
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH BÁN LẺ NỘI ĐỊAVIỆT NAM VỚI NHỮNG
THÁCH THỨCTRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
TS. Ngô Tuấn Anh
Đại học Kinh tếQuốc dân
Tóm tắt
Bối cảnh cách mạng công nghiệp4.0 đang diễn ra mạnh mẽtrên thếgiới và chắc chắn
sẽcó tác động mạnh đến ngành bán lẻcủa Việt Nam ởhiện tại và thời gian tới. Tuy nhiên đi
kèm với cơ hội là những thách thức lớn đối với ngành và các doanh nghiệp ngành bán lẻViệt
Nam nếu không tận dụng được.
Nghiên cứu này đánh giá những cơ hội và khó khăn đối với các doanh nghiệpbán lẻ
nội địa Việt Nam sẽ phải đối mặt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, từđó giúp chính
phủ, các doanh nghiệpbán lẻcó những điều chỉnh phù hợp.
Từkhóa: Ngành bán lẻ, cách mạng 4.0, doanh nghiệp bán lẻ
Abstract
The growing trend of the Industrial revolution 4.0 around the world will have a huge impact
on the Vietnamese retail industry at present and in the future. It will not only bring about
opportunities but also challenges for the retail industry and businesses in Vietnam.
This research assesses the opportunities and constraints encountered by Vietnamese local
retail businesses under the context of the Industrial revolution 4.0, hence supporting the
government and retail businesses to make appropriate adjustments.
Keywords: Retail industry, Industrial revolution 4.0, Retail business.
1. Giới thiệu
Sau khi gia nhậpWTO năm 2007 và đặc biệtthời gian qua Việt Nam đẩy mạnh đàm
phán, ký kết nhiều các Hiệp định thương mại tựdo (FTA) nhưvới Chi Lê, Hàn Quốc, CPTPP,
FTA- EU, tham gia Cộng đồng ASEAN…là tiền đề cho các tập đoàn bán lẻlớn củanước
ngoài gia nhập thịtrường Việt Nam, như Aeon (Nhật), Lotte (Hàn Quốc), các tập đoàn của
Thái Lan đã mua Big C và Mettro. Đồng thời các doanh nghiệp bán lẻViệt Nam như
Vinmart, Saigon Co.op cũng đẩy mạnh xây dựng hệthống bán lẻ,tạo sựcạnh tranh gay gắt
trong ngành bán lẻtạiViệt Nam hiện tại và trong tương lai, với dựbáo thịtrường bán lẻViệt
Nam thểđạt doanh thu từ102 tỷUSD lên 179 tỷUSD sau 5 năm nữa. Theo dựbáo củaBộ
Công Thương, ngành bán lẻsẽtăng trưởng bình quân 20 - 21%/nămtừnăm2016 - 2020. Cả
nướcsẽcó khoảng 1.300 siêu thị, 180 trung tâm thương mạivàonăm2020. Đây là cơhộilớn
đốivới các doanh nghiệpbánlẻ, và các doanh nghiệpnộiđịasẽbịđẩybậthoặcbịthông tính
307

nếu không có chiến lược cạnh tranh với các đối thủnước ngoài. Với dân sốtrên 90 triệu
người, thịtrường bán lẻViệt Nam đang hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư.
Việc tham gia các FTA và đẩy mạnh hội nhập kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội đối với
ngành bán lẻ của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với các tập
đoàn bán lẻ nước ngoài.Khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam cam kết cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực
bán lẻ kể từ sau ngày 1/1/2009, qui định này hầu như mở hoàn toàn thị trường bán lẻ cho
nước ngoài.
Tuy nhiên cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới có tác động
lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và ngành bán lẻ cũng không ngoài xu hướng đó, xu
hướng hội nhập cũng mang đến sự lan toả mạnh mẽ hơn của cuộc cách mạng này đối với Việt
Nam. Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân
tạo (AI), Vạn vật kết nối -Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trong cách mạng
công nghiệp 4.0 thì khách hàng và công nghệ sẽ có tác động lớn tới mọi khía cạnh trong lĩnh
vực bán lẻ, các doanh nghiệp có theo kịp xu hướng công nghệ trong lĩnh vực này để đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng mới có thể tồn tại và phát triển được. Do đó, các doanh nghiệp
bán lẻ phải nhận diện được những cơ hội và thách thức để có những điều chỉnh phù hợp.
2. Những cơ hội và thách thứcđốivới các doanh nghiệp bán lẻViệt Nam
2.1. Những cơhội
2.1.1. Sàng lọc và xây dựng hệthống doanh nghiệp bán lẻcó sứccạnh tranh trên
thịtrường
Nếu doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh sẽ bịđào thải khỏi thịtrường. Do đó, đây
sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp bán lẻcó năng lực cạnh tranh yếu nhưng cũng là
sức ép để các doanh nghiệp nội địa phải nâng cao sức cạnh tranh của mình, nếu không sẽ
không đấu lại được với các tập đoàn bán lẻnước ngoài hiện diện tại thịtrường Việt Nam. Do
đó, đây có thểlà cơ hội hình thành được hệthống các doanh nghiệp đủ mạnh, cạnh tranh sòng
phẳng với các tập đoàn bán lẻmạnh trên thếgiới.
Để nâng cao được năng lực cạnh tranh trong bối cảnh cách mạng 4.0 thì doanh nghiệp
bán lẻ nội địa phải tận dụng được sự phát triển của công nghệ hiện đại vào hoạt động quản trị
và bán hàng, đó là thương mại điện tử E- commerce, Mobile commerce, đó là quản lý dây
chuyền cung ứng và phát triển kênh, hệthống phân phối và bán hàng hiện đại, đó là tái cấu
trúc doanh nghiệp trên cơ sở cách mạng 4.0 tập trung vào khâu tổchức và phân quyền và xây
dựng các mối liên kết.
Trong giai đoạn hội nhập và cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp muốn
đứng vững được sẽ phụ thuộc vào việc có thu hút được khách hàng không; có thoảmãn được
khách hàng không; và có duy trì được lòng trung thành của họ không. Vì vậy, khách hàng
308

chính là nhân tố quyết định đến sự tồn tại, phát triển và thành công của doanh nghiệp, và đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong các hoạt động quản lý và
kinh doanh của doanh nghiệp là nhân tố góp phần vào thành bại của doanh nghiệp trên thương
trường. ICT giúp các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh trên thịtrường. Trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ứng dụng ICT có 2 hướng chính là sử dụng các phương
tiện ICT trong hiện đại hóa dây chuyền sản xuất (chủ yếu là tựđộng hóa và robot hóa) và ứng
dụng ICT phục vụ quản lý kinh doanh, như giải pháp quản lý bán hàng, quản lý kho, quản lý
sản xuất cho doanh nghiệp… giúp các doanh nghiệp có thêm nhiều phương án chọn lựa giải
pháp ứng dụng công nghệ phù hợp với quy mô và chiến lược phát triển kinh doanh của công
ty, góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ. Tối ưu hóa
quy trình kinh doanh bằng ứng dụng công nghệ nhằm tiết kiệm chi phí và nguồn lực là một
trong những mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp hiệnđại. Tuy nhiên việc lựa chọn
phần mềm quản lý, giải pháp ứng dụng nào là phù hợp với đặc thù, cá tính riêng để tận dụng
và phát huy tối đa thếmạnh của mỗi doanh nghiệp lại càng quan trọng hơn.
Công nghệ thông tin và truyền thông là nền tảng cho sự hình thành và phát triển của
Internet và thương mại điện tử. Thương mại điện tử(TMĐT) đã làm tăng thêm tính cạnh tranh
cho các doanh nghiệp. Để thành công hoặc tồn tại khi kinh doanh trong một môi trường năng
động thì các công ty không chỉ chú trọng đến những hoạt động truyền thống đơn thuần như cắt
giảm chi phí, loại bỏnhững bộphận làm ăn không có hiệu quả... mà còn phải phát triển các hoạt
động cải tiến như chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới,
đẩy mạnh các dịch vụtăng thêm..vv.. Với sựtrợ giúp của công nghệ thông tin và truyền thông,
thương mại điện tửlàm tăng thêm tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Thương mại điện tửcho
phép các công ty dễ dàng cung cấp cho khách hàng sựhiện diện toàn cầu và có xu thế tạo lợi
nhuận cho cảcông ty lớn và nhỏ. Vì sân chơi bình đẳng hơn nên thông qua các Website của mình,
các công ty nhỏcũng có thểđạt được một doanh thu như một công ty lớn mà điều này dường như
không tưởng trong môi trường thương mại truyền thống, đây là công cụ nâng cao khảnăng cạnh
tranh và mở rộng thịtrường hữu ích cho doanh nghiệp.
Việt Nam là quốc gia có dân sốtrẻ, có nhiều thuận lợi trong sử dụng, khai thác các
tiện ích do internet và thương mại điện tử mang lại, đây sẽlà xu hương tại Việt Nam trong
tương lai gần, và rõ ràng ngành bán lẻ trong cách mạng 4.0 sẽ có dựa rất nhiều bởi công nghệ
số và internet. Đây là thế mạnh của các tập đoàn bán lẻnước ngoài, và khi Việt Nam vào
WTO đã mở cửa thông thoáng cho các doanh nghiệp nước ngoài vào thịtrường Việt Nam,
đây là sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội địa, khi mà ngay cả cách mạng công
nghiệp 3.0 chúng ta cũng chưa bắt kịp thì đến cách mạng 4.0 đối với các doanh nghiệp Việt
Nam là thách thức vô cùng lớn, đơn giản là thương mại điện tửđã rất thành công trên thếgiới
nhưng Việt Nam vẫn chỉ là chập chững với những bước tiến chậm chạp trên 10 năm nay, nếu
không có những đột biến thì rất khó vì họ có lợi thếngười đi trước. Hơn nữa cách mạng công
nghiệp 4.0 dựa trên một nền tảng dữliệu lớn (Big Data) và trí tuệ nhân tạo là lợi thế của các
309

tập đoàn bán lẻnước ngoài.
Do đó, các doanh nghiệp bán lẻ nội địa nếu không nắm bắt được xu hướng này sẽ có
thể bị bật khỏi thịtrường nội địa và việc nâng cao khảnăng cạnh tranh, chuyển hướng phù
hợp với cách mạng 4.0 là tất yếu; hy vọng với sự học hỏi khi các tập đoàn nước ngoài vào thị
trường Việt Nam chúng ta có thể xây dựng được các mối liên kết, học hỏi nhanh để rút ngắn
khoảng cách. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp 4.0 có thểlà khó đối với doanh nghiệp nội
địa trong cạnh tranh với các doanh nghiệp bán lẻnước ngoài nhưng đây là ngoạiứng tích cực
chắc chắn sẽgiúp cho người tiêu dùng hưởng lợi và các doanh nghiệp bán lẻ nội địamột động
lực sống còn để tồn tại và phát triển nếutận dụng được.
2.1.2. Mởrộng thịtrường và hội nhậpquốc tế, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại (FTA) luôn đi kèm với các đòi hỏi mở
cửa thị trường và giảm thuế nhập khẩu cho các đối tác thương mại. Đây là cơ hội cho các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp bán lẻtrong việc mở rộng thị trường bởi
môi trường thương mại hiệu quả, minh bạch và dễ dự đoán, cùng với việc đơn giản hóa thủ
tục hải quan, loại bỏ các rào cản thương mại và dịch vụ, hơn thế các doanh nghiệp có cơ hội
tiếp cận với thị trường rộng lớn hơn là những đối tác của nước/vùng lãnh thổ có FTA với Việt
Nam thông qua các FTA riêng rẽmà họ đã ký kết.Từ đó, giúp các doanh nghiệp có thể tham
gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn cầu.
Thế giới theo đuổi cách mạng 4.0 sẽ là nhân tố tích cực giúp các doanh nghiệp nội địa
phải đáp ứng được với các chuẩn mực và kỹ năng khi hợp tác, cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài, đó là các xây dựng kênh phân phối, đổi mới tổ chức và phương thức bán
hàng, đó là ứng dụng công nghệ vào hoạt động sản xuất kinh doanh đặc biệt ứng dụng
Internet và thương mại điện tử, thanh toán điện tử, các hoạt động Logistics….
2.1.3. Thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạothêm nhiều việc làm
Có trên 500 cửa hàng tiện ích tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó 60% do các tập
đoàn nước ngoài đầu tư, và sắp tới sẽ có xu hướng mạnh hơn vì sự hấp dẫn và các rào cản dần
bị dỡ bỏ. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài có nhiều lợi thế về vốn, thương hiệu, mạng lưới, kỹ
năng bán hàng, tuyên truyền quảng cáo, an toàn vệ sinh… Xu hướng thay thế các loại hình
bán lẻ truyền thống bằng các loại hình bán lẻ hiện đại đang diễn ra khá mạnh mẽ ở các đô thị
lớn. Thông qua thu hút đầu các doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp phân bổ nguồn lực tốt hơn,
tạo sức ép cạnh tranh lớn cho các doanh nghiệp nội địa. Với sức mạnh vượt trội, các doanh
nghiệp bán lẻ nước ngoài thu hút được các địa điểm đẹp để kinh doanh mà các doanh nghiệp
Việt không đủ nguồn lực để thuê.
Cách mạng 4.0 sẽ thúc đẩy các quốc gia phát triển nguồn nhân lực đáp ứng cách mạng
công nghiệp 4.0. Đây là vấn đề đặt ra tầm quốc gia và dĩ nhiên ngành bán lẻ cũng có được sự
lan toả. Các cuộc cách mạng công nghiệp muốn thành công phải có các cá nhân dẫn dắt, cách
310

mạng 3.0 có những cá nhân làm cách mạng như Bill Gates, Steve Job, Larry Ellison, Lary
Page….sẽ là các ngoại ứng dương thúc đẩy các thế hệ tiếp nối trên toàn thế giới trong đó có
Việt Nam trong Cách mạng Công nghiệp 4.0.
2.2. Một sốkhó khăn, thách thứcđối với các doanh nghiệp bán lẻViệt Nam
2.2.1 Thịtrường nội địa hiệnbịkhống chếbởi các doanh nghiệp nước ngoài
Bắt đầu từ ngày 11.1.2015, các nhà bán lẻnước ngoài sẽđược phép thành lập doanh
nghiệp 100% vốn tại Việt Nam theo cam kết với WTO. Các doanh nghiệp nước ngoài có lợi
thế về vốn, kinh nghiệm quản lý, quản trị sẽáp đặt cuộc chơi trên thịtrường. Bắt đầu từnăm
2015, lĩnh vực bán lẻđãchứng kiến các thương vụ mua bán, thôn tính của các doanh nghiệp
nước ngoài tại thịtrường Việt Nam, đó là Central Group (Thái Lan) đã mua lạiBig C Việt
Nam, Berli Jucker (BJC) Thái Lan mua lại Metro Cash & Carry Việt Nam (MCC Việt Nam)
bao gồm 19 trung tâm phân phối và danh mục bất động sản có liên quan, tổng giá trị trên 650
triệu Euro. Tập đoàn Aeon (Nhật Bản) đã mua 30% cổ phần của Fivimart và 49% của
Citimart nhằm đẩy mạnh xâm nhập của hàng hóa Nhật Bản và các doanh nghiệp của Nhật vào
Việt Nam. Từnhiều năm nay, hàng hoá của các nước khác trong khối ASEAN đã tràn ngập
thịtrường Việt Nam, như sản phẩm dao gọt trái cây, hay lon nước tăng lực của Thái Lan và sẽ
còn phổbiến hơn nữa trong thời gian tới, hay các doanh nghiệp sản xuất hàng điện tử Việt
Nam đối mặt với nguy cơ bị đẩy ra khỏi ngành do hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan và
Singapore. Các doanh nghiệp sẽphải chịu sựcạnh tranh gay gắt hơn khi gia nhập Cộng đồng
kinh tếAsean (AEC), nếu như không đổi mới hoạt động quản trịdoanh nghiệp, nâng cao chất
lượng sản phẩm, tăng cường quảng bá thương hiệu thì những doanh nghiệp yếu kém sẽthất
bại. Bởi trong những năm vừa qua, doanh nghiệp Việt Nam đối mặt với hàng hoá giá rẻtừ
Trung Quốc, đa phần là chất lượng kém so với Việt Nam. Tuy nhiên, khi gia nhập AEC,
doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh với những tên tuổi lớn từcác nước ASEAN với hàng
hóa chất lượng cao, giá cảcó thểthấp hơn hàng hóa Việt Nam.
Bảng 1: Lộtrình cắt giảm thuếtheo ASEAN
Danh mụcViệt Nam
ASEAN –6( Brunei, Malaysia,
Indonesia, Philippines, Singapore
và Thái Lan)
Cắt giảm thuếquan xuống 0-5%
Vào 2009
Vào 2009 (80% dòng thuế0%)
E - ASEAN
0% vào 2010
0% vào 2009
Danh mục ưu tiên hội nhập (PIS)
0% vào 2012
0% vào 2010
Danh mục nhạy cảm (SL)
0-5% vào 2013
----
Xoá bỏhạnngạch thuếquan
(TRQs)
3 đợt 2013-2014-
2015/2018
3 đợt 2008-2009-2010 (Thái Lan)
Xoá bỏthuếquan vềcơ bản
0% vào 2015/2018
0% vào 2010
Nguồn: BộCông Thương (2015)
311