
Định nghĩa Kinh tế học
Định nghĩa Kinh tế học
Điều đầu tiên chúng ta sẽ thảo luận là vấn đề định nghĩa "kinh tế
học". Các nhà kinh tế nói chung thường định nghĩa kinh tế học là
việc nghiên cứu xem các cá nhân và xã hội sử dụng những
nguồn tài nguyên hạn chế để thoả mãn những nhu cầu vô hạn
như thế nào. Để xem khái niệm này có nghĩa như thế nào, hãy
nghĩ về tình huống của bản thân bạn. Liệu bạn có đủ thời gian
làm mọi việc mà bạn muốn làm không? Bạn có thể mua mọi thứ
mà bạn muốn được sở hữu không? Các nhà kinh tế cho rằng
thực sự mọi người muốn nhiều thứ hơn. Thậm chí ngay cả
những người giàu nhất trong xã hội cũng không thoát được hiện
tượng này.
Quan hệ giữa các nguồn lực hạn chế và những mong muốn vô
hạn cũng được áp dụng với toàn xã hội nói chung. Liệu bạn có

nghĩ là bất kỳ xã hội nào cũng có thể thoả mãn mọi mong muốn?
Hầu hết các xã hội đều mong muốn có dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ tốt hơn, chất lượng giáo dục cao hơn, đói nghèo ít hơn, một
môi trường trong sạch hơn, vân vân. Thật không may, không có
đủ sẵn các nguồn lực để thoả mãn mọi mục tiêu này.
Hàng hoá kinh tế (economic goods) , Hàng hoá miễn phí (free
goods) và Hàng sa thải kinh tế (economic bads)
Một hàng hoá được coi là một hàng hoá kinh tế (còn được gọi là
một hàng hoá khan hiếm) nếu số lượng "cầu" hàng hoá vượt số
lượng "cung" tại mức giá bằng zero. Nói cách khác, một hàng
hoá là một hàng hoá kinh tế nếu mọi người muốn có nhiều hàng
hoá đó hơn số lượng hàng hoá có sẵn nếu nó được cấp miễn
phí.
Một hàng hoá được gọi là hàng hoá miễn phí nếu số lượng cung
hàng hoá vượt quá số lượng cầu hàng hoá tại mức giá bằng 0.
Nói cách khác, một hàng hoá là hàng hoá tự do nếu có nhiều

hàng hoá hơn số lượng hàng hoá cần đủ cho mọi người thậm chí
tới mức hàng hoá được cung cấp miễn phí. Các nhà kinh tế cho
là có tương đối ít nếu không muốn nói là không có hàng hoá miễn
phí.
Hàng sa thải kinh tế nếu mọi người sẵn sàng trả tiền để tránh gặp
phải điều đó. Ví dụ, hàng sa thải kinh tế bao gồm những thứ như
rác thải, ô nhiễm, bệnh tật.
Hàng hoá được sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ
khác được gọi là các nguồn tài nguyên kinh tế (và còn được gọi
là những nhân tố đầu vào của sản xuất. Những nguồn tài nguyên
này được phân thành các nhóm như sau:
1. Đất,
2. Lao động
3. Vốn, và
4. Khả năng làm doanh nghiệp.

Mục "đất đai" bao gồm tất cả các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Những nguồn tài nguyên thiên nhiên này bao gồm cả bản thân
đất đai, cũng như các khoáng sản, dầu mỏ, gỗ hoặc nước đang
tồn tại trên hoặc dưới mặt đất. Mục này đôi khi được cho là chỉ
gồm "những món quà miễn phí của tự nhiên", những nguồn tài
nguyên tồn tại độc lập với hoạt động con người.
Nhập lượng lao động bao gồm những dịch vụ về thể chất và trí
tuệ do hoạt động con người mang lại. Những nguồn lực được gọi
là "vốn" bao gồm máy móc và trang thiết bị để sản xuất ra sản
phẩm. Lưu ý việc sử dụng từ "vốn" khác với cách sử dụng từ này
trong cuộc sống hàng ngày. Chứng khoán, cổ phiếu và những tài
sản tài chính khác không phải là "vốn" theo định nghĩa này.
Khả năng làm doanh nghiệp liên quan tới khả năng tổ chức sản
xuất và chịu rủi ro. Bạn không nên liệt kê nó như một nguồn lực
tách biệt mà thay vào đó nên coi nó như một dạng của nhập
lượng về lao động. Mặc dù hầu hết tất cả những phần giới thiệu
trong sách trên được liệt kê như một nguồn lực tách biệt. (Không,

sách của bạn không sai, mà nó chỉ sử dụng cách khác để phân
loại các nguồn lực. Mặc dù vậy, tôi nghĩ tốt hơn nên gắn nó với
những gì đã được phân loại theo tiêu chuẩn trong khoá học này).
Hình thức thanh toán cho mỗi nguồn lực được liệt kê trong bảng
dưới đây:
Nguồn tài nguyên kinh tế Hình thức thanh toán
đất đai thuế
lao động lương
vốn lãi suất
khả năng làm doanh nghiệp
lợi nhuận
Tư lợi hợp lý
Như đã lưu ý ở trên, sự khan hiếm dẫn tới sự cần thiết phải lựa
chọn những hình thức cạnh tranh thay thế. Các nhà kinh tế cho là
các cá nhân theo đuổi sự tư lợi hợp lý của họ khi đưa ra sự lựa
chọn. Điều này có nghĩa người ta cho là các cá nhân, với những

