NHÖÕNG BAØI NOÅI BAÄT
VEÀ DINH DÖÔÕNG
LAÂM SAØNG
Khoa học hỗ trợ
dinh dưỡng tốt hơn
2012 Tập 8, Số 2
Trong soá naøy
Cheá ñoä dinh döôõng ñoái vôùi
nhöõng beänh nhi
coù khuyeát taät thaàn kinh
Các bài tóm tắt về dinh dưỡng lâm sàng
Nhöõng baøi noåi baät cuûa ADA FNCE 2011
NHÖÕNG BAØI NOÅI BAÄT
VEÀ DINH DÖÔÕNG
LAÂM SAØNG
Khoa học hỗ trợ
dinh dưỡng tốt hơn
2012 Tập 8, Số 2
Chuyên đề đặc biệt
Chế độ dinh dưỡng
đối với những bệnh nhi có khuyết tật thần kinh
Tóm tắt về dinh dưỡng lâm sàng
Ung thư
Chăm sóc tích cực
Lão Khoa
Liệu pháp Dinh Dưỡng
Nhi Khoa
Những bài nổi bật tại
ADA – Hội nghị và Triển lãm về Dinh dưỡng và Thực phẩm
Chương trình Hội Nghị
á
á
ø
ø
Cheá ñoä dinh döôõng ñoái vôùi
nhöõng beänh nhi
coù khuyeát taät thaàn kinh
ê
ê
t
t
e
e
i
i
v
v
i
i
a
a
b
b
g
g
n
n
a
a
n
n
h
h
n
n
í
í
T
T
Valeùrie Marchand, MD, FRCPC
Chuyeân khoa tieâu hoùa nhi
Sainte-Justine UHC
Phoù Giaùo sö Nhi khoa
Ñaïi hoïc toång hôïp Montreùal, Canada
Giôùi thieäu
Những bệnh nhân có khuyết tật thần kinh (KTTK) có
những nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt. Do những bệnh nhân
này có cấu tạo cơ thể, trương lực cơ và mức độ hoạt động
khác với những bệnh nhi thông thường, những tiêu chuẩn
dinh dưỡng sử dụng cho trẻ em bình thường không thể áp
dụng hoàn toàn cho các bệnh nhân KTTK. Ngoài ra, việc
đánh giá chính xác tình trạng dinh dưỡng là không dễ dàng,
đặc biệt do những khó khăn trong việc thu thập những
thông số nhân trắc học đáng tin cậy.
7-11
7
1
12-15
Việc cung cấp chế độ dinh dưỡng tối ưu cho những
bệnh nhân này đầy thử thách đồng thời cũng rất quan trọng
vì tình trạng dinh dưỡng kém có ảnh hưởng xấu đến chất
lượng cuộc sống và sức khỏe nói chung. Những nhà cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe tham gia vào công tác chăm
sóc những bệnh nhân KTTK cần phải hiểu rõ những hậu
quả của chế độ dinh dưỡng nghèo nàn ở những bệnh nhi
này đồng thời cũng cần nắm được vai trò đặc biệt của liệu
pháp dinh dưỡng trong điều trị bệnh. Để có thể cung cấp
chế độ dinh dưỡng phù hợp cho nhóm bệnh nhi này cần có
2
sự phối hợp của nhiều chuyên ngành.
á
1
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø Â
I
Õ
3-5
À Ä Å
Taàm quan troïng cuûa dinh döôõng
Những bệnh nhân khuyết tật thần kinh, đặc biệt là những
bệnh nhân bị chứng bại não (cerebral palsy - CP), thường
có trạng thái dinh dưỡng rất kém. Trong thực thế, tình trạng
rối loạn dinh dưỡng từ lâu đã được coi như là một phần của
bệnh tật. Hiện nay chúng ta đã nhận thức được rất rõ tầm
quan trọng của chế độ chăm sóc dinh dưỡng phù hợp. Thiếu
dinh dưỡng làm giảm hạnh phúc, làm giảm chất lượng cuộc
sống và ảnh hưởng xấu đến sự tham gia của bệnh nhân vào
liệu pháp điều trị và các hoạt động khác. Từ góc độ y tế, rối
loạn dinh dưỡng và những hậu quả của nó (lở loét do nằm
lâu, khó lành vết thương, gãy xương và viêm nhiễm tái
phát) làm tăng gánh nặng chăm sóc sức khỏe và dẫn tới việc
tăng tần số và thời gian nằm viện. Cải thiện tình trạng dinh
dưỡng sẽ giúp tăng cường sức khỏe nói chung, giảm tính dễ
bị kích thích, giảm co cứng, cải thiện tuần hoàn ngoại vi, cải
thiện khả năng lành vết thương và có thể giúp tăng cường
phản ứng miễn dịch và khả năng chống viêm nhiễm.
I
Å
13,17-19
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
G
N
Ö
H
N
Nằm ở cực khác của suy dinh dưỡng là một hiện tượng
dường như đang tăng lên trong thời gian gần đây – chứng
béo phì – hậu quả của việc ăn quá nhiều. Chứng béo phì ảnh
hưởng đến 8 – 16% bệnh nhân KTTK và có thể dẫn đến
6
những vấn đề về sức khỏe và các vấn đề về tư thế lao động.
Õ
Trong tương lai, vấn đề này có thể trở nên ngày càng quan
trọng vì ngày càng có nhiều bệnh nhân có vấn đề về tiêu hóa
và tầm quan trọng của hỗ trợ dinh dưỡng đối với những
bệnh nhân này đang ngày càng được quan tâm.
Sinh lyù beänh nhaân roái loaïn dinh döôõng
ôû nhoùm beänh nhaân KTTK
Tất cả các chỉ số của tình trạng dinh dưỡng của những bệnh
nhân KTTK đều bị ảnh hưởng. Cân nặng theo độ tuổi,
chiều cao theo độ tuổi và cân nặng theo chiều cao đều giảm
đi. Chu vi bắp tay và độ dày nếp da cơ tam đầu (triceps
Độ dày nếp da dưới xương vai
skinfold – TSF) đều giảm.
bị ảnh hưởng ít hơn; mô hình tích mỡ thân trên (truncal fat
retention) thường xuất hiện ở các bệnh nhân KTTK. Cả
yếu tố dinh dưỡng và yếu tố không liên quan đến dinh
dưỡng đều có liên quan đến sinh lý bệnh học về rối loạn
5
dinh dưỡng ở nhóm bệnh nhân này.
Caùc yeáu toá dinh döôõng
Lượng thức ăn được đưa vào không phù hợp: lượng
calo hấp thụ ở bệnh nhi KTTK thường thấp hơn so với
nhóm đối chứng cùng độ tuổi.
Trong khi một số bệnh nhi
có khả năng tự ăn, số khác thường thiếu khả năng phối hợp,
ăn chậm, đánh đổ thức ăn và thường không ăn hết bữa ăn do
thiếu thời gian hoặc do mệt mỏi. Những bệnh nhi cần có
người chăm sóc cho việc ăn uống thường không có khả
năng biểu lộ là mình còn đói hay đã no, do đó dẫn tới việc ăn
12
không đủ.
Những bệnh nhi phải ăn bằng ống thông có thể
không chịu đựng được một lượng thức ăn công thức đủ để
thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng. Mặt khác, những bệnh nhân
được cho ăn theo đường miệng không có khả năng diễn đạt
mình đã no cũng như những bệnh nhân phải ăn bằng ống
thông không điều khiển được phần thức ăn đưa vào đều có
thể bị cho ăn quá nhiều.
Lượng thức ăn bị hao hụt tăng lên: Lượng thức ăn cung
cấp cho mỗi bệnh nhân thường không phản ánh chính xác
lượng hấp thụ thực tế. Sự phối hợp tay miệng thiếu nhịp
nhàng, đánh đổ thức ăn, khả năng ngậm kín miệng kém, sự
nôn mửa thường xuyên đều làm tăng lượng thức ăn hao
16
hụt.
Mức độ sử dụng năng lượng không bình thường: Đối
với hầu hết bệnh nhân KTTK, năng lượng tiêu hao lúc nghỉ
ngơi (Resting Energy Expenditure – REE) thấp hơn so với
đối chứng cùng độ tuổi và cân nặng.
Mặt khác, tổng
năng lượng tiêu hao (Total Energy Expenditure – TEE) có
thể thay đổi tùy theo trương lực cơ (co cứng cơ, giảm
Nhöõng tieâu chuaån veà taêng tröôûng
ôû nhöõng beänh nhaân baïi naõo
ê
ê
ø
ø
11,34,35
12,22,23
á
á
T
T
í
í
n
n
h
h
n
n
a
a
n
n
g
g
b
b
a
a
i
i
v
v
i
i
e
e
t
t
11
28,30
trương lực cơ hoặc thường xuyên giảm thân nhiệt, lại có
nhu cầu năng lượng rất thấp. Tiêu hao năng lượng lúc nghỉ
ngơi thường thấp hơn ở những bệnh nhân nặng, những
bệnh nhân co giật và những bệnh nhân có bệnh đường tiêu
20
hóa.
Để thực hiện một hoạt động nhất định ví dụ như đi lại,
những bệnh nhân bại não vẫn có khả năng đi lại có nhu cầu
năng lượng lớn hơn so với những người có chức năng thần
21
kinh bình thường.
Rối loạn chức năng cử động miệng lưỡi (Oromotor
dysfunction): Có tới 90% bệnh nhân bại não bị rối loạn
chức năng cử động miệng lưỡi.
Rối loạn này thường có
liên quan với mức độ trầm trọng của khuyết tật thần kinh và
đây là một nguyên nhân quan trọng gây ra rối loạn dinh
dưỡng. Những bệnh nhân này thường thiếu khả năng lấy
thức ăn bằng đường miệng, cân nặng, chiều cao và cân
nặng tương ứng với chiều cao thấp hơn so với những bệnh
14,24-29
nhân không bị rối loạn chức năng cử động miệng lưỡi.
Những bệnh nhân bị rối loạn chức năng cử động miệng lưỡi
có biểu hiện mút không đúng cách, mất khả năng nuốt, lưỡi
thường thè ra, không khép được miệng và giảm khả năng
nhai. Để nhai hoặc nuốt thức ăn, những bệnh nhân này có
thể phải mất một lượng thời gian nhiều hơn tới 15 lần so với
những người bình thường; thậm chí việc kéo dài thời gian
Trong khi
ăn cũng không thể bù lại việc ăn kém hiệu quả.
một đứa trẻ bình thường chỉ mất 0.8 giờ mỗi ngày dành cho
các bữa ăn thì đối với những bệnh nhi bại não cha mẹ phải
31
mất trung bình 3.3 giờ mỗi ngày để cho con ăn.
Caùc yeáu toá khoâng lieân quan ñeán dinh döôõng
Việc xác lập những tiêu chuẩn về tăng trưởng cho bệnh
nhân KTTK là không dễ dàng vì biểu hiện, mức độ nặng
của bệnh và những đặc điểm giải phẫu của bệnh rất khác
nhau. Người ta đã thiết lập các biểu đồ tăng trưởng cho
những bệnh nhân bại não. Những biểu đồ này phản ánh
những chế độ chăm sóc dinh dưỡng mà các bệnh nhân nhận
được và chưa chắc chúng đã phản ánh được tiềm năng tăng
trưởng tối ưu của bệnh nhân.
Những biểu đồ tăng
trưởng của bệnh nhi bại não liệt co cứng tứ chi (spastic
quadriplegic CP – SQCP) được công bố năm 1996 cho thấy
50% số bệnh nhi SQCP được điều tra có chỉ số cân nặng
theo tuổi và chiều cao theo tuổi thấp hơn giá trị thu được ở
90% trẻ em bình thường (tính theo số liệu xây dựng biểu đồ
tăng trưởng của trẻ em bình thường do Trung tâm Quốc gia
về Thống kê Y tế (National Center for Health Statistics-
NCHS) đưa ra sau đó), trong đó sự khác biệt tăng lên theo
độ tuổi. Một bộ biểu đồ mới hơn được công bố năm 2007.
Những biểu đồ này mô tả tăng trưởng của bệnh nhi bại não
theo 5 mức độ khả năng hoạt động chức năng khác nhau (tự
đi một mình; có thể đi được với sự trợ giúp bên ngoài; bò
được, không thể bò và không phải ăn bằng ống; không thể
35
bò được và có vấn đề về tiêu hoá).
Những biểu đồ tăng
trưởng mới nhất nhằm sử dụng trong lâm sàng, đánh giá
tăng trưởng của bệnh nhi bại não theo mức độ hoạt động
chức năng sử dụng hệ thống phân loại chức năng vận động
thô GMFCS (Gross Motor Function Classication
34
System), vẫn chưa được công bố.
Nhöõng bieåu ñoà taêng tröôûng naøy
32,33
chæ coù tính chaát MOÂ TAÛ (caùc
8,10
beänh nhaân taêng tröôûng nhö theá naøo
chöù khoâng ñöôïc söû duïng nhö moät
CAÊN CÖÙ chính xaùc (caùc beänh nhi seõ
10
taêng tröôûng nhö theá naøo)
Bản thân bệnh về thần kinh có ảnh hưởng tới phát triển
chiều cao và tính cân đối của cơ thể. Điều này thể hiện rất rõ
ở những bệnh nhân bị liệt nửa người, khi bên bị liệt bị hẹp,
ngắn hơn; xương cũng chậm trưởng thành hơn.
Mức độ
trầm trọng của suy dinh dưỡng có liên quan với mức độ
tuy nhiên thậm chí khi không có suy
trầm trọng của bệnh,
dinh dưỡng thì phát triển chiều cao cũng bị ảnh hưởng. Hơn
nữa, cải thiện tình trạng dinh dưỡng cũng thường không
giúp cải thiện phát triển chiều cao. Chiều cao theo tuổi Z-
score giảm theo độ tuổi mà không phụ thuộc vào cân nặng
theo tuổi Z-core và hiện tượng này đặc biệt rõ ràng trong
những năm vị thành niên khi sự tăng trưởng tăng vọt ở tuổi
34
dậy thì thường không diễn ra.
Ñaùnh giaù dinh döôõng
Õ
Treû em coù nguy cô coù vaán ñeà veà
I
Å Å
dinh döôõng caàn phaûi ñöôïc nhaän dieän
I
Ä À
vaø theo doõi caån thaän. Caùc yeáu toá nguy
20,36
Õ
Â
cô bao goàm tuoåi cuûa treû, khuyeát taät
N
H
Ö
N
G
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
V
E
D
N
H
D
Ö
Ô
N
G
L
A
M
S
A
N
G
Ø
thaàn kinh nghieäm troïng vaø roái loaïn
ä
chöùc naêng cöû ñoäng mieäng löôõi
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
Tieàn söû söùc khoûe
Các thông tin về dạng bệnh, thời gian bị bệnh và tiên lượng
của bệnh về thần kinh là rất cần thiết. Việc xác định chức
năng vận động thô của trẻ em sử dụng bộ câu hỏi hệ thống
phân loại chức năng vận động thô gia đình và tự điền
(GMFCS Family and Self Report Questionnaire) cũng rất
hữu ích vì thông tin này giúp dự đoán nhu cầu năng lượng,
mức sử dụng năng lượng và khả năng tự ăn.
Ngoài
những thông tin về bệnh thần kinh, các bác sĩ còn phải xem
bệnh nhân có các triệu chứng dạ dày ruột (gastrointestinal-
GI) hay không, ví dụ như chứng táo bón, chứng trào ngược
dạ dày - thực quản và các triệu chứng hô hấp liên quan đến
chứng trào ngược thức ăn vào phổi/sặc phổi (ho, viêm phổi
tái phát, nghẹt thở). Sự viêm nhiễm tái phát, chậm lành vết
thương và lở loét do nằm lâu rất thường gặp. Cần phải nắm
được danh sách toàn bộ các loại thuốc mà bệnh nhân sử
á
Baûng 1. Caùc caùch ño chieàu cao khaùc nhau
Ñôn vò ño
Caùch ño
Treû < 2 tuoåi
Khoaûng caùch giöõa ñænh vai vaø
ñieåm ñaùy cuûa khuûy tay trong khi
khôùp noái ôû vò trí goùc vuoâng, ño
baèng thöôùc daây.
á
á
ø
ø
37,38
dụng (bao gồm cả những thuốc mua không cần đơn); rất
nhiều loại thuốc, đặc biệt là thuốc trị co giật, có thể ảnh
hưởng đến sự ngon miệng, mức độ tỉnh táo và sự trao đổi vi
chất dinh dưỡng. Liệu pháp tiêm trực tiếp baclofen vào ống
tuỷ sống để điều trị chứng co cứng cơ đang được sử dụng
ngày càng rộng rãi. Việc làm giảm trương lực cơ dẫn đến
giảm mức tiêu hao năng lượng lúc nghỉ ngơi (REE). Do đó,
sự tăng cân khi không hề tăng lượng calo hấp thụ xảy ra sau
tiêm truyền baclofen là rất thường gặp.
ê
ê
Khoaûng giöõa ñieåm cao nhaát cuûa
ñaàu goái vaø ñieåm ñaùy cuûa goùt chaân
khi caû hai khôùp noái ñeàu ôû vò trí
goùc vuoâng, ño baèng thöôùc daây.
Treû > 2 tuoåi
t
t
e
e
i
i
v
v
i
i
a
a
b
b
g
g
n
n
a
a
n
n
h
h
n
n
í
í
T
T
Taát caû caùc
löùa tuoåi
Khoaûng caùch giöõa moûm cuøng vai
vaø ñieåm ñaàu xöông quay. Ño baèng
thöôùc ño nhaân traéc. Khoaûng giöõa
loài caàu trong (supero-medial
border) cuûa xöông chaøy vaø caïnh
döôùi maét caù trong (inferior border
of the medial malleolus) khi ñöùa
treû ngoài moät chaân vaét ngang leân
chaân kia, ño baèng thöôùc daây.
Khoaûng caùch cuûa caïnh döôùi cuûa
xöông baùnh cheø vaø ñieåm ñaùy cuûa
goùt chaân khi caû ñaàu goái vaø maét
caù chaân ôû vò trí goùc vuoâng, ño
baèng thöôùc ño nhaân traéc.
KH, ñaàu goái – goùt chaân (knee-heel); LLL, chieàu daøi caúng chaân (lower leg length), UAL,
chieàu daøi phaàn caùnh tay treân (upper arm length)
Baûng 2. Öôùc löôïng chieàu cao döïa treân caùc soá ño
moät phaàn cô theå
12,28,39
Tieàn söû dinh döôõng
Tiền sử dinh dưỡng là phần quan trọng nhất trong bộ câu
hỏi GMFCS. Quan sát trực tiếp bữa ăn là cách lý tưởng nhất
nhưng không phải lúc nào cũng thực hiện được. Cần phải
tìm hiểu tiền sử dinh dưỡng của mỗi bệnh nhân. Các thông
tin về dạng thức ăn (nghiền hay cắt nhỏ), và lượng thức ăn
tiêu hóa, lượng thức ăn đánh đổ và thời gian ăn, mức độ phụ
thuộc vào người chăm sóc, mức độ căng thẳng và mệt mỏi
liên quan tới bữa ăn đều là những thông tin thiết yếu. Việc
hỏi thông tin về các dấu hiệu rối loạn chức năng vận động
(khả năng ngậm kín miệng, phản xạ nhè ra, khó phối hợp
hoạt động, chảy nước dãi, đánh đổ thức ăn và nghẹn) và các
triệu chứng của chứng trào ngược thức ăn vào phổi/sặc
phổi (ho và nghẹt thở) cũng rất cần thiết. Cần phải nhớ rằng
những người chăm sóc ăn uống thường cường điệu thời
gian cho trẻ ăn và lượng calo hấp thụ. Thêm vào đó, đối với
nhiều bậc cha mẹ và những người chăm sóc, thời gian cho
ăn được xem là rất khó khăn và căng thẳng.
Ñoái töôïng
Chieàu cao (cm)
Sai soá chuaån
CP, sô sinh ñeán
42
12 tuoåi
43
Treû bình thöôøng
6 ñeán 18 tuoåi
Con trai:
Tieàn söû xaõ hoäi
Trước khi tiến hành bất cứ loại can thiệp dinh dưỡng nào,
bác sĩ cần phải nắm được và xem xét tất cả các thông tin về
điều kiện sống của đứa trẻ (gia đình, chăm sóc nuôi dưỡng,
trường học) và các hoạt động (trường học, liệu pháp trị
bệnh), tình trạng gia đình, nguồn tài chính và sự giúp đỡ mà
cha mẹ bệnh nhi có thể nhận được.
Da traéng
Da ñen
Con gaùi:
Da traéng
Da ñen
CP, baïi naõo (cerebral palsy), KH, ñaàu goái - goùt chaân (knee-heel), chieàu daøi caùnh tay treân (upper arm length).
40,41
Lòch söû taêng tröôûng
Trọng lượng và chiều cao khi sinh và tất cả các thông số
nhân trắc học đều cần được thu thập và vẽ lên biểu đồ tăng
trưởng theo độ tuổi theo chuẩn của Tổ chức y tế thế giới
hoặc Trung tâm kiểm soát và phòng chống dịch bệnh Hoa
Kỳ.
á
giản vì những bệnh nhi đó có thể bị chứng co cứng hoặc vẹo
cột sống. Trong trường hợp đó có thể dùng một trong
những cách đo một phần cơ thể (Bảng 1).
Có thể đo phía
bên phải hoặc phía ít bị ảnh hưởng hơn.
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
7,44,45
Độ dày nếp da cơ tam đầu (TSF) và chu vi bắp tay
(MAC) cho phép ước lượng vùng cơ cánh tay trên và chất
béo dự trữ nhưng không giúp đánh giá được phần trăm chất
béo của cơ thể ở những bệnh nhân có KTTK.
Ø Â
I
Õ
Các phép đo nhân trắc học
Cân nặng và chiều dài hay chiều cao cần phải được đo vào
mỗi lần thăm bệnh và cần được thực hiện với độ chính xác
tối đa. Việc cân một trẻ nhỏ bằng cân thông thường thường
khá là dễ dàng, nhưng để có được số đo cân nặng đáng tin
cậy ở những bệnh nhân có tuổi không có khả năng đứng lại
đặc biệt khó khăn, phải sử dụng phương tiện phù hợp như
một cái cân dạng ghế hoặc cân dạng xe lăn.
I
À Ä Å Å
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
G
N
Ö
H
N
Khaùm thöïc theå
Cần phải đánh giá trương lực cơ của bệnh nhân và kiểm tra
xem bệnh nhân có bị co cứng và cong vẹo cột sống hay
không. Sức khỏe răng miệng cũng phải được kiểm tra vì
bệnh viêm lợi hay sâu răng cũng có thể gây đau đớn và làm
cho bệnh nhân không muốn ăn. Việc nghe phổi sẽ giúp
đánh giá xem có thể có hiện tượng trào ngược thức ăn vào
Đối với trẻ nhỏ hơn 2 tuổi, việc đo chiều dài có thể được
thực hiện bằng cách cho trẻ nằm ngửa trên một bảng đo có
chia vạch. Sau 2 tuổi, việc lấy số đo chiều cao chính xác đối
với những trẻ không có khả năng đứng thường không đơn
Õ
Baûng 3. Caùc phöông phaùp xaùc ñònh nhu caàu naêng löôïng
51
Phöông phaùp Krick
phổi/sặc phổi hay không. Thăm khám vùng bụng có thể
giúp phát hiện triệu chứng táo bón. Bác sĩ cũng cần phải
kiểm tra xem bệnh nhân có bị lở loét và phù do nằm lâu hay
không.
ê
ê
ø
ø
á
á
T
T
í
í
n
n
h
h
n
n
a
a
n
n
g
g
b
b
a
a
i
i
v
v
i
i
e
e
t
t
kcal/ngaøy = BMR x (heä soá tröông löïc cô x heä soá hoaït
ñoäng) + taêng tröôûng.
Trong ñoù
BMR = dieän tích beà maët cô theå (m2)x toác ñoä trao ñoåi
chaát tieâu chuaån (kcal/m2/h) x 24h.
Heä soá tröông löïc cô: 0,9 ñoái vôùi tröôøng hôïp bò giaûm
tröông löïc cô, 1,0 ñoái vôùi tröôøng hôïp bình thöôøng, 1,1
ñoái vôùi tröôøng hôïp taêng tröông löïc cô.
Heä soá hoaït ñoäng: 1,15 ñoái vôùi beänh nhaân naèm lieät
giöôøng, 1,2 ñoái vôùi beänh nhaân phaûi coù ngöôøi chaêm soùc,
1,2 ñoái vôùi beänh nhaân phaûi coù ngöôøi chaêm soùc, 1,25 ñoái vôùi
beänh nhaân coù theå boø, 1,3 ñoái vôùi beänh nhaân coù theå ñi laïi ñöôïc.
Heä soá taêng tröôûng: 5 kcal/g troïng löôïng caàn taêng tröôûng
mong ñôïi.
1,1 x REE ño ñöôïc
Phöông phaùp
48
döïa treân REE
83
Ñoái vôùi beänh nhaân coù khaû naêng ñi laïi nhöng coù roái loaïn
vaän ñoäng: 13,9 cal/cm.
Phöông phaùp
döïa treân chieàu cao
Ñoái vôùi beänh nhaân coù khoâng ñi laïi ñöôïc vaø coù roái loaïn
vaän ñoäng: 11,1 cal/cm.
BMR, toác ñoä chuyeån hoùa cô baûn (basal metabolic rate); REE, hao toån naêng löôïng luùc nghæ ngôi (resting energy expenditure)
Xeùt nghieäm caän laâm saøng
Ñaùnh giaù trong phoøng thí nghieäm
Thông thường, các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm bổ
sung không nhiều thông tin cho đánh giá lâm sàng. Hầu hết
các vấn đề thiếu vitamin và khoáng chất đều có thể dự đoán
46
dựa trên tiền sử dinh dưỡng.
Hàm lượng hemoglobin có
thể giúp phát hiện chứng thiếu máu. Hàm lượng
prealbumin và albumin thường ở mức bình thường kể cả ở
47
những bệnh nhân rối loạn dinh dưỡng trầm trọng.
Hàm
lượng các chất điện giải và urê máu có thể giúp đánh giá
trạng thái thể dịch của bệnh nhân. Việc đánh giá hàm lượng
vitamin D, hormone cận giáp (PTH), can xi, phôt pho và
phosphatase kiềm rất hữu ích trong trường hợp nghi ngờ
15
loãng xương.
cần nhận được lượng thức ăn đầy đủ cả về dinh dưỡng đa
lượng và vi lượng, tuy nhiên cần phải tránh việc làm tăng
cân đối với những bệnh nhân phải phụ thuộc vào người
chăm sóc để có thể di chuyển.
Đối với bệnh nhi nhỏ hơn 3 tuổi và những bệnh nhi lớn hơn
có mức độ hoạt động bình thường, chỉ số cân nặng theo
chiều cao ở mức trung vị là lý tưởng. Đối với bệnh nhi phải
ngồi xe lăn, mức tứ phân vị thứ nhất là phù hợp. Bệnh nhi
nằm liệt giường cần đạt được chỉ số cân nặng theo chiều
51
cao ít nhất ở giá trị cao hơn 10% số trẻ em cùng độ tuổi.
Việc theo dõi sát sao mức lên cân và điều chỉnh lượng thức
ăn rất quan trọng, đặc biệt khi bắt đầu chế độ cho ăn bằng
ống để tránh việc lên cân quá nhanh và quá nhiều. Nếu cần
phải giảm lượng calo hấp thụ, cần phải đảm bảo rằng lượng
thức ăn lỏng, đạm, vitamin, khoáng chất và nguyên tố vi
lượng được đưa vào đầy đủ, đặc biệt phải chú ý tới lượng
can xi, phôt pho và vitamin D.
Löïa choïn coâng thöùc dinh döôõng
Chaån ñoaùn hình aûnh
Các bác sĩ cần phải thường xuyên tiến hành đo mật độ
xương cơ bản trong trường hợp có bất thường hoặc đối với
những bệnh nhân có nguy cơ loãng xương. Chỉ khi có bất
thường về giải phẫu ví dụ như nghi ngờ có thoát vị khe hoặc
hội chứng động mạch mạc treo tràng trên mới cần chụp ảnh
X quang đường tiêu hoá trên. Nghiên cứu về sự nuốt không
cần thiết để chẩn đoán bệnh rối loạn khả năng nuốt, nhưng
có thể giúp tìm ra cấu trúc thức ăn phù hợp và tư thế ăn hợp
lý giúp cho việc ăn bằng đường miệng an toàn hơn. Việc
theo dõi pH thực quản trong vòng 24 giờ không giúp nhiều
cho đánh giá lâm sàng về chứng trào ngược dạ dày thực
quản. Việc này cũng khó thực hiện và gây khó chịu cho
bệnh nhân. Chứng liệt nhẹ dạ dày được đánh giá bằng
phương pháp dùng chất đồng vị phóng xạ để đo lường thời
gian thức ăn bị tống ra khỏi dạ dày, nhưng phương pháp này
không nên sử dụng để phát hiện chứng trào ngược thức ăn
vào phổi/sặc phổi. Salivagram có thể giúp phân biệt chứng
sặc phổi do rối loạn cử động miệng với sặc phổi do chứng
trào ngược dạ dày thực quản.
I
Õ
Đối với trẻ nhỏ hơn 1 tuổi, nên chọn sữa công thức thông
thường dành cho trẻ nhỏ. Hàm lượng thức ăn công thức sử
dụng cũng như việc bổ sung dinh dưỡng, nếu cần thiết, luôn
cần có sự giám sát của một nhà dinh dưỡng học để đảm bảo
sự cung cấp dinh dưỡng là đầy đủ và an toàn. Thành phần
của sữa công thức được sử dụng cần phải đảm bảo cung cấp
đủ mọi dinh dưỡng đa lượng giống như công thức thông
thường cho trẻ: 7-16% đạm; 35-36% carbohydrates; và 35-
45% chất béo. Trong những trường hợp đặc biệt, nhất là đối
với những bệnh nhi có thời gian thức ăn bị tống ra khỏi dạ
dày không bình thường, dùng sản phẩm thủy phân protein
có thể hữu ích.
I
Å Å Ä À
Õ
N
H
Ö
N
G
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
V
E
D
N
H
D
Ö
Ô
N
G
L
A
M
S
A
N
G
 Ø
Can thieäp dinh döôõng
Nhu caàu dinh döôõng
Vì những bệnh nhân KTTK có tốc độ trao đổi chất thay đổi
và mức độ hoạt động không bình thường, hầu hết các
phương pháp xác định nhu cầu năng lượng đều có xu hướng
17,48-50
đưa ra nhu cầu năng lượng cao hơn thực tế (Bảng 3).
Đối với nhóm đối tượng rất khác nhau này, nhu cầu năng
lượng phải được đánh giá trên từng cá nhân để tính đến
trương lực cơ, mức độ hoạt động và tăng trưởng mong đợi.
Để xác định nhu cầu năng lượng, lý tưởng nhất là dùng
phép đo calo gián tiếp, tuy nhiên thiết bị này không sẵn có ở
hầu hết các bệnh viện. Cách tốt nhất để đảm bảo lượng calo
hấp thụ đầy đủ là theo dõi phản ứng của bệnh nhi với can
thiệp dinh dưỡng. Do nhu cầu về đạm và vi chất dinh dưỡng
ở nhóm bệnh nhi có KTTK khó có thể được xác định một
cách chính xác, cần phải tuân theo những khuyến cáo dành
cho các bệnh nhi nói chung.
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
53
Caùc muïc tieâu cuûa ñieàu trò dinh döôõng
Mỗi khi thực hiện một chương trình dinh dưỡng, việc đặt ra
các mục tiêu có tính thực tế là rất quan trọng. Các bệnh nhi
Đối với trẻ trên 1 tuổi, dùng công thức thông thường
cho bệnh nhi ở mức 1 cal/mL. Nếu bệnh nhi không dung
nạp tốt thể tích thức ăn lớn, có thể dùng công thức 1,5
cal/mL nhưng phải theo dõi sát sao tình trạng hydrat hoá
của bệnh nhi. Đối với bệnh nhi có tốc độ trao đổi chất thấp,
quá cân mặc dù lượng calo đưa vào thấp, cần phải dùng
52
công thức có nhiều chất dinh dưỡng nhưng chứa ít calo.
Không nên pha loãng sữa để giảm lượng calo hấp thụ vì
những chất dinh dưỡng cũng bị pha loãng dẫn tới việc thiếu
dinh dưỡng vi lượng. Việc dùng công thức dành cho người
lớn không được khuyến cáo vì tỷ lệ calorie/chất dinh dưỡng
không phù hợp. Đối với những bệnh nhi bị táo bón, công
á
53
54-58
thức phù hợp.
Đối với những bệnh nhi bị táo bón, công
thức dinh dưỡng cần có chất xơ. Đối với những bệnh nhi có
thời gian thức ăn bị tống ra khỏi dạ dày kéo dài, có thể sử
dụng công thức thủy phân hoàn toàn (elemental) hoặc thủy
phân một phần(semi-elemental).
á
á
ø
ø
ê
ê
t
t
e
e
i
i
v
v
i
i
a
a
b
b
g
g
n
n
a
a
n
n
h
h
n
n
í
í
T
T
4,5,61,62
6
59,60
Nuoâi aên baèng oáng thoâng / xoâng
Phương pháp ít xâm lấn nhất thường được ưu tiên lựa chọn.
Nếu việc cho ăn bằng đường miệng an toàn, cần cố gắng cải
thiện kỹ năng cử động miệng và tư thế ăn để điều chỉnh mức
độ phù hợp của thức ăn và hàm lượng calo. Nếu việc cho ăn
bằng đường miệng không an toàn hoặc không đủ, thời gian
ăn quá dài, hoặc bệnh nhân không có khả năng duy trì trạng
thái dinh dưỡng đầy đủ khi cho ăn bằng đường miệng, các
lựa chọn khác như cho ăn bằng ống thông cần phải được
xem xét (hình 1). Mặc dù ban đầu, các bậc cha mẹ thường tỏ
ra miễn cưỡng chấp nhận việc cho con mình ăn bằng ống
thông nhưng sau đó hầu hết họ đều cho rằng việc cho ăn
bằng ống thông đã giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của
gia đình cũng như của các bệnh nhi KTTK.
63,64
vào bằng ống thông dạ dày sẽ làm giảm sự căng thẳng gắn
với các bữa ăn. Đứa trẻ sẽ vẫn có thể thưởng thức những
loại thức ăn ưa thích mà không bị ép buộc phải tiêu hoá một
lượng lớn thức ăn. Sau khi lắp đặt hệ thống ống thông dạ
dày, thường thì đứa trẻ sẽ tự động giảm lượng thức ăn theo
đường miệng và cảm thấy thích hơn với việc có thể dễ dàng
thu nhận dinh dưỡng mà không cần phải nhai và nuốt.
Trong khi quyết định bắt đầu việc cho ăn bằng ống thông là
một quyết định y học, quyết định việc đặt ống thông dạ dày
phụ thuộc chủ yếu vào cha mẹ của bệnh nhi. Cha mẹ bệnh
nhi có thể quyết định việc cho ăn bằng ống thông qua
đường mũi trong một thời gian kéo dài. Bác sĩ cần phải tôn
trọng quyết định của cha mẹ bệnh nhi, theo dõi sát sao đứa
trẻ và định kỳ thảo luận lại với cha mẹ chúng về việc đặt
ống thông dạ dày. Trạng thái dinh dưỡng của một bệnh nhi
có thể được cải thiện rất nhiều sau khi đặt ống thông dạ
dày.
Tuy nhiên, việc đặt ống thông dạ dày thường được
thực hiện quá muộn. Những bệnh nhi được đặt ống thông
dạ dày trong năm đầu tiên rất có khả năng sẽ có cân nặng và
62
Không có
chiều cao cao hơn 5% số trẻ em cùng độ tuổi.
bằng chứng nào cho thấy việc đặt ống thông dạ dày làm
tăng các bệnh về đường hô hấp.
Cho ăn bằng ống thông qua đường mũi là phương pháp
ít xâm lấn nhất nhưng chỉ nên sử dụng trong một thời gian
ngắn (< 3 tháng), vì ống thông qua mũi không được dễ chịu
đối với đứa trẻ. Trong trường hợp cần cho ăn bằng ống lâu
dài, phương pháp cho ăn bằng ống thông vào dạ dày thường
được ưa thích hơn. Cách này phải can thiệp xâm lấn nhiều
hơn nhưng lại dễ chịu hơn cho bệnh nhi. Các bậc cha mẹ
thường không dễ dàng chấp nhận biện pháp đưa thức ăn
Hình 1. Giaûi thuaät ñöa ra quyeát ñònh nuoâi aên baèng oáng xoâng
Ăn bằng đường miệng không đủ
hoặc
không an toàn
Cho ăn bằng ống
Thời gian dài
Thời gian ngắn
(ít hơn 3 tháng)
Ống thông dạ dày qua mũi
Bệnh nhân chưa bao giờ
ăn qua ống thông
Bệnh nhân đang hoặc
đã từng ăn qua ống thông
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
Chịu đựng tốt
Kiểm tra lâm sàng xem có
trào ngược dạ dày thực quản
ä
Chịu đựng
Chịu đựng kém dù đã
dùng phương pháp
ít xâm lấn
Chịu đựng
kém
Ø Â
Tiếp tục cho ăn bằng
ống thông dạ dày
qua mũi
Mức trung bình
tới nặng
Không có
hoặc nhẹ
I
Õ
Ống thông ruột non qua mũi
Ống thông dạ dày
qua thành bụng
I
Ống thông ruột non qua thành bụng và dạ dày,
hoặc mở thông ruột non hoặc ống thông dạ dày
qua thành bụng theo quy trình chống trào
À Ä Å Å
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
G
N
Ö
H
N
Õ
đổi. Trước hết nên thử những biện pháp không xâm lấn như
điều chỉnh thể tích, mức độ phù hợp và lịch ăn. Sau đó có thể thử
sử dụng các sản phẩm thủy phân protein hoặc công thức bán
thủy phân và việc điều trị chứng trào ngược cần được tối ưu
hóa.
Chöùng traøo ngöôïc thöïc aên vaøo phoåi
Saëc phoåi
ê
ê
ø
ø
á
á
T
T
í
í
n
n
h
h
n
n
a
a
n
n
g
g
b
b
a
a
i
i
v
v
i
i
e
e
t
t
65-68
Nếu bệnh nhân không có dấu hiệu của trào ngược dạ dày
thực quản, nên sử dụng phương pháp mở thông dạ dày
xuyên qua da (bằng phóng xạ hoặc nội soi). Trong trường
hợp này không cần quy trình chống trào ngược. Tuy nhiên,
nếu có dấu hiệu rõ ràng của trào ngược thì cần thực hiện
phẫu thuật đặt ống thông dạ dày kết hợp với kỹ thuật quấn
đáy trên dạ dày (fundoplication). Trước khi xem xét quy
trình chống trào ngược cần phải đánh giá tình hình thật kỹ
lưỡng vì những bệnh nhân KTTK đặc biệt dễ có những biến
chứng như hội chứng dạ dày tống nhanh/dạ dày rỗng nhanh
chóng (dumping), nôn oẹ và hội chứng đầy hơi (gas bloat
syndrome).
69-71
Trong một số trường hợp, cần phải dùng ống thông hỗng
tràng (qua mũi, qua thành bụng và dạ dày hoặc mở thông
hỗng tràng).
Đặt ống thông hỗng tràng qua mũi và ống
thông hỗng tràng qua dạ dày có xu hướng dễ bị lệch vị trí
hoặc bị chặn và không thực tế lắm vì cần phải thường xuyên
chỉnh vị trí dưới sự hướng dẫn phóng xạ. Mở thông hỗng
tràng có tỷ lệ biến chứng cao. Bệnh nhi cần được cho ăn liên
tục khi nuôi dưỡng bằng phương pháp mở thông hỗng tràng.
Viêm phổi và các vấn đề hô hấp mạn tính rất hay gặp ở các
bệnh nhân KTTK. Các triệu chứng hô hấp cấp tính hoặc mạn
tính thường có nguyên nhân từ việc trào ngược nước bọt ở
bệnh nhân bị rối loạn chức năng cử động miệng hoặc có
nguyên nhân từ việc hít phải dịch dạ dày ở những bệnh nhân
bị trào ngược dạ dày thực quản. Hai nguyên nhân này có thể
khó mà phân biệt được và chúng thường chồng chéo nhau.
Đánh giá lâm sàng, salivagram, nghiên cứu sự nuốt, theo dõi
pH thực quản trong 24 giờ và đo lường thời gian thức ăn
tống ra khỏi dạ dày không phải lúc nào cũng cho phép chẩn
đoán được. Trong một số trường hợp, thử nghiệm cho ăn
bằng ống thông hỗng tràng có thể cải thiện lâm sàng và giúp
chẩn đoán sặc phổi do trào ngược dạ dày thực quản. Một
điều quan trọng cần phải lưu ý là không phải tất cả các
trường hợp viêm phổi đều có nguyên nhân từ sặc phổi.
Trước khi chẩn đoán viêm phổi tái phát do trào ngược thức
ăn vào phổi, cần phải tìm hiểu kỹ lưỡng bệnh sử của bệnh
nhân để tránh sử dụng các quy trình chống trào ngược một
cách không cần thiết.
Cheá ñoä nuoâi döôõng
Lịch cho ăn phụ thuộc vào sức chịu đựng của bệnh nhi,
nhưng cũng cần tính đến các yếu tố khác như hoạt động của
bệnh nhi và nên tránh ảnh hưởng tới hoạt động học tập hoặc
điều trị. Ví dụ, việc cho ăn vào buổi sáng thường rất khó vì
trẻ sẽ phải đến trường sớm trong trạng thái no bụng, nhất là
khi đứa trẻ đó bị chứng trào ngược dạ dày thực quản; trong
trường hợp như vậy cần phải điều chỉnh lịch ăn.
Chöùng taêng tieát nöôùc boït (hypersalivation)
Dùng những viên bổ sung dinh dưỡng sẽ hợp lý, thiết
thực hơn và được ưa thích hơn. Nếu một bệnh nhân có nhu
cầu năng lượng rất lớn, sẽ là lý tưởng nếu có thể kết hợp cho
ăn vào ban đêm với những viên bổ sung dinh dưỡng ban
ngày. Bệnh nhân phải nuôi dưỡng bằng ống thông hỗng
tràng cần phải được cho ăn liên tục, tuy nhiên cần giới hạn
dưới 16 giờ mỗi ngày để dành thời gian cho những hoạt động
khác.
Nhöõng löu yù cuï theå
Ở các bệnh nhân KTTK, rất thường gặp hiện tượng chảy
nước dãi hoặc thậm chí là các vấn đề về hô hấp do không
khép được miệng và không điều khiển được quá trình tiết
nước bọt. Tiết nước bọt quá nhiều hay chứng tăng tiết nước
bọt thường trở nên nặng nề hơn sau khi dùng phương pháp
cho ăn bằng ống thông dạ dày. Mặc dù người ta thường quy
kết nguyên nhân vấn đề nằm ở chứng trào ngược dạ dày thực
quản, rất nhiều khả năng nguyên nhân thực nằm ở việc mất
khả năng điều khiển tiết nước bọt sau khi đứa trẻ giảm việc
ăn bằng miệng và do đó sử dụng các cơ mặt ít đi.
Chứng trào ngược dạ dày thực quản
và không chịu được việc nuôi ăn
72,73
I
Õ
15,53,74-80
I
Å Å Ä À
81,82
Õ
2
Caùc vaán ñeà loaõng xöông
Loãng xương rất hay gặp ở các bệnh nhân KTTK.
Tỷ lệ
gãy xương rất cao, và gãy xương thường gắn với bệnh tật.
Việc thiếu các hoạt động thể lực giúp nén xương (weight-
bearing activities) và ít tiếp xúc với nắng, hấp thụ không đủ
can xi và vitamin D cũng như việc sử dụng các thuốc chống
co giật sẽ ảnh hưởng đến trao đổi vitamin D và tất cả các yếu
tố đó đều góp phần gây ra chứng loãng xương.
Cần
tiến hành theo dõi mật độ xương, cung cấp đủ can xi và
vitamin D và trong một số trường hợp cần thiết phải sử dụng
bisphosphonates.
N
H
Ö
N
G
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
V
E
D
N
H
D
Ö
Ô
N
G
L
A
M
S
A
N
G
Caùc vaán ñeà ñaïo ñöùc vaø xaõ hoäi
65,67
Chứng trào ngược dạ dày thực quản rất thường thấy ở những
bệnh nhi bị KTTK và có ảnh hưởng xấu đến tình trạng dinh
dưỡng. Chứng này có thể hạn chế lượng thức ăn công thức
được đưa vào theo ống thông, và chứng viêm thực quản có
thể dẫn tới việc từ chối thức ăn và ghét ăn theo đường miệng.
Trào ngược dạ dày thực quản cần được điều trị cấp tốc để
tránh biến chứng như viêm phổi do trào ngược thức ăn vào
phổi, hẹp đường tiêu hóa và thậm chí hội chứng Barrette.
Cần phải sử dụng các thuốc kháng histamine có tác dụng
trên thụ thể H hoặc các thuốc ức chế bơm proton (PPI) và
nếu cần có thể sử dụng các chất làm tăng nhu động dạ dày
ruột (prokinetics). Quy trình chống trào ngược chỉ nên tính
đến khi điều trị y khoa thất bại, vì tỷ lệ biến chứng sau phẫu
thuật ở các bệnh nhân KTTK có thể lên đến 60%.
 Ø
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
Các triệu chứng không chịu được việc nuôi ăn, ví dụ như
nôn mửa, thường trở nên tệ hại hơn sau khi bắt đầu việc nuôi
ăn bằng ống thông, vì thể tích và tính phù hợp của đồ ăn thay
Hỗ trợ dinh dưỡng là vấn đề không thể thiếu được trong
chăm sóc bệnh nhi KTTK. Chăm sóc bệnh nhi KTTK đòi
hỏi sự tham gia của các chuyên gia đa ngành bao gồm các
bác sĩ, các nhà dinh dưỡng học, y tá, các nhà trị liệu cho
á
á
á
ø
ø
những người khuyết tật về ngôn ngữ và trị liệu bằng cách
giao những việc phải làm (speech and occupational
therapists), các nhà sinh lý trị liệu cũng như các nhà tâm lý
học và những người hoạt động xã hội. Cần phải nhận diện
sớm những đối tượng có nguy cơ và theo dõi sát sao. Một chế
độ dinh dưỡng phù hợp cần tính đến các vấn đề gia đình, lịch
học tập, trị liệu và các hoạt động của trẻ. Can thiệp dinh
dưỡng cần được coi là một phương pháp chữa bệnh giúp cải
thiện chất lượng cuộc sống.
ê
ê
dinh dưỡng cần phải tính đến những nhu cầu riêng của nhóm
đối tượng này. Không thể cho rằng việc các bệnh nhi KTTK
bị suy dinh dưỡng là bình thường mà can thiệp dinh dưỡng
cần phải là một phần của việc chăm sóc các em. Bất cứ can
thiệp nào giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng đều phải được
nhắm tới để cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhi, của
cha mẹ bệnh nhi và những người chăm sóc bệnh nhi. Việc hỗ
trợ liên tục cho gia đình bệnh nhi KTTK có vai trò cực kỳ
quan trọng và việc này cần phải có sự phối hợp của các
chuyên gia thuộc các chuyên ngành khác nhau.
t
t
e
e
i
i
v
v
i
i
a
a
b
b
g
g
n
n
a
a
n
n
h
h
n
n
í
í
T
T
Kết luận
Không thể áp dụng các tiêu chuẩn dinh dưỡng thông thường
đối với những trẻ em bị khuyết tật thần kinh mà các can thiệp
CAÙC TRÖÔØNG HÔÏP NGHIEÂN CÖÙU ÑIEÅN HÌNH / CAÙC TÌNH HUOÁNG ÑIEÅN HÌNH / CAÙC TÌNH HUOÁNG MAÃU
Tröôøng hôïp 1
Tröôøng hôïp 3
Lần đầu tiên bạn gặp một người mẹ đơn thân và hai đứa con
sinh đôi khuyết tật của cô ấy. Hai đứa trẻ được cho ăn bằng
ống thông dạ dày qua thành bụng và bởi vì chúng không
chịu được cách này và lớn rất chậm, người mẹ đã được
khuyên cho con ăn mỗi lần hơn 2 giờ, 4 lần một ngày.
Một bé trai 12 tuổi bị liệt co cứng tứ chi và động kinh được
cho ăn bằng đường miệng thỉnh thoảng kết hợp với cho ăn
bằng ống thông dạ dày qua mũi. Thời gian của mỗi bữa ăn
là 1 giờ, 4 lần mỗi ngày. Mặc dù cha mẹ cậu bé đã cố gắng
hết sức, cậu bé vẫn lớn rất chậm. Cậu còn bị gãy xương đùi.
Cha mẹ cậu bé cảm thấy kiệt sức.
Bệnh nhân này bị suy dinh dưỡng và có biến chứng của suy
dinh dưỡng (gãy xương). Cha mẹ bệnh nhân đã mất quá
nhiều thời gian cho con ăn mà không thành công. Sau khi
thảo luận với cha mẹ cậu bé, người ta đã tiến hành cho cậu
ăn bằng ống thông. Việc lựa chọn phương pháp đặt ống
thông dạ dày qua thành bụng nên được thảo luận nhưng
nếu cha mẹ cậu bé không sẵn sàng thì có thể bắt đầu bằng
việc đặt ống thông dạ dày qua đường mũi.
Hiện nay người mẹ phải dùng đến hơn 8 tiếng mỗi ngày để
cho con ăn. Cần thử cách cho ăn ban đêm bằng những viên
bổ sung dinh dưỡng nhỏ hơn viên dùng ban ngày. Thay đổi
dạng công thức, thể tích hoặc tính thích hợp của thức ăn
cũng có thể có tác dụng. Điều trị chứng trào ngược cũng có
thể được tối ưu hoá. Việc cho ăn bằng ống thông hỗng tràng
sẽ có thể rất phức tạp đối với người mẹ này. Phương cách
cuối cùng, sau khi đã đánh giá kỹ lưỡng tình hình, là quy
trình chống trào ngược.
Tröôøng hôïp 2
Tröôøng hôïp 4
Một bé gái 10 tuổi bị liệt co cứng tứ chi đã tăng trưởng rất
kém khi được cho ăn bằng đường miệng. Cô bé không có
triệu chứng bị trào ngược dạ dày thực quản, cô bé đã được
đặt ống thông dạ dày qua thành bụng mà không áp dụng
quy trình chống trào ngược. Cô bé đã không chịu được việc
ăn bằng ống thông này và bị nôn nhiều lần.
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Một bé trai 4 tuổi bị bại não nặng đến văn phòng của bạn để
được kiểm tra. Cậu bé được cho ăn bằng ống thông dạ dày
qua thành bụng. Cậu bé chỉ có thể nằm trên giường, bị thiếu
nước, giảm thân nhiệt và bị chậm nhịp tim. Cậu bé bị thừa
cân (cân năng theo chiều cao lớn hơn 97% các cậu bé cùng
tuổi) mặc dù bữa ăn của cậu đã được giảm xuống 150 calo 3
lần mỗi ngày (30cal/kg/ngày).
Đây là một trường hợp điển hình của một bệnh nhân thừa
cân, trao đổi chất chậm. Lượng calo đưa vào cần được giữ ở
mức thấp nhất có thể. Lượng dinh dưỡng cần cung cấp đầy
đủ dinh dưỡng đa và vi lượng mà không chứa quá nhiều
calo. Cần phải sử dụng công thức calo thấp/chất dinh
dưỡng cao. Cần theo dõi sát sao tình trạng thể dịch và lượng
vi chất đưa vào. Nếu cần thiết, cần thực hiện các xét nghiệm
cơ bản bao gồm xét nghiệm albumin, chức năng tuyến giáp.
Ø Â
2
I
Õ
Các bệnh nhân thường không chịu được việc ăn bằng ống
khi mới bắt đầu vì chế độ ăn đã thay đổi cơ bản về lượng ăn
và tính phù hợp của thức ăn. Các biện pháp không xâm lấn
được tính đến trước (giảm thể tích thức ăn bằng cách dùng
công thức đặc hơn; cho ăn trong khoảng thời gian dài hơn;
cho ăn nhiều bữa hơn với lượng nhỏ hơn; hoặc cho ăn liên
tục vào ban đêm). Việc thử dùng công thức bán phân tử
(semi elemental formula) có thể có tác dụng. Nếu những
cách này đều không thành công, cần điều trị chứng trào
ngược sử dụng chất ức chế bơm proton (PPI), thuốc kháng
histamin tác động lên thụ thể H hoặc thuốc tăng nhu động
dạ dày ruột. Nếu những cách điều trị này không thành công,
còn một lựa chọn là cho ăn bằng ống thông hỗng tràng.
Cách cuối cùng là quy trình chống trào ngược, có thể được
xem xét sau khi đã đánh giá kỹ lưỡng tình hình.
I
À Ä Å Å
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
G
N
Ö
H
N
Õ
Taøi lieäu tham khaûo
ê
ê
ø
ø
á
á
T
T
í
í
n
n
h
h
n
n
a
a
n
n
g
g
b
b
a
a
i
i
v
v
i
i
e
e
t
t
I
Õ
I
Å Å Ä À
Õ
N
H
Ö
N
G
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
V
E
D
N
H
D
Ö
Ô
N
G
L
A
M
S
A
N
G
 Ø
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
á
TOÙM TAÉT VEÀ DINH DÖÔÕNG LAÂÂM SAØNG
UNG THƯ
Cho aên baèng oáng thoâng sôùm laøm giaûm bieán
chöùng coù theå gaây töû vong sau phaãu thuaät
caét thöïc quaûn ôû beänh nhaân ung thö thöïc quaûn
Taïp chí Eur Surg Res, ngaøy 1 thaùng 3 naêm 2012;48(2):79-84.
Fujita T, Daiko H, Nishimura M.
Khoa phaãu thuaät thöïc quaûn, Beänh vieän ung thö quoác gia trung taâm phía ñoâng,
Kashiwa, Nhaät Baûn.
ø
à
â
é
e
v
t
a
t
õ
ù
m
o
T
g
n
a
s
m
a
l
g
n
ô
ö
d
h
n
i
d
CƠ SỞ: cho ăn bằng ống thông sớm sau phẫu thuật đã được
khuyến nghị để cải thiện tình trạng dinh dưỡng của bệnh
nhân sau phẫu thuật cắt bỏ thực quản. Tuy nhiên còn chưa
rõ liệu việc này có làm giảm các biến chứng hậu phẫu và
tăng tỉ lệ hoàn thành qui trình lâm sàng hay không.
PHƯƠNG PHÁP: chúng tôi đã phân tích 154 bệnh nhân
được xếp ngẫu nhiên vào nhóm cho ăn bằng ống thông và
nhóm cho ăn qua truyền tĩnh mạch.Việc quản lý chu
phẫu(perioperative management) được thực hiện bằng
những qui trình lâm sàng giống nhau trừ dinh dưỡng. KẾT
QUẢ: Tỉ lệ chung của bất kì biến chứng sau phẫu thuật nào
cũng không khác nhau giữa nhóm cho ăn bằng ống thông
và nhóm cho ăn qua truyền tĩnh mạch (P = 0.50); tuy nhiên
tỉ lệ biến chứng có thể gây tử vong giảm đáng kể ở bệnh
nhân cho ăn bằng ống thông (P=0.02). Tỉ lệ các biến chứng
do phẫu thuật không nguy hiểm đến tính mạng không khác
nhau giữa 2 nhóm (P=0.98). Với các bệnh nhân cho ăn
bằng ống thông tỉ lệ hoàn thành qui trình lâm sàng cao hơn
(P = 0.03) và thời gian phải ở lại bệnh viện sau phẫu thuật
ngắn hơn (P=0.04). KẾT LUẬN: cho ăn bằng ống thông
sớm làm giảm biến chứng hậu phẫu có thể gây tử vong và
tăng tỉ lệ hoàn thành qui trình lâm sàng của bệnh nhân trải
qua phẫu thuật cắt thực quản.
(retrospective review) tất cả các trường hợp phẫu thuật ung
thư dạ dày từ năm 2005-2009 (n=2.588) cho thấy có 53
bệnh nhân (2%) bị xì dò và đã được điều trị theo cách cũ.
Cho ăn bằng ống thông được thực hiện qua ống thông mũi-
ruột được đưa vào dưới sự hướng dẫn của X quang. Các kết
quả lâm sàng và các biến chứng của bệnh nhân cho ăn bằng
ống thông được so sánh với kết quả của bệnh nhân được
cho ăn qua truyền tĩnh mạch (nhóm đối chứng lịch sử)
(historical control group). Độ nặng của biến chứng được
đánh giá theo phương pháp phân loại của Clavien-Dindo.
KẾT QUẢ: phân tích cuối cùng được thực hiện trên 50
bệnh nhân (do có 3 bệnh nhân đã tử vong): 29 người được
cho ăn bằng ống thông (CAOT) và 21 người được cho ăn
qua truyền tĩnh mạch (CATM). Giữa 2 nhóm không có sự
khác biệt đáng kể về những kết quả lâm sàng và tổng số lần
có biến chứng; tuy nhiên số lượng biến chứng liên quan đến
việc đặt ống ít hơn ở nhóm CAOT so với nhóm CATM (1 so
với 7, P<0.01). Có một trường hợp bị chảy máu cam
(epistaxis) (3,4%, mức độ I) ở nhóm CAOT và 7 trường
hợp nhiễm trùng do đặt ống (33,3%, mức độ II) ở nhóm
CATM. Nguy cơ bị biến chứng độ II hoặc nặng hơn độ II
cao hơn ở nhóm CATM so với nhóm CAOT (11 so với 4,
P<0,01) với sự khác nhau thể hiện rõ nhất ở tỷ lệ nhiễm
trùng do đặt ống. Vào ngày 7, 10 và 15 sau khi được xác
định là bị dò, số lượng bạch cầu và protein phản ứng C (C-
reactive protein - CRP) ở nhóm CATM cao hơn nhóm
CAOT. Nhóm CATM cần thời gian truyền kháng sinh tĩnh
mạch kéo dài (P<0.01). KẾT LUẬN: cho ăn bằng ống
thông mũi-ruột an toàn có thể được dùng cho bệnh nhân bị
xì dò sau phẫu thuật. Ưu điểm chính của CAOT là ít bị biến
chứng nhiễm trùng. Vì CAOT không kém hơn CATM về
kết quả lâm sàng, chúng tôi khuyến nghị dùng CAOT cho
bệnh nhân bị xì dò sau khi phẫu thuật ung thư dạ dày.
Quaûn lyù/xöû lyù an toaøn xì do (anastomotic leakage)
sau phaãu thuaät ung thö daï daøy baèng nuoâi döôõng
qua oáng thoâng muõi - ruoät
Dinh döôõng mieãn dòch chu phaãu (Perioperative)
cho beänh nhaân ung thö daï daøy - ruoät: nhìn laïi
moät caùch heä thoáng nhöõng nghieân cöùu coù
ñoái chöùng ngaãu nhieân
Taïp chí Langienbecks Arch Surg , thaùng 6 naêm 2012;397(5):737-744.
Akashi Y, Hiki N, Nunobe S, Jiang X, Yamaguen T.
Khoa phaãu thuaät tieâu hoùa, Beänh vieän ung thö, Hoäi nghieân cöùu ung thö
Nhaät Baûn, Tokyo, Nhaät Baûn
Taïp chí Surg Oncol, thaùng 6 naêm 2012 Jun;21(2):e87-e95.
Zhang Y, Gu Y, Guo T, Li Y, Cai H.
Beänh vieän tænh Gansu, Quaän Chengguan, Thaønh phoá Lanzhou,
Tænh Gansu, Trung Quoác.
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø Â
CƠ SỞ: để cải thiện tình trạng lâm sàng, dinh dưỡng miễn
dịch (DDMD) thường được dùng cho bệnh nhân chọn phẫu
thuật chữa ung thư đường tiêu hóa. Tuy nhiên hiệu quả của
nó (DDMD) vẫn chưa rõ ràng. PHƯƠNG PHÁP: 2 nhà
phân tích tìm và chọn một cách độc lập với nhau các nghiên
cứu có đối chứng ngẫu nhiên (RCT) được công bố trong
giai đoạn 1995-2011 ở các ngân hàng dữ liệu điện tử như
PubMed, EMBASE và thư viện Cochrane. Chất lượng của
các nghiên cứu được chọn được đánh giá theo hướng dẫn
dành cho Cochrane reviewer (V5.0.1). Phân tích thống kê
MỤC TIÊU: Xì dò là biến chứng nghiêm trọng sau phẫu
thuật ung thư dạ dày. Mặc dù cho ăn bằng ống thông có
nhiều ưu việt hơn, cho ăn qua truyền tĩnh mạch vẫn là cách
chữa trị qui chuẩn với trường hợp xì dò. Sau khi áp dụng
cho ăn bằng ống thông mũi-ruột cho bệnh nhân bị xì dò ở
viện của chúng tôi năm 2006, qui trình dinh dưỡng chuẩn
được chuyển dần từ cho ăn qua truyền tĩnh mạch sang cho
ăn bằng ống thông. Những nghiên cứu khởi đầu hiện nay
đánh giá tính an toàn và tính khả thi của việc cho ăn bằng
ống thông mũi-ruột đối với trường hợp bị xì dò sau phẫu
thuật ung thư dạ dày. PHƯƠNG PHÁP: hồi cứu
I
Õ
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
T
M
O
T
Tóm tắt trong phần này đã được lựa chọn trong mục tìm kiếm về Dinh dưỡng lâm sàng và các chủ đề liên quan đến cơ sở dữ liệu PubMed của
Hoa Kỳ Thư viện Dược Quốc gia. PubMed có thể được truy cập thông qua Thư viện Quốc gia của trang web Y khoa tại www.nlm.nih.gov.
À É Ù
được thực hiện sử dụng phần mềm RevMan. KẾT QUẢ: 19
nghiên cứu có đối chứng ngẫu nhiên liên quan đến tổng số 2331
bệnh nhân đã được đưa vào phân tích tổng hợp của chúng tôi. Kết
quả cho thấy DDMD chu phẫu làm giảm đáng kể thời gian nằm
viện (WMD, -2.62; 95% CI, -3.26 to -1.97; P < 0.01) và tỉ lệ tử
vong do biến chứng nhiễm trùng (RR, 0.44; 95% CI, 0.32 to 0.60;
P < 0.01) so với chế độ ăn chuẩn thường dùng. Hơn nữa, DDMD
chu phẫu làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong do biến chứng hậu phẫu
không liên quan đến nhiễm trùng so với nhóm thực hiện chế độ ăn
thông thường (RR, 0.72; 95% CI, 0.54 to 0.97; P = 0.03). KẾT
LUẬN: DDMD chu phẫu có hiệu quả và an toàn, làm giảm nhiễm
trùng hậu phẫu, giảm những biến chứng không liên quan đến
nhiễm trùng và thời gian nằm viện.
CHĂM SÓC TÍCH CỰC
ù
õ
T
o
m
é
â
t
a
t
v
e
à
Moái töông quan giöõa noàng ñoä glutamine vaø
glutathione trong maùu vôùi keát quaû ñieàu trò ôû
nhöõng beänh nhaân nhaäp khoa chaêm soùc tích cöïc
ø
d
i
n
h
d
ö
ô
n
g
l
a
m
s
a
n
g
Taïp chí Clin Sci (Lond) , thaùng 6 naêm 2012;122(12): 591-597.
Rodas PC, Rooyackers 0, Hebert C, Norberg A, Wernerman J.
Khoa gaây meâ vaø chaêm soùc tích cöïc taïi Beänh vieän Huddinge
Ñaïi hoïc Karolinska Stockholm, Thuïy Ñieån.
truyền tĩnh mạch (CATM) và cung cấp năng lượng trong điều
kiện chăm sóc tích cực. Chú trọng đặc biệt vào các trường hợp thử
nghiệm CATM sớm và /hoặc cho ăn bổ sung qua truyền tĩnh mạch
(SPN) và tối ưu hóa việc cung cấp năng lượng cho các bệnh nhân
được chăm sóc tích cực dựa trên nguy cơ dinh dưỡng và độ nặng
của bệnh tật. Tầm quan trọng mà việc cung cấp protein có thể
mang lại đối với kết quả điều trị cũng được thảo luận. CÁC PHÁT
HIỆN MỚI: các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên gần đây cho thấy
đối với những trường hợp bệnh nhân không nhận đủ dinh dưỡng
nhờ cho ăn bằng ống thông, việc nuôi dưỡng bổ sung bằng truyền
tĩnh mạch có hiệu quả hay không vẫn là một vấn đề còn phải bàn
luận. Những thử nghiệm này có những khác biệt đáng kể về độ
nặng của bệnh (nguy cơ tử vong), phương thức cung cấp năng
lượng cho bệnh nhân và lượng protein đưa vào. Các nghiên cứu
quan sát gần đây cho thấy tình trạng dinh dưỡng trước khi bị bệnh
của bệnh nhân và mức độ đầy đủ của lượng protein đưa vào có thể
là yếu tố quyết định sống còn đối với ảnh hưởng của SPN và
phương thức cung cấp năng lượng tối ưu lên kết quả điều trị. TÓM
TẮT: kết quả gây tranh cãi của các thử nghiệm RCTs và SPN gần
đây đã chỉ rõ các yếu tố quyết định việc cung cấp thêm
calo/protein có thể mang lại lợi ích cho những bệnh nhân nào.
Những số liệu này, kết hợp với những nghiên cứu quan sát lớn đã
cho thấy sự cần thiết phải tiến hành những nghiên cứu xác định lợi
ích của phương thức cung cấp năng lượng/protein tối ưu đối với
những bệnh nhân có nguy cơ tử vong và nguy cơ suy dinh dưỡng
cao trước khi bị bệnh.
Phoøng choáng stress (Stress prophylaxis)ôû
nhöõng beänh nhaân ñieàu trò tích cöïc vaø vai troø
cuûa vieäc cho aên baèng oáng thoâng
Taïp chí JPEN J Parenter Enteral Nutr, ngaøy 12 thaùng 3 naêm 2012
(AÁn phaåm tröôùc khi in)
Hurt RT, Frazier TH, McClave SA, Crittenden NE, Kulisek C, Saad M,
Franklin GA. Mayo Clinic, Rocheste, Minnesota vaø Ñaïi hoïc Louisville,
Louisville, Kentucky, Myõ
Người ta đã chứng minh rằng sự suy kiệt (depletion) glutamine là
một dấu hiệu tiên lượng tử vong độc lập ở những bệnh nhân nằm
tại khoa chăm sóc tích cực. Hiện nay việc bổ sung glutamine được
khuyên dùng cho các bệnh nhân được chăm sóc tích cực được cho
ăn qua truyền tĩnh mạch. Ngoài glutamine, glutathione có thể là
yếu tố hạn chế đối với các bệnh nhân suy đa tạng được chăm sóc
tích cực. Một nghiên cứu quan sát đã được tiến hành để nghiên cứu
sự phổ biến của suy kiệt glutamine và glutathione. Kết quả được
phân tích dựa trên tỉ lệ tử vong và các dấu hiệu tiên lượng tử vong
thông thường, thang điểm APACHE II đánh giá mức độ nặng của
bệnh nhân khi nhập khoa chăm sóc tích cực và thang điểm SOFA
lượng giá trình tự suy cơ quan. Nghiên cứu được tiến hành trên
những bệnh nhân liên tiếp được nhận vào khoa chăm sóc tích cực
tại bệnh viện Huddinge, đại học Karolinska. Điểm đánh giá
APACHE II và SOFA của bệnh nhân khi nhập khoa chăm sóc tích
cực cũng như tỉ lệ tử vong đã được ghi lại trong 6 tháng. Nồng độ
glutamine huyết tương và tình trạng glutathione máu toàn phần
khi nhập viện đã được phân tích. Nồng độ glutamine huyết tương
khi nhập viện không có mối liên quan gì với các tiêu chuẩn đánh
giá nguy cơ thông thường khi nhập viện và hàm lượng thấp hơn
bình thường là dấu hiệu tiên lượng tử vong. Thêm vào đó, trạng
thái oxi hóa/khử của glutathione cũng là một dấu hiệu tiên lượng
tử vong độc lập nhưng ở đây một tỉ lệ bình thường là yếu tố nguy
cơ. Ở cả 2 trường hợp, nguy cơ tử vong chủ yếu rơi vào giai đoạn
sau khi bệnh nhân đã rời khỏi khoa chăm sóc tích cực. Nồng độ
glutamine huyết tương thấp khi nhập khoa chăm sóc tích cực là
một yếu tố nguy cơ độc lập tiên lượng tử vong sau giai đoạn điều
trị tại khoa chăm sóc tích cực. Lợi ích có thể mang lại nhờ việc bổ
sung glutamine kéo dài sau khi bệnh nhân rời khỏi khoa chăm sóc
tích cực nên được đánh giá một cách lâu dài/ theo thời gian.
I
Ù É À
Õ
T
O
M
T
A
T
V
E
D
N
H
D
Ö
Ô
N
G
L
A
M
S
A
N
G
 Ø
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
Trong 20 năm qua, việc dùng liệu pháp ức chế acid (acid-
suppressive therapy -AST) để phòng tránh bệnh viêm trợt xung
huyết dạ dày ở những bệnh nhân ở khoa chăm sóc tích cực tăng rất
nhanh. Những trường hợp chỉ định dùng liệu pháp AST bao gồm
những bệnh nhân cần dùng máy thở, xuất huyết đường tiêu hoá,
bỏng nặng và chấn thương đầu.
Tuy được giới hạn chỉ định trong những trường hợp nói trên,
nhưng chất ức chế bơm proton (PPI) vẫn thường hay được kê quá
nhiều để chống stress. Máu đến các niêm mạc giảm dẫn tới thiếu
máu cục bộ ở mô được cho là cơ chế gây ra bệnh lý dạ dày do
stress. Tiếp đó, việc kích hoạt yếu tố gây viêm và yếu tố gây co
mạch quyết định mức độ nặng của bệnh dạ dày. Nhiều nghiên cứu
cơ bản đã gợi ý rằng cho ăn bằng ống thông (CAOT) có thể cải
thiện lượng máu đến niêm mạc và giúp đảo ngược quá trình gây
viêm này. Tuy nhiên các nghiên cứu lâm sàng đánh giá hiệu quả
của CAOT so với việc dùng chất ức chế acid cho các kết quả rất
khác nhau (cho đến nay vẫn chưa có các nghiên cứu lâm sàng đối
chứng ngẫu nhiên). Trong những trường hợp có tăng tiết như chấn
thương ở đầu và bị bỏng, nên dùng chất ức chế acid (AST) ngay cả
đối với bệnh nhân dung nạp CAOT. Trong trường hợp không có
tăng tiết, nên tránh hoặc dừng dùng thuốc ức chế acid đối với bệnh
nhân dung nạp CAOT. Không nên tiếp tục dùng thuốc chống
stress đối với bệnh nhân không có những chỉ định rõ ràng cho việc
dùng. Nếu bệnh nhân dùng CAOT để chống stress bị xuất huyết
tiêu hóa rõ rệt thì nên bắt đầu cho dùng thuốc ức chế bơm proton
PPIs. Cần có những nghiên cứu có đối chứng ngẫu nhiên để đánh
giá hiệu quả của CAOT trong phòng tránh loét dạ dày do stress.
Nên thiết lập các qui trình nhắc nhở đội ngũ chăm sóc sức khỏe
xem xét việc dừng dùng thuốc ức chế acid, đặc biệt khi mà việc
cho ăn bằng ống thông là phù hợp với bệnh nhân.
á
Cho aên qua truyeàn tónh maïch vaø cung caáp
naêng löôïng ôû khoa chaêm soùc tích cöïc: Vaán ñeà
coøn baøn caõi, ñaõ roõ raøng, hay phaûi keâu goïi
haønh ñoäng
Taïp chí Curr Opin Crit Care 2012, thaùng 4 naêm 2012;18(2):164-173.
Wischmeyer P.
Khoa lieäu phaùp dinh döôõng, tröôøng Y thuoäc Ñaïi hoïc Colorado,
Aurora, Colorado, Hoa Kyø.
MỤC ĐÍCH CỦA BÀI TỔNG QUAN : bài tổng quan này nêu
bật những dữ liệu hiện có đánh giá vai trò của nuôi dưỡng qua
Kieåm soaùt nhöõng tröôøng hôïp khoâng thích öùng
vôùi caùch cho aên baèng oáng thoâng daï daøy:
moät khaûo saùt caáp Quoác gia
Taïp chí Am J Crif Care thaùng 3 naêm 2012;21(2):e33-e40
Metheny NA, Mills AC, Stewart BJ.
Tröôøng ñaøo taïo Y taù Ñaïi hoïc Saint Louis, St Louis, Missouri, Myõ;
Ñaïi hoïc Khoa hoïc vaø Söùc khoûe Oregon, Hoa Kyø.
giảm bớt khi được phát hiện và điều trị sớm. Có mối tương
tác chặt chẽ giữa sự phát triển của những bệnh nặng, các
phản ứng viêm liên quan, cách điều trị ở các khoa chăm sóc
tích cực với chăm sóc dinh dưỡng. TÓM LẠI: chế độ dinh
dưỡng an toàn và hiệu quả chỉ có thể đạt được khi chức năng
tiêu hóa và sự dung nạp chuyển hóa chất dinh dưỡng
(metabolic tolerance of nutrients) được đánh giá một cách
thường xuyên.
ø
à
â
é
e
v
t
a
t
õ
ù
m
o
T
g
n
a
s
m
a
l
g
n
ô
ö
d
h
n
i
d
CƠ SỞ: Những lúng túng trong việc đánh giá mức độ phù hợp
của phương pháp nuôi dưỡng bệnh nhân thường đưa đến việc
dừng cho bệnh nhân ăn một cách không cần thiết. MỤC TIÊU:
thông báo những kết quả của một cuộc khảo sát cấp quốc gia về
những phương pháp đánh giá mức độ dung nạp cho ăn bằng
ống thông dạ dày đối với các bệnh nhân tại khoa chăm sóc tích
cực và bàn luận về những kết quả này dựa trên các hướng dẫn
hiện tại về cho ăn bằng ống thông (CAOT).
PHƯƠNG PHÁP: mẫu phiếu điều tra trên giấy được gửi qua
bưu điện đến 1.909 thành viên của hội y tá chăm sóc tích cực
Hoa Kỳ. Thêm vào đó, mẫu phiếu điều tra cũng được đưa lên
mạng internet trong một bản tin gửi đến tất cả các thành viên
của hội. Số liệu được phân tích dựa trên kết quả thu được từ cả
2 cách khảo sát qua thư và trực tuyến. KẾT QUẢ: nghiên cứu
thu được tổng số 2298 phản hồi; Hầu hết các phản hồi đều cho
biết có dùng kết hợp các phương pháp đánh giá mức độ dung
nạp cho ăn bằng ống thông dạ dày của bệnh nhân (nghe tiếng
ruột, đo thể tích còn lại trong dạ dày, quan sát hiện tượng căng
cứng/ khó chịu ở vùng bụng, cảm giác buồn nôn và nôn). Hơn
97% số y tá trả lời có đo thể tích còn lại trong dạ dày; ngưỡng
được dùng nhiều nhất để quyết định dừng cho ăn là 200ml và
250ml. Khoảng 25% y tá trả lời đã dừng cho ăn khi thể tích còn
lại trong dạ dày là 150ml hay ít hơn. Chỉ có 12,6% y tá trả lời là
họ dừng cho ăn khi thể tích còn lại trong dạ dày lớn tới 500ml.
KẾT LUẬN: thực hành lâm sàng của 2298 y tá rất khác nhau.
Rất nhiều y tá trong điều tra có thể đã giảm cung cấp năng
lượng cho bệnh nhân một cách không cần thiết. Cần phải xây
dựng các qui trình dựa trên các hướng dẫn hiện tại về CAOT để
đưa vào sử dụng trong thực tế.
Keát hôïp cho aên baèng oáng thoâng vaø cho aên qua
truyeàn tónh maïch
Taïp chí Curr Opin Clin Nutr Metab Care thaùng 3 naêm 2012;15(2):161-165
Wernerman J.
Khoa gaây meâ hoài söùc tim maïch vaø chaêm soùc tích cöïc,
Beänh vieän Huddinge, Ñaïi hoïc Karolinska, Stockholm, Thuïy Ñieån.
MỤC ĐÍCH CỦA BÀI TỔNG QUAN: xem xét lại và thảo
luận những chứng cứ và tranh cãi trong việc kết hợp cho ăn
bằng ống thông (CAOT) và cho ăn qua truyền tĩnh mạch
(CATM) ở khoa chăm sóc tích cực, đặc biệt về nghiên cứu
việc cho ăn sớm qua truyền tĩnh mạch sau đó cho ăn qua ống
thông ở những bệnh nhân nặng trưởng thành (EPaNIC)
(Early Parenteral Nutrition Completing Enteral Nutrition
in Adult Critically Ill Patients). NHỮNG PHÁT HIỆN
MỚI: Nghiên cứu EPaNIC cho thấy một ưu điểm về số
lượng những bệnh nhân còn sống sau khi rời khỏi khoa điều
trị tích cực khi CATM bị trì hoãn đến ngày thứ 8 so với việc
kết hợp giữa CAOT và CATM từ ngày thứ 3 sau khi nhập
khoa chăm sóc tích cực. TÓM TẮT: sự khác biệt giữa
những hướng dẫn của hiệp hội CAOT và CATM Châu Âu
và những hướng dẫn của hiệp hội CAOT và CATM/ Hiệp
hội y học chăm sóc tích cực Bắc Mỹ về việc kết hợp giữa
CAOT và CATM trong tuần đầu tiên ở khoa chăm sóc tích
cực đã được xem xét lại. Nghiên cứu EPaNIC đã chỉ rõ
CATM sớm tại khoa chăm sóc tích cực không phải là lựa
chọn tốt nhất cho phần lớn bệnh nhân. Thời điểm chính xác
nên kết hợp giữa CAOT và CATM vẫn là câu hỏi chưa có
lời giải.
Nhieãm truøng maùu sau gheùp gan töø ngöôøi
cho coøn soáng: aûnh höôûng cuûa vieäc cho aên
qua oáng thoâng sôùm
Ñaùnh giaù nguy cô dinh döôõng taïi khoa
chaêm soùc tích cöïc
Taïp chí Curr Opin Clin Nutr Care thaùng 3 naêm 2012;15(2):174-180
Hiesmayr M.
Khoa gaây meâ hoài söùc tim maïch vaø chaêm soùc tích cöïc,
Ñaïi hoïc Y, Vienna, AÙo.
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø Â
I
Õ
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
T
M
O
T
Taïp chí J Am Coll Surg thaùng 3, 2012;214(3):288-295
Ikegami T, Shirake K, Yoshiya S, Yoshizumi T, Ninomiya M, Uchiyama H,
Soejima Y, Maehara Y.
Boä moân Khoa hoïc vaø Giaûi phaãu. Khoa sau Ñaïi hoïc veà Khoa hoïc Y hoïc,
Ñaïi hoïc Kyushu Fukuoka, Nhaät Baûn.
CƠ SỞ: Nhiễm trùng máu là một vấn đề quan trọng cần phải
được giải quyết sau khi ghép gan từ người cho còn sống (living
donor liver transplantation – LDLT). THIẾT KẾ NGHIÊN
CỨU: một phân tích hồi cứu 346 trường hợp LDLT từ người
lớn cho người lớn đã được tiến hành. KẾT QUẢ: 46 bệnh nhân
(13,3%) bị nhiễm trùng máu trong đó 23,9% là nguyên phát
(primary origin) và 76,1% là thứ phát (secondary origin).
71,7% lượng vi khuẩn phân lập được là vi khuẩn gram âm. Tỉ
lệ gan ghép hoạt động chức năng trong 2 năm (2-year
cumulative graft survival rate) ở bệnh nhân bị nhiễm trùng
máu là 45,7%. Bệnh nhân bị nhiễm trùng máu do viêm phổi
(n=12) có tỉ lệ gan ghép hoạt động chức năng sau 2 năm thấp
hơn (16,7%) so với tỷ lệ này ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng
máu nguyên phát hay các dạng thứ phát khác (p=0.004). Phân
tích đa biến (multivariate analysis) cho thấy việc bệnh nhân bị
mất một lượng máu lớn > 10L (p<0,001) trong quá trình phẫu
thuật và việc không cho ăn bằng ống thông trong 48 giờ sau
ghép (p=0.005) là các nhân tố nguy cơ bị nhiễm trùng máu
MỤC ĐÍCH CỦA BÀI TỔNG QUAN: đánh giá nguy cơ dinh
dưỡng có tầm quan trọng lớn để xác định được những bệnh
nhân có thể hưởng lợi từ những can thiệp dinh dưỡng nhằm
tránh tình trạng bệnh nhân ở chế độ chăm sóc tích cực bị đói và
tránh tác dụng phụ của việc chăm sóc dinh dưỡng. Vẫn chưa có
các hướng dẫn một cách đầy đủ về việc đánh giá nguy cơ dinh
dưỡng của chế độ chăm sóc tích cực.
CÁC PHÁT HIỆN MỚI: nhiều bệnh nhân được nhận vào đơn
vị chăm sóc tích cực đã bị thiếu hụt dinh dưỡng liên quan đến
bệnh cấp tính và mạn tính. Đa phần những bệnh nhân không
thể lấy lại lượng dinh dưỡng đầy đủ qua đường miệng trong vài
ngày sẽ bị giảm cân do giảm khối tế bào gây ra bởi phản ứng
viêm nặng kéo dài và sự thiếu hụt thức ăn đưa vào. Tất cả các
bệnh nhân nằm ở khoa chăm sóc tích cực nhiều hơn 1-2 ngày
đều cần có trợ giúp về dinh dưỡng, cần được kiểm soát sát sao
và được đánh giá nguy cơ rủi ro. Đánh giá nguy cơ rủi ro phải
được duy trì liên tục suốt thời gian ở khoa chăm sóc tích cực để
quản lý tốt những rủi ro liên quan đến bệnh tật và chăm sóc
dinh dưỡng. Nhiều bệnh nhân có nguy cơ bị hội chứng sau nuôi
ăn (refeeding syndrome), bị những rối loạn nhu động nặng và
cuối cùng là bị chứng khó nuốt sau khi tháo ống. Hậu quả
nghiêm trọng của việc tăng áp lực ổ bụng cũng có thể được
À É Ù
khi ăn qua ống thông trong 48 giờ (n=135) hay muộn hơn 48
giờ (n=57) tương ứng là 5,9% và 21% (p=0,002). Tỷ lệ bị thải
loại gan ghép sớm cao hơn 8 lần ở những bệnh nhân ghép gan
bị chảy máu ồ ạt trong quá trình phẫu thuật không được cho ăn
sớm bằng ống thông (p<0.001). KẾT LUẬN: cho ăn sớm bằng
ống thông có liên quan đến sự giảm đáng kể nguy cơ bị nhiễm
trùng máu sau khi ghép gan từ người cho sống.
ù
õ
T
o
m
é
â
t
a
t
v
e
à
ø
d
i
n
h
d
ö
ô
n
g
l
a
m
s
a
n
g
ngày đầu. Sau ngày thứ 6, chế độ ăn cho tất cả bệnh nhân còn
phải dùng máy thở được điều chỉnh theo qui trình cho ăn đầy đủ.
CHỈ SỐ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CHÍNH (MAIN OUTCOME
MEASURES): số ngày không phải dùng máy thở tính đến ngày
thứ 28 của nghiên cứu. KẾT QUẢ: những thông số ban đầu
(trước thử nghiệm) (baseline characteristics) là giống nhau
giữa nhóm ăn ít một (n=508) và ăn đầy đủ (full feeding)
(n=492). Nhóm ăn đầy đủ nhận được nhiều năng lượng hơn
trong 6 ngày đầu (sau thử nghiệm), khoảng 1300kcal/ngày so
với 400 kcal/ngày (p<0,001). So với ăn đầy đủ, ăn ít một không
làm tăng số ngày không phải sử dụng máy thở (14,9
[95% CI, 13,9 đến 15,8] so với 15,0 [95% CI, 14,1 đến 15,9];
khác nhau là -0,1 [95% CI, -1.4 đến 1.2]; P = 0.89) cũng như
làm giảm tỉ lệ tử vong trong 60 ngày (60-day mortality) (23.2%
[95% CI, 19.6% đến 26.9%] so với 22.2% [95% CI, 18.5% đến
25.8%]; khác nhau là 1.0% [95% CI, -4.1% đến 6.3%]; P =
0.77). Không có sự khác biệt về những biến chứng viêm giữa
các nhóm. Mặc dù nhận được nhiều chất kích thích nhu động
(prokinetic agients) hơn, nhóm ăn đầy đủ bị nôn nhiều hơn
(2.2% so với 1.7% số ngày cho bệnh nhân ăn; P = 0.05), tăng thể
tích còn lại trong dạ dày (4.9% so với 2.2% số ngày cho ăn P <
0.001) và hay bị táo bón hơn (3.1% so với 2.1% số ngày cho ăn;
P = 0.003). Nhóm ăn đầy đủ cũng có giá trị đường huyết trung
bình và lượng insulin đưa vào trung bình hàng giờ cao hơn
trong 6 ngày đầu. KẾT LUẬN: đối với bệnh nhân bị thương tổn
phổi cấp tính, cách cho ăn ít một qua ống thông trong 6 ngày đầu
không làm tăng số ngày không phải dùng máy thở, không làm
giảm tỉ lệ tử vong trong 60 ngày và các biến chứng viêm so với
việc cho ăn đầy đủ bằng ống thông nhưng nó có mối liên quan
với việc giảm hiện tượng không dung nạp tiêu hóa. ĐĂNG KÍ
THỬ NGHIỆM: clinicaltrials.gov Identiers: NCT00609180
and NCT00883948.
Dinh döôõng mieãn dòch ôû beänh nhaân
ñieàu trò ngoaïi khoa
Taïp chí Minerva Anestesiol thaùng 3 naêm 2012;78(3):336-342
Marik PE, Flemmer M.
Khoa y hoïc hoâ haáp vaø chaêm soùc tích cöïc, dinh döôõng tích cöïc,
Tröôøng y Eastern Virginia I, Norfolk, Virginia, Hoa Kyø.
Cả suy dinh dưỡng và tổn thương thực thể liên quan đến chấn
thương và phẫu thuật đều làm tăng biểu hiện của bạch cầu T-
helper 2 (Th2) gây suy giảm miễn dịch tế bào (impaired cell
mediated immunity).
Sự hoạt hóa trục dưới đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận và hệ
thống thượng thận giao cảm cùng với sự giải phóng cortisol và
các cathecholamine thúc đẩy sự phát triển tế bào Th2. Th2
cytokine gây ra sự tích lũy các tế bào ức chế có nguồn gốc
myeloid biểu hiện arginase-1 (arginase-1 expressing myeloid-
derived suppressor cells) ở mô bạch huyết. Tế bào ức chế có
nguồn gốc myeloid gây ra tình trạng thiếu hụt arginine dẫn đến
suy giảm chức năng của bạch cầu. Prostaglandin –E2 được tạo
ra sau khi bị chấn thương có vai trò cộng hưởng (synergetic
role) với cortisol và cathecholamine trong việc tạo ra những
con đường này. Hiện nay ngày càng có nhiều bằng chứng cho
thấy việc bổ sung arginine và acid béo omega -3 vào thức ăn
qua ống thông có thể làm đảo ngược nhiều thay đổi do hệ miễn
dịch gây ra và làm giảm các kết quả không mong muốn sau đại
phẫu và chấn thương. Đối với các bệnh nhân trải qua đại phẫu
và những bệnh nhân có chấn thương nghiêm trọng rất cần phải
cân nhắc những thành phần dinh dưỡng có tác dụng lên hệ
miễn dịch được cung cấp qua ống thông.
Cho aên löôïng nhoû ban ñaàu baèng oáng thoâng so
vôùi cho aên ñaày ñuû (khaåu phaàn) baèng oáng thoâng
ôû nhöõng beänh nhaân bò toån thöông phoåi caáp tính:
thöû nghieäm ngaãu nhieân EDEN
Tình traïng thieáu Vitamin D naëng hôn vaø moái lieân
quan cuûa noù vôùi thôøi gian ñieàu trò, chi phí ñieàu
trò vaø tyû leä vong ôû nhöõng beänh nhaân ñieàu trò taïi
ñôn vò chaêm soùc tích cöïc ngoaïi khoa
Taïp chí Am J Surg, ngaøy 9 thaùng 2 naêm 2012
(AÁn phaåm ñieän töû tröôùc khi in)
Matthews LR, Ahmed Y, Wilson KL, Griggs DD, Danner OK.
Tröôøng Y Morehouse; Boä moân phaãu thuaät,
Atlanta, Georgia, Hoa Kyø.
Taïp chí JAMA thaùng 2 naêm 2012.22;307(8):795-803.
Vieän tim, phoåi vaø huyeát hoïc Quoác gia; Maïng löôùi thöû nghieäm laâm saøng veà
hoäi chöùng suy hoâ haáp caáp (ARDS).
Rice TW, Wheeler AP, Thompson BT, Steingrub J, Hite RD, Moss M,
Moris A, Dong N, Rock P.
I
2
Ù É À
Õ
T
O
M
T
A
T
V
E
D
N
H
D
Ö
Ô
N
G
L
A
M
S
A
N
G
 Ø
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
TÌNH HUỐNG (CONTEXT): Người ta chưa biết lượng dinh
dưỡng cần thiết phải cung cấp qua ống thông cho bệnh nhân bị
tổn thương phổi cấp tính là bao nhiêu. MỤC ĐÍCH: xác định
xem so với việc cho ăn bằng ống thông đầy đủ (khẩu phần)
ngay từ đầu, việc cho ăn lượng nhỏ ban đầu qua ống thông có
thể làm tăng số ngày không cần dùng máy thở và làm giảm sự
không dung nạp tiêu hóa hay không.
THIẾT KẾ, XÂY DỰNG NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG
THAM GIA: nghiên cứu EDEN, một thử nghiệm ngẫu nhiên,
nhãn mở có sự tham gia của nhiều trung tâm, đã được tiến hành
từ ngày 2 tháng 1 năm 2008 đến 12 tháng 4 năm 2011. Tham
gia vào thử nghiệm này bao gồm 1000 người trưởng thành
đang trong 48 tiếng có diễn tiến tổn thương phổi cấp tính cần
dùng máy thở được bác sĩ điều trị dự kiến bắt đầu cho ăn bằng
ống thông ở 44 bệnh viện thuộc mạng lưới thử nghiệm lâm
sàng về hội chứng hô hấp cấp (ARDS) của Viện tim, phổi và
huyết học quốc gia. CAN THIỆP: người tham gia được chọn
một cách ngẫu nhiên vào nhóm ăn ít (trophic enteral feeding)
hoặc nhóm ăn đầy đủ (full feeding ) bằng ống thông trong 6,
CƠ SỞ: thiếu hụt vitamin D là loại thiếu hụt dinh dưỡng thường
gặp nhất ở Hoa Kỳ. Thiếu hụt vitamin D rất ít khi được đo lường
hay biết đến, hiếm khi được chữa trị, đặc biệt là ở những bệnh
nhân nặng. Mục đích của nghiên cứu này là để điều tra mức độ
phổ biến và ảnh hưởng của sự thiếu hụt vitamin D ở những bệnh
nhân điều trị tại đơn vị chăm sóc tích cực ngoại khoa. Chúng tôi
đã giả thiết là sự thiếu hụt vitamin D trầm trọng làm tăng thời
gian điều trị, tỉ lệ tử vong và chi phí điều trị ở những bệnh nhân
bệnh nặng được điều trị tại các đơn vị chăm sóc đặc biệt.
PHƯƠNG PHÁP: chúng tôi thực hiện một nghiên cứu quan sát
dọc theo thời gian về tình trạng vitamin D của 258 bệnh nhân
liên tiếp được nhận vào đơn vị chăm sóc tích cực ngoại khoa tại
bệnh viên Gray Memorial từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 1 năm
2010. Hàm lượng vitamin D (25 [OH] vitamin D3) được xác
định bằng máy sắc ký lỏng cao áp và máy phân tích khối phổ
kép (tandem mass spectrometry). Tình trạng thiếu vitamin D
được xác định như sau: thiếu trầm trọng khi hàm lượng <13
ng/mL; thiếu trung bình (moderate deciency): 14-26ng/ml;
thiếu nhẹ (mild deciency): 27-39ng/ml; bình thường:
>40ng/ml. KẾT QUẢ: trong 258 bệnh nhân được đánh giá có
70.2% (181) nam, 29.8% (77) nữ; 57.6% (148) là người Mỹ gốc
Phi và 32.4% (109) là người da trắng. Tổng số có 138 (53.5%)
bệnh nhân bị thiếu vitamin D trầm trọng, 96 (37.2%) bệnh nhân
á
Ñaùnh giaù ñieàu trò suy dinh döôõng trong thöïc
haønh laõo khoa ôû Haø Lan: söï ñoàng thuaän ñaït
ñöôïc töø moät nghieân cöùu Delphi caûi bieán
Taïp chí Age Ageing, thaùng 5 naêm 2012; 41(3):399-404.
van Asselt DZ, van Bokhorst-de van der Schueren MA, van der Cammen TJ,
Disselhorst LG, Janse A, Lonterman-Monasch S, Maas HA, Popescu ME,
Schölzel- Dorenbos CJ, Sipers WM, Veldhoven CM, Wijnen HH, Olde Rikkert MG.
Y hoïc ngöôøi cao tuoåi; Trung taâm y teá Leeuwarden, Leeuwarden, Haø Lan.
ø
à
â
é
e
v
t
a
t
õ
ù
m
o
T
g
n
a
s
m
a
l
g
n
ô
ö
d
h
n
i
d
thiếu trung bình, 18 (7%) bệnh thiếu hụt nhẹ và 3 bệnh nhân
(1,2%) có hàm lượng vitamin D bình thường. Thời gian điều trị
trung bình tại khoa điều trị tích cực của nhóm bị thiếu hụt
vitamin D trầm trọng là 13.33 ± 19.5 ngày so với thời gian điều
trị của bệnh nhân thiếu hụt trung bình và thiếu nhẹ tương ứng là
7.29 ± 15.3 ngày và 5.17 ± 6.5 ngày (P=0,002). Chi phí trung
bình cho việc nằm điều trị ở đơn vị chăm sóc tích cực ngoại
khoa là $51.413,33 ± $75.123,00 cho nhóm thiếu hụt vitamin
D trầm trọng, $28.123,65 ± $59.752,00 cho nhóm thiếu hụt
trung bình và $20.414,11 ± $25.714,30 cho nhóm thiếu hụt nhẹ
(P = 0.027). Quan trọng hơn là tỉ lệ tử vong của nhóm thiếu hụt
vitamin D trầm trọng là 17 (12,3%) so với 11 (11,5%) của nhóm
thiếu hụt trung bình (P = 0.125). Vì không có trường hợp tử
vong nào ở nhóm thiếu hụt vitamin D nhẹ hay bình thường nên
chúng tôi so sánh tỉ lệ tử vong của nhóm thiếu hụt trầm
trọng/thiếu trung bình với nhóm thiếu hụt nhẹ/bình thường (P =
0.047). KẾT LUẬN: Trong phân tích đơn biến, tình trạng thiếu
Vitamin D nặng và trung bình có liên quan nghịch chiều với
thời gian điều trị ở đơn vị điều trị tích cực ngoại khoa (r = 0.194;
P = 0.001), với chi phí điều trị (r = 0.194; P = 0.001) và tỉ lệ chết
(r = 0.125; P = 0.023). Với nhóm thiếu vitamin D nhẹ, sau khi
hiệu chỉnh theo tuổi, giới, chủng tộc, và các bệnh đi kèm (nhồi
máu cơ tim, suy thận cấp, và viêm phổi) thì thời gian nằm viện,
chi phí điều trị tại đơn chăm sóc tích cực ngoại khoa và tỷ lệ tử
vong vẫn có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng
thiếu vitamin D.
LÃO KHOA
Xaùc ñònh suy dinh döôõng ôû ngöôøi cao tuoåi trong
thöïc haønh chaêm soùc beänh nhaân: Ñaùnh giaù dinh
döôõng quy moâ nhoû (MNA®) moät phöông phaùp
saøng loïc döïa treân baèng chöùng
Taïp chí J Gerontol Nurs, thaùng 3 naêm 2012; 38(3):18-27
Skates JJ, Anthony PS.
MỤC TIÊU: có rất ít dữ liệu khoa học liên quan đến phương
thức quản lý tối ưu tình trạng suy dinh dưỡng ở bệnh nhân cao
tuổi. Mục tiêu của chúng tôi là đưa ra được những giải pháp
thống nhất cho thực hành lão khoa ở bệnh viện liên quan đến 6
vấn đề: (i) định nghĩa về suy dinh dưỡng; (ii) sàng lọc và đánh
giá; (iii) điều trị và theo dõi; (iv) vai trò và trách nhiệm của các
chuyên gia chăm sóc sức khỏe có liên quan; (v) liên hệ và phối
hợp chăm sóc giữa bệnh viện và các chuyên gia chăm sóc sức
khỏe cộng đồng (vi) những tiêu chí chất lượng quản lý suy dinh
dưỡng. THIẾT KẾ: nghiên cứu Delphi cải tiến. PHƯƠNG
PHÁP: 11 bác sĩ lão khoa đặc biệt quan tâm đến vấn đề suy dinh
dưỡng đã tham gia vào nghiên cứu. Sau 4 vòng câu hỏi, các
chuyên gia đánh giá tính thích hợp của 204 ý kiến dựa trên một
bài tổng quan dùng thang đo Likert 5 điểm. Từ những câu trả
lời, người ta đã tính toán các giá trị trung bình và các khoảng tin
cậy 95% CIs. Các chuyên gia thống nhất lấy giới hạn dưới của
khoảng tin cậy 95% ≥ 4. KẾT QUẢ: các chuyên gia nhất trí
rằng suy dinh dưỡng nên được coi là một hội chứng tuổi già.
Trạng thái dinh dưỡng nên được đánh giá bằng phương pháp
MNA kết hợp với phương pháp đánh giá lão khoa toàn diện.
Can thiệp dinh dưỡng nên được kết hợp với những can thiệp
nhằm vào nguyên nhân. Người ta đã thống nhất được những
mục tiêu cụ thể của liệu pháp dinh dưỡng và cách thức để đạt
được các mục tiêu này. Theo các chuyên gia, để điều trị suy dinh
dưỡng một cách tốt nhất cần phải có sự phối kết hợp của các nhà
chuyên môn thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đó vai trò và
trách nhiệm của từng cá nhân được xác định cụ thể. Khi bệnh
nhân xuất viện, cần phải cung cấp hồ sơ bao gồm các thông tin
về các vấn đề dinh dưỡng, kế hoạch và mục đích điều trị cho
bệnh nhân, điều dưỡng viên, và các chuyên gia chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng. KẾT LUẬN: kết quả này cho thấy một nghiên
cứu định tính dựa trên kĩ thuật Delphi cải biến có thể mang lại
sự đồng thuận ở cấp quốc gia về những điểm căn bản trong
hướng dẫn thực hành đánh giá suy dinh dưỡng ở những bệnh
nhân cao tuổi.
á
Nhaän xeùt veà maâu ñieàu tra dinh döôõng daïng
ngaén ñaùnh giaù tình traïng dinh döôõng qui moâ nhoû
(MNA-SF) ôû caùc beänh nhaân cao tuoåi taïi caùc vieän
döôõng laõo ôû Taây Ban Nha
Taïp chí Nutr Hosp , thaùng 12 naêm 2011; 26(6):1350-1354
de Luis DA, Loùpez Mongil R, Gonzaùles Sagrado M, Loùpez Trigo JA
Mora PF, Castrodeza Sanz J;
Nhoùm NOVOMET; Vieän noäi tieát vaø dinh döôõng; Boä moân ñieàu tra
(Unit of Investigation). Khoa Y; Ñaïi hoïc Valladolid, Valiadolid, Taây Ban Nha.
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø Â
I
Õ
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
T
M
O
T
MỞ ĐẦU: trong nghiên cứu này, chúng tôi đánh giá một MNA-
SF trong một nghiên cứu có sự tham gia của nhiều trung tâm và
mối liên quan giữa các chỉ thị sinh hóa khác nhau với điểm đánh
giá của MNA-SF. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU: đây là điều tra cắt ngang trên một mẫu đại diện
cho nhóm người cao tuổi (hơn 65 tuổi) tại các viện dưỡng lão
Tây ban nha (n=873). Người ta đã sử dụng mẫu MNA-SF cho
cuộc điều tra này. KẾT QUẢ: số bệnh nhân được xếp vào nhóm
được nuôi dưỡng tốt chiếm 42,1% số đối tượng nghiên cứu.
Trong đó, phổ biến hơn cả là các bệnh nhân nằm trong nhóm
tuổi 65-74 (chiếm tỷ lệ 52,6%). Tỷ lệ bệnh nhân được xếp vào
nhóm được nuôi dưỡng tốt thấp hơn ở các nhóm tuổi còn lại,
Suy dinh dưỡng protein – năng lượng (PCM-Protein calorie
malnutrition) rất hay gặp và thường không được phát hiện ở
bệnh nhân cao tuổi. Khi không được điều trị, PCM dẫn đến các
nguy cơ lâm sàng và tài chính bao gồm việc làm giảm chất
lượng cuộc sống, giảm các hoạt động chức năng, không có khả
năng sống độc lập và làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe. Tỷ lệ
lưu hành PCM ở những người cao tuổi cho thấy cần phải có một
phương pháp hệ thống và qui chuẩn để sàng lọc tình trạng dinh
dưỡng trong đó có sử dụng công cụ sàng lọc đã được kiểm định.
Được giới thiệu bởi các tổ chức quốc tế, đánh giá dinh dưỡng
quy mô nhỏ (MNA) là phương pháp có tính đặc hiệu và độ tin
cậy cao và là phương cách sàng lọc dinh dưỡng đã được kiểm
định tốt nhất cho người già tuổi từ 65 trở lên. Đơn giản, không
xâm lấn, chi phí không cao và dễ thực hiện đối với các y tá và
các thầy thuốc lâm sàng, phương pháp đánh giá dinh dưỡng tối
thiểu mẫu điều tra dinh dưỡng dạng ngắn (MNA-SF) mới nhất
có thể giúp nhanh chóng và dễ dàng tìm ra những người già có
nguy cơ bị suy dinh dưỡng. Y tá đóng vai trò quyết định cho sự
thành công của các sàng lọc suy dinh dưỡng được thực hiện ở
bệnh viện, trong quá trình chăm sóc lâu dài, chăm sóc tại nhà
cũng như trong các chương trình chăm sóc dựa trên cộng đồng.
Người ta khuyến cáo mạnh mẽ các y tá nên sử dụng mẫu MNA-
SF mới nhất trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe cho người cao
tuổi.
À É Ù
bao gồm nhóm 75-84 tuổi (40,2%), nhóm 85–94 tuổi (43,8%)
và nhóm >95 tuổi (24%). Nguy cơ thiếu dinh dưỡng xuất hiện
ở 506 bệnh nhân (57,9%), trong đó, nguy cơ thiếu dinh dưỡng ở
nhóm >95 tuổi (76%) cao hơn các nhóm 65-74 tuổi (47,4%),
75-84 tuổi (59,8%) và 85-94 tuổi (56,2%). Không thấy có sự
khác biệt giữa nam và nữ về nguy cơ bị thiếu dinh dưỡng (odds
ratio: 0.85; CI 95%: 0.64–1.12). KẾT LUẬN: trong nghiên cứu
này, test dùng mẫu điều tra dinh dưỡng dạng ngắn đánh giá tình
trạng dinh dưỡng qui mô nhỏ MNA-SF cho thấy những bệnh
nhân cao tuổi của các viện dưỡng lão có nguy cơ bị suy dinh
dưỡng rất cao.
LIỆU PHÁP DINH DƯỠNG
Vai troø cuûa nucleotide trong heä tieâu hoùa vaø
mieãn dòch: caùc öùng duïng laâm saøng tieàm naêng
Nutr Clin Pract 2012 Apr;27(2):281-294.
Hess JR, Greenberg NA.
Trung taâm Nghieân cöùu vaø Phaùt trieån dinh döôõng cuûa Nestleù,
Minnetonka, Minnesota, USA.
của nghiên cứu là tìm hiểu khái niệm tiêu chảy trong quá trình
cho ăn bằng ống thông của các bệnh nhân, y tá và bác sĩ dinh
dưỡng, thái độ của họ về vấn đề này cũng như các phương thức
điều trị của y tá và bác sĩ dinh dưỡng. PHƯƠNG PHÁP: Người
ta đã phỏng vấn 22 bệnh nhân được cho ăn bằng ống thông, 57 y
tá, 33 bác sĩ dinh dưỡng trong một nghiên cứu cắt ngang sử
dụng bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên những tổng quan kỹ
lưỡng từ y văn và đã được thử nghiệm trước đó. KẾT QUẢ: 3
nhóm đánh giá rất khác nhau về tất cả các đặc điểm được dùng
để định nghĩa tiêu chảy: tần suất: (P = 0.006), lượng phân (P <
0.001), độ đặc (consistency) (P = 0.003), màu sắc (P < 0.001),
mùi (P < 0.001), và tính không cầm được (P < 0.001 ). Các bệnh
nhân cho rằng tính không cầm được là đặc điểm quan trọng nhất
để định nghĩa tiêu chảy trong khi các nhân viên y tế cho rằng độ
đặc của phân và tần suất đi ngoài quan trọng nhất. Bệnh nhân và
y tá đánh giá mức độ khó chịu của mỗi đặc điểm của tiêu chảy
khi ăn bằng ống thông rất khác nhau. Đối với bệnh nhân việc
không kìm được và số lần đi ngoài gây khó chịu nhiều nhất
trong khi đó đối với các y tá đó là mùi và việc phải thay quần áo
lót cho bệnh nhân. Y tá và bác sĩ dinh dưỡng khác nhau về tần
suất họ chấp nhận dùng các cách khác nhau để điều trị cho bệnh
nhân bị tiêu chảy trong quá trình được cho ăn bằng ống thông.
KẾT LUẬN: bệnh nhân có định nghĩa và thái độ khác với y tá
và bác sĩ dinh dưỡng về tiêu chảy trong thời gian được cho ăn
qua ống thông. Các nhân viên y tế cần phải thấu hiểu và tôn
trọng nhận thức của bệnh nhân để nâng cao chất lượng điều trị
lấy bệnh nhân làm trung tâm.
BEÄNH TREÛ EM
Lieäu phaùp ñieàu trò beänh vieâm ruoät
ôû treû em
Taïp chí Curr Gastroenterol Rep 2012 Apr;14(2):166-173.
Sherlock ME, Griffiths AM.
Khoa tieâu hoùa, Beänh vieân Nhi McMaster , Hamilton, Canada
Nucleotide là các phân tử sinh học có khối lượng phân tử nhỏ
đóng vai trò quan trọng trong các quá trình sinh hóa. Nguồn
cung cấp nucleotide bao gồm quá trình tổng hợp mới, quay
vòng từ quá trình phân giải các chất có chứa nucleotide và từ
nguồn thức ăn đưa vào. Mặc dù sản xuất nội sinh là nguồn
nucleotide chính, có các chứng cớ cho thấy nguồn ngoại sinh có
vai trò quan trọng cho hoạt động của hệ miễn dịch, sự phát triển
của ruột và sự hồi phục. Các nucleotide trong thức ăn đóng vai
trò đáng kể trong quá trình tăng sinh nhanh chóng các tế bào cần
thiết cho hoạt động chức năng tối ưu. Do đó, nucleotide từ thức
ăn được cho là rất thiết yếu ở các đối tượng có các stress sinh lý
bao gồm sinh trưởng và phát triển, hồi phục sau chấn thương,
nhiễm khuẩn và một số bệnh nhất định. Nghiên cứu lâm sàng
đánh giá các công thức dinh dưỡng có nucleotide kết hợp với
các chất dinh dưỡng khác cho thấy các kết quả lâm sàng được
cải thiện ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, bị thương, bị ức chế
miễn dịch hay có bệnh đường tiêu hóa mạn tính. Tuy nhiên, kết
luận về những lợi ích cụ thể của các nucleotide vẫn còn hạn chế.
Đã có những bằng chứng khoa học cho thấy việc bổ sung
nucleotide vào sữa công thức cho trẻ nhũ nhi có tác dụng cải
thiện sự thành thục và phát triển của đường tiêu hóa cũng như
cải thiện chức năng miễn dịch. Tất cả các dược phẩm dinh
dưỡng trừ một công thức thực phẩm có tác dụng đến hệ miễn
dịch đều không có nucleotide. Với mong muốn làm thay đổi
tình trạng này, chúng tôi đưa ra những bằng chứng cho thấy
tiềm năng ứng dụng lâm sàng của nucleotide. Việc bổ sung
nucleotide vào khẩu phần ăn qua ống thông có thể giúp cải thiện
kết quả điều trị ở những bệnh nhân bị stress sinh lý.
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø Â
Khaùi nieäm, thaùi ñoä vaø phöông thöùc ñieàu trò
tieâu chaûy trong thôøi gian cho aên baèng oáng
thoâng: moät cuoäc ñieàu tra treân beänh nhaân,
y taù vaø baùc só dinh döôõng
I
Õ
Nutr Clin Pract 2012 Apr;27(2):281-294.
Hess JR, Greenberg NA.
Trung taâm Nghieân cöùu vaø Phaùt trieån dinh döôõng cuûa Nestleù,
Minnetonka, Minnesota, USA.
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
T
M
O
T
Bệnh viêm ruột ở trẻ em rất khác nhau về dạng bệnh, mức độ
nặng của bệnh cũng như đáp ứng với điều trị. Mục tiêu điều trị
đặc biệt quan trọng ở những bệnh nhân nhỏ tuổi là chữa khỏi
bệnh chứ không phải chỉ chữa triệu chứng bởi vì chứng viêm
mạn tính kéo dài có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và
các biến chứng của bệnh có thể xảy ra trong suốt cuộc đời còn
dài ở phía trước của các em. Corticosteroids chữa được triệu
chứng rất nhanh chóng nhưng chiến lược sử dụng các thuốc
thay thế corticoid (steroid-sparing) có khả năng chữa lành viêm
ruột tốt hơn cần phải được đưa vào thực hiện một cách nhanh
chóng. Chỉ cho ăn bằng ống thông là một lựa chọn điều trị thay
thế ngắn hạn cho những bệnh nhi bị bệnh Crohn. Người ta đã
tiến hành những thử nghiệm lâm sàng có sự tham gia của nhiều
bệnh viên sử dụng cả iniximab và adalimumab điều trị bệnh
Crohn và sử dụng iniximab điều trị bệnh viêm loét đại tràng (ở
những bệnh nhi không đáp ứng với các liệu pháp điều trị khác).
Kết quả thu được đã được thông báo và dựa vào đó người ta đã
đưa ra các hướng dẫn điều trị cho thực hành lâm sàng. Cần phải
có những đánh giá lâm sàng để lựa chọn bệnh nhân và thời điểm
sử dụng liệu pháp điều trị dùng các thuốc anti-TNF một cách tốt
nhất. Phải rất thận trọng để có thể duy trì đáp ứng thuốc an toàn.
CƠ SỞ: tiêu chảy là biến chứng thường gặp ở bệnh nhân được
cho ăn bằng ống thông (EN). Các bệnh nhân cũng như các nhân
viên y tế cần nắm được các kiến thức về vấn đề này. Mục tiêu
À É Ù
nitơ đã được xác định bằng các phương pháp khác nhau. Cần
phải có những thử nghiệm lâm sàng qui mô lớn hơn sử dụng
cùng một phương pháp để tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng
của năng lượng và protein đưa vào lên cân bằng protein,
khối nạc cơ thể và những kết quả lâm sàng ở bệnh nhi phải
dùng máy thở.
Lieäu phaùp dinh döôõng ñoái vôùi
beänh nhi beänh naëng
Taïp chí Curr Opin Crit Care 2012 Apr;18(2):192-198.
Skillman HE, Mehta NM.
Khoa dinh döôõng laâm saøng, beänh vieän nhi Colorado, Aurora, Colorado;
Khoa chaêm soùc tích cöïc, Boä moân gaây meâ, chu phaãuvaø giaûm ñau,
Beänh vieän nhi Boston, Boston, Massachusetts, Hoa Kyø.
Suy dinh döôõng laø moät daáu hieäu döï baùo
ñoäc laäp keát quaû ñieàu trò laâm saøng
ôû beänh nhi beänh naëng
Taïp chí dinh döôõng hoïc thaùng 3, 2012;28(3):267-270.
de Souza Menezes F, Leite HP, Koch Nogueira PC.
Boä moân dinh döôõng vaø trao ñoåi chaát, Khoa nhi cuûa beänh vieän
Ñaïi hoïc Lieân bang Sao Paulo, Sao Paulo, Brazil.
ø
à
â
é
e
v
t
a
t
õ
ù
m
o
T
g
n
a
s
m
a
l
g
n
ô
ö
d
h
n
i
d
MỤC TIÊU CỦA BÀI TỔNG KẾT: suy dinh dưỡng và béo
phì rất hay gặp ở những bệnh nhi phải nhập khoa chăm sóc
tích cực cho trẻ em. Suy dinh dưỡng, hậu quả của việc đưa
thức ăn vào không phù hợp có thể hạn chế kết quả điều trị
trong thời gian bệnh nặng. Bài tổng kết này nêu bật những
nghiên cứu gần đây về đánh giá dinh dưỡng, cân bằng năng
lượng, phương pháp đo calo gián tiếp, liệu pháp dinh dưỡng,
những trở ngại trong việc đưa thức ăn vào bệnh nhân, kiểm
soát quá trình cho ăn bằng ống thông, và vai trò của những
hướng dẫn về dinh dưỡng cho những bệnh nhi bệnh nặng.
CÁC PHÁT HIỆN MỚI NHẤT: bệnh nhi bệnh nặng có
nguy cơ rất cao bị mất cân bằng protein và năng lượng. Đo
calo một cách gián tiếp vẫn đang là phương pháp chính xác
duy nhất đánh giá nhu cầu về năng lượng ở những bệnh nhi
này. Liệu pháp insulin tích cực để điều hòa đường huyết có
thể làm giảm tình trạng bệnh và tỷ lệ tử vong ở người lớn
nhưng lại gây nguy cơ hạ đường huyết ở những bệnh nhi
bệnh nặng. Cho ăn sớm bằng ống thông cải thiện dinh dưỡng
và việc theo sát các chỉ dẫn về dinh dưỡng có thể vượt qua
các trở ngại để đạt được chế độ dinh dưỡng tối ưu. TÓM
TẮT: chế độ dinh dưỡng kịp thời và thích hợp rất quan trọng
để cải thiện dinh dưỡng ở bệnh nhi bệnh nặng. Cần có thêm
nghiên cứu để tìm ra lợi ích lâm sàng mà phương pháp đo
calo gián tiếp cũng như các hướng dẫn về cho ăn qua ống
thông có thể mang lại và xác định được hàm lượng glucose
trong máu tối ưu cần đạt được trong điều trị.
Toång quan heä thoáng veà aûnh höôûng cuûa
löôïng protein vaø naêng löôïng ñöa vaøo leân
söï caân baèng protein ôû nhöõng beänh nhi
beänh naëng
Taïp chí Pediatr ngaøy 6 thaùng 3 naêm 2012.
(AÁn phaåm ñieän töû tröôùc baûn in)
Bechard LJ, Parrott JS, Mehta NM,
Khoa Tieâu hoùa vaø Dinh döôõng, beänh vieän Nhi ñoàng Boston,
Boston, Massachusetts, Hoa Kyø.
MỤC TIÊU: xác định tình trạng dinh dưỡng của nhóm trẻ
phải nhập khoa chăm sóc tích cực cho trẻ em và đánh giá vai
trò của suy dinh dưỡng như một yếu tố nguy cơ độc lập ảnh
hưởng đến kết quả điều trị ở nhóm bệnh nhi này. PHƯƠNG
PHÁP: trong một nghiên cứu thuần tập theo thời gian, người
ta đã đánh giá tình trạng dinh dưỡng lúc nhập viên và kết quả
điều trị của 385 bệnh nhi được nhận vào khoa chăm sóc tích
cực của một bệnh viện đại học trong vòng hơn 2 năm. Các
thông số dùng để đánh giá kết quả điều trị lâm sàng bao gồm
tỉ lệ tử vong trong 30 ngày, thời gian điều trị tại khoa điều trị
tích cực, thời gian dùng máy thở. Các thông số khác cũng có
thể sử dụng để phân tích bao gồm giới tính, tuổi, chẩn đoán
(lâm sàng so với phẫu thuật), sốc nhiễm khuẩn, suy dinh
dưỡng, và điểm số suy cơ quan trẻ em PELOD (Pediatric
Logistic Organ Dysfunction) và điểm tiên lượng tử vong ở
trẻ em (Pediatric Index of Mortality). Tình trạng dinh dưỡng
được đánh giá sử dụng hệ thống điểm z score cho cân nặng
theo độ tuổi, chiều cao theo độ tuổi và chỉ số khối lượng cơ
thể, dựa trên những tiêu chuẩn về phát triển của trẻ của tổ
chức Y tế Thế giới. Bệnh nhân có điểm z score của chỉ số
nhân trắc học < -2 được coi là suy dinh dưỡng. KẾT QUẢ:
175 bệnh nhi (45.5%) bị suy dinh dưỡng khi nhập viện. 16
bệnh nhi của nhóm suy dinh dưỡng (9.14%) và 25 bệnh
nhân (11.9%) của nhóm không bị suy dinh dưỡng đã tử
vong. Phân tích đơn biến cho thấy suy dinh dưỡng liên quan
đến thời gian phải dùng máy thở và thời gian nằm ở khoa
điều trị tích cực lâu hơn nhưng không liên quan đến tỷ lệ tử
vong. Phân tích bằng mô hình hồi quy logic đa biến cho thấy
suy dinh dưỡng có mối tương quan với thời gian dùng máy
thở kéo dài (OR 1.76, 95%; CI 1.08–2.88; P = 0.024). KẾT
LUẬN: suy dinh dưỡng rất thường gặp ở các bệnh nhi phải
nhập khoa chăm sóc tích cực. Yếu tố này không phải là một
dấu hiệu tiên lượng tử vong nhưng nó có mối liên quan độc
lập với thời gian phải dùng máy thở.
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø
Söï hoài phuïc dinh döôõng
laøm taêng tieâu hao naêng löôïng khi nghæ ngôi
ôû treû bò suy dinh döôõng vaø baïi naõo naëng
Dev Med Child Neurol 2012 Feb;54(2):170-175.
Arrowsmith FE, Allen JR, Gaskin KJ, Somerville H,
Birdsall J, Barzi F, O'Loughlin EV.
Beänh vieän nhi Westmead, Ñaïi hoïc Sydney, Westmead,
New South Wales, Australia.
Â
I
Õ
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
T
M
O
T
MỤC ĐÍCH: mục tiêu của nghiên cứu này là đo năng lượng tiêu
hao lúc nghỉ ngơi (REE) và năng lượng đưa vào ở bệnh nhi bị
bại não co cứng tứ chi (quadriplegic cerebral palsy (CP), để tìm
ra mối liên quan của những chỉ số này với các số đo nhân trắc và
xác định ảnh hưởng của sự hồi phục dinh dưỡng đến REE.
PHƯƠNG PHÁP: có 56 trẻ (20 gái, 36 trai, từ 3 năm11 tháng
tuổi đến 18 tuổi; Tuổi trung bình là 10 năm, SD: 3 năm 11
tháng) bị bại não ở mức độ V theo hệ thống phân loại chức năng
MỤC TIÊU: đánh giá ảnh hưởng của lượng protein và năng
lượng đưa vào lên sự cân bằng protein ở bệnh nhi phải dùng
máy thở điều trị tại khoa chăm sóc tích cực cho trẻ em.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU: chúng tôi đặt giả thuyết là
lượng protein và năng lượng đưa vào cao hơn sẽ dẫn tới cân
bằng protein dương. Chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm một
cách có hệ thống các nghiên cứu về cân bằng protein ở bệnh
nhi phải dùng máy thở. Các yếu tố đóng góp vào sự cân bằng
protein bao gồm năng lượng và lượng protein đưa vào, tuổi,
mức độ nặng của bệnh, thiết kế nghiên cứu, và các phương
thức nuôi dưỡng đã được phân tích bằng phương pháp định
tính. KẾT QUẢ: có 9 nghiên cứu thỏa mãn các tiêu chuẩn
tìm kiếm đã được đưa vào phân tích cuối cùng. Trong số 9
nghiên cứu này có 6 nghiên cứu ghi nhận cân bằng nitơ
dương thu được với lượng protein và năng lượng đưa vào rất
khác nhau. Để đạt được cân bằng protein dương cần đưa vào
một lượng calo và protein tối thiểu là 57kcal/kg và 1,5g
protein/kg. KẾT LUẬN: chúng tôi đã tìm thấy mối tương
quan giữa năng lượng và lượng protein đưa vào cao hơn với
việc hình thành cân bằng protein dương ở bệnh nhi phải
dùng máy thở tại khoa chăm sóc tích cực. Tuy nhiên số
lượng các nghiên cứu can thiệp còn rất hạn chế và cân bằng
À É Ù
Vai troø cuûa test kieåm tra noàng ñoä
calprotectin trong phaân ñeå tieân löôïng
taùi phaùt ôû nhöõng beänh nhaân vò thaønh nieân
bò vieâm ruoät töï cho laø ñaõ khoûi beänh
Taïp chí Inflamm Bowel Dis 2012 Jan 24. doi: 10.1002/ibd.22896.
(Cheá phaåm ñieän töû tröôùc khi in).
van Rheenen PF.
Beänh vieân nhi Beatrix. Trung taâm Y Ñaïi hoïc Groningien, Haø Lan.
ù
õ
T
o
m
é
â
t
a
t
v
e
à
ø
d
i
n
h
d
ö
ô
n
g
l
a
m
s
a
n
g
vận động thô tham gia vào nghiên cứu cắt ngang này.
Nghiên cứu loại ra những trẻ có bệnh về chuyển hóa, hội
chứng di truyền, hay có sự bất thường về nhiễm sắc thể. 33
bệnh nhi được cho ăn bằng ống thông và 23 bệnh nhi được
cho ăn qua đường miệng. Một nhóm đối chứng gồm 111
thiếu nhi khỏe mạnh (42 gái, 69 trai) cùng lứa tuổi với các trẻ
bị bại não (4-19 tuổi) đã được đo REE và các chỉ số nhân trắc
học. REE được đo bằng phương pháp đo calo gián tiếp và
lượng thức ăn ăn vào được xác định bằng việc cân khối
lượng thức ăn đưa vào. KẾT QUẢ: Giá trị REE ở những trẻ
bị bại não thấp hơn so với giá trị tiên đoán (79,5%) và có độ
dao động rất lớn (SD 38,4%). Khối lượng cơ thể không có
mỡ là giá trị dự đoán REE tốt nhất, đóng góp 27% cho sự dao
động. Năng lượng đưa vào được tính theo phần trăm REE đã
bị đánh giá cao quá mức ở trẻ bị bại não ăn bằng đường
miệng (293%). Ở 1 nhóm trẻ bị bại não (n=14), việc tăng
năng lượng đưa vào qua ống thông dạ dày làm tăng REE từ
70% đến 101,9% so với dự đoán. PHIÊN GIẢI KẾT QUẢ:
REE ở trẻ bị bại não thấp, không ổn định và không có mối
tương quan chặt với bất kì thông số nhân trắc học nào. Ghi
chép về lượng thức ăn của trẻ bị bại não được cho ăn qua
đường miệng ít có ý nghĩa do nó không chính xác. Nghiên
cứu này củng cố cho giả thuyết cho rằng ở những trẻ bại não
bị suy dinh dưỡng REE thấp một phần là do năng lượng đưa
vào được thấp.
Ñieàu tra quoác teá veà caùc qui trình
nuoâi döôõng baèng oáng thoâng duøng
cho treû em bò beänh Crohn
Taïp chí J Dig Dis thaùng 2 naêm 2012;13(2):107-112.
Whitten KE, Rogers P, Ooi CK, Day AS.
Khoa tieâu hoùa dinh döôõng, beänh vieän nhi ñoàng Sydney,
Tröôøng söùc khoûe treû em vaø phuï nöõ, Ñaïi hoïc New South Wales, UÙc.
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
ä
Ø Â
I
Õ
G
N
A
S
M
A
L
G
N
Ô
Ö
D
H
N
D
E
V
T
A
T
M
O
T
CƠ SỞ: Bệnh nhân viêm ruột tuổi vị thành niên được khám
thường kì để theo dõi triệu chứng tái phát. Mức độ hoạt động
thực tại của bệnh thường được đánh giá thông qua chỉ số
đánh giá hoạt động của bệnh viêm loét đại tràng ở trẻ em
PUCAI (Pediatric Ulcerative Colitis Activity Index-
PUCAI) và chỉ số đánh giá hoạt động bệnh Crohn cho thiếu
nhi (PCDAI) (Pediatric Crohn's Disease Activity Index).
Chúng tôi xem xét khả năng dùng chỉ số nồng độ
calprotectin trong phân và nồng độ protein CPR huyết tương
để tiên lượng khả năng tái phát bệnh ở những bệnh nhân vị
thành niên thông báo đã không còn triệu chứng. Ngoài ra,
chúng tôi cũng tìm hiểu việc sử dụng các chỉ số nồng độ
calprotein và CRP như các test bổ sung để có thể cải thiện
tính đặc hiệu của PUCAI hay PCDAI trong tiên lượng tái
phát bệnh. PHƯƠNG PHÁP: chúng tôi thu dữ liệu từ 62
bệnh nhân tuổi vị thành niên (31 bị bệnh Crohn và 31 bị viêm
loét đại tràng) được ghi nhận có mức độ kiểm soát được
bệnh từ 90 đến 100% trong 2 lần đến bệnh viện khám kiểm
tra liên tiếp. Các chỉ số calprotectin, PUCAI, PCDAI và
CRP được đo tại đường gốc (baseline). Kết qủa sơ bộ là sự
tái phát có triệu chứng xuất hiện trong vòng 3 tháng với
những giá trị ban đầu dẫn đến việc phải dùng steroids, liệu
pháp EEN hay phải dùng tăng liều aminosalicylate.
KẾT QUẢ: 15 bệnh nhân tuổi vị thành niên (24%) có biểu
hiện tái phát trong 3 tháng với những giá trị ban đầu. Dựa
trên đường cong đặc trưng hoạt động (receiver operating
characteristic curve) giá trị ngưỡng tối ưu của calprotectin
để phân biệt giữa bệnh nhân có nguy cơ cao và nguy cơ thấp
được xác định là 500ug/g (microgram/gram). Chỉ số đánh
giá PUCAI hay PCDAI tiên lượng tái phát ở 42% (11/26)
bệnh nhân tuổi vị thành niên có kết quả dương tính (số điểm
≥10 điểm), trong khi với kết quả PUCAI hay PCDAI âm tính
nguy cơ tái phát giảm xuống còn 11% (4/36). Bệnh nhân tuổi
vị thành niên có kết quả kiểm tra calprotectin dương tính có
nguy cơ diễn tiến tái phát bệnh trong 3 tháng là 53% (10/19),
trong khi kết quả calprotectin âm tính cho 12% (5/43) nguy
cơ tái phát có triệu chứng. Với kết quả CRP dương tính (giá
trị ngưỡng 10mg/L) nguy cơ tái phát là 50% (4/8), trong khi
một kết quả CRP âm tính cũng hiếm khi có thể làm giảm
nguy cơ so với xác suất của thử nghiệm trước đó (từ 24% đến
21% (11/53). Bổ sung cho PUCAI hay PCDAI, test kiểm tra
calprotectin giúp hạn chế số trường hợp dương tính giả do
đó đã làm tăng tính đặc hiệu trong việc phát hiện viêm
đường tiêu hóa: 60% (9/15) bệnh nhân tuổi vị thành niên có
những kết quả kiểm tra dương tính đã bị tái phát có triệu
chứng. Với kết quả âm tính, nguy cơ tái phát giảm xuống còn
10% (3/32). CRP không đóng góp nhiều khi được thực hiện
như một test kiểm tra bổ sung sau khi đã có điểm đánh giá
PUCAI hay PCDAI: 2 trong 5 bệnh nhân với những kết quả
dương tính có diễn tiến tái phát có triệu chứng (40%). KẾT
LUẬN: không giống như CRP, xác định nồng độ
calprotectin trong phân được thực hiện như một test bổ sung
cho PUCAI hay PCDAI giúp cho việc chẩn đoán tái phát
trước khi các triệu chứng bộc lộ trở nên dễ dàng hơn. Điều
này có thể giúp xác định bệnh nhân tuổi vị thành niên cần
được điều trị tích cực vào thời điểm bệnh còn rất nhẹ chứ
không phải vào lúc bệnh đã tái phát rõ rệt trên lâm sàng. Cần
có những nghiên cứu tiếp theo để đảm bảo cho việc xác định
vai trò của test kiểm tra nồng độ calprotectin trong phân đối
với quá trình điều trị và kết quả điều trị.
MỤC TIÊU: trong các nghiên cứu đã được công bố, người ta
thường sử dụng những qui trình khác nhau để đánh giá việc
chỉ nuôi dưỡng qua ống thông (exclusive enteral nutrition-
EEN) trong điều trị bệnh nhi bị bệnh Crohn. Nghiên cứu này
nhằm tìm hiểu rõ các qui trình hiện được sử dụng ở các trung
tâm nhi khoa khác nhau trên thế giới và làm nổi bật những
điểm giống và khác nhau của các quy trình này. PHƯƠNG
PHÁP: một bộ câu hỏi đã được gửi đến cho các cá nhân ở các
trung tâm nhi khoa ở các nước châu Âu, bắc Mỹ và Châu Á
Thái Bình Dương. Những người tham gia được hỏi về số trẻ
được điều trị bằng EEN ở trung tâm của họ trong những năm
trước đó và cung cấp những chi tiết của qui trình EEN được
sử dụng cho những bệnh nhi này. KẾT QUẢ: Chúng tôi
nhận được phản hồi từ 35 trung tâm khác nhau (chiếm 42%
số trung tâm được hỏi). Thời gian dùng EEN cho bệnh nhi
dao động từ <6 tuần đến >12 tuần, nhưng thông thường nhất
là 6-8 tuần. Mặc dù có 23 công thức (thức ăn) khác nhau
được dùng ở những trung tâm này, hầu hết (90%) sử dụng
công thức đa phân (polymeric formular). Hương liệu thực
phẩm cũng thường được thêm vào nhưng giữa các trung tâm
khác nhau có sự khác biệt rất lớn trong việc kê đơn thực
phẩm và chất lỏng cho phép dùng trong thời gian điều trị
bằng EEN. Sự cho ăn trở lại sau EEN cũng khác nhau rất
nhiều: khuyến nghị thông dụng nhất là cho ăn lúc đầu ở chế
độ có ít chất sợi (26%) hay cho ăn với lượng thức ăn tăng từ
từ khi lượng thức ăn theo công thức (của chế độ EEN) giảm
dần (52%). KẾT LUẬN: nghiên cứu dựa trên bộ câu hỏi này
cho thấy sự khác biệt rất lớn trong các qui trình EEN được
dùng ở các vùng khác nhau trên thế giới. Việc xây dựng
những qui trình nhất quán có thể làm tăng sự chấp nhận, hiệu
quả và khiến cho liệu pháp này được sử dụng rộng rãi hơn.
À É Ù
Những bài nổi bật tại
ADA – Hoäi nghò vaø Trieån laõm
veà Dinh döôõng vaø Thöïc phaåm
25-27 Tháng 9 năm 2011 – San Diego, California, USA
4
Bí maät heù loä: Phöông phaùp chuaån
hoùa ñeå nhaän bieát vaø laäp hoà sô
suy dinh döôõng
Tiêu chuẩn cuối cùng là một khái niệm tương đối mới đối
với các chuyên gia dinh dưỡng. Chức năng thể chất được đo
bằng sức nắm chặt của tay và, đối với những người nhiều
tuổi hơn, là khả năng leo cầu thang (hoặc khả năng nhấc ghế
hoặc các nghiên cứu về cân bằng) và test đi bộ 4 mét và các
test đi bộ khác.
û
Các tiêu chuẩn chi tiết được đưa ra để đánh giá mức độ và
thời gian ảnh hưởng của mỗi thành phần. Tổng hợp các
thành phần sẽ giúp xác định mức độ trầm trọng của suy dinh
dưỡng.
ä
å
å
E
C
N
F
A
D
A
a
u
c
t
a
b
i
o
n
m
e
i
Ñ
1
Các tiêu chuẩn được đề xuất nói trên có thể thay đổi theo
thời gian khi xuất hiện những bằng chứng về vai trò của
chúng. Hiện nay, hiệp hội ăn kiêng Hoa kỳ khuyến cáo mạnh
mẽ việc sử dụng các tiêu chuẩn nói trên trong bệnh viện cũng
như việc thu thập dữ liệu để đánh giá phương pháp chuẩn
hoá dùng cho chẩn đoán và phân biệt suy dinh dưỡng.
Nhóm nghiên cứu về suy dinh dưỡng của Hiệp hội ăn kiêng
Hoa kỳ (ADA) đã đề xuất những tiêu chuẩn đặc trưng dựa
trên bằng chứng về suy dinh dưỡng ở người lớn để sử dụng
kết hợp với những khái niệm suy dinh dưỡng được Hiệp hội
dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch và dinh dưỡng bằng ống
thông của Hoa kỳ (American Society for Parenteral and
Enteral Nutrition - A.S.P.E.N) đưa ra năm 2009 trong phân
loại suy dinh dưỡng. Những tiêu chuẩn này được xây dựng
để chuẩn hoá hồ sơ chẩn đoán và tỷ lệ lưu hành suy dinh
dưỡng ở người lớn trong các bệnh viện, minh giải mức bồi
hoàn tăng, giúp đánh giá ảnh hưởng của suy dinh dưỡng lên
kết quả điều trị.
Taøi lieäu tham khaûo:
Ñònh höôùng phaãu thuaät ñöôøng ruoät:
Laøm theá naøo ñeå ñaùnh giaù vaø
nuoâi döôõng nhöõng ngöôøi coù
ñöôøng tieâu hoùa ñaõ bieán ñoåi
Các khái niệm về suy dinh dưỡng dựa trên nguyên nhân
của A.S.P.E.N. coi viêm hệ thống (systemic inammation)
là một trong những yếu tố gây ra suy dinh dưỡng. A.S.P.E.N.
định nghĩa “suy dinh dưỡng do thiếu ăn” là một trạng thái
thiếu ăn mạn tính không kèm theo viêm (ví dụ như chứng
biếng ăn do thần kinh); “suy dinh dưỡng do bệnh mạn tính”
là suy dinh dưỡng kèm theo viêm mạn tính từ cấp độ nhẹ đến
cấp độ trung bình (ví dụ như suy chức năng cơ quan, ung thư
tuỵ, hoặc tình trạng béo phì giảm khối cơ); và “suy dinh
dưỡng do bệnh cấp tính hoặc chấn thương” là tình trạng suy
dinh dưỡng kèm theo viêm cấp, nghiêm trọng (ví dụ như
nhiễm trùng nghiêm trọng, bỏng, hôn mê hoặc chấn thương
1
sọ não kín).
2,3
á
Sau phẫu thuật hoặc tổn thương đường ruột, đường ruột sẽ có
quá trình thích nghi để bù đắp cho việc bị giảm diện tích bề mặt
và giảm chức năng. Đường ruột dài ra và trở nên dày hơn, giãn
rộng hơn. Tăng chiều dài nhung mao và chiều sâu của hốc ruột
làm tăng khả năng tiêu hóa và vận chuyển dinh dưỡng của các tế
1
bào lớp lót niêm mạc ruột/tế bào hấp thu.
Các tiêu chuẩn xác định suy dinh dưỡng không bao
gồm các protein huyết tương, ví dụ như albumin và
prealbumin; bằng chứng cho thấy không có tương quan giữa
hàm lượng của những protein giảm hàm lượng khi có viêm
trong huyết tương với giảm cân,
và hàm lượng protein
huyết tương không thay đổi khi thay đổi lượng dinh dưỡng
được đưa vào.
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
Các tiêu chuẩn đặc trưng của suy dinh dưỡng được đề xuất
như sau:
ä
2
lượng dinh dưỡng đầu vào giảm
giảm cân ngoài ý muốn
I
E
C
N
F
A
D
A
A
U
C
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
thay đổi thành phần cơ thể, ví dụ như mất lớp mỡ dưới da,
giảm lượng cơ và phù; và
thay đổi chức năng và hoạt động thể chất
Chế độ dinh dưỡng tối ưu phụ thuộc vào chiều dài và tình
trạng của phần ruột còn lại, có thể được đánh giá bằng các
nghiên cứu hấp thụ, nghiên cứu X quang, nghiên cứu bệnh học
hay sinh hóa (ví dụ, plasma citrullin, một chỉ thị của khối lượng
các tế bào hấp thu). Phương pháp có độ tin cậy cao nhất là
phương pháp đo chiều dài phần còn lại của ruột từ dây chằng
Treitz trong quá trình phẫu thuật. Đánh giá dinh dưỡng, bao
gồm hình thức chất thải dạ dày ruột, chế độ ăn uống và cân bằng
nước hàng ngày, những thay đổi trọng lượng cơ thể và các chỉ số
đánh giá trong phòng thí nghiệm, là một phương pháp lâm sàng
Û Ä Å Å
đơn giản đánh giá chức năng và tình trạng ruột.
3
khỏe ở Mỹ. Mục tiêu của cải cách hệ thống y tế và Đạo luật
chăm sóc sức khoẻ ACA (Affordable Care Act – ACA) là
giảm tốc độ tăng chi phí y tế. Hiện nay chi phí y tế chiếm tới
21% tổng sản phẩm quốc gia. Các tổ chức chịu trách nhiệm
chăm sóc y tế (accountable care organizations – ACOs),
được thành lập theo đạo luật ACA nhằm điều phối hoạt động
của các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, tăng cường
chất lượng, và giảm chi phí, cần phải giúp làm tăng khả năng
tiếp cận và nhu cầu đối với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
của các chuyên gia về dinh dưỡng.
Nghiên cứu sự có mặt của các chất dinh dưỡng trong ruột
(luminal nutrients) cho thấy ảnh hưởng dinh dưỡng lên khả
năng tiêu hoá và hấp thu của niêm mạc ruột. Những chất
dinh dưỡng nhất định, các chất tiết, các hormone tiêu hoá và
sự tăng lưu lượng máu cũng thúc đẩy quá trình thích nghi
của ruột do việc cho ăn bằng ống thông đem lại. Việc cho ăn
bằng ống thông liên tục (chỉ cho ăn bằng ống thông hoặc kết
hợp với cho ăn theo đường miệng) sau thời gian hậu phẫu
làm tăng đáng kể sự hấp thụ dinh dưỡng so với việc cho ăn
4
theo đường miệng đơn thuần. Sự hồi phục chức năng của
ruột sau mổ có thể đạt được nhờ cho ăn bằng ống thông, kể
5
cả trong những trường hợp rất khó khăn.
Những xu hướng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe bao
gồm sự đa dạng và xu thế đang già hóa của dân số; sự chuyển
dịch từ điều trị bệnh cấp tính sang quản lý chăm sóc các bệnh
mạn tính; phổ lựa chọn rộng hơn của người tiêu dùng và khả
năng tiếp cận thông tin; tăng cường áp dụng công nghệ trong
dịch vụ y tế (ví dụ, phẫu thuật bằng robot, tư vấn thông qua
internet) và trong quản lý dữ liệu (ví dụ, các hồ sơ y tế điện
tử) là những xu hướng có ảnh hưởng đến nhân lực y tế.
4,6
å
2
å
Nhân lực y tế chiếm một phần lớn và quan trọng trong
1
nền kinh tế và tạo nên hầu hết sự tăng trưởng việc làm.
Người ta cho rằng nhu cầu về các nhà chuyên gia y tế sẽ tăng
35% từ năm 2000 tới năm 2016. Mặc dù nhân lực y tế đang
già đi, rất nhiều người đến tuổi về hưu đang trì hoãn việc này
do hoàn cảnh kinh tế.
ä
û
Những bệnh nhân phẫu thuật đường ruột vẫn giữ
được/không bị cắt đại tràng có thể ăn thức ăn có
carbohydrates phức, chất xơ hoà tan, protein nguyên vẹn và
hỗn hợp chất béo triglyceride chuỗi trung bình (MCT –
medium-chain triglycerides) và chuỗi dài (LCT - long-chain
triglycerides) cung cấp 20-30% lượng calo.
Các loại
carbohydrate chưa tiêu hoá và chất xơ hoà tan được lên men
bởi các vi khuẩn trong đại tràng thành các axít béo chuỗi
ngắn (SCFAs – short chain fatty acids). Những axit béo
chuỗi ngắn này có thể được sử dụng như một nguồn năng
lượng bổ sung, cải thiện hấp thụ natri và nước, đồng thời
kích thích sự thích nghi của niêm mạc ruột non và đại tràng.
Ở những bệnh nhân này, việc thay thế LCTs bằng MCTs làm
tăng đáng kể sự hấp thụ năng lượng so với chế độ ăn chứa
7
60% LCTs có cùng lượng calo.
Ñ
i
e
m
n
o
i
b
a
t
c
u
a
A
D
A
F
N
C
E
Dược phẩm và nhiều ngành nghề khác đã tăng yêu cầu
tối thiểu là phải có bằng bác sĩ lâm sàng nhằm mở rộng phạm
vi thực hành và tăng tiềm năng đầu vào. Mặc dù yêu cầu về
bằng cấp đầu vào trong lĩnh vực y tế đang leo thang, thị
trường nhân lực y tế với bằng cấp thấp hơn vẫn đang tăng lên
để kiềm chế chi phí lao động.
4
Ngược lại, những bệnh nhân không còn đại tràng
8
nguyên vẹn không được sử dụng thức ăn có xơ hoặc MCTs.
Những bệnh nhân này nên dùng công thức có chứa
carbohydrate phức và protein nguyên vẹn. Tổng lượng calo
hấp thụ nên đạt 30-35kcal/kg/ngày với 1,0-1,5 g
protein/kg/ngày.
3
Các xu hướng giáo dục đại học – sự thiếu hụt giảng viên
có bằng tiến sĩ, ảnh hưởng quốc tế lớn hơn và phát triển giáo
dục từ xa – đang ảnh hưởng tới quá trình đào tạo nhân lực y
tế. Mô hình giáo dục đại học truyền thống đang thay đổi với
sự phát triển mạnh mẽ của các trường công và trường tư vì
lợi nhuận do sinh viên thích tìm kiếm sự thuận tiện, các khoá
học trực tuyến, đăng ký học bán thời gian hoặc các khóa học
chi phí thấp hơn thay cho các trường truyền thống học 4
năm. Bản chất phức tạp của việc phát triển chương trình
giáo dục hạn chế khả năng của nhà trường có thể theo kịp với
nhu cầu nhân lực luôn thay đổi.
Khi được bổ sung vào dinh dưỡng theo đường tĩnh
mạch, butyrat, một axit béo chuỗi ngắn (SCFA) - chất cung
cấp hầu hết năng lượng được sử dụng bởi đại tràng - kích
thích sự thích nghi của ruột ở những con lợn con sơ sinh.
Điều này có thể là do butyrat giúp quá trình tái tạo vi nhung
9
mao, tăng diện tích bề mặt cho quá trình tiêu hóa và hấp thụ.
Thêm butyrat vào dinh dưỡng tĩnh mạch có thể làm giảm sự
phụ thuộc của các bệnh nhân mất chức năng ruột vào việc ăn
theo đường tĩnh mạch lâu dài.
Tài liệu tham khảo
Ông Collier dự đoán rằng nền kinh tế sẽ ổn định trong
vòng 3 đến 5 năm tới, tạo ra một làn sóng người về hưu và
mở rộng các cơ hội việc làm. Tuy nhiên, năng lực của
chương trình giáo dục sẽ không đủ để thỏa mãn nhu cầu.
Ông dự đoán sẽ có những thay đổi trong thực hành lâm sàng
và nghiên cứu hệ gien sẽ có ảnh hưởng đáng kể lên thực hành
lâm sàng. Công chúng sẽ quan tâm hơn đối với việc tự chăm
sóc, các xét nghiệm và các công cụ phân tích không cần kê
đơn sẽ mở rộng hơn.
I
Å Å Ä Û
Tài liệu tham khảo
Baøi thuyeát trình cuûa chuû tòch hoäi thaûo 2011:
Söï bieán ñoäng nhaân löïc trong lónh vöïc
chaêm soùc söùc khoûe vaø giaùo duïc
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
C
U
A
A
D
A
F
N
C
E
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
Sự bất ổn liên tục của nền kinh tế và những thay đổi trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe có ảnh hưởng sâu rộng tới hệ
thống nhân lực y tế ở Mỹ. Khả năng tiếp cận, chi phí và chất
lượng là những yếu tố then chốt của hệ thống chăm sóc sức
á
Lieäu phaùp dinh döôõng tích hôïp
ñieàu trò hoäi chöùng ruoät kích thích
vaø beänh lyù vieâm ruoät
12
11
các triệu chứng lâm sàng so với nhóm sử dụng giả dược.
Trong một nghiên cứu nhỏ, những bệnh nhân bị bệnh Crohn
sử dụng thuốc tương tự cho thấy có sự tăng lắng đọng chất
béo và sự tích tụ các chất không phải là chất béo, cải thiện
trạng thái vitamin D và chất lượng cuộc sống cũng như giảm
mức độ hoạt động bệnh. Những nghiên cứu tích hợp các
chất béo omega-3 với liệu pháp y học thông thường vẫn còn
thiếu.
Dầu oliu, nước cà chua, rượu vang đỏ, quả óc chó, hạt
lanh, anh đào, bột tỏi, chè đen và chè xanh là những thực
phẩm chức năng có tác dụng làm giảm các dấu hiệu viêm
13
trong các nghiên cứu can thiệp ở người.
1
Tài liệu tham khảo
2
Dược phẩm dinh dưỡng bổ sung (nutraceutical
supplements) ví dụ như dầu bạc hà, STW5 và melatonin có
thể giúp kiềm chế các triệu chứng của hội chứng ruột kích
thích (IBS – irritable bowel syndrome). Trong một phân tích
tổng hợp từ 4 nghiên cứu, dầu bạc hà, với tính chất trị co thắt,
đã có hiệu quả hơn so với giả dược (placebo) trong việc kiểm
soát các triệu chứng IBS. Các chế phẩm dược thảo STW5,
một hỗn hợp của 9 chất chiết từ thực vật, đã được sử dụng
trong y học cổ truyền Trung hoa, rất hiệu quả trong việc làm
giảm bớt các triệu chứng IBS trong một nghiên cứu có đối
chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT) trên
208 bệnh nhân. Trong một nghiên cứu thử nghiệm hai lần
mù sử dụng giả dược (double-blind - cả bác sĩ và bệnh nhân
đều không biết mình được dùng giả dược hay thuốc thật)
trên nhóm đối tượng nữ giới bị IBS, melatonin đã cải thiện
3
triệu chứng so với giả dược.
û
ä
Phaãu thuaät giaûm caân:
ñaõ ñeán luùc phaûi chuaån hoùa
phöông phaùp chaêm soùc dinh döôõng
å
å
E
C
N
F
A
D
A
a
u
c
t
a
b
i
o
n
m
e
i
Ñ
4
FODMAPs là tên viết tắt của Oligo-, Di- và Mono-
saccharides có thể lên men và Polyols, được sử dụng để mô
tả các carbohydrates mạch ngắn khó hấp thụ (fructans,
galactans, lactose, fructose và các đường rượu). Các
FODMAPs đều được lên men rất nhanh chóng bởi các vi
khuẩn ruột kết, sinh ra khí gây chướng và đau bụng. Việc
giảm lượng FODMAPs trong thức ăn sẽ làm giảm triệu
chứng IBS, đặc biệt đối với những bệnh nhân có tình trạng
phát triển vượt mức của hệ vi sinh vật đường ruột (small
intestinal bacterial overgrowth – SIBO).
1
5
2
Có những bằng chứng thuyết phục cho thấy các vi sinh
vật có lợi cho sức khỏe (probiotics) kiềm chế các triệu chứng
IBS và làm giảm khả năng tái phát bệnh lý viêm ruột (IBD –
inamatory bowel disease). Probiotics loại bỏ các tác nhân
gây bệnh, điều hoà thành phần hệ vi sinh vật đường ruột, và
làm giảm sự lên men do vi khuẩn, giảm viêm để đảo ngược
tình trạng mất cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột thường
thấy ở hội chứng IBD.
Các quy trình phẫu thuật giảm cân – bao gồm phẫu thuật nội
soi đặt đai dạ dày (laparoscopic adjustable gastric banding –
LAGB), cắt vạt dạ dày (sleeve gastrectomy – SG), nối tắt dạ
dày kiểu Roux-Y (RYGB) – có thể ảnh hưởng cảm giác đói,
no và tình trạng dinh dưỡng theo nhiều cách khác nhau. Sự
giảm cân và các kết quả khác sẽ có thể khác nhau phụ thuộc
vào giới hạn thể tích dạ dày và phần ruột non nối tắt cũng
như ảnh hưởng của phẫu thuật, nếu có, lên các hormone ruột
và các tín hiệu thần kinh điều khiển sự bắt đầu và kết thúc
bữa ăn. Tuy nhiên, đối với phẫu thuật giảm cân không phức
tạp/không gây biến chứng, rất nhiều khuyến cáo về dinh
dưỡng có thể được chuẩn hóa để cải thiện chất lượng chăm
sóc bệnh nhân.
6
Tuy vậy, ảnh hưởng của probiotics giúp rút ngắn quá
trình thuyên giảm chứng viêm loét ruột kết (ulcerative
colitis – UC) kém rõ ràng hơn. Một phân tích tổng hợp cho
thấy liệu pháp probiotic không giúp làm nhanh quá trình
thuyên giảm chứng viêm loét ruột kết, nhưng liệu pháp này
có hiệu quả cao hơn so với giả dược trong việc duy trì sự
thuyên giảm chứng viêm loét này.
Giảm 10-15% cân nặng trước phẫu thuật được khuyến
cáo nhằm làm giảm thể tích gan và tạo thuận lợi cho các khía
cạnh kỹ thuật của phẫu thuật. Chế độ ăn nên dựa trên dinh
dưỡng hợp lý và điều chỉnh theo từng cá nhân theo chỉ số
khối cơ thể (body mass index BMI) và các bệnh khác có thể
đi kèm với béo phì.
7
8
á
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
Các hợp chất khác trong thức ăn có thể giúp làm giảm
viêm và tổn thương do hội chứng ruột kích thích bao gồm
polyphenols, SCFA và các acid béo omega-3. Polyphenols,
các hợp chất được tổng hợp ở thực vật, làm giảm biểu hiện
của các gien viêm và làm tăng biểu hiện của các gien bảo vệ
tế bào. SCFA có ảnh hưởng về mặt dinh dưỡng đối với ruột
non và ruột kết. Trong những trường hợp viêm loét ruột kết
đoạn xa kháng thuốc/dai dẳng, dùng thuốc bơm vào trực
tràng SCFA có chứa sodium butyrate nồng độ 40-80 mM
làm giảm tần số đi tiêu và cải thiện điểm đánh giá bằng xét
9
nghiệm mô bệnh học qua nội soi.
ä
I
E
C
N
F
A
D
A
A
U
C
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
Các acid béo omega-3 làm giảm viêm và tỏ ra hứa hẹn
10
trong điều trị bệnh lý viêm ruột.
Trong một nghiên cứu có
đối chứng ngẫu nhiên trên 121 bệnh nhân bị viêm loét ruột
kết, những đối tượng sử dụng thuốc uống theo đường miệng
có bổ sung dầu cá, chất xơ hòa tan và chất chống oxi hóa đã
có thể giảm đáng kể liều prednisone cần thiết để kiềm chế
Phẫu thuật giảm cân hạn chế thể tích hoạt động chức
năng của dạ dày và giới hạn phần thức ăn đưa vào ở một mức
độ nhất định; do đó, chế độ dinh dưỡng chuẩn sau phẫu thuật
giảm cân được xây dựng dựa trên sự tiến triển của cấu trúc
và thể tích theo mức dạ dày có thể tiếp nhận. Chế độ dinh
dưỡng dạng lỏng ngay sau phẫu thuật chú trọng sự cung cấp
đầy đủ nước, sử dụng chất lỏng không có đường và caffeine.
Thức ăn dạng lỏng giàu protein và ít đường được đưa vào ở
giai đoạn 2 để cung cấp 60-80 g protein mỗi ngày. Các bệnh
nhân nối tắt dạ dày kiểu Roux-Y thường có thời gian thức ăn
tống ra khỏi dạ dày nhanh hơn và phải dùng thức ăn lỏng tốc
độ chậm và hạn chế lượng đường xuống dưới 25 g mỗi lần
ăn. Ở giai đoạn 3 dinh dưỡng được kê bao gồm 48-60 ounces
(1.440-1.800 mL) thức ăn lỏng, cộng thêm rau, hoa quả, và
các thức ăn giàu đạm dạng trơn, mềm đồng nhất, 3 đến 5 bữa
Û Ä Å Å
3
chính mỗi ngày. Ở giai đoạn 4, các bệnh nhân có thể ăn đặc
hơn. Những mục tiêu duy trì lâu dài nhằm tạo ra một chế độ
dinh dưỡng khoẻ mạnh, phù hợp suốt đời và luyện tập cách
4
ăn lưu ý phân biệt dấu hiệu đói vật lý và đói tâm lý.
Phẫu thuật giảm cân mang lại những nguy cơ đặc biệt
đối với những bệnh nhân béo phì bị suy thận mãn (chronic
kidney disease – CKD). Sự thiếu đồng cùng với các triệu
chứng thần kinh cấp tính, sự thiếu vitamin E và tăng hàm
lượng kẽm đã được ghi nhận 5 tháng sau khi tiến hành nối tắt
4
dạ dày ở những bệnh nhân mắc bệnh thận giai đoạn cuối.
Tất cả các bệnh nhân trải qua giải phẫu giảm cân đều
cần được bổ sung vitamin và khoáng chất lâu dài. Nguy cơ
thiếu vi chất dinh dưỡng thấp nhất ở những bệnh nhân
LAGB và cao nhất ở những bệnh nhân RYGB, những bệnh
nhân có vị trí hấp thụ bị nối tắt và sự tiết acid dạ dày bị suy
5
giảm.
Việc điều trị chứng béo phì ở những bệnh nhân suy thận
mãn rất phức tạp vì một nghịch lý là chứng béo phì giúp cải
thiện khả năng sống sót ở những bệnh nhân phải lọc máu.
Không giống như ở quần thể bình thường, những bệnh nhân
thừa cân phải lọc máu, những người có chỉ số khối nạc cơ thể
(lean body mass) cao hơn và có lượng calo ăn vào phù hợp sẽ
5,6
có nguy cơ tử vong thấp hơn.
Sự chăm sóc cá nhân, giám sát thường xuyên và mối
liên hệ chặt chẽ giữa bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ phụ trách lọc
máu là những yếu tố quan trọng đảm bảo kết quả điều trị
thành công sau phẫu thuật giảm cân đối với những bệnh
nhân mắc ESKD. Những quy trình phẫu thuật phức tạp hơn
làm tăng nguy cơ về dinh dưỡng và đòi hỏi sự theo dõi sát
7
sao hơn để giảm biến chứng dinh dưỡng sau phẫu thuật.
Các bệnh nhân LAGB cần được cung cấp vitamin liều
cao cung cấp đủ lượng 100% nhu cầu hàng ngày; những
bệnh nhân RYGB và SG cần liều đảm bảo 200% nhu cầu
hàng ngày. Các bệnh nhân nên tránh dùng dạng
multivitamin có thời gian phóng thích kéo dài (extended-
release), dạng có bọc và tan trong ruột (enteric-coated), hoặc
dạng công thức dành cho trẻ em, đàn ông, đàn bà trên 55
tuổi, hoặc già hơn. Những bệnh nhân này nên dùng những
công thức hoàn chỉnh với ít nhất 18 mg sắt, 400 μg acid folic,
selenium, đồng và kẽm. Canxi cần được bổ sung ở mức
1.200-2.000 mg mỗi ngày. Vitamin D cần được cung cấp ở
6
mức 800-1.000 IU mỗi ngày.
å
Tài liệu tham khảo
å
Tài liệu tham khảo
ä
û
Ñ
i
e
m
n
o
i
b
a
t
c
u
a
A
D
A
F
N
C
E
Thu heïp khoaûng caùch giöõa höôùng daãn
vaø thöïc haønh: kinh nghieäm
chaêm soùc tích cöïc
Ñieàu bí maät veà phaãu thuaät giaûm caân:
minh chöùng töø suy thaän maõn
giai ñoaïn ñaàu thoâng qua gheùp taïng
Tiểu đường và huyết áp cao gắn với béo phì là hai nguyên
nhân thường gặp nhất gây ra bệnh thận giai đoạn cuối (end-
stage kidney disease-ESKD). Tuy nhiên, việc ghép thận cho
những bệnh nhân béo phì mắc ESKD thường bị các trung
tâm ghép tạng coi là không khả thi vì khả năng ghép thành
công ở những bệnh nhân này rất thấp.
Những hướng dẫn thực hành lâm sàng (clinical practice
guidelines-CPGs) làm giảm chi phí và sự không ổn định
trong chăm sóc bệnh nhân cũng như cải thiện chất lượng và
kết quả điều trị. Tuy nhiên, có những sự khác biệt khá lớn
giữa hướng dẫn thực hành lâm sàng cho chăm sóc dinh
dưỡng ở khoa chăm sóc tích cực do hiệp hội ADA Canada
đưa ra và hướng dẫn thực hành do A.S.P.E.N. kết hợp với
Hiệp hội Hồi sức cấp cứu Hoa kỳ (Society of Critical Care
Medicine-SCCM) đưa ra. Các hướng dẫn khác nhau về
phương thức đo calo gián tiếp và các phương trình dự đoán,
liều cho ăn bằng ống thông và phổ mục tiêu cần đạt được, thể
tích còn lại trong dạ dày (gastric residual volume) và các
thuốc làm tăng nhu động, arginine, glutamine, peptide, chất
1
xơ, probiotics và liệu pháp insulin tích cực.
I
Sự thất bại khi sử dụng các phương pháp giảm cân
truyền thống đối với những người béo phì mắc ESKD cũng
như ảnh hưởng tích cực của phẫu thuật giảm cân đối với
những bệnh đi kèm có liên quan với béo phì trong quần thể
bình thường đã khiến cho phẫu thuật giảm cân được coi là
một lựa chọn cho những bệnh nhân này nhằm cải thiện khả
năng ghép tạng và giảm nguy cơ biến chứng sau ghép tạng.
2
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
C
U
A
A
D
A
F
N
C
E
2,3
Å Å Ä Û
3
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
Một nghiên cứu quy mô nhỏ thông báo đã thành công
khi tiến hành LAGB ở ba bệnh nhân có mắc ESKD. Sau khi
giảm 35-41% trọng lượng dư thừa và việc ghép thận trở nên
khả thi, những bệnh nhân này đã được ghép thận thành công
mà không bị biến chứng gì. Trong một nghiên cứu trên 41
bệnh nhân béo phì ở các giai đoạn khác nhau của suy thận
mạn tính (chronic renal failure – CRF), nối tắt dạ dày
(gastric bypass – GBP) đã làm giảm nguy cơ tử vong tương
đối xuống 6%. Các tình trạng bệnh lý đi kèm với bệnh béo
phì được cải thiện ở tất cả các bệnh nhân, và việc ghép thận
đã trở nên khả thi đối với những bệnh nhân suy thận mãn.
Sự khác nhau có thể có căn nguyên là các quần thể
nghiên cứu khác nhau, số lượng bằng chứng có giá trị và do
thiếu các nghiên cứu có đối chứng ngẫu nhiên, mức độ rõ
ràng khi phiên giải minh chứng và đưa ra khuyến cáo, hoặc
do sự khác nhau trong phương pháp thống kê đã được sử
dụng để phân tích kết quả. Ví dụ, những nghiên cứu có kết
quả mâu thuẫn về ảnh hưởng của mức nuôi dưỡng lên tỷ lệ tử
Tuy nhiên, một nghiên cứu
vong ở những bệnh nhân nặng.
kiểm tra dọc theo thời gian ở 357 khoa chăm sóc tích cực từ
33 quốc gia đã cho thấy những bệnh nhân được nhận hơn 2/3
lượng calo được kê có khả năng tử vong thấp hơn những
bệnh nhân nhận ít hơn 1/3 số calo được kê. Nghiên cứu này
á
các thầy thuốc có thể tận dụng được các kết quả tìm kiếm, đánh
giá và tổng hợp đã được những người khác thực hiện.
không bao gồm những bệnh nhân lưu lại khoa chăm sóc tích
cực ngắn ngày và người ta đã có những điều chỉnh cho những
ngày kiểm tra đánh giá cũng như hiệu chỉnh các hiệp biến (co-
variants) quan trọng khác như điểm APACHE II, tuổi, giới và
4
chỉ số khối cơ thể BMI.
1
Một dịch vụ của Thư viện Y học Quốc gia Mỹ, PubMed®
cung cấp đường truy cập miễn phí tới các tóm tắt của các nghiên
cứu liên quan đến y học. Các chương trình trực tuyến hướng
dẫn các thầy thuốc lâm sàng cách đưa ra các yêu cầu để tạo
thuận lợi cho việc tìm kiếm các nghiên cứu lâm sàng và các bài
tổng quan hệ thống.
2
3
Mặt khác, cũng có nhiều điểm tương đồng giữa các hướng
dẫn thực hành lâm sàng bao gồm việc nuôi dưỡng qua ống
thông được ưa thích hơn nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch, bắt
đầu nuôi dưỡng qua ống thông trong vòng 24-48 giờ, nuôi
dưỡng qua ống thông có bổ sung dầu cá, carbohydrate và chất
béo, tư thế cơ thể trong quá trình cho ăn, nuôi dưỡng qua ruột
non với nuôi dưỡng qua dạ dày, nuôi dưỡng liên tục với các hình
thức nuôi dưỡng khác, nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch với
nuôi dưỡng tiêu chuẩn, các dạng chất béo bổ sung theo đường
tĩnh mạch, glutamine theo đường tĩnh mạch, nuôi dưỡng qua
đường tĩnh mạch liều thấp, sử dụng các chất chống oxi hoá,
vitamins và chất khoáng. Các thầy thuốc lâm sàng không nên
phân vân khi làm theo các chỉ dẫn này.
Các bài tổng quan Cochrane bao phủ nghiên cứu cơ bản về
hiệu quả của các nghiên cứu và can thiệp về sức khỏe, các chính
sách y tế. Những bài tổng quan này có thể truy cập tại đại chỉ
www.cochrane.org/cochrane-reviews. Một nguồn tìm kiếm
các bài tổng quan hệ thống khác, ADA's Evidence Analysis
Library (EAL) tổng hợp nghiên cứu dinh dưỡng phù hợp nhất
về các vấn đề thực hành dinh dưỡng quan trọng. Được đặt tại
thư viện trực tuyến và có thể cho phép các thành viên truy cập
tại địa chỉ http://www.adaevidencelibrary.com, EAL sử dụng
một phương pháp khách quan và rõ ràng để phát triển các bài
tổng quan hệ thống.
5,6
Giống như trong các nghiên cứu trước đây,
û
ä
cuộc Điều tra
Dinh dưỡng Quốc tế năm 2009, một nghiên cứu quan sát dọc
theo thời gian trên nhóm đối tượng gồm 157 khoa chăm sóc tích
cực trên thế giới, đã xác định các cơ hội cải thiện đối với những
trường hợp nuôi dưỡng bằng ống thông chưa phù hợp (thời gian
bắt đầu nuôi dưỡng bằng ống thông, quy trình nuôi dưỡng, nuôi
dưỡng qua ruột non và các thuốc kích thích nhu động ruột), tối
ưu dược dinh dưỡng (pharmaconutrition) và thắt chặt kiểm soát
chỉ số đường huyết.
å
å
E
C
N
F
A
D
A
a
u
c
t
a
b
i
o
n
m
e
i
Ñ
Hướng dẫn thực hành dựa trên bằng chứng (Evidence-
based practice – EBP) đã chuyển tải các kết quả nghiên cứu tốt
nhất và các dữ liệu khác thành một quy trình thực hành cho các
thày thuốc. Có thể tìm kiếm các hướng dẫn EBP tại Cơ quan
nghiên cứu y tế và chất lượng (Agency for Healthcare Research
and Quality) thông qua Nguồn dữ liệu quốc gia về các hướng
dẫn thực hành lâm sàng dựa trên bằng chứng (National
4
Guidelines Clearinghouse) tại địa chỉ www.guidelines.gov.
Các thành viên của ADA EAL cũng có thể truy cập các hướng
dẫn EBP thông qua Guidelines.gov. Kết nối với những minh
chứng được dùng làm căn cứ cho các hướng dẫn EAL, ADA
giúp người sử dụng có được các khuyến cáo hướng dẫn can
thiệp quan trọng trong đó bao gồm cả phần đánh giá, xếp hạng
các minh chứng đằng sau các khuyến nghị được đưa ra. ADA's
EAL cũng bao gồm cả các bộ công cụ giúp thực hiện các hướng
dẫn.
Quy trình xây dựng chế độ ăn tăng cường protein – năng
lượng thông qua con đường nuôi dưỡng bằng ống thông đối với
những bệnh nhân nặng (Enhanced Protein-Energy Provision
via the Enteral Route in Critically Ill Patiens (PEP-uP) sử dụng
một chương trình nuôi dưỡng tấn công bằng ống thông được
thiết kế nhằm áp dụng kiến thức vào tới giường bệnh. Quy trình
này là một sự chuyển đổi về cách nhìn, dựa trên việc xác định
những giải pháp cho những trường hợp nuôi dưỡng qua ống
thông chưa phù hợp, những giải pháp cụ thể, nhắm tới từng cá
5
nhân. Kết quả của nghiên cứu PEP-uP hiện vẫn chưa rõ ràng.
Tài liệu tham khảo
Trước khi đưa kết quả nghiên cứu mới vào thực hành, các
thầy thuốc lâm sàng cần phải đánh giá thông tin được cung cấp
trong các bản tổng quan hệ thống xem những thông tin đó có
phù hợp với điều kiện thực hành cụ thể hay không, đánh giá về
thời điểm áp dụng, cơ sở minh chứng, khả năng định kiến thiên
lệch và khả năng truy cập thông tin. Các thầy thuốc có thể sử
dụng bằng chứng để phát triển quy trình và hướng dẫn cụ thể
cho đơn vị của mình để giảm thiểu sai sót khác trong thực hành
và xác định các lĩnh vực còn chưa chắc chắn.
Tài liệu tham khảo
Xoùa boû khoaûng caùch giöõa thöïc haønh
laâm saøng vaø nghieân cöùu: Söû duïng
caùc toång quan heä thoáng vaø caùc
höôùng daãn döïa treân baèng chöùng
á
Xaây döïng moâ hình y teá gia ñình döïa
treân coäng ñoàng: Ñieàu phoái caùc
dòch vuï nhaèm caûi thieän dinh döôõng
vaø söï ñoäc laäp cho ngöôøi lôùn tuoåi
2
o
S
,
8
p
a
T
2
1
0
2
Do các tài liệu lâm sàng tăng lên theo số mũ, các bài tổng
quan một cách hệ thống và các hướng dẫn dựa trên bằng
chứng giúp những thầy thuốc lâm sàng có thể đưa ra những
quyết định thấu đáo và tăng chất lượng chăm sóc bệnh nhân
bằng cách trả lời những câu hỏi có liên quan đến lâm sàng.
ä
I
E
C
N
F
A
D
A
A
U
C
T
A
B
I
O
N
M
E
Ñ
Xây dựng các câu hỏi trọng tâm theo định dạng PICO –
là tên rút gọn của quần thể, can thiệp (hoặc quy trình hay
phương pháp), so sánh (hoặc can thiệp) và kết quả
(population, intervention (or procedure or approach),
comparison (or intervention) and outcome) – giúp các thầy
thuốc khoanh vùng tìm kiếm dễ dàng hơn. Các bài tổng quan
hệ thống và các hướng dẫn dựa trên bằng chứng cho phép
Trong một kỷ nguyên mà yêu cầu về tính minh bạch và trách
nhiệm xã hội trong chăm sóc sức khỏe ngày càng tăng, mô
hình y tế gia đình dựa trên cộng đồng có mục đích tổ chức và
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hướng tới giá trị trong
cải thiện sức khỏe của cá nhân và cộng đồng. Khái niệm mô
hình y tế gia đình lấy bệnh nhân làm trung tâm (patient-
centered medical home-PCMH) bao gồm hai khung khái
niệm – một mô hình chăm sóc ban đầu và một mô hình chăm
sóc bệnh mãn tính.
Û Ä Å Å
1
chảy do xuất tiết bằng cách tính khoảng trống thẩm thấu của
phân (fecal osmotic gap).
không bao gồm những bệnh nhân lưu lại khoa chăm sóc tích
cực ngắn ngày và người ta đã có những điều chỉnh cho những
ngày kiểm tra đánh giá cũng như hiệu chỉnh các hiệp biến (co-
variants) quan trọng khác như điểm APACHE II, tuổi, giới và
4
chỉ số khối cơ thể BMI.
Điều trị tiêu chảy mạn tính bằng chế độ dinh dưỡng bao
gồm các chất xơ hòa tan, các acid béo chuỗi ngắn và prebiotics.
Khi so sánh với chế độ ăn đối chứng, việc bổ sung chất xơ hòa
tan gồm các guar gum thủy phân một phần vào thịt gà nghiền
trong bảy ngày làm giảm một cách đáng kể lượng phân và thời
gian tiêu chảy trong một nghiên cứu tiến hành trên 116 trẻ nhũ
3
nhi có tiền sử mắc tiêu chảy phân lỏng nhiều nước kéo dài.
Bảy đặc trưng xác định mô hình y tế gia đình: Cá nhân
thày thuốc; thực hành lâm sàng do thày thuốc định hướng;
định hướng cá nhân; chăm sóc phối hợp hoặc tích hợp thông
qua hệ thống; chất lượng và an toàn; khả năng tiếp cận; và
thanh toán chi trả. Các thực hành lâm sàng của mô hình
PCMH có thêm trách nhiệm đặt lịch hẹn mở và dựa trên các
trường hợp bệnh trên quần thể; theo dõi những người được
giới thiệu và các test; sử dụng hồ sơ y tế điện tử; thu thập và
báo cáo dữ liệu để cải thiện chăm sóc sức khỏe; thiết lập
1
quan hệ đối tác với các nguồn lực trong cộng đồng.
Quá trình lên men các carbohydrate không tiêu hóa và
chất xơ hòa tan bởi các vi khuẩn đường ruột sẽ tạo ra các acid
béo chuỗi ngắn, chất cung cấp năng lượng bổ sung, giúp
tăng cường hấp thụ natri và nước, kích thích sự thích nghi
của niêm mạc ruột. Các chế độ dinh dưỡng giàu
carbohydrate và nghèo chất béo chuỗi dài trong đó MCTs
thay thế cho chất béo chuỗi dài rất có lợi, giúp tăng hấp thụ
năng lượng ở những bệnh nhân bị bệnh ở ruột non và có ruột
4
kết nguyên vẹn.
Điều phối hoạt động chăm sóc bệnh nhân đòi hỏi sự
phối hợp thận trọng giữa các nhà cung cấp dịch vụ y tế, các
điều kiện phương tiện làm việc, bệnh nhân và các nhân viên
chăm sóc để đảm bảo tính an toàn và sự liên thông hiệu quả.
Có thể giảm thiểu việc tái nhập viện bằng các chương trình
theo dõi, đánh giá kỹ năng xã hội, chức năng sống, hoặc thảo
luận với bệnh nhân giai đoạn cuối khi được chỉ định.
å
å
ä
Prebiotics kích thích tăng trưởng và hoạt động của vi
khuẩn của hệ tiêu hóa, bình thường hóa và duy trì chức năng
của ruột và tính toàn vẹn của ruột kết. Trong một nghiên cứu
có đối chứng ngẫu nhiên trên 142 bệnh nhân nhiễm
Clostridium difcile, việc thêm oligofructose prebiotic làm
thay đổi hệ vi sinh vật của phân và làm giảm tốc độ tái phát
5
so với nhóm dùng giả dược.
û
Tài liệu tham khảo
Ñ
i
e
m
n
o
i
b
a
t
c
u
a
A
D
A
F
N
C
E
Các dịch vụ dinh dưỡng cần phải liên kết với nhau qua
sự sắp đặt và các nhà cung cấp dịch vụ trong mô hình
PCMH. Các chuyên gia dinh dưỡng có đăng ký hành nghề
có thể thúc đẩy điều phối chăm sóc dinh dưỡng dựa trên
bằng chứng trong các mô hình PCMH. Để giới thiệu, các
chuyên gia dinh dưỡng của bệnh viện cần hiểu biết các dịch
vụ dinh dưỡng dựa trên cộng đồng (ví dụ, đồ ăn giao tại nhà
và các bữa ăn tập thể, các chương trình trợ giúp thực phẩm,
các chương trình trợ giúp y tế cho người cao tuổi) và các
chương trình dựa trên cộng đồng tự quản lý bệnh mạn tính,
phòng tránh ngã, bài tập thể dục cho người già, và giáo dục
về tiểu đường có cấp chứng chỉ.
Mô hình PCMH góp phần phấn đấu cho mục tiêu của
chính quyền bang là giảm tỷ lệ tái nhập viện ở các bệnh nhân
có bệnh mạn tính xuống 20%.
Tài liệu tham khảo
Cheá ñoä dinh döôõng cho beänh nhaân
tieâu chaûy: vöôït ra khoûi cheá ñoä
dinh döôõng BRAT
I
1
Ñ
E
M
N
O
I
B
A
T
C
U
A
A
D
A
F
N
C
E
Å Å Ä Û
Bệnh tiêu chảy cấp tính, kéo dài dưới 7 ngày, thường có
nguyên nhân từ nhiễm khuẩn và virus và thường được điều
trị bằng các thuốc chống tiêu chảy và các giải pháp bù nước
qua đường uống. Không nên quá kiêng khem đối với trẻ em
bị tiêu chảy cấp tính; trẻ nhũ nhi đang bú mẹ cần phải được
tiếp tục cho bú theo nhu cầu của trẻ và trẻ nhũ nhi bú bình
cũng cần phải được cho bú với lượng bình thường đầy đủ.
Công thức không có lactose ít khi được chỉ định. Trẻ cần
được cung cấp chế độ ăn tự do bao gồm carbohydrate phức,
hoa quả tươi, thịt nạc, sữa chua và rau. Các đồ uống có ga
hoặc các loại nước hoa quả thương mại có hàm lượng
2
carbohydrate đơn giản nên được loại bỏ khỏi thực đơn.
ä
2
0
1
2
T
a
p
8
,
S
o
2
á
Quan điểm trong bản tin này được các diễn giả
và người tham gia thể hiện, không thuộc Dinh dưỡng Nestlé.
Tiêu chảy mạn tính kéo dài hơn 4 tuần đa phần là do hội
chứng ruột kích thích, bệnh lý viêm ruột hoặc do phẫu thuật
ruột trước đó. Tiêu chảy mạn tính nên được phân loại là tiêu
chảy phân lỏng nhiều nước (tiêu chảy do thẩm thấu hay tiêu
Khoa hoïc hoã trôï
Dinh döôõng toát hôn
Cöông lónh
Baèng caùch chia seû thoâng tin vaø ñaøo
taïo döïa treân neàn taûng khoa hoïc, NNI
thuùc ñaåy ”Khoa hoïc vì moät neàn dinh
döôõng toát hôn” ñeå goùp phaàn vaø vieäc
naâng cao chaát löôïng cuoäc soáng cuûa
moïi ngöôøi.
Söù meänh
Vieän Dinh Döôõng Nestleù-NNI chia seû
thoâng tin vaø ñaøo taïo döïa treân neàn
taûng khoa hoïc haøng ñaàu vôùi caùc
nhaân vieân y teá, caùc nhaø khoa hoïc,
coäng ñoàng dinh döôõng ñoàng dinh
döôõng vaø caùc beân lieân quan.
Caùc chuû ñeà dinh döôõng
Mang thai, cho con buù & thôøi kyø nhuõ nhi
Thôøi thô aáu
Dò öùng & mieãn dòch
Suy dinh döôõng
Ngöôøi cao tuoåi
Giaûm caân & beùo phì
Dinh döôõng trong theå thao
Chaêm soùc laønh maïnh
Y teá coâng coäng
Phoøng vaø chöõa beänh
Tham khaûo theâm www.nestlenutrition-institure.org