
801
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HỖ TRỢ NGÀNH SẢN XUẤT
VẬT LIỆU XÂY DỰNG HƢỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
ThS. Nguyễn Thị Thanh Tâm
Trường Đại học Thương mại
TÓM TẮT
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, trong những năm qua ngành sản xuất vật liệu xây
dựng không ngừng được đầu tư, đổi mới và phát triển do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
mang lại. Có thể thấy rằng vật liệu xây dựng là yếu tố đầu vào, đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng cơ sở hạ tầng như: nhà ở, tòa nhà và tất cả các loại công trình xây dựng khác. Phát triển
vật liệu xây dựng đang từng bước được ngành sản xuất vật liệu xây dựng chú trọng hơn theo hướng
sản xuất xanh, sạch để bảo vệ môi trường. Bởi vì, quá trình sản xuất và kinh doanh vật liệu xây
dựng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế quốc gia, nền kinh tế toàn cầu, đến môi trường và xã hội.
“Theo số liệu thống kê, ngành xây dựng sử dụng khoảng trên 30% tổng năng lượng và trên 30%
nguồn nguyên liệu trên toàn cầu, phát thải khoảng 35 đến 40% tổng lượng khí nhà kính trên toàn
thế giới. Những thách thức đối với môi trường này rõ nét hơn ở các nước đang phát triển (như Việt
Nam) - nơi có mức độ xây dựng dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030. Trong đó, phần lớn lượng
khí thải phát sinh là do sản xuất xi măng và sắt thép, tiếp đến là sản xuất nhôm, kính, thủy tinh và
vật liệu cách nhiệt” [9]. Để các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng hoạt động sản xuất kinh
doanh có trách nhiệm với môi trường và cộng đồng, tác giả đã đi sâu nghiên cứu về tổng quan
ngành vật liệu xây dựng Việt Nam, phân tích thực trạng ngành sản xuất vật liệu xây dựng và thực
trạng sử dụng các chất thải làm nguyên liệu, nhiên liệu thay thế trong sản xuất vật liệu xây dựng,
chỉ ra được những cơ hội và thách thức của ngành vật liệu xây dựng đối với định hướng phát triển
bền vững qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hỗ trợ ngành sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt
Nam hướng đến phát triển bền vững về tăng trưởng kinh tế - giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ
môi trường trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ khóa: Vật liệu xây dựng, phát triển bền vững, doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng
ABSTRACT
Along with the general development of the country, in recent years, the construction material
industry has been continuously invested, innovated and developed due to the process of
industrialization and modernization. It can be seen that construction materials are inputs, play an
important role in the construction of infrastructure such as houses, buildings and all types of other
construction. Building materials development is gradually getting more attention from the
construction material industry towards green and clean production to protect the environment.
Because, the process of manufacturing and trading building materials has a huge impact on the
national economy, the global economy, on the environment and society.“ ccording to statistics, the
construction industry uses about 30 percents of total energy and more than 30 percents of raw
materials globally, emitting about 35 to 40 percents of total greenhouse gases worldwide. These
environmental challenges are more pronounced in developing countries (like Vietnam), where the
construction level is expected to double by 2030 year. Of which, most of the air emissions are
generated bythe production of cement, iron and steel, followed by the production of aluminum,

802
glass, glass and insulation"[9]. In order for enterprises producing construction materials to have
environmentally and community responsible production and business activities, the author has
studied in-depth an overview of the building materials industry in Vietnam, analyzed the current
situation of the construction material manufacturing industry and the current situation of using
wastes as raw materials, alternative fuels in the production of construction materials, showing the
opportunities and challenges of the building materials industry towards thesustainable development
direction, thereby proposing a number of solutions to support the building material industry in
Vietnam towards sustainabledevelopment about economic growth - solving social problems and
protecting the environment in the processof international economic integration.
Keywords: Building materials, sustainable development, building materials manufacturing
enterprises
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành Vật liệu xây dựng là một trong số các ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế quốc
dân; nhưng ngành Vật liệu xây dựng cũng là một trong những ngành tiêu thụ một khối lượng lớn tài
nguyên khoáng sản làm nguyên liệu; nhiên liệu trong quá trình sản xuất và có thể gây ô nhiễm môi
trường. Thực tế cho thấy, ngành vật liệu xây dựng còn có rất nhiều bất cập đã tồn tại trong một thời gian
dài, phát triển chưa mang tính đồng bộ, bền vững. Trong đó, công tác thăm dò, nghiên cứu thực địa, dự
báo tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản dùng để làm vật liệu xây dựng trong lĩnh vực xây dựng và kết
cấu hạ tầng còn hạn chế. Việc khai thác tài nguyên khoáng sản và quản lý cấp phép để được khai thác
của các ngành, địa phương còn lộn xộn, nhiều địa phương chưa thực hiện đúng với các quy định của
Nhà nước và Chính phủ ban hành; tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản trái phép, thậm chí không
phép xảy ra khá phổ biến tại một số địa phương. Về quy hoạch, nhiều nơi chưa xây dựng được một quy
hoạch tổng thể để có thể kiểm soát, đánh giá và quản lý một cách khoa học, hệ thống; bên cạnh đó
những nơi có quy hoạch thì chất lượng quy hoạch còn yếu kém, phải thường xuyên điều chỉnh liên tục;
kết quả của dự báo nhiều khi chưa sát với nhu cầu thực tế, do đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường đầu tư, hiệu quả và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Ngành vật liệu xây dựng vẫn chưa chú trọng
đúng mức đến phát triển các loại vật liệu mới, xanh - sạch - thân thiện với môi trường như các vật liệu
xây không nung, các vật liệu không gây ô nhiễm,… Ngoài ra, còn tồn tại một số chủng loại vật liệu xây
dựng do tính toán không đúng đã để xảy ra tình trạng có những thời điểm cung vượt quá cầu (như ngành
xi măng),… dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư, sản xuất vật liệu xây dựng.
Trong thời gian tới, phát triển vật liệu xây dựng (VLXD) của nước ta cần phải đảm bảo tuân
thủ các định hướng lớn về phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu tăng trưởng kinh tế, áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ
môi trường, đảm bảo an ninh quốc gia, chủ động hội nhập quốc tế, hình thành các điều kiện cơ bản
cho nền kinh tế xanh, ít chất thải, các-bon thấp vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững đất nước.
Do đó, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm hỗ trợ ngành sản xuất vật liệu xây dựng hướng đến phát
triển bền vững có ý nghĩa rất lớn, góp phần phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của Việt Nam.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. Vật liệu xây dựng
“Vật liệu xây dựng được hiểu là bất kỳ vật liệu có mục đích sử dụng cho ngành xây dựng. Có
một số vật liệu xây dựng là những chất hiện diện trong tự nhiên. Ví dụ như: đất sét, đá, cát, và gỗ,

803
thậm chí cành cây và lá… Tất cả những vật liệu xây dựng này đều đã được sử dụng để xây dựng
các tòa nhà” [9].
“Ngoài các vật liệu xây dựng tự nhiên, cũng có rất nhiều sản phẩm nhân tạo đã được sử dụng
để phục vụ ngành xây dựng. Sản xuất các vật liệu xây dựng là một ngành công nghiệp được thiết
lập ở nhiều nước và việc sử dụng các vật liệu này thường được tách ra thành các ngành nghề chuyên
môn cụ thể, chẳng hạn như nghề mộc, cách nhiệt, hệ thống ống nước, và công việc lợp mái. Vật liệu
xây dựng có chức năng cung cấp thành phần của nơi sinh hoạt và các cấu trúc bao gồm cả nhà” [9].
Nghị định số 24a/2016/NĐ-CP ngày 05 tháng 04 năm 2016 về quản lý vật liệu xây dựng quy
định “các hoạt động trong lĩnh vực vật liệu xây dựng, bao gồm: Quy hoạch phát triển vật liệu xây
dựng, quy hoạch khoáng sản làm vật liệu xây dựng; hoạt động đầu tư, sản xuất vật liệu xây dựng;
quản lý chất lượng, kinh doanh vật liệu xây dựng; chính sách phát triển vật liệu xây dựng Tiết kiệm
tài nguyên khoáng sản, Tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường. Riêng đối với vật liệu xây
dựng kim loại và vật liệu xây dựng không có nguồn gốc từ khoáng sản, Nghị định này chỉ Điều
chỉnh về quản lý chất lượng và kinh doanh” [7].
Trong Nghị định này, những từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
- “Vật liệu xây dựng là sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ, vô cơ được sử dụng để tạo nên công
trình xây dựng, trừ các trang thiết bị điện và thiết bị công nghệ” [7].
- “Vật liệu xây dựng chủ yếu là các loại vật liệu xây dựng, bao gồm: Xi măng, vật liệu ốp lát
(ceramic, granit, cotto, đá ốp lát nhân tạo, đá ốp lát tự nhiên), sứ vệ sinh, kính xây dựng, vôi, vật
liệu chịu lửa” [8].
- “Vật liệu ốp lát là vật liệu xây dựng được sử dụng để ốp, lát các công trình xây dựng” [7].
- “Sứ vệ sinh là sản phẩm có nguồn gốc từ gốm sứ dùng để lắp đặt trong các công trình vệ
sinh, phòng thí nghiệm và các phòng chuyên dụng khác” [7].
- “Vật liệu xây dựng Tiết kiệm tài nguyên khoáng sản, Tiết kiệm năng lượng, thân thiện với
môi trường bao gồm: Vật liệu xây không nung, vật liệu xây dựng được sản xuất từ việc sử dụng
chất thải làm nguyên liệu hoặc nhiên liệu, vật liệu xây dựng có tính năng Tiết kiệm năng lượng vượt
trội so với vật liệu cùng chủng loại” [7].
- “Khoáng sản làm nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng chủ yếu bao gồm: Đá làm đá ốp
lát, đá làm vôi, cát trắng silic, cao lanh, đất sét trắng, fenspat, đất sét chịu lửa, đôlômít, bentônít và
các loại khoáng sản làm xi măng (gồm: Đá làm xi măng, sét làm xi măng và phụ gia xi măng), được
quy hoạch trên phạm vi cả nước” [8].
- “Khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường là các loại khoáng sản được quy định tại
Khoản 1 Điều 64 của Luật Khoáng sản” [7].
2.2. Phát triển bền vững
“Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt
trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa” [15]. Khái niệm
này hiện đang là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc
thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa,... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với
quốc gia đó.

804
Theo Tổ chức ngân hàng phát triển châu Á (ADB): "Phát triển bền vững là một loại hình phát
triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường.
Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả
năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai" [9].
“Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển:
kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hóa đa dạng và môi
trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên
tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế
chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường” [15].
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài báo sử dụng phương pháp nghiêu cứu bằng cách thu thập và xử lý dữ liệu thứ cấp là
những thông tin đã có sẵn hoặc là các kết quả nghiên cứu đã có từ trước được tập hợp để phục vụ
cho việc nghiên cứu. Dựa trên những kết quả thu thập được giúp cho tác giả có cái nhìn tổng quan
về thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam, ảnh hưởng
của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến môi trường, thấy được những cơ hội
và thách thức của ngành vật liệu xây dựng đối với định hướng phát triển bền vững. Các nguồn dữ
liệu thứ cấp thu thập được bao gồm: Báo cáo cập nhật ngành xi măng, nghị định của chính phủ về
quản lý chất thải và phế liệu, về quản lý vật liệu xây dựng, quyết định của thủ tướng chính phủ về
Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng… và một số bài báo liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng.
Bên cạnh đó, để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, tác giả còn thu thập được một số nhận
định, quan điểm của những người lãnh đạo trong ngành sản xuất vật liệu xây dựng tại Việt Nam để
thấy được xu hướng phát triển của các doanh nghiệp vật liệu xây dựng trong tương lai, giải thích lý
do để có được những dự án giúp phát triển bền vững doanh nghiệp vật liệu xây dựng ở Việt Nam.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp thống kê dữ liệu của các năm, so sánh giữa các
năm với nhau, qua đó tổng hợp, phân tích xu hướng tăng giảm trong thời gian tới, chỉ rõ lý do tăng
giảm của các con số, thấy được những bất cập còn tồn tại nhằm đề xuất các giải pháp khả thi. Các
số liệu đưa ra trong bài báo để phân tích thực trạng được trích dẫn từ những nguồn đáng tin cậy, là
cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thực trạng về ngành sản xuất vật liệu xây dựng và quá trình sử dụng các chất thải làm
nguyên, nhiên liệu thay th trong sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam
4.1.1. Thực trạng về ngành sản xuất vật liệu xây dựng ở Việt Nam
Trong những năm gần đây ngành Vật liệu xây dựng ở nước ta phát triển mạnh, không chỉ đáp
ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu đến nhiều nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới. Theo dự thảo “Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, định
hướng đến năm 2030” do Viện Vật liệu xây dựng soạn thảo, nhu cầu một số sản phẩm vật liệu xây
dựng trong tương lai sẽ tăng đáng kể [12], [13].

805
Bảng 1: Dự báo nhu cầu một số sản phẩm VLXD giai đoạn đ n năm 2030
TT
Sn phẩm
ĐVT
Năm 2018
Năm 2025
Năm 2030
Tiêu thụ
TCSTK
1
Xi m ng
Tr. Tấn
95,9
97,66
106,8
123,9
2
Vật liu xây
Tỷ Viên
26,0
28,0
34,57
41,59
3
Vật liu l p
Tr. m2
527,2
-
775,7
880,7
4
G ch gm p lát
Tr. m2
754,44
901,6
819,9
942,28
5
Sứ v sinh
Tr. SP
16,0
23,25
21,96
31,69
6
Kính xây d ng
Tr. m2
185,00
207,9
210,5
225,1
7
Vôi
Tr. Tấn
4,8
2,378
6,44
7,75
8
Bê tông
Tr. m2
32,5
50,0
207,33
258,25
Ngu n: ximang.vn [12]
Để đáp ứng được nhu cầu vât liệu xây dựng trong thời gian tới, ngành vật liệu xây dựng cần
sử dụng một khối lượng lớn nguyên, nhiên liệu cho sản xuất. Do đó việc sử dụng các chất thải, phế
thải công nghiệp làm nguyên, nhiên liệu thay thế trong sản xuất vật liệu xây dựng sẽ có ý nghĩa rất
lớn về tiết kiệm tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, do ảnh hưởng của dịch COVID-19, các doanh nghiệp vật liệu
xây dựng đang gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dự báo tình hình khó
khăn đó có thể vẫn tiếp diễn trong thời gian tới.
“Theo số liệu thống kê tổng hợp được và báo cáo nhanh từ các Hiệp hội Xi măng, Gốm sứ
xây dựng, Thủy tinh và kính xây dựng... và một số doanh nghiệp hiện nay, cùng với việc sụt giảm
của thị trường bất động sản, cho ta thấy lĩnh vực vật liệu xây dựng cũng chịu ảnh hưởng nặng nề
của dịch bệnh. Sản lượng sản xuất và năng suất tiêu thụ một số chủng loại vật liệu xây dựng chính
như: xi măng; gạch ốp lát; sứ vệ sinh; kính xây dựng trong các tháng đầu năm 2020 bắt đầu có xu
hướng giảm mạnh vì nhiều công trình phải dừng hoạt động do dịch covid 19” [2], [9].
“Các chuyên gia đã chỉ ra rằng, do vật liệu xây dựng luôn gắn liền với sự phát triển của lĩnh
vực bất động sản và nhu cầu đầu tư xây dựng của người dân. Do vậy, khi thị trường bất động sản
sụt giảm nghiêm trọng về nguồn cung mới cũng như sức cầu của hầu hết các phân khúc nhà ở thì sẽ
đồng nghĩa với việc nhu cầu về vật liệu xây dựng như sắt thép; xi măng; gạch xây; gạch men; thiết
bị nội thất;… đều có xu hướng giảm mạnh” [10].
“Theo số liệu ghi nhận được từ báo cáo tổng kết ngành xi măng, sản xuất xi măng trong quý
I/2020 đạt sản lượng 19,55 triệu tấn, giảm 11,4% so với mức 22,06 triệu tấn của cùng kỳ năm 2019
(tức quý I/2019). Bên cạnh đó, sản lượng tiêu thụ cũng chỉ ở mức 17,85 triệu tấn, giảm 20,9%. Do
sức tiêu thụ chậm, lượng tồn kho bình quân toàn ngành sản xuất xi măng trong nước đã tăng lên 4,8
triệu tấn, tăng 135,3% và gấp 2,35 lần so với cùng kỳ năm 2019 là 2,04 triệu tấn. Trong khi đó,
lượng xi măng xuất khẩu cũng chỉ ở mức 6,6 triệu tấn, giảm 21,4%” [2].