
275
LAN TỎA FINTECH TRONG HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP NỀN
KINH TẾ SỐ: NHỮNG YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH VÀ HÀM Ý CHO
VIỆT NAM
Lê Đạt Chí
Khoa Tài chính Trường Đại học Kinh tế TP. HCM
Trần Hoài Nam
Tường Đại học Kinh tế TP. HCM
Tóm tắt
Sự nổi lên của làn sóng phát kiến công nghệ tài chính (FinTech) gắn liền với nhu
cầu đổi mới ngành dịch vụ tài chính, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008.
Cụ thể, làn sóng đầu tiên đánh dấu tham vọng của các công ty khởi nghiệp FinTech
nhằm đối đầu cạnh tranh với các tổ chức tài chính-ngân hàng truyền thống. Qua đó, các
tổ chức truyền thống bắt đầu nhận thức và tìm những phương cách khác nhau để ứng phó
với “sự phá bĩnh” này. Làn sóng thứ hai, đang diễn ra hiện nay, hướng đến một hệ sinh
thái tích hợp trên nền tảng cạnh tranh hợp tác giữa hệ thống tài chính cũ với các công ty
công nghệ (cũ và FinTech). Sự thành công của hệ sinh thái khởi nghiệp FinTech trong
nền kinh tế số phải gắn liền với sự lan tỏa FinTech trên mọi phương diện. Bài viết là
những đánh giá và phân tích các khía cạnh đó với các hàm ý thiết thực cho Việt Nam
trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: FinTech, hệ sinh thái khởi nghiệp, nền kinh tế số, công nghiệp 4.0, Việt Nam
1. Giới thiệu và các khái niệm cơ bản
1.1. Cách mạng công nghiệp 4.0 với nền kinh tế số
Thuật ngữ (Cách mạng) công nghiệp 4.0 thường được dùng để nói đến giai đoạn
hiện hành của cách mạng công nghiệp trong lịch sử loài người. Giai đoạn này được đặc
trưng bởi tự động hóa kết hợp với trao đổi/xử lý dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Đức là
quốc gia khởi đầu cho sự chuyển dịch nền kinh tế theo hướng cách mạng công nghiệp thế
hệ 4 dựa trên các đổi mới về sản xuất/dịch vụ được đảm đương bởi các hệ thống mạng
điều hướng bởi thuật toán máy tính (Lee & cộng sự, 2014). Đây là nhu cầu thiết thực
trong bối cạnh cạnh tranh kinh tế gia tăng, khi mà các công ty đang ngày càng đối mặt
với nhiều thách thức trong việc ra quyết định nhanh dựa trên cơ sở dữ liệu lớn (big data).
Thực tế là nhiều hệ thống sản xuất hiện tại không sẵn sàng xử lý dữ liệu lớn do thiếu các
công cụ phân tích thông minh. Các mô hình nhà máy thông minh (smart factory) sẽ tập
trung vào việc tối ưu hóa và tính thông minh về kiểm soát. Các hệ thống mạng sẽ kiểm
soát các tiến trình sản xuất thực và tương tác với các hệ thống khác và cả con người. Sự
tương tác liền mạch sẽ giúp cải thiện thành quả sản xuất. Điều đó đòi hỏi các cơ chế máy
móc thông minh tự nhận thức (self-aware) và tự học hỏi (self-learning). Mặc dù cơ chế
“máy học” vốn được ứng dụng nhiều trong khoa học máy tính, việc áp dụng vào chu
trình sản xuất cần nhiều thời gian để hoàn thiện. Do đó hiện trạng của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 là giải quyết các vấn đề liên quan đến việc ứng dụng và dung hòa 4
thành tố chính: hệ thống mạng sản xuất, toàn bộ mạng Internet (Internet of Things, IOT),
điện toán đám mây và điện toán nhận thức.

276
Tiến trình kinh doanh xoay quanh mạng kết nối Internet diện rộng đã đưa đến
những khái niệm mang tính xu hướng gần đây như nền kinh tế Internet hay nền kinh tế
Web. hái niệm nền kinh tế số (digital economy) được nhắc đến với hàm ý một hệ thống
các quan hệ kinh doanh dựa trên các công nghệ điện toán số. hái niệm này xuất hiện
đầu tiên vào những năm 1990, với sự phổ biến của mạng lưới máy tính (network and
internet) mà sau đó đưa đến sự bùng nổ của các công nghệ máy tính tiên tiến. Cuốn sách
được trích dẫn nhiều nhất về khái niệm này có lẽ là của Tapscott (1996), “Nền kinh tế số:
sự hứa hẹn và sự nguy hiểm trong thời đại trí tuệ kết được nối mạng”. Tapscott mô tả
“thời đại trí tuệ được kết nối mạng” là một hiện tượng mang tính bao quát và cách mạng
được thúc đẩy bởi sự hội tụ về các tiến bộ trong thông tin liên lạc loài người, điện toán
(máy tính, phần mềm, dịch vụ) và nội dung (xuất bản, giải trí và cung cấp thông tin),
nhằm tạo ra tương tác đa phương tiện truyền thông và thông tin tốc độ cao. Theo đó, kỷ
nguyên nền kinh tế số đang buộc loài người nhận thức lại các định nghĩa về nền kinh tế,
sự tạo ra của cải xã hội, các tổ chức kinh doanh và các cấu trúc thể chế khác. Theo
Tapscott, sự chuyển đổi trong các mối quan hệ kinh tế và xã hội như vậy hàm chứa cả cơ
hội (những hứa hẹn) và thách thức (những tiềm ẩn rủi ro). Gần đây, nền kinh tế số đã trở
thành một nhánh của kinh tế học nghiên cứu về hàng hóa phi vật chất có chi phí biên
bằng không – thông qua hệ thống mạng lưới (Fournier, 2014). Sự chuyển đổi kỹ thuật số
trong các ngành kinh tế đang diễn ra, và đang tái cấu trúc các nền kinh tế. Hệ quả là, nền
kinh tế số đang trở thành một cấu thành ngày càng lớn và quan trọng của toàn bộ nền
kinh tế quốc gia ( xford Economics, 2011). Sự chuyển đổi kỹ thuật số đó là gắn liền chặt
chẽ với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Và đây cũng là một bối cảnh mang lại lợi ích
biên to lớn cho các thị trường mới nổi hay các nền kinh tế đang phát triển, với một thời
cơ nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Theo một thống kê của Hiệp hội
viễn thông quốc tế (ITU), trong 5,3 tỷ thuê bao di động toàn cầu, 73% nằm ở các nước
đang phát triển ( xford Economics, 2011). Trung Quốc và Ấn Độ là ví dụ điển hình, nơi
sự thích ứng với nền kinh tế số đang diễn ra nhanh chóng. Trong mảng di động này,
Trung Quốc và Ấn Độ đang có sự tăng trưởng phi thường về tầm quan trọng trong nền
kinh tế số thế giới do quy mô thị trường cộng với đà giảm trong cước phí di động ở các
nước này. Theo eMarketer, từ năm 2010 đến 2015, số người dùng di động ở Trung Quốc
tăng từ 671,1 triệu lên 1,06 tỷ người trong khi ở Ấn Độ từ 516,2 triệu lên 901,2 tỷ người
( xford Economics, 2011). Cũng như phân tích ở phần sau của bài viết này, Trung Quốc
và Ấn Độ cũng là 2 nền kinh tế có mức độ thích ứng FinTech cao nhất thế giới.
Nhìn chung, vai trò của nhân tố công nghệ trong mô hình tăng trưởng kinh tế đang
mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các thị trường mới nổi đang tạo ra lực cầu công nghệ và cộng
với điều kiện kinh tế thuận lợi hiện hành để thúc đẩy tăng trưởng, thông qua các yếu tố
gắn liền như thu nhập và cầu tiêu dùng, giáo dục và đào tạo, và hiệu quả sử dụng vốn và
nguồn lực. Nhờ cơ cấu dân số và thu nhập đang tăng mạnh mẽ hơn các nước phát triển và
các nước mới nổi, nhóm nước này sẽ trở thành trung tâm của các chiến lược tăng trưởng
doanh nghiệp trong nền kinh tế số. Mối liên kết công nghệ và tăng trưởng sẽ mạnh mẽ
hơn nữa trong các thị trường đang phát triển vì một cơ sở khách hàng lớn đang dịch
chuyển vào tầng lớp trung lưu. Cơ hội cất cánh tăng trưởng đang nằm trong tay các nước
đang phát triển biết nắm bắt hiệu năng của nền kinh tế số. Theo xford Economics
(2011), dự báo đến năm 2020, nhóm 7 nước thị trường mới nổi lớn nhất (Nga, Trung
Quốc, Brazil, Ấn Độ, Mexico, Indonesia và Thổ Nhĩ ỹ) sẽ có thị phần GDP lớn hơn
nhóm G7 (Mỹ, nh, Nhật, Italia, Đức, Pháp, Canada), và nhóm các nước thị trường mới
nổi tiếp theo gồm Việt Nam, Colombia, Nam Phi và Hàn Quốc sẽ tiếp tục cất cánh trong

277
dòng chảy phát triển kinh tế của mình. Thành quả thịnh vượng tương lai đang chờ đón
những quốc gia biết nắm bắt cơ hội, bên cạnh việc vượt qua những thách thức, trong bối
cảnh nền kinh tế số và cách mạng công nghiệp 4.0 này. Ở khía cạnh tài chính, một cuộc
đột phá mang tính cách mạng cũng đang diễn ra mang tên FinTech. Nắm bắt tinh thần
FinTech và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp xoay quanh FinTech cũng là một hướng
phát triển trọng tâm trong định hướng nền kinh tế số toàn cầu.
1.2. FinTech và hệ sinh thái khởi nghiệp FinTech
FinTech là cách viết tắt của cụm từ “Financial Technology” (Công nghệ tài chính)
nhằm định nghĩa một khái niệm liên quan đến việc ứng dụng công nghệ nhằm mang lại
những giải pháp/dịch vụ tài chính hữu hiệu. Những ví dụ gần nhất về công nghệ tài chính
là việc ứng dụng thiết bị thông minh (như điện thoại thông minh) vào dịch vụ ngân hàng,
dịch vụ tài chính đầu tư, hay sự ra đời và tiềm năng ứng dụng của tiền điện tử/tiền mã
hóa. Ngày nay, FinTech được biết đến như là một sự kết hợp giữa các dịch vụ tài chính
và công nghệ thông tin. Tuy nhiên, mối liên kết giữa tài chính và công nghệ đã có lịch sử
lâu đời của nó. Theo rner & cộng sự (2015), sự liên hệ công nghệ và tài chính đã trải
qua 3 kỷ nguyên riêng biệt. ỷ nguyên đầu tiên (FinTech 1.0) kéo dài hơn một thế kỷ từ
1866 đến 1987 là thời kỳ toàn cầu hóa đầu tiên về tài chính với sự hỗ trợ bởi hạ tầng công
nghệ, điển hình là việc kết nối cáp xuyên Đại Tây Dương. ỷ nguyên tiếp theo (FinTech
2.0) kéo dài từ 1987 đến 2008, là thời kỳ các tiến trình dịch vụ tài chính được số hóa
mạnh mẽ. ỷ nguyên thứ ba (FinTech 3.0) kéo dài từ 2008 đến hiện tại – đánh dấu sự trỗi
dậy của một kỷ nguyên mới ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
ỷ nguyên hiện tại của FinTech đã thật sự bùng nổ, ở một tầm cao mới. Ngọn
nguồn của FinTech 3.0 này là từ hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008.
Sự mất mát niềm tin vào hệ thống tài chính ngân hàng toàn cầu đã dẫn đến làn sóng các
doanh nghiệp phát kiến và ứng dụng công nghệ để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài
chính tốt hơn, hiệu quả và an toàn hơn. Làn sóng này được dẫn đầu bởi các công ty khởi
nghiệp (starp-ups) năng động, luôn tìm cách “phá bĩnh” lề lối hoạt động của các tổ chức
tài chính truyền thống, và đặt họ vào nguy cơ tụt hậu lại đằng sau nếu họ không phản
kháng và đổi mới. Tuy nhiên, kỷ nguyên này của FinTech đặt ngành tài chính vào một
bối cảnh mới: tạo ra vô vàn thách thức cho các nhà lập pháp và những người tham gia thị
trường tài chính. Nói cách khác, đây là giai đoạn đi liền với sự đánh đổi giữa lợi ích tiềm
năng của đổi mới sáng tạo với những rủi ro tiềm tàng của những phương thức tiếp cận
mới này. Đặc biệt trong thị trường mới nổi, FinTech nổi lên với những nguồn gốc khác
biệt như sự thiếu vắng hạ tầng ngân hàng với sự thiếu hiệu quả về dịch vụ tài chính, tiềm
năng mở rộng thị trường, hay nền tảng pháp lý/luật định thiếu chặt chẽ. Và bối cảnh ở các
nhóm nước này được ví như kỷ nguyên FinTech 3.5, điển hình là ở thị trường Trung
Quốc.
Nếu như FinTech 2.0 chứng kiến sự kết hợp giữa tổ chức tài chính/ngân hàng với
công ty công nghệ thông tin, thì FinTech 3.0 đặc trưng bởi sự nổi lên mạnh mẽ của các
công ty khởi nghiệp FinTech, mà ban đầu trực tiếp cạnh tranh và thách thức các tổ chức
truyền thống. Cộng đồng các công ty khởi nghiệp FinTech được hình thành nhanh chóng
khắp thế giới, điển hình là London, Hong ong và Singapore. Những thành phố FinTech
này được sự hỗ trợ pháp lý từ giới chính quyền để thu hút các nguồn lực phát triển. Điều
đó tạo ra sự dịch chuyển nguồn nhân lực (tài năng) công nghệ và sự năng động của các
quỹ đầu tư mạo hiểm. Hệ quả là sự chuyển đổi không ngừng trong các mô hình kinh
doanh, hướng trọng tâm chính vào trải nghiệm khách hàng/người dùng. Sự lớn mạnh của
các hệ sinh thái FinTech cũng buộc các tổ chức tài chính truyền thống đối mặt với câu

278
chuyện sống còn: thay đổi hoặc là chết. u hướng mới đang diễn ra là sự hợp tác (quan
hệ đối tác cạnh tranh) giữa những kẻ mới và người cũ để tận dụng những thế mạnh của
nhau (kẻ mới có đủ sự sáng tạo và người cũ có đủ hạ tầng/mạng lưới) qua đó đẩy nhanh
cuộc cách mạng công nghệ lên một tầm cao mới – mà hiện nay tầm cao đó vẫn chưa hề
xác định được giới hạn!
2. FinTech và khởi nghiệp FinTech với nền kinh tế số trong thời đại Công nghiệp
4.0
2.1. FinTech
Công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng về dữ liệu. Trong góc nhìn FinTech, đây là
cuộc cách mạng về dữ liệu tài chính được khai thác để làm cơ sở cho các phát kiến về
dịch vụ tài chính, ngân hàng. Do vậy kẻ nắm trong tay dữ liệu là kẻ có lợi thế cạnh tranh
vô cùng lớn. Hãy tưởng tượng về các gã khổng lồ công nghệ Google và Facebook, những
tập đoàn nắm trong tay cơ sở dữ liệu (bao gồm dữ liệu hành vi khách hàng) của một
lượng cư dân đông đảo trên toàn thế giới. Các ngân hàng có nhiều lý do để lo sợ khi các
gã khổng lồ công nghệ đã bắt đầu nhảy vào lĩnh vực tài chính (Hãy suy nghĩ về những
phát súng trong lĩnh vực thanh toán mang tên Google Pay và Facebook Pay.) Đó là chưa
kể đến làn sóng mạnh mẽ các công ty khởi nghiệp FinTech mà đi đầu là Lending Club,
với sự kiện IP lớn nhất ngành công nghệ năm 2014 của nó trở thành dấu mốc thay đổi
cuộc chơi trong toàn bộ ngành FinTech. Định nghĩa về lĩnh vực ngân hàng thậm chí có
thể phải bổ sung thêm khái niệm ‘ngân hàng phi ngân hàng’. Ngành ngân hàng đã và
đang đối diện với sự cạnh tranh ở mọi phân khúc và thị trường ngách. Các gã khổng lồ và
các công ty FinTech đang ‘xé lẻ để đánh’ vào miếng bánh béo bỡ dịch vụ tài chính, ngân
hàng. Các ngân hàng truyền thống, với hệ thống lõi và mạng lưới kế thừa khó chuyển
đổi/phản ứng nhanh, sẽ gặp bất lợi (và sẽ dễ bị tụt hậu) trước những “kẻ phá bĩnh sáng
tạo” vốn được cấu trúc tinh gọn, nhanh nhạy, và ít bị tác động mạnh bởi quy tắc luật định
như các ngân hàng. Ngân hàng trên thế giới đang phải thức tỉnh trước mối đe dọa đến sự
sống còn của chính mình! Năm 2009, trên Financial Times, giám đốc điều hành BBV
Francisco Gonzalez phải thừa nhận “Các ngân hàng cần phải cạnh tranh với mazon và
Google hoặc là chết” (Chishti & Barberis, 2016).
Các giao dịch tài chính là thị trường mục tiêu chính của làn sóng FinTech toàn
cầu. Trong đó, hai lĩnh vực mà các công ty FinTech tấn công (“phá bĩnh”) nhiều nhất là
dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng và thanh toán & chuyển tiền. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính 2008, niềm tin dân chúng vào hệ thống ngân hàng đổ vỡ - cũng là thời cơ
cho các công ty FinTech giành lấy niềm tin khách hàng – những người trước đó mất đi
đặc ân “khách hàng là thượng đế” trước sự ngạo ngễ (thậm chí bất cần) của giới tài
chính–ngân hàng kiêu sang và phải chịu các chi phí ngày càng gia tăng. (Sự ra đời của
công nghệ blockchain là một lời đáp trả đanh thép cho thái độ đó!) Rõ ràng khách
hàng/người tiêu dùng là trụ cột quan trọng của giao dịch tài chính và bên nắm giữ được
lòng trung thành và sự cam kết của người tiêu dùng sẽ bên giành được thắng lợi của cuộc
chiến này. hi cảm nhận được cơ hội – và khi các ngân hàng không chịu thay đổi – các
đối thủ mà đặc biệt là những gã khổng lồ như Facebook, Goolge, pple, Samsung,
Paypal, Amazon sẽ chắc chắn nhảy vào thay thế vai trò (và rõ ràng các đối thủ này hiện
nay đã nhận thức và hành động thông qua các phần mềm dịch vụ [SaaS], Chishti &
Barberis, 2016). Tuy nhiên, ngân hàng không phải không còn cơ hội cứu vãn, thậm chí
tận dụng để phát triển hơn. Các ngân hàng truyền thống nắm trong tay lợi thế về độ phủ
của mạng lưới và cơ sở khách hàng. Rõ ràng, có một lựa chọn tốt hơn mà mang lại lợi ích
cho cả hai bên của cuộc chiến: thiết lập quan hệ hợp tác hoặc đối tác. Đây đang trở thành

279
xu hướng chung hiện nay (được biết đến với xu hướng “cạnh tranh hợp tác”). Theo EY
(2017a), một mô hình “lai” như thế là giải pháp lý tưởng nhất. Thật vậy, số liệu của EY
cho thấy hơn phân nửa các ngân hàng toàn cầu chọn giải pháp hợp tác với các công ty
FinTech, trong đó các ngân hàng khu vực châu Á-Thái Bình Dương là sốt sắng nhất với
tỷ lệ 57,3%. Phân tích của PwC (2017a) cũng cho thấy các khuynh hướng cạnh tranh ít
hơn và hợp tác nhiều hơn giữa các công ty FinTech và các tổ chức dịch vụ tài chính. Một
kịch bản có thể xảy ra của khuynh hướng này, có lẽ là, các ngân hàng cuối cùng sẽ chỉ
còn đóng vai trò như các “dịch vụ nền” đơn thuần, vì đối tượng sở hữu mối quan hệ
khách hàng trong tương lai sẽ là các gã khổng lồ công nghệ và các công ty FinTech. Do
vậy, một khái niệm tương lai hoàn toàn có thể xảy ra: ngân hàng FinTech.
Đến nay, cuộc vận động FinTech (ở các thị trường phát triển) được nhìn nhận qua
2 làn sóng. Có lẽ chúng ta đang ở giai đoạn cuối của làn sóng thứ nhất, nơi gắn liền với
sự ra đời của các công ty khởi nghiệp FinTech, cạnh tranh lại trực tiếp với các ngân hàng
truyền thống về những sản phẩm dịch vụ cụ thể ở nhiều phân khúc như cho vay và tín
dụng, thanh toán, chuyển tiền, và quản lý tài sản. Làn sóng thứ hai có lẽ đang bắt đầu ở
các thị trường phát triển và các trung tâm FinTech hàng đầu trên thế giới. Với trọng tâm
là xây dựng một nền kinh tế PI (giao diện lập trình ứng dụng) kết nối và chia sẻ giữa
các tổ chức dịch vụ tài chính hiện hành và các công ty FinTech thông qua một giao diện
lập trình ứng dụng thống nhất (Chishti & Barberis, 2016). Theo đó, nền kinh tế PI được
thiết kế xoay quanh 4 khối kiến trúc cơ bản gồm xã hội, di động, phân tích, và điện toán
đám mây. Đây sẽ là một mô hình nền kinh tế số trong thời đại Công nghiệp 4.0, nơi tồn
tại dựa trên các yếu tố chủ chốt như Internet kết nối mọi thứ (IoT), sự tín nhiệm cá nhân
được xác định bởi cộng đồng (sức mạnh của phương tiện truyền thông xã hội), nhu cầu
xã hội về trải nghiệm tốt nhất (tính nhất quán và tức thì), và vai trò đổi mới cấp tiến của
công nghệ thông tin.
Tỷ lệ ứng dụng FinTech toàn cầu cũng đang tăng trưởng, trong đó nổi bật là Trung
Quốc và Ấn Độ với quá nửa dân số ở 2 nước này thường xuyên sử dụng kỹ thuật số.
Theo dự đoán của EY (2017b), sự thích ứng FinTech sẽ tăng mạnh mẽ hơn nữa trong
tương lai.
2.2. Khởi nghiệp FinTech
Hệ sinh thái khởi nghiệp FinTech chỉ là một phần của hệ sinh thái FinTech nói
chung, nơi còn được tạo dựng bởi hạ tầng cơ sở của ngành tài chính truyền thống, các tổ
chức dịch vụ tài chính, và các công ty công nghệ (cũ). Hệ sinh thái khởi nghiệp FinTech
đang trở thành động lực phát triển tài chính của các nền kinh tế lớn trên thế giới. Theo
Báo cáo khảo sát ngành FinTech của PwC (2017), phần đông số người được khảo sát
(75%) tin rằng các công ty khởi nghiệp FinTech sẽ trở thành đối tượng tạo ra nhiều phát
kiến đổi mới nhất trong vòng 5 năm tới, trong đó khuynh hướng chính là hoạt động theo
mô hình B2B (doanh nghiệp đến doanh nghiệp) nhằm cung cấp các nền tảng cho các tổ
chức tài chính. Niềm tin vào công ty khởi nghiệp FinTech rõ ràng cao hơn nhiều so với
niềm tin vào đối tượng xếp thứ hai là các nền tảng Internet và truyền thông xã hội (55%),
trong khi các tổ chức tài chính truyền thống chỉ nhận được 28% sự tin tưởng.
Sự mở rộng của các hệ sinh thái khởi nghiệp FinTech luôn gắn liền với hoạt động
đầu tư vốn mạo hiểm (dưới các khuôn khổ pháp lý do chính phủ quy định). Lượng vốn
mạo hiểm đã tăng trưởng nhanh từ năm 2015, mốc thời gian nở rộ của FinTech 3.0. Cùng
với đó, số lượng và quy mô các công ty khởi nghiệp FinTech cũng không ngừng gia tăng
toàn cầu (EY, 2017c; PMG, 2017; PMG, 2018). Thật vậy, FinTech đang định hình lại