
472
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
SỰ THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀO CHUỖI GIÁ
TRỊ TOÀN CẦU VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG
Trần Thị Thu Hƣờng, Nguyễn Thi Thu Trang,
Học viện Ngân hàng
Tóm tắt:
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) có nhiều đóng góp trong việc tạo công ăn việc
làm, cải tiến sáng tạo cho mỗi nền kinh tế. Vì vậy, tăng cường sự DNNVV tham gia vào chuỗi
giá trị toàn cầu đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy sự phát triển kinh tế và đang là ưu tiên
trong chiến lược phát triển của rất nhiều quốc gia. Nhận thức được tầm quan trọng đó, nghiên
cứu đã tiến hành tìm hiểu, phân tích chuối giá trị toàn cầu, đặc điểm, những khó khăn thuận lợi,
c ng như các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình DNNVV khi tham gia vào chuỗi giá trị. Kết quả
ch ra rằng có hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của DNNVV vào chuỗi giá trị toàn
cầu bao gồm: (i) nhóm nhân tố vĩ mô (sự hỗ trợ của Chính phủ, sự phát triển của thị trường tài
chính và tự do hóa thương mại); (ii) nhóm nhân tố vi mô (quy mô doanh nghiệp, tuổi doanh
nghiệp và năng suất lao động)
Từ khóa: chuỗi giá trị toàn cầu, doanh nghiệp vừa và nhỏ
THE PARTICIPATION OF SMEs IN GLOBAL VALUE CHAINS AND ITS
DETERMINANTS
Abstract:
Small and medium-sized enterprises (SMEs) have many contributions in creating jobs
and improving innovation for economy. Therefore, enhancing SMEs' participation in the global
value chains plays an important role in promoting economic development and is one of priority
policies in the development strategies of many countries. The study conducts research and
analysises of global value chains, the characteristics, the advantages and challenges to join
global value chains, as well as determinantes affecting the participation of SMEs to the global
value chains. There are two group of determinantis: macro factors (included: Government
suppor, the development of financial markets and trade liberalization) and micro factors
(included enterprises‟ size, age and productivity)
Keywords: global value chains, SMEs

473
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1. Tổng quan về chuỗi giá trị toàn cầu
1.1. Khái niệm về chuỗi giá trị toàn cầu
Những năm gần đây, các thỏa thuận tự do thương mại và đầu tư đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu (Global value chains- CGTTC) với vai trò là trụ cột chính
cho kết nối của các nền kinh tế. Khái niệm về chuỗi giá trị toàn cầu có thể bắt nguồn từ cuối
những năm 1970 với một số công việc liên quan đến ―chuỗi hàng hóa‖ (Bair, 2005). Cụ thể, ý
tưởng ban đầu của CGTTC là theo dõi tất cả các tập hợp đầu vào và những quy trình biến đổi để
tạo ra hàng hóa ―tiêu dùng sau cùng‖ (Hopkins và Wallerstein, 1977). Sau đó khái niệm về
―chuỗi hàng hóa toàn cầu‖ đã được giới thiệu trong các ấn phẩm của Gary Gereffi (1994) qua ví
dụ về chuỗi hàng hóa may mặc; trong đó, mô tả quy trình chuyển đổi từ nguyên liệu thô (như
bông, len hoặc sợi tổng hợp) đến các sản phẩm cuối cùng (hàng may mặc).
Vào những năm 2000, bắt nguồn từ phân tích của tổ chức công nghiệp và thương mại,
thuật ngữ ―chuỗi hàng hóa toàn cầu‖ đã thay đổi thành ―chuỗi giá trị toàn cầu‖ và được định
nghĩa như một chuỗi giá trị gia tăng trong tài liệu kinh doanh quốc tế (Porter, 1985). Dựa trên
khái niệm này, Gereffi và các cộng sự (2005) đã xây dựng một khung lý thuyết để phân tích
chuỗi giá trị và mô tả các loại hình khác nhau của quản trị chuỗi giá trị toàn cầu. Cụ thể, sự khác
biệt giữa các ―chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối‖ và ―chuỗi giá trị do người mua chi phối‖
được nhấn mạnh. Trong đó, chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối được tìm thấy trong các lĩnh
vực công nghệ cao như ngành bán dẫn hoặc dược phẩm. Còn chuỗi giá trị do người mua chi phối
thường ở các ngành có hàm lượng công nghệ ít hơn, và những người bán lẻ, các nhà tiếp thị có
thương hiệu sẽ kiểm soát việc sản xuất.
Ngoài cách tiếp cận theo mối liên hệ giữa các công ty, ngành sản xuất, quốc gia, chuỗi
giá trị toàn cầu được tiếp cận theo hướng gia tăng giá trị sản xuất. Cụ thể, Koopman và cộng sự
(2010) cho rằng chuỗi giá toàn cầu bao gồm hàm lượng nhập khẩu có trong xuất khẩu (giá trị
quá khứ- backward participation), nhưng bổ sung thêm phần giá trị gia tăng nội địa (domestic
value added), chính là phần đầu vào trung gian được sử dụng ở quốc gia thứ ba để xuất khẩu
tiếp. Tương tự như vậy, Timmer cùng cộng sự (2014) cho rằng chuỗi giá trị toàn cầu của sản
phẩm cuối cùng bao gồm giá trị gia tăng của tất cả các hoạt động cần thiết trực tiếp và gián tiếp
phục vụ hoạt động sản xuất. Các quan điểm này thống nhất với định nghĩa của OECD (2013):
―Chuỗi giá trị toàn cầu là toàn bộ quá trình sản xuất hàng hóa, từ nguyên liệu thô cho tới thành
phẩm, được thực hiện ở bất cứ nơi nào mà kỹ năng và nguyên liệu cần thiết để sản xuất đều có
sẵn tại mức giá cả cạnh tranh cũng như đảm bảo chất lượng thành phẩm‖.
Như vậy, có thể hiểu rằng chuỗi giá trị toàn cầu đơn giản là chuỗi các hoạt động mà các công ty
ở các quốc gia khác nhau cùng liên kết thực hiện nhằm mục đích cung cấp hàng hóa hoặc dịch
vụ cho người sử dụng với chất lượng tốt nhất và mức chi phí thấp nhất
1.2. Đặc điểm của CGTTC
Có ba đặc điểm chính của CGTTC trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay: tỷ trọng đầu
vào trung gian lớn hơn trong tổng thương mại, phát triển mạng lưới sản xuất toàn cầu và sự hiện
diện của các bên tham gia
Thứ nhất, tỷ trọng đầu vào trung gian chiếm tỷ trọng lớn

474
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
Các giai đoạn sản xuất phân tán trên toàn thế giới và chúng thường được sở hữu hoặc
kiểm soát bởi các nhà cung cấp độc lập. Một lượng đáng kể các chuỗi cung ứng quốc tế này có
quy mô khu vực mà không phải toàn cầu (Baldwin, 2009). CGTTC vẫn chiếm đa số, nhưng các
chuỗi khu vực đang ngày càng có tầm quan trọng trong nghiên cứu chuỗi giá trị hơn so với toàn
bộ ngành công nghiệp (Staritz cùng cộng sự 2011). Trong CGTTC không phải tất cả các công ty
và quốc gia đều tham gia như nhau. Liên kết các nền kinh tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác nhau (ví dụ: vị trí, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, môi trường đầu tư, vốn nhân lực, v.v.). Các
nhà hoạch định chính sách của các quốc gia khác nhau có thể ảnh hưởng đáng kể đến mức độ
tham gia vào CGTTC của các công ty. CGTTC ngày nay vẫn bị chi phối bởi các doanh nghiệp
đa quốc gia của các nền kinh tế tiên tiến, như các công ty từ Hoa Kỳ, Nhật Bản hoặc Đức
(Alvstam cùng cộng sự 2016).
Thứ hai, vấn đề phát triển mạng lưới sản xuất toàn cầu
Các tổ chức phải đối mặt với những thay đổi không ngừng gia tăng trong môi trường vĩ
mô, công nghiệp và vi mô, đòi hỏi họ phải trở nên năng động hơn và thích nghi nhanh hơn với
môi trường hỗn loạn và phức tạp (Balaton cùng cộng sự 2014; Balaton - Tari, 2014). Chất lượng
và hiệu quả của các dịch vụ logistics phát triển và hợp tác pháp lý quốc tế là rất cần thiết khi
tham gia CGTTC, ví dụ: trong trường hợp thương mại, điều quan trọng là tránh sự chậm trễ
không cần thiết, cắt giảm chi phí và giảm tính bất ổn. Việc tích hợp thành công vào CGTTC có
nhiều tác động tích cực đến thương mại, tăng trưởng, thị trường lao động và phát triển kinh tế
chung của các quốc gia (OECD, 2014), bởi vì các công ty tham gia có quyền tiếp cận các công
nghệ và bí quyết mới, giúp tăng năng suất. Hơn nữa, CGTTC có thể cho phép tiếp cận thị trường
toàn cầu và để có được khả năng nắm bắt kiến thức về công nghệ và quản lý. Đồng thời, tham
gia CGTTC có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của các công ty khác bằng cách hạn chế họ
tham gia hoặc loại trừ họ khỏi CGTTC (Contreras cùng cộng sự 2010).
Thứ ba, thành phần tham gia trong CGTTC
CGTTC chủ yếu bao gồm các công ty tư nhân phát triển khác nhau từ DNNVV đến
doanh nghiệp đa quốc gia (MNE), với các vị trí khác nhau trong hệ thống phân cấp CGTTC,
thường có đặc điểm tổ chức và ngành nghề khác nhau. Nhìn chung các chuỗi giá trị bị chi phối
bởi các MNE lớn, có phạm vi thực hiện các hoạt động có giá trị cao nhất và họ xác định các điều
kiện tham gia cho các công ty khác, bao gồm nâng cao cơ hội cho họ (OECD, 2014). Hoạt động
tham gia CGTTC điển hình cho các doanh nghiệp nhỏ là bán hàng hóa và dịch vụ cho các MNE
lớn hơn. Theo OECD, 80-90% tổng số việc làm ở các nước đang phát triển được thuê bởi các
công ty trong CGTTC, do đó, việc kích thích các công ty đó tham gia vào CGTTC là hợp lý.
Chính sách phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các chương trình phát triển nhà cung cấp
có thể đóng góp trực tiếp vào sự hợp tác với các công ty nước ngoài. Tuy nhiên, các DNNVV
cũng phải đối mặt với những rào cản nhất định do chính phủ hoặc các công ty nước ngoài đặt ra;
hơn nữa, họ phải có khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế khác nhau. Một số quốc gia kém
phát triển và các DNNVV đã không đáp ứng được yêu cầu của các thị trường thu nhập cao
(Staritz cùng cộng sự 2011). Rào cản cho các công ty trong nước thường phát sinh từ khiếm
khuyết hoặc điểm yếu trong thị trường tài chính, cơ sở hạ tầng, vốn nhân lực hoặc trong ngành

475
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
công nghiệp trong nước. Điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng những lợi thế tiềm năng có thể
đạt được khi tham gia CGTTC không chỉ phụ thuộc vào các chuỗi nơi các doanh nghiệp vừa và
nhỏ hoạt động, mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của một quốc gia. Môi trường kinh
doanh và các tổ chức ảnh hưởng đến khả năng tăng năng suất và tăng cường các hoạt động giá trị
gia tăng trong phạm vi CGTTC của các công ty trong nước (OECD, 2014).
2. DNNVV tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
CGTTC tạo ra nhiều cơ hội mới cho các nước đang phát triển, làm gia tăng sự tham gia
của các nước này trên thị trường toàn cầu và đa dạng hóa xuất khẩu, từ đó mang lại rất nhiều lợi
ích cho các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Việc tham gia CGTTC vừa là cơ hội
vừa là thách thức đối với các DNNVV.
Việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu góp phần gia tăng năng suất, tăng trưởng nhanh
hơn và mang lại lợi ích cho các DNNVV. Trên thực tế, DNNVV cũng sẽ gặp rất nhiều vấn
đề như: chỉ quen với các đơn hàng nhỏ, chất lượng sản phẩm không đồng nhất, giao hàng
không đúng hạn, thiếu các công đoạn gia công có chất lượng, chi phí đầu vào cao, năng lực
thương mại hạn chế… Nhưng khi các doanh nghiệp này có chiến lược phát triển đúng đắn,
đạt được ngưỡng cạnh tranh nhất định, thì đây chính là cánh cửa mở ra cho họ bước vào mạng
lưới sản xuất toàn cầu
Các DNNVV khi tham gia vào CGTTC sẽ tận dụng được lợi thế của mình, từ đó họ sẽ
tập trung phát huy điểm mạnh, nỗ lực giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tối đa hóa
doanh thu để đạt được một mức lợi nhuận cao hơn. Một trong những lợi thế lớn nhất của các
DNNVV khi tham gia đó là giảm được các chi phí thương mại đã giảm đáng kể. Chi phí thương
mại bao gồm toàn bộ chi phí mà các công ty phải chi trả giữa nhà máy hoặc văn phòng nơi sản
xuất và tạo ra hàng hóa hoặc dịch vụ và người tiêu dùng cuối cùng. Trong trường hợp hàng hóa,
chi phí thương mại bao gồm vận tải đường bộ và chi phí cảng, cước vận chuyển và chi phí bảo
hiểm, thuế quan và thuế, và chi phí liên quan đến các biện pháp phi chính phủ. Trong trường hợp
dịch vụ, chi phí vận chuyển được thay thế bằng chi phí liên lạc (mặc dù các dịch vụ cũng có thể
được cung cấp thông qua các thể nhân phải đi đến quốc gia nơi có người tiêu dùng) và các rào
cản thương mại là các biện pháp phi thuế quan. Các chi phí quan trọng khác liên quan đến chuỗi
giá trị toàn cầu là chi phí phối hợp vì các hoạt động phân tán theo khu vực địa lý phải được quản
lý một cách nhất quán
Tuy nhiên khi tham gia vào CGTTC, các DNNVV cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức. Khó khăn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu
là không đáp ứng được giá theo yêu cầu do chi phí đầu vào cao như thuế, phí, chi phí không
chính thức... Bên cạnh đó là sản xuất chưa tinh gọn khiến giá thành đội lên. Doanh nghiệp trong
nước không đáp ứng được đơn hàng theo yêu cầu. Doanh nghiệp nhỏ nên chỉ đáp ứng được đơn
hàng nhỏ, còn với đơn hàng lớn khó có khả năng đáp ứng đúng hạn và thiếu các công đoạn gia
công có chất lượng, thiếu tiêu chuẩn quản lý phù hợp...Ngoài ra, những doanh nghiệp này còn
thiếu kênh phân phối, năng lực thương mại hạn chế cũng như thiếu thông tin về xu thế, công
nghệ, thị trường, sản phẩm, đối thủ cạnh tranh hay nhà cung cấp...

476
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0
3. Nhân tố ảnh hƣởng đến việc DNNVV tham gia CGTTC
So với các doanh nghiệp lớn thì các DNNVV gặp khó khăn hơn trong việc tham gia
CGTTC. Nghiên cứu của Ting (2004) khi nghiên cứu về các DNNVV tại Malaysia đã chỉ rõ các
khó khăn và thách thức này bao gồm: khả năng tiếp cận tài chính, nhân sự, khả năng ứng dụng
công nghệ và thiếu thông tin về thị trường tiềm năng, khách hàng và cạnh tranh toàn cầu. Việc
xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới việc doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng tham gia
vào CGGTC có ý nghĩa quan trọng giúp thúc đẩy việc tham gia CGTTC của các DNNVV. Các
nghiên cứu thường đứng trên quan điểm các nhân tố vĩ mô, các nhân tố vi mô hoặc tổng thể cả
hai nhóm nhân tố tác động. Trong đó, nhóm nhân tố vĩ mô bao gồm sự hỗ trợ của Chính Phủ, sự
phát triển của thị trường tài chính và tự do hóa thương mại. Nhóm các nhân tố vi mô bao gồm
các nhân tố về quy mô doanh nghiệp, tuổi doanh nghiệp, năng suất lao động của doanh nghiệp.
Nhóm nhân tố v mô
Th nhât, sự hỗ trợ của Chính phủ. Không phải DNNVV nào cũng có khả năng tham
giao vào CGTTC. Bên cạnh năng lực cốt lõi của từng DNNVV, nếu các doanh nghiệp này nhận
được sự hỗ trợ chủ Chính Phủ thông qua các chính sách và chương trình riêng cho DNNVV sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp này tham gia vào CGGTC hơn (Cusmano, 2016). Bên cạnh đó,
Chính phủ hỗ trợ chung cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp DNNVV nói riêng
thông việc việc tạp lập môi trường kinh doanh thông thoáng, xây dựng và vận hành cơ sở hạ tầng
giúp dễ dàng cho việc vận chuyển và lưu thông hàng hóa.
Sự hỗ trợ của Chính Phủ còn được thể hiện qua việc thiết lập và duy trì hệ thống luật
pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tham gia CGTTC. Nghiên cứu của Nunn
(2007) và Levchenko (2007) cho thấy quốc gia có thể chế và hệ thống luật pháp phát triển hơn sẽ
giúp các doanh nghiệp giảm rủi ro về pháp lý khi giao dịch ngoại thương, bởi sẽ ảnh hưởng tới
chi phí giao dịch hợp đồng, chi phí giám sát và thực thi hợp đồng, cũng như lợi thế khi thương
lượng với đối tác. Do đó quốc gia có hệ thống pháp luật chưa phát triển, khi các doanh nghiệp
muốn tham gia CGGTC cần thực hiện thông qua các hoạt động ủy thác nhằm gia tăng sự tin
tưởng với các đối tác, trong đó hoạt động này tại các quốc gia phát triển hoàn toàn có thể thực
hiện thông qua các hợp đồng chính thức được thực thu với một hệ thống pháp lý đủ mạnh.
Th hai, Sự phát triển của thị trường tài chính. Sự phát triển của thị trường tài chính
quốc gia cũng như khả năng tiếp cận tín dụng của doanh nghiệp cũng tác động tới khả năng tham
gia CGTTC. Quốc gia có thị trường tài chính phát triển, các doanh nghiệp có nhiều khả năng hơn
trong việc tiếp cận vốn, nhờ đó có thể xuất khẩu tốt hơn đặc biệt với những ngành cần nhiều vốn
để hoạt động (Manova, 2013). Quốc gia có thị trường tài chính phát triển cũng thu hút các doanh
nghiệp đa quốc gia hơn trong việc sắp xếp các hoạt động đa quốc gia để tìm kiếm các doanh
nghiệp tham gia chuỗi theo chiều ngang (Bilir và cộng sự, 2014). Nghiên cứu của Manova và Yu
(2016) khi nghiên cứu về các doanh nghiệp tại Trung Quốc cho rằng việc khó khăn trong tiếp
cận vốn đã hạn chế các doanh nghiệp tham gia vào các giai đoạn khác nhau của CGTTC, đặc
biệt với hoạt động tham gia toàn bộ chuỗi hoặc các giai đoạn cần nhiều chi phí cũng như vốn để
hoạt động.