Địa vị quyền lực của nhà vua trong
pháp luật phong kiến Việt Nam
Một là, bởi bổn phận thân dân của nhà vua:
Nguồn gốc của bổn phận thân dân của nhà vua xuất phát từ quan điểm thiên nhân
tương dữ ( trời người hiểu nhau, quan hệ với nhau ) của Nho giáo, ý trời
được thể hiện qua lòng dân.
Nhà vua muốn thực hiện được thiên mệnh, nhà vua phải thân dân. Thân dân là môt
trong những tiêu chuẩn để phân biệt n quân và minh quân. Việt Nam, trong
thời kỳ phong kiến, thân dân của nhà vua không chỉ xuất phát từ tư tưởng thân dân
của Nho giáo, mà còn xuất phát từ việc thực hiện chức năng cơ bản của nhà nước.
Nằm phía Nam của phong kiến Trung Quốc, người Việt luôn phải đối phó với
nạn bành trướng quyền của Trung Quốc. Chức năng chống ngoại xâm trở thành
chức năng cơ bản hàng đầu của tất cả các vương triều phong kiến Việt Nam: nhà
chống Tống, nhà Trần chống Nguyên ng, nhà chống Minh, Triều Tây
Sơn chống Thanh…
Để thực hiện chức năng đó, các triều đại phong kiến Việt Nam khi thực hiện các
chức ng đối nội luôn phải tính đến việc thu phục lòng n, củng cố khối đoàn
kết dân tộc bằng cách thân dân. Bổn phận thân dân luôn được khẳng định trong
các tuyên bcủa vua phong kiến. như khi đại thắng quan Minh, Lê Lợi tuyên
bố:
“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
Minh Mạng tự coi mình cha mcủa dân, vua đối với dân cũng như cha hiền đối
với trẻ con. Bổn phận thân dân đã chi phối đến mức tập trung quyền lực vào trong
tay nhà vua. Mặc dù nắm trong tay quyền lực nhà nước, khi nhà vua ban hành
pháp luật, nhà nước không chỉ thể hiện ý chí của mình, của giai cấp thống trị mà
còn phải tính đến ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Trong luật Hồng Đức và
Gia Long hàng loạt các chế định bảo vệ tuyệt đối tính mạng tài sản danh d
nhân phm của nhà vua, nhưng nhiều điều khoản bảo vệ quyền lợi của nhân
dân.
Trong khi thực hiện quyền hành pháp, có những quyết định của nhà vua bổn
phận thân dân đôi khi đi ngược lại với lợi ích của triều đình mình. như để nuôi
sống bộ máy cai trị, tạo dựng cơ sở kinh tế vững chắc cho triều đại của mình, nhà
vua phong kiến Lê, Nguyễn ban hành những chính ch thuế khóa, lao dịch, binh
dịch, miễn lao dịch, binh dịch cho thân dân.
Bổn phận thân dân đôi khi khiến các vua phong kiến đi ngược lại quyết định của
chính mình. Ví dụ dưới triều Nguyễn, nhà nước không quy định việc chẩn cấp cho
những người giập hỏa hoạn song khi nhân n gặp hỏa hoạn, các quan quản dân
đã tđộng mở kho cứu tế cho dân. Khi việc này bphát giác, Minh Mạng buộc
phải tha bổng cho các quan chức đã tự tiện chẩn cấp cho dân.
Trong lĩnh vưc tư pháp, để bảo vvương triều và thể hiện uy quyền của mình pháp
luật đã đưa ra những chế tài nghiêm khắc dành cho những tội phạm xâm hại đến
quan hxã hội bản mà pháp luật bảo vệ. Song mỗi khi có thiên tai, khi đăng
quang, khi sinh hoàng tử, để thực hiện bổn phận thân dân, nhà vua đã đại xá,
đặc cho kphạm tội. thnói bổn phận thân dân khiến nhà vua không phải
lúc nào cũng thể hiện và thực hiện một cách trọn vẹn ý chí của mình. Trong quá
trình cai trị, cho ban hành các chính sách pháp luật và thực thi chính sách pháp
luật, một mức độ nhất định, nhà vua phải nh đến ý chí và quyn lợi của nhân
dân.
Hai là, những tập quán chính trị.
Các tập quán chính trị thời phong kiến ( cách thức xử sự truyền thống ) sức
sống mãnh liệt, bởi nó có chỗ dựa vững chắc từ quan điểm pháp tiên vương của
đạo Nho. Khi vào Vit Nam, quan điểm pháp tiên vương đã b khúc xạ, bên
cạnh việc học tập các điển chương, chế độ của các ông vua nổi tiếng trong lịch sử
Trung Quốc như Nghiêu,Thuấn, Hán, Đường, các vua Lê, Nguyễn còn đưa ra
quan điểm pháp tổ (noi theo tổ tiên ).
Các triều đại phong kiến Việt Nam lấy cách thức xử sự của tiên vương bao gồm
chính lệnh, luật pháp, tập quán cai trị làm khuôn mẫu trong cách thức cai trị của
mình.
Do ảnh hưởng của các tập quán chính trị mà mỗi triều đại Lê, Nguyễn chỉ ban
hành một bộ luật tổng hợp. Các chế định trong các bộ luật đó dù có lc hậu hơn so
với đời sống kinh tế xã hội cũng không được loại bỏ, các đời vua kế tiếp chỉ
quyền bổ sung thêm để khắc phục tình trạng lạc hậu hơn của các điều khoản.
Minh Mạng khi lệnh cho Quốc sử quán chép lại điền chương, chế độ của triều đại
mình, cũng không m bỏ qua cách thức xử sự truyền thống của ông cha, đó là
do khiến trong tác phẩm Minh Mnh chính yếu của Quốc sứ Quán triều
Nguyễn có một chương nói riêng về việc noi theo chế độ của tiên vương ( chương
pháp t).
Cách thức xử sự truyền thống trong cai trị của các tiên vương làm cho các hoàng
đế đương quyền không thể hoàn toàn cai trị theo ý chí của mình. Ngoài ra các điển
chương chế độ đương thời cũng là khuôn mẫu để các hoàng đế đời sau cai trị. Sự
phán xét của lịch sử, của các ông vua đời sau về những đóng góp, những hạn chế
của các đời vua trước là nguyên nhân khiến các vị vua đương thời phải cân nhắc
thận trọng trong việc đưa ra đường lối cai trị. Như vậy, các tập quán chính trị cũng
một yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc
tôn quân quyền “.
Ba là, bởi phương thức nghị đình.
Phương thức nghị đình một tập quán chính trị trong các triều đại phong kiến
Việt Nam, trước khi đưa ra các quyết sách quan trọng, nhà vua phải tham khảo ý
kiến của Hội đồng đình thn trong các phiên triều. Tuy nhiên không phải lúc nào
việc gì trước khi quyết định nhà vua cũng phải thảo luận bàn bạc trước với các
quan chế.
Do công việc quản lực của đời sống kinh tế xã hi đặc biệt phức tạp, hoàng
đế phải trao các quyền hạn cho quan chức để họ thay mặt mình thực thi quyền lực
nhà nước. Trong quá trình thực thi, quan chức không thể tự ý quyết định việc quan
trọng song bản thân các quan chức thể nêu ý kiến và cách thức giải quyết riêng
của mình trong các bản tấu trình xin ý kiến của nhà vua.
Căn cvào bản tấu trình của các quan, nhà vua đưa ra biện pháp hướng giải
quyết việc một cách cụ thể. Mặc dù ý kiến của hội đồng đình thần, của các quan
chức trực tiếp quản và giải quyết chỉ giá trị vấn song ý kiến của họ khiến
nhà vua khi quyết định chính sách, ban hành pháp luật không thể cực đoan.
Ý chí của nhà vua còn bhạn chế bởi hoạt động can gián của các ngôn quan ( quan
chức trong ngự sử đài , thời Lê),Đô sát viện thời Nguyễn, và các triều thần trung