giao rừng, thuê rừng gắn liền với giao đất, thuê đất lâm nghiệp; Thông tư 9/2011/TT-BTNMT quy<br />
định đấu thầu cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước về đo đạc đất đai phục vụ cấp giấy<br />
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. . Hội nghị Ban Chấp hành<br />
Trung ương lần thứ 7 (khóa IX) đánh giá tổng quát tình hình thực hiện chính sách pháp luật về đất đai<br />
từ những năm đổi mới và quyết định chủ trương tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ<br />
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, Luật đất đai<br />
năm 2003 ra đời, là một bước tiến mới trên con đường hoàn thiện dần hệ thống chính sách pháp luật đất đai<br />
của nước ta.<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Sao Đỏ 31<br />
<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br />
Công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu cũng như đăng<br />
ký biến động đất đai còn chậm, hạn chế việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người<br />
sử dụng đất, gây khó khăn trong công tác quản lý đất đai, giải quyết tranh chấp và chống<br />
lấn chiếm.<br />
Việc phân định trách nhiệm quản lý đất đai cho các cấp các ngành chưa rõ ràng, còn<br />
thiếu cụ thể, không rõ trách nhiệm.<br />
Hệ thống văn bản pháp luật và chính sách đất đai được ban hành nhiều, thay đổi<br />
thường xuyên nhưng không toàn diện, thiếu thống nhất, còn chồng chéo và có nhiều<br />
lỗ hổng.<br />
Hai là, hệ thống qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa đáp ứng được yêu cầu thực<br />
tiễn đặt ra, việc lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở cấp xã, cấp huyện tại một số tỉnh<br />
thành trong cả nước còn chậm. Thiếu đồng bộ giữa qui hoạch sử dụng đất và qui hoạch chi<br />
tiết của các ngành, qui hoạch không gian đô thị của thành phố... Ngoài ra, việc lập và phê<br />
duyệt qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn chậm, tính khả thi chưa cao, việc công bố công<br />
khai và tổ chức thực hiện qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn yếu kém dẫn đến việc phải<br />
điều chỉnh qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất hàng<br />
năm chưa sát với kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.<br />
Ba là, việc giao đất, cho thuê đất vào mục đích chuyên dùng và đất ở tại các địa<br />
phương còn một số tồn tại như sử dụng không đúng vị trí, sai lệch diện tích được giao, sử<br />
dụng sai mục đích, tiến độ xây dựng chậm hoặc bỏ hoang hóa, không sử dụng đất, chậm<br />
nộp tiền thuê đất. Vẫn còn đó những hành vi tiêu cực trong lĩnh vực đất đai.<br />
Bốn là, cơ chế tài chính về đất đai thiếu hiệu quả, thị trường bất động sản còn hoạt<br />
động tự phát, tình trạng đầu cơ đất đai đã đẩy giá đất lên cao gây tác động xấu đến môi<br />
trường đầu tư. Cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu kém, cán bộ địa<br />
chính ở cơ sở còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ… Trong thực tế, công tác quản lý và<br />
sử dụng đất đai tại các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp nhà nước, các bộ,<br />
ngành còn nhiều lãng phí.<br />
Những tồn tại, bất cập ở trên, chúng tôi cho rằng, về cơ bản có thể được “gom” lại bởi<br />
những nguyên nhân như sau:<br />
Thứ nhất, phân cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đất đai hiện nay chưa<br />
hợp lý. Điều này thể hiện sự chồng chéo về thẩm quyền giữa các cấp, các ngành trong việc<br />
tổ chức lập và thực hiện qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất và qui hoạch xây dựng đô thị;<br />
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về<br />
đất đai... do có nhiều ngành, nhiều cấp tham gia thực hiện các công việc vì vậy trách nhiệm<br />
của từng ngành, cấp không rõ ràng ảnh hưởng đến chất lượng công việc và kéo dài thời<br />
gian thực hiện. Ngoài ra, sự hạn chế, bất cập của hệ thống chính sách, pháp luật về đất<br />
đai chưa theo kịp với thực tiễn cũng là “cản lực” đáng kể gây khó khăn cho công tác quản<br />
lý đất đai.<br />
Thứ hai, lực lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngành địa chính ở các cấp còn quá<br />
mỏng, cùng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Chúng ta cũng biết rằng, chính<br />
đội ngũ cán bộ địa chính cấp cơ sở đóng vai trò rất quan trọng trong việc giám sát thi hành<br />
luật đất đai của địa phương và các đối tượng sử dụng đất, nhưng chưa được đào tạo sâu<br />
về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu phương tiện làm việc. Chức năng, nhiệm vụ của ngành địa<br />
<br />
32 Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Sao Đỏ<br />
<br />
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC<br />
chính chưa rõ ràng còn mang nặng tính tham mưu, giúp việc hơn là một cơ quan chuyên<br />
trách về quản lý đất đai.<br />
Thứ ba, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về đất đai chưa được tiến hành<br />
thường xuyên. Điều này đã góp phần dẫn đến việc phát hiện và ngăn chặn kịp thời các<br />
hành vi sai phạm, thiếu kiên quyết trong khắc phục hậu quả các hành vi sai phạm không<br />
thực sự đạt hiệu quả cao. Thậm chí, do trách nhiệm của người đứng đầu chưa được qui<br />
định chặt chẽ, chế tài xử lý chưa rõ ràng, thiếu gương mẫu, buông lỏng trong công tác quản<br />
lý, do vậy có việc đã gián tiếp còn tiếp tay cho sai phạm vì lợi ích cục bộ của địa phương<br />
và quyền lợi của cá nhân mà làm trái các qui định về quản lý đất đai.<br />
Thứ tư, chưa nhận thức đúng mức đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là nguồn<br />
nội lực quan trọng và nguồn vốn to lớn của đất nước; chưa khẳng định rõ quyền sử dụng<br />
đất là hàng hóa đặc biệt và cần có cơ chế quản lý phù hợp. Quản lý nhà nước về<br />
đất đai còn nhiều hạn chế, yếu kém, quản lý thị trường bất động sản bị buông lỏng. Người<br />
sử dụng đất chưa thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước. Chính sách tài chính đối với<br />
đất đai còn nhiều bất cập, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. Khuynh hướng tự<br />
phát chạy theo cơ chế thị trường đã gây ra nhiều sai lệch trong việc thực hiện chính sách<br />
đất đai.<br />
Thứ năm, một số chủ trương, chính sách lớn rất quan trọng của Đảng về đất đai chưa<br />
được thể chế hóa (như: chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai; thị trường bất động sản,<br />
trong đó có quyền sử dụng đất...). Văn bản pháp luật về đất đai ban hành nhiều, nhưng<br />
chồng chéo, thiếu đồng bộ. Chưa làm tốt việc phổ biến, tuyên truyền chính sách, pháp<br />
luật về đất đai trong nhân dân. Nhiều chính sách đã ban hành chưa được tổ chức chỉ đạo,<br />
hướng dẫn và thi hành nghiêm túc.<br />
Thứ sáu, chậm tổng kết thực tiễn để làm rõ nhiều vấn đề lý luận về quản lý đất đai<br />
trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công tác nghiên cứu<br />
khoa học về đất đai còn yếu. Chậm tháo gỡ các vướng mắc trong chính sách, pháp luật về<br />
đất đai.<br />
Thứ bảy, vẫn còn tồn tại một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, đã lợi dụng chức<br />
quyền để trục lợi, tham nhũng trong công tác quản lý, sử dụng đất đai, gây ảnh hưởng xấu<br />
trong xã hội và bất bình trong nhân dân.<br />
Thứ tám, vai trò và trách nhiệm đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đối với đất đai<br />
chưa được xác định rõ. Chưa quan tâm đúng mức việc đầu tư cho công tác quản lý đất đai,<br />
xây dựng bộ máy và chỉ đạo công tác quản lý đất đai. Chưa thực hiện tốt công khai, dân<br />
chủ trong việc thực thi các chính sách, pháp luật về đất đai. Công tác giải quyết khiếu nại,<br />
tố cáo, tranh chấp về đất đai ở các địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. Chưa kịp thời thanh<br />
tra, kiểm tra và kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về đất đai.<br />
2.2. Một số giải pháp cơ bản hướng đến phát triển bền vững tài nguyên đất ở ĐBSCL<br />
trong giai đoạn hiện nay<br />
Thực tiễn hình thành và phát triển vùng ĐBSCL vừa qua, đã cho thấy rằng, đất đai có<br />
một vị trí đặc biệt đối với con người, xã hội, doanh nghiệp. Tài nguyên đất đai là một trong<br />
những “cú hích” quan trọng để ĐBSCL phát triển. Để duy trì ổn định các mối quan hệ về<br />
đất đai từ đó tạo điều kiện cho sử dụng đất đai hiệu quả, nhà nước đều rất chú trọng xây<br />
dựng chính sách, pháp luật quản lý đất đai. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành<br />
<br />
Tạp chí Nghiên cứu Khoa học - Đại học Sao Đỏ 33<br />
<br />