BỘ GIÁO DỤC TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG ---------o0o---------
Công trình tham dự Cuộc thi
“Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại Thƣơng 2009”
Tên công trình: Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam
Thuộc nhóm ngành: XH1a
Họ và tên sinh viên: Phạm Thùy Yên Nam/Nữ: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: Anh 8 – Kinh tế đối ngoại Khoá: 45 Khoa: Tài Chính Ngân Hàng
Họ và tên sinh viên: Lê Thảo Huyền Nam/Nữ: Nam Dân tộc: Kinh
Lớp: Nhật 1 - TCNHA Khoá: 45 Khoa: Tài Chính Ngân Hàng
Họ và tên người hướng dẫn: TS. Nguyễn Đình Thọ
MỤC LỤC
Lời mở đầu ............................................................................................................ 4 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 4 2. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 5 3. Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 5 5. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 5 6. Kết quả nghiên cứu dự kiến ......................................................................... 5 7. Kết cấu của đề tài ......................................................................................... 5 Chƣơng 1: Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử ................................ 6 1. Khái niệm về mạng lƣới sản xuất toàn cầu: ............................................... 6 2. Đặc điểm của mạng lƣới sản xuất toàn cầu: ............................................. 7
3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lƣới sản xuất điện tử toàn cầu ở Đông Nam Á: .................................................................................. 8 3.1. Các mạng lƣới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á:................... 9 3.2. Các mạng lƣới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á: ...... 11 3.3. Quá trình chuyển dịch cứ điểm sản xuất trong nội bộ vùng Đông Á .. 16 3.4. Vị thế của Việt Nam ............................................................................. 19 4. Kinh nghiệm của một số nƣớc có nền công nghiệp điện tử phát triển .. 20 4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan .................................................................. 20 4.2. Kinh nghiệm của Malaysia .................................................................. 23
Chƣơng 2: Thực trạng công nghiệp điện tử Việt Nam trƣớc và sau khi gia nhập WTO .......................................................................................................... 26
http://svnckh.com.vn 2
1. Tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử Việt Nam (giai đoạn 2002 – đầu 2009) .................................................................. 26 1.1.Giai đoạn tiền WTO .............................................................................. 26 1.2.Giai đoạn hậu WTO (từ năm 2006 tới nay) ........................................ 37 2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ... 47 2.1.Thuận lợi đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ................... 47
2.2.Những khó khăn và hạn chế đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ............................................................................................................... 53
http://svnckh.com.vn 3
Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới ................................................................................................................. 60 1. Quan điểm và định hƣớng phát triển ....................................................... 60 1.1. Quan điểm phát triển ........................................................................... 60 1.2. Mục tiêu phát triển ............................................................................... 61 1.3. Định hƣớng phát triển ......................................................................... 62 2. Giải pháp phát triển ................................................................................... 64 2.1. Phát triển nguồn nhân lực ................................................................... 64 2.2. Giải pháp về công nghệ ........................................................................ 66 2.3. Giải pháp phát triển nghành công nghiệp phụ trợ. .......................... 68 2.4. Giai pháp về chính sách ....................................................................... 72 Kết luận ............................................................................................................... 75
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào năm 2009, các doanh nghiệp công nghiệp điện tử của Việt Nam đang đối mặt với cả hai khó khăn lớn cùng lúc: cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu mức tối đa theo hiệp định tự do theo ngành (theo cam kết WTO) và cam kết mở cửa thị trường bán lẻ, phân phối. Theo đó, sẽ bãi bỏ trợ cấp với hàng thay thế nhập khẩu, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu, bãi bỏ các ưu đãi về thuế thu nhập DN. Riêng cam kết chung quy định, giảm mức thuế nhập khẩu bình quân của sản phẩm công nghiệp từ 16,1% xuống 12,6% trong vòng 5-7 năm; cắt giảm ngay đối với các mặt hàng đang có thuế suất cao trên 20% và 30%, trong đó gồm nhiều loại máy móc, thiết bị điện, điện tử. Những yếu tố trên sẽ tác động tích cực, thúc đẩy DN trong nước huy động mọi nguồn lực, thay đổi công nghệ và tăng sức cạnh tranh.
Theo một thống kê khác từ Bộ Công Thương, cơ cấu công nghiệp chế biến trong công nghiệp điện tử trong nước chưa đạt 5%. Do vậy, trong tổng số doanh thu gần 3 tỉ đô la Mỹ do ngành công nghiệp này mang lại, xuất khẩu đạt trên 2 tỉ đô la Mỹ nhưng 95 - 98% doanh thu xuất khẩu thuộc về các doanh nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - vốn chỉ chiếm 1/3 trong số 300 doanh nghiệp sản xuất điện tử ở Việt Nam. Còn các sản phẩm điện tử của Việt Nam dù xuất khẩu với số lượng lớn nhưng giá trị gia tăng lại rất thấp.
http://svnckh.com.vn 4
Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Việt Nam cần phải xây dựng những ngành sản xuất công nghiệp bền vững và phát triển. Một trong những ngành sản xuất công nghiệp sẽ chiếm vị trí then chốt đó là công nghiệp điện tử. Để từng bước xây dựng ngành công nghiệp điện tử phát triển. Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng và đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm góp phần gia tăng giá trị của ngành công nghiệp điện tử. Chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài - „‟ Gía trị gia tăng trong sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam’’ với mong muốn từ những khó khăn trong thực trạng sản xuất hàng điện tử từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp điện tử ngày càng phát triển.
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các doanh nghiệp công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp tư nhân có vốn đầu tư của Việt Nam, các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp nhà nước.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua những số liệu từ báo cáo thông kê của Bộ Công Thương và của International business strategies tác giả đi sâu vào phân tích những yếu kém của công nghiệp điện tử Việt Nam từ đó tìm ra những giải pháp đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất và các hiệp hội doanh nghiệp.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp thống kê và so sánh với các ngành sản xuất công nghiệp khác, so sánh với nền công nghiệp điện tử của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để tìm ra những giải pháp phát triển cho con đường của công nghiệp sản xuất điện tử ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2004- 2008, và đưa ra những giải pháp dự kiến để phát triển đến năm 2020.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Đưa ra những giải pháp để xây dựng ngành công nghiệp điện tử trở thành một trong những ngành then chốt với tổng kim ngạch lớn trong sản xuất công nghiệp ở Việt Nam trên những điều kiện từ nguồn nhân lực, nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước.
7. Kết cấu của đề tài
Chƣơng 1 :Lý luận chung về ngành công nghiệp điện tử
http://svnckh.com.vn 5
Chƣơng 2 : Thực trạng sản xuất công nghiệp điện tử ở Việt Nam Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới
Chƣơng 1: Lý luận chung về ngành công
nghiệp điện tử
1. Khái niệm về mạng lƣới sản xuất toàn cầu:
Khái niệm mạng lưới sản xuất toàn cầu lần đầu tiên được các học giả Mỹ
đưa ra tại Hội nghị bàn tròn Berkeley về kinh tế quốc tế (BRIE) khi thực hiện
chương trình nghiên cứu sự phát triển kinh tế Đông Á, theo đó mạng lưới sản
xuất quốc tế toàn cầu là một kiểu cơ cấu phân chia chi nhánh quốc tế trong nội
bộ công ty do các công ty đa quốc gia tạo ra bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và chủ yếu phản ánh sự phân phối về mặt không gian, cơ cấu và các quan
hệ qua lại giữa chi nhánh của các công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia
có thế mạnh về sự phân chia dây chuyền định giá, đó là, sản xuất bán thành
phẩm ở một nơi, giao hàng ở nơi khác và gia tăng giá trị nhất định ở đó. Thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, mỗi phần của quá trình sản xuất được đặt ở các
nước khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm khác nhau của từng khu vực. Hầu hết
các thành phẩm được lắp ráp cuối cùng sẽ được giao đến các nước khác chứ
không phải ở những khu vực như vậy. Kiểu mạng lưới sản xuất này đảm bảo cho
sự hội nhập của kinh tế khu vực và sự phát triển của nền kinh tế hướng vào xuất
khẩu do tất cả các nước đều có lợi từ lợi thế cạnh tranh dựa vào phân công lao
động. Dĩ nhiên là tiến bộ hội nhập và việc dựa vào thị trường thứ ba để xuất khẩu
như vậy cũng phải gánh chịu một số phí tổn.
Theo quan điểm của Dieter Ernst, khái niệm mạng lưới sản xuất toàn cầu
cố gắng phổ biến rộng hơn và có các hình thức sản xuất quốc tế hệ thống hơn và
phân mắt xích định giá thành nhiều công đoạn có thể có hoặc không đòi hỏi sự
http://svnckh.com.vn 6
bố trí công bằng. Khi sử dụng khái niệm này, chúng ta có thể phân tích cẩn thận
chiến lược toàn cầu hoá của các công ty, ví dụ như sắp đặt phần nào mắt xích
định giá ở đâu. Các công ty phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài tới mức độ nào,
điểm ưu việt của mạng lưới sản xuất liên công ty so với sản xuất trong nội bộ là
gì, việc kiểm soát những giao dịch này được tập trung hoá hay đa dạng hoá tới
mức nào, những bộ phận cấu thành khác nhau của mạng lưới sản xuất toàn cầu
này liên kết với nhau thế nào.
2. Đặc điểm của mạng lƣới sản xuất toàn cầu:
a. Sự mở rộng các hoạt động sản xuất ở các vị trí địa lý khác nhau:
Mạng lưới sản xuất toàn cầu bao gồm toàn bộ các phần của khâu định giá,
không chỉ là khâu sản xuất. Một mạng lưới sản xuất toàn cầu không chỉ bao gồm
các giao dịch nội bộ công ty mà còn có cả các hình thức hợp tác: Nó liên kết các
chi nhánh, các công ty con, các liên doanh của các công ty hàng đầu với các nhà
thầu phụ, các nhà cung ứng, các nhà cung cấp dịch vụ và các đối tác trong liên
minh chiến lược với nhau…Mục tiêu chính của các mạng lưới này là cung cấp
các nguồn lực, năng lực và tri thức để các công ty dẫn đầu khoanh vùng một
cách nhanh chóng nhờ đó tăng thêm năng lực cho công ty.
b. Tính không đối xứng về vai trò của các công ty đứng đầu và các công ty con:
Các công ty dẫn đầu quản lý các nguồn lực của mạng lưới và đưa ra quyết
định. Các công ty dẫn đầu liên kết các cơ sở sản xuất, khách hàng, tri thức bị
phân tán về địa lý vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, điều này có thể làm giảm bớt
chi phí giao dịch. Theo ông, một mạng lưới sản xuất toàn cầu đặc trưng sẽ ràng
buộc một công ty đứng đầu, các chi nhánh của nó, các công ty con và các công
ty liên doanh, các nhà cung cấp và các nhà thợ phụ, các kênh phân phối, những
người bán lại, các liên minh R&D và rất nhiều thoả thuận hợp tác…với nhau. Nó
có thể có cổ phần bằng nhau hoặc không. Các công ty dẫn đầu được đặt ở trung
http://svnckh.com.vn 7
tâm của mạng lưới, đóng vai trò lãnh đạo về chiến lược và tổ chức, và có những
chiến lược ảnh hưởng trực tiếp đến vị thế cạnh tranh của các công ty thành viên
trong mạng lưới sản xuất. Thế mạnh của công ty dẫn đầu có được được từ việc
kiểm soát các nguồn lực và khả năng then chốt và hợp tác giao dịch giữa các khu
vực khác trong mạng lưới. Một trong những khả năng chủ chốt là tài sản trí tuệ
và tri thức để thiết lập, duy trì và tiếp tục nâng cao các chuẩn mực thị trường.
Chính vì những tài sản bổ sung như vậy mà các mạng lưới sản xuất toàn cầu có
tính không đối xứng.
c. Sự phổ biến tri thức từ các nước chủ đầu tư sang các nước nhận đầu tư:
Sự chia sẻ tri thức là sự cần thiết làm cho các mạng lưới này phát triển.
Lợi nhuận thực sự bắt nguồn từ sự phổ biến, trao đổi và tiếp nhận kiến thức và
năng lực bổ sung từ bên ngoài. Thường những nước hay khu vực có khả năng
trở thành một bộ phận cấu thành của mạng lưới sản xuất toàn cầu chính là những
nước đang công nghiệp hóa nhanh nhất.
3. Quá trình hình thành và hoạt động của các mạng lƣới sản xuất
điện tử toàn cầu ở Đông Nam Á:
Sự tham gia của Đông Nam Á vào mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu là
yếu tố quan trọng trong việc thay đổi mô hình và gia tăng sự tham gia của khu
vực này vào thương mại quốc tế từ những năm 1980. Cụ thể là, ASEAN-5 ( gồm
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) là những nước có sự
tham gia vào các mạng lưới sản xuất của nhiều công ty như Intel ở Châu Âu,
Sony, Toshiba, Hitachi và Fujitsu của Nhật Bản, và vào những năm 1990 là các
hãng như Samsung và Goldstar của Nam Triều Tiên và Acer của Đài Loan. Khu
vực này trở thành cơ sở sản xuất của nhiều công ty đa quốc gia (MNC) và các
http://svnckh.com.vn 8
công ty xuyên quốc gia (TNC) cho thị trường khu vực mình tới phần còn lại của
Đông Á, Bắc Mỹ và Châu Âu. Kết quả là sự mở rộng thương mại và đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) và gia tăng sự hội nhập kinh tế của khu vực.
Mạng lưới sản xuất toàn cầu lấy khu vực làm cơ sở là một đặc điểm đáng
chú ý của sự phát triển kinh tế Đông Nam Á kể từ thập niên 1980. Một số mạng
lưới toàn cầu như vậy đã được thiết lập dựa trên đầu tư FDI của các công ty TNC
nhưng chúng không chỉ đơn giản là việc mở rộng vốn đầu tư FDI ở Đông Nam
Á. Trong mạng lưới sản xuất toàn cầu, các công ty TNC đầu tư trực tiếp sẽ tổ
chức và hoạt động theo các phương thức rất khác biệt, trong khi đó các nhân tố
của hệ thống tại nước bản xứ cũng đồng thời ảnh hưởng đáng kể tên con đường
lựa chọn đầu tư của nước chủ nhà thông qua hình thức mạng lưới sản xuất toàn
cầu này. Sự đa dạng của nguồn vốn đầu tư FDI ở khu vực Đông Nam Á cũng thể
hiện cấu trúc đa tầng của hệ thống sản xuất dây chuyền xuyên quốc gia, đó là ở
Đông Nam Á tồn tại các mạng lưới sản xuất toàn cầu đa tầng tổ chức một cách
khác thường, nghĩa là một quá trình phát triển toàn cầu không giới hạn, làm suy
yếu tầm quan trọng của cơ cấu và mục tiêu phát triển kinh tế của nước bản xứ
của nhà đầu tư đối với lựa chọn chính sách của các nước công nghiệp hoá lạc
hậu. Ở đây, Nhật Bản, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Châu Âu và các
công ty TNC của Trung Quốc đều thiết lập các mạng lưới xuyên quốc gia đa
dạng, có phần chồng chéo nhau và có phần cạnh tranh nhau.
3.1. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Mỹ ở Đông Nam Á:
Các mạng lưới sản xuất toàn cầu của Mỹ ở Đông Nam Á xuất hiện cùng
với FDI tại khu vực này, nhưng chúng chỉ bắt đầu hình thành từ những năm
1970. Công ty con ở Đông Nam Á của các công ty điện tử Mỹ thành lập như một
phần của hệ thống sản xuất xuyên quốc gia phục vụ cho thị trường các nước phát
triển từ lúc ban đầu. Các công ty Mỹ tập trung nguồn lực của họ vào việc phát
triển sản phẩm, liên kết hệ thống và phần mềm (những lĩnh vực này cho phép các
http://svnckh.com.vn 9
công ty của Mỹ thiết lập các tiêu chuẩn thực tế cho sản phẩm và giữ vững vị thế
của những người dẫn đầu trên thị trường). Dần dần các công ty con của họ tại
Đông Nam Á sản xuất chuyên môn hoá vào các bộ phận, linh kiện và các sản
phẩm cuối cùng, điều này không những cho phép công ty có thể sản xuất với chi
phí rẻ nhưng với năng suất cao mà còn tạo ra các đối thủ cạnh tranh Đông Nam
Á chống lại các công ty Nhật Bản trong cá lĩnh vực như chất bán dẫn, màn hình,
và các sản phẩm điện tử gia dụng v.v…
Các mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Mỹ hoạt động theo chiều
dọc. Do các công ty con ở Đông Nam Á đã hội nhập vào mạng lưới sản xuất và
vận hành phục vụ cho các nước phát triển, các doanh nghiệp của Mỹ thực sự
hiện đại hoá các công ty tại Đông Nam Á dựa vào tình hình phát triển của thị
trường chính mà họ phục vụ mà chủ yếu là Mỹ. Nói cách khác, họ cập nhật công
nghệ dựa vào Mỹ chứ không phải là vòng đời sản phẩm tại địa phương. Do đó,
sau rất nhiều lượt đầu tư trực tiếp và cập nhật công nghệ, các công ty chi nhánh
của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á ngày càng phát triển về công nghệ sản xuất, từ
đó cho phép nâng cao mức độ chuyên môn hoá công nghệ tại địa phương trong
hệ thống sản xuất toàn cầu của các doanh nghiệp Mỹ. Trong tình hình như vậy,
các hệ thống của Mỹ sản xuất ngày càng nhiều các sản phẩm điện tử công nghiệp
như ổ cứng, máy tính cá nhân., máy in phun, các thiết bị viên thông v.v… Các
mạng lưới sản xuất của Mỹ thành lập cá chi nhánh cung cấp lao động bổ sung,
trong đó các công ty của Mỹ chuyên môn hoá trong các hoạt động cần năng lực
mềm nhất định (lựa chọn, tưởng tượng, thiết kế - xét về mặt tiêu chuẩn), trong
khi các công ty Đông Nam Á chuyên môn hoá trong các hoạt động cần năng lực
cứng ( các bộ phận và linh kiện, các quy trình chế tạo và các thành quả thiết
kế/phát triển). Nói chung, các công ty Mỹ chuyển giao quyển quản lý và hoạt
động sản xuất có giá trị gia tăng đáng kể cho các công ty con Đông Nam Á.
Thực tế này tạo ra một hình thức phân chia lao động trong khu vực phức tạp,
http://svnckh.com.vn 10
thông qua hệ thống như vậy, các công ty con của Mỹ thực hiện quyền tự quản lý
sẽ tham gia vào các hoạt động sản xuất phức tạp. Do các công ty Mỹ chuyển
giao dây chuyền sản xuất làm gia tăng giá trị lớn từ Mỹ tới Đông Nam Á, các chi
nhánh của họ bắt đầu sản xuất linh kiện và bộ phận và các hệ thống phụ phức
tạp. Đầu những năm 1990, các công ty Mỹ đưa ra các chiến lược sản xuất khu
vực dựa vào sự chuyên môn hoá công nghệ nội bộ khu vực Đông Nam Á. Kết
quả là hình thành một hình thức cơ sở cung cấp của các công ty Mỹ, nhờ đó cho
phép các công ty Mỹ tránh dược việc dựa vào các công ty cạnh tranh Nhật Bản
cung cấp linh kiện, bộ phận quan trọng và công nghệ.
3.2. Các mạng lưới sản xuất điện tử của Nhật Bản ở Đông Nam Á:
Các mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á
bắt đầu xuất hiện từ những năm 1960 hay những năm 1970, phát triển nhanh và
tồn tại sau giữa những năm 1980. Trước những năm đầu của thập niên 1980, các
mạng lưới sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á nhìn chung có
đặc điểm tương đối chặt chẽ, là sự mở rộng trên phạm vi quốc tế của hàng loạt
các công ty nội địa của Nhật Bản. Nói chung, các công ty con tại nước ngoài của
Nhật Bản tiếp tục giữ hình thức tổ chức có thứ bậc của các công ty Nhật Bản
trong nước, trụ sở chính tại Tokyo nắm quyền quyết định chính và năng lực công
nghệ. Các hoạt động và vận hành của các công ty con tại nước ngoài chịu sự điều
khiển nghiêm ngặt của tổng hành dinh tại Tokyo và hình thành một loại hình sản
xuất đính kèm và các công ty có vốn đầu tư của Nhật Bản không nên thiết lập
qua hệ kinh doanh với các chi nhánh cung cấp không có chi nhánh của địa
phương và nước ngoài. Phân tích theo chuỗi giá trị có nghĩa là các công ty TNC
của Nhật Bản sắp xếp sản xuất và dây chuyền lắp ráp các sản phẩm cấp thấp ở
Đông Nam Á trong khi nắm giữ ở Nhật Bản dây chuyền sản xuất cuối cùng đem
lại giá trị gia tăng cao. Theo mô hình này, các công ty con có đầu tư Nhật Bản ở
Đông Nam Á mua những phần quan trọng của hợp đồng phụ ở Nhật Bản, luôn
http://svnckh.com.vn 11
luôn là từ trong nội bộ hệ thống công ty sau đó lắp ráp và sản xuất cục bộ, và do
đó không cần chuyển giao thêm công nghệ cho các nước tiếp nhận.Các công ty
mẹ được đặt tại Nhật Bản là những người chuyển giao công nghệ, thông tin và
nhân lực duy nhất. Trụ sở của các công ty Nhật Bản mang lại sự kết nối mật thiết
quá trình ra quyết định, nguồn lực và nguồn thông tin dưới sự kiểm soát trung
tâm của trụ sở chính. Các hoạt động cấp cao như lập kế hoạch sản phẩm và phát
triển hay sản xuất các bộ phận quan trọng được quản lý chặt chẽ tại chi nhánh
Nhật Bản. Trên thực tế, các công ty Nhật Bản theo đuổi các lợi thế về hiệu quả
của họ bằng cách trao đổi ý thức về trách nhiệm cho các công ty địa phương,
chuyển giao công nghệ và hoạt động cho các nước tiếp nhận.
Theo nghĩa nào đó, nguồn cung cấp công nghệ khu vực Đông Nam Á
nhận được từ Nhật Bản chủ yếu là công nghệ công nghiệp, thường gắn liền với
các tư liệu sản xuất và các linh kiện nhập khẩu từ Nhật Bản trong khi công nghệ
sản xuất những bộ phận chủ chốt luôn được kiểm soát bởi các nhà sản xuất Nhật
Bản. Vào những năm 1980 các nền kinh tế công nghiệp mới nổi ở Châu Á nhập
khẩu rất nhiều công nghệ, máy móc, linh kiện và bộ phận từ Nhật Bản nhưng lại
xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh sang các nước Mỹ và Châu Âu. Kết quả là mặc
dù nền kinh tế khu vực Đông Nam Á tăng trưởng nhanh, công nghệ sản xuất
cũng tăng ở mức đáng kể nhưng xét về công nghệ sản xuất linh kiện và bộ phận,
Đông Nam Á chưa thoát khỏi sự gắn kết với Nhật Bản
Tuy nhiên từ đầu những năm 1990 các mạng lưới sản xuất điện tử toàn
cầu của Nhật Bản ở Đông Nam Á đã thay đổi rât nhiều. Một mặt, quy mô tái sản
xuất không ngừng được mở rộng do việc tư bản hoá lợi nhuận. Trong giai đoạn
1989-1992, tỷ lệ tái đầu tư của các chi nhánh công ty Nhật Bản trong tổng đầu tư
FDI của Nhật Bản đã tăng từ 35% lên 60% cho các công ty con ở ASEAN, và từ
54% lên 80% cho các công ty con ở các nền kinh tế mới nổi. Mặt khác do sự
tăng giá của đồng Yên Nhật, các nhà cung cáp nhỏ của Nhật chuyên cung cấp
http://svnckh.com.vn 12
các bộ phận đa năng phẩm cấp thấp thì hoặc là buộc phải đóng cửa và ngưng sản
xuất không thì thất bại trong việc bỏ vốn ra đầu tư sản xuất ở nước ngoài, do đó,
các công ty điện tử Nhật Bản phải tính đến các nhà cung cấp bộ phận và linh
kiện phẩm cấp thấp ở nước nhận đầu tư nhắm mục đích tham gia vào các hoạt
động thầu phụ và chế tạo theo hợp đồng các sản phẩm cấp thấp. Các áp lực lớn
về giảm chi phí và cạnh tranh căng thẳng trên thị trường toàn cầu ép các công ty
Nhật Bản giảm thời gian giữa sản xuất sơ cấp các sản phẩm công nghệ cao ở
Nhật Bản và việc chuyển giao tiếp theo tới Đông Nam Á. Ngày càng có nhiều
công ty Nhật Bản chú trọng vào việc kết hợp sản xuất các nộ phận chính với việc
mua bán tại địa phương để giảm chi phí các bộ phận đó.
Trong lúc đó, một số công ty Nhật Bản thậm chí còn di chuyển các hoạt
động phi sản xuất như nghiên cứu và phát triển (R&D) và các hoạt động phối
hợp trong khu vực tới Đông Nam Á. Các công ty mẹ Nhật Bản không chỉ giúp
đỡ các công ty con đầu tư của Nhật Bản trong việc thay đổi và phát triển thiết kế
sản phẩm và kỹ thuật sản xuất mà còn chuyển giao những công nghệ mới phát
triển tới các chi nhánh chị em tại các nước hoặc khu vực khác ở Đông Nam Á, từ
đó sinh ra các chi nhánh nòng cốt có thê được gọi là các cơ sỏ công nghệ khu
vực ơ nước ngoài. Xét về chức năng, các cơ sở công nghệ khu vực này nhìn
chung đã túc luỹ được trình độ kỹ sư địa phương chất lượng cao và các năng lực
hội nhập, và không chỉ nâng cao trình độ kỹ thuật của các hoạt động sản xuất của
bản thân họ mà còn mở ra một con đường cho việc sản xuất và truyền đạt lại tri
thức cho các chi nhánh chị em trong mạng lưới sản xuất tại nước ngoài. Xét về
dòng tri thức, họ chấp nhận tất nhiều dòng tri thức vào từ các công ty mẹ Nhật
Bản sau khi thay đổi và phát triển thêm những công nghệ về sau và tại được tri
thức ở mức độ cao chảy vào ccá chi nhánh chị em tại khu vực này. Năm 1989,
đầu tư R&D của các công ty điện tử Nhật Bản vài Đông Á chiếm 1.9% tổng đầu
tư cho các thiết bị, con sô này năm 1986 chỉ có 1.2%. Trước kia các công ty mẹ
http://svnckh.com.vn 13
Nhật Bản cũng cấp thiêt kế sản phẩm cho các cơ sở sản xuất ở nước ngoài. Tuy
nhiên, từ cuối những năm 1980, các cơ sở công nghệ khu vực bắt đầu thay đổi và
phát tiển thiết kế sản phẩm của riêng họ và cung cấp cho các chi nhánh chị em.
Sự xuất hiện của các cơ sở công nghệ khu vực làm thay đổi đáng kể thiết kế , cấu
trúc của các công ty TNC của Nhật Bản. Trong tình huống như vậy, Nhật Bản
không còn là nước duy nhất chuyển giao công nghệ, thông tin và nhân công nữa
bởi vì các cơ sở công nghệ khu vực sẽ tạo ra dòng lưu thông nội bộ khu vực.
Thêm vào đó, sự phát triển của các cơ sở công nghệ khu vực cho phép các công
ty TNC Nhật Bản tận dụng lợi thế công suất phân bổ không đồng đều và khả
năng thích ứng hoạt động trong mạng lưới sản xuất Đông Nam Á. Trong tình
hình như vậy, khả năng phát triển công nghệ của khu vực Đông Nam Á được cải
thiện nhanh chóng, do đó các mạng lươi sản xuất điện tử toàn cầu của Nhật Bản
cũng bắt đầu chuyển sang mảng lưới R&D toàn cầu. mặc dù so với các đối thủ
cạnh tranh Mỹ và Châu Âu, các công ty Nhật Bản mới đang ở gian đoạn đầu của
toàn cầu hoá R&D, và vì vậy họ có rấtt ít kinh nghiệm trong việc tổ chức mạng
lưới R&D toàn cầu.
Sự hình thành các cơ sở công nghệ khu vực và sự tiến bộ của trình độ
công nghệ của các công ty nước ngoài đã đưa tới những sự thay đổi lớn trong mô
hình thu mua của mạng lưới sản xuất toàn cầu của Nhật Bản tại khu vực Đông
Nam Á, bao gồm việc các công ty mẹ Nhật Bản tăng khối lượng thu mua từ khu
vực Châu Á, các công ty điện tử chính của Nhật Bản đưa ra nhiều chiến lược thu
mua khu vực mang tính hệ thống; các nhà cung cấp linh kiện và bộ phận Nhật
Bản sắp xếp lại sản xuất ở Châu Á, một số đã thiết lập hệ thống sản xuất khu vực
có liên hệ mật thiết với các nhà sản xuất địa phương, các công ty con Nhật Bản
đặt tại khu vuẹc Đông Nam Á tận dụng việc thu mua cấp khu vực hay thu mua
tại nước sở tại để thay thế các bộ phận hay linh kiện nhập khẩu từ Nhật Bản, và
theo cách đó đã bắt đầu một hình thức quy trình khu vực hoá thu mua phức tạp.
http://svnckh.com.vn 14
Năm 1988, tỷ lệ các sản phẩm điện tử của Nhật Bản nhập khẩu từ Châu Á nhờ
hơn 31% (384,6 tỷ Yên Nhật) và tăng lên 44% năm 1993 (962 tỷ Yên Nhật)
nhưng tỷ lệ đó ở khu vựcc sản phẩm điện tử tiêu dùng và thiết bị gia dụng là
84%. Hơn nữa khu vực Đông Nam Á trỏ thành cơ sở cung cấp cho các linh kiện
và bộ phận điện tử và các sản phẩm máy tính cá nhân cho Nhật Bản. Xem xét
bảng số liệu dưới đây về cơ cấu nguồn bộ phận và linh kiện cho doanh nghiệp
vốn Nhật Bản đầu tư trong ngành sản xuất máy quay phim ở Malaysia vào năm
1993 để thấy rõ điều đó. Trước đây các linh kiện và bộ phận máy quay phim phải
được mua từ thị trường Nhật Bản nhưng đến năm 1993, 64% linh kiện và bộ
phận phải mua từ các thị trường các nước Đông Nam Á mà chủ yếu là Malaysia,
Singapore, Thái Lan với các tỷ lệ lần lượt là 34%, 26,7%, 3,9%.
Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn bộ phận và linh kiện cho doanh nghiệp vốn
Nhật Bản đầu tư trong ngành sản xuất máy quay phim Malaysia (1993)
Xuất xứ các công ty Khối lượng cung cấp (%) Nước cung cấp các linh kiện và bộ phận
Nhật Bản Các công ty mẹ Nhật Bản 36
Malaysia
Các công ty có vốn Nhật Bản ở Malaysia Các công ty của bốn con rồng Châu Á Các công ty địa phương của Malaysia 29,9 4 2,1
Singapore
Các công ty có vốn Nhật Bản ở Singapore Các công ty có vốn của Mỹ ở Singapore Các công ty địa phương Singapore 21,5 1 0,2
Thai Lan Các công ty có vốn Nhật Bản ở Thái Lan 3,9
Úc Các công ty Úc 6
Tổng cộng: 100
Nguồn: Chunli Hu: “Foreign capital-dominated vertical division:
underlying causes of South East Asian Financial Crisis”, T/C Strategy and
http://svnckh.com.vn 15
Management, tháng 3/1998.
Vì thế, sau năm 1992, những mạng lưới sản xuất ở Đông Nam Á của các
công ty điện tử Nhật Bản cũng bắt đầu tiến hành địa phương hoá và trở nên rộng
mở hơn. Trong quá trình như vậy, những mạng lưới sản xuất toàn cầu của Nhật
Bản cạnh tranh với nhau ở khu vực Đông Á trở thành mọt mô hình chuyên môn
hóa khu vực mới. Trong đó Singapore và Hồng Kông cạnh tranh chiếm vị trí trụ
sở chính tại khu vực cũng như các chức năng bổ trợ chính thức khác như giám
sát thu mua, đào tạo, dịch vụ kỹ sư, các thiết kế sản phẩm nhất định, v.v…);
Malaysia, Thái Lan và Philippine được coi là những nơi sản xuất hàng loạt, đặc
biệt là các sản phẩm có chất lượng trung bình và cao.
Có thể thấy rằng những mạng lưới sản xuất toàn cầu của các công ty
TNC Nhật Bản ở Đông Nam Á đã trải qua bốn giai đoạn trong vài thập kỷ gần
đây, đó là bước nhập khẩu nguyên liệu thô từ nước ngoài và xuất khẩu sản phẩm
ra nước ngoài tiến tới giai đoạn sử dụng các nguồn nguyên liệu thô từ nước
ngoài, cung cấp nguyên liệu thô từ nước thứ ba và cung cấp nguyên liệu thô từ
địa phương rồi phát triển thị trường trong và ngoài nước, sau đó bước vào giai
đoạn di chuyển, gia công và dây chuyền lắp ráp ra nước ngoài, và cuối cùng là
giai đoạn chuyển giao thiết kế và phát triển sản phẩm, các nghiên cứu nền tảng
quan trọng ra nước ngoài, đây là giai đoạn quốc tế hoá R&D.
3.3. Quá trình chuyển dịch cứ điểm sản xuất trong nội bộ vùng Đông Á
Vùng Đông Á đang trở thành cứ điểm sản xuất lớn nhất thế giới trong
nhiều loại hàng đồ điện, điện tử gia dụng, do đó quá trình chuyển dịch cứ điểm
sản xuất tại đây chủ yếu tập trung vào các loại hàng hóa trên. Các nước trong
vùng này vào năm 2003 sản xuất 82% sản lượng thế giới về máy điều hoà không
khí, 55% về máy giặt, 52% về tủ lạnh, 56% về máy hút bụi; năm 2004 sản xuất
http://svnckh.com.vn 16
105 triệu chiếc tivi màu (70% sản lượng thế giới), 93 triệu chiếc máy thu và phát hình (90%)(1). Độ 25 năm trở về trước, tại vùng Đông Á, các mặt hàng này hầu
hết chỉ sản xuất tại Nhật nhưng sau đó cứ điểm sản xuất chuyển nhanh sang Hàn
Quốc, Đài Loan, rồi sang các nước ASEAN, chủ yếu là Malaixia và Thái Lan,
rồi đến Trung Quốc. Vào tháng 6-1992, số cứ điểm sản xuất các mặt hàng điện,
điện tử của các công ty đa quốc gia Nhật Bản tại Hàn Quốc là 62, Đài Loan là
93, Xingapo là 71, nhưng đến tháng 6-2000, các cứ điểm đó giảm còn 46, 71 và
60. Ngược lại, trong thời gian đó, số các cứ điểm cùng loại tăng nhanh tại Thái
Lan (từ 63 đến 97), Malaixia (từ 121 đến 135), Inđônêxia (từ 14 đến 65),
Philíppin (từ 16 đến 48) và Trung Quốc (từ 42 đến 273). Theo tư liệu của Hiệp
hội Công nghệ thông tin điện tử Nhật Bản (Denshi Joho Gijutsu Sangyo Kyokai),
Công nghệ trong lĩnh vực này dễ chuyển giao nên cứ điểm sản xuất chuyển dần
sang những nơi nhân công rẻ và các phí tổn khác cũng thấp do chính sách
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các nước. Hiện nay, Nhật
Bản chỉ sản xuất các loại cao cấp, còn lại thì nhập khẩu từ các cứ điểm sản xuất
của doanh nghiệp Nhật hoạt động tại ASEAN và Trung Quốc.
Hiện nay, ngoài Nhật Bản, bốn nước sản xuất nhiều đồ điện gia dụng và
có thị phần đáng kể là Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaixia và Thái Lan. Riêng
Trung Quốc sản xuất trên 30% tổng sản lượng thế giới, Hàn Quốc cũng sản xuất
hầu hết các mặt hàng trong ngành này với thị phần từ 5-10%. Thái Lan cũng là
cứ điểm sản xuất quan trọng, đứng đầu ASEAN trong các mặt hàng như máy
giặt, tủ lạnh, máy điều hoà không khí, và đứng thứ hai trong những mặt hàng
khác. Malaixia đứng đầu ASEAN về tivi màu, máy hút bụi, máy thu và phát hình
(1) Trần Văn Thọ, Động Kinh Tế Đông Á Và Con Đường Công Nghiệp
Hoá Việt Nam
(VTR/DVD), cassettes. Thái Lan và Malaixia chiếm được vị trí quan trọng hiện
http://svnckh.com.vn 17
nay là nhờ họ đã có chính sách khôn ngoan đón được dòng thác FDI từ Nhật sau
khi đồng yên lên giá đột ngột vào cuối năm 1985. Inđônêxia đi chậm hơn, hiện
nay mới chỉ sản xuất với số lượng tương đối đáng kể tivi màu, máy thu và phát
hình, và tủ lạnh.
ASEAN và Trung Quốc đang cạnh tranh gay gắt tại các thị trường lớn
như Nhật Bản và Mỹ. Đầu thập niên 1990, Trung Quốc hầu như chưa có khả
năng xuất khẩu sang các thị trường đó nhưng đến khoảng năm 2000 đã chiếm
lĩnh trên dưới 30% tổng nhập khẩu của Nhật trong hầu hết các hàng điện và điện
tử gia dụng11. Trong tổng nhập khẩu đồ điện, điện tử gia dụng của Nhật vào
năm 2000, Trung Quốc chiếm 29% máy điều hoà không khí, 33% máy giặt, 44%
đồ nhiệt điện gia dụng, 43% radio, 24% tivi màu. Thị phần của các nước ASEAN tính chung là 35%, 30%, 31%, 44% và 67%(1). Theo Takeuchi (2001a)
Trung Quốc cũng có thành quả tương tự tại thị trường Mỹ với những mặt hàng
như máy thu thanh, video, đồ nhiệt điện gia dụng. Tuy nhiên, Trung Quốc chiếm
thị phần ngày càng lớn tại các thị trường Nhật, Mỹ là do họ thay thế vị trí của
Hàn Quốc, Đài Loan hoặc Mỹ và Nhật chứ chưa đánh bật được vị trí của
ASEAN. Công nghiệp điện, điện tử gia dụng của ASEAN giữ được sức cạnh
tranh quốc tế nhờ đã thu hút hiệu quả FDI từ Nhật Bản, chất lượng đạt tiêu chuẩn
quốc tế và sử dụng được mạng lưới tiếp thị quốc tế do các công ty đa quốc gia
Nhật xây dựng trong nhiều thập niên qua. Số liệu thống kế cũng cho thấy, FDI
của Nhật chiếm một tỷ lệ rất cao (đặc biệt là trong tivi màu, máy điều hoà không
(1) Trần Văn Thọ, Biến Động Kinh Tế Đông Á Và Con Đường Công Nghiệp Hoá
khí và tủ lạnh) trong tổng lượng sản xuất hàng điện, điện tử gia dụng tại ASEAN
Việt Nam
Ngoài ra, Thái Lan và Malaixia đã xây dựng được các cụm công nghiệp cho
http://svnckh.com.vn 18
ngành điện gia dụng, với sự phát triển mạnh mẽ của các loại công nghiệp phụ
trợ. Nhu cầu thế giới, đặc biệt tại Đông Á, về những mặt hàng này sẽ tăng nhanh,
do đó ASEAN sẽ tiếp tục là cứ điểm quan trọng của thế giới trong tương lai.
3.4. Vị thế của Việt Nam
Hiện nay những ngành sản xuất các loại máy móc như đồ điện gia dụng,
nhiều ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin phần cứng như máy điện thoại
di động... và một bộ phận của nhóm các ngành có công nghệ cao như xe hơi,
máy tính... có nhu cầu ngày càng lớn trên thế giới. Mặt khác, công nghệ cũng dễ
lan nhanh từ nước này sang nước khác nên những nước có nguồn lực lao động
dồi dào, khéo tay và tiền lương rẻ sẽ dễ trở thành những cứ điểm sản xuất có sức
cạnh tranh lớn. Việt Nam rất có triển vọng cạnh tranh được trong lĩnh vực này
nhưng do công nghiệp phụ trợ còn yếu kém, Việt Nam vẫn chưa trở thành một
trong những nơi sản xuất chính tại châu Á. Tuy nhiên, thực tiễn thu hút FDI
trong thời gian gần đây ( sẽ được đề cập kỹ hơn trong chương 2) cho thấy một xu
hướng chuyển dịch dần căn cứ sản xuất từ các Đông Á sang Việt Nam. Trong
khoảng 15 năm qua, các cứ điểm sản xuất của các ngành này chuyển nhanh từ
Nhật Bản sang Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, sau đó sang Malaixia và Thái
Lan, và gần đây sang Inđônêxia và Trung Quốc. Khuynh hướng này trong ngành
điện, điện tử được thể hiện qua sự thay đổi trong kim ngạch sản xuất đồ điện gia
dụng (thành phẩm lắp ráp cuối cùng, phần trung nguồn trong chuỗi giá trị) và
phụ tùng điện tử (sản phẩm của công nghiệp phụ trợ, ở thượng nguồn trong
chuỗi giá trị). Trong thập niên 1990, Nhật Bản và các nền kinh tế công nghiệp
hoá mới (NIEs-4) giảm sản xuất ở phần trung nguồn nhưng tăng kim ngạch sản
xuất của công nghiệp phụ trợ. Đáng chú ý là khuynh hướng tại Trung Quốc và
các nước ASEAN, nhất là tại Malaixia, Thái Lan và Philíppin, sản xuất tăng
nhanh trong cả hai giai đoạn đồ điện gia dụng và phụ tùng điện tử. Phụ tùng
điện tử gồm rất nhiều chủng loại mặt hàng, có loại có hàm lượng công nghệ cao
http://svnckh.com.vn 19
nên Nhật và NIEs còn duy trì sức cạnh tranh trong nhiều mặt hàng và triển khai
phân công hàng ngang với các nước ASEAN . Rất tiếc là làn sóng công nghiệp
này chưa lan rộng đến Việt Nam, kim ngạch sản xuất của Việt Nam còn quá nhỏ
và ngành công nghiệp điện tử Việt Nam mới đang ở cuối giai đoạn 1 (lắp ráp sản
phẩm từ phụ kiện nhập khẩu), đầu giai đoạn đầu tư sản xuất linh kiện phụ tùng
4. Kinh nghiệm của một số nƣớc có nền công nghiệp điện tử phát
phát triển công nghiệp phụ trợ.
triển
4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Trong suốt thập kỷ 70 Thái Lan đã thực hiện chính sách khuyến khích xuất
khẩu cho ngành điện và điện tử thông qua ưu đãi thuế cho xuất khẩu. Kết quả là
đầu tư nước ngoài vào Thái lan tăng lên liên tục cho đến giữa thập kỷ 90 khi nền
kinh tế Thái Lan lâm vào khủng hoảng kinh tế năm 1997. Bộ Công Nghiệp Thái
Lan đã tiến hành cải cách triệt để cơ cấu ngành công nghiệp và phát triển các
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Đầu tư bắt đầu chảy trở lại Thái Lan. Mặc dù
môi trường đầu tư trong khu vực thay đổi nhanh chóng do sự cạnh tranh đang
nổi lên từ Trung Quốc và những rào cản thương mại dần được tháo dỡ theo hiệp
định AFTA, ngành điện và điện tử ở Thái Lan đã dần hồi phục và phát triển
mạnh mẽ phần nào nhờ vào nỗ lực của chính phủ trong việc cải cách cơ cấu kinh
tế.
4.1.1. Khái quát về ngành công nghiệp điện và điện tử của Thái Lan
Ngành công nghiệp điện tử Thái Lan gặt hái nhiều thành công nhờ vào
mối liên hệ chặt chẽ các nhà sản xuất linh kiện và các nhà máy lắp ráp sản phẩm
điện tử Nhật Bản. Ngược lại, hầu như các công ty đang hoạt động ở Thái Lan
không phụ thuộc nhiều vào nhau. Thái Lan có nhu cầu lớn về các sản phẩm và
linh kiện cho máy móc chính vì vậy mà Thái Lan có trình độ công nghệ về máy
http://svnckh.com.vn 20
móc gia công tương đối cao. Đối mặt với sự nổi lên của Trung Quốc và việc
tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á ( AFTA), Thái Lan đã cố
gắng điều chỉnh cơ cấu sản xuất của ngành điện và điện tử. Điều này không có
nghĩa là Thái Lan kém năng lực cạn tranh so với Trung Quốc về nhân công và
chi phí hậu cần. Trên thực tế quá trình tái cơ cấu đang cho thấy rõ Thái Lan là
trung tâm xuất khẩu hàng gia dụng như tủ lạnh , điều hòa nhiệt độ, máy giặt và
thiết bị thông tinvà đang dần thay thế Singapore để trở thành một trung tâm
chính sản xuất đĩa cứng máy tính.
4.1.2. Các chính sách của Thái Lan để phát triển ngành công nghiệp điện tử
a. Sự ra đời và vai trò của Viện Điện và Điện Tử (EEI)
Viện Điện và Điện Tử ( VĐ&ĐT ) thành lập năm 1998 như một cơ quan
độc lập nhằm phục vụ lợi ích chung cho ngành điện và điện tử, cũng là một trong
những kế hoạch hành động cụ thể nhằm thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp.
VĐ&ĐT bắt đầu hoạt động đầu năm 1999, đóng vai trò là cơ quan chính phủ
thúc đẩy ngành điện và điện tử của Thái Lan phát triển. Viện này đóng vai trò vô
cùng quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà
nước cũng như phối kết hợp lợi ích từ việc hợp tác giữa các công ty tư nhân với
nhau. Theo một cuộc nghiên cứu của Tổng công ty phát triển Hải Ngoại của
Nhật Bản (JODC), chức năng của EEI là:
Kiểm tra chất lượng sản phẩm, môi trường và độ an toàn liên quan đến
ngành điện và điện tử
Cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, công nghệ và hỗ trợ bán hàng.
Tạo một khung hợp tác giữa các ngành do nhà nước quản lí và các ngành
do tư nhân quản lí với các ban ngành liên quan ở Thái Lan và các nước
khác.
Nghiên cứu về việc ban hành thiết lập các chính sách và chiến lược cho
ngành điện và điện tử dựa trên dự thảo của các kế hoạch phát triển cho
http://svnckh.com.vn 21
ngành này
b .Thực hiện Kế hoạch Chiến lược Khoa học và Công nghệ Quốc gia ( 2004 -
2013 )
Chính phủ Thái Lan đang thực hiện Kế hoạch Chiến lược Khoa học và Công
nghệ Quốc gia ( 2004 -2013 ). Trọng tâm nhắm vào việc hình thành mạng lưới
khoa học và công nghệ và xúc tiến việc hợp tác giữa các cơ quan tư nhân và nhà
nước bao gồm các công ty sản xuất, các nhà cung cấp dịch vụ, các cơ quan tài
chính, cơ quan giáo dục vv… . ở Thái Lan các trường đại học trước tiên là nhằm
đào tạo nguồn nhân lực tuy nhiên vẫn chưa có được vị thế giống như các trung
tâm Nghiên cứu và Phát triển (R&D). Trong bối cảnh đó CQCLKH & CNQG đã
được thành lập dưới sự ủng hộ của bộ Khoa học và Công nghệ đã phát triển và
quản lí một khu trung tâm khoa học công nghệ từ năm 1996.
c . Tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
Nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khu vực Đông Á, Thái Lan đã
thay đổi những chính sách để tạo môi trường đầu tư hấp dẫn hơn so với các
nước trong khu vực. Cụ thể như nâng mức sở hữu nước ngoài lên 49% đối với
các dự án thông thường, 100% đối với các dự án có trên 80% sản phẩm xuất
khẩu. Ngoài ra, đối tác nước ngoài còn được phép điều chỉnh tỷ lệ sở hữu lên
trên 51% trong trường hợp đối tác Thái Lan gặp khó khăn về tài chính. Bên cạnh
đó, Bộ Tài chính Thái Lan hủy bỏ quy định phải có 30% sản phẩm xuất khẩu trở
lên mới được hưởng miễn giảm thuế trong ngành công nghiệp chế tạo.
Hiện nay, khi quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực đang tiếp
tục được thúc đẩy để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa điện tử xuất khẩu,
Thái Lan nhất thiết phải thu hút FDI cho nghành công nghệ cao này và phát triển
mạng lưới ngành công nghiệp hỗ trợ một cách thích ứng.
4.1.3. Một số tồn tại và hạn chế
http://svnckh.com.vn 22
a. Khung chính sách và thể chế pháp lí
Thái Lan có nhiều luật điều chỉnh hoạt động đầu tư cũng như nhiều cơ quan
chính phủ tham gia việc thực thi các luật trên với mức độ tham gia khác nhau.
Điều này đã gây ra nhiều phiền toái. Ví dụ như các công ty nước ngoài được Ủy
Ban Đầu Tư (BĐT ) thừa nhận trên lí thuyết được phép nhập khẩu vật liệu mà
không phải nộp thuế. Tuy nhiên trên thực tế chính sách này chỉ hoàn lại thuế
nhập khẩu cho doanh nghiệp tại thời điểm các doanh nghiệp đưa ra chứng cứ có
hàng xuất khẩu. Thủ tục này gây ra phiền hà cho các doanh nghiệp và nhiều công
ty đã chỉ ra rằng việc hoàn lại thuế thu nhập như vậy đôi khi bị trì hoãn một cách
tuỳ tiện. Ngoài ra chính phủ thay đổi mức thuế suất nhập khẩu, các công ty còn
bị yêu cầu phải trả khoản chênh lệch giữa mức thuế cũ và mới trước đây.
b. Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực các công ty cần nhất trong ngành điện và điện tử là kỹ sư thiết
kế, sản xuất và hệ thống thông tin và cán bộ quản lí. Nhưng rất ít trường đại học
ở Thái Lan có khoa khoa học cơ bản, kỹ sư hoặc kế toán. Khi có nhu cầu lớn về
một loại lao động nào đó thì số lượng lại rất hạn chế vì thế rất khó cho các công
ty có thể đảm bảo tuyển được các cán bộ có tài. Để giải quyết vấn đề này các
công ty phải đưa ra một cơ chế khuyến khích như trả thêm lương cho những
người làm việc tốt hơn. Tuy nhiên do lề lối quản lí lao động cũ liên đoàn lao
động khó chấp thuận sự chênh lệch lớn về lương trong một công ty.
4.2. Kinh nghiệm của Malaysia
4.2.1. Khái quát vể sự phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử
Trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản xuất ngành công nghiệp
điện tử, các công ty sản xuất nước ngoài đầu tư vào Malaysia với mục đích tận
dụng chi phí sản xuất rẻ nhờ vào các chính sách cơ chế khuyến khích đầu tư ,
nguồn nhân lực rẻ, các khu chế xuất và hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá, hải
http://svnckh.com.vn 23
cảng, sân bay và thông tin liên lạc. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phát triển không
ngừng trong suốt hơn 30 năm dưới nền tảng một nền chính trị ổn định, minh
bạch, nhất quán và khả năng giao tiếp tiếng Anh và các điều kiện môi trường
thuận lợi đã chuyển hóa Malaysia thành một trung tâm sản xuất công nghiệp
điện và điện tử. Ở góc độ các chính phủ địa phương đã liên tục điều chỉnh các
chính sách nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các công ty
nước ngoài và cung cấp những dịch vụ phù hợp cho các công ty đã đầu tư trước
kia. Điều này đã dẫn tới vòng đầu tư tuần hoàn thuận lợi cho việc mời gọi các dự
án mới theo sau.
Các công ty sản xuất các sản phẩm và linh kiện điện và điện tử ở Malaysia
, hầu hết là các công ty của Nhật, đã thành lập các cụm sản xuất sản phẩm linh
kiện và đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu. Các công ty mà hình thành các cụm
sản xuất này thường phụ thuộc lẫn nhau và thu được lợi thế nhờ tập trung và
chuyên môn hóa. Chính điều này đã giúp cho ngành công nghiệp điện tử của
Malaysia phát triển như hiện nay.
4.2.2. Chính sách công nghiệp
Dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Mahathir, Bộ Phát triển Công Nghiệp
(MIDA) đã thực hiện nhiều chính sách phát triển công nghiệp bao gồm chính
sách phát triển nguồn tài nguyên tự nhiên, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
vào lĩnh vực điện và điện tử và các ngành công nghiệp liên quan cũng như chính
sách thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất ô tô nội địa. Những dự
định của Malaysia giờ đây là chuyển dịch sang phát triển các ngành công nghiệp
có giá trị gia tăng cao thông qua đầu tư vào nghiên cứu và phát triển và đầu tư
vào công nghệ thông tin. Malaysia đang nỗ lực rất lớn để tạo ra Hành lang siêu
xa lộ thông tin được đưa ra từ giữa năm 1990.
http://svnckh.com.vn 24
* Sáng kiến hành lang siêu xa lộ thông tin
Chương trình Siêu xa lộ thông tin đã tạo ra một trung tâm nghiên cứu và
phát triển cho các ngành công nghiệp dựa trên công nghệ thông tin. Trung tâm
này tổng cộng có 8 dự án đặc biệt bao gồm một trung tâm y tế từ xa, một trường
học chất lượng cao, các cơ sở nghiên cứu R&D, trung tâm đa chức năng và chính
phủ điện tử. Các công ty liên quan đến bất kỳ một trong những dự án trên được
những ưu đãi như được lựa chọn miễn 100% thuế đầu tư hoặc là ưu đãi cho các
nhà đầu tư tiên phong trong vòng 10 năm. Các công ty này cũng được phép
tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài khi cần thiết.
* Những ưu đãi dành cho các công ty Nhật Bản
Công nghiệp điện và điện tử của Malaysia phụ thuộc rất lớn vào các hoạt
động của các công ty Nhật. Chính phủ đã có rất nhiều cải cách về khung chính
sách, pháp luật, công nghiệp phụ trợ, nguồn nhân lực và các cải cách khác,
Malaysia đã tạo được môi trường đầu tư có nhiều điều kiện thuận lợi.
Cơ chế khuyến khích cũng có nhiều cải thiện hơn thông qua các ưu đãi
cho các nhà đầu tư tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển và tham
gia vào phân phối buôn bán toàn cầu và các ưu đãi khác. Với các chính sách ưu
đãi của Malaysia đã góp phần vào việc chuyển giao công nghệ của Nhật Bản
sang cho nước này. Đây là một trong những yếu tố giúp cho ngành công nghiệp
http://svnckh.com.vn 25
điện tử của Malaysia được phát triển như hiện nay.
Chƣơng 2: Thực trạng công nghiệp điện tử
Việt Nam trƣớc và sau khi gia nhập WTO
1. Tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu ngành công nghiệp điện
tử Việt Nam (giai đoạn 2002 – đầu 2009)
1.1.Giai đoạn tiền WTO
a. Tình hình đầu tư và sản xuất
Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đã xuất hiện từ những năm 70 khi
Sanyo mở nhà máy lắp ráp đài và TV đầu tiên mà hiện nay là Viettronics Biên
Hòa chuyên sản xuất các thiết bị nghe nhìn cho thị trường nội địa. Tuy nhiên chỉ
đến những năm đầu thập niên 90, nền công nghiệp non trẻ này mới thực sự bắt
đầu phát triển với sự gia nhập của một loạt các công ty lớn, nhất là các công ty
đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan dưới hình thức liên doanh là chủ yếu. Các
doanh nghiệp phải kể đến trong giai đoạn này gồm có:
JVC Vietnam liên doanh giữa Viettronics Tân Bình (30%) và Victor
Company of Japan Limited (70%), có tổng vốn 10 triệu đô-la Mỹ để sản xuất,
lắp ráp và cung cấp các sản phẩm điện tử nhãn hiệu JVC.
LG Electronics Vietnam thành lập năm 1995 với 100% vốn nước ngoài và
mở nhà máy tại Hưng Yên với vốn đầu tư 13 triệu đô-la Mỹ cho dây chuyền sản
xuất 550.000 sản phẩm/năm.
Samsung Vina Liên doanh này thành lập vào năm 1996 giữa tập đoàn
Samsung và Công ty Sản xuất - Xuất nhập khẩu Điện - Điện tử quận 10 (TIE) có
tổng vốn đầu tư là 36,5 triệu đô-la Mỹ, trong đó Samsung góp 70%. Các sản
http://svnckh.com.vn 26
phẩm chính là TV, đầu video, máy giặt, tủ lạnh.
Toshiba Việt Nam ban đầu liên doanh với Công ty cổ phần Điện tử Thủ
Đức (Viettronics Thủ Đức) từ năm 1996 với thời hạn mười năm, tổng số vốn đầu
tư là 6,66 triệu đô-la Mỹ.
Panasonic Vietnam hiện nay là công ty 100% vốn nước ngoài đầu tiên hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con tại Việt Nam với năm công ty thành
viên.
Daewoo-Hanel Electronics liên doanh giữa Daewoo của Hàn Quốc và
Công ty Điện tử Hà Nội (Hanel) với nhà máy đặt tại Khu công nghiệp Sài Đồng
B, Hà Nội. Liên doanh được cấp giấy phép đầu tư năm 1994 với tổng số vốn 52
triệu đô-la Mỹ, sản xuất hàng điện tử gia dụng, trong đó có đầu tư một dây
chuyền sản xuất linh kiện cuộn lái tia 1 triệu chiếc/năm phục vụ cho việc lắp ráp
máy thu hình.
Orion-Hanel liên doanh giữa Hanel và Orion được cấp giấy phép đầu tư từ
năm 1993 với tổng số vốn đăng ký là 200 triệu USD, sản xuất đèn hình và phụ kiện đèn hình(1)
Dù đã xuất hiện cách đây 30 năm nhưng Việt Nam vẫn là nước đến sau
trong khu vực, lại nằm trong vòng cung Đông Á nơi tập trung các quốc gia phát
triển có thế mạnh trong ngành điện tử như Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Đài Loan…, công nghiệp điện tử Việt Nam chủ yếu chỉ tập trung vào
lắp ráp các các linh kiện nhập từ nước ngoài. Nhưng do vốn đầu tư hạn chế, dây
chuyền lắp ráp lạc hậu so với khu vực và thế giới khoảng 10-20 năm nên rất ít
doanh nghiệp Việt Nam có được dây chuyền lắp ráp mặt phẳng. Nếu như trên thế
giới, ngành điện tử đạt siêu lợi nhuận khi tạo ra được sản phẩm mới, thì ngành
điện tử của Việt Nam gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận hầu như
không còn, nên giá trị gia tăng của sản phẩm điện tử Việt Nam chỉ đạt 5%-10%.
http://svnckh.com.vn 27
Theo các quan chức của hiệp hội điện tử Việt Nam, năm 2006 để phục vụ cho
sản xuất máy in, Canon đã khảo sát chất lượng ốc vít của 26 doanh nghiệp trong
nước nhưng cuối cùng không có doanh nghiệp nào đạt chất lượng, Canon đã
phải nhập từ nước ngoài. Đại diện của Fujitsu Việt Nam cho biết, nhập linh kiện
từ nước ngoài làm tăng chi phí đáng kể. Thông thường Fujitsu Việt Nam phải
chịu phí 1%-2% cho những doanh nghiệp làm dịch vụ xuất nhập khẩu. Mỗi năm
Fujitsu xuất khẩu khoảng 500 triệu USD nên kim ngạch nhập khẩu các linh kiện, chi tiết sản phẩm rất lớn, phải tốn nhiều chi phí trung gian.
Cơ cấu ngành của công nghiệp điển tử Việt Nam cũng mất cân đối nghiêm
trọng. Các sản phẩm điện tử được chia thành hai nhóm hàng chính: điện tử dân
dụng và điện tử chuyên dụng. Tuy nhiên, theo kết quả khảo sát của Hiệp hội
Doanh nghiệp điện tử Việt Nam tiến hành hồi tháng 2/2006 tại 108 doanh nghiệp
trên toàn quốc cho thấy, sản phẩm điện tử tiêu dùng lên tới 80%, các sản phẩm
chuyên dùng chỉ chiếm 20%.
Về mặt giá trị, trong vòng gần 20 năm phát triển, sản lượng của ngành liên
tục tăng lên, năm 1997 tổng giá trị ngành mới chỉ dừng lại ở ngưỡng 14,000 tỉ
VND, thì đến năm 2004, 2005 và 2006 con số này đã đạt đến 130,634.1 tỉ,
157,152.7 tỉ và gần 190,000 tỉ VND, tức là đã tăng lên gần 15 lần. Nhưng so với
các nước khác trong khu vực thì con số này rất khiêm tốn mà trong đó đóng góp
nhiều nhất chủ yếu là từ các sản phẩm điện tử gia dụng như TV, đài và các thiết
bị truyền thống khác. Những năm 90 được đánh dấu là thời vàng son của các
doanh nghiệp lắp ráp TV trong nước. Khi các thương hiệu nổi tiếng thế giới như
Sony, LG, Panasonic tham gia thị trường, các nhà sản xuất trong nước phải
chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Công ty Viettronics Đống Đa sau 4 năm lắp
ráp TV đã phải chuyển sang sản xuất thiết bị chuyên dụng ngành y tế. Những tên
tuổi khác như Mitsustar, Nakagawa ngoài việc sản xuất sản phẩm chính của
http://svnckh.com.vn 28
mình còn phải kinh doanh thêm đủ thứ sản phẩm, dịch vụ khác để tồn tại.
Các sản phẩm chuyện dụng khác như sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang học và đồng hồ các loại chiếm một tỉ trọng không đáng kể, trung bình là 0.2–0.3% (3) tổng giá trị sản phẩm quốc dân. Các sản phẩm công nghệ cao như máy tính, thiết bị văn phòng từ con số 0% năm 1997 đã tiến lên 1.6 % vào năm 2004, mặc dù vậy đây cũng mới chỉ là những bước tiến hết sức khiêm tốn.
Mặc dù tăng nhanh về mặt giá trị nhưng tỉ trọng của ngành trong tổng thể nền kinh tế còn rất nhỏ, năm 1997 ngành chiếm 7.7 % tổng thể nền kinh tế quốc gia. Tỉ lệ này tăng dần theo các năm đạt 15.5 %, 16.2%, 16% và 15.4 % lần lượt năm 2003, 2004, 2005 và 2006 (Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê Việt Nam). Tuy nhiên với một ngành quan trọng và mang lại nhiều giá trị như công nghiệp điện tử thì tỉ lệ không cân xứng. Vì vậy, chính phủ đã có chủ chương lấy phát ngành công nghiệp điện tử làm mũi nhọn giai đoạn 2006-2010 để nâng cao tính cạnh tranh của ngành trong khu vực cũng như thu được nguồn giá trị gia tăng lớn.
http://svnckh.com.vn 29
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
Bảng 2.2. Tổng giá trị sản phẩm nghành công nghiệp điện tử
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2098.5
2941.0
3651.2
4171.2
5523.9
6293.6
8795.8
12820.5
13802.1
15961.4
(Đơn vị : Tỉ đồng)
Sản xuất máy móc, thiết bị
43.7
1044.3
3000.6
1736.5
2989.0
4006.6
6721.4
7945.0
14466.5
17680.4
Sản xuất TB văn phòng, máy
2005.1
2978.1
4177.4
7699.3 11287.0 13777.7 17205.7
24154.8
33208.7
44519.7
tính
Sản xuất thiết bị điện
4377.4
5339.6
5230.3
7370.1
8411.8 11063.6 14089.3
17652.5
20385.8
23309.1
Sản xuất radio, tivi và TB
truyền thông
304.8
812.2
590.2
1075.3
1237.3
1344.2
1824.9
2553.5
2473.9
2975.9
Sản xuất dụng cụ y tế, chính
xác, dụng cụ quang học và
đồng hồ các loại
2773.9
2659.9
3254.3
5877.6
9582.7 15730.9 22602.7
26911.2
28501.8
30277.1
Sản xuất, sửa chữa xe có động
cơ
2340.9
7589.3
8236.5
13385.5 21095.9 19981.1 25103.3
38596.6
44313.9
52362.9
Sản xuất, sửa chữa phương
30
tiện vận tải khác
13944.3
23364.4 28140.5
41315.5 60127.6 72197.7 96343.1
130634.1 157152.7 187086.5
Tổng
31
Nguồn : Tổng cục thống kê Việt Nam
Bảng 2.3. Tỉ trọng nghành công nghiệp điện tỉ trong nền knh tế quốc gia
19 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 97
Sản xuất máy móc, thiết bị 1.2 1.4 1.5 1.2 1.4 1.3 1.4 1.6 1.4 1.3
Sản xuất TB văn phòng, máy tính 0.0 0.5 1.2 0.5 0.8 0.8 1.1 1.0 1.5 1.5
Sản xuất thiết bị điện 1.1 1.4 1.7 2.3 2.9 2.9 2.8 3.0 3.4 3.7
Sản xuất radio, tivi và TB truyền thông 2.4 2.6 2.1 2.2 2.1 2.3 2.3 2.2 2.1 1.9
Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang
học và đồng hồ các loại 0.2 0.4 0.2 0.3 0.3 0.3 0.3 0.3 0.2 0.2
Sản xuất, sửa chữa xe có động cơ 1.5 1.3 1.3 1.7 2.4 3.3 3.6 3.3 2.9 2.5
Sản xuất, sửa chữa phương tiện VT khác 1.3 3.6 3.4 4.0 5.3 4.2 4.0 4.8 4.5 4.3
Tổng 7.7 11.2 11.5 12.2 15.2 15.1 15.5 16.2 16.0 15.4
32
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
b. Tình hình xuất nhập khẩu
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Xuất khẩu của VN tăng từ 0$ năm 1994 lên tới 782tr $, 1.5 tỷ, và 2 tỷ
năm 2000, 2005 và 2006 tương ứng. Tuy nhiên, doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài chiếm 80% sản phẩm điện tử dân dụng. Cũng như vậy, các
dự án có vốn đầu tư nước ngoài – như Fujutsu, Canon và Orion hanel,
chiếm tới 95% xuất khẩu VN trong năm 2006. Ngoài ra các số liệu từ PC-
TAS còn cho thấy kim ngạch xuất khẩu của nước ta còn thua xa so vói các
nước trên thế giới và trong khu vực. (Consumer Electronics Market in
Vietnam). Tính đến năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đồ linh kiện điện tử
của ta chỉ chiếm 4 % tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, chiếm 0.13% thị
phần thế giới đứng thứ 44 trong tổng xếp hạng 197 nước. Trong khi đó,
Singapore chỉ riêng xuất khẩu linh kiện điện tử đã chiếm 31% tổng kim
ngạch xuất khẩu, chiếm 9% thị trường thế giới, là nước đứng thứ 5. Thái
Lan, Malaysia cũng có thứ hạng cao trong tổng sắp xếp thế giới; Thái Lan
đứng thứ 15 với 1.85% thị trường thế giới, Malaysia đứng thứ 8 với 3.76 %
33
thị trường thế giới. (The Personal Computer Trade Analysis System)
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Tình trạng tương tự cũng xảy ra với hàng điện tử gia dụng và điện tủ -
công nghệ thông tin khi mà tổng kim ngạch xuất khẩu của mật hàng này chỉ
chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, chiếm 0.08% thị phần thế
giới đứng thứ 39/ 197. Theo báo cáo của Hiệp hội Doanh nghiệp Điện
tử Việt Nam (VEIA), việc xuất khẩu ngành hàng điện tử–CNTT của Việt
Nam mới chỉ bắt đầu từ năm 1996, với giá trị 90 triệu USD. Năm 2000
34
được coi là năm đỉnh cao của XK ngành hàng này với kim ngạch đạt 782
triệu USD, các sản phẩm điện tử–CNTT năm đó được xuất đi 35 nước. Sau
năm 2000, do khủng hoảng kinh tế thế giới, kim ngạch XK hàng điện tử–
CNTT bị giảm sút nghiêm trọng: năm 2001 xuất được 595 triệu USD, năm
2002 giảm còn 492 triệu USD. Tuy nhiên, đến năm 2003, do tình hình kinh
tế thế giới đã bắt đầu ổn định, giá trị XK lại tăng lên 672 triệu USD, riêng
sáu tháng đầu năm 2004 đã đạt 405 triệu USD. Kết quả này đã nâng kim
ngạch xuất khẩu hàng điện tử–CNTT đứng thứ sáu trong số các ngành hàng
xuất khẩu ở nước ta.
Tuy nhiên, theo đánh giá của VEIA, giá trị xuất khẩu hàng điện tử–
CNTT của ta còn rất nhỏ so với các nước trong khu vực. So với kim ngạch
XK ngành hàng này của các nước ASEAN năm 2001, Singapore đã đạt 70
tỷ USD, Malaysia 52,6 tỷ USD, Thái Lan 22,8 tỷ USD, Indonesia 10 tỷ
USD và ít nhất là Philippines cũng đạt 7 tỷ USD. Như vậy, rõ là doanh số
XK của Việt Nam là quá khiêm tốn.
Bên cạnh đó, mặc dù kim ngạch xuất khẩu tăng lên nhưng không đủ
để bù đắp cho nhập khẩu. Sở dĩ như vậy là do đặc điểm ngành ở Việt Nam
có tỉ lệ nội địa hóa thấp, cộng thêm đa số phân đoạn thị trường điện tử gia
dụng ở nước ta thường được lấp đầy bởi các sản phẩm nước ngoài, trong
khi đó các công ty nội địa kể cả công ty 100% vốn nước ngoài hay một
phần vốn nước ngoài đều không có chỗ đứng. Cầu hàng điện tử gia dụng
của nước ta chủ yếu được đáp ứng bởi các hàng hóa 100% nhập khẩu từ
TQ, HQ, NB, các nước ASEAN khác và Mỹ. Năm 2002, kim ngạch nhập
khẩu của nước ta đạt 1.4 tỉ USD thì đến năm 2005 và 2006 con số này đã
lên đến 3 tỉ và 3.6 tỉ USD. Điều này dẫn đến tình trạng xuất khẩu ròng của
ngành luôn thâp hụt trong suôt giai đoạn 2002 – 2006. Bảng dưới đây, cho
thấy năm 2002 chúng ta thâm hụt với thế giới -738411 nghìn USD, năm
2003, 2004, 2005 và 2006 con số này lần lượt là -1245983; -1309616; -
35
1336850; -1451811 nghìn USD. (Theo Consumer Electronics Market in
Vietnam - Market Research Report of International Business Strategies và
PC- TAS)
Nguồn PC- Tas: The Personal Computer Trade Analysis System
Về các đối tác chính: Từ những năm 90 Nhật Bản luôn là đối tác số
một của Việt Nam trong lĩnh vực điện tử. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta
sang Nhật Bản luôn chiếm một tỉ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu
ngành, con số này giao động trên dưới 50 %, điển hình như năm 2004
chiếm 54.785 %. Tuy nhiên nhập khẩu của nước ta từ Nhật Bản cũng rất
cao, năm 2002 kim ngạch nhập khẩu từ Nhật bản chiếm gần 30% tổng kim
ngạch nhập khẩu ngành. Trong suốt những năm 90s đầu những năm 2000
điện tử nước ta luôn thâm hụt thương mại với Nhật Bản, chỉ sau năm 2004
xuất khẩu ròng mới thực sự đổi chiều. Sau Nhật là các nước trong khu vực
như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, Hong Kong. Chỉ đến
năm 2005 Mỹ mới lọt vào 5 đối tác lớn nhất của Việt Nam sau khi có các
dự án điện tử tại đây. Tuy nhiên từ đó đến nay Mỹ luôn là đối tác lớn chỉ
36
đứng sau Nhật Bản.
1.2. Giai đoạn hậu WTO (từ năm 2006 tới nay) a. Tình hình đầu tư và sản xuất:
Nhờ quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, ngành công nghiệp điện tử
đã thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tính đến hết năm
2003, FDI rót vào phát triển các dự án về công nghiệp điện tử gần 2 tỷ
USD. Đặc biệt, việc gia nhập WTO đã đánh dấu một làn sóng đầu tư mới
vào ngành công nghiệp điện tử nước ta. Theo Hiệp hội DN Điện tử Việt
Nam, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) đến nay đã có nhiều dự án lớn đầu tư vào lĩnh vực điện tử
với tổng số vốn khoảng 3 tỷ USD.
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO thì Tập đoàn Intel
(Mỹ) đã nâng vốn đầu tư từ 600 triệu USD lên 1 tỷ USD để xây dựng nhà
máy lắp ráp và kiểm định chíp bán dẫn của Intel, trở thành nhà máy lớn nhất thế giới của Intel(1) . Năm 2009, khi dự án Intel chính thức vận hành,
(1) T. Thương, Intel đầu tư đột phá vào VN- vietbao.vn
ngành
công nghiệp điện tử của Việt Nam hứa hẹn sẽ tăng mạnh về doanh thu xuất
khẩu và hy vọng sẽ đạt 10 tỷ USD mỗi năm. Tiếp đến là Tập đoàn Nidec
(Nhật Bản) cũng đầu tư 1 dự án tại Bình Dương với số vốn 1 tỷ USD sản
xuất đầu đọc quang học dùng cho đầu DVD, VCD và môtơ siêu nhỏ dùng
trong máy ảnh, máy in... Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) đầu tư vào Việt
Nam tổng vốn 5 tỷ USD, trong đó riêng sản xuất linh kiện điện tử khoảng 1
tỷ USD. Dự kiến sau 3 năm sẽ xuất khẩu lớn với doanh số trên 3,5 tỷ USD(1). Ngoài ra còn Tập đoàn Meikom (Nhật Bản) đầu tư 300 triệu USD
sản xuất linh kiện điện tử tại Hà Tây...
Tháng 4-2008, tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) cũng tuyên bố đầu tư
37
vào Khu công nghiệp huyện Yên Phong (Bắc Ninh) cho nhà máy sản xuất
điện thoại di dộng với tổng số vốn đầu tư 670 triệu USD nhưng sẽ thu hút
các nhà cung cấp phụ kiện cho nhà máy với tổng đầu tư có thể lên đến 300
triệu USD. Như vậy, dự án nhà máy sản xuất điện thoại của Samsung và
nhà cung cấp liên quan ở Việt Nam trong năm nay có thể thu hút tổng số
khoảng 1 tỷ USD. Samsung đặt mục tiêu bắt đầu hoạt động nhà máy giai
đoạn một với công suất 30 triệu sản phẩm/năm hoặc vào cuối năm nay hoặc
đầu năm sau. Sau đó, công ty sẽ mở rộng dần công suất nhà máy lên đến
100 triệu sản phẩm/năm. Đây là nhà máy có công nghệ hiện đại, sản xuất
điện thoại di động thế hệ mới 3G, 4G, thậm chí cả 5G. Theo kế hoạch, nhà
máy sẽ hoạt động vào năm 2009. Cũng trong năm 2008 này, Sanyo công
bố đầu tư 95 triệu đô-la Mỹ vào nhà máy liên doanh giữa Sanyo và Công ty
cổ phần Khu Công nghiệp Sài Gòn-Bắc Giang thuộc Tập đoàn Đầu tư Sài
(1) Lê Minh, vienamnet.vn
Gòn (SGI) để
sản xuất các linh kiện quang truyền dẫn điện tử. Nhà máy đã được khởi công trong năm nay và giai đoạn đầu đầu tư 40 triệu đô-la Mỹ(1)
Cùng với đó, Tập đoàn sản xuất bán dẫn và vi mạch thứ ba thế giới
Renasas (Nhật Bản) cũng đã xây dựng trung tâm nghiên cứu, thiết kế vi
mạch tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hai nhà sản xuất máy tính hàng đầu thế
giới là HP và NEC đã quyết định lắp ráp máy tính mang thương hiệu của
họ tại Việt Nam. Hãng sản xuất máy tính lớn Acer cũng đang chuẩn bị lắp
ráp máy tính tại Việt Nam.
Không chỉ hấp dẫn với các tập đoàn sản xuất phần cứng, ngay sau khi
Việt Nam chính thức là thành viên WTO, khá nhiều các nhà cung cấp dịch
vụ công nghệ thông tin lớn của nước ngoài đã đến Việt Nam. Năm 2007,
nhà cung cấp dịch vụ của Mỹ là Yahoo đã tiếp tục thâm nhập vào thị
38
trường Việt Nam với việc cho ra mắt một loạt quán cà phê internet tại
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, đặc biệt là việc tung ra dịch vụ Yahoo
hỏi và đáp cho cộng đồng internet Việt Nam. Cũng đón lõng thị trường
internet đang phát triển mạnh, hệ thống đấu giá trực tuyến hàng đầu thế
giới eBay cũng đã có mặt tại Việt Nam với việc khai trang web eBay tiếng Việt vào tháng 6/2007 (1)
Có thể nói Việt Nam đang trở thành một trung tâm thu hút đầu tư
nước ngoài lớn trong lĩnh vực điện tử. Rất nhiều các tập đoàn lớn với
những dự án quan trọng, vốn đầu tư lớn đã đổ vào Việt Nam. Hiện các
doanh nhân trong lĩnh vực điện tử của Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn
đang đổ về Việt Nam để tìm kiếm cơ hội đầu tư và thời gian tới sẽ còn
nhiều dự án lớn được cấp phép trong lĩnh vực này.
(1)
Trần Dũng, Sản xuất điện tử “đổ bộ” vào Việt Nam sau WTO –
thongtincongnghe.com
Bên cạnh đó, theo ông Trần Quang Hùng - Tổng Thư ký Hiệp hội DN
Điện tử Việt Nam, đang có xu hướng chuyển các nhà máy sản xuất linh
kiện điện tử từ Trung Quốc và các nước trong khu vực Đông Nam Á sang
Việt Nam. Chẳng hạn như Tập đoàn Meikom đang cân nhắc việc chuyển
nhà máy đang sản xuất tại Trung Quốc về Việt Nam. Một số tập đoàn của
Nhật Bản, Đài Loan đang có ý định chuyển các nhà máy đang sản xuất linh
kiện điện tử của họ tại Trung Quốc, Malaysia về Việt Nam trong thời gian
tới.
Về mặt sản lượng: Sau khi gia nhập WTO , nhìn chung sản lượng các
mặt hàng điện tử gia dụng tăng lên đáng kể hàng năm. Năm 2007 ước tính
sản xuất được 203100 chiếc máy điều hòa nhiệt độ, tăng trưởng 51.9% so
39
với năm 2008
Các mặt hàng truyền thống như máy giặt, tủ lạnh, quạt điện đều có
mức tắng trưởng trên dưới 20% cũng vào năm này. Hầu hết các nặt hàng
chủ chốt đều có mức tăng trưởng trên 10%.
Năm 2008, tình hình sản xuất vẫn duy trì được nhịp đô tăng trưởng
đều đặn, mặc dù tốc độ tăng trưởng ở các mặt hàng có giảm đi do tác dộng
của khủng hoảng kinh tế trong đó điều hòa nhiệt độ chỉ tẳng trưởng hơn 4
% nhưng máy giặt lại có mức tăng trưởng đạt 28%. Ti vi luôn là mặt hàng
truyền thống có mức tăng trưởng tương đối ổn định ở mức 15%.
Bảng 2.8. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện
tử tháng 12 và năm 2007
Thực hiện
Năm 2007 so với năm 2006 (%) Ước tính tháng 12 năm 2007 Cộng dồn cả năm 2007 11 tháng năm 2007 Tháng 12 năm 2007 so với tháng 12 năm 2006 (%) Sản phẩm
Đơn vị tính Nghìn cái Động cơ điện 129.4 20.8 150.2 100.2 124.3
Máy biến thế " 23.3 3.5 26.8 100.7 117.0
Điều hoà nhiệt độ " 184.8 18.4 203.1 120.3 151.9
Tủ lạnh, tủ đá " 873.9 82.1 956.0 104.4 113.1
Máy giặt " 375.5 36.6 412.1 101.6 121.3
Quạt điện " 1450.0 126.2 1576.2 104.3 118.6
Nghìn cái Ti vi 1902.8 252.7 2155.5 100.9 110.5
Bảng 2.9. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện tử
40
tháng 12 và năm 2008
Thực hiện Tháng
12 năm Chính Ước Cộng 2008 so Năm 2008 thức tính dồn Đơn vị với so với Sản phẩm 11 tháng 12 tính tháng 12 năm 2007 tháng 12 tháng năm (%) năm năm năm 2007 2008 2008 2008 (%)
Điều hoà
nhiệt độ Nghìn cái 109,7 9,6 119,3 134,4 104,6
Tủ lạnh, tủ
đá " 981,8 86,0 1067,8 105,0 122,2
Máy giặt " 479,5 51,1 530,6 108,1 128,0
Biến thế Nghìn
điện chiếc 14,1 1,0 15,1 132,1 122,6
Tivi Nghìn cái 2420,7 212,7 2633,3 87,4 115,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Sáu tháng đầu năm 2009, mặc dù phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới nhưng nhìn chung sản lượng của các mặt hàng điện tử
chính yếu không bị ảnh hưởng đáng kể. Máy điều hòa nhiệt độ đạt tẳng
trưởng cao 44.7% so với 6 tháng cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, ti vi và
máy giặt chỉ đạt mức tăng trưởng 4.8% và 3.5 %. Điều này thể hiện xu
hướng tiêu dùng của người dân đã dần dần chuyển sang dùng những mặt
hàng TV LCD màn hình phẳng thay vì các sản phẩm CRT trước kia. Đặc
biệt chỉ tính riêng tháng 6 năm 2009 dự kiến sẽ sản xuất 76100 mấy điều
hòa tức là bằng 246.4% so với tháng 6 năm 2008 do thời tiết năgs nóng
của mùa hè năm nay cao hơn năm trước.
41
Bảng 2.10. Một số sản phẩm chủ yếu của
ngành công nghiệp điện tử tháng 6 / 2009
Ước tính Cộng Tháng 6 tháng Thực
tháng 6 dồn 6 năm năm hiện
tháng 5 năm 6 tháng 2009 2009
năm 2009 năm so với so với Sản phẩm Đơn vị 2009 2009 tháng 6 6 tháng
năm cùng
2008 kỳ năm
2008
Điều hoà nhiệt Nghìn 214,2 76,1 290,4 246,4 144,7
độ cái
Tủ lạnh, tủ đá 512,2 153,2 665,4 133,6 116,1 "
234,0 61,4 295,4 128,8 103,5 Máy giặt "
1045,7 225,3 1271,0 105,2 104,8 Tivi "
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tăng cường sự hôi nhập kinh tế quốc tế bên cạnh việc thu hút đầu tư
còn có nghĩa là thu hẹp sự bảo hộ trong nước. Hiện tại, ngành điện tử Việt
Nam có khoảng 300 DN, trong đó khoảng 30% là các DN nước ngoài. Thế
nhưng các DN nước ngoài này lại đang chiếm giữ vị trí chủ chốt khi chiếm
tới 90% vốn đầu tư, trên 90% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 80% thị
phần nội địa. Ngoài ra, điều này còn dẫn đến sự ra đi của một số công ty đã
hoạt động trước đó. Hiện nay, một số ít DN thường là có 100% vốn nước
ngoài có công nghệ hiện đại, sử dụng hầu hết các nguyên vật liệu, phụ tùng,
linh kiện nhập ngoại và xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra như: Fujitsu,
Canon; số khác quy mô nhỏ hơn, thường hoạt động dưới hình thức liên
doanh với các DN trong nước theo định hướng sản xuất, lắp ráp điện tử tiêu
dùng ở mức giản đơn, tận dụng hàng rào thuế quan nhằm bảo hộ cho sản
42
xuất trong nước, thay thế hàng nhập khẩu phục vụ nội địa như: Sony,
Panasonic, JVC, Toshiba, SamSung… Tuy nhiên, khi hàng rào thuế quan
bị dỡ bỏ theo xu hướng hội nhập thì sự ra đi của các Công ty này là điều
khó tránh khỏi – Điển hình như trường hợp của SONY Vietnam đóng cửa
nhà máy sản suất tại Việt Nam và chuyển sang nhập khẩu hàng nguyên
chiếc sản xuất từ nước ngoài. Mặt khác chính vì sự chi phối của các công
ty nước ngoài cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cơ cấu sản
phẩm của ngành điện tử Việt Nam mất cân đối khá nghiêm trọng. Tỉ lệ nội
địa hoá sản phẩm cũng chỉ đạt khoảng 20% - 30%, chủ yếu là bao bì, chi
tiết nhựa và cơ khí. Doanh thu xuất khẩu đồ điện tử của Việt Nam khoảng 2,5 tỷ USD năm 2008, nhưng thực chất 95% - 98%(1) doanh thu thuộc về
các doanh nghiệp FDI. So với giai đoạn tiền WTO thì dường như tình trạng
mất cân xứng và tỉ lệ nội địa hóa thấp vẫn chưa được cải thiện. Mặc dù các
dự án đầu tư lớn trong giai đoạn này đều hướng vào xây dựng ngành công
(1) http://www.socbay.com/news/detail/da-qua-roi-thoi-nhap-khau- linh-kien-lap-rap-va-gan-thuong-hieu-noi/602201074/50397184/0.html
nghiệp phụ trợ nhằm nâng
43
cao tỉ lệ nội địa hóa, nâng giá trị gia tăng nhưng hầu hết các nhà máy đều phải đến năm 2009 mới bắt đầu đi vào hoạt động(1).
b. Tình hình xuất nhập khẩu
Nói chung trong mấy năm gần đây, hàng máy tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện là một trong 8 mặt hàng xuất khẩu trọng điểm nằm trong top
các mặt hàng đạt kim ngạch trên 2 tỉ USD.
Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục thống kê Việt Nam, năm 2007 kim
ngạch xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện ước tính đạt 2178 triệu
USD, tăng trưởng 27.5 % so với năm 2006 chiếm 56% tổng kim ngạch xuất
khẩu nền kinh tế. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất
khẩu hàng điện tử, máy tính sang các thị trường chính đã đạt được những
thành tựu nhất định như xuất khẩu sang Trung Quốc đạt hơn 200 triệu
USD, tiếp theo đó là Nhật Bản và Thái Lan đạt gần 125 triệu USD và 164
triệu USD, Singapore, Đài Loan và Ấn Độ lấn lượt đạt 62 triệu USD, 73
triệu USD và 3. 5 triệu USD. Tuy nhiên, số liệu 6 tháng đầu năm cũng cho
thấy tình trạng nhập siêu của ngành. Kim ngạch nhập khẩu của từ Nhật
Bản đạt 242 triệu USD, Trung Quốc là 460 triệu USD, Hàn Quốc là 47
triệu USD (Tổng hợp từ Thông tin thị trường – VCCI). Đến cuối năm 2007,
kim ngạch nhập khẩu ngành lên tới 2944 triệu USD, bằng 143.7% kim
ngạch nhập năm trước đó và chiếm 7.07% tổng kim ngạch nhập khẩu quốc
gia. Điều này khiến xuất khẩu ròng hàng điện tử, máy tính, linh kiện âm
(1) Công nghiệp điện tử VN: Cú “knock-out” đầu tiên, Lao Động số 351
766 triệu USD cả năm (tổng
Hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam sang khối
EU cũng đạt cao, với 456 triệu USD trong năm 2008, tăng 10% so với năm
44
2007 và chiếm 17,3% tỉ trọng kim ngạch. Trong đó, xuất khẩu sang Hà Lan
đạt cao nhất với 206,34 triệu USD, tăng 6,2% so với cùng kỳ năm ngoái,
tiếp đến là Phần Lan đạt 44,7 triệu USD, tăng 10%, sang Slovakia đạt 40,7
triệu USD, tăng 90,85%. Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu sang Braxin đang
tăng đột biến, với 189%, đạt 30,9 triệu USD. Và kim ngạch xuất khẩu sang
một số thị trường châu Phi cũng tăng mạnh như UAE, Nam Phi…Như vậy,
hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện của Việt Nam có thể nói đã
cạnh tranh được với hàng điện tử của các nước khác trên thị trường quốc tế
và đứng vững được tại các thị trường lớn và có những tiêu chuẩn khắt khe
như EU, Mỹ hay Nhật Bản.
Mỹ cũng là một nhà nhập khẩu lớn hàng máy tính, sản phẩm điện tử
và linh kiện của nước ta với kim ngạch xuất khẩu đạt 301 triệu USD, tăng
9,3% so với năm 2007. Đây là mức tăng trưởng khá thấp so với mặt bằng
chung là 22%. Xuất khẩu hàng máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
sang thị trường này trong năm 2008 đang bị chậm lại và có xu hướng giảm.
Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu sang một số thị trường khác cũng bị sụt
giảm như Đài Loan, Thuỵ Sĩ, Italy…
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử, máy tính và linh
45
kiện tháng một đạt 147 triệu USD bằng 4/5 kim ngạch xuất khẩu tháng 1
năm 2008. Sang tháng 2, xuất khẩu cũng giảm xuống chỉ còn 124 triệu
USD, giảm 15.65% so với tháng trước đó (Tổng cục thống kê). Kể từ tháng
3 kim ngạch xuất khẩu bắt đầu tăng lên đến tháng 5 đạt 218 triệu USD,
ước tính tháng 6/2009 sẽ đạt 220 triệu USD (Tổng cục thống kê). Kim
ngạch 6 tháng đầu năm 2009 ước tính đạt 1138 triệu USD, tức là giảm 5.4
% so với cùng kỳ năm 2008.
Mỹ vẫn dẫn đầu trong số các thị trường xuất khẩu sản phẩm máy
tính, điện tử và linh kiện của Việt Nam. Cụ thể, trong 4 tháng đầu năm
nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 122 triệu USD, tăng
63,8% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm gần 18% tổng kim ngạch nhập
khẩu.
Ngoài ra, trong khu vực EU, xuất khẩu máy tính, điện tử và linh
kiện tới thị trường Đức có tốc độ tăng trưởng ấn tượng tới 278,5% trong 4
tháng đầu năm nay. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu tới thị trường dẫn
đầu trong khối là Hà Lan lại giảm 37,8% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam
Năm 2009, nhập khẩu cũng có xu hướng giảm so với năm 2008, tháng
46
1 đầu năm kim ngạch nhập khẩu linh kiện điện tử, mấy tính đạt 170 triểu
USD chưa bằng ½ tháng 1 năm 2008. Mặc dù các tháng tiếp theo nhập
khẩu có xu hướng tăng lên, tháng 2 (216 triệu USD), tháng 3 (268 triệu
USD), tháng 4 (284 triệu USD) và tháng 5 (310 triệu USD) ( Tổng cục
thống kê) tuy nhiên ước tính kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2009
giảm xuống còn 1600 triệu USD, chỉ bằng 88.7 % cùng kỳ năm ngoái. (
Tổng cục thống kê).
2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam
2.1. Thuận lợi đối với ngành công nghiệp điện tử Việt Nam
1.1. Vị trí địa lý tốt
Việt Nam nằm ở phía đông nam bán đảo Trung Ấn, thuộc khu vực
Đông Nam châu Á, thuộc ranh giới trung gian tiếp giáp giữa hai lục địa
Âu-Á và châu Đại Dương theo chiều dọc, giữa hai đại dương là Thái Bình
Dương và Ấn Độ Dương theo chiều ngang. Tính chất giao tiếp giữa các hệ
thống tự nhiên khác nhau đã góp phần tạo cho Việt Nam có bề mặt tự nhiên
cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng đa dạng và phức tạp.
Việt Nam nằm trên con đường giao thông hàng hải quốc tế nhộn nhịp
từ Tây sang Đông, với điểm giữa đường vận tải Hong Kong-Singapore sát
với khu vực có điều kiện tự nhiên để xây dựng những cảng nước sâu tầm
cỡ thế giới, có thể trở thành những trung tâm trung chuyển lớn có tính chất
quốc gia và quốc tế, là hành lang hướng ra biển để giao lưu kinh tế giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới.
Với vị trí như vậy, Việt Nam luôn là chốt chiến lược trong quá trình
phát triển của lịch sử cũng như là điểm hội tụ nhìn từ tiềm năng phát triển
47
và trao đổi kinh tế-văn hoá quy mô khu vực và thế giới.
1. 2. Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ, trẻ và có trình độ học vấn ngày
càng cao
1.2.1 Nguồn nhân lực dồi dào
Việt Nam là nước có dân số đông và mật độ dân số thuộc loại cao trên
thế giới. Năm 2007, với dân số vào khoảng 85,2 triệu người trong đó tổng
số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân đạt số lượng 44,17
triệu người, chiếm 51,85% tổng dân số. Về cơ cấu theo ngành kinh tế, hiện
54,6% làm việc trong nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, 19,6%
trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng và 25,9% thuộc các ngành
dịch vụ.
Lực lượng lao động trẻ.
Một đặc điểm nổi bật của dân số Việt Nam đó là dân số trẻ. Gàn 70%
dân số Việt Nam tương đương với khoảng 87 triệu dân của Việt Nam hiện
đang ở độ tuổi dưới 30. Đây là một lực lượng lao động lớn có trình độ giáo
dục cao, siêng năng và có khiếu sáng tạo. Theo thông kê thì năm 2005 tỉ lệ
lao động trong độ tuổi từ 15-35 chiếm 37.67% tức là hơn 1/3 tổng số dân;
dự báo đến năm 2010 và năm 2015 con số này sẽ là 37,74 % và 35,61%
.Tức là tỉ lệ này như không thay đổi. Trong khi đó dân số của Nhật Bản và
Hàn Quốc đang ngày càng già đi. Nhật Bản là đất nước có dân số già nhất
thế giới với trên 20% tổng dân số là người già, cao hơn cả Đức. Ước tính
rằng trong vòng 50 năm tới tỉ lệ người trên 65 tuổi sẽ chiếm 1/5 tổng dân số
nước này. Do đó việc di chuyển đầu tư vào một khu vực có nguồn nhân
lực trẻ để bù đắp việc thiếu hụt lực lượng lao động ở nước nhà là một nhu
cầu cấp thiết của Nhật Bản. ( Bảng phụ lục 1)
48
1.2.3. Nguồn nhân công rẻ
Việt Nam nằm ngay bên cạnh Trung Quốc, đất nước được mệnh danh
là sân sau của thế giới với mức nhân công rẻ tuy nhiên
động Việt Nam làm việc khoảng 48 giờ/tuần và các chương trình xã hội của chính phủ ước tính chiếm khoảng 25% chi phí lương(1)
Trong khi đó, Trung Quốc có 40 giờ làm việc một tuần và chi phí xã
hội chiếm khoảng 50-60% lương. Đặc biệt, chi phí lao động ở Việt Nam
khá thấp so với mặt bằng chung của khu vực, đây là lợi thế cạnh tranh đáng
kể. Theo kết quả thống kê của JETRO thì mức lương của một công nhân
làm trong doanh nghiệp nước ngoài ở Hà Nội giao động trong khoảng 87 -
(1) http://www.vsak.vn/vn/forum/archive/index.php?t-2211.html
198
USD/ tháng, ở thành phố Hồ Chí Minh mức này là từ 122-216 USD/ tháng
trong khi đó, trong khi đó tại Kuala Lampur, Shanghai và Bangkok mức
này lần lượt là 221 USD/ tháng, 272-362 USD/ tháng và 164 USD/ tháng.
Tương tự như vậy mức lương tối thiếu ở Bangkok và Shanghai lần lượt là
115,06 USD và 118 USD, gần gấp đôi so với mức lương tối thiếu ở Việt
Nam là 62,1 USD. Ngoài ra số ngày nghỉ lễ của nhân công Việt Nam cũng
ít hơn hẳn so với các nước trong khu vực, chỉ có 9 ngày so với 16 ngày ở
Kuala Lampur, Malaysia; 13 ngày ở Bangkok, Thái Lan và 12 ngày ở
Shanghai, Trung Quốc. ( Bảng phụ lục 2).
1.3. Thị trường tiềm năng
Với GDP năm 2007 đạt 71,2 tỷ USD, giá trị xuất khẩu 48,56 tỷ USD,
nhập khẩu 62,68 tỷ USD, Việt Nam thực sự là một thị trường hứa hẹn cho
hàng hoá, dịch vụ và công nghệ cao. Với tốc độ tăng trưởng GDP bình
quân 7,6%/năm trong giai đoạn 2000-2007, đứng hàng thứ hai ở Châu Á,
49
trong đó tốc độ tăng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đạt trung bình
3,8%/năm, công nghiệp và xây dựng 10,2%/năm và dịch vụ trung bình
7,1%/năm, trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục khẳng định tiềm năng
thị trường, đặc biệt cho các dịch vụ và vật liệu xây dựng, máy móc công
nghiệp, nguyên liệu dệt may da giày, nguyên vật liệu phục vụ nông nghiệp,
ô tô xe máy, nguyên liệu gỗ... Do Việt Nam phải hạ thấp các hàng rào thuế
quan để thực hiện cam kết trong AFTA và WTO, xu hướng nhập khẩu tiếp
tục tăng mạnh trong những năm tới.
Tỷ lệ tiêu dùng so với GDP của Việt Nam thuộc loại cao so với các
nước trong khu vực (Việt Nam trên 70%, Singapore là 55,9%, Malaysia là
58,2%, Thái Lan là 67,7%...). Tiêu dùng đã tăng với tốc độ khá, vượt xa so
với tốc độ tăng dân số (bình quân năm trong giai đoạn 2001-2005, dân số
tăng 1,4%, tiêu dùng, tính theo giá so sánh, tăng 7,7%), chứng tỏ tiêu dùng
bình quân đầu người và mức sống của dân cư tăng đã khá hơn nhiều. Bên
cạnh đó, tỷ lệ giữa tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng so với tổng quỹ tiêu dùng cũng gia tăng khá nhanh, từ mức 64,7%
năm 1995 lên mức 68,5% năm 2000, 82,1% năm 2005 và 93,1% năm 2007.
Điều này chứng tỏ tiêu dùng thông qua hoạt động mua bán trên thị trường
ngày càng gia tăng, mức độ tự sản tự tiêu ngày một giảm hay là tính thị
trường ngày một tăng. Tốc độ tăng tổng mức mức bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong năm năm gần đây đạt mức trung bình (đã
loại trừ tốc độ tăng giá) 13%, cao gấp 1,6 lần so với mức tăng trưởng GDP
trung bình cùng thời kỳ (8%).
1.4. Chính sách ưu tiên của Chính phủ
1.4.1. Ban hành các quyết định nhằm bãi bỏ chính sách nội địa hóa và
giảm thuế nhập khẩu linh kiện điện tử.
Trước đây khi thực hiện chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hóa, các
linh kiện phụ tùng sản xuất sản phẩm cơ khí điện, điện tử được hưởng thuế
50
suất ưu đãi 3-5%. Theo cam kết, kể từ khi gia nhập WTO, VN bãi bỏ chính
sách thuế theo tỷ lệ nội địa hóa, các mặt hàng trên phải áp dụng thuế 20-
50%, chí phí bị đội lên dẫn tới khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp bị giảm sút. Để tháo gỡ khó khăn cho doanh
nghiệp, Bộ tài chính đã ký quyết định số 76/2007/QĐ-BTC, ngày 17 tháng
1 năm 2007, sửa đổi thuế suất, thuế nhập khẩu ưu đãi cho một số mặt
hàng. Theo đó, có gần 30 nhóm được giảm thuế trên tổng số 38 nhóm mặt
hàng mà trước đó các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp các linh kiện điện
tử đề nghị Bộ Tài chính điều chỉnh. Trong đó có ống nhựa, máy bơm khí,
bơm chân không, máy nén, quạt không khí, nắp chụp điều hòa gió, van điện
tử, van xả, bánh răng và cụm bánh răng, bộ định thời gian, động cơ điện
xoay chiều một pha, linh kiện, phụ tùng của động cơ diezel, linh kiện phụ
tùng của động cơ dầu, chốt trục, gương chưa có khung (gương được uốn
cong để sản xuất gương chiếu hậu xe máy)... với mức thuế áp dụng phổ
biến từ 0% đến 10%, thay cho mức 5-10% trước đó.
Một số mặt hàng khác như các loại quạt bàn, quạt sàn, quạt trần có
công suất không quá 125W, máy hút bụi, máy đánh bóng sàn nhà, máy
nghiền hoặc trộn thức ăn, máy vắt ép nước rau quả… áp dụng mức thuế
mới 40% thay cho mức 50% hiện hành.
Với việc điều chỉnh này, Bộ Tài chính nhằm giải quyết những khó
khăn cho doanh nghiệp sản xuất điện tử đang hoạt động. Với những ưu đãi
miễn giảm thuế, Chính phủ nhằm mục tiêu khuyến khích ngành công
nghiệp điện tử trở thành ngành mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa trong thời gian tới.
1.4.2. Phê duyệt kế hoạch tổng thế phát triển công nghiệp điện tử đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
Theo quyết định số 75/2007/QD- TTg ban hành ngày 28/5/2007 về
phê duyệt kế hoạch tổng thế phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam đến
51
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Nhà nước đã thể hiện những nỗ lực
trong việc ban hành và thực thi các chính sách nhầm phát triển ngành công
nghiệp này trở thành mũi nhọn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu cho doanh
nghiệp điện tử Việt Nam được mở rộng. Với việc xây dựng định hướng
chiến lược ngành công nghiệp điện tử đến năm 2020, Việt Nam đã thể hiện
sự nỗ lực trong việc phát triển ngành này trở thành ngành mũi nhọn trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với việc khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành công nghiệp điện tử với
các quy mô, loại hình khác nhau, từ lắp ráp thành phẩm đến sản xuất linh
kiện, phụ tùng và các sản phẩm phụ trợ, trong đó đặc biệt chú trọng thu hút
đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn đa quốc gia. Với quan điểm phát triển
của các doanh nghiệp trong nước trong thời gian tới: chuyển dịch cơ cấu
sản xuất theo hướng phát triển điện tử chuyên dùng, bao gồm sản xuất sản
phẩm, linh kiện, phụ tùng và sản phẩm phụ trợ cho các lĩnh vực tin học,
viễn thông, điện tử y tế, điện tử công nghiệp, cơ điện tử, đo lường, tự động
hóa. Nhà nước đã có chủ trương phát triển ngành công nghiệp điện tử theo
những định hướng xác định: định hướng sản phẩm và cơ cấu sản phẩm,
định hướng thị trường, định hướng nguồn nhân lực, định hướng nghiên
cứu, thiết kế, phát triển sản phẩm và công nghệ.
Với việc xây dựng định hướng rõ ràng bên cạnh những giải pháp về
cơ chế chính sách với việc hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm cải thiện
môi trường đầu tư bên cạnh việc hoàn thiện các chính sách thuế theo hướng
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp; bên cạnh những giải pháp về
vốn đầu tư; về sản phẩm trọng điểm và thị trường; về nguồn nhân lực và
công nghiệp phụ trợ. Nhà nước ta đã thể hiện những nỗ lực trong việc xây
dựng một định hướng rõ ràng có hệ thống đối với ngành công nghiệp điện
52
tử. Hỗ trợ tối đa các điều kiện ưu tiên dành cho các doanh nghiệp điện tử.
Đây là một trong những thuận lợi lớn để các doanh nghiệp sản xuất phát
triển và tìm kiếm con đường cho riêng mình.
2.2.Những khó khăn và hạn chế đối với ngành công nghiệp điện tử Việt
Nam
2.2.1. Khoa học, công nghệ lạc hậu
Việc ứng dụng những công nghệ mới và đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp điện tử Việt Nam thời gian qua chưa theo kịp với sự phát
triển nhanh chóng của khoa học công nghệ trong khu vực và trên Thế giới.
Vì vậy chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là được hưởng
miếng bánh xuất khẩu và được hưởng lợi từ việc Việt nam gia nhập WTO
và những ưu đãi về nhập khẩu mà các nước danh cho Việt nam. Phần lớn
các doanh nghiệp điện tử Việt Nam ở diện vừa và nhỏ, khả năng hạn chế
nên công nghệ và trang thiết bị sản xuất lạc hậu khoảng 10 -15 năm so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Tỉ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ
cũng rất thấp, chỉ ở mức 0,3% - 0,5% doanh thu. Ngay cả doanh nghiệp
lớn, tỉ lệ này cũng chỉ dao động quanh con số 1%. Trong khi đó, tại Ấn Độ, tỉ lệ đầu tư đạt 5%, Hàn Quốc 10% và Trung Quốc tới 12% (1)
(Chính sự yếu kém về công nghệ đã làm cho năng lực sản xuất của các
doanh nghiệp Việt nam không đáp ứng được yêu cầu, sản phẩm sản xuất ra
có giá thành cao và chất lượng không phù hợp theo chuẩn mực quốc tế.
2.2.2. Công nghiệp phụ trợ sơ khai và manh mún dẫn đến tình trạng tỉ lệ
nội địa hóa thấp.
Nhìn chung ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam vẫn đang ở trong
53
giai đoạn sơ khai, yếu kém và manh mún. Số lượng các DN phụ trợ nội địa
mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện đơn giản và cơ cấu
(1)http://www.vhdn.vn/index.php?view=article&id=5574&tmpl=comp
giá trị NĐH rất nhỏ. Nhận dạng công nghiệp này có thể dựa vào 3 yếu tố.
onent&print=1&page=&option=com_content).
Thứ nhất, tính chất và đặc thù của các sản phẩm, loại sản phẩm phụ
trợ như phụ tùng, linh kiện, nguyên phụ kiện... Các danh nghiệp Việt Nam
hiện chỉ có thể tập trung đầu tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng
linh kiện có kích cỡ cồng kềnh với công nghệ sản xuất không phức tạp và
chỉ với mục tiêu đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của các DN FDI.
Ngoài ra, năng lực của các nhà cung ứng chưa mạnh. Các DN nội địa
có trình độ công nghệ lạc hậu, trung bình, năng lực tổ chức sản xuất và
quản lý chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư FDI. Một trong
những điểm yếu nhất là khả năng nghiên cứu, phát triển (R&D).
Thêm nữa, yêu cầu đặt ra cũng như chính sách thu mua từ phía các
Cty FDI rất khắt khe về chất lượng, thông số kỹ thuật, nguồn nguyên vật
liệu và thời hạn giao hàng. Thực tế, các DN nội địa khó có khả năng đáp
ứng một cách toàn diện các yêu cầu này. Đại diện Cty Daihatsu (NB) đã
từng cho biết họ đi khảo sát hàng tháng trời tại 64 DN tìm nhà cung cấp ốc
vít theo chuẩn quốc tế nhưng tất cả đều không đáp ứng. Còn Cty Canon,
khảo sát hàng năm trời, trầy trật mãi mới tìm được các nhà cung cấp linh
kiện phụ tùng tại VN. Nhưng oái oăm là, trong số vài chục nhà cung cấp thì có đến hơn 90% là các DN FDI (1). Ngay những ngày đầu đặt chân vào VN,
Cty LD Toyota VN đã khảo sát và tìm được vài DN VN cung cấp linh kiện,
phụ tùng, nhưng đến khi mang mẫu về NB kiểm nghiệm thì không đạt chất
lượng. Có quan điểm cho rằng, tình hình này là do các DN FDI nặng về
54
loại hình phụ trợ "ruột".
(1)
http://www.laodong.com.vn/Home/Uoc-mo-cong-nghiep-phu-tro-
Viet-Nam-con--tren-giay/20093/129868.laodong).
Tuy nhiên, nguyên nhân chính vẫn là năng lực sản xuất kinh doanh và
uy tín của các DN nội địa vẫn chưa mạnh, hay nói rõ hơn là thực trạng
ngành CNPT vẫn còn yếu.
Công nghiệp phụ trợ không phát triển khiển tỉ lệ nội địa hóa các sản
phẩm công nghiệp điện tử Việt Nam thấp chỉ khoảng 20- 30%, giá trị gia tăng chỉ đạt khoảng 5-10% .
2.2.3.Thách thức đến từ WTO
Ngay khi các cam kết giảm thuế nhập khẩu với WTO có hiệu lực,
ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đối mặt với rất nhiều khó khăn. Một
trong những khó khăn lớn nhất đó là việc Việt nam phải dần từng bước dỡ
bỏ hàng rào thuế quan, có nghĩa là việc bảo hộ của Nhà nuớc đối với các
ngành sản xuất trong nước không còn nữa, trong đó có ngành Công nghiệp
điện tử. Những quy định ràng buộc khi gia nhập WTO chắc chắn sẽ có
những tác động tới các doanh nghiệp, song đến thời điểm này các doanh
nghiệp chưa kịp thời chuyển đổi cơ cấu sản phẩm do những yếu kém về
công nghệ, chưa vạch ra được hướng đi rõ ràng cho mình trong giai đoạn
mớ
Bước vào năm mới 2009, các doanh nghiệp ngành công nghiệp điện tử
Việt Nam phải đối mặt với cả hai khó khăn lớn cùng lúc: cam kết cắt giảm
thuế nhập khẩu xuống mức tối đa theo hiệp định tự do theo ngành (theo
WTO) và cam kết mở cửa thị trường bán lẻ, phân phối.
Phương thức hoạt động của các doanh nghiệp điện tử ở Việt Nam hiện
nay là sản xuất phụ tùng, linh kiện xuất khẩu. Phần việc này thuộc về các
55
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài như Fujitsu, Canon. Phần khác là lắp
ráp sản phẩm điện tử tiêu dùng phục vụ thị trường nội địa dành cho cả các
liên doanh và các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra , cơ cấu sản phẩm bị
mất cân đối giữa sản phẩm điện từ và điện tử chuyên dùng, công nghiệp
sản xuất phụ tùng, linh kiện và công nghiệp phụ trợ lại trông chờ vào hàng
rào bảo hộ thuế quan của Nhà nước nên tỷ lệ nội địa hóa thấp và giá trị gia
tăng trong sản phẩm không cao. Do vậy, khi thị trường thế giới chuyển
mình, hướng đến việc sản xuất các sản phẩm đòi hỏi giá trị gia tăng cao và
hướng đến “công nghệ lõi” thì ngành sản xuất điện tử trong nước - trước
nay chủ yếu phục vụ thị trường nội địa hoặc gia công, rất khó chống chọi
nổi với với hàng rào cắt giảm thuế nhập khẩu linh kiện theo cam kết với
WTO.
Bên cạnh đó, việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, phân phối dẫn
đến các sản phẩm điện tử nguyên chiếc nhập khẩu có chất lượng cao tràn
vào, càng gia tăng sức ép lên thị phần yếu ớt của các nhà sản xuất trong
nước.
Theo một thống kê khác từ Bộ Công Thương, cơ cấu công nghiệp chế
biến trong công nghiệp điện tử trong nước chưa đạt 5%. Do vậy, trong tổng
số doanh thu gần 3 tỉ đô la Mỹ do ngành công nghiệp này mang lại, xuất
khẩu đạt trên 2 tỉ đô la Mỹ nhưng 95 - 98% doanh thu xuất khẩu thuộc về
các doanh nghiệp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - vốn chỉ chiếm 1/3 trong
số 300 doanh nghiệp sản xuất điện tử ở Việt Nam. Nói một cách
khác, doanh nghiệp Việt Nam dù đông đảo về số lượng nhưng không có
chỗ đứng trong lĩnh vực xuất khẩu. Trong khi đó, thị trường nội địa càng
ngày càng phải đối đầu với vô số những khó khăn.
2.2.4. Chính sách thuế và thủ tục hải quan chưa linh hoạt
Có một thực tế xảy ra hiện nay, do những những bất cập trong qui
hoạch, quản lý, điều hành đang là rào cản lớn đến sự phát triển của các
56
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp điện tử. Chính sách
thuế thiếu linh hoạt dẫn tới giá thành cao, không có sức cạnh tranh. Khi làm
thủ tục thông quan cho linh kiện nhập khẩu, các doanh nghiệp gặp nhiều
khó khăn bởi chính sách thuế, thủ tục hải quan... dẫn đến việc đã yếu lại
càng yếu. Ví dụ: tivi nhập khẩu nguyên chiếc, nếu nhập từ ASEAN thì thuế
suất chỉ có 5%. Nhưng nhiều linh kiện để lắp ráp tivi thuế suất vẫn rất cao
như cuộn biến áp (28%); cầu chì (29%); phím nguồn, phím điều khiển
(18%), các chi tiết nhựa (18%)… Mặc dù các linh kiện, chi tiết này trong
nước không thể sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng không đáp ứng
được những yêu cầu về thông số kỹ thuật cũng như độ chính xác. Tương tự,
thuế nhập khẩu của màn hình máy tính có thuế suất 8%, nếu nhập từ
ASEAN thì thuế suất chỉ có 5% nhưng các linh kiện nêu trên vẫn phải chịu
mức thuế giống như trường hợp đối với tivi. Ngoài ra, việc xác định trị giá
tính thuế làm thời gian thông quan kéo dài do mỗi lô hàng nhập linh kiện
về gồm hàng ngàn mục hàng. Cơ quan hải quan phải kiểm tra và xác định
trị giá của từng mục hàng rồi mới chấp nhận thông quan. Việc này cũng
làm tăng chi phí và giảm cơ hội của các doanh nghiệp sản xuất hàng điện
tử.
Như vậy, với những Doanh nghiệp do linh kiện, thiết bị phụ trợ mà thị
trường nội địa không thể đáp ứng được yêu cầu cần phải nhập khẩu từ nước
ngoài, thì những chính sách về thuế suất đã khiến cho lợi nhuận giảm.
Thậm chí, thuế suất của một số linh kiện nhập khẩu còn cao hơn với việc
nhập khẩu nguyên chiếc. Chính tình trạng này đã khiến cho nhiều Doanh
nghiệp thay đổi hướng đi cho mình. Mở đầu cho xu hướng này là Công ty
liên doanh sản xuất bóng đèn hình Orion-Hanel đã ngừng sản xuất, chuyển
sang nhập khẩu và phân phối các sản phẩm điện tử.
Còn nhớ đầu năm 2008, rất nhiều tập đoàn lớn điện tử lớn trên thế giới
như Canon, Olympus (Nhật Bản), Chi Mei Optoelectronics (Đài Loan),
57
Philips (Hà Lan)... đã đến Việt Nam tìm cơ hội và triển khai đầu tư, xây
dựng nhà máy. Tuy nhiên, sau khi áp dụng giảm thuế nhập khẩu theo cam
kết gia nhập WTO đã có doanh nghiệp ngừng sản xuất, chuyển đổi mô hình
doanh nghiệp để tập trung vào nhập khẩu các sản phẩm điện tử nguyên
chiếc. Điều này cho thấy, nếu tiếp tục duy trì mô hình phát triển như hiện
nay, ngành công nghiệp điện tử trong nước sẽ luôn lâm vào thế thụ động,
khó chuyển biến kịp trước những cam kết bắt buộc khi đã trở thành thành
viên của WTO. Và việc mất dần sức hấp dẫn với nguồn vốn đầu tư nước
ngoài sẽ là điều khó tránh khỏi đối với ngành công nghiệp điện tử nói riêng
và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Với thực tế, một số Doanh nghiệp đã chuyển đổi cơ cấu kinh doanh,
từ doanh nghiệp sản xuất sang phân phối sản phẩm nhập khẩu. Tuy nhiên,
hiện vẫn còn tồn tại nhiều doanh nghiệp đã hướng tới thị trường nội địa.
Nhưng dù là bán hàng điện tử thông dụng giá rẻ thì các doanh nghiệp trong
nước vẫn khó cạnh tranh được với sản phẩm nhập khẩu, do hầu hết các
doanh nghiệp vẫn nhập khẩu thiết bị, linh kiện điện tử. Chính cách tính “ăn
xổi” trong thời gian dài khiến các doanh nghiệp không tập trung phát triển
sản xuất các sản phẩm phụ trợ. Đơn cử như trong việc sản xuất sản phẩm
máy lạnh, mới chỉ có 2/18 doanh nghiệp nội thuộc Hiệp hội Điện tử Việt
Nam đầu tư cho dàn máy sản xuất dàn lạnh và máy nén khí - những bộ
phận chiếm gần một nửa giá thành sản xuất của một chiếc máy lạnh. Việc
nhập khẩu các thiết bị, phụ tùng khiến giá trị gia tăng trong sản phẩm thấp,
khó tạo nguồn vốn tái đầu tư sản xuất và cạnh tranh với sản phẩm nhập
khẩu.
Theo Hiệp hội Điện tử Việt Nam cho biết, sau thời gian phát triển sản
xuất các sản phẩm điện tử cung cấp thị trường nội địa (từ năm 1994 -
2000), gần 300 doanh nghiệp sản xuất điện tử trên cả nước (kể cả các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI) đều phát triển theo
58
hướng lắp ráp sản phẩm công nghệ thông tin, điện tử xuất khẩu. Mô hình
gia công hoặc liên doanh gia công, lắp ráp với nước ngoài được lựa chọn
do lợi nhuận trước mắt thu được từ lắp ráp các sản phẩm điện tử xuất khẩu
lớn, chi phí thấp. Với cách làm này trong một thời gian dài, ngành công
nghiệp phụ trợ cho sản xuất điện tử chưa được chú ý, dẫn đến giá trị gia
tăng của sản phẩm thấp. Chính điều này đã khiến cho ngành công nghiệp
điện tử ở Việt Nam hiện nay đang còn có nhiều bất cập cần phải giải quyết.
2.2.5. Khó khăn do chưa có sự định hướng phù hợp của Nhà nước
Ngoài những lý do đã được nêu trên thì một số chính sách về khoa học
công nghệ chưa hợp lý, cũng như sự đầu tư của Nhà nước chưa thật sự
thích đáng cũng là nguyên nhân gây ra sự lạc hậu về công nghệ cho ngành
hàng này. Cụ thể như hiện nay chúng ta đều thấy ngành công nghiệp phụ
trợ của chúng ta đang rất yếu, là một rào cản rất lớn cho các nhà đầu tư
nước ngoài có dự định đầu tư vào Việt nam. Nhà nước cũng mong muốn
ngành công nghiệp phụ trợ của Việt nam phải phát triển hơn nữa. Nhưng
việc phát tiển ngành công nghiệp phụ trở không thể duy lý trí đươc. Trong
thực tế chúng ta chưa có những chính sách rõ ràng và thích hợp giúp cho
các doanh nghiệp Việt nam mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ,
theo tôi đó là một trong những lý do làm cho mục tiêu của chính sách thuế
theo tỉ lệ nội địa hóa không đạt được như mong muốn. Chúng ta mới chỉ
quan tâm, khuyến khích về CẦU mà chưa quan tâm khuyến khích về
CUNG.
Mặt khác, tuy lực lượng lao động trong ngành Điện tử được đánh giá
cao về kỹ năng, mức độ tiếp thu công nghệ mới, nhưng ngành Điện tử Việt
Nam lại đang rất thiếu các nhà khoa học đầu ngành, các kỹ sư công nghệ,
kỹ sư nghiên cứu thiết kế và phát triển sản phẩm là những người có khả
năng tạo ra những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao. Do đó, hiện nay
phần lớn các sản phẩm đều sản xuất theo thiết kế nước ngoài, rất ít sản
59
phẩm tự nghiên cứu thiết kế nên giá trị gia tăng thấp, tính cạnh tranh kém.
Trình độ quản lý, yếu tố tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp cũng
đang bộc lộ nhiều bất cập, lúng túng khi thực hiện quá trình chuyển đổi
sang cơ chế thị trường. Tuy giá nhân công ở nước ta hiện nay là là rẻ so với
các nước trong khu vực, nhưng năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và
thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn
kém. Nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, cơ
sở hạ tầng chưa thỏa mãn được các nhà đầu tư quốc tế.
Như vậy, nhìn một cách tổng thể thì năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam trong ngành Công nghiệp điện tử còn thấp xét về
cả quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính đến trình độ công nghệ, trình độ
quản lý. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh,
thiếu đồng bộ, không có khả năng cạnh tranh về giá… Ngoài ra, còn phải
kể đến sự điều hành của Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được
yêu cầu đổi mới khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Chƣơng 3 : Giải pháp phát triển công nghiệp
điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới
1. Quan điểm và định hƣớng phát triển
1.1. Quan điểm phát triển
Theo quyết định số: 75/2007/QĐ-TTg được ban hành vào ngày 28
tháng 5 năm 2007 về kế hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp điện
tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 đã đưa ra những
60
quan điểm và mục tiêu phát triển rõ ràng và có tính định hình nhằm xây
dựng ngành điện tử trở thành mũi nhọn trong công cuộc hiện đại hóa, công
nghiệp hóa đất nước.
Với quan điểm phát triển công nghiệp điện tử trở thành một trong những
ngành công nghiệp quan trong của nền kinh té với định hướng xuất khẩu và
đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, Nhà nước đã khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư với các quy mô, loại hình khác nhau, từ lắp
ráp thành phẩm đến sản xuất linh kiện, phụ tùng và các sản phẩm phụ trợ,
trong đó đặc biệt chú trọng đến thu hút đầu tư nước ngoài từ các tập đoàn
đa quốc gia. Một trong những khó khăn cơ bản để phát triển ngành công
nghiệp điện tử là yếu tố đặc trưng của một ngành đòi hòi phải có nguồn vốn
đầu tư lớn. Do đó, Chính phủ tạo nên tạo điều kiện thuận lợi về chính sách,
thủ tục, giấy tờ…cho các công ty, tập đoàn có ý định đầu tư vào các doanh
nghiệp điện tử.
Bên cạnh đó, sau khi gia nhập WTO, rất nhiều doanh nghiệp điện tử
rơi vào tình trạng khó khăn, một trong những lý do chính là chưa tìm được
hướng đi cho riêng mình, với cơ cấu sản xuất được xác định rõ ràng. Chính
vì vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp trong nước cần phải chuyển
dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển, trước hết là điện tử chuyên
dùng; bao gồm sản xuất sản phẩm, linh kiện, phụ tùng và sản phẩm phụ trợ
cho các lĩnh vực tin học, viễn thông, điện tử y tế, điện tử công nghiệp, cơ
điện tử, đo lường và tự động hóa.
Với mục tiêu phát triển ngành công nghiệp điện tử trở thành công
nghiệp mũi nhọn, một trong những yếu tố quan trọng là cần phải có nguồn
nhân lực đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. Đây là ngành công nghiệp đòi
hỏi đội ngũ công nhân phải có trình độ tay nghề cao nhằm đáp ứng được
công nghệ hiện đại, tiên tiến. Do đó cần phải có những chính sách đào tạo
bài bản, hợp lý đối với nhân lực trong ngành này. Có như vậy thì ngành
công nghiệp điện tử mới thật sự phát triển.
61
1.2.Mục tiêu phát triển
Với mục tiêu nhằm xây dựng công nghiệp điện tử Việt Nam phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của đất nước, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu
vực và thế giới. Chính phủ đề ra mục tiêu đến năm 2010 phấn đấu danh số
sản xuất đạt từ 4 tỷ đến 6 tỷ USD; kim ngạch xuất khẩu đạt từ 3 tỷ đến 5 tỷ
USD; tạo việc làm cho 300 nghìn lao động; có tốc độ tăng trưởng từ 20%
đến 30%/ năm.
Ngoài việc đề ra mục tiêu đến năm 2010, Chính phủ cũng xây dựng
tầm nhìn đến năm 2020 :
- Công nghiệp điện tử là động lực phát triển, có đóng góp lớn cho xuất
khẩu.
- Tạo việc làm cho 500 nghìn lao động; xây dựng được đội ngũ kỹ sư và kỹ
thuật viên có trình độ quốc tế.
- Năng lực sản xuất trong nước có khả năng đáp ứng phần lớn nhu cầu thị
trường, không phụ thuộc vào các sản phẩm nhập khẩu.
- Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ đáp ứng được nhu cầu sản xuất
trong nước và xuất khẩu.
- Các cơ sở sản xuất phân bố hợp lý theo định hướng phát triển vùng.
1.3. Định hƣớng phát triển
Theo Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam đến
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 nước ta chủ chương :
Về sản phẩm và cơ cấu sản phẩm: tập trung vào các sản phẩm chủ
lực gồm máy tính và các thiết bị ngoại vi; thông tin - viễn thông; điện tử y
tế, điện tử công nghiệp, đo lường và tự động hóa; sản xuất linh kiện, phụ
62
tùng và sản phẩm phụ trợ. Trong đó sẽ phải tăng tỷ trọng sản phẩm điện tử
chuyên dụng và phụ tùng linh kiện bằng việc tập trung sản xuất, lắp ráp các
sản phẩm điện tử chuyên dụng, các sản phẩm công nghệ cao để nâng cao
năng lực công nghệ của các doanh nghiệp. Để làm điều này chính phủ chủ
chương tận dụng tiềm năng sản xuất vật liệu điện tử, lĩnh vực mà Việt Nam
có nhiều lợi thế về tài nguyên. Ưu tiên phát triển một số lĩnh vực của công
nghiệp phụ trợ như: chế tạo khuôn mẫu, đúc, ép nhựa, đột dập kim loại, xử
lý bề mặt (sơn, mạ…) phục vụ cho quá trình sản xuất phụ tùng linh kiện
cho ngành công nghiệp điện tử
Về thị trường: sẽ phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm để đáp ứng được thị trường trong
nước, tiếp cận thị trường khu vực và thế giới theo định hướng xuất khẩu và
tập trung nghiên cứu và phát triển các sản phẩm có giá trị gia tăng cao và
có tính cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
Về nguồn nhân lực: Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế
trong xã hội tham gia phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
công nghiệp điện tử. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực bao gồm đội ngũ
các chuyên gia thiết kế, nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới đáp ứng
nhu cầu thị trường, có giá trị gia tăng cao và có tính cạnh tranh trên thị
trường khu vực và thế giới; các kỹ sư công nghệ có trình độ cao, có khả
năng tiếp thu công nghệ tiên tiến, ứng dụng có hiệu quả tại Việt Nam và có
thể sáng tạo các công nghệ mới; đội ngũ công nhân lành nghề thực thi
nhiệm vụ sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm; và các nhà quản lý
cấp trung gian giỏi, quản lý có hiệu quả các quá trình sản xuất
Về công tác nghiên cứu, thiết kế, phát triển sản phẩm và công nghệ:
Nước ta sẽ tập trung nghiên cứu thiết kế các sản phẩm điện tử dân dụng,
chuyên dùng, phụ tùng linh kiện đơn giản, có mức độ phức tạp vừa phải,
mẫu mã đa dạng đáp ứng nhu cầu của thị trường và nâng cao sức cạnh
63
tranh của sản phẩm. Bên cạnh đó vẫn chú trọng việc xây dựng và đào tạo
đội ngũ nghiên cứu thiết kế và phát triển các sản phẩm công nghệ cao, có
hàm lượng trí tuệ cao, tận dụng lợi thế về thiết kế, tích hợp hệ thống và khả
năng lập trình để có những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Đồng
thời, cần phối hợp chặt chẽ giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với
các doanh nghiệp để tận dụng năng lực, trang thiết bị và kết quả nghiên
cứu. Khuyến khích đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh và hỗ
trợ phát triển các sản phẩm mới. Ngoài ra, thay vì đi đường vòng, cần đi
thẳng vào công nghệ hiện đại, tiếp nhận công nghệ trực tiếp từ các công ty
nước ngoài sáng tạo ra công nghệ nguồn.
2. Giải pháp phát triển
2.1. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển lực lượng kỹ sư : Với lực lượng lao động khoảng 46 triệu
người, Việt nam có thể cung cấp một lượng lao động lớn mà không gặp bất
kỳ một trở ngại nào. Tuy nhiên, Việt nam lại thiếu lực lượng kỹ sư có trình
độ từ trung cấp đến cao cấp. Số lượng kỹ sư tốt nghiệp đại học được tuyển
dụng có đủ năng lực thể đáp ứng các nhu cầu về quản lý lại rất thiếu, đặc
biệt là ở miền Bắc.
Một phần của thực trạng này là do việc đào tạo thực hành khoa học
và kỹ thuật (kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện, hoá ứng dụng...) trong các
trường đại học còn rất yếu, nguyên nhân chính là trang thiết bị phục vụ cho
thực hành trong nhà trường còn thiếu cả về lượng lẫn chất làm giảm nhiệt
tình trong quá trình tiếp thu những kiến thức thực tế của sinh viên. Mặt
khác, chính ý thức tự giác trong tiếp thu những kiến thức lý thuyết và thực
tế của sinh viên cũng là một hạn chế lớn làm giảm chất lượng nguồn nhân
lực.
Vì vậy cần cải tiến mạnh mẽ phương pháp đào tạo và chương trình
giảng dạy tại các khoa điện tử - viễn thông, công nghệ thông tin các trường
64
đại học và cao đẳng kỹ thuật đồng thời phải tiếp thu có chọn lọc chương
trình, kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp điện tử từ nước
ngoài, liên kết chặt chẽ với các tổ chức và cơ sở đào tạo có uy tín của thế
giới và khu vực để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc này cần
được tiến hành theo cả hai hướng, thứ nhất là phần cứng (bằng trang thiết
bị) và phần mềm (chương trình đào tạo và phương thức giảng dạy), để có
một khối lượng lớn kỹ sư có thể làm việc trong ngành công nghiệp điện tử.
Tăng cường tổ chức các chương trình liên thông giữa các trường đại học và
các tổ chức học thuật trong và ngoài nước, ví dụ như chương trình thực tập
ngắn hạn, cần phải có hiệu quả để sinh viên có điều kiện nâng cao kỹ năng
thực hành và có thái độ đúng đắn với môi trường làm việc của một doanh
nghiệp sản xuất. Để có được một lực lượng kỹ sư có trình độ trung cấp,
việc mở rộng các trường cao đẳng kỹ thuật và các trung tầm đào tạo nghề là
điều hết sức cần thiết. Một ví dụ điển hình là, từ năm 2002, Cơ quan Hợp
tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) giúp trường Cao đẳng Công nghiệp Hà nội
trang bị lại cơ sở đào tạo bằng việc hỗ trợ máy móc và thiết bị, đào tạo
giảng viên Việt nam, và tìm kiếm đầu ra cho việc sản xuất linh phụ kiện.
Những việc làm như thế nên được tiến hành ở các trường cao đẳng kỹ thuật
ở miền Nam để thúc đẩy trình độ kỹ thuật của cả nước.
Cổ vũ việc đào tạo quản lý ở bậc trung cấp
Hiện nay, Việt nam thiếu một thế hệ có thể làm quản lý ở bậc trung
cấp. Các doanh nghiệp nước ngoài thường khó tìm được những người quản
lý bậc trung cấp mà có đủ khả năng làm việc. Vì thế, thông qua các
Chương trình đào tạo thông qua học việc (OJT-On the Job Training) dài
hạn, các nhà quản lý theo yêu cầu nghề nghiệp được lựa chọn từ số sinh
viên tốt nghiệp từ các trường đại học. Một nhà sản xuất hàng điện tử Nhật
Bản thậm chí còn sẵn sàng đứng ra hỗ trợ cho khoá đào tạo thường niên về
quản lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam. Hiệu quả của các
chương trình này sẽ cao hơn rất nhiều nếu chính phủ đứng ra tổ chức các
65
khoá học nhằm tăng cường trình độ quản lý ở bậc trung cấp. Ví dụ, các
khoá đào tào chính thức của Hiệp hội Học bổng Kỹ thuật hải ngoại (AOTS)
cần được các doanh nghiệp Việt nam chủ động tham gia.
2.2. Giải pháp về công nghệ
a.Thu hút đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ
Một trong những những khó khăn lớn nhất của ngành công nghiệp
điện tử Việt Nam là công nghệ quá lạc hậu so với thế giới và các nước
trong khu vực. Theo các chuyên gia thì công nghệ của ta lạc hậu so với thế
giới 20-30 năm. Điều này sở dĩ là do Việt Nam là nước đến sau, vì vậy để
theo kịp trình độ thế giới, thay vì chạy theo các nước trong khu vực, nhập
công nghệ cũ, chúng ta nên đi tắt đón đầu, cố gắng đạt công nghệ tiến tiến
nhất. Để làm được điều này cần tăng cường thu hut các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư và chuyển giao công nghệ vào các sản phẩm công nghệ cao,
hàm lượng trí tuệ cao.
Để thu hút được họ thì việc tạo ra một môi trường kinh doanh tự do,
mở và đặc biệt là một khuôn khổ chính sách ổn định là điều kiện quan
trọng nhất. Bên cạnh đó những yêu cầu như chất lượng lao động cao , cơ
sở hạ tầng phải được cải thiện và các ưu đãi về thuế.
Việc phát triển công nghiệp phụ trợ cũng được coi là ưu tiên hàng
đầu trong việc thu hút các nguồn FDI vào nghành điện tử nước nhà. Rất
nhiều nhà đầu tư Nhật Bản muốn đầu tư vào Việt Nam và nhiều hãng lớn
đang cân nhắc chuyển các nhà máy lắp ráp từ Trung Quốc và các nước
Đông Á khác sang Việt Nam, tuy nhiên họ còn rất e ngại về sự yêu kém
của ngành các ngành phụ trợ, khiến chi phí sản xuất gia tăng do phải nhập
linh kiện từ nước ngoài.
b. Khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu, sủ dụng công nghệ mới
Bên cạnh việc tận dụng các nguồn lực bên ngoài, nhà nước cần chủ
động hơn trong việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước nghiên cứu
66
và sử dụng các công nghệ mới như cấp tín dụng hay bảo lãnh tín dụng cho
các doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới, hoặc giảm thuế, hoàn thuế cho
các danh nghiệp này.
c. Xây dựng hệ thống đo lường chuẩn quốc tế và cải thiện hệ thông qản
lý chất lượng
Cuối cùng chúng ta cần xây dựng một cơ chế thích hợp để thương
mại hoá các kết quả nghiên cứu khoa học. Xây dựng hệ thống các phòng đo
kiểm chất lượng sản phẩm điện tử theo tiêu chuẩn quốc tế. Tư vấn, hướng
dẫn, hỗ trợ và khuyến khích cho các doanh nghiệp tham gia chương trình
xây dựng hệ thống quản lý chất lượng. Hướng dẫn đăng ký sở hữu công
nghiệp và đăng ký nhãn hàng. Hiện nay, các khía cạnh pháp lý về quản lý
chất lượng sản phẩm do cơ quan Tiêu chuẩn và Chất lượng thuộc Bộ Khoa
học và Công nghệ (STAMEQ) ban hành. Việc quản lý tiêu chuẩn, kiểm
định chất lượng và phân tích mẫu do Trung tâm Quản lý và Kiểm định chất
lượng (QUATEST) thực hiện dưới sự chỉ đạo của STAMEQ tại Hà nội, Đà
Nẵng và Tp.Hồ Chí Minh. Việc quản lývà kiểm tra chất lượng sản phẩm là
một trong nhiều chức năng quan trọng của chính phủ trongviệc phát triển
các ngành công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng cạnh tranh của
chúng. Vì thế, năng lực của QUATEST cũng cần phải cải thiện. QUATEST
cần xây dựng một hệ thống các phòng đo kiểm chất lượng sản phẩm điện tử
chuẩn và tăng cường hoạt động của mình nhằm giúp các doanh nghiệp
trong nước nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm. Hiện
nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ coi việc kiểm tra chất lượng
sản phẩm là trách nhiệm với người sử dụng sản phẩm của họ khi những sai
sót của sản phẩm được phát hiện. Quan niệm này không thể chấp nhận
được và cần phải thay đổi trước khi họ có thể trở thành nhà cung cấp của
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh việc nhận thức được
công việc của QUATEST, việc hỗ trợ kỹ thuật dài hạn cũng rất cần thiết
nhằm thay đổi tư tưởng cố hữu của một số doanh nghiệp trong nước đối với
67
chất lượng. Đào tạo ngắn hạn không phải là cách làm có hiệu quả đối với
vấn đề này. Tuy nhiên, chi phí cho việc hỗ trợ dài hạn như thế vượt quá sức
các doanh nghiệp tư nhân. Một số doanh nghiệp Nhật Bản đã đứng ra hỗ
trợ các doanh nghiệp trong nước, nhưng hỗ trợ về tài chính và thời gian cho
những khoá đào tạo như thế rất tốn kém và không thể kéo dài mãi được.
Việc làm thiết thực nhất là tổ chức các chương trình chính thức và thường
xuyên hơn cho các doanh nghiệp Việt nam vớisự tham gia của nhiều
chuyên gia, trong đó có các chuyên gia của Tập đoàn Phát triển hải ngoại
Nhật Bản (JODC).
2.3. Giải pháp phát triển nghành công nghiệp phụ trợ.
Mặc dù, Chính phủ rất quan tâm đến sự phát triển của các ngành
CNPT trong nước, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một chiến lược lâu dài
và ổn định để phát triển các ngành này. Để có thể tạo ra những sự thay đổi
lớn,phát triển mạnh mẽ đối với CNPT ở nước ta hiện nay thì giữa các chủ
thể SXKD với nhà nước cần có sự hợp tác và thực hiện đồng bộ các giải
pháp tổng thể.
a. Về phía nhà nước:
Hiện nay trong hệ thống luật pháp nước ta vẫn chưa có định nghĩa về
ngành CNPT, điều đó dẫn đến việc trong các quy định pháp quy không hề
có chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển ngành CNPT. Bởi vậy vấn
đề đầu tiên đặt ra là Chính phủ cần phải xây dựng khái niệm CNPT trong
hệ thống luật pháp. Hơn nữa thì Chính phủ cũng cần phải nhận diện lại vấn
đề và tham gia tích cực vào cuộc chơi này hơn nữa bằng cách lập ra một cơ
quan đầu mối để mối lái cho các DN cung cấp chi tiết linh kiện. Trên thực
tế, nước láng giềng Thái Lan đã làm rất tốt việc này trong thời kỳ CNH của
họ. Họ đã có một cơ quan nhà nước luôn theo dõi việc hỗ trợ DN vừa và
nhỏ để "chui" vào các hãng chính. Trong khi ở nước ta thì vẫn chưa có một
68
cơ quan nào phụ trách công việc này.
Ngoài ra các cơ quan chính sách phải xây dựng và công khai chiến
lược, quy hoạch đối với CNPT. Để tận dụng hiệu quả các nguồn lực còn
hạn hẹp. Cần có các chính sách xác định rõ các lĩnh vực cần được ưu tiên
để phát triển CNPT. Chẳng hạn như hiện nay phải tập trung nâng cao năng
lực các ngành gia công thiết yếu như: đột dập chi tiết kim loại, đúc, mạ,
chế tạo khuôn mẫu trong khuôn khổ chương trình phát triển công nghiệp
phụ trợ quốc gia. Phải đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp quốc doanh
trong ngành cơ khí, nhựa, đúc thành các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
cho công nghiệp phụ trợ với mức độ chuyên môn hoá cao vì những lĩnh
vuẹc này công nghệ còn rất lạc hậu
Một vấn đề quan trọng khác theo nhận định của các chuyên gia kinh tế
nước ngoài, thì Việt Nam cần có những điều chỉnh với các DNNN vì đây là
những DN đã tồn tại rất lâu, cần phải tận dụng, định hướng sản xuất theo
xu hướng chuyên môn hóa, tập trung vào một ngành. Mặt khác, một số
ngành thuộc CNPT cần vốn đầu tư rất lớn, không phải DN tư nhân nào
cũng làm được, bởi vậy công việc này cần được thúc đẩy nhanh chóng hơn.
b. Đầu tư vốn phát triển cho CNPT.
CNPT đòi hỏi có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Phía Nhà
nước nên đầu tư vào CNPT đối với những ngành quan trọng cần chi phối,
những ngành công nghệ cao, những ngành tạo ra nhiều công ăn việc làm
cho xã hội... Các DNNN cũng có thể liên doanh liên kết để thành lập các
DN vệ tinh , sản suất sản phẩm phụ trợ phục vụ cho bản thân DN và cho xã
hội.
Trong thời điểm này chúng ta cũng không nên đánh thuế linh kiện điện
tử cao để ép các công ty đa lắp ráp đồ điện gia dụng phải tăng cường nội
69
địa hoá. Mặc dù mục tiêu của chính sách về lâu dài là đúng vì muốn nhanh
chóng tạo điều kiện xây dựng các ngành phụ trợ, tuy nhiên, tình hình hiện
nay cho thấy là nên làm ngược lại để giữ chân các công ty đã đầu tư lắp
ráp (đối phó trước thách thức AFTA và WTO ), nghĩa là nên cho nhập khẩu
tự do, miễn thuế các linh kiện bộ phận lắp ráp để giảm giá thành sản phẩm,
duy trì khả năng cạnh tranh với các nước ASEAN khác.
Thay vì đó, nhà nước nên tăng cường hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, hỗ trợ về
thuế và về thông tin và sự hợp tác quốc tế ở bình diện quốc gia. Đặc biệt
cần phải nâng cao khả năng cấp tín dụng cho DN đầu tư CNPT, đồng thời
với nó là đưa ra những ưu đãi về chính sách kết hợp giữa tín dụng và chính
sách hỗ trợ cho CNPT, tín dụng ưu đãi kết hợp giữa chế độ bảo đảm tín
dụng và bù lãi suất đối với ngành CNPT.
Một điểm mấu chốt nữa đó là cần có chiến lược vĩ mô trong việc đầu
tư vào khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành CNPT.
Đây có thể nói là giải pháp quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay, nâng
cao trình độ công nghệ chính là chìa khoá để phát triển CNPT ở Việt Nam.
Bên cạnh việc tiếp thu và nhận chuyển giao công nghệ từ các đối tác, các
nhà đầu tư nước ngoài thì chúng ta phải có chiến lược đầu tư xây dựng các
khu công nghệ cao, công nghệ ứng dụng để đáp ứng nhu cầu đầu tư của các
nhà đầu tư nước ngoài trên lĩnh vực điện tử, tin học, lắp ráp... Xây dựng các
trung tâm đào tạo kinh doanh và công nghệ cũng như các trung tâm hỗ trợ
kỹ thuật, trung tâm dữ liệu của các DN trong ngành CNPT cho các DN vừa
và nhỏ.
c. Về phía doanh nghiệp:
Có thể dễ dàng nhận thấy yếu tố quan trọng trong việc hình thành và
thúc đẩy sự phát triển của ngành CNPT là nhận thức của bản thân các DN
70
về tầm quan trọng của nó đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của công
nghiệp điênh tử Việt Nam. Mặc dù gần đây, các cơ quan nhà nước mới bắt
đầu nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển CNPT, nhưng các
DNNN (chủ thể chính trong lĩnh vực này) từ trước đến nay lại thường hoạt
động theo kiểu trọn gói (sản xuất từ A đến Z). Do đó, họ hầu như không có
khái niệm về ngành CNPT. Khi tham gia sản xuất từ A đến Z, hiệu quả sản
xuất của công ty đó sẽ không cao vì cần rất nhiều vốn đầu tư. Và vì thế vốn
đầu tư của họ buộc phải dàn trải... Do đó các công ty hoạt động trong
ngành CNPT chỉ nên chọn, tham gia vào một lĩnh vực sản xuất.
Các DN cần đa dạng hoá trong hợp tác, liên doanh liên kết với các
nhà đầu tư nước ngoài nhất là với các DN nhỏ và vừa của Nhật. Đó là
những công ty có trình độ kỹ thuật cao và có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh
vực này vào Việt Nam để cung ứng các linh kiện, sản phẩm phụ trợ, tiếp
nhận sự chi viện về công nghệ từ nước ngoài. Đây cũng là chính sách cần
thiết để tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong nước với những DN
của Trung Quốc sẽ đầu tư vào nước ta trong thời gian tới. Do vậy chỉ có đa
dạng hoá liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư thì các DN Việt Nam mới là
một mắt xích trong dây chuyền sản xuất toàn cầu.
Từ trước đến nay chúng ta mới quan tâm đến liên doanh thông qua
việc góp vốn đầu tư, gia công sản phẩm đơn giản thì đã đến lúc các DN cần
phải coi trọng liên doanh, liên kết dưới dạng đối tác chiến lược, DN vệ tinh,
chuyển nhượng bản quyền, thương hiệu. Trước mắt với những chi tiết
tương đối dễ gia công, chế tạo, các DN Việt Nam có đủ khả năng đảm nhận
được ngay và điều này cũng rất quan trọng bởi việc hỗ trợ cho các DN Việt
Nam phát triển trình độ kỹ thuật của mình, sẵn sàng đón nhận chuyển giao
kỹ thuật, sản xuất từ các DN có vốn nước ngoài là hết sức cần thiết còn
việc sản xuất những chi tiết quan trọng, đòi hỏi kỹ thuật gia công cao ở
Việt Nam sẽ do các DN có vốn nước ngoài đảm nhận. Trong tương laicông
71
việc đó sẽ chuyển sang cho các DN Việt Nam.
Chúng ta đang trong quá trình CNH-HDH đất nước bởi vậy việc xây
dựng một nền tảng vững chắc cho sự phát triển nghành công nghiệp nói
chung và công nghiệp điện tử nói riêng là hết sức quan trọng.CNPT chính
là một trong những nền tảng đó bởi vậy việc cải thiện và đẩy nhanh sự phát
triển nghành này trong tương lai là hết sức cần thiết.
2.4 . Giai pháp về chính sách
Hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm cải thiện môi trường đầu tư, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ngành công nghiệp điện tử.
Môi trường kinh doanh thuận lợi là một trong những điều kiện nhằm
thu hút nguồn vốn đầu tư lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Một trong
những việc làm cần thiết để hoàn thiện môi trường pháp lý là Nhà nước
phải cải cách mạnh mẽ và triệt để khâu hành chính, đặc biệt là đổi mới tư
duy của đội ngũ cán bộ. Họ phải biết mình làm gì và làm bằng cách nào để
giúp doanh nghiệp phát triển, tạo hành lang pháp lý an toàn cho doanh
nghiệp hoạt động.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần nhìn nhận tầm quan trọng của các Hiệp
hội ngành nghề. Ngoài việc đại diện quyền lợi cho doanh nghiệp, Hiệp hội
còn đóng vai trò tham mưu cho Chính phủ những vấn đề liên quan đến
doanh nghiệp. Qua đó, để tạo điều kiện cho các Hiệp hội hoạt động hiệu
quả, Quốc hội và Chính phủ cần sớm ban hành điều Luật Hội. Khi có một
định chế hoạt động, Hiệp hội sẽ có đầy đủ cơ sở pháp lý để can thiệp và hỗ
trợ các doanh nghiệp thành viên hoạt động hiệu quả. Việt Nam đang ngày
càng hòa nhập mạnh mẽ vào cuộc chơi toàn cầu. Do đó, chúng ta đang trải
qua hàng loạt những thay đổi về hành lang pháp lý và những quy định mới.
Theo các chuyên gia kinh tế, Chính phủ cần cho phép sự tham gia của các
72
tổ chức thương mại quốc tế trong giai đoạn đầu của cuộc đối thoại nhằm
chia sẻ những kinh nghiệm quốc tế cũng như những đề xuất tốt nhất trước
khi những điều luật này được Quốc hội thông qua.
Ngoài những chính sách nhằm hoàn thiện khung pháp lý cần phải
củng cố bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp điện tử bằng các văn bản pháp
luật. Hệ thống bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp cần được coi như một
công cụ của chính sách kinh tế nhằm khuyến khích phát triển các năng lực
sáng tạo về công nghệ trong nước bằng cách khích lệ các tác giả. Trên thực
tế, hệ thống bảo hộ này có tác dụng như một lá chắn đủ mạnh cho sự phát
triển nền công nghiệp điện tử hứa hẹn nhiều sáng tạo trong nước mặc dù
hiện đang còn ở mức vừa và nhỏ. Ngoài ra, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ cần được xem như một sự đầu tư dài hạn về cơ sở hạ tầng để phát
triển thị trường trong nước, có sự bảo hộ quyền sở hữu thì mới có sự sáng
tạo trong lĩnh vực này.
Hoàn thiện các chính sách thuế theo hướng tạo điều kiện và tính đến lợi ích cho cả các doanh nghiệp lắp ráp và sản xuất, tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, bình đẳng.
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng điện tử trong
nước đang gặp nhiều khó khăn, chi phí sản xuất trong nước cao do giá
thành nhiều nguyên vật liệu và các dịch vụ đầu vào đều tăng. Trong khi đó,
doanh nghiệp Việt Nam đang phải nhập khẩu nhiều loại linh kiện từ các
nước ngoài khối ASEAN và chịu thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) với mức
thuế suất cao, bình quân từ 15% đến 20%, còn sản phẩm nguyên chiếc nhập
từ các nước ASEAN chỉ có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 5%. Điều này
khiến cho các doanh nghiệp sản xuất điện tử có xu hướng chuyển sang
thành các doanh nghiệp phân phối. Gía trị gia tăng của ngành mang lại
không cao do Việt Nam gần như chỉ thực hiện ở giai đoạn gia công và lắp
ráp sản phẩm, trong khi ngành công nghiệp phụ trợ kém phát triển do đó rất
73
nhiều các thiết bị linh kiện phải nhập khẩu. Do đó trong thời gian tới,
Chính phủ cần ban hành quyết định về thuế suất nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp lắp ráp và sản xuất, tạo môi trường sản xuất kinh
doanh lành mạnh và bình đẳng.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: cung cấp nguồn điện ổn định và
đảm bảo mạng thông tin, mạng lưới giao thông thuận tiện; xây
dựng các khu công nghệ thông tin tập trung
Công nghiệp điện tử là ngành công nghệ kĩ thuật cao, do đó cần phải đáp
ứng được hệ thống cơ sở hạ tầng đạt được chất lượng tốt nhằm phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tập trung phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông, chủ yếu là hệ thống đường xá, cảng biển, sân bay, được xác định tại
các vùng đã và sẽ có dung lượng lưu thông hàng hoá lớn, những vùng có
tác động lan toả mạnh tới các vùng khác.
Ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng, trước hết là năng lượng
điện. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các nhà máy điện có lợi ích tổng hợp
(sản xuất điện, chống lũ, cấp nước, du lịch); phát triển hợp lý các nguồn
nhiệt điện khí; phát triển mạnh nhiệt điện than; phát triển các nguồn điện
gió và mặt trời thân thiện với môi trường; chuẩn bị kỹ để triển khai xây
dựng điện hạt nhân đầu tiên trong thời gian gần. Áp dụng đồng bộ các biện
pháp về kỹ thuật, kinh tế và tổ chức nhằm sử dụng hợp lý và tiết kiệm điện,
74
giảm tổn thất điện năng.
Kết luận
Trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã đạt được một số kết quả
sau:
Thứ nhất, đề tài đã tổng hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận ngành sản
xuất côn nghiệp điện tử Việt Nam. Trên cơ sở đó, có thể lấy làm nền
tảng để phát triển các đề tài nghiên cứu sâu rộng hơn.
Thứ hai, đề tài đã đưa ra cái nhìn toàn cảnh một cách có logic về
thực trạng tình hình sản xuất công nghiệp điện tử với giá trị gia tăng
thấp. Qua đó, đề tài đã phân nguyên nhân của tình trạng đó trên cở
sở những khó khăn và từ những thuận lợi tìm ra hướng giải pháp
75
phát triển.
Cuối cùng, đề tài đã đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần
gia tăng giá trị của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam. Nhóm tác
giả tin rằng những giải pháp đề xuất này sẽ được áp dụng trong thực
tế và khắc phục được những hạn chế đang tồn tại.
Nhóm tác giả mong muốn đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích
giúp những Sinh viên quan tâm vấn đề sản xuất công nghiệp Việt Nam nói
chung và ngành công nghiệp điện tử nói riêng lấy làm cơ sở để nghiên cứu
những đề tài sâu rộng và thiết thực. Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng mong
muốn những doanh nghiệp sản xuất, cơ quan nhà nước có thể ứng dụng
toàn bộ hoặc một phần những giải pháp đề xuất trong đề tài. Qua đó, nâng
cao giá trị gia tăng của ngành công nghiệp điện tử nước nhà, từ đó góp
phần vào công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
Phụ lục 1. Dân số theo lứa tuổi (%): 1990-2015
% Tổng dân số
1990 1995 2000 2005 2010 2015
0-4 yrs 14.42 12.95 10.12 9.40 9.06 8.76
5-9 yrs 12.80 12.77 11.85 9.35 8.73 8.46
10-14 yrs 11.79 11.47 11.78 11.02 8.72 8.18
15-19 yrs 10.72 10.54 10.56 10.94 10.27 8.16
20-24 yrs 9.77 10.16 9.67 9.74 9.54 9.57
25-29 yrs 8.72 8.92 8.65 8.64 9.05 9.46
30-34 yrs 7.89 8.04 7.03 7.66 8.26 8.42
35-39 yrs 6.98 7.27 5.38 6.21 7.44 7.68
40-44 yrs 5.64 6.41 3.46 4.74 6.71 6.90
76
45-49 yrs 4.29 5.16 2.99 3.03 5.89 6.19
50-54 yrs 2.88 2.59 2.72 3.89 4.70 5.40
55-59 yrs 2.89 2.47 2.30 2.43 3.50 4.26
60-64 yrs 2.31 2.43 2.14 2.02 2.15 3.12
65-69 yrs 1.92 1.86 2.03 1.81 1.72 1.85
70-74 yrs 1.39 1.44 1.46 1.61 1.45 1.39
75-79 yrs 0.95 0.93 1.01 1.04 1.17 1.07
80+ yrs 0.67 0.73 0.82 0.93 1.00 1.13
TOTAL 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Source: National statistical offices/Euromonitor International
Note: as at January 1st
Phụ lục 2: Lƣơng tháng của công nhân ngành công nghiệp điện tử
Hà Nội TP Hồ Chí Bangkok Shanghai Kuala Lương tháng
Minh Lampur ( USD)
Công nhân 87-198 122-216 164 272-362 221
Nhân viên kỹ 329-453 383 442-641 820 243-
thuật 482
Nhân viên 597- 681-1690 684 663 1638
859
Lương tối thiểu 62.1 62.1 115.06 116 -
Bảo hiểm xã hội 17% 17% 5% 44% 12%
Nghỉ lễ ( ngày) 9 9 13 12 16
77
Nguồn: JETRO - 2008
Bảng 1.1: Cơ cấu nguồn bộ phận và linh kiện cho doanh nghiệp vốn Nhật
Bản đầu tư trong ngành sản xuất máy quay phim Malaysia (1993) ............................ 14
Bảng 2.1: Tổng giá trị sản phẩm ngành công nghiệp điện tử ...................................... 28
Bảng 2.2. Tổng giá trị sản phẩm nghành công nghiệp điện tử .................................... 29 Bảng 2.3. Tỉ trọng nghành công nghiệp điện tỉ trong nền knh tế quốc gia .................. 30
Bảng 2.4. Giá trị xuất khẩu ngành công nghiệp điện tử Việt Nam .............................. 31
Bảng 2.5. Tỉ trọng kim nghạch xuất khẩu điện tử gia dụng và điện tử -
CNTT trong tổng kim nghạch xuất khẩu quốc gia (%)................................................ 32
Bảng 2.6. Thị phần linh kiện điện tử trên thế giới ....................................................... 32 Bảng 2.7. Giá trị nhập khẩu ngành công nghiệp điện tử Việt Nam ............................ 34
Bảng 2.8. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện tử tháng
12 và năm 2007 ............................................................................................................ 38
Bảng 2.9. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện tử tháng
12 và năm 2008 ............................................................................................................ 39
Bảng 2.10. Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp điện tử
tháng 6/2009 ................................................................................................................. 40
Bảng 2.11. Kim ngạch xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện 5 tháng
đầu năm 2009 ............................................................................................................... 43 Bảng 2.12. Kim ngạch nhập khẩu hàng điện tử, máy tính và linh kiện ....................... 44
78
Phụ lục 3: Danh mục bảng biểu sơ đồ