“XOÁ BỎ MỘT CÁCH TÍCH CỰC CHẾ ĐỘ TƯ HỮU” TỪ QUAN ĐIỂM

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐẾN SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CỦA

ĐẢNG TA TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

VŨ QUANG TẠO (*)

Trên cơ sở làm rõ quan niệm của C.Mác về “xoá bỏ một cách tích cực chế độ

tư hữu”, sự kế thừa và phát triển quan niệm này ở V.I.Lênin, tác giả bài viết

đã khẳng định tính đúng đắn và sự sáng tạo của Đảng ta khi vận dụng quan

niệm này của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh lịch sử –

cụ thể ở nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Tác giả bài viết cũng đã

khẳng định, trong công cuộc đổi mới đất nước ở nước ta hiện nay, “xoá bỏ

một cách tích cực chế độ tư hữu” không có nghĩa là xác lập, củng cố chế độ

tư hữu bằng mọi giá, mà là thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo quy luật

quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để

chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng có hiệu quả hơn.

Chúng ta đều biết, nếu như các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng coi chủ

nghĩa cộng sản như một ước muốn tốt đẹp của con người trước thực trạng xã

hội tư bản thối nát cần xoá bỏ, thì C.Mác đến với tư tưởng về chủ nghĩa cộng

sản từ sức mạnh của tư duy biện chứng duy vật để luận giải chế độ tư hữu

như một nguồn gốc, một nguyên nhân chủ yếu làm tha hoá con người, tha hoá

bản chất con người, khiến cho không chỉ giai cấp công nhân cùng khổ hoàn

toàn bị tha hoá về thể xác và tinh thần, mà cả giai cấp tư sản cũng bị tha hoá,

trở thành nô lệ của chính những của cải của mình. Hơn nữa, chế độ tư hữu đó

còn làm cho con người trở nên ngu xuẩn và đần độn, biến mọi cảm giác của

con người thành cảm giác chiếm hữu. Do vậy, theo C.Mác, chủ nghĩa cộng

sản với tư cách mặt đối lập, sự phủ định biện chứng chế độ tư hữu, phủ định

nguồn gốc cơ bản làm tha hoá con người để “giải phóng con người” và “giành

lại con người” phải “là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của

tương lai sắp tới”(1). C.Mác còn chỉ rõ, mặc dù chủ nghĩa cộng sản là mặt đối

lập của chế độ tư hữu, nhưng nó không phải là sự xoá bỏ chế độ tư hữu bằng

mọi giá, mà là “sự xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu - sự tự tha hóa ấy

của con người - và do đó với tính cách là sự chiếm hữu một cách thực sự bản

chất con người bởi con người và vì con người; do đó với tính cách là việc con

người hoàn toàn quay trở lại chính mình với tính cách là con người xã hội,

nghĩa là có tính chất người – sự quay trở lại này diễn ra một cách có ý thức và

có giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó”. Với quan niệm này,

C.Mác đã khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản như vậy, với tính cách là chủ

nghĩa tự nhiên hoàn bị, = chủ nghĩa tự nhiên; nó là sự giải quyết thực sự mâu

thuẫn giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người, - là sự giải

quyết thực sự cuộc tranh chấp giữa tồn tại và bản chất, giữa đối tượng hoá và

sự tự khẳng định, giữa tự do và tất yếu, giữa cá thể và loài. Nó là sự giải

quyết câu đố của lịch sử và nó biết rằng nó là sự giải quyết ấy”(2).

Như vậy, có thể nói, sự xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu, theo C.Mác,

“là sự khẳng định sinh hoạt của con người, là xoá bỏ tích cực mọi sự tha hoá,

nghĩa là việc con người từ tôn giáo, gia đình, nhà nước, v.v. quay về tồn tại

con người, nghĩa là tồn tại xã hội của mình”. Sự xoá bỏ đó diễn ra một cách

có ý thức và luôn giữ lại tất cả những gì là hợp lý, tiến bộ của sự phát triển

trước đó. Không những chỉ ra tính chất, nội dung, hình thức của sự xoá bỏ

chế độ tư hữu một cách tích cực, C.Mác còn chỉ rõ những điều kiện cần thiết

để xoá bỏ nó. Ông viết: “Muốn xoá bỏ tư tưởng về chế độ tư hữu, thì tư tưởng

về chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn đủ rồi. Còn muốn xoá bỏ chế độ tư hữu

trong hiện thực thực tế thì phải có hành động cộng sản chủ nghĩa, hiện

thực”(3).

Quan điểm này cho thấy, trên bước đường đề xuất những nguyên lý của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chưa có điều kiện tham gia sâu rộng vào thực

tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân, nhưng với thiên tài của mình, C.Mác

đã luận giải khá sâu sắc, toàn diện về tính tất yếu, mục đích, nội dung và cách

thức cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Đây chính là những

nội dung cơ bản xuyên suốt giúp C.Mác định hướng trong toàn bộ quá trình

xây dựng hoàn chỉnh học thuyết của mình. Quan điểm này của C.Mác đã

trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng cho giai cấp

công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong công cuộc “xoá bỏ một

cách tích cực chế độ tư hữu”, xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin là người đã

kế thừa, phát triển xuất sắc quan điểm này của C.Mác, trên cả phương diện lý

luận lẫn thực tiễn trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga Xô viết.

Ngay từ tháng 9 năm 1917, khi giai cấp công nhân Nga còn chưa giành được

chính quyền, V.I.Lênin đã khẳng định chủ nghĩa tư bản nhà nước là một hình

thức kinh tế đóng vai trò “chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội,

là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội”(4). Sau thắng lợi của Cách mạng

Tháng Mười, năm 1918, trên cơ sở phân tích chính xác 5 thành phần kinh tế

của nước Nga, nhất là khi nhận thấy “điều kiện kinh tế tiểu tư sản và tính tự

phát tiểu tư sản là kẻ thù chính của chủ nghĩa xã hội”(5) ở nước Nga lúc bấy

giờ, V.I.Lênin đã đi đến kết luận rằng, để tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta

cần phải “bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc” đi xuyên qua chủ nghĩa tư

bản nhà nước. Đặc biệt là sau thời kỳ nội chiến, khi nhận thấy không thể tiếp

tục “chính sách cộng sản thời chiến” được nữa, V.I.Lênin đã nhanh chóng bắt

tay vào thực hiện chính sách kinh tế mới. Trong chính sách kinh tế mới, ông

không chỉ đặt lên vị trí hàng đầu việc trao đổi hàng hoá, mà còn khuyến khích

các nhà tư bản nước ngoài thực hiện những hợp đồng tô nhượng nhằm tổ

chức nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Quyết định sáng suốt này của

V.I.Lênin đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của những người cộng sản theo

đường lối “tả khuynh” ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản Nga lúc bấy giờ.

Nhưng thực tiễn đã khẳng định tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu một cách tích

cực” trên cơ sở phát triển nền sản xuất hàng hoá, tổ chức lại nền sản xuất theo

hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin là đúng đắn và hoàn toàn

phù hợp với quan điểm của C.Mác. Tiếc rằng, sau khi V.I.Lênin mất, do

nhiều nguyên nhân, chính sách kinh tế mới, tư tưởng “xoá bỏ chế độ tư hữu

một cách tích cực” đã không được tiếp tục thực hiện. Ở Liên Xô và hầu hết

các nước xã hội chủ nghĩa sau này, do nóng vội chủ quan, bất chấp quy luật

“quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”, đã

nhanh chóng xoá bỏ chế độ tư hữu, tiến hành công hữu hoá ồ ạt toàn bộ tư

liệu sản xuất. Cách làm này, về lý luận, là không hiểu thực chất tinh thần “xoá

bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực” của C.Mác và do vậy, dẫn đến việc “xoá

bỏ chế độ tư hữu một cách tiêu cực”, triệt tiêu các động lực phát triển của xã

hội, đưa nền kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng, còn đời sống của nhân dân

thì lâm vào tình trạng khó khăn, thiếu thốn, thậm chí nghèo khổ. Chủ nghĩa

cộng sản được xây dựng theo cách đó, như C.Mác đã khẳng định, không phải

là “biểu hiện tích cực của sự xoá bỏ chế độ tư hữu” và trong giai đoạn đầu,

“nó biểu hiện ra là chế độ tư hữu phổ biến”; nó chỉ là thứ “chủ nghĩa cộng sản

thô lỗ”, là “hình thức biểu hiện của sự ti tiện của chế độ tư hữu”, đưa con

người “quay trở về tính giản dị không tự nhiên của người nghèo không có nhu

cầu,… không những không vượt lên trên trình độ chế độ tư hữu mà thậm chí

chưa đạt tới chế độ đó”, đưa xã hội đến tình trạng “đâu đâu cũng phủ định cá

tính của con người”, hình thành “sự ghen ghét phổ biến và được cấu thành

như một quyền lực là hình thức che giấu của thói tham lam” và do vậy, đó

quyết không phải là chủ nghĩa cộng sản, mà “chỉ là biểu hiện nhất quán của

chế độ tư hữu”(6).

Đảng ta là một Đảng mácxít chân chính. Đường lối, quan điểm xây dựng chủ

nghĩa xã hội của Đảng ta luôn là kết quả của sự vận dụng trung thành và sáng

tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của Việt

Nam. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi nhận thức rõ tính đúng đắn,

sáng tạo của chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin, dưới sự hướng dẫn của

Nguyễn Ái Quốc, trong Điều lệ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí

hội… có ghi “áp dụng những nguyên tắc tân kinh tế chính sách để thúc đẩy sự

phát triển các cơ quan sản xuất trong nước”(7). Song, nhận thức bao giờ cũng

là một quá trình. Đã có thời kỳ chúng ta mắc sai lầm chủ quan, duy ý chí,

nóng vội công hữu hoá toàn bộ tư liệu sản xuất trên mọi lĩnh vực sản xuất,

kinh doanh, kéo dài chế độ bao cấp và việc làm đó đã dẫn tới chỗ làm cho sản

xuất bị đình đốn, đời sống các tầng lớp nhân dân gặp nhiều khó khăn, nền

kinh tế - xã hội lâm vào khủng hoảng. Trước thực trạng đó, với bản chất khoa

học và cách mạng, với bản lĩnh kiên cường, sáng tạo, trong công cuộc đổi

mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã dũng cảm nhìn

thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, thẳng thắn thừa nhận sai lầm, đồng thời

nhanh chóng đưa ra những quyết sách đúng đắn nhằm “xoá bỏ chế độ tư hữu

một cách tích cực”, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, từng bước xây

dựng cơ sở vật chất, tinh thần cho chủ nghĩa xã hội. Tinh thần đó được mở

đầu bằng Nghị quyết Đại hội VI và liên tục được phát triển, bổ sung, hoàn

thiện trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Dấu mốc quan trọng thể hiện nhận thức

của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội

“ngày càng sáng tỏ hơn” trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh là ở Văn kiện Đại hội X. Trong Văn kiện này, Đảng ta đã chỉ

rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,

nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh

tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù

hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến

đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có

cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong

cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng

tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân

dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị

và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”(8). Đây là những đặc trưng

cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những đặc trưng này chứng tỏ nhận

thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta

ngày càng sáng tỏ hơn.

So với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội được thông qua tại Đại hội VII, Đại hội X đã bổ sung thêm 2 điểm và sửa

đổi một số điểm là hoàn toàn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác -

Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở “xoá bỏ chế độ tư hữu một

cách tích cực”. Điểm bổ sung đầu tiên của Đại hội X vào đặc trưng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta là việc chỉ ra mô hình tổng quát với nội dung cơ bản, bao

trùm nhất, đó là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn

minh. Xã hội đó chính là kết quả của sự kế thừa, phát triển một cách có ý thức

nhằm “giữ lại tất cả sự phong phú của sự phát triển trước đó” và là điều kiện

cơ bản nhất để giải phóng con người, giành lại con người bởi chính con

người. Chỉ có dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mới

có khả năng giải phóng con người khỏi áp bức bất công, mới là môi trường

thuận lợi giúp con người phát triển toàn diện, mới đủ sức đưa con người thoát

khỏi tình trạng nghèo khổ, “không có nhu cầu”, trái với tự nhiên và đưa xã

hội “vượt lên trên trình độ chế độ tư hữu”. Do vậy, có thể coi đây là biện pháp

xoá bỏ một cách tích cực nhất chế độ tư hữu. Điểm bổ sung thứ 2 là khẳng

định sự hiện diện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong xã hội

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, có thể nói, sự khác nhau giữa chủ

nghĩa xã hội (giai đoạn thấp) và chủ nghĩa cộng sản (giai đoạn cao) của hình

thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng đã được Đảng ta nhận thức

ngày càng rõ hơn.

Liên quan đến vấn đề này, hiện vẫn còn nhiều cách lý giải khác nhau về việc

sửa đổi câu từ trong đặc trưng thứ 3 - đặc trưng kinh tế - trong Văn kiện Đại

hội X. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội viết: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng… có một nền

kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu

về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Còn trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta chỉ

rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng… có nền kinh tế phát

triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Điều này là phù hợp. Bởi lẽ,

thứ nhất, theo C.Mác, “xoá bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực ” để từ đó, xác

lập chế độ công hữu là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài của toàn bộ hình thái kinh tế

- xã hội cộng sản chủ nghĩa, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của chủ nghĩa xã

hội (giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa); thứ hai,

tuy không nói rõ đó là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhưng

không phải chúng ta chủ trương xác lập, củng cố chế độ tư hữu, hoặc như một

số người cho rằng, hiện nay, đối với chúng ta, công hữu, tư hữu cũng được

miễn là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế”(9). Chúng ta vẫn tiếp

tục đẩy mạnh việc “xoá bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực” đúng theo quy

luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

để “chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng có hiệu quả

hơn”(10), nhân dân ta có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc hơn. Điều này

được chứng minh trước hết ở chủ trương mang tính chiến lược, lâu dài là

“phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong

đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập

thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(11) và

những thành tựu to lớn về sự phát triển con người Việt Nam qua sự đánh giá

khách quan của bạn bè quốc tế(12).

“Xóa bỏ chế độ tư hữu một cách tích cực” để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

nước ta không chỉ là quá trình lâu dài với những khó khăn gian khổ vô cùng

to lớn, mà còn ẩn chứa nhiều nguy cơ khó lường. Song, chúng ta tin tưởng

rằng, với sự trung thành, vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử –

cụ thể của Việt Nam, nhất là tư tưởng “xóa bỏ chế độ tư hữu một cách tích

cực”, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.r

(*) Tiến sĩ, Phó trưởng Khoa Triết học, Học viện Chính trị – Quân sự.

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 42. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2000, tr 183.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.167.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t. 42, tr.194.

(4) V.I.Lênin. Toàn tập, t.34. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.258.

(5) V.I.Lênin. Sđd., t.43, tr.247.

(6) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr 164, 165.

(7) Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường

dân giàu, nước mạnh. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.45.

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 68.

(9) Xem: Đại học Quốc gia Hà Nội - Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên

lý luận chính trị. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Quán triệt, vận dụng quan điểm

Đại hội Đảng lần thứ X vào giảng dạy các môn lý luận chính trị ”, Hà Nội,

tháng 1 năm 2007, tr.43.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 70.

(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 77.

(12) Theo một cuộc điều tra vừa được công bố ngày 12/7, người dân Việt

Nam là một trong những cư dân hạnh phúc nhất trên thế giới và là những

người hạnh phúc nhất ở châu Á. Trong bảng xếp hạng “Happy Planet Index”,

lần đầu tiên được Tổ chức New Economics Foundation (NEF) công bố, Việt

Nam đứng thứ 12/178 nước được xếp hạng về hạnh phúc trên thế giới. Và với

kết quả này, người dân Việt Nam có quyền tự hào là những người hạnh phúc

nhất ở châu Á, hơn cả người Philippines ở vị trí 17, Indonesia 23... Trong khi

đó, người dân Singapore rất mến khách cũng chỉ được xếp ở vị trí 131 trong

bảng xếp hạng. Trong danh sách này, Nga đứng ở vị trí 172/178, Mỹ ở vị trí

150, Pháp 129, Canada 111, Anh 108, Nhật 95, Đức 81, Italia 66.... Điều này

cho thấy những nước giàu có nhưng người dân nước đó chưa chắc đó hạnh

phỳc.