
154
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 266- Năm thứ 26 (7)- Tháng 7. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Tác động của Fintech đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
Lê Thị Bích Ngân
Học viện Ngân hàng, Việt Nam
Ngày nhận: 21/05/2024 Ngày nhận bản sửa: 28/06/2024 Ngày duyệt đăng: 01/07/2024
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, các công ty chứng khoán tại Việt Nam đã
từng bước ứng dụng Fintech vào hoạt động kinh doanh nhằm đa dạng hoá sản
phẩm dịch vụ cung cấp, tăng cường khả năng tiếp cận khách hàng với mục
tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Nghiên cứu này tập trung đánh
giá tác động của Fintech đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh của 76 công
ty chứng khoán hoạt động liên tục trên thị trường Việt Nam trong giai đoạn
2015-2022 bằng cách sử dụng dữ liệu bảng. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc
ứng dụng Fintech có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của
các công ty chứng khoán tại Việt Nam. Từ kết quả này, tác giả đề xuất một số
giải pháp, khuyến nghị cho các công ty chứng khoán nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay như chú trọng
đầu tư vào hoạt động nghiên cứu, ứng dụng Fintech phù hợp với xu hướng,
phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao…
Từ khóa: Fintech, Công ty chứng khoán, Hiệu quả hoạt động kinh doanh, Việt Nam
The impact of Fintech on the business performance of securities companies in Vietnam
Abstract: In recent years, securities companies in Vietnam have gradually applied Fintech to business
activities to diversify products and services provided, enhance customer access with the goal of improving
business performance. This study focuses on evaluating the impact of Fintech on the business performance
of 76 securities companies operating in the Vietnamese market in the period 2015- 2022. Research results
show that Fintech application has a positive impact on the business performance of securities companies
in Vietnam. From these results, the author proposes a number of solutions and recommendations for
securities companies to improve business performance in the current context of digital transformation
such as focusing on investing in research activities, applying Fintech in accordance with trends, developing
high-tech human resources.
Keywords: Fintech, Securities companies, Business performance, Vietnam
DOI: 10.59276/JELB.2024.07CD.2743
Le, Thi Bich Ngan
Banking Academy of Viet Nam
Email: nganltb@hvnh.edu.vn

LÊ THỊ BÍCH NGÂN
155
Số 266- Năm thứ 26 (7)- Tháng 7. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
1. Đặt vấn đề
Sau hơn 20 năm hoạt động, các công ty
chứng khoán đã chứng tỏ được vai trò quan
trọng của mình trong việc thúc đẩy sự phát
triển ổn định, vững chắc của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Theo thống kê
của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, khi
mới bắt đầu vào năm 2000, Việt Nam chỉ
có 6 công ty chứng khoán, con số này đã
từng đạt tới 105 công ty vào năm 2010, thế
nhưng trải qua quá trình phát triển và lựa
chọn của thị trường thì hiện nay chỉ còn
khoảng 80 công ty chứng khoán còn hoạt
động. Để tiếp tục tồn tại và phát triển, các
công ty chứng khoán Việt Nam đã không
ngừng đổi mới, phát triển để đáp ứng nhu
cầu của thị trường chứng khoán nói chung
và các nhà đầu tư tham gia thị trường nói
riêng, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ
(Fintech) trong vận hành cũng như cung
cấp sản phẩm, dịch vụ tới nhà đầu tư.
Fintech và các ứng dụng của nó đã trở thành
chủ đề được nhắc đến nhiều trong những
năm gần đây nhờ sự tiến bộ nhanh chóng
của công nghệ trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống. Đặc biệt dưới tác động của đại dịch
Covid-19 gây đứt gãy trong hoạt động kinh
doanh toàn cầu thì Fintech đã phát triển vô
cùng mạnh mẽ. Sự xuất hiện của các công
nghệ và dịch vụ Fintech đã tái cấu trúc
chuỗi giá trị của hệ thống công ty chứng
khoán. Các ứng dụng và hoạt động Fintech
không chỉ có ý nghĩa trong marketing mà
còn là công cụ then chốt trong cung cấp
dịch vụ, chinh phục khách hàng. Công
nghệ Blockchain, Trí tuệ nhân tạo AI, Big
Data và an ninh mạng có thể ảnh hưởng
đến các hoạt động chứng khoán như hỗ trợ
và điều tiết các giao dịch mua- bán, thanh
toán, quyết toán hay lưu trữ tích luỹ các dữ
liệu giao dịch (Phạm Tiến Mạnh, 2022).
Ngoài ra, các công nghệ này còn giúp cho
công ty chứng khoán xây dựng các sản
phẩm, dịch vụ tài chính mới với cách thức
vận hành thông minh hơn, nhanh hơn, từ
đó nâng cao khả năng cạnh tranh của công
ty chứng khoán trên thị trường. Blockchain
có thể cải thiện tính ổn định và bảo mật của
các giao dịch, đồng thời giảm chi phí giao
dịch, từ đó có thể thay đổi hoàn toàn cơ
sở hạ tầng giao dịch tài chính (Phạm Tiến
Mạnh, 2022).
Việc ứng dụng Blockchain vào hệ thống
lưu ký chứng khoán hay KYC (Know Your
Customer) sẽ giảm chi phí giao dịch chung
cho toàn ngành. Công nghệ này cũng được
sử dụng để xử lý sau giao dịch trong giao
dịch cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ phái
sinh chưa niêm yết. Trí tuệ nhân tạo AI và
Big Data cũng được coi là động lực thúc đẩy
sự chuyển đổi của các công ty chứng khoán
trong việc tích lũy dữ liệu, bao gồm cả dữ
liệu phi cấu trúc để phân tích, đánh giá thị
trường, hỗ trợ khách hàng trong giao dịch và
quản lý tài sản cũng như nâng cao hiệu quả
hoạt động nghiệp vụ tại công ty. An ninh
mạng vẫn luôn là vấn đề được nhiều khách
hàng lo lắng khi sử dụng dịch vụ công nghệ
vì vậy các công ty Fintech cũng như công
ty chứng khoán cần chú trọng vấn đề này
nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa lợi ích thu
được và an toàn tài chính của khách hàng
(Phạm Tiến Mạnh, 2022).
Tại Việt Nam, việc ứng dụng Fintech vào
dịch vụ tại công ty chứng khoán có từ khá
sớm với sản phẩm ban đầu là giao dịch
mua/bán cổ phiếu thông qua điện thoại kết
nối mạng. Tuy nhiên, tính đến nay mới chỉ
có thêm một số dịch vụ như Mở tài khoản
trực tuyến thông qua eKYC, Giao dịch trái
phiếu trực tuyến, Tiết kiệm trực tuyến, Tư
vấn đầu tư chứng khoán tự động (Robo
Advisor) (Phạm Tiến Mạnh, 2022).
Nghiên cứu này sẽ đi vào nghiên cứu việc
sử dụng Fintech tác động như thế nào tới
hiệu quả hoạt động của công ty chứng
khoán. Bài viết là nghiên cứu tiên phong

Tác động của Fintech đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
156 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 266- Năm thứ 26 (7)- Tháng 7. 2024
về đánh giá tác động của Fintech tới hiệu
quả hoạt động của hệ thống công ty chứng
khoán tại Việt Nam. Bài viết này làm
phong phú lĩnh vực nghiên cứu về Fintech
trên toàn cầu nói chung và tại Việt Nam nói
riêng. Bên cạnh đó, những kết quả nghiên
cứu còn cung cấp cơ sở thực nghiệm đáng
tin cậy trong việc tìm kiếm các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của loại hình công ty này.
Nghiên cứu bao gồm 5 phần chính: Phần
1 tác giả sơ lược về ứng dụng Fintech tại
công ty chứng khoán. Phần 2 làm rõ cơ
sở lý thuyết, sơ lược một số nghiên cứu
về tác động của Fintech tới hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần
3 đi vào dữ liệu và phương pháp nghiên
cứu. Phần 4 trình bày và thảo luận kết quả
nghiên cứu. Phần 5 đưa ra kết luận chung
và một số khuyến nghị.
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận
Fintech là sự kết hợp của Financial (tài
chính) và Technology (công nghệ) được
hiểu là sự ứng dụng sáng tạo công nghệ
vào các hoạt động và dịch vụ tài chính. Ở
phương diện đầy đủ hơn thì “Fintech là một
ngành công nghiệp tài chính mới áp dụng
công nghệ để cải thiện hoạt động tài chính”
hay “Fintech là những ứng dụng, quy trình,
sản phẩm hay mô hình kinh doanh trong
lĩnh vực tài chính nhằm mục tiêu cạnh tranh
với những phương thức cung cấp dịch vụ
tài chính truyền thống” (Arner và cộng sự,
2015), đồng thời thay thế các cấu trúc tài
chính truyền thống bằng các quy trình dựa
trên công nghệ mới (Hochstein, 2015).
Trong quá trình hình thành và phát triển,
các công ty Fintech không chỉ làm đa dạng
các sản phẩm, dịch vụ tài chính thông qua
việc đưa ra các ứng dụng, giải pháp mới
mà còn đưa ra giải pháp mới cho các vấn
đề cũ, từ đó có thể cải thiện, nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh doanh cho các doanh
nghiệp, tổ chức. Bên cạnh việc cung cấp
dịch vụ cho các thị trường lớn thì Fintech
cũng nhắm vào cả các thị trường ngách
nhằm lấp đầy khoảng trống cho nhu cầu tài
chính cụ thể với chi phí thấp hơn so với
các dịch vụ được cung cấp bởi các tổ chức
tài chính truyền thống. Đồng thời Fintech
cũng trao quyền cho người tiêu dùng trong
các hoạt động tài chính khi họ có thể tự
thực hiện mọi giao dịch trực tuyến, từ
thanh toán thông thường tới tự nghiên cứu,
lựa chọn danh mục đầu tư, hoàn thiện hồ
sơ, thủ tục vay vốn- cấp vốn… (Ayman &
cộng sự, 2023).
Mặc dù mang lại nhiều lợi ích nhưng việc
ứng dụng Fintech cũng đồng thời mang
lại rủi ro, thách thức cho cả doanh nghiệp
cũng như khách hàng. Fintech có thể làm
gia tăng nguy cơ rủi ro công nghệ và an
ninh mạng, đặc biệt là rủi ro về bảo mật
thông tin. Hay việc ứng dụng Fintech của
các tổ chức tài chính truyền thống và sự gia
nhập của các công ty Fintech vào lĩnh vực
tài chính- ngân hàng khiến gia tăng sự cạnh
tranh trên thị trường đối với các tổ chức tài
chính truyền thống, có thể làm ảnh hưởng
tới hiệu quả kinh doanh của các tổ chức
này... Ngoài ra, việc ứng dụng Fintech cũng
đòi hỏi các tổ chức, doanh nghiệp phải có
nguồn vốn đủ lớn để có thể cân bằng được
giữa chi phí bỏ ra để đầu tư cho Fintech và
lợi ích mang lại thực sự cho doanh nghiệp
(Haddad, 2021).
Nhìn chung, việc ứng dụng Fintech vào hoạt
động kinh doanh mang lại lợi ích nhưng
đồng thời cũng khiến cho doanh nghiệp có
thể đối mặt với nhiều thách thức, rủi ro.
Đối với các tổ chức kinh doanh chứng
khoán, điển hình là hệ thống công ty chứng
khoán thì việc ứng dụng Fintech có thể
giúp đa dạng hoá và nâng cao chất lượng

LÊ THỊ BÍCH NGÂN
157
Số 266- Năm thứ 26 (7)- Tháng 7. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
sản phẩm, dịch vụ cung cấp. Ứng dụng
Fintech tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu
tư dễ dàng mở tài khoản trên điện thoại
thông minh, có thể dễ dàng thao tác cập
nhật thông tin thị trường, phân tích và thực
hiện các giao dịch chứng khoán thông qua
các ứng dụng trên điện thoại, hoặc thông
qua các máy tính có nối mạng Internet…,
nhờ vậy công ty chứng khoán có thể dễ
dàng mở rộng tệp khách hàng đồng thời
thu hút khách hàng sử dụng các dịch vụ,
tiện ích mới của công ty, từ đó có thể làm
tăng doanh thu cho công ty. Ở mức cao
hơn, việc ứng dụng Fintech có thể dẫn đến
sự thay đổi từ quy trình thiết lập, tạo ra sản
phẩm dịch vụ mới hay quá trình đưa sản
phẩm, dịch vụ tiếp cận với khách hàng,
thậm chí là thay đổi mô hình kinh doanh
thành mô hình hoạt động hiệu quả, tối ưu
hơn. Việc ứng dụng công nghệ vào vận
hành cũng có thể giúp cho công ty chứng
khoán tối ưu hoá quy trình, tiết kiệm chi
phí, cải thiện hiệu suất, từ đó nâng cao sức
cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, việc
ứng dụng Fintech vào quản lý vận hành còn
có thể giúp cho công ty chứng khoán tăng
khả năng đáp ứng yêu cầu tuân thủ cơ quan
quản lý nhà nước (UBCKNN, 2021). Như
vậy, việc ứng dụng Fintech vào hoạt động
kinh doanh có thể mang lại ảnh hưởng tích
cực đối với công ty chứng khoán.
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của ứng
dụng Fintech đối với công ty chứng khoán
thì cần đánh giá việc sử dụng Fintech làm
thay đổi hiệu quả hoạt động kinh doanh của
công ty chứng khoán như thế nào, trong
đó cần tập trung vào hiệu quả kinh tế của
doanh nghiệp.
2.2. Các nghiên cứu có liên quan
Có khá nhiều nghiên cứu về tác động của
Fintech lên hoạt động của doanh nghiệp,
đa dạng từ hệ thống các doanh nghiệp tài
chính đến các doanh nghiệp phi tài chính ở
cả trong và ngoài nước như: Tam và cộng
sự (2021) đã sử dụng dữ liệu bảng với 220
quan sát lấy từ 22 ngân hàng thương mại
tại Việt Nam trong giai đoạn 2010- 2019 để
phân tích và đưa ra kết quả: Việc ứng dụng
Fintech vào phát triển Mobile Banking
Apps có tác động tích cực đến hiệu quả
hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại tại Việt Nam thông qua việc tác động
đến thu nhập từ phí, cho vay tiêu dùng,
tiền gửi… Các ngân hàng nhỏ sẽ chịu ảnh
hưởng nhiều hơn so với các ngân hàng lớn.
Nghiên cứu “FinTech effect: Measuring
impact of FinTech adoption on banks’
profitability” của Renu và cộng sự (2021)
đã tìm hiểu tác động của việc triển khai
công nghệ tài chính đến lợi nhuận của các
ngân hàng tại Ấn Độ. Nghiên cứu sử dụng
lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu (ROE) là các biến phụ
thuộc và các biến độc lập bao gồm tỷ lệ số
lượng máy ATM trên chi nhánh ngân hàng,
tỷ lệ vốn chủ sở hữu cấp 1, tỷ lệ chi phí trên
thu nhập và biến giả FinTech (bao gồm
blockchain, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa quy
trình bằng robot, công nghệ thanh toán và
điện toán đám mây). Kết quả cho thấy việc
áp dụng FinTech có tác động tích cực đáng
kể đến lợi nhuận của các ngân hàng.
Ayman và cộng sự (2023) nghiên cứu ảnh
hưởng của Fintech lên hệ thống các tổ chức
tín dụng dựa trên kết quả thu thập câu trả
lời bảng hỏi từ 150 nhà quản lý ngân hàng
tại Saudi Arabia. Với việc sử dụng kỹ thuật
PLS-SEM, kết quả cho thấy sự xuất hiện
của các yếu tố hỗ trợ kinh doanh đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
Fintech, dẫn đến sự gia tăng hiệu quả hoạt
động của ngân hàng. Tuy nhiên, nghiên cứu
này cho rằng Fintech chỉ mang lại nhiều cơ
hội chứ không phải công nghệ đột phá cho
ngành ngân hàng.

Tác động của Fintech đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của các công ty chứng khoán tại Việt Nam
158 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 266- Năm thứ 26 (7)- Tháng 7. 2024
Christian & Lars (2021), đã nghiên cứu
mối quan hệ giữa việc hình thành các công
ty khởi nghiệp Fintech với hiệu quả hoạt
động của mẫu lớn các tổ chức tài chính lấy
từ 87 quốc gia trong giai đoạn 2005- 2018
và cho thấy Fintech không chỉ có tác động
tích cực đến hiệu quả hoạt động của khu
vực tài chính mà còn có thể cải thiện sự ổn
định tài chính khi việc hình thành các công
ty khởi nghiệp có thể làm ổn định lợi nhuận
cổ phiếu của các tổ chức tài chính cũng như
làm giảm mức độ rủi ro hệ thống của các
tổ chức này.
Về phía các doanh nghiệp phi tài chính,
thông qua kết quả khảo sát từ 100 doanh
nghiệp SMEs (Doanh nghiệp vừa và nhỏ)
tại Indonesia, Novia & Marsiana (2021) đã
sử dụng hồi quy OLS để phân tích và cho
ra kết quả: FinTech ảnh hưởng tích cực và
đáng kể đến hiệu quả hoạt động của SMEs.
Nhưng theo Guo & Hongfei (2021) khi
phân tích dữ liệu thu thập từ các ngân hàng
thương mại nhà nước (SOB) lại cho thấy
Fintech tạo ra sự gián đoạn đối với các dịch
vụ ngân hàng của mình thông qua các tác
động bất lợi đến hoạt động kinh doanh tài
sản, kinh doanh thanh khoản và kinh doanh
trung gian. Kết quả cho thấy sự phát triển
của Fintech có tác động tiêu cực đến lợi
nhuận của SOB tại Trung Quốc.
Có thể thấy phần lớn các nghiên cứu thường
tập trung vào nhóm các ngân hàng vì thực tế
trong giai đoạn đầu, việc ứng dụng Fintech
tập trung vào các hoạt động thanh toán.
Trong khi đó, trên thực tế thì Fintech được
ứng dụng khá nhiều trong hoạt động cung
cấp dịch vụ của công ty chứng khoán như
Mở tài khoản trực tuyến, Ứng dụng giao
dịch trên thiết bị thông minh, Tiết kiệm tiền
gửi trực tuyến, Đầu tư trái phiếu trực tuyến
và Dịch vụ cố vấn robot. Nghiên cứu về
Fintech tại công ty chứng khoán tại Việt
Nam, Phạm Tiến Mạnh & cộng sự (2022)
sử dụng mô hình hồi quy Probit để đánh
giá mức độ ảnh hưởng của Fintech lên sự
phát triển dịch vụ tại CTCK ở Việt Nam
đồng thời đưa ra các yếu tố ảnh hưởng tới
khả năng ứng dụng Fintech tại loại hình
doanh nghiệp này. Nghiên cứu cũng đề
cập tới một số lợi ích mà Fintech mang
lại cho công ty chứng khoán như sự thuận
lợi cho khách hàng trong quá trình đầu tư,
tiết kiệm chi phí cho CTCK, … Tuy nhiên
chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác động
của ứng dụng Fintech lên hiệu quả hoạt
động kinh doanh tại công ty chứng khoán
ở Việt Nam. Để trả lời câu hỏi “Ứng dụng
Fintech có thực sự cần thiết đối với công ty
chứng khoán hay không?”, tác giả đi vào
nghiên cứu tác động của việc ứng dụng
Fintech tới hiệu quả hoạt động kinh doanh
của công ty chứng khoán, với giả thuyết
nghiên cứu chính được đề xuất như sau:
Ứng dụng Fintech có tác động tích cực đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán.
3. Dữ liệu phương pháp nghiên cứu
Dữ liệu nghiên cứu là bộ dữ liệu bảng theo
năm được thu thập từ 76 công ty chứng
khoán có hoạt động liên tục trong giai đoạn
2015- 2022 trên thị trường Việt Nam. Dữ
liệu thu thập được là dữ liệu thứ cấp, được
lấy từ báo cáo tài chính, báo cáo thường
niên của các công ty, các dữ liệu khác lấy từ
các website uy tín như vietstock.vn, cafef.
vn, ssc.gov.vn, website của các CTCK...
Để tìm hiểu mức độ tác động của việc ứng
dụng Fintech lên hiệu quả hoạt động kinh
doanh của công ty chứng khoán, tác giả sử
dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng gồm
có mô hình hồi quy OLS dành cho dữ liệu
bảng (Pooled OLS), mô hình tác động cố
định (Fixed effect) và mô hình tác động
ngẫu nhiên (Random effect).
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của một
doanh nghiệp bao gồm hiệu quả kinh tế và

