Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
lượt xem 14
download
Khu bảo tồn nằm ở phía bắc huyện Hướng Hóa, đây là vùng địa hình cao nhất của tỉnh Quảng Trị với hai đỉnh núi cao nổi trội là đỉnh Sa Mù (1550 m) và đỉnh Voi Mẹp (1771 m-Voi nằm). Đường Hồ Chí Minh nhánh tây bắt đầu từ thị trấn Khe Sanh và chạy xuyên qua khu bảo tồn sau đó sang tỉnh Quảng Bình. Trung tâm khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa cách trung tâm huyện Hướng Hóa (Khe Sanh) khoảng 50 km về phía bắc và thị xã Đông Hà khoảng 100 km theo quốc lộ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 1 Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 2 LỜI NÓI ĐẦU Khu bảo tồn nằm ở phía bắc huyện Hướng Hóa, đây là vùng địa hình cao nhất của tỉnh Quảng Trị với hai đỉnh núi cao nổi trội là đỉnh Sa Mù (1550 m) và đỉnh Voi Mẹp (1771 m-Voi nằm). Đường Hồ Chí Minh nhánh tây bắt đầu từ thị trấn Khe Sanh và chạy xuyên qua khu bảo tồn sau đó sang tỉnh Quảng Bình. Trung tâm khu bảo tồn Bắc Hướng Hóa cách trung tâm huyện Hướng Hóa (Khe Sanh) khoảng 50 km về phía bắc và thị xã Đông Hà khoảng 100 km theo quốc lộ 9 đến thị trấn Khe sanh và đường Hồ Chí Minh nhánh tây. Khu vực bảo tồn giới hạn trong khoảng toạ độ địa lý: + Từ 16043'22’’ đến 16059'55’’ vĩ độ Bắc + Từ 106033'00’’ đến 106047'03’’ kinh độ Đông Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa có ranh giới phía tây giáp với nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào khoảng 6 km ; phía bắc giáp với tỉnh Quảng Bình khoảng 20 km ;phía nam giáp các xã Hướng Phùng, Hướng Sơn và Hướng Linh; phía đông giáp với 3 huyện Vĩnh Linh (1,5 km), Gio Linh và Đakrông. Rừng khu vực đã và đang đóng vai trò phòng hộ đầu nguồn quan trọng của 4 hệ thủy lớn là sông Bến Hải, sông Cam Lộ (sông Hiếu), sông Rào Quán (sông Quảng Trị) và sông Xê Păng Hiêng (chảy vào sông Mê Kông bên Lào). Đặc biệt quan trọng là hệ thủy Rào Quán nơi có công trình thủy điện Rào Quán, sắp hoàn thành. Theo kết quả tính toán độ che phủ rừng tự nhiên trong khu bảo tồn lên tới 83,5%. Về đa dạng sinh học, các kết quả khảo sát bước đầu của Tổ chức BirdLife Quốc tế Chương trình Việt Nam cho thấy đây là điểm nóng về đa dạng sinh học mang tầm vóc quốc gia và quốc tế. Đây là nơi sinh sống của các loài động thực vật có ý nghĩa bảo tồn quốc tế. Thú lớn và linh trưởng có các loài: Saola, Bò tót, Mang lớn, Vooc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng, Vooc vá chân nâu. Đây là nơi đã phát hiện nhiều loài chim đặc hữu và đang bị đe dọa ở cấp quốc gia và quốc tế như: Gà lôi lam mào trắng, Trĩ sao, Hồng hoàng, Niệc nâu, Gà so trung bộ và nhiều loài chim phân bố hẹp khác. Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực trong nhiều lĩnh vực, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Trị đã đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thành lập mới hai khu rừng đặc dụng thuộc tỉnh Quảng Trị là Bắc Hướng Hóa và Khu bảo vệ cảnh quan đường Hồ Chí Minh huyền thoại, theo công văn số 2036/TT-UB, ngày 8/10/2004. Bộ NN&PTNT đã có công văn trả lời số 1736/BNN-KL, ngày 13/7/2005 về việc thống nhất với đề nghị của UBND tỉnh Quảng Trị. Hai khu rừng nói trên đã được Bộ NN&PTNT đưa vào danh mục các khu rừng đặc dụng Việt Nam quy hoạch đến năm 2010 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt (trích nguyên công văn của Bộ NN&PTNT trả lời tỉnh Quảng Trị). Hơn nữa trong chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2005-2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 đã được Bộ NN&PTNT góp ý theo công văn số 605/BNN-LN, ngày 23/3/2005 và đã được tỉnh phê duyệt theo quyết định số 1775/QĐ-UBND, ngày 4/8/2005. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 3 Để có cơ sở đầu tư lâu dài nhằm bảo tồn rừng, đa dạng sinh học và phòng hộ đầu nguồn của Bắc Hướng Hóa, Bộ NN&PTNT đã yêu cầu tỉnh Quảng Trị phải xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật (Dự án đầu tư) thành lập khu rừng đặc dụng để trình Bộ NN&PTNT thẩm định. Thực hiện công văn trên của Bộ NN&PTNT, Chi cục Kiểm lâm tỉnh được UBND tỉnh Quảng Trị là cơ quan chức năng thực hiện công tác bảo tồn thiên nhiên của tỉnh Quảng Trị. Với sự hỗ trợ của Tổ chức BirdLife Quốc tế Chương trình Việt Nam về tài chính và chuyên gia quy hoạch bảo tồn. Nhóm xây dựng dự án đầu tư thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc hóa đã triển khai thực địa để thu thập: số liệu đa dạng sinh học; đánh giá tình trạng rừng; xác định phương án quy hoạch ranh giới ngoài thực địa; thu thập số liệu kinh tế xã hội ở 5 xã vùng đệm của huyện Hướng Hóa để xây dựng dự án đầu tư thành lập khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, giai đoạn 2006-2010. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 4 Chương 1 TÊN CÔNG TRÌNH, MỤC ĐÍCH VÀ CƠ SỞ XÂY DỰNG DỰ ÁN ĐẦU TƯ 1.1 Tên công trình Dự án xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị 1.2 Mục đích, nội dung của dự án Mục đích Xây dựng một khu bảo tồn thiên nhiên mới cho tỉnh Quảng Trị nhằm bảo vệ đa dạng sinh học tiêu biểu của vùng và duy trì và phát triển chức năng phòng hộ quan trọng của rừng Bắc Hướng Hóa đối với phát triển kinh tế của địa phương và của vùng. Nội dung Dự án đầu tư khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa bao gồm các nội dung chính sau: Mô tả các đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội khu vực có liên quan đến vùng dự án Đánh giá các giá trị của khu vực về môi trường và bảo tồn đa dạng sinh học của Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Xác định và đề xuất phương án quy hoạch về ranh giới khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Xác định các mục tiêu của khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Xây dựng các chương trình hoạt động để định hình khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Khái toán vốn đầu tư cho các chương trình hoạt động của khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Hiệu quả đầu tư mong đợi từ các chương trình đầu tư Kết luận và kiến nghị 1.3 Cơ sở pháp lý và khoa học 1.3.1 Cơ sở pháp lý Các văn bản pháp lý có liên quan đến quá trình lập dự án đầu tư khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa: Công văn số 605/BNN-LN, ngày 23/3/2005 của Bộ NN&PTNT về góp ý thẩm định dự thảo Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Quyết định số 1775 /QĐ-UBND, ngày 4/8/2005 của UBND tỉnh Quảng Trị về việc phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2005-2010 và định hướng đến năm 2020. Tờ trình số 2036/TT-UB, ngày 8/10/2004 của UBND tỉnh Quảng Trị giử Bộ NN&PTNT về việc Đề nghị thành lập hai khu rừng đặc dụng mới thuộc tỉnh Quảng Trị. Công văn số 1736/BNN-LN, ngày 13/7/2005, của Bộ NN&PTNT về việc thành lập hai khu rừng đặc dụng của tỉnh Quảng Trị. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 5 Căn cứ Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg, ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất. Căn cứ Quyết định số 62/2005/QĐ-BNN, ngày 12/10/2005 về việc ban hành Bản quy định về tiêu chí phân loại rừng đặc dụng. Căn cứ vào Thông tư số 43/2002/TT-BTC ngày 07/5/2002 hướng dẫn việc quản lý, cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Tài liệu hướng dẫn của Bộ Lâm Nghiệp tháng 6 năm 1991 về nội dung, phương pháp xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật rừng đặc dụng. 1.3.2 Cơ sở khoa học và môi trường Kết quả nghiên cứu về đa dạng sinh học tại Bắc Hướng Hóa các năm 2004 và 2005 của Tổ chức BirdLife Quốc tế Chương trình Việt Nam phối hợp với Chi cục Kiểm lâm Quảng Trị đã đánh giá rằng rừng và tài nguyên rừng của Bắc Hướng Hóa có tính đa dạng sinh học cao; diện tích rừng tự nhiên trong phạm vi khu bảo tồn đề xuất chiếm 83,5% tổng diện tích dự kiến; khu vực hiện có quần thể của nhiều loài quý hiếm có liên quan đến bảo tồn như: Saola (Pseudoryx nghetinhesis), Bò tót (Bos gaurus), Voọc Hà tĩnh (Semnopithecus laotum hatinhensis) Voọc vá chân nâu (Pygathrix nemaeus), Vượn đen má trắng (Nomascus leucogenys) và thỏ vằn. Rừng Bắc Hướng Hóa là một phần của khu vực chim đặc hữu của Vùng đất thấp Miền Trung Việt Nam, là điểm nóng về đa dạng sinh học, tại đây đã phát hiện nhiều loài chim đặc hữu và quý hiếm như Gà lôi lam mào trắng, Gà so trung bộ, Trĩ sao, Hồng hoàng, Niệc nâu và nhiều loài chim có vùng phân bố hạn hẹp. Rừng của Bắc Hướng Hóa đã và đang đóng vai trò phòng hộ đầu nguồn quan trọng của ba con sông lớn của tỉnh Quảng Trị là sông Bến Hải, sông Cam Lộ (sông Hiếu) và sông Rào Quán (sông Quảng Trị) và là một chi lưu phòng hộ của sông Mê Kông (Xê Păng Hiêng). Đặc biệt quan trọng là phòng hộ đầu nguồn, điều tiết cung cấp nước cho công trình thủy lợi, thủy điện Rào Quán chuẩn bị hoàn thành. Rừng và thảm thực vật Bắc Hướng Hóa còn có giá trị kinh tế to lớn đối với cộng đồng địa phương đang sống trong và xung quanh ranh giới khu bảo tồn như cung cấp cây thực phẩm, các sản phẩm phi gỗ bao gồm cả cây làm thuốc, gỗ củi v.v... Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 6 Chương 2 ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, SINH HỌC VÀ KINH TẾ XÃ HỘI 2.1 Đặc điểm điều kiện tự nhiên 2.1.1 Địa lí sinh học Khu vực đề xuất khu bảo tồn thuộc vùng núi thấp miền Trung Việt Nam nằm ở phía đông bắc của bán đảo Đông Dương. Vùng này cũng đã được một số tác giả đề cập với các tên gọi khác nhau như: đơn vị 18 (King và cộng sự, 1975); đơn vị 05b (MacKinnon and MacKinnon, 1986); đơn vị 05c (MacKinnon, 1989). Một số tác giả khác gọi vùng này là Rừng Mưa Đông Dương hay đơn vị 4.5.1 (Udvardy, 1975). Trong xuất bản gần đây "Các vùng chim đặc hữu thế giới", một số khu vực thuộc miền Trung Việt Nam, đặc biệt là thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế được xếp trong vùng đất thấp Trung Bộ (đơn vị 143). Vùng này bao gồm vùng đất thấp, vùng đồi chuyển tiếp bắc Trung Bộ và một phần phụ cận thuộc Trung Lào (Stattersfield và công sự, 1998). Từ các quan điểm về địa sinh vật, khu vực đề xuất nằm gần ranh giới phía đông giữa Đông á và cổ Bắc cực nhưng chính thức nó thuộc vùng Đông Á. Theo Lekagul và Round, 1991, xác định chi tiết vị trí của khu nghiên cứu theo trật tự dưới đây: + Vùng Đông Á + Tiểu vùng Đông Dương + Bắc Đông Dương + Vùng đất thấp bắc Trung Bộ (Stattersfield và cộng sự 1998). Tuy nhiên về địa lý động vật Việt Nam (Đào Văn Tiến 1963, Võ Quý 1978) khu vực này là một phần của khu hệ động vật Bắc Trung Bộ. 2.1.2 Địa hình Địa hình khu vực khảo sát là vùng núi thấp ở phía nam của giải Trường Sơn Bắc với dãy núi cao trên 1000 m chạy theo hướng Tây Bắc-Đông Nam dọc ranh giới hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Về phía Quảng Trị địa hình nâng cao hơn, chia cắt mạnh, độ dốc cao phổ biến từ 15-25o, có nhiều nơi, nhiều chỗ dốc đứng. Trong khu vực có các đỉnh cao điển hình như: Động Sa Mù (1550m) gần đỉnh đèo Sa Mù và Động Voi Mẹp/Voi nằm (1771m) ở phía đông nam khu bảo tồn. Trong khu vực ngoài đồi, núi đất chiếm đa số còn lại có hai dãy núi đá vôi. Ở gần trung tâm là dãy đá vôi chạy theo hướng Đông-Tây, ranh giới hai xã Hướng Lập và Hướng Việt, gần trung tâm xã Hướng Việt có dãy núi đá vôi chạy theo hướng Bắc-Nam. 2.1.3 Địa chất Khu vực nghiên cứu nằm trên hệ địa máng-uốn nếp Caledon Việt Lào ở Bắc Trung Bộ, giới hạn bởi đứt gãy sâu Sông Mã ở phía bắc và đứt gãy sâu Tam Kỳ-Hiệp Đức ở phía nam. Các phức hệ địa máng phát triển từ kỷ Cambri (có thể từ Sini) cho đến cuối Silur hoặc đầu Đevon. Trên chúng đã hình thành các lớp phủ nền trẻ Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 7 Epicaledon Paleozoi giữa-muộn, cũng như các võng chồng hoạt hoá-tạo núi trong Mesozoi-Kainozoi. Hầu hết các núi trung bình được cấu tạo bởi đá Granit phân bố khá phổ biến trong vùng. Các núi thấp được cấu tạo bởi đá trầm tích lục nguyên tuổi Ocdovic-Silur gồm có cát kết Mica, cát kết phân phiến, bột kết và sét kết phân phiến bị biến chất yếu ở dạng Xirixit. Ngoài đá Granit nêu trên là các đá biến chất yếu tuổi Cambri-Ordovic hạ bao gồm phiến thạch kết tinh, phiến thạch Xirixit, Pyrit, cát kết bị quarzit hoá (Theo bản đồ địa chất Việt Nam). 2.1.4 Đất Trong phạm vi khu vực nghiên cứu có các loại đất sau: Đất Feralit đỏ vàng vùng đồi và núi thấp phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt mịn. Đất Feralit vàng nhạt vùng đồi phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt thô. Đất Feralit mùn vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá trầm tích và biến chất có kết cấu hạt thô. Đất Feralit vàng nhạt núi thấp phát triển trên đá hỗn hợp. Đất Feralit vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá phún xuất tính chua. Đất Feralit mùn vàng đỏ núi trung bình phát triển trên đá phún xuất tính chua. Đất phù sa sông suối. 2.1.5 Khí hậu Khu vực bảo tồn nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5(Biểu đồ khí hậu Việt Nam). Ba tháng có lượng mưa nhiều nhất là tháng 8, 9 và 10. So với khí hậu Quảng Trị, vùng này mùa khô đến sớm hơn và mùa mưa cũng đến sớm hơn. Chế độ nhiệt Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng từ 24oC-25 oC tương đương với tổng nhiệt năm khoảng 8300-8500 oC. Mùa đông tương đối lạnh và rất ẩm ướt do ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, nhiệt độ trung bình trong các tháng này ở vùng đồng bằng xuống dưới 22oC, còn trên các vùng có độ cao từ 400-500 m trở lên thường xuống dưới 20oC và nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất xuống dưới 15oC ở Khe Sanh vào tháng 12 và tháng 1. Ngược lại mùa hè do có sự hoạt động của gió Tây nên rất nóng và khô. Có tới 3-4 tháng (từ tháng 1 đến tháng 5) nhiệt độ không khí trung bình lớn hơn 25 oC, tháng nóng nhất thường là tháng 4 hoặc tháng 5 nhiệt độ trung bình lên tới 29 oC. Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 39-40oC. Độ ẩm trong các tháng này cũng xuống rất thấp, dưới 30%. Chế độ mưa ẩm Vùng nghiên cứu có lượng mưa rất lớn, lượng mưa trung bình năm đạt tới 2400-2800mm hoặc lớn hơn và tập trung chủ yêú trong mùa mưa, hai tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 9 và 11, chiếm tới 45% tổng lượng mưa toàn năm. Mưa ít bắt Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 8 đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 11, tuy vậy lượng mưa trung bình của tháng 5 ở Khe Sanh cũng đạt tới 157,4 mm. Độ ẩm không khí trong vùng đạt tới 85-90%, trong mùa mưa độ ẩm lên tới 91%. Mặc dù vậy những giá trị cực đoan thấp vẫn đo được trong thời kỳ khô nóng kéo dài. Trong bảng là số liệu khí hậu cơ bản thu được từ 3 trạm khí tượng trong vùng, trong đó trạm Khe Sanh và Tuyên Hóa là những trạm nằm ở vùng giáp gianh và có điều kiện tự nhiên gần với khu bảo tồn. Bảng 1: Số liệu khí tượng một số trạm có liên quan đến vùng dự án Các số liệu khí hậu Khe Sanh Quảng Trị Tuyên Hóa Tổng lượng mưa TB/năm (mm) 2262,0 2563,8 2266,5 Lượng mưa TB tháng lớn nhất (mm) 469,6 (IX) 620,5 (X) 582,0 Lượng mưa TB tháng nhỏ nhất 17,3 (II) 66,2 (IV) 34,9 (mm) mưa TB trong năm Số ngày 161,1 151,2 - Nhiệt độ TB năm 22,4 25,0 24,3 Số giờ nắng trung bình trong năm - 1885,7 - Nhiệt độ KK cao nhất tuyệt đối 38,2 42 - Nhiệt độ KK thấp nhất tuyệt đối 7,7 (XII) 9,8 (I) - Độ ẩm trung bình năm (%) 87 82 84 Một số hiện tượng thời tiết đặc biệt Gió Tây khô nóng: Đây là vùng chịu nhiều ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, hoạt động của gió Tây thường gây nên hạn hán trong thời kỳ đầu và giữa mùa hè (từ tháng 2-4). Trong những tháng này nhiệt độ tối cao có thể vượt quá 39 oC và độ ẩm tối thấp xuống dưới 30%. Sạt lở đất: Đây là vùng có lượng mưa lớn hàng năm, do địa hình dốc, các công trình giao thông đang mở rộng và nâng cấp thường xảy ra sạt lỡ đất, đôi khi lũ quét cục bộ trong những tháng mùa mưa. Nhìn chung đây là một trong những vùng khí hậu ít thuận lợi ở nước ta. 2.1.6 Thuỷ văn Do có địa hình có độ dốc lớn nên sông suối xuất phát từ đây thường ngắn, dốc đổ ra biển theo hướng đông hoặc đông bắc. Trong vùng nghiên cứu có các hệ thống sông chính sau: Phía đông bắc là sông Bến Hải, tất cả các con suối bắt nguồn từ sườn đông đều chảy vào sông Bến Hải và đổ ra biển đông ở Cửa Tùng. Phía tây bắc và nam của khu bảo tồn là thượng nguồn sông Xê Păng Hiêng chảy qua Lào vào sông Mê Kông. Phía đông nam, bao gồm bắc Động Sa Mùi và đông Động Voi Mẹp là thượng nguồn của sông Cam Lộ (gọi là nguồn Rào) và đổ ra biển Đông tại Cửa Việt. Phía nam là hệ thống suối của sông Rào Quán, là một chi lưu của sông Quảng Trị (Thạch Hãn). Nơi đây có công trị thủy điện Rào Quán đang xây dựng. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 9 2.2 Thảm và khu hệ thực vật 2.2.1 Thảm thực vật rừng Toàn bộ khu vực được bao phủ bởi các kiểu rừng kín thường xanh. Ở độ cao dưới 600 m là rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và từ 600m trở lên là kiểu rừng kín thường xanh á nhiệt đới. Nhưng trải qua quá trình tác động lâu dài của con người như đốt nương làm rẫy, khai thác lâm sản và ảnh hưởng của chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hoá học đã làm thay đổi nhiều diện mạo của rừng thường xanh ở khu vực Bắc Hướng Hóa. Bảng 2: Diện tích các loại đất đai khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Tỉ lệ rừng Kiểu sử dụng đất Tổng Tỉ lệ (%) TN (%) Tổng diện tích 25.200 100 Rừng tự nhiên 20.646,2 82,0 Rừng thường xanh giàu 1.923,0 7,63 Rừng thường xanh trung bình 14.158,1 56,20 Rừng thường xanh nghèo 983,0 3,90 Rừng phục hồi (rừng non) 2.268,1 9,00 Rừng tre nứa 3,0 0,01 Rừng trên núi đá 1.311,0 5,20 Đất trống cây gỗ rải rác 2.224,2 8,82 Đất trống cỏ cây bụi 860,9 3,41 Núi đá không có rừng 889,0 3,52 Đất khác* 579,7 2,30 Ghi chú: * Đất khác bao gồm đất nông nghiệp, thổ cư, mặt nước và sông suối 2.2.1.1 Thảm thực vật nguyên sinh Phạm vi khảo sát nằm ở phía bắc và tây bắc tiếp giáp với tỉnh Quảng Bình, nơi đây có nhánh Tây đường Hồ Chí Minh đi qua, khu vực khảo sát là rừng nguyên sinh rất ít bị tác động kể từ năm 1975 trở lại đây. Thảm thực vật tại đây phản ánh sâu sắc yếu tố địa hình, địa chất và hoạt động của con người. Phần mô tả thảm chỉ khái quát những đặc trưng hình thái, ghi nhận những cấu trúc ban đầu trong tổ thành của hệ thực vật. Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới (phân bố dưới 600m) Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất Kiểu phụ rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất chiếm phần lớn diện tích khu vực nghiên cứu, hầu như không bị tác động (kể từ năm 1975 trở lại đây), thành phần thực vật có tính đa dạng cao; Trong tổ thành có sự tham gia của rất nhiều họ thực vật nhiệt đới ẩm, cây lá rộng xanh quanh năm, cây to, tán lớn, tròn. Những họ thường gặp là: Họ Xoan (Meliaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Trám (Burceraceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Na (Annonaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Dung (Simplocaceae), họ Trôm (Sterculiaceae), họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Mùng quân (Flacoutiaceae), họ Nhân sâm (Araliaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Dâu tằm (Moraceae). Nhóm dây leo gỗ thường to và dài, có thể dài đến 20-30m, đường kính có thể đạt tới 10cm. Thường gặp Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 10 các loài thuộc các họ: họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Na (Annonaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Nho (Vitaceae), họ Thiên lý (Aslepiadaceae), họ Cau dừa (Arecaceae). Cây gỗ nhỏ, cây bụi dưới tán thường gặp các loài trong họ Cà phê (Rubiaceae), họ Ôrô (Acanthaceae), họ Mua (Melastomataceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Cau dừa (Arecaceae), Dương xỉ mộc (Cyatheaceae). Trong tầng cỏ quyết: phổ biến gặp là các loài Dương xỉ (Polypodyophyta), nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae), họ Gai (Urticaceae), họ Dứa gai (Pandanaceae), họ Đao dong (Maranthaceae), họ Riềng (Zingiberaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ở những khoảng trống nhiều ánh sáng có thể có sự có mặt nhiều loài của chi Hedyotis họ Cà phê (Rubiaceae), nhiều loài cỏ thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), một số loài thuộc họ Cúc (Asteraceae). Trên các khe, vách nơi ẩm gặp một số loài họ Thu hải đường (Begoniaceae). Đặc trưng về tầng tán: thể hiện rõ sự phân tầng; rừng này thường thấy có 5 tầng. Tầng 1 (Tầng vượt tán/tầng nhô). Trên khu vực núi đất trong tầng vượt tán có chiều cao 20-25m đôi chỗ có thể có cây cao trên 25m. Các loài thường gặp trong tầng này là các cây gỗ cao to, đường kính dao động từ 40 – 80cm. đôi chỗ có thể có cây đạt tới đường kính 1-1,2m. Tuy nhiên độ phủ của tầng này không cao chỉ ở mức 15- 20%, nghĩa là số cây gỗ cao to vượt tán không nhiều, các loài thường gặp trong tầng này là loài Cà ná mũi nhọn (Canarium subulatum) và Trám trắng (Canarium album) thuộc họ Trám (Burceraceae). Tầng 2 (Tầng ưu thế sinh thái). Thường cây gỗ có chiều cao tương đối đồng đều 10-15m, tán tròn tạo ra một màn có độ che phủ cao đạt tới 50-60%. Cây gỗ có đường kính trung bình 30-40cm; Tầng này là sự đan xen, có tính đa dạng cao của các họ thực vật nhiệt đới ẩm, lá rộng thường xanh. Xét về số cá thể của các họ khó có thể khẳng định độ ưu thế thuộc về họ nào; có thể ở nơi này ưu thế thuộc về họ Dẻ (Fagaceae) thì ở nơi khác vị trí khác lại thuộc họ De (Lauraceae) và có thể ở vị trí khác ưu thế lại thuộc về các họ khác: họ Đậu (Fabaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae). Tầng này chứa đựng tính đa dạng thực vật cao và có ý nghĩa lớn về mặt sinh thái và giá trị môi trường. Tầng 3 (Tầng dưới tán/tầng cây bụi và gỗ nhỏ). Có chiều cao 7-10m. Thường gặp các cây tái sinh của hai tầng trên và những loài cây gỗ nhỏ thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Long não (Lauraceae), họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae), họ Sim (Myrtaceae), họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Mùng quân (Flacourtiaceae), họ Na (Annonaceae), họ Xoan (Meliaceae), họ Cam quýt (Rutaceae), họ Thị (Ebenaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Dung (Simplocaceae), họ Máu chó (Myristicaceae). Những nơi ẩm thung lũng có Dương xỉ gỗ, chi Cyatheca, nhiều loài Ficus chi Sung vả (Ficus) họ Dâu tằm (Moraceae); một số loài chi Sarauja, họ Dương đào (Actinidiaceae), một hai loài Sổ chi Sổ (Dillenia) họ Sổ (Dilleniaceae) và cũng những khu vực ven suối thung lũng có sự tham gia của Nứa dại họ Poaceae. Tầng 4 (Tầng cây bụi): có chiều cao 3-5m thường là các cây bụi chịu rợp sống dưới tán. Phổ biến hơn cả là các loài họ Mua (Melastomataceae), họ Ôrô (Acanthaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cau dừa (Arecaceae) với những cây tái sinh của tầng 1,2,3 do bị che rợp sống còi cọc. Tầng 5 (Tầng thảm tươi/tầng cỏ quyết). Nhìn chung các khu vực được khảo sát, có lẽ do tính ổn định cao; rừng ít bị tác động, tàn che của các tầng 1,2,3 và 4 ổn định Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 11 nên tầng cỏ quyết phát triển yếu, thưa thớt, chỉ ở những khu vực ven suối thung lũng thấp, nơi có ánh sáng, tầng này mới thể hiện rõ, ưu thế của tầng này thuộc về các loài Dương xỉ (Polypodyophyta), nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae), họ Gừng (Zingiberaceae), họ Đao dong (Maranthaceae), họ Gai (Urticaceae), họ Thài lài (Commelinaceae), họ Hòa thảo (Poaceae). Kiểu phụ thảm thực vật rừng kín cây lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi. Do đặc trưng về lập địa: thường các dãy núi đá vôi có thành rất dốc, có chỗ vách đá dựng đứng, chóp nhọn, tầng đất mặt rất mỏng hay không có, phần chân thoải. Rừng trên núi đá vôi có độ che phủ thấp, không tạo được một màn khép tán liên tục như kiểu rừng trên núi đất. Về mặt cấu trúc tầng tán: Vẫn thể hiện 5 tầng; Nhưng điều khác biệt cơ bản của kiểu phụ thảm thực vật trên núi đá vôi so với kiểu phụ trên núi đất là thành phần hệ thực vật. Ưu thế trong các tầng của kiểu thảm này là những loài chịu khô, phát triển trên nền đá vôi với những loài đặc trưng không gặp trên vùng núi đất. Với những họ thường gặp có số cá thể khá phong phú là các loài trong chi Lòng mang (Pterospermum) họ Trôm (Sterculliaceae); Nhiều loài thuộc chi Trâm (Syzygium) họ Sim (Myrtaceae), nhiều loài thuộc chi Thị rừng (Diospyros) họ Thị (Ebenaceae); chi Bứa (Garcinia) họ Măng cụt (Guttiferae). Nhiều loài thuộc chi Cóc rừng (Spondias), Dâu gia xoan chi Allospondias; Xuyên cóc chi Choerospondias, Sưng đào chi Semecarpus; họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Nhiều loài Bình linh chi Bình linh (Vitex) họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Một số loài thuộc họ Gai (Ulmaceae). Chi Sếu (Celtis); Nhiều loài họ Đay (Tiliaceae). Đặc biệt phải kể đến cây Phay rất thường gặp ở các thung lũng ven suối núi đá vôi (Duabanga sonneratoides) họ Bần (Sonneratiaceae) và một số loài thuộc chi Đùng đình (Caryota) họ Cau dừa (Arecaceae). Nhiều loài thuộc chi Lụi (Rhapis), loài Đùng đình (Caryota bacsonensis) cây to đường kính tới 50cm, cao 10-15m rất đặc trưng cho vùng núi đá vôi. Đặc biệt ở kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi thảm thực vật bò leo trên đá rất nhiều loài thuộc họ Môn ráy (Araceae) và họ Hồ tiêu (Piperaceae); cũng trong tầng thảm tươi là sự có mặt rất đặc trưng của các loài Lá han: Han trâu (Dendrocnide urentissima), Han tím (Laportea interrupta), Han bò (Laportea thorelli) khi cọ sát vào da rất ngứa; và nhiều loài khác thuộc họ Gai (Urticaceae). Trên những thành vách đá có rất nhiều loài chi Đa sung (Ficus) nhóm cây có nhựa mủ chịu khô hạn; Những nơi ẩm thường gặp một số loài chi Ngũ gia bì (Schefflera) họ Nhân sâm (Araliaceae) chịu khô hạn tốt, rễ nổi bám vào các khối hay thành vách đá phát triển mạnh . Rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp (phân bố từ độ cao 600m trở lên) Khu vực Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, kiểu thảm thực vật thường xanh á nhiệt đới núi thấp phân bố từ độ cao 600m trở lên chỉ gặp trên núi đất (khu vực núi đá vôi ít, không có các đỉnh cao). Kiểu thảm này có diện tích khá, phần lớn giữ được tính tự nhiên ít bị tác động. Về cấu trúc tầng không đồng nhất ở các khu vực: vùng thung lũng, nơi bằng có dạng điển hình 5 tầng gần giống với kiểu rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đất, cũng thể hiện rõ 5 tầng (Tầng 1:Tầng vượt tán; Tầng 2: Tầng ưu thế sinh thái; Tầng 3: Tầng cây gỗ nhỏ và cây bụi; Tầng 4: tầng dưới tán – Tầng cây bụi; Tầng 5: Tầng cỏ quyết – Thảm tươi). Nhưng ở những triền núi dốc hay ở các đỉnh dông, đỉnh núi, do bị bào mòn tầng đất mặt mỏng (có nhiều đá lộ Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 12 đầu), yếu tố ánh sáng mạnh cộng với tác động của gió đã ảnh hưởng mạnh tới hệ thực vật: Không có cây to cao, nên ít thấy cây vượt tán, như thế rừng chỉ thấy rõ 4 tầng. Các đỉnh cao, các chóp núi thường có gió liên tục, cường độ, mật độ ánh sáng phân bố đều, cộng với tầng đất mặt rất mỏng chỉ thích hợp cho một số loài ưa lạnh, chịu gió, phát triển được trên tầng đất nghèo dinh dưỡng, nên thành phần thực vật nghèo nàn; Tầng tán đơn giản, chỉ thấy rõ 3 tầng. Tầng đất mặt rất mỏng, gió thường xuyên, lại có mù luôn xuất hiện nên chỉ thấy rải rác có cây bụi và ưu thế là những loài họ Hòa thảo (Poaceae), Chè vè (Miscanthus floridulus), Chít (Thysanoloena maxima) hay Trúc gai (Sinarundinaria griffithiana) phát triển mạnh. Những khác biệt lớn phân biệt kiểu thảm này với kiểu thảm thực vật thường xanh mưa mùa nhiệt đới là sự có mặt của các loài khỏa tử. Thường tới độ cao 600m thấy xuất hiện một số loài khỏa tử. Rất phổ biến trong khu vực này là loài Thông tre lá dài (Podocarpus neriifolius), Thông nàng – Thông lông gà (Dacrycarpus imbricatus), Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri). Trong kiểu thảm này ưu thế tuyệt đối về các loài Dẻ thuộc họ Dẻ (Fagaceae) ở một số vị trí Dẻ ưu thế chiếm đến 50 - 60% cá thể trong quần xã. Trong kiểu thảm này còn có sự có mặt của một số loài thuộc họ Thích (Aceraceae), một số loài Chẹo thuộc chi Chẹo (Engelhardtia) họ Óc chó (Juglandaceae); Loài Chắp tay (Symingtonia populnea) thuộc họ Sau sau (Hamamelidaceae). Nhiều loài thuộc chi Eurya, Adinandra, Camellia, Godonia, Vối thuốc – Chò sót (Schima wallichii) thuộc họ Chè (Theaceae); Dưới tán rừng cũng chỉ ở đai này mới gặp loài Trúc gai (Sinarundinaria griffithiana) có cá thể nhiều, những nơi sáng chiếm ưu thế tuyệt đối. Cũng trong kiểu thảm này gặp nhiều loài gỗ có giá trị: Giổi lá nhẵn (Michelia faveolata), Giổi găng (Paramichella baillonii) họ Mộc lan (Magnoliaceae), Sến (Madhuca pasquieri) họ Hồng xiêm (Sapotaceae). Tại khu vực đèo Sa mù dưới tán kiểu thảm này ở độ cao 1200m có gặp loài Lan hài (Paphiopedilum amabile) có số lượng cá thể khá, là loài quí hiếm. 2.2.1.2 Thảm thực vật thứ sinh Nhìn chung cả đai thấp dưới 600m và đai cao 600m trở lên có thể nơi nhiều, nơi ít nhưng không tránh khỏi sự tác động của con người, sự tác động mạnh mẽ nhất là canh tác nương rẫy, thể hiện rõ ở đai thấp dưới 600m, tiếp đến là khai thác gỗ và lâm sản khác. Ở đai cao từ 600m trở lên ít bị tác động bởi canh tác nương rẫy. Một số nơi thảm thực vật nguyên sinh bị hủy diệt do chất độc hóa học (trước năm 1975) và một số nơi khác là những căn cứ quân sự (Nơi đóng quân, hầm hào, lô cốt). Đó là nguyên dân dẫn đến thảm thực vật nguyên sinh bị mất đi. Cây gỗ, cây bụi, cây thảo tái sinh phát triển trở lại tạo nên các thảm thực vật thứ sinh. Tùy thuộc vào mức độ tác động nhiều hay ít, diễn ra một hay nhiều lần, thời gian phục hồi của thảm thực vật thứ sinh diễn ra dài hay ngắn mà thảm thực vật thứ sinh có những nét đặc trưng khác nhau về ngoại mạo, về cấu trúc, về thành phần hệ thực vật, cũng như tính đa dạng thực vật. Đương nhiên các thảm thực vật thứ sinh không thể có tính đa dạng sinh học cao so với thảm thực vật nguyên sinh. Rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy Phần lớn phân bố từ độ cao 600m trở xuống. Khác với vùng núi phía Bắc và các vùng khác; Tại khu vực Bắc Hướng Hóa chỉ có dân tộc Vân Kiều số lượng không nhiều; sống ở các khu vực thấp ven suối; nương rẫy canh tác cũng không xa bản. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 13 Trình độ dân trí thấp, chưa biết sản xuất hàng hóa: Canh tác nương rẫy chỉ là Lúa, Ngô nhằm giải quyết nhu cầu lương thực tại chỗ nên rừng thứ sinh sau canh tác nương rẫy không nhiều, vùng thấp quanh khu vực bản làng. Những khu vực sau canh tác nương rẫy, được bỏ hoang từ 8 – 10 năm, rừng thứ sinh hình thành. Cấu trúc và thành phần hệ thực vật cũng như hình thái ngoại mạo khác biệt rõ rệt so với rừng nguyên sinh. Thường không có tầng tán rõ rệt. Tầng 1 (Tầng ưu thế sinh thái) Tầng này với các cây gỗ ưa sáng phát triển trở lại từ chồi hay hạt, cùng tuổi có chiều cao dao động từ 8 -10m, đường kính dao động từ 10 – 15cm. Phổ biến ở tầng này là các loài Bời lời chi Bời lời (Litsea), Kháo (Machilus), Nang trứng (Lindera) họ Long não (Lauraceae), một số loài chi Ba soi (Macaranga spp.), chi Ba bét (Mallotus spp.), chi Sòi tía (Sapium spp.), chi Bi điền (Bridelia spp.), Vạng trứng (Endospermum sinensis) thuộc họ Ba mảnh vỏ (Euphorbiaceae). Một hai loài Trám chi Canarium; Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia), Bưởi bung (Acronychia pedunculata) họ Cam chanh (Rutaceae), Ngát lông (Gironniera subaequalis), Hu đay (Trema orientalis), Sếu (Centis sinensis) họ Sếu (Ulmaceae). Một số loài họ Đậu (Fabaceae); họ Bồ hòn (Sapindaceae), họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Những khu vực ẩm là các loài thuộc chi Sung vả (Ficus) họ Dâu tằm (Moraceae). Tầng 2 (Tầng gỗ nhỏ cây bụi). Có chiều cao 5 - 7m. Thường gặp các loài thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), chi Chè (Camellia), chi Súm (Eugenia) họ Chè (Theaceae). Một số loài chi Cò ke (Grewia) họ Đay (Tilliaceae). Tầng 3 (Tầng cây bụi dưới tán). Tầng này không dày rậm, thường gặp một số loài họ Mua (Melastomataceae) , họ Cà phê (Rubiaceae), chi Lồng đèn (Clerodendron) họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae), cây Lụi (Rapis excelsa) họ Cau dừa (Arecaceae), có nơi có số lượng cá thể nhiều. Tầng 4 (Tầng cỏ quyết) Trong tầng này của rừng thứ sinh gặp rất ít các loài dương xỉ. Phổ biến hơn là các họ Gừng (Zingiberaceae); Các loài Môn ráy họ Môn ráy (Araceae). Những nơi có ánh sáng nhiều, gặp một số loài cỏ họ Hòa thảo (Poaceae), nơi ẩm có thể gặp một số loài họ Cà phê (Rubiaceae) chi Cỏ vừng (Hydeotis), một số loài thuộc họ Ôrô (Acanthaceae) chi Staurogyne và chi Strobilanthes. Nét đặc trưng của rừng thứ sinh sau nương rẫy là hệ dây leo nói chung, dây leo gỗ nói riêng rất ít. Tầng cỏ quyết đơn điệu, nghèo nàn, độ phủ tầng này rất thấp. Tầng bì sinh (Phong lan, dương xỉ sống bám) hầu như không có; có lẽ do độ ẩm thấp và chưa đủ thời gian cho những loài bì sinh, dương xỉ hay Phong lan phát triển trở lại. Trảng cây bụi, cỏ cao Kiểu thảm này có diện tích đáng kể trong khu vực Bắc Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Phân bố ở đai thấp dưới 600m và trên 600m. Thảm này cần có những nghiên cứu sâu nguyên nhân hình thành kiểu thảm này, đặc biệt là những diện tích bị rải chất diệt cỏ (trước 1975). Qua khảo sát tại một số khu vực chúng tôi thấy có 4 nguyên nhân: 1. Phát nương làm rẫy 2. Cháy rừng 3. Chất độc hóa học (trước 1975) 4. Xây dựng cứ điểm quân sự trong chiến tranh Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 14 Bốn nguyên nhân trên đã làm mất đi thảm thực vật nguyên sinh: Ở đai thấp (dưới 600m) là rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới, đai cao (từ 600m trở lên) là rừng kín thường xanh á nhiệt đới núi thấp; Diễn thế rừng thứ sinh diễn ra khi đất nương rẫy được bỏ hoang, đất sau cháy rừng và những diện tích rừng bị hủy diệt do chất độc hóa học của Mỹ rải xuống (trước 1975). Nguyên nhân làm mất thảm thực vật nguyên sinh là khác nhau nhưng thảm thực vật thứ sinh: Trảng cây bụi, cỏ cao có những đặc trưng hình thái và cấu trúc ngoại mạo giống nhau ở cả đai cao và đai thấp. Đặc trưng của kiểu thảm thứ sinh trảng cỏ, cây bụi cao là các loài cỏ cao thuộc họ Hòa thảo (Poaceae): Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Lách (Saccharum spontaneum), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Cỏ Lau (Imperata conferta). Cấu trúc đơn điệu, những loài cỏ cao có chiều cao từ 1 – 2m, độ phủ đạt 70 – 80%, rất ít những khoảng trống, rải rác có những cụm cây bụi, cây gỗ nhỏ, những loài ưa sáng cao 5 – 8m.Thành phần cây bụi có sự khác biệt ít nhiều phụ thuộc vào nguyên nhân làm mất rừng nguyên sinh và kiểu thảm nguyên sinh vốn có tại đó. Ở những khu vực thấp (dưới 600m) đất sau nương rẫy bỏ hoang, trảng cây bụi cỏ cao là trạng thái bắt đầu của diễn thế thứ sinh. Cây bụi cỏ cao phát triển nhanh, ưu thế là những cây ưa sáng phát triển nhanh: Hu đay (Trema orientalis; Trema cannabina), Ba soi (Macaranga spp.), Ba bét (Mallotus spp.). Một số loài Bời lời chi Bời lời (Litsea), Vối thuốc (Schima wallichii), Ba gạc lá xoan (Euodia melifolia), Bưởi bung (Acronychia paniculata), Trám (Canarium spp.), Vạng trứng (Endospermum sinensis), một số loài họ Dẻ (Fagaceae) và do đất ẩm xốp Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ Lau (Imperata conferta) phát triển mạnh tạo nên các bụi, cụm lớn độ phủ cao. Có nơi độ phủ cao đạt tới 70 – 80%. Những diện tích rừng nguyên sinh bị rải chất độc hóa học trước đây và sau đó cháy đi cháy lại nhiều lần: ưu thế tuyệt đối thuộc những loài cỏ cao họ Hòa thảo (Poaceae) Chè vè (Misclanthus floridulus), Chít (Thysanolaena maxima), Cỏ tranh (Imperata cylindrica), Lau (Imperata conferta) phát triển kém hơn, cằn cỗi, cao 1 - 1,5m, rải rác có cây bụi gỗ nhỏ; Thường là những loài chịu khô, chịu cháy, sống trên đất thoái hóa nghèo mùn.Phổ phiến là các loài họ dẻ (Fagaceae), Họ Óc chó (Juglandaceae), Họ chè (Theaceae), Họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae), một số loài họ Long não (Lauraceae), họ Côm (Eleocarpaceae). Trảng thứ sinh tre nứa (Trúc sặt) phân bố ở độ cao 600m trở lên Ở độ cao 700 – 1200m có một diện tích khá nhiều Trảng thứ sinh Trúc sặt (Arundiunria peteloti). Cây cao từ 3 - 5m có mật độ khá dầy, mọc tản (không hình thành bụi cụm) ưu thế tuyệt đối 60 – 70% độ phủ. Rải rác có cây gỗ thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Chè (Theaceae), họ Bồ đề (Styraceae), họ Nhựa ruồi (Aquifoliaceae), họ Côm (Eleocarpaceae), một hai loài họ Mộc lan (Magnoliaceae), họ Thích (Aeraceae). Tuy nhiên cây gỗ trong kiểu trảng này thưa thớt. Kiểu trảng thứ sinh này rất đặc trưng , thường phân bố ở độ cao từ 800 – 1500m gặp ở Ba Vì, Tam Đảo, Phan Xi Phăng. Có lẽ do một tác động nào đó (cháy rừng, chất độc hóa học) làm cho thảm thực vật rừng ẩm thường xanh á nhiệt đới núi thấp bị mất đi. Loài Trúc sặt (Arundinaria petelotii) – một loài thuộc họ Hòa thảo (Poaceae) ưa sáng thân ngầm lan nhanh, phát triển mạnh, ưu thế tuyệt đối nhờ sức cạnh tranh đã chiếm lĩnh nhanh Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 15 chóng diện tích rừng nguyên sinh á nhiệt đới núi thấp bị mất. Cây gỗ, cây bụi, tái sinh phát triển chậm, sức cạnh tranh kém cũng bị loại, tạo nên kiểu trảng thứ sinh Trúc sặt gần như thuần loài, dầy đặc, độc đáo ổn định. Trảng cỏ cây bụi thấp Trên những vùng đất bằng chân núi, gần khu vực bản làng, những diện tích canh tác nương rẫy diễn ra nhiều năm, đất bạc màu, tầng đất mỏng do bị xói mòn. Đây cũng là nơi chăn thả, kiếm ăn của gia súc, sự giẫm đạp, tác động thường ngày của gia súc đã hạn chế sinh trưởng của cây. Nên tại những khu vực này chỉ còn những loài cây bụi cỏ thấp phát triển được trên nền đất thoái hóa nghèo dinh dưỡng. Tùy theo mức độ thoái hóa của tầng đất mặt và mức độ tác động ít nhiều của gia súc mà thành phần cây bụi, cây thảo là loài này hay loài khác và ưu thế thuộc về cây bụi hay cây thảo. Những khu vực đất chưa bị thoái hóa nặng thành phần cây bụi phong phú: thường gặp các loài cây bụi họ Cà phê(Rubiaceae), họ Ôrô(Acanthaceae), họ Cúc (Asteraceae) , họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) và nhiều loài mua chi Melastoma, họ Mua (Melastomataceae). Một số loài cỏ cao thường gặp trong kiểu thảm này thuộc chi Cỏ đắng (Paspalum), cỏ Tranh (Imperata cylindrica), cỏ Sả (Cymbopogon spp.), cỏ Bông (Eragrostis spp.), cỏ Rác (Isachne spp.), cỏ Sâu róm (Sertaria spp.) cao tới 70 – 80cm. Ở những khu vực đất thoái hóa nặng, đất bị lèn chặt do gia súc giẫm đạp thường xuyên. Tầng cỏ thấp, chỉ cao 10 – 20cm và có thể thấp hơn, thường gặp những loài cỏ thấp chi cỏ Chỉ (Digitaria spp.), cỏ gà (Cynodon dactylon), cỏ may (Chrysopogon aciculatus), cỏ đắng (Paspalum spp.). Cây bụi thấp: họ Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) – cây Đuôi chuột (Stachytarpheta jamaicensis), một hai loài Trinh nữ (Mimosa sp), một vài loài họ Hoa mõm chó (Scrophuliaceae) chi Lindernia, thường gặp loài Cam thảo nam (Seoparia dulcis). Những khu vực đất chua, cây bụi ưu thế là các loài mua (Melastoma spp.) và cỏ thấp. Đơn điệu về cấu trúc, nghèo nàn về thành phần. Một vài loài cỏ thấp thuộc chi cỏ đắng (Paspalum spp.) hay thuần loại cỏ May (Chrysopogon aciculatus), cỏ gà (Cynodon dactylon), cỏ Chỉ (Digitaria spp.). 2.2.2 khu hệ thực vật Điều tra ban đầu đã ghi nhận được 920 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 518 chi và 130 họ (tham khảo Bảng 3 và phụ lục). Trong đó có 17 loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam và 23 loài được ghi trong sách đỏ Thế Giới (IUCN 1994). Về kinh tế trong tổng số những loài thống kê được có 125 loài cây cung cấp gỗ, 161 loài cây làm thuốc, 44 loài cây làm cảnh và 89 loài cây làm thực phẩm (ăn được). Bảng 3: Thành phần thực vật khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa Ngành Thực Vật Họ Chi Loài Ngành Thông Đất (Lycopodiophyta) 2 2 6 Equisetophyta – Ngành Mộc tặc 1 1 1 Ngành Dương Xỉ (Polypodiophyta) 11 31 68 Ngành Thông (Pinophyta) 4 6 9 Ngành Mộc Lan (Magnoliophyta) 112 478 836 - Lớp Mộc Lan (Magnoliopsida) 91 388 707 Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 16 - Lớp Hành (Liliopsida) 21 90 129 Tổng Số 130 518 920 Đa dạng của một số họ thực vật tại Bắc Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị Kết quả ở Bảng 4 cho thấy: có 13 họ có tính đa dạng cao về số lượng chi và loài. Xét về số lượng chi có 12 họ có số chi từ 7 – 20 chi. Họ Cà phê (Rubiaceae), họ Hoà thảo (Poaceae), họ Lan (Orchidaceae) có số lượng chi cao nhất từ 16 – 20 chi. Họ Long não (Lauraceae) và họ Cam chanh (Rutaceae) có số lượng lớn hơn 10 chi (14 và 11). Còn 7 họ khác: họ Mua (Melastomataceae); Dâu tằm (Moraceae); Bồ hòn (Sapindaceae); Chè (Theaceae); Gai (Urticaceae); Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) và Cau dừa (Arecaceae) có số chi dao động từ 7 đến 9 chi. Bảng 4. Thống kê những họ có tính đa dạng cao bậc chi và loài ở Bắc Hướng Hoá tỉnh Quảng Trị STT Họ Số lượng chi Số lượng loài Tên khoa học Tên Việt nam NGÀNH HẠT KÍN – ANGIOSPERMAE Lớp hai lá mầm - Dicotyledones 1 Lauraceae Long não 14 24 2 Melastomataceae Mua 9 14 3 Moraceae Dâu tằm 7 24 4 Myrsinaceae Đơn nem 3 19 5 Rubiaceae Cà phê 16 24 6 Rutaceae Cam chanh 11 19 7 Sapindaceae Bồ hòn 9 10 8 Theaceae Chè 7 13 9 Urticaceae Gai 9 14 10 Verbenaceae Cỏ doi ngựa 8 16 Lớp một lá mầm – Monocotyledones 11 Arecaceae Cau dừa 8 12 12 Orchidaceae Lan 18 26 13 Poaceae Hoà thảo 20 23 Về số lượng loài: có 5 họ có số lượng trên 20 loài: Long não (Lauraceae) 24 loài; Dâu tằm (Moraceae) 24 loài; Cà phê (Rubiaceae) 24 loài; Lan (Orchidaceae) 26 loài; Hoà thảo (Poaceae) 23 loài; Các họ : Mua (Melastomataceae), Đơn nem (Myrsinaceae), Cam chanh (Rutaceae), Gai (Urticaceae), Cỏ doi ngựa (Verbenaceae) có xấp xỉ 20 loài. Những số liệu trong báo cáo này mới chỉ phản ánh phần nào tính đa dạng thực vật khu vực Bắc Hướng Hoá tỉnh Quảng Trị. Với diện tích lớn xấp xỉ 40.000 ha, đa dạng về địa hình, địa chất, khí hậu, hệ thực vật chưa bị tác động nhiều; chắc chắn Hệ thực vật ở khu vực này có số lượng taxon bậc chi và loài có thể cả bậc họ sẽ có số lượng cao hơn nhiều so với báo cáo này, hy vọng sẽ được tìm hiểu bổ sung trong tương lai. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 17 Đa dạng Hệ thực vật Bắc Hướng Hoá so với các khu vực lân cận Tìm hiểu sâu hơn về Hệ thực vật: Bạch mã, Đakrông và Bắc Hướng Hoá đã có khác biệt nhau ít nhiều về số lượng các taxon (bậc họ; bậc chi; bậc loài). Nhưng ba khu vực này có những nét tương đồng về Hệ thực vật, có tới 90% các họ gặp ở cả 3 khu vực. Sự khác biệt về mặt số lượng chính bởi sự hạn chế về mức độ nghiên cứu tại mỗi vùng. Điều này cũng chỉ ra tại Đăkrông và Bắc Hướng Hoá có Hệ thực vật đa dạng không kém so với Vườn Quốc gia Bạch mã, cần có những nghiên cứu xa hơn nữa trong quá trình quản lý khu bảo tồn sau này mới có thể khẳng định. Bảng 5: So sánh tính đa dạng thực vật Bắc Hướng Hoá với các khu bảo tồn trong vùng Ngành Họ Chi Loài BHH Đak BM BHH Đak BM BHH Đak BM Ngành Thụng đất 2 2 2 2 2 3 6 3 16 (Lycopodiophyta) Ngành Mộc tặc 1 0 1 1 0 1 1 0 1 (Equisetophyta) Ngành Dương xỉ 11 11 24 31 15 68 68 30 162 (Polypodiophyta) Ngành Hạt trần 4 3 7 6 6 11 9 10 20 (Gymnospermae) Ngành Hạt kớn 122 114 156 487 505 669 836 1009 1448 (Angiospermae) -Lớp hai lỏ mầm 91 93 130 388 404 411 707 857 1103 (Dicotyledones) -Lớp một lỏ mầm 21 21 26 90 101 158 129 152 345 (Monocotyledones) 130 130 190 518 528 752 920 1055 1547 Ghi chú: BHH= Bắc Hướng Hóa, Đak= Đakrông, BM= Bạch Mã Giá trị về nguồn gen quý hiếm Bảng 6. Danh sách các loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới Tình trạng STT Tên khoa học Tên Việt nam SĐVN IUCN (1996) (1994) 1 Cephalotaxus manii Hook. f. Đỉnh tùng R VU 2 Dacrycarpus imbricatus (Bl.) de Laub. Thông nàng CR 3 Podocarpus pilgeri Foxw. Thông tre lá ngắn R 4 Podocarpus neriifolius D.Don Thông tre lá dài CR 5 Nageia wallichiana (C. Presl.) O. Kuntze Kim giao núi đất V CR 6 Alstonia scholaris (L.) R. Br. Mò cua CR 7 Amoora dasyclada (How. & Chen) C. V. Wu Gội đỏ VU 8 Aquilaria crassna Pierre ex Lec Dó trầm E CR 9 Ardisia silvestris Pit. Lá khôi V 10 Chukrasia tabularis A. Jus. Lát hoa K CR 11 Cinnamomum balansae Lec. Vù hương R EN 12 Cinnamomum parthenocylon Meissn. Cửu mộc K DD 13 Coscinium fenestratum (Gagn.) Colebr. Dây vằng đắng K Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 18 Tình trạng STT Tên khoa học Tên Việt nam SĐVN IUCN (1996) (1994) 14 Cratoxylon cochinchinensis (Lour.) Bl. Thành ngạnh Nam CR 15 Croton touranensis Gagn. Cu đèn Đà nẵng VU 16 Dalbergia entadoides Pierre ex Gagn. Bàm bàm DD 17 Dipterocarpus grandiflorus Blco Dầu hoa to CR 18 Dipterocarpus hasseltii Bl. Dầu CR 19 Dipterocarpus kerrii King Dầu cà luân CR 20 Engelhartia spicata Lesch. ex Bl. Chẹo bông CR 21 Erythrophleum fordii Oliv. Lim EN 22 Knema globularia (Lamk.) Warb. Máu chó cầu CR 23 Mangifera foetida Lour. Xoài hôi CR 24 Melientha suavis Pierre Rau sắng K 25 Rauvolfia cambodiana Pierre ex Pit Ba gạc căm bốt T 26 Rhodoleia championii Hook.f. (Rhoiptelea ??) Hồng quang V CR 27 Smilax glabra Roxb. Thổ phục linh V 28 Sindora tonkinensis A. Chev. ex K. & S. S. Lars. Gõ dầu V VU 29 Anoectochilus cetaceus Blume Lan gấm E 30 Calamus poilanei Conr. Mây bột K 31 Dendrobium amabile (Lour.) O'brien Thuỷ tiên hường R 32 Livistona tonkinensis Magalon Kè bắc DD Ghi chú: Tình trạng Sách đỏ Việt nam (1996): Endangered (E) - Đang bị đe doạ tuyệt chủng; Vulnerable (V) – Sắp bị đe doạ tuyệt chủng; Rare (R) – Loài hiếm; Threatened (T) - Bị đe doạ tuyệt chủng; Insufficiently know (K) - Biết không chính xác để xếp vào các cấp đe dọa trên. Bảng 7 : Danh sách các loài thực vật quý hiếm theo các mức độ đe dọa ở KBTTN Bắc Hướng Hóa CR EN VU DD (K) R T Tổng % IUCN (1994) 14 2 3 4 23 2,5 SĐVN (1996) 2 5 5 4 1 17 1,8 2.3 khu hệ động vật Khu hệ động vật hoang dã khu vực Bắc Hướng Hóa là một phần của khu hệ động vật Bắc Trung Bộ hay một phần của khu hệ động vật vùng núi thấp miền Trung Việt Nam. Các đặc trưng của khu hệ động vật hoang dã được mô tả ở các nhóm động vật dưới đây. 2.3.1 khu hệ thú Tính đa dạng của khu hệ thú Tổng số 42 loài thú (không kể Dơi) thuộc 17 họ và 6 bộ đã được ghi nhận trong quá trình điều tra. Trong đó có 26 loài đã chắc chắn ghi nhận cho khu vực và 16 loài được ghi nhận tạm thời qua thông tin phỏng vấn (Phụ lục 1). Trong đó loài Voọc Hà tĩnh, loài phụ đặc hữu của Việt Nam lân đầu tiên phát hiện ở tỉnh Quảng Trị. Trong số 26 loài ghi nhận chắc chắn trong hai đợt điều tra, 11 loài có trong Sách đỏ các loài bị đe dọa của IUCN 2004 (IUCN, 2004) ở các cấp bị đe dọa, gần bị đe dọa hoặc chưa đủ thông tin để xếp vào các nhóm loài bị đe doạ. Mười một trong số này có tên trong Sách Đỏ Việt Nam (Anon. 2000), bao gồm 5 loài ‘Nguy cấp’: Voọc vá chân nâu, Voọc Hà Tĩnh, Vượn đen má trắng, Gấu ngựa và Sao la; sáu loài thuộc Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 19 loại sắp nguy cấp là Tê tê Java, Khỉ mặt đỏ, Rái cá vuốt bé, Mang lớn Megamuntiacus vuquangensis, Bò tót và Sơn dương (Bảng 8). Bảng 8: Các loài thú bị đe dọa ở cấp quốc gia và quốc tế ghi nhận ở Bắc Hướng Hoá Tình trạng TT Tên phổ thông Tên khoa học Quốc gia Thế giới 1 Tê tê Java Manis javanica V NT 2 Khỉ mặt đỏ Macaca arctoides V VU 3 Voọc vá chân nâu Pygathrix nemaeus E EN 4 Voọc Hà Tĩnh Semnopithecus laotum E DD hatinhensis 5 Vượn đen má trắng Nomascus leucogenis E DD 6 Gấu ngựa Ursus thibetanus E VU 7 Rái cá vuốt bé Aonyx cinerea V NT 8 Mang lớn Megamuntiacus vuquangensis V 9 Sơn dương Naemorhedus sumatraensis V VU 10 Sao la Pseudoryx nghetinhensis E EN 11 Bò tót Bos gaurus V VU 12 Thỏ vằn Nesolagus timminsi DD Ghi chú: Tình trạng quốc gia: E = Nguy cấp; V = Sắp nguy cấp theo Anon. (2000). Tình trạng toàn cầu: EN = Nguy cấp; VU = Sắp nguy cấp; NT = Gần bị đe dọa; DD = Chưa đủ dữ liệu theo IUCN (2004). Các loài quan trọng đối với công tác bảo tồn Phần này trình bày chi tiết các ghi nhận về các loài bị đe dọa ở cấp độ quốc gia và quốc tế theo IUCN (2004) và Anon.(2000) trong lần khảo sát 2004 và 2005. Ngoài ra bổ sung thêm một số loài quan sát thấy qua các lần khảo sát ngắn hoặc kết quả của Nhóm giám sát đa dạng sinh học do cộng đồng tiến hành từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2004. Tê tê Java Manis javanica Loài này được xác định dựa trên các vảy thu được tại một nhà thợ săn tại thôn Cuồi, xã Hướng Lập. Dấu hang mới đào của tê tê cũng được ghi nhận tại vùng Khe cựp (16°55'39”N, 106°35'29”E) vào ngày 11/02/2004. Theo thông tin phỏng vấn thì loài này hiện còn có ở vùng núi giữa hai thôn Khe cựp và Cuồi, và mối đe dọa lớn nhất đối với loài này là săn bắn và buôn bán do giá của chúng lên đến 400.000 đồng một kilôgram (tại thời điểm phỏng vấn Tháng 2/2004). Khỉ mặt đỏ Macaca arctoides Quan sát một đàn khoảng 15 cá thể, ngày 13/02/2004 ở khu rừng gần thôn Cuồi (16°55'24”N, 106°39'15”E) vào lúc 10h15’. Phân mới được xác định là của loài này được tìm thấy ở độ cao 870 m so với mặt biển trên một đỉnh núi đá vôi không có tên (16°55'38”N, 106°35'36”E) gần thôn Khe cựp vào ngày 11/02/2004 và một điểm khác gần suối (16°53'49”N, 106°395'04”E) vào ngày 16/02/2004. Đợt khảo sát tháng 10/2005, đã quan sát 3 đàn, một đàn khoảng 30 cá thể trên đường mòn đi cột mốc 25 (Lào), một đàn cũng trên đường mòn này và một đàn nhìn thấy 3 cá thể ở thượng nguồn Khe Cựp. Khỉ mặt đỏ hiện còn phổ biến ở khu vực bảo tồn Bắc Hướng Hóa. Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
- 20 Voọc vá chân nâu Pygathrix nemaeus Một đàn 5 cá thể đã quan sát thấy khi đang di chuyển trên cây ở dọc đường từ thôn Khe cựp đến thôn Thôn Cuồi (16°55'43”N, 106°35'45”E) vào lúc 09h30 ngày 11/02/2004. Thông tin bổ sung từ Nhóm giám sát cộng đồng cho thấy: Đã nhìn thấy một đàn lớn 30 cá thể, ngày 17/10/2004 tại khu vực Dốc Mang, một đàn khác 10 cá thể cũng nhìn thấy ở khu Rào Thép, ngày 14/11/2004. Đợt khảo sát tháng 10/2005, đã quan sát 3 con trong một đàn di chuyển trên đường mòn cách bên giới Việt-Lào khoảng 1km. Vượn đen má trắng Nomascus leucogenis Khu vực Thôn Cợp có ít nhất 3 đàn vượn, hai đàn ở phía tây và một đàn ở phía đông đường Hồ Chí Minh. Một đàn 3 cá thể đã quan sát thấy ngày 3/11/2005 ở khu vực Khe Cợp, trong đó 1 con đực, 1 con cái và 1 con non (tọa độ: 0670237 N, 1872190 E). Thông tin bổ sung từ Nhóm giám sát cộng đồng cho thấy: Đã nhìn thấy 3 con ở Khe Suốt, ngày 16/11/2004 và 2 con khác cũng nhìn thấy vào tháng 10/2004. Voọc Hà Tĩnh Semnopethecus laotum hatinhensis Tên địa phương gọi loài này là con Cùng (con khỉ đen, đuôi dài sống ở lèn đá). Một đàn 12 cá thể đã quan sát thấy tại sườn núi đá vôi có cây gần bản Trăng vào lúc 15h ngày 4/11/2005. Sáng ngày 5/11 lại quan sát thấy loài này trên các mỏm đá cùng vị trí. Vào giữa tháng 12 quan sát thấy một cá thể trên mỏm đá cùng vị trí trên (Trải quan sát). Dãy núi đá vôi nơi đang có đàn voọc sinh sống kéo dài từ bản Trăng về phía đông khoảng 6-7 km với nhiều đỉnh và vách đá dốc đứng nối tiếp nhau, trên sườn núi có nhiều cây gỗ và dây leo, cây bụi. Phía sau bản Trăng cũ có một hang đá vòm cao, rộng trên đỉnh núi là nơi thích hợp loài voọc trú ngụ qua đêm và khi thời tiết khắc nghiệt. Với điều kiện tự nhiên như vậy có thể số lượng đàn và cá thể voọc đen ở đây còn nhiều hơn nếu được điều tra kỹ. Đây là loài phụ linh trưởng đặc hữu của Việt Nam. Đây là lần đầu tiên ghi nhận cho tỉnh Quảng Trị, trước đây loài này chỉ được biết từ vùng núi Phong Nha-Kẻ Bàng và Kim Lũ Tuyên Hóa tỉnh Quảng Bình. Gấu ngựa Ursus thibetanus Các dấu móng cào của loài này được ghi nhận trên các cây gỗ (16°55'51”N, 106°35'22”E), và dấu móng và phân mới được cho là của loài này được phát hiện ở vùng rừng nguyên sinh khu vực Khe cựp (16°55'40”N, 106°35'46”E) vào ngày 11/02/2004. Những người cung cấp thông tin còn cho biết một thợ săn thôn Khe cựp mới săn được một con Gấu ngựa (khoảng 100 kilôgram) ở ngay vùng Khe cựp vào tháng 12/2003. Rái cá vuốt bé Aonyx cinereaDấu chân của loài này được phát hiện ở bờ sông Xê Păng Hiêng vào các ngày 15 và 16/02/2004. Số lượng dấu chân phát hiện được rất thấp cho thấy rằng có lẽ số lượng Rái cá vuốt bé trong vùng không nhiều. Phân rái cá và dấu chân quan sát thấy ở dọc suối Cha Lỳ tháng 10/2005. Một bàn chân của loài này thu được trong gia đình ở thôn Cựp trong đợt điều tra tháng 10-11/2005. Mang lớn Megamuntiacus vuquangensis Loài này được xác định qua ba bộ gạc tìm thấy ở nhà các thợ săn ở các thôn Khe cựp, Xà Lỳ và Thôn Cuồi. Những người được phỏng vấn cho rằng Mang lớn còn tương đối phổ biến ở các vùng rừng thường xanh của xã Hướng Lập. Hai thợ săn bắt Dự án xây dựng khu BTTN Bắc Hướng Hoá
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đánh giá tác động môi trường : Xây dựng Trại chăn nuôi gà tại ấp 1, xã Sông Ray, huyện Cẩm Mỹ
16 p | 750 | 132
-
MÔ HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CẢNG CÁ TRẦN ĐỀ
6 p | 356 | 38
-
ĐỊNH MỨC TẠM THỜI ÁP DỤNG TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH/DỰ ÁN KHUYẾN LÂM
35 p | 98 | 11
-
Báo cáo nghiên cứu nông nghiệp " TỔNG KẾT LẠI QUÁ TRÌNH SINH TRƯỞNG VÀ THÍCH NGHI CỦA CÁC LOÀI THÔNG CARIBAEA Ở VIỆT NAM "
20 p | 81 | 9
-
Khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phổ biến công nghệ, xây dựng liên kết chuỗi giá trị để cải thiện việc sản xuất sắn tại các nông hộ quy mô nhỏ ở Đông Nam Á: Trường hợp chuỗi giá trị cây sắn tại Sơn La
5 p | 72 | 7
-
Ứng dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ xây dựng mô hình nuôi chim yến tại Trà Vinh
7 p | 51 | 6
-
Đánh giá các phương án giảm chi phí giao thông và cải thiện việc tiếp cận thị trường cho các chủ trang trại nhỏ tại Đông Nam Á
3 p | 92 | 6
-
Hiện trạng và kế hoạch quản lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Phước Hòa
9 p | 50 | 6
-
Đa dạng sinh học nấm ăn và nấm dược liệu tại Vườn Quốc gia Tam Đảo
14 p | 13 | 3
-
Vận dụng hành lang pháp lý - Luật bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn ở An Giang
10 p | 59 | 3
-
Xây dựng bản đồ GIS của huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La để xác định tính thích hợp cho sản xuất mận Tam Hoa
3 p | 31 | 3
-
Chợ ở đồng bằng sông Cửu Long trong xây dựng nông thôn mới
18 p | 80 | 2
-
Tác động của xây dựng tuyến đường dây truyền tải 230KV đến rừng tại tỉnh Attapeu, CHDCND Lào
8 p | 30 | 2
-
Quản lý các khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam: Nghiên cứu điển hình tại khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm - Hội An
24 p | 5 | 2
-
Những chuyển biến trong quá trình phát triển sản xuất và tiêu thụ rau an toàn Lào Cai
6 p | 78 | 1
-
Xây dựng mô hình không gian ba chiều từ nguồn dữ liệu địa lý tình nguyện
7 p | 47 | 1
-
Một số kết quả của dự án khuyến nông: Xây dựng mô hình phòng trừ tổng hợp bệnh chết nhanh, bệnh chết chậm hồ tiêu tại Tây Nguyên và Đông Nam Bộ
6 p | 63 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn