BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG KIM CƯƠNG

GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

TP. HCM - 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG KIM CƯƠNG

GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG RỬA TIỀN QUA NGÂN HÀNG

Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế tài chính - Ngân hàng

Mã số: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. PHẠM VĂN NĂNG

TP. HCM - 2011

TÓM TẮT NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI CỦA ĐỀ TÀI

Thế giới có biết bao vấn nạn cần phải giải quyết như đói nghèo, dịch bệnh,

thiên tai, khủng bố,… bây giờ lại phải chiến đấu với nạn rửa tiền – kẻ luôn đồng

hành với các hoạt động tội ác.

Bọn tội phạm ngày càng có những hành động tinh vi hơn, trong khi các công

cụ phòng chống rửa tiền tại Việt Nam rất yếu kém, nhận thức của người dân còn

hời hợt. Trong tương lai nếu không thể cải thiện thì công tác phòng chống rửa tiền

sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Tác giả đưa ra những thực trạng, khó khăn, giải pháp cơ bản để thông qua thực

tiễn có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động chống rửa tiền.

Phân tích thực trạng và xu hướng rửa tiền của bọn tội phạm tại các nước khác

nhau, chúng ta thấy được bản chất cực kỳ nguy hiểm của hoạt động này. Nó lôi

kéo hầu hết các thành phần kinh tế quan trọng của đất nước tham gia vào quy trình

rửa tiền: các cơ quan trung ương, các doanh nghiệp nhà nước… và nhất là nó lợi

dụng hoạt động của các ngân hàng – một thành phần được coi là mạch máu của

nền kinh tế quốc gia…. Đối với nền kinh tế toàn cầu, nó làm suy yếu mối quan hệ

kinh tế quốc tế, phá hoại uy tín của nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng; nó cản trở

trào lưu hội nhập của các thị trường tài chính, làm phá hỏng mối quan hệ liên ngân

hàng toàn cầu.

Hy vọng với sự nỗ lực hợp tác của các quốc gia cũng như việc nâng cao tầm

nhận thức của mọi người dân về nạn rửa tiền, công cuộc chống rửa tiền sẽ ngày

một đạt nhiều thắng lợi, và các đồng tiền “bẩn” thu từ ma túy, buôn lậu, tham

nhũng, khủng bố… sẽ không còn khả năng được “làm sạch” một cách phi pháp

nữa.

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục chữ viết tắt

Danh mục các hình

LỜI MỞ ĐẦU 1

1. Xác định vấn đề nghiên cứu 1

2. Mục tiêu nghiên cứu 1

3. Phương pháp nghiên cứu 1

4. Phạm vi nghiên cứu 1

5. Kết cấu nội dung nghiên cứu 1

6. Ý nghĩa của đề tài 2

CHƯƠNG 1: RỬA TIỀN VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC 3

ĐẾN NỀN KINH TẾ.

1.1. Rửa tiền. 3

1.1.1. Lý luận chung về rửa tiền. 3

1.1.2. Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền. 4

1.1.2.1. Nguồn gốc tiền bẩn. 4

1.1.2.2. Quy trình rửa tiền. 4

1.2. Những biểu hiện và cách thức rửa tiền. 7

1.2.1. Biểu hiện hoạt động rửa tiền. 7

1.2.1.1. Các dấu hiệu đáng ngờ chung. 7

1.2.1.2. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng. 8

1.2.1.3. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực bảo hiểm. 9

1.2.1.4. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán. 10

1.2.1.5. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trò chơi giải 11

trí có thưởng.

1.2.1.6. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực bất động sản. 11

1.2.2. Cách thức rửa tiền. 12

1.3. Những tác động tiêu cực của rửa tiền đến hoạt động của nền 14

kinh tế xã hội.

1.3.1. Tác động của rửa tiền lên phát triển kinh tế. 14

1.3.1.1. Tác động lên hệ thống tài chính. 15

1.3.1.2. Tác động đến các hoạt động khu vực kinh tế chính 15

thức.

1.3.1.3. Tác động lên khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài. 16

1.3.2. Hoạt động rửa tiền gây tổn hại ngân sách quốc gia. 16

1.3.3. Hoạt động rửa tiền làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân hợp 17

pháp.

1.3.4. Những ảnh hưởng tiêu cực khác do hoạt động rửa tiền. 17

1.4. Sự cần thiết thực hiện biện pháp phòng chống rửa tiền. 17

1.4.1. Nguyên nhân. 17

1.4.2. Nguyên tắc thực hiện phòng, chống rửa tiền. 18

1.4.3. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền. 19

1.4.3.1. Trách nhiệm của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam. 19

1.4.3.2. Trách nhiệm của cơ quan thanh tra cấp bộ. 19

1.4.3.3. Trách nhiệm của Ủy Ban nhân dân các cấp. 20

1.4.3.4. Trách nhiệm của Viện kiểm sát. 20

1.4.3.5. Trách nhiệm của Tòa án. 20

1.4.3.6. Trách nhiệm Bộ Công an. 21

1.4.3.7. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ. 21

1.5. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền trên thế giới. 22

1.5.1. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền tại Mỹ. 22

1.5.2. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền tại Anh. 24

1.5.3. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền tại một số nước khác. 25

Kết luận chương 1 27

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN Ở 28

VIỆT NAM HIỆN NAY.

2.1. Quá trình ra đời các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động phòng, 28

chống rửa tiền ở Việt Nam.

2.2. Hội nhập quốc tế phát sinh hoạt động rửa tiền ở nước ta. 32

2.2.1. Tự do hóa dòng chu chuyển vốn quốc tế và nguy cơ rửa tiền. 32

2.2.1.1. Tự do hóa các giao dịch vãng lai và nguy cơ rửa tiền. 32

2.2.1.2. Tự do hóa tài khoản vốn và nguy cơ rửa tiền. 32

2.2.2. Chống đôla hóa và nguy cơ rửa tiền. 35

2.3. Hợp tác phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế. 37

2.4. Thế giới khó kiểm soát nguồn “tiền bẩn”. 40

2.5. Thực trạng hoạt động rửa tiền và chống rửa tiền ở Việt Nam. 42

2.5.1. Những kẻ hỡ dẫn đến hoạt động rửa tiền. 42

2.5.2. Nổ lực phòng chống rửa tiền chỉ mới khởi động. 44

2.5.3. Thủ đoạn rửa tiền trên mạng của tội phạm Việt Nam. 45

2.5.4. Kết quả đạt được trong hoạt động phòng, chống rửa tiền ở 49

Việt Nam.

2.5.5. Những hạn chế trong hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam. 52

2.5.5.1. Nền kinh tế vẫn còn sử dụng tiền mặt là phổ biến. 52

2.5.5.2. Nhận thức của dân chúng còn hạn chế. 53

2.5.5.3. Chuyển ngân (kiều hối) lậu không qua ngân hàng. 55

2.5.5.4. Tham nhũng còn phổ biến. 55

2.5.5.5. Luật pháp còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, và chậm ban hành. 57

Kết luận chương 2 60

CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG VÀ CHỐNG RỬA 61

TIỀN Ở VIỆT NAM.

3.1. Đối với Chính Phủ. 61

3.1.1. Thành lập trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền. 61

3.1.2. Phấn đấu trở thành thành viên chính thức của FATF. 62

3.1.3. Sớm ban hành Luật phòng, chống rửa tiền. 63

3.1.4. Hạn chế tối đa việc lưu thông tiền mặt để “phòng từ gốc”. 64

3.1.5. Kê khai tài sản cán bộ công chức và xử lý sai phạm. 66

3.1.6. Quản lý chuyển ngân ngoại tệ. 67

3.1.7. Tăng cường giám sát hoạt động rửa tiền qua thị trường 68

chứng khoán.

3.2. Giải pháp về hợp tác các nước để phòng, chống rửa tiền. 68

3.3. Biện pháp của ngành Ngân Hàng. 69

3.3.1. Mục tiêu chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC. 69

3.3.2. Công cụ hỗ trợ thực hiện chính sách “nhận biết khách hàng”. 71

3.3.3. Nguyên tắc cơ bản của chính sách “nhận biết khách hàng”. 75

77 Kết luận chương 3

78 KẾT LUẬN CHUNG

Tài liệu tham khảo

Phụ lục

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. KYC: Know Your Customer: Chính sách nhận biết khách hàng.

2. BSA: Luật bí mật ngân hàng.

3. FinCEN: Financial Crimes Enforcement Network: Mạng lưới chống tội phạm tài

chính.

4. FATF: Financial Action Task Force: Tổ chức hay lực lượng đặc nhiệm tài chính

chống rửa tiền và tội phạm tài chính.

5. AMLO: Anti-Money Laundering Office hay AMLC: Anti-Money Laundering

Council: Cơ Quan Chuyên Trách Chống Rửa Tiền.

6. APG: The Asia Pacific Group: Hiệp hội Châu Á Thái Bình Dương về rửa tiền.

7. UNODC : Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc.

8. TTCK: Thị trường chứng khoán.

9. NHNN: Ngân Hàng Nhà Nước.

10. NHTM: Ngân Hàng Thương Mại.

DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang

Hình 1.1: Quy trình của hoạt động rửa tiền 6

Hình 1.2: Mô tả khái quát chu trình rửa tiền thông thường 14

Hình 3.1: Màn hình World – Check (1) 72

Hình 3.2: Màn hình World – Check (2) 74

Hình 3.3: Màn hình World – Check (3) 75

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Xác định vấn đề nghiên cứu:

Hiện nay với sự bành trướng của nạn tham nhũng, buôn ma túy và buôn lậu vũ khí

trên thế giới với dân số lớn đã và đang làm gia tăng hoạt động rửa tiền. Dần dần rửa

tiền trở thành mối đe dọa nguy hiểm cho nền kinh tế xã hội của toàn thế giới.

Rửa tiền đã xuất hiện ở Việt Nam trong khi phòng chống rửa tiền chỉ mới ở những

bước đầu tiên. Vấn đề đặt ra cho người viết là làm sao xác định được thực trạng rửa

tiền tại Việt Nam và tìm ra những khó khăn tồn đọng trong việc phòng chống rửa tiền

nhằm đề xuất những giải pháp khắc phục.

2. Mục tiêu nghiên cứu:

Nhiệm vụ quan trọng của đề tài là phải đạt được các mục tiêu sau đây:

- Hệ thống lại những lý luận cơ bản có liên quan đến rửa tiền.

- Đánh giá thực trạng về hoạt động rửa tại Việt Nam hiện nay, đồng thời nêu

những tồn đọng trong công tác phòng chống rửa tiền tại Việt Nam.

- Đưa ra những kiến nghị nhằm tháo gỡ khó khăn đồng thời cũng đưa ra những

giải pháp nhằm hỗ trợ phòng chống rửa tiền.

3. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như:

phương pháp phân tích và chủ yếu là tập hợp dữ liệu thứ cấp.

4. Phạm vi nghiên cứu:

- Xem xét khảo sát về hoạt động rửa tiền và luật phòng chống rửa tiền.

- Thực trạng về hoạt động rửa tiền tại Việt Nam.

5. Kết cấu nội dung nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu được trình bày thành 3 phần:

- Phần 1: Lời mở đầu

2

- Phần 2: Phần nội dung của đề tài, gồm 3 chương:

 Chương 1: Rửa tiền và những tác động tiêu cực đến nền kinh tế.

 Chương 2: Thực trạng về hoạt động rửa tiền ở Việt Nam hiện nay.

 Chương 3: Các giải pháp nhằm phòng chống rửa tiền ở Việt Nam.

- Phần 3: Kết luận chung.

6. Ý nghĩa của đề tài:

Việt Nam là một quốc gia hội tụ rất nhiều yếu tố thuận lợi cho hoạt động rửa tiền

như nền kinh tế tiền mặt, đang cần nhiều vốn đầu tư, hệ thống pháp luật còn nhiều lỗ

hỏng và đặc biệt là về luật phòng chống rửa tiền. Vì vậy, để hạn chế những thiệt hại có

thể do rửa tiền gây ra, Việt Nam cần đánh giá đúng và tìm ra “phương thuốc đặc trị”

cho căn bệnh rửa tiền. Đây chính là lý do em chọn đề tài này.

Tp.HCM, tháng 10 năm 2011

Đặng Kim Cương

3

CHƢƠNG 1:

RỬA TIỀN VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC

ĐẾN NỀN KINH TẾ.

1.1. Rửa tiền:

1.1.1. Lý luận chung về rửa tiền:

Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển công nghệ

thông tin hiện nay và khối lượng chu chuyển tài chính toàn cầu diễn ra ở mức khổng lồ,

khoảng 3.200 – 3.500 tỷ USD mỗi ngày, gấp 2 lần mức chu chuyển khoảng 10 năm

trước, thì vấn đề rửa tiền trở thành mối quan tâm không chỉ của cộng đồng quốc tế mà

còn là của Chính Phủ mỗi quốc gia.

Vậy rửa tiền là gì?

Trên thế giới có rất nhiều khái niệm về rửa tiền với những phạm vi và mức độ

khác nhau, nhưng theo cách hiểu phổ biến nhất thì “rửa tiền là hành động chuyển lợi

nhuận thu được từ những hoạt động phạm pháp sang lợi nhuận hợp pháp; bọn tội phạm

chuyển những khoản thu nhập bất hợp pháp có nguồn gốc từ: buôn lậu, ma túy, tống

tiền, mại dâm, trốn thuế, tham nhũng, hối lộ, mua bán vũ khí và cờ bạc bất hợp pháp, ...

vào hệ thống tài chính và nền kinh tế để biến thành những khoản tiền hợp pháp. Trong

điều kiện chống khủng bố hiện nay thì việc chuyển những khoản tiền hợp pháp để phục

vụ cho mục đích khủng bố cũng được coi là một dạng rửa tiền”.

Hay nói một cách ngắn gọn, tẩy rửa tiền là hành vi của bọn phạm tội tẩy rửa

những đồng tiền bất hợp pháp, hay còn gọi là “tiền bẩn”, thành những đồng tiền hợp

pháp – “tiền sạch”.

Hoặc cũng là cách hiểu khái quát, theo các chuyên gia của Ngân Hàng Phát

Triển Châu Á – ADB: “Rửa tiền là quá trình chuyển đổi qua nhiều giai đoạn khoản tiền

kiếm được từ những hoạt động bất hợp pháp hoặc tội phạm để nó có thể trở thành tiền

hợp pháp”.

4

Theo Liên Hiệp Quốc dựa vào công ước Vienna (1998) và công ước Palermo

(2000) được nhiều quốc gia đồng thuận nhất thì: “Rửa tiền chính là việc sử dụng (nghĩa

là với bất cứ hình thức nào của cả hành động cho và nhận) bất cứ tài sản nào mà nó

được cho là có nguồn gốc từ hoạt động hoàn toàn hay một phần của phạm tội mà có

hoặc từ hoạt động che đậy, trá hình nhằm giúp đỡ người phạm tội đó thoát khỏi luật

pháp”.

Tại Việt Nam, lần đầu tiên định nghĩa rửa tiền được quy định rõ ràng trong

khoản 1, điều 3 của Nghị Định số 74/2005/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền ngày 07

tháng 06 năm 2005 thì: “Rửa tiền là hành vi của cá nhân, tổ chức tìm cách hợp pháp

hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có thông qua các hoạt động cụ thể sau đây:

- Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài

sản do phạm tội mà có.

- Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển,

sử dụng, vận chuyển qua biên giới tiền, tài sản do phạm tội mà có.

- Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc

tìm cách khác che đậy, ngụy trang, hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật

sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội

mà có”.

Nói chung hoạt động rửa tiền được thực hiện theo một chu trình tam giác, để

hiểu rõ hơn chúng ta nên tìm hiểu về quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền.

1.1.2. Quy trình cơ bản của hoạt động rửa tiền:

1.1.2.1. Nguồn gốc tiền bẩn:

Do buôn lậu (vũ khí và hàng hóa), khủng bố, tài trợ khủng bố, buôn bán ma

túy, tham nhũng và hối lộ, mại dâm, buôn người, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, tống tiền,

trốn thuế, tội phạm tài chính, … mà có tiền.

1.1.2.2. Quy trình rửa tiền:

5

Để có thể nhận dạng đầy đủ đúng bản chất của hoạt động rửa tiền, chúng ta

cần phải hiểu những thuật ngữ liên quan đến hành vi rửa tiền.

Hành vi rửa tiền có liên quan đến 3 giai đoạn:

 Giai đoạn phân tán (Placement): Đây là thuật ngữ nói lên việc phân phối

nguồn tiền từ các hoạt động phi pháp vào trong hệ thống tài chính mà không gây ra sự

chú ý của các định chế tài chính và của các cơ quan chức năng. Các tội phạm rửa tiền

có thể thực hiện đầu tư phân tán bằng cách chia các khoản “tiền bẩn” thành nhiều số

lượng các khoản tiền nhỏ dưới mức quy định - Theo đề xuất của tổ chức chống rửa

tiền quốc tế là 15.000 USD hoặc EURO – và thường ở các ngân hàng có các quy chế

kiểm soát nội bộ yếu kém, hoặc là những ngân hàng có uy tín thấp. Thậm chí các tội

phạm rửa tiền còn thực hiện một cách hoàn hảo các kế hoạch của mình bằng cách

chuyển tiền vào những tài khoản của những đối tác mà những hóa đơn thu tiền của các

đối tác này sẽ không bao giờ có các hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng.

 Phân tán lòng vòng (Layering): Đây là thuật ngữ nói lên một quy trình tạo

ra một chuỗi các giao dịch nhằm mục đích che đậy các nguồn tiền từ các hoạt động phi

pháp và làm rối tung các dấu vết kiểm toán sau này.

Các kỹ thuật phân tán:

Thông thường là chuyển tiền điện tử ra nước ngoài, thường trực tiếp vào

những ngân hàng dễ dãi “bank secrecy haven” hoặc vào những chứng chỉ tiền gửi có

những quy chế pháp lý thông thoáng mà người chủ của nó sẵn sàng có thể rút ra vào

bất cứ lúc nào. Đó là những công cụ có tính thanh khoản rất cao như Séc du lịch chẳng

hạn. Bước kế tiếp, kẻ đồng lõa sẽ làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn nữa bằng cách

chuyển tiền điện tử tới những người nắm giữ những tài khoản bí mật – thường là ở

những quốc gia có quy tắc quản trị ngân hàng ngoại lỏng lẻo. Những người này sẽ cho

vay tiền tới những đối tác mà sau này sẽ hoàn trả lại bằng các hóa đơn “có vấn đề”.

 Hợp nhất (Integration): Đây là thuật ngữ nói lên giai đoạn cuối cùng của

việc rửa tiền, là việc phân phối trở lại vào nền kinh tế các nguồn tiền không thể lần ra

6

dấu vết được nữa. Giai đoạn này được tiến hành thông qua hàng loạt các hành vi tiêu

dùng xa hoa lãng phí, các chi tiêu đầu tư vào các doanh nghiệp và đầu tư tài chính. Thủ

đoạn của chúng lúc đầu thường chuyển đổi sang chi phí quảng cáo trên các phương tiện

thông tin đại chúng để tạo cho chúng vỏ bọc uy tín, làm ăn có lãi, tài trợ từ thiện, trả

lương hộ, đóng góp xây dựng hoặc mua bất động sản, mua ô tô đắt tiền, xây dựng các

công trình, … Sau đó bán lại để thu tiền, hay đóng góp cổ phần vào các công ty lớn,

sau đó chuyển nhượng cổ phần.

Hình 1.1: Quy trình của hoạt động rửa tiền.

Với những thủ đoạn tinh vi để hòng che dấu, chúng ta thấy không dễ để nhận

dạng được hết các hoạt động rửa tiền. Đấu tranh chống tội phạm rửa tiền như là một

cuộc đấu trí giữa một bên là cơ quan có nhiệm vụ chống rửa tiền, cơ quan hành pháp

với một bên là bọn tội phạm.

7

Tuy nhiên, hoạt động rửa tiền vẫn có thể nhận dạng được qua các biểu hiện

của chúng.

1.2. Những biểu hiện và cách thức rửa tiền:

1.2.1. Biểu hiện hoạt động rửa tiền:

Các hình thức cũng như địa chỉ rửa tiền được giới tội phạm quốc tế chọn lựa,

những công ty ma, những sòng bạc, nhà hàng, tiệm kim hoàn, đại lý mua bán xe ô tô,

các nhà môi giới tác phẩm nghệ thuật, các hoạt động xuất nhập khẩu … đều là những

địa chỉ rửa tiền quen thuộc.

Tuy nhiên, quân cờ được ưu chuộng nhất vẫn là ngân hàng Thụy Sĩ, với chất

lượng dịch vụ tốt và nguyên tắc tôn trọng bí mật khách hàng nổi tiếng vẫn được xem là

điểm đến tốt nhất của các “ông trùm” của các tội phạm quốc tế.

Áp dụng các điều khoản trong Nghị Định số 74/2005/NĐ-CP về phòng chống

rửa tiền ngày 07 tháng 06 năm 2005, đối với báo cáo giao dịch đáng ngờ, người nhận

biết khách hàng phải báo cáo trong thời gian tối đa là 48 giờ kể từ thời điểm phát sinh

giao dịch. Trường hợp phát hiện giao dịch được yêu cầu thực hiện có dấu hiệu liên

quan đến tội phạm thì người nhận biết khách hàng phải báo cáo ngay Cục phòng,

chống rửa tiền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua các hình thức văn bản,

điện tử, fax, thậm chí bằng điện thoại.

1.2.1.1. Các dấu hiệu đáng ngờ chung:

- Các bên liên quan tới giao dịch cung cấp thông tin nhận biết khách hàng

không chính xác, không đầy đủ, không nhất quán hoặc thuyết phục cá nhân, tổ chức

cung ứng dịch vụ không báo cáo giao dịch cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo

quy định của pháp luật.

- Không thể xác định được khách hàng theo thông tin khách hàng cung cấp

hoặc giao dịch liên quan đến một bên không xác định được danh tính;

8

- Số điện thoại cá nhân hoặc cơ quan của khách hàng không thể kết nối được

hoặc không có số máy này sau khi mở tài khoản hoặc thực hiện giao dịch;

- Các giao dịch được thực hiện theo lệnh hay uỷ quyền của cá nhân, tổ chức có

liên quan đến hoạt động tội phạm trong danh sách thống kê và cảnh báo do Bộ Công an

lập ra nhằm phòng ngừa, đấu tranh chống rửa tiền;

- Các giao dịch mà qua thông tin nhận biết khách hàng hoặc qua xem xét về cơ

sở kinh tế và pháp lý của giao dịch có thể xác định được mối liên hệ giữa các bên tham

gia giao dịch với các hoạt động phạm tội hoặc có liên quan tới cá nhân, tổ chức nêu tại

điểm d khoản này;

- Các cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch với số tiền có giá trị lớn không

tương xứng hoặc không liên quan tới hoạt động thường ngày hoặc hoạt động hợp pháp

của cá nhân, tổ chức này;

- Giao dịch không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

1.2.1.2. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực ngân hàng:

- Có sự thay đổi đột biến trong doanh số giao dịch trên tài khoản; tiền gửi vào

và rút ra nhanh khỏi tài khoản; doanh số giao dịch lớn trong ngày, nhưng số dư tài

khoản rất nhỏ hoặc bằng không;

- Các giao dịch chuyển tiền có giá trị nhỏ từ nhiều tài khoản khác nhau về một

tài khoản hoặc ngược lại trong một thời gian ngắn; tiền được chuyển lòng vòng qua

nhiều tài khoản; các bên liên quan không quan tâm đến phí giao dịch;

- Sử dụng thư tín dụng và các phương thức tài trợ thương mại khác có giá trị

lớn, chiết khấu với giá trị cao nhằm chuyển tiền giữa các quốc gia khi giao dịch này

không liên quan đến hoạt động thường xuyên của khách hàng;

- Pháp nhân không thực hiện giao dịch trong một thời gian dài trên tài khoản

kể từ khi mở;

9

- Chuyển lượng tiền lớn từ tài khoản ngoại hối của doanh nghiệp ra nước

ngoài sau khi nhận được nhiều khoản tiền nhỏ được chuyển vào bằng chuyển tiền điện

tử, séc, hối phiếu;

- Doanh nghiệp nước ngoài chuyển tiền ra nước ngoài ngay sau khi nhận được

vốn đầu tư hoặc chi trả tiền ra nước ngoài không phù hợp với tính chất hay nhu cầu của

hoạt động kinh doanh;

- Khách hàng thường xuyên đổi tiền có mệnh giá nhỏ sang mệnh giá lớn;

- Giao dịch gửi tiền, rút tiền hay chuyển tiền được thực hiện bởi cá nhân hay tổ

chức liên quan đến hoạt động bất hợp pháp mà thông tin đại chúng đã đăng tải;

- Thông tin về nguồn gốc tài sản sử dụng để tài trợ, đầu tư, cho vay, cho thuê

tài chính hoặc uỷ thác đầu tư của khách hàng không rõ ràng, minh bạch;

- Thông tin về nguồn gốc tài sản bảo đảm của khách hàng xin vay vốn không

rõ ràng, minh bạch;

- Tài khoản của khách hàng không giao dịch trên một năm, giao dịch trở lại

mà không có lý do hợp lý nào.

1.2.1.3. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực bảo hiểm:

- Khách hàng yêu cầu mua một hợp đồng bảo hiểm có giá trị lớn hoặc yêu cầu

thanh toán trọn gói phí bảo hiểm một lần đối với các sản phẩm bảo hiểm không áp

dụng hình thức thanh toán trọn gói, trong khi những hợp đồng bảo hiểm hiện tại của

khách hàng chỉ có giá trị nhỏ và thanh toán định kỳ;

- Khách hàng yêu cầu ký kết hợp đồng bảo hiểm với khoản phí bảo hiểm định

kỳ không tương xứng với thu nhập hiện tại của khách hàng, hoặc yêu cầu mua hợp

đồng bảo hiểm liên quan đến công việc kinh doanh nằm ngoài hoạt động kinh doanh

thông thường của khách hàng;

10

- Khách hàng mua hợp đồng bảo hiểm và thanh toán bằng séc ký phát từ một

tài khoản không phải là tài khoản cá nhân của khách hàng hoặc bằng các công cụ

chuyển nhượng không ghi tên;

- Khách hàng yêu cầu thay đổi những người hưởng lợi đã chỉ định hoặc người

thụ hưởng bằng một người không có mối quan hệ rõ ràng với người mua hợp đồng bảo

hiểm;

- Khách hàng yêu cầu vay số tiền tối đa được phép trên cơ sở bảo đảm bằng

hợp đồng bảo hiểm đóng phí một lần ngay sau khi thanh toán phí bảo hiểm, trừ trường

hợp tổ chức tín dụng yêu cầu;

- Công ty của khách hàng có thay đổi bất thường về hoạt động của nhân viên

hoặc đại lý hoặc mức hoạt động của hợp đồng đóng phí một lần liên tục vượt quá mức

trung bình của công ty;

- Các công ty bảo hiểm thường xuyên đền bù hoặc chi trả bảo hiểm với số tiền

lớn cho cùng một khách hàng;

1.2.1.4. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực chứng khoán:

- Giao dịch mua, bán chứng khoán có dấu hiệu bất thường trong một ngày

hoặc một số ngày do một cá nhân hay một tổ chức thực hiện;

- Khách hàng thực hiện chuyển nhượng chứng khoán ngoài hệ thống mà

không có lý do hợp lý;

- Công ty chứng khoán chuyển tiền không phù hợp với các hoạt động kinh

doanh chứng khoán;

- Tài khoản giao dịch chứng khoán của người không cư trú tại Việt Nam có

giá trị lớn được chuyền ra khỏi Việt Nam;

- Giao dịch mua, bán chứng khoán có nguồn tiền từ các quỹ đầu tư được mở ở

11

các vùng, lãnh thổ được các tổ chức quốc tế xếp loại là có nguy cơ rửa tiền cao.

1.2.1.5. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực trò chơi giải trí có thƣởng:

- Khách hàng có dấu hiệu liên tục cố tình thua khi tham gia các trò chơi có

thưởng tại điểm kinh doanh casino và điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng;

- Khách hàng đổi số lượng đồng tiền quy ước có giá trị lớn tại điểm kinh

doanh casino và điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng nhưng không tham gia

chơi hoặc chơi với số lượng rất nhỏ sau đó đổi lại thành tiền hoặc đổi lấy séc, hối phiếu

ngân hàng hoặc chuyển tiền đến tài khoản khác;

- Khách hàng yêu cầu chuyển tiền thắng cược, trúng thưởng cho bên thứ ba

không có mối quan hệ rõ ràng với khách hàng, đặc biệt khi bên thứ ba không ở cùng

nơi thường trú của khách hàng;

- Khách hàng bổ sung tiền mặt hoặc séc vào số tiền thắng cược, trúng thưởng

và yêu cầu sòng bạc, điểm kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng chuyển thành một

séc chung có giá trị lớn;

- Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu sòng bạc, điểm kinh doanh trò

chơi điện tử có thưởng đổi số lượng đồng tiền quy ước thành tiền có giá trị lớn mà

không có nguồn gốc rõ ràng;

- Khách hàng nhiều lần trong một ngày yêu cầu bên thứ ba đổi hộ số lượng

đồng tiền quy ước có giá trị lớn và nhờ bên thứ ba chơi cá cược hộ;

- Khách hàng nhiều lần trong một ngày mua vé xổ số, vé đặt cược, đổi đồng

tiền quy ước ở gần mức giới hạn giao dịch có giá trị lớn.

1.2.1.6. Các dấu hiệu đáng ngờ trong lĩnh vực bất động sản:

- Các giao dịch bất động sản là giao dịch ủy quyền nhưng không có cơ sở pháp

lý;

12

- Khách hàng tỏ ra không quan tâm đến giá cả bất động sản, phí giao dịch phải

trả;

- Khách hàng giao dịch không có ủy quyền nhưng không cung cấp được các

thông tin liên quan tới bất động sản, không muốn cung cấp bổ sung thông tin về nhân

thân;

- Giá cả thỏa thuận giữa các bên giao dịch không phù hợp giá cả thị trường.

1.2.2. Cách thức rửa tiền:

Việc thực hiện các chu trình rửa tiền thường thông qua một số hình thức nhất

định. Ở đây xin đề cập một số hình thức rửa tiền mà các tổ chức phạm tội trên thế giới

thường sử dụng. Đó là:

- Cơ cấu lại: Đây là hình thức tẩy rửa tiền thông dụng nhất. Nó liên quan đến

nhiều cá nhân, mỗi người giữ với một lượng tiền nhỏ hoặc mua hối phiếu ngân hàng

dưới 10.000 USD. Phương pháp này thông dụng ở Mỹ và Canada.

- Đổi tiền: Đổi tiền cung cấp một dịch vụ cho phép các cá nhân mua ngoại tệ, và

sau đó số ngoại tệ này được chuyển ra nước ngoài. Tiền cũng có thể được gửi qua

đường điện tín – tới các ngân hàng nước ngoài ở mọi nơi trên thế giới.

- Mua tài sản: Bọn chuyên rửa tiền thường mua những đồ vật đắt tiền như ô tô,

tàu thuyền, máy bay hoặc bất động sản. Trong nhiều trường hợp bọn tội phạm có thể sử

dụng bất động sản trên, nhưng thường đăng ký bất động sản này dưới tên người khác.

- Qua người môi giới cổ phiếu: Là hình thức mà bọn rửa tiền thông qua người

môi giới cổ phiếu dùng tiền mặt để mua một số lượng cổ phiếu lớn và sau đó chúng trở

thành cổ đông của các công ty cổ phần – chủ sở hữu hợp pháp.

- Chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền: Phương thức này cho phép

chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác hoặc sang quốc gia khác mà không phải mang

tiền đi.

13

- Rửa tiền trong các sòng bạc: Thông qua hình thức cá cược, đánh bạc, tiền

thắng bạc có thể được coi như có nguồn gốc hợp pháp.

- Làm sạch: Thông qua các cá nhân để đổi đồng tiền mệnh giá như lấy tiền có

mệnh giá lớn. Đây là một cách làm phổ thông, có thể đổi ở nhiều ngân hàng mà không

gây ra sự nghi ngờ.

- Kinh doanh hợp pháp: Bọn tội phạm tiến hành kinh doanh hoặc đầu tư kinh

doanh nhằm mục đích trộn lẫn số tiền thu được từ hoạt động phi pháp và hoạt động

kinh doanh hợp pháp. Dưới hình thức này, bọn tội phạm mua những nhà hàng, quán

bar, hộp đêm, khách sạn, quầy thu đổi tiền, các hãng máy móc, điểm rửa xe, …

Ngoài ra, bọn rửa tiền có thể thỏa thuận với người bán tài sản ghi trên hóa đơn

giá trị thấp hơn giá trị thực tế và hối lộ khoản chênh lệch cho người bán. Bằng cách

này, bọn tội phạm rửa tiền có thể mua một tài sản có giá trị lớn với giá thấp. Sau khi

giữ tài sản trên một thời gian thì bọn rửa tiền bán ra với giá trị thực của tài sản đó hoặc

cao hơn.

Đặc biệt trong xu thế phát triển thị trường tài chính mới (các công cụ phát sinh)

được củng cố và nâng cao thì các hình thức rửa tiền mới sẽ phát sinh và ngày càng khó

nhận diện. Điều này xảy ra là vì:

- Một khối lượng lớn “tiền bẩn” được giấu kín nguồn gốc.

- Chứng khoán tính lỏng cao có thể mua bán nhanh trong một thời gian ngắn

(có thể một vài lần trong một ngày làm việc).

- Mục đích của việc chuyển tiền khó đánh giá.

- Rất ít và không có thời gian để điều tra sự nghi ngờ.

14

Hình 1.2. Mô tả khái quát chu trình rửa tiền thông thường.

1.3. Những tác động tiêu cực của rửa tiền đến hoạt động của nền kinh tế xã hội:

Khách quan nhìn nhận từ quan điểm phân bố nguồn lực (tạm gác qua một bên

những phán đoán đạo lý và pháp luật), một số nhà kinh tế cực đoan (tôn sùng thị

trường) cho rằng không có tiền nào là “tiền bẩn”, tiền nào là “sạch”. Theo họ, “rửa

tiền” chỉ là phản ứng “hợp lý” của mọi “cá thể kinh tế”: không ai muốn trả thuế và ai

cũng muốn vận dụng tài sản của mình vào những hoạt động đem lại nhiều lợi nhuận;

như vậy, tiền bẩn theo họ đã giúp phát triển kinh tế.

Song ngay trên cơ sở thuần lý thuyết, ý kiến này là hoàn toàn sai lầm. Tự bản chất

của nó, sự phân bố tài nguyên do rửa tiền không chỉ theo tín hiệu lợi nhuận mà phần

lớn là để trốn tránh pháp luật.

1.3.1. Tác động của rửa tiền lên phát triển kinh tế:

Về mặt phát triển kinh tế, khối lượng “tiền bẩn” được “tẩy rửa” sẽ có tác động

xấu đến nền kinh tế qua 3 kênh chính như sau: Thứ nhất là làm xói mòn hệ thống tài

chính, thứ hai là tác động làm giảm hiệu quả của khu vực chính thức và thứ ba là tác

động đến khu vực nước ngoài bằng cách bóp méo giá cả và làm chệch hướng các dòng

vốn kinh tế.

15

1.3.1.1. Tác động lên hệ thống tài chính:

Tăng trưởng kinh tế và hệ thống tài chính có tương quan với nhau; một hệ

thống tài chính hiệu quả tức đồng thời là chi phí giao dịch thấp, độ sâu tài chính cao, cơ

chế sàn lọc được các dự án tốt và giảm thiểu thông tin bất cân xứng. Tất cả điều này sẽ

tăng tiết kiệm trong nền kinh tế và dẫn đến tăng lượng vốn đầu tư cũng như hiệu quả

đầu tư và cuối cùng tạo ra hiệu suất cao trong nền kinh tế. Rửa tiền sẽ làm suy yếu sự

phát triển của hệ thống tài chính bằng hai lý do:

- Thứ nhất, rửa tiền làm xói mòn chính bản thân nội tại của các tổ chức tài

chính. Điều dễ dàng nhận thấy mối quan hệ nguy hiểm giữa hành vi rửa tiền và cán bộ

phụ trách của các tổ chức tài chính. Một số lượng tiền có nhu cầu được rửa càng cao thì

tính nguy hiểm càng lớn thông qua các hành vi tham nhũng và các tìm kiếm đặc lợi

khác. Điều này làm thiên lệch các quyết định đầu tư tài chính và dẫn đến giảm hiệu quả

của hệ thống tài chính ở cấp vi mô lẫn vĩ mô.

- Thứ hai, đặc biệt ở các nước đang phát triển, lòng tin của khách hàng đối với

hệ thống tài chính là một yêu cầu quan trọng để phát triển hệ thống này qua thời gian.

Và như vậy, bất cứ một tín hiệu nào mà khách hàng cho rằng những định chế tài chính

là gian lận hoặc tiếp tay cho hoạt động gian lận này điều có thể làm suy sụp niềm tin và

có thể tổn hại đến cả hệ thống.

Trong tình trạng tồi tệ có thể dẫn đến khủng hoảng ngân hàng vì công chúng

sẽ cư xử theo tín hiệu tâm lý bầy đàn hoặc rút vốn hàng loạt nếu lòng tin này không

còn.

1.3.1.2. Tác động đến các hoạt động khu vực kinh tế chính thức:

Bên cạnh tác động đến hệ thống tài chính, rửa tiền còn tác động tiêu cực trực

tiếp đến tăng trưởng của khu vực kinh tế chính thức. Rửa tiền sẽ làm chệch hướng và

phân bổ nguồn lực trong khu vực chính thức kém hiệu quả.

Theo các báo cáo rửa tiền, phần lớn lượng tiền này được đem đi đầu tư ở

những khu vực như là “vô trùng” để đảm bảo tính an toàn hơn là suất sinh lợi. Những

16

khoản đầu tư này không những chỉ tạo ra ít hiệu suất cho nền kinh tế mà nó chệch

hướng cung và cầu tự nhiên của khu vực chính thức. Thường thì trong khu vực bất

động sản, các hoạt động nghệ thuật, nữ trang, đồ cỗ, và các ngành ô tô đắt tiền được

giới rửa tiền quan tâm.

Những dấu hiệu bất thường về cung hoặc cầu trong xã hội thường là do các

hoạt động bất chính gây ra, và rửa tiền là một hoạt động quan trọng tạo nên sự mất cân

đối trong xã hội này.

1.3.1.3. Tác động lên khu vực kinh tế đầu tƣ nƣớc ngoài:

Có hai tác động kinh tế chính của việc rửa tiền lên khu vực nước ngoài đối với

một nền kinh tế là làm giảm đầu tư nước ngoài và bóp méo giá cả ngoại thương. Việc

rửa tiền như chúng ta đã thảo luận ở trên phần lớn dính líu đến các hoạt động tham

nhũng. Và điều này dẫn đến những khuyến khích sai lệch trong danh mục đầu tư hoặc

lựa chọn đầu tư nước ngoài. Chính sự phân bố sai lệch này trong ngắn hạn làm giảm và

nản lòng các dòng vốn đầu tư chính thức và hiệu quả.

Kết quả này trong dài hạn làm nền kinh tế không tiếp thu được tác động lan

tỏa của đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như công nghệ, kỹ năng lao động, kiến thức và

các kênh phân phối quốc tế… điều mà đáng lý ra các nước đang phát triển rất cần đến

để bắt kịp các nước phát triển.

Ngoài việc làm phân bổ sai lệch danh mục đầu tư, các hoạt động rửa tiền

thông qua xuất nhập khẩu sẽ làm bóp méo giá cả ngoại thương. Về mặt lý thuyết, nếu

hiện tượng này lặp đi lặp lại và với số lượng lớn có thể dẫn đến làm thay đổi cơ cấu

kinh tế đất nước và tạo ra sự cân bằng giả tạo.

Một lúc nào đó, việc rửa tiền hoàn tất hoặc rút ra khỏi một nước đột ngột với

số lượng lớn có thể dẫn đến khủng hoảng tiền tệ hoặc khủng hoảng ngân hàng, chưa kể

đến những hệ quả như thay đổi tỷ giá hối đoái thực và làm mất cân bằng giữa khu vực

ngoại thương và phi ngoại thương.

1.3.2. Hoạt động rửa tiền gây tổn hại ngân sách quốc gia:

17

Về bản chất rửa tiền là che dấu nguồn gốc bất hợp pháp của một khoản tiền và

hiển nhiên đi kèm theo nó là hành vi trốn thuế. Thêm một khoản tiền bất hợp pháp

được “rửa sạch” là chính phủ phải mất đi một khoản thuế trên thu nhập đó.

Đồng thời chính phủ lại phải tiêu tốn ngân sách để giải quyết hậu quả của nạn

rửa tiền như buôn bán ma túy, vũ khí, … chính phủ phải tăng ngân sách để thực hiện

yêu cầu về việc thực thi pháp luật và tăng những chi phí cho việc chăm sóc sức khỏe

cộng đồng (điều trị cho người nghiện ma túy),…

1.3.3. Hoạt động rửa tiền làm suy yếu khu vực kinh tế tƣ nhân hợp pháp:

Những người rửa tiền đã trộn lẫn tiền bất chính vào các khoản tiền hợp pháp của

một số công ty ngụy trang. Những công ty này do có nguồn tiền bất chính để hỗ trợ nên

giá thành sản phẩm và dịch vụ thấp hơn thị trường rất nhiều. Do đó, các công ty này có

lợi thế cạnh tranh hơn các công ty hợp pháp, làm ăn chân chính khác.

Về lâu dài, khả năng tài chính của các công ty làm ăn lương thiện này không

chống cự được dẫn đến phá sản, các doanh nghiệp khác muốn đầu tư vào lĩnh vực này

nhưng không dám mạo hiểm; kết quả tất yếu là khu vực kinh tế tư nhân hợp pháp dần

dần suy yếu.

1.3.4. Những ảnh hƣởng tiêu cực khác do hoạt động rửa tiền:

Bản chất của hoạt động rửa tiền đã là phạm pháp. Mà tệ hại hơn là nó khuyến

khích các hoạt động phạm pháp tăng cao như buôn bán ma túy, khủng bố, tham

nhũng,…. Sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ và toàn cầu của dịch vụ tài chính góp

phần gia tăng mức độ tinh vi và phức tạp của hoạt động rửa tiền.

Hệ thống tài chính suy yếu, dẫn đến đời sống vật chất của người dân bị giảm

sút, danh tiếng của quốc gia cũng bị tổn hại đi.

1.4. Sự cần thiết thực hiện biện pháp phòng chống rửa tiền:

1.4.1. Nguyên nhân:

18

Rửa tiền không phải là một hiện tượng mới mẻ, nó cũng như chính tội ác. Từ

ngàn xưa, những kẻ phạm tội đều tìm cách che giấu nguồn gốc của các đồng tiền tội ác

hòng xóa sạch dấu vết của các hành động tội phạm của họ.

Ngày nay do sự bành trướng của nạn tham nhũng của nhiều quốc gia, nạn buôn

lậu vũ khí, nạn buôn bán ma túy trên toàn cầu với doanh số mỗi năm ước lượng đến

hàng trăm, hàng tỷ đô la Mỹ, thêm vào đó là các tổ chức khủng bố quốc tế với khả

năng tài chính và nhu cầu cung cấp tiền cho mạng lưới khủng bố trên toàn thế giới lớn,

đã khiến cho việc rửa tiền trở thành một dịch vụ “béo bở” cho một thị trường ngày

càng rộng lớn; do đó, ngày càng trở nên tinh vi hơn, khéo léo hơn với những kỹ thuật

cao cấp hơn.

Không những nó giúp cho những “ông hạm”, “ông trùm” thoát khỏi sự trừng

phạt của pháp luật, ngang nhiên trở thành những ông chủ giàu có, lương thiện mà còn

tạo điều kiện cho việc phát triển các mạng lưới khủng bố tại nhiều quốc gia và quốc tế.

Do đó, rửa tiền đang là một mối đe dọa nguy hiểm đặt ra cho toàn thế giới, đòi

hỏi sự hợp tác cũng mang tính chất toàn cầu của các quốc gia trên thế giới nhằm ngăn

chặn hiểm họa này.

1.4.2. Nguyên tắc thực hiện phòng, chống rửa tiền:

Tại Việt Nam, việc phòng, chống rửa tiền phải đảm bảo 2 nguyên tắc sau:

- Việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý rửa tiền phải thực hiện theo

đúng quy định của Pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia; bảo đảm

hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân, cơ quan, tổ chức; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm

phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.

- Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống rửa tiền phải trên nguyên tắc tôn

trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, các bên cùng có lợi và được thực hiện theo quy định

của Pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp các Điều ước Quốc tế mà nước Cộng Hòa Xã

Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.

19

1.4.3. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc trong phòng, chống rửa tiền:

Theo Nghị Định 74/NĐ-CP thì các cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm trong

phòng, chống rửa tiền và được quy định rõ như sau:

1.4.3.1. Trách nhiệm của Ngân Hàng Nhà Nƣớc Việt Nam:

- Chủ trì và phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng và trình cơ quan nhà

nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản quy phạm pháp

luật, chiến lược, chủ trương, chính sách, kế hoạch phòng, chống rửa tiền.

- Chịu trách nhiệm tổng hợp thông tin báo cáo Chính phủ định kỳ hàng năm và

khi được yêu cầu; chủ trì và phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện báo cáo

phương thức, cách thức rửa tiền của Việt Nam.

- Đầu mối, hỗ trợ, hợp tác chia sẻ thông tin với các cơ quan chức năng có thẩm

quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án liên

quan đến rửa tiền, tội phạm nguồn.

- Đầu mối thực hiện nghĩa vụ thành viên trong hoạt động hợp tác quốc tế về

chống rửa tiền của Chính phủ Việt Nam.

- Chủ trì thực hiện công tác đào tạo đội ngũ cán bộ của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam, cơ quan của Chính phủ, nhân viên của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân

hàng nước ngoài và cá nhân, tổ chức khác trong việc phát hiện và ngăn ngừa hành vi

rửa tiền.

- Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ thông

tin vào công tác phòng, chống rửa tiền.

1.4.3.2. Trách nhiệm của cơ quan thanh tra cấp bộ:

- Cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời theo đề nghị của Cục phòng, chống rửa

tiền và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xác minh, điều tra, truy tố, xét xử

liên quan đến tội phạm rửa tiền.

20

- Tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với cá nhân, tổ chức thuộc đối tượng quản lý

của bộ, ngành khi có giao dịch liên quan tới rửa tiền theo đề nghị của Cục phòng,

chống rửa tiền hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Thông báo ngay cho Cục phòng, chống rửa tiền bất kỳ thông tin nào liên quan

tới các giao dịch đáng ngờ.

- Xử lý theo thẩm quyền đối với hành vi vi phạm hành chính theo quy định của

pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

1.4.3.3. Trách nhiệm của Ủy Ban Nhân Dân các cấp:

- Hướng dẫn các đơn vị, bộ phận trực thuộc nghiên cứu, thực hiện các quy định

tại Luật này trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.

- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền triển khai và đôn

đốc thực hiện các chính sách, đường lối, chiến lược, kế hoạch phòng, chống rửa tiền.

- Xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống

rửa tiền theo thẩm quyền.

1.4.3.4. Trách nhiệm của Viện Kiểm Sát:

- Bảo đảm quyền thực hành công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử đối với

các vụ án về rửa tiền và tội phạm nguồn.

- Phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện việc kê biên, phong tỏa, tịch thu

tài sản liên quan đến tội phạm rửa tiền.

- Thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị với các cơ quan, đơn vị liên quan về

những vi phạm liên quan đến rửa tiền và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm

và vi phạm pháp luật về phòng, chống rửa tiền.

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Tòa án nhân

dân tối cao và cơ quan hữu quan thực hiện thống kê tội phạm về rửa tiền.

1.4.3.5. Trách nhiệm của Tòa án.

21

Tòa án trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình xử lý kịp thời,

nghiêm minh hành vi rửa tiền và vi phạm pháp luật khác về phòng, chống rửa tiền; phối hợp

với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong đấu tranh phòng, chống rửa tiền.

1.4.3.6. Trách nhiệm Bộ Công an.

- Chủ trì và phối hợp với các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan trong phát

hiện, điều tra tội phạm về rửa tiền;

- Chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, Tòa án nhân dân tối cao xác định và công bố danh sách tội phạm nguồn của tội

rửa tiền.

- Tiếp nhận và xử lý thông tin về tội phạm liên quan đến rửa tiền do Cục phòng,

chống rửa tiền và các cơ quan có liên quan chuyển đến theo quy định của Luật này.

- Chủ trì công tác đào tạo cán bộ điều tra, truy tố, xét xử trong lĩnh vực chống

rửa tiền; công bố thông tin về kết quả điều tra các vụ việc rửa tiền theo quy định của

pháp luật.

- Thường xuyên trao đổi thông tin, tài liệu cần thiết về phương thức, thủ đoạn

hoạt động mới của tội phạm rửa tiền trong nước và nước ngoài với Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam qua Cục phòng, chống rửa tiền.

1.4.3.7. Trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ:

- Bộ Công an và các bộ, cơ quan ngang bộ khác trong phạm vi, quyền hạn của

mình có trách nhiệm phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện quản lý

nhà nước về phòng, chống rửa tiền; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc

quyền quản lý của mình thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.

- Phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cá nhân, tổ chức, cơ quan

khác trong phòng, chống rửa tiền.

- Phối hợp và hỗ trợ các cơ quan thuộc Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối

cao, Tòa án nhân dân tối cao trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm rửa tiền.

22

- Trước ngày 31 tháng 12 hàng năm, tổng hợp, lập báo cáo công tác phòng,

chống rửa tiền thuộc lĩnh vực quản lý của mình và gửi về Ngân hàng Nhà nước Việt

Nam để tổng hợp trình Chính phủ.

1.5. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền trên thế giới:

1.5.1. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền tại Mỹ:

Mỹ là nước có hệ thống luật pháp về phòng, chống rửa tiền toàn diện và nghiêm

khắc nhất thế giới mà tất cả các định chế tài chính và nhân viên của họ đều phải tuân

theo.

Một trong những đạo luật quan trọng nhất liên quan đến phòng, chống rửa tiền

là Luật bí mật ngân hàng (BSA) năm 1970 và những quy tắc của nó. Mục đích của

BSA là tạo ra một văn bản pháp lý tạo điều kiện điều tra tội phạm rửa tiền, trốn thuế…

bằng cách yêu cầu các tổ chức tài chính phải lưu giữ những chứng từ liên quan đến

giao dịch trên 10.000 USD. Sau đó, luật được sửa đổi cho phép Chính phủ và các cơ

quan chức năng có thể hạ thấp mức chuẩn 10.000 USD trong các cuộc điều tra.

Một số luật quan trọng khác trong việc phòng, chống rửa tiền tại Mỹ gồm Luật

quản lý toàn diện tội phạm năm 1984, Luật quản lý rửa tiền năm 1986, Luật chống sử

dụng ma túy năm 1988, Luật chống rửa tiền Annunzio-Wylie năm 1992. Những luật và

quy định về phòng, chống rửa tiền tại Mỹ luôn được bổ sung, sửa chữa cho phù hợp

với những thay đổi của tội phạm rửa tiền.

Luật chống rửa tiền quy định nghĩa vụ của tất cả các đối tượng, từ các cá nhân

đến các tổ chức khi phát hiện có sự tham gia vào bất kỳ hoạt động rửa tiền nào và là

căn cứ để tịch thu, sung quỹ tiền và tài sản liên quan đến hoạt động rửa tiền. Việc

không tuân thủ những quy tắc và luật lệ liên quan đến hoạt động phòng, chống rửa tiền

của các nhân viên của các tổ chức tín dụng có thể dẫn tới bị phạt dân sự và hình sự:

- Về mặt dân sự, nhân viên ngân hàng có thể bị phạt tới 100.000 USD cho việc

cố tình vi phạm những quy định về báo cáo và lưu giữ chứng từ của BSA.

23

- Về hình sự, người vi phạm có thể bị phạt tiền tới 250.000 USD, 5 năm tù hoặc

cả hai.

Một trong những vụ sớm nhất và nổi tiếng nhất liên quan đến việc ngân hàng bị

phạt do vi phạm các quy định và luật lệ liên quan đến hoạt động rửa tiền tại Mỹ là

trường hợp Ngân hàng Boston. Mặc dù đã được yêu cầu phải tuân thủ chặt chẽ hơn

trong việc lưu giữ các chứng từ giao dịch vào năm 1980, song Ngân hàng Boston vẫn

tiếp tục giao dịch với các ngân hàng nước ngoài, bao gồm cả các ngân hàng đại lý của

nó mà không hề lưu giữ sơ chứng từ đến tận năm 1984.

Nghiêm trọng hơn, các chi nhánh của Ngân hàng Boston đã tiếp tục thực hiện

những giao dịch với những tội phạm nổi tiếng qua nhiều năm. Những nhân vật này đã

thực hiện những phi vụ kinh doanh bất động sản, nhưng nhân viên của Ngân hàng

Boston đã không loại trừ theo các quy định và luật lệ về tài chính. Đến năm 1985,

Ngân hàng Boston mới thực hiện đúng các yêu cầu về phòng, chống rửa tiền theo các

quy định, luật lệ nên cuối cùng đã bị kết án và bị phạt 500.000 USD.

Vào ngày 27 tháng 9 năm 2010, Bộ Tài chính Mỹ tuyên bố sẽ yêu cầu các ngân

hàng tại Mỹ phải công bố tất cả giao dịch tiền tệ điện tử ra và vào nước Mỹ. Luật pháp

Mỹ đã quy định các ngân hàng và tổ chức tài chính phải báo cáo các giao dịch tiền mặt

trị giá trên 10.000 USD và các giao dịch mờ ám, cũng như ghi nhớ mọi giao dịch điện

tử trị giá trên 3.000 USD để báo cáo chính quyền khi cần thiết. Mỗi năm, các công ty

tài chính báo cáo lên Bộ Tài chính 1,3 triệu giao dịch mờ ám và 14 triệu giao dịch trên

10.000 USD.

Các quan chức Mạng lưới chống tội phạm tài chính (FinCEN) thuộc Bộ Tài

chính Mỹ cho biết bằng việc tạo ra hệ thống dữ liệu trung ương, “quy định mới sẽ giúp

nhà chức trách phát hiện và triệt phá các giao dịch tài chính của các nhóm tội phạm có

tổ chức, băng đảng ma túy, tài trợ khủng bố và trốn thuế quốc tế”, như giám đốc

FinCEN James H. Freis Jr. khẳng định. Các quy định mới sẽ được áp dụng từ năm

2012 và có hiệu lực với 300 ngân hàng cùng 700 công ty tài chính Mỹ. Các chuyên gia

24

FinCEN mô tả các quy định cũ chỉ giúp nhìn thấy cây, còn quy định mới giúp nhìn

thấy rừng.

Ví dụ: Theo chuyên gia FinCEN Steve Hudak, nhà chức trách Mỹ hiện chưa

biết có bao nhiêu tiền được chuyển qua bất kỳ quốc gia nào hằng năm. “Một người có

thể sử dụng 10 ngân hàng để chuyển từng khoản tiền ở mức không bị nghi ngờ tới hàng

chục tài khoản khắp nơi trên thế giới”, chuyên gia Hudak cho biết.

1.5.2. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền tại Anh:

Tại Anh, các định chế tài chính cũng hoạt động theo những quy định về phòng,

chống rửa tiền tương tự như tại Mỹ.

Tháng 12 năm 1990, nước Anh ban hành một loạt văn bản hướng dẫn các ngân

hàng trong việc phát hiện và chấm dứt các hoạt động rửa tiền, trong đó tập trung chủ

yếu vào các nhiệm vụ của ngân hàng trong việc cảnh báo cho các cơ quan quyền lực

những hoạt động và giao dịch đáng ngờ.

Các hướng dẫn này được xây dựng bởi Ngân hàng Trung Ương Anh và các

ngân hàng thương mại với sự phối hợp, tham gia của Cơ quan tình báo quốc gia, hải

quan, cảnh sát. Theo đó, ngân hàng phải đích thân nhận dạng tất cả các khách hàng

bằng mọi cách có thể, kể cả bằng cách gặp mặt trực tiếp.

Hướng dẫn cũng chỉ rõ các cách thức xác nhận thông tin cá nhân, trong đó hộ

chiếu là hình thức được ưu tiên, ngoài ra các hình thức khác cũng được chấp nhận như

thẻ nhân viên, bằng lái xe…. Hơn nữa, các ngân hàng phải lưu giữ tất cả các chứng từ

giao dịch trong 6 năm để phục vụ điều tra.

Cũng giống như tại Mỹ, việc không tuân theo những hướng dẫn và các luật, quy

định sẽ dẫn tới những trách nhiệm pháp lý. Những trách nhiệm pháp lý dân sự có thể

nảy sinh nếu vi phạm những quy định về sự bảo mật của khách hàng. Hướng dẫn tại

Anh chỉ ra rằng các nhân viên của các định chế tài chính phải hợp tác một cách toàn

diện với các cơ quan pháp luật và phải thông báo trước cho các cơ quan này các giao

dịch đáng ngờ. Trong khi các ngân hàng là chủ thể chính, các tổ chức tài chính khác

25

như công ty bảo hiểm, tổ chức môi giới... cũng phải thực hiện theo những hướng dẫn

này.

Những quy định, luật lệ liên quan đến phòng, chống rửa tiền tại Anh bao gồm

Luật chống buôn bán ma túy năm 1986, Luật phòng, chống khủng bố năm 1987, Luật

hình sự (Hợp tác quốc tế) năm 1990 và Luật hình sự năm 1993

- Bộ luật đầu tiên 1986 cho phép cảnh sát có quyền điều tra những tài sản đáng

ngờ có liên quan đến ma túy, phong tỏa chúng và khi có chứng cớ sẽ tịch thu những tài

sản này.

- Luật phòng, chống khủng bố năm 1987 quy định sẽ kết tội những người sử

dụng hoặc sở hữu quỹ khủng bố.

- Luật hình sự năm 1990 cho phép kết tội những người che giấu, biển thủ,

chuyển nhượng hoặc vận chuyển những tài sản hoặc giúp đỡ người khác làm việc đó

khi biết hoặc nghi ngờ những tài sản do phạm tội buôn bán ma túy mà có.

- Luật hình sự năm 1993 mở rộng quyền lực của tòa án trong việc kết tội rửa

tiền như một tội phạm hình sự.

Hệ thống luật lệ ngân hàng và các hướng dẫn thực hành giám sát của cộng đồng

Châu Âu yêu cầu tất cả các nhân viên ngân hàng đều phải nhận biết khách hàng của họ;

đồng thời cải thiện hệ thống lưu giữ chứng từ, ngăn chặn kịp thời những hành động

đáng ngờ và tập huấn các nhân viên để họ tuân theo các luật lệ ngân hàng một cách chủ

động và có thể nhận biết, báo cáo các hành động rửa tiền.

1.5.3. Kinh nghiệm về luật phòng, chống rửa tiền tại một số nƣớc khác:

Nước Úc cũng thực hiện hệ thống báo cáo giao dịch tiền tệ tương tự như tại Mỹ.

Bất kỳ một giao dịch tiền tệ nào tương đương hoặc lớn hơn 10.000 USD đều phải báo

cáo. Những dữ liệu này sau đó được truyền tự động tới Cơ quan báo cáo giao dịch tiền

tệ.

Tại Nhật, các ngân hàng được yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tiền tệ

trong nước vượt quá 30 triệu Yên và các giao dịch tiền tệ quốc tế vượt quá 5 triệu Yên.

26

Hơn nữa, trong trường hợp liên quan đến ma túy, tòa án có thể kết án ngân hàng và các

tổ chức tín dụng về tội rửa tiền.

Các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Myama, Indonesia,

Philippine đều có các văn bản về chống rửa tiền với những phạm vi và mức độ khác

nhau. Các nước này cũng đã thành lập những cơ quan chuyên trách riêng xử lý vấn đề

liên quan đến phòng, chống rửa tiền như AMLO hay AMLC. Các cơ quan này có chức

năng chủ yếu là thu thập và xử lý thông tin liên quan đến tài sản liên quan đến buôn

bán ma túy và rửa tiền.

27

Kết luận chƣơng 1

Qua chương này chúng ta đã phần nào hình dung được thế nào là rửa tiền, nó được

thực hiện như thế nào và hậu quả to lớn do nạn rửa tiền gây ra. Bên cạnh đó, cũng khái

quát về cái nhìn của ngành ngân hàng về rửa tiền.

Để đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm phòng chống nạn rửa tiền, trước hết

chúng ta hãy xem xét thực trạng về hoạt động rửa tiền tại Việt Nam hiện nay.

28

CHƢƠNG 2:

THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

2.1. Quá trình ra đời các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động phòng,

chống rửa tiền ở Việt Nam:

“Rửa tiền” không còn là hiện tượng xảy ra trong phạm vi một quốc gia mà là hiện

tượng ngày càng mang tính chất quốc tế nên cần có sự phối hợp không chỉ ở các tổ

chức trong nước mà cần có sự hợp tác quốc tế. Điều này thể hiện trước hết ở các văn

bản pháp quy chống “rửa tiền”.

Đứng trên phương diện quốc tế, văn bản pháp quy mang tính chất phổ biến được

nhiều quốc gia biết đến là Khuyến nghị về chống “rửa tiền” của FATF – tổ chức hay

lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền và tội phạm tài chính. Những khuyến

nghị này được xem là các phương pháp cơ bản cho việc thiết lập các khuôn khổ pháp

lý chống lại việc “rửa tiền” với các nội dung cơ bản sau:

* Từ khuyến nghị 1 đến khuyến nghị 3 là các quy định chung, khuyến nghị các

quốc gia nên từng bước và tiến tới thực hiện đầy đủ 40 khuyến nghị này. Yêu cầu đặt

ra là: các quy định trong luật bảo vệ khách hàng của các tổ chức tín dụng không cản trở

việc thực hiện các quy định về phòng, chống rửa tiền. Để chương trình phòng, chống

rửa tiền đạt kết quả cao cần có sự nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống

xét xử tội phạm nói chung.

* Từ khuyến nghị 4 đến khuyến nghị 6 là các quy định nêu lên phạm vi hoạt

động phạm tội rửa tiền, khuyến nghị các quốc gia tạo lập các cơ sở pháp lý cho việc

chống “rửa tiền” và bổ sung hoàn thiện các cơ sở pháp luật này nhằm đảm bảo các quy

định luôn phù hợp với tình hình thực tiễn và sự phát triển của xã hội. Danh mục các

loại tội phạm dẫn đến hành vi “rửa tiền” cần được xác định và bổ sung theo mức độ

hành vi phức tạp của hoạt động phạm tội của từng thời kỳ.

29

* Khuyến nghị 7 nêu lên chính sách pháp lý cho việc xử lý, tước đoạt xung công

các tài sản và thu nhập bất hợp pháp trong các vụ “rửa tiền” và các văn bản hợp tác

quốc tế. Mặt khác, khuyến nghị cũng nêu lên việc thực hiện tốt các văn bản pháp quy

quy định về việc thực hiện các hợp đồng kinh tế. Việc áp dụng tốt các chế tài áp dụng

đối với các vi phạm hợp đồng kinh tế có tác dụng tích cực, thúc đẩy việc thực hiện các

quy định về chống rửa tiền.

* Khuyến nghị 8 và khuyến nghị 9 là quy định về các đối tượng phải thực hiện

các quy chế giám sát tài chính và thực hiện nhận dạng khách hàng, lưu giữ hồ sơ về các

giao dịch đáng ngờ. Theo khuyến nghị, việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính nên

được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Việc

thực hiện cơ chế giám sát tài chính, phát hiện và tố giác các khách hàng và các giao

dịch đáng ngờ không có tính chất bắt buộc nhưng được khuyến khích thực hiện ở các

doanh nghiệp và ở các tổ chức tài chính chuyên ngành khác. Danh mục các hoạt động

tài chính bắt buộc phải thực hiện nhận dạng khách hàng gửi báo cáo đến các nhà chức

trách chống rửa tiền và lưu giữ hồ sơ, các giao dịch đáng ngờ được Chính phủ các nước

xác định và bổ sung phù hợp với bối cảnh cụ thể.

* Khuyến nghị 10 đến khuyến nghị 13 nêu lên cách thu thập thông tin nhận dạng

khách hàng (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) và quy định thời hạn lưu giữ hồ sơ, thông

tin về khách hàng và các lần giao dịch (ít nhất là 5 năm) mà các tổ chức hoạt động tài

chính phải thực hiện. Nguyên tắc chung là không cho mở tài khoản thực hiện ủy thác

và cho thuê két sắt an toàn dưới các tên giả hoặc khuyết danh, các thông tin cơ bản của

khách hàng bao gồm: tên, địa chỉ, ..., căn cứ vào các giấy tờ tài liệu chính thức như: đối

với cá nhân có thể là giấy chứng minh thư, hộ chiếu, giấy phép lái xe; đối với các tổ

chức có thể là các giấy phép thành lập công ty, ngành nghề kinh doanh, nơi đóng trụ sở

chính ... Đối với những khách hàng có những thông tin chưa rõ ràng, tổ chức tài chính

cần tiến hành thẩm tra nhằm có được những thông tin trung thực nhất về khách hàng,

việc lưu giữ thông tin phải đáp ứng được việc tái hiện lại từng phần giao dịch (thời

30

gian, số lượng và tiền tệ trong các lần giao dịch đó) của khách hàng phục vụ tốt nhất

cho việc điều tra khi có yêu cầu của nhà chức trách.

* Từ khuyến nghị 14 đến khuyến nghị 19 nêu lên các hình thức động viên, khen

thưởng các tổ chức – tài chính thực hiện tốt các quy định chống rửa tiền và các quy

định pháp lý bảo vệ các tổ chức và cá nhân thực hiện các quy định chống rửa tiền. Các

quy định về kiểm soát nội bộ để tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống, quy định

cấm tổ chức và cá nhân cảnh báo với khách hàng về các thông tin đáng ngờ đã báo cáo.

* Từ khuyến nghị 20 đến khuyến nghị 21 nêu lên việc thực hiện các quy định

chống rửa tiền đối với các tổ chức chi nhánh hoạt động tại các nước không có hoặc

chưa có đủ các quy định chống rửa tiền.

* Từ khuyến nghị 22 đến khuyến nghị 25 nêu một số biện pháp phòng ngừa

khác.

* Từ khuyến nghị 26 đến khuyến nghị 29 nêu mối quan hệ qua lại giữa việc thực

hiện các quy định chống rửa tiền với các quy định khác về xử phạt hành chính hoặc xử

lý các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế...

* Từ khuyến nghị 30 đến khuyến nghị 40 nêu lên các quy định về tăng cường

hợp tác quốc tế, như các quy định về trao đổi thông tin, quy định về điều tra, định giá,

thu hồi tài sản và thu nhập bất hợp pháp tham gia vào các vụ rửa tiền, các quy định về

nguyên tắc xét xử, địa điểm xét xử và tỷ lệ phân chia tài sản tịch thu khi có các vụ

phạm tội xuyên quốc gia và các quy định về dẫn độ tội phạm.

Các khuyến nghị này được coi như là cẩm nang cho các quốc gia trong việc chống

nạn “rửa tiền”.

Đứng trên phương diện quốc gia, mỗi quốc gia cần có văn bản pháp quy chuyên

về lĩnh vực chống rửa tiền như các Nghị định chống “rửa tiền”, các đạo luật, bộ luật về

chống “rửa tiền”. Do thu nhập của bọn tội phạm “làm sạch” là các thu nhập từ các hoạt

động bất chính nên các văn bản pháp quy về chống rửa tiền cần có sự thống nhất với

các văn bản đã có về chống các loại hình tội phạm như bộ luật hình sự, luật dân sự.

31

Tại Việt Nam, lần đầu tiên định nghĩa rửa tiền được quy định rõ ràng trong khoản

1, điều 3 của Nghị Định số 74/2005/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền ngày 07 tháng 06

năm 2005.

Sau đó là hàng loạt các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động phòng, chống

rửa tiền ở Việt Nam những năm gần đây :

- Điều 11 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12 ngày

29/6/2010) về trách nhiệm phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố.

- Thông tư số 148/2010/TT-BTC ngày 24/9/2010 của Bộ Tài chính hướng dẫn

thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền đối với lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán

và trò chơi giải trí có thưởng.

- Quyết định số 470/QĐ-TTg ngày 13/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc

thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền.

- Quyết định số 378/QĐ-NHNN ngày 08/3/2011 ban hành Kế hoạch thực hiện

công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố trong ngành Ngân hàng.

- Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc

sửa đổi, bổ sung Quyết định số 1451/QĐ-TTg ngày 12/8/2010 về việc ban hành Kế

hoạch hành động Quốc gia về chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.

- Quyết định số 163/QĐ-BCĐPCRT ngày 12/4/2010 ban hành Quy chế hoạt động

của Ban chỉ đạo phòng, chống rửa tiền.

- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật Hình sự của Quốc hội Khóa XII

kỳ họp thứ 5 số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009.

- Chương trình TRAML và hướng dẫn sử dụng.

- Thông tư 22/2009/TT-NHNN, ngày 17/11/2009 Hướng dẫn các biện pháp

phòng chống rửa tiền Đính kèm: - Báo cáo các giao dịch nộp tiền mặt có tổng giá trị từ

200.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo các giao dịch rút tiền mặt có tổng giá trị từ

200.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo các giao dịch gửi hoặc rút tiết kiệm bằng tiền mặt

có tổng giá trị từ 500.000.000 đồng trở lên; - Báo cáo giao dịch đáng ngờ.

32

- Văn bản mới nhất hiện nay là Dự Thảo Luật Phòng Chống Rửa đang được đưa

ra để lấy ý kiến đóng góp.

2.2. Hội nhập quốc tế phát sinh hoạt động rửa tiền ở nƣớc ta:

2.2.1. Tự do hóa dòng chu chuyển vốn quốc tế và nguy cơ rửa tiền:

2.2.1.1. Tự do hóa các giao dịch vãng lai và nguy cơ rửa tiền:

Một trong những cải cách triệt để nhất trong Pháp lệnh ngoại hối có liên quan

đến giao dịch vãng lai là vấn đề đơn giản hóa các thủ tục cấp giấy phép mua chuyển

ngoại tệ ra nước ngoài của cá nhân. Theo đó người cư trú sẽ được phép tự do hơn nữa

trong việc mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Đối với người không cư trú và người

cư trú là người nước ngoài có ngoại tệ tương ứng có các nguồn thu hợp pháp bằng

đồng Việt Nam thì được mua ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài. Đây là một bước đột

phá mới trong quá trình tiến tới tự do hóa hoàn toàn các giao dịch vãng lai bởi trước

đây khi các doanh nghiệp và các cá nhân có nhu cầu ngoại tệ trong các giao dịch vãng

lai đều phải xin Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) cấp phép.

Chủ trương xóa bỏ việc cấp giấy phép mua chuyển ngoại tệ ra nước ngoài một

mặt phù hợp với những cam kết của Chính phủ với các đối tác quốc tế trong quá trình

xóa bỏ những rào cản trong các giao dịch thương mại nhưng mặt khác chúng lại tạo ra

một nguy cơ mới cho các loại tội phạm lợi dụng kẽ hở này để thực hiện những hành vi

rửa tiền ở quy mô lớn.

Trong điều kiện hệ thống quản trị rủi ro và năng lực của các ngân hàng thương

mại ở nước ta vẫn còn đang rất yếu kém thì việc nhận diện những nguồn gốc từ các

hành vi rửa tiền của các khách hàng quả thật không phải đơn giản. Các tội phạm rửa

tiền có khả năng qua mặt hệ thống kiểm soát của các định chế tài chính và các ngân

hàng bằng cách chia các khoản ngoại tệ ra thành nhiều các khoản nhỏ và sau đó chuyển

dần ra nước ngoài.

2.2.1.2. Tự do hóa tài khoản vốn và nguy cơ rửa tiền:

* Cá nhân đƣợc vay vốn nƣớc ngoài:

33

Trước hết, vấn đề mà người dân và nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất trong các

giao dịch vốn là việc Chính phủ cho phép các cá nhân được vay nợ nước ngoài. Theo

Pháp lệnh ngoại hối sè: 28/2005/PL-UBTVQH11, thì “người cư trú là tổ chức

kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân được vay, trả nợ nước ngoài theo nguyên tắc tự

vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ phù hợp với quy định của pháp luật”.

Những quan điểm ủng hộ cho phép cá nhân được vay nợ nước ngoài là do hiện

nay và trong tương lai Việt Nam cần phải tranh thủ một lượng lớn kiều hối từ nước

ngoài chuyển vào Việt Nam. Nhiều Việt kiều có nhu cầu đầu tư vốn kinh doanh vào

Việt Nam hoặc muốn cho thân nhân vay, mượn vốn nhưng không có điều kiện kinh

doanh dưới hình thức đầu tư cho thân nhân ở Việt Nam thì pháp luật lại chưa có quy

định. Chính vì những bất cập như trên nên đã có rất nhiều trường hợp người dân trong

nước vay nợ nước ngoài dưới hình thức trá hình là chuyển tiền kiều hối, rồi sau đó trả

nợ bằng cách chuyển tiền bất hợp pháp ra nước ngoài.

Thực tế này đòi hỏi Chính phủ phải đứng trước hai khả năng hoặc là ngăn cấm

các giao dịch này, hoặc là phải hợp pháp hóa việc vay nợ nước ngoài của cá nhân để có

thể quản lý được luồng vốn vay:

- Khả năng thứ nhất, ngăn cấm – hầu như không thể xảy ra vì chúng đi

ngược lại với xu thế hội nhập, hơn nữa cũng không thể ngăn cấm được.

- Khả năng thứ hai, không có cách nào khác, là Chính phủ phải ủng hộ việc

cho phép cá nhân được vay trả nợ nước ngoài để tranh thủ một cách công khai và hợp

pháp các nguồn kiều hối này.

Trên thực tế, trong năm 2010 lượng kiều hối gửi về nước đạt mức kỷ lục: trên

8 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay (năm 2008: 7,2 tỷ USD, 2009: 6,3 tỷ USD). So

với mức cao nhất trước đó của năm 2008 kiều hối tăng hơn 11% (so với 2009 tăng

27,4%); thì có một số lượng lớn kiều hối đã chuyển vào Việt Nam bằng con đường phi

chính thức. Theo đánh giá, lượng kiều hối phi chính thức này rất đa dạng và thường thể

34

hiện dưới hình thức để cho các cá nhân trong nước là thân nhân, bạn bè vay dưới hình

thức vay nợ.

Việc cấm đoán các mối quan hệ này là không thể, chính vì thế tự do hóa hoàn

toàn các giao dịch vay mượn quốc tế cho các cá nhân là điều cần thiết. Hơn nữa chúng

cũng phù hợp với chủ trương không phân biệt các khu vực và thành phần kinh tế trong

các quy phạm pháp luật hiện nay.

Dễ thấy ngay rằng nguy cơ rửa tiền từ chủ trương nới lỏng này là rất cao. Các

tội phạm trong nước và quốc tế giờ đây đã có thêm một miền đất hứa mới mà trước đây

họ khó có cơ may xâm nhập để có thể thực hiện các hành vi rửa tiền ngay trên lãnh thổ

Việt Nam thông qua các mối quan hệ cá nhân. Đây chính là những mối quan hệ khó

kiểm soát nhất và trong bối cảnh cơ chế giám sát của các định chế tài chính và của các

cơ quan chức năng như công an tư pháp vẫn còn chưa theo kịp với những yêu cầu mới

của một dạng tội phạm kinh tế mới.

* Cá nhân đƣợc cho vay và đầu tƣ ra nƣớc ngoài:

Khi đã chấp nhận cho các cá nhân vay nợ nước ngoài thì cũng có nghĩa là

chúng ta tiếp tục cho phép họ được quyền cho vay và thu hồi nợ nước ngoài. Nói một

cách khác quá trình đi vay, cho vay và trả nợ nước ngoài chính là một bước cụ thể hóa

hơn nữa những chủ trương tự do hóa đến mức cao nhất có thể được các giao dịch trên

tài khoản vốn.

Như vậy việc cho phép các cá nhân được phép vay nợ nước ngoài đã tạo ra

một nguy cơ cho các hoạt động rửa tiền quốc tế xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, đồng

thời việc cho phép các cá nhân được tự do cho vay và trả nợ nước ngoài tạo ra một

nguy cơ rửa tiền từ trong nước ra quốc tế.

Một chủ trương khác có tác động rất lớn đến các hoạt động rửa tiền là vấn đề

cho phép các tổ chức và các cá nhân đầu tư ra nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp

ra nước ngoài hiện đang được điều chỉnh bởi Luật Đầu tư và Nghị định 78/NĐ-CP

ngày 9 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định về đầu tư ra nước ngoài.

35

Tuy nhiên, các cá nhân được phép đầu tư ra nước ngoài, khả năng Chính phủ

không kiểm soát được hết các giao dịch này và do đó dẫn đến một nguy cơ làm thất

thoát vốn và nguy cơ rửa tiền. Đó là chưa kể, đầu tiên là họ sẽ đầu tư ra nước ngoài

nhưng sau đó lại có thể chuyển hướng đầu tư sang các lĩnh vực tiêu dùng hoặc là đầu

tư tài chính, hoặc là đầu tư vào bất động sản… là những lĩnh vực mà pháp luật Việt

Nam rất hạn chế và không khuyến khích. Nhưng nguy cơ hơn cả, theo những khuyến

nghị của tổ chức chống rửa tiền quốc tế, đây chính là một hình thức rửa tiền ở giai đoạn

cuối dưới dạng thâu tóm lại các khoản tiền đã phân tán trước đây của các tội phạm rửa

tiền, nơi mà các loại tiền bẩn đã được tẩy sạch hoàn toàn và được thể hiện cuối cùng ở

các khoản đầu tư tài chính, bất động sản và các tài sản quý hiếm khác.

Trên thực tế các hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh

nghiệp Việt Nam từ trước đến nay đã và đang được triển khai, cho đến nay đã có gần

400 dự án đầu tư vào 44 nước ở khắp 5 châu lục địa bất chấp khủng hoảng kinh tế, hoạt

động đầu tư ra nước ngoài vẫn gia tăng. Theo nhận định của Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ

năm 2009 mỗi năm sẽ có 500 triệu USD chuyển ra khỏi Việt Nam để thực hiện các dự

án ở nước ngoài.

* Các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra nƣớc ngoài:

Vấn đề càng được mở rộng ra hơn nữa khi Chính phủ được phép phát hành

trái phiếu ngoại tệ ra nước ngoài và các Ngân Hàng Thương Mại (NHTM), các tổng

công ty lớn cũng được phép phát hành chứng khoán ra nước ngoài.

Theo những khuyến cáo của tổ chức chống rửa tiền quốc tế, quá trình niêm yết

cổ phiếu trên TTCK nước ngoài cũng là một kênh thoát vốn quan trọng cho các hoạt

động rửa tiền thông qua việc các tội phạm lập ra các công ty cổ phần hợp pháp rồi sau

đó niêm yết cổ phiếu ra TTCK quốc tế.

2.2.2. Chống đôla hóa và nguy cơ rửa tiền:

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang phải đối phó với tình trạng đôla hóa ở mức

cao và chính vì vậy đã đến lúc Chính phủ phải có những biện pháp quyết liệt để giảm

36

hiện tượng đôla hóa. Vậy những biện pháp để chống lại hiện tượng đôla hóa trong pháp

lệnh ngoại hối có mối quan hệ gì với hoạt động rửa tiền?

Một nguyên tắc quan trọng để chống lại hiện tượng đôla hóa là NHNN quy định

bắt buộc trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam. Theo đó, trên lãnh thổ

Việt Nam, mọi giao dịch, niêm yết, định giá, thông báo giá và quảng cáo của người cư

trú và không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối trừ trường hợp đó là các tổ

chức tín dụng.

Mặc dù vậy, vấn đề lớn nhất: là nếu như trước đây pháp luật không thừa nhận

quyền nắm giữ ngoại tệ của các cá nhân và đây chính là nguyên nhân rất quan trọng

dẫn đến hiện tượng đôla hóa thì giờ đây Chính phủ chính thức công nhận việc cho phép

các cá nhân có quyền nắm giữ ngoại tệ.

Sự thừa nhận này cho phép các cá nhân quyền được mở tài khoản và sử dụng

ngoại tệ và đương nhiên họ được toàn quyền thực hiện thu chi ngoại tệ trên các tài

khoản này một cách công khai. Kẽ hở cho các hoạt động rửa tiền cũng vì thế có khả

năng lộ ra.

Thực tế cho thấy những quan ngại này không phải là không có cơ sở bởi trong

thời gian qua có khá nhiều doanh nghiệp tuy có mở tài khoản ngoại tệ nhưng không

hoạt động. Như vậy các loại ngoại tệ không rõ nguồn gốc vốn dĩ trước đây nằm trong

dân cư thì giờ đây vô hình chung đã được hợp pháp hóa trên tài khoản ngoại tệ và từ

đây có khả năng một bước tiếp theo chúng sẽ được chia nhỏ ra để thoát ra khỏi quốc

gia.

Gần đây NHNN cho phép các định chế tài chính và các cá nhân thực hiện các

giao dịch phát sinh trên thị trường như là các giao dịch quyền chọn vàng và ngoại tệ,

các giao dịch hoán đổi, giao sau…. Cho phép các cá nhân được thực hiện các giao dịch

phát sinh trên đồng Việt Nam trong thực tế chính là một trong những giải pháp chống

lại tình trạng đôla hóa bằng các biện pháp kinh tế hơn là sử dụng các biện pháp hành

chính.

37

Nếu như trước đây các cá nhân có xu hướng giữ ngoại tệ hoặc đầu tư vào bất

động sản hoặc vàng thì giờ đây để tránh tình trạng đồng Việt Nam bị mất giá họ sẽ

thực hiện các giao dịch quyền chọn đồng Việt Nam và ngoại tệ.

Tuy nhiên, đó là đối với những doanh nghiệp và cá nhân hoạt động chân chính,

còn đối với các tội phạm rửa tiền, đây là một cơ hội để họ có thể chuyển hóa một cách

hợp pháp những đồng Việt Nam có nguồn gốc phạm tội và chuyển hóa ra thành ngoại

tệ mạnh. Sau đó họ sẽ xin phép mở tiếp một tài khoản ngoại tệ cá nhân như đã phân

tích ở phần trên và tiếp tục sử dụng một cách hợp pháp số ngoại tệ này để chuyển ra

khỏi lãnh thổ.

Các tội phạm đặt lệnh mua quyền chọn mua đồng đôla và chấp nhận mất một

khoản phí và thậm chí cả lỗ để thực hiện quyền mua cho được ngoại tệ một cách công

khai từ các ngân hàng thương mại (NHTM) bởi lẽ mục đích của các tội phạm không

phải là phòng ngừa rủi ro mà là chuyển hóa từ đồng nội tệ sang ngoại tệ.

Nguy cơ càng hiện hữu hơn nữa trong bối cảnh NHNN đang có chủ trương đơn

giản hóa việc cấp giấy phép hoạt động ngoại hối theo hướng nếu các định chế tài chính

đã được cấp phép hoạt động thì họ sẽ được thực hiện bất kỳ các giao dịch nào với

khách hàng (mà không cần phải xin phép một lần nữa).

Các tội phạm rửa tiền sẽ thực hiện các giao dịch phát sinh tại các ngân hàng nào

có năng lực quản lý yếu kém và không có cơ chế giám sát các giao dịch có rủi ro một

cách có hiệu quả. Trong bối cảnh các NHTM Việt Nam hiện nay được cấp phép hoạt

động tràn lan bất chấp những quy định về vốn điều lệ theo thỏa ước Basel thì nguy cơ

rửa tiền càng trở nên hiện hữu từ các chủ trương thông thoáng trong pháp lệnh ngoại

hối.

2.3. Hợp tác phòng chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế:

Những mối đe dọa của hoạt động rửa tiền quốc tế và những dạng khác nhau của

gian lận tài chính đối với sự an toàn của hệ thống ngân hàng, đã buộc các quốc gia phải

38

hợp tác đưa ra nhiều hệ thống luật quốc gia, hệ thống luật khu vực và quốc tế mà mục

tiêu cuối cùng là thiết lập được một hệ thống phòng, chống rửa tiền quốc tế hiệu quả.

Một trong những hệ thống luật quốc tế đầu tiên là Ủy ban Basel về các luật lệ

ngân hàng và các quy tắc thực hành giám sát năm 1988. Hoạt động thông qua Ngân

hàng thanh toán quốc tế, Ủy ban Basel khuyến khích các ngân hàng đảm trách việc

nhận biết khách hàng, những giao dịch đáng ngờ và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan

chức năng.

Rất nhiều vấn đề liên quan đã được thảo luận tại hội nghị của Liên Hiệp Quốc về

chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy năm 1988 (còn gọi là Công ước Viên

1988). Tại hội nghị, Liên Hiệp Quốc đã yêu cầu các nước thành viên phải cho phép các

cơ quan chức năng điều tra để chống, ngăn chặn việc thu lợi nhuận, sở hữu, chuyển

nhượng hoặc rửa các khoản tiền thu được từ việc sử dụng hoặc buôn lậu ma túy.

Tổ chức quốc tế quan trọng nhất trong việc phòng, chống rửa tiền là Cơ quan đặc

nhiệm tài chính FATF (Financial Action Task Force) do nhóm G-7 thành lập tại Paris

năm 1989. Đó là tổ chức liên chính phủ nhằm phát triển và khuyến khích các tổ chức

cảnh sát trong việc chống rửa tiền.

Việc thành lập tổ chức này xuất phát từ ý tưởng cho rằng hoạt động rửa tiền là tội

phạm kinh tế rất phức tạp, do đó, nó không thể được kiểm soát một cách hiệu quả bởi

những phương pháp làm luật thông thường. Kết quả là cần thiết phải tập hợp các cơ

quan chức năng như Ngân hàng Trung ương, Bộ Tài chính, Cảnh sát… để phòng,

chống rửa tiền. Điều đó sẽ tạo ra những giải pháp và sự phối hợp toàn diện để giải

quyết vấn đề phức tạp này.

Hiện nay, tổ chức FATF có khoảng 30 thành viên, chủ yếu là các nước OECD và

hai tổ chức quốc tế, đó là Ủy Ban Châu Âu và Hội Đồng Hợp Tác Vùng Vịnh:

- Nhiệm vụ đầu tiên của FATF là giúp các nước thành viên ban hành các quy định

về phòng, chống rửa tiền mà mục tiêu cuối cùng là ban hành được luật chống rửa tiền.

39

- Theo hướng này, tháng 4 năm 1990, FATF đã ban hành 40 gợi ý nhằm tìm kiếm

sự nhất trí giữa các nước trong việc ban hành luật và thống nhất hành động của các

ngân hàng để hạn chế các dòng tiền thu được từ hoạt động buôn bán ma túy chuyển

qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng.

- Mặc dù các gợi ý về luật pháp được đưa ra, nhưng FATF vẫn tiến hành đánh giá

việc thực hiện của các nước thành viên qua việc từng nước đã nổ lực như thế nào và đã

ban hành được luật mới chưa.

- Một chức năng khác của FATF là cung cấp các trợ giúp kỹ thuật cho các tổ chức

ngoài nhóm. Theo hướng này, FATF đã làm việc với FATF Ca-ri-bê, Hội đồng Châu

Âu, Tổ chức những người giám sát ngân hàng ngoài quốc gia, Hiệp hội Châu Á Thái

Bình Dương về rửa tiền (APG) và tổ chức của Mỹ.

- Năm 1997, FATF thành lập Ủy ban đặc biệt về Trung và Đông Âu để giúp đỡ,

phối hợp và trao đổi thông tin giữa Ủy ban và các nước thuộc khối Trung Âu trước kia

và hiện nay đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kế hoạch tập trung sang

kinh tế thị trường.

- Mặc dù không thể khẳng định rằng FATF đã hạn chế được tất cả các giao dịch

rửa tiền trong giao dịch quốc tế, nhưng FATF đã có ảnh hưởng tích cực trong việc tạo

ra thêm những quy tắc và luật lệ quốc tế về phòng, chống rửa tiền.

Qua việc đánh giá các nước trong việc phòng, chống rửa tiền. FATF đã yêu cầu

các nước thành viên không chỉ ban hành hệ thống luật pháp, mà còn phải thực hiện các

luật đó một cách nghiêm túc. Hơn nữa, FATF đã tạo ra một diễn đàn hợp tác phòng,

chống rửa tiền trên phạm vi quốc tế và đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các hoạt động

phối hợp xuyên quốc gia phòng, chống rửa tiền.

Một ví dụ điển hình là sự phối hợp giữa Mỹ và Colombia trong việc điều tra hoạt

động rửa tiền của Tập đoàn Cali vào những năm 90. Cuối cùng, FATF đã đạt được sự

phối hợp làm việc với hệ thống ngân hàng quốc tế và cung cấp những thông tin quan

trọng cho các ngân hàng, ví dụ như cung cấp các báo cáo thường niên về hoạt động rửa

40

tiền. FATF cũng đã thành công trong việc biên soạn danh sách những nước và những

tổ chức khủng bố liên quan đến rửa tiền. Mục đích của danh sách đen này là “chỉ tên và

làm xấu hổ” các nước được coi là “thiên đường” của việc rửa tiền.

Khi danh sách được công bố, hàng loạt các ngân hàng đã cắt bỏ quan hệ đại lý với

các ngân hàng tại các nước trong danh sách trên. Mặc dù một mặt, các nước trên đều

phản đối danh sách này, mặt khác, hầu hết họ đều cố gắng ra khỏi danh sách trên bằng

cách ban hành hoặc sửa đổi các luật lệ và quy tắc cho phù hợp với hướng dẫn của

FATF, đồng thời hợp tác quốc tế toàn diện và báo cáo các giao dịch đáng ngờ.

Nhiệm vụ thiết lập một hệ thống phòng, chống rửa tiền quốc tế hoạt động một

cách hiệu quả là một công việc rất khó khăn. Và hoạt động rửa tiền và tội phạm quốc tế

sẽ không thể biến mất và nó là những nhân tố luôn luôn tồn tại song song với các ngân

hàng mà các ngân hàng phải nỗ lực chiến đấu để giành phần thắng.

Kết quả là các ngân hàng luôn luôn phải tiếp tục nhận biết khách hàng của mình,

nắm giữ những chương trình kiểm tra nội bộ và luôn luôn phải để phòng các giao dịch

đáng ngờ.

2.4. Thế giới khó kiểm soát nguồn “tiền bẩn”:

Bản báo cáo điều tra về tội phạm kinh tế quốc tế năm 2003 của Pricewaterhouse

Coopers (PWC) dựa trên 3.600 cuộc phỏng vấn tiến hành tại 50 quốc gia trên thế giới

cho thấy, tội phạm kinh tế đang tăng mạnh. Cứ 3 doanh nghiệp được hỏi, có một doanh

nghiệp là nạn nhân của tội phạm rửa tiền.

Bản báo cáo cũng cho thấy những công ty càng lớn, khả năng bị tội phạm kinh tế

“thăm viếng” càng cao, không có lĩnh vực nào là an toàn trước các loại tội phạm kinh

tế. Những rủi ro cao nhất rơi vào lĩnh vực tài chính như ngân hàng và bảo hiểm. Theo

số liệu thống kê năm 2001, cứ 6 ngân hàng thì có 1 ngân hàng không thể kiểm soát nạn

rửa tiền. Thực chất của ngành dịch vụ tài chính là truy cập các hoạt động tài chính

phức tạp, cùng với số tài sản thực có và đây là mục tiêu trước mắt của người làm công

tác chống gian lận tài chính. Loại hình tội phạm kinh tế phổ biến nhất trên thế giới hiện

41

nay là chiếm dụng vốn. Có tới 81% doanh nghiệp được hỏi đã từng trải qua ít nhất một

lần bị chiếm dụng vốn, kế tiếp có thể kể đến các loại tội phạm rửa tiền, tội phạm trên

mạng và thông tin tài chính không trung thực.

Hiện rất khó để đưa ra con số tổng của hoạt động rửa tiền khi nó diễn ra ngoài số

liệu thống kê kinh tế thông thường. Nhóm hành động tài chính chống rửa tiền (FATF)

và Liên Hợp Quốc dự đoán hiện có khoảng 1,5 nghìn tỷ USD bị rửa trên thế giới mỗi

năm. Số tiền trên chiếm 2-5% GDP của toàn thế giới. Trong đó có tới phân nữa số tiền

trên được rửa tại thị trường Hoa kỳ. Hoạt động rửa tiền ngoài khối ngân hàng còn được

thực hiện ở các giao dịch ngoại hối, môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán,

buôn bán kim loại quý hiếm. Ngay cả những nơi như quán bar, nhà hàng, Casino, công

ty thương mại, kinh doanh ô tô, bất động sản, kinh doanh đồ cổ, các công ty bảo hiểm.

Trung Quốc đã đưa ra luật về phòng, chống rửa tiền năm 2003. Trong 3 đến 4

năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia đưa hoạt động chống rửa tiền vào hệ thống

pháp luật, nhưng điều quan trọng hơn cả là xây dựng được một cơ chế phòng, chống

rửa tiền. Hiện trên thế giới có 7 Hiệp Hội Phòng, Chống rửa tiền (Bắc Phi, Nam Phi,

Thái Bình Dương, Châu Á – Thái Bình Dương, Trung Âu,…). Việt Nam là thành viên

của Hiệp Hội Phòng, chống rửa tiền Châu Á – Thái Bình Dương. Hiệp Hội này ra đời

năm 1997.

Một nguồn tin của Hãng tin Reuters chỉ ra rằng, hàng năm trên thế giới có gần

150.000 công ty bình phong (công ty ma) được thành lập trên khắp thế giới. Tiền bẩn

được chuyển qua các công ty này và đến hơn 60 “thiên đường tài chính” lên đến hàng

tỷ USD. Theo tổ chức phi chính phủ Oxfam, số tiền này nhiều gấp 6 lần chi phí cần

cho giáo dục cơ bản ở những nước đang phát triển và nhiều gấp 3 lần chi phí dành cho

chăm sóc sức khỏe cơ bản. Trong những năm 1970, người ta chỉ thấy có 25 quốc gia

được xem là “thiên đường tài chính”, thì hiện nay con số này đã vượt lên đến 63 và

khoảng phân nữa con số đó là những quốc gia hoặc lãnh thổ nằm dưới quyền bảo hộ

42

của Anh hoặc là của các quốc gia thuộc địa cũ. Chỉ riêng Anh, số tiền bị “chảy máu” ra

ngoài dao động ở mức 30-123 tỷ Euro.

2.5. Thực trạng hoạt động rửa tiền và chống rửa tiền ở Việt Nam:

2.5.1. Những kẻ hỡ dẫn đến hoạt động rửa tiền:

Theo giới quan sát, các quy phạm pháp luật theo hướng rất thận trọng đối với

các giao dịch vốn vào và ra ở nước ta đã làm hạn chế đáng kể đến các hoạt động rửa

tiền. Nhưng ở một thái cực ngược lại, vẫn còn có quá nhiều những kẻ hở để hoạt động

rửa tiền phát triển.

Điều đầu tiên phải kể đến, đó là do hệ thống tài chính tiền tệ đang trong giai

đoạn phát triển với những quy định lỏng lẻo trong cơ chế giám sát từ phía các ngân

hàng và định chế tài chính. Đây chính là rủi ro đáng kể để các tội phạm tiến hành các

hoạt động rửa tiền mà các cơ quan chức năng khó lần ra dấu vết.

Theo ông Bronwyn Somerville, chuyên gia tư vấn ban thư ký nhóm công tác

chống rửa tiền Châu Á – Thái Bình Dương – APG, Việt Nam có những rủi ro như thế

và đó chính là một cầu nối thuận lợi cho hoạt động rửa tiền và là một điểm đến cho các

tội phạm rửa tiền quốc tế và trong nước đầu tư vào các doanh nghiệp cũng như đầu tư

tài chính vào nền kinh tế ở một quy mô lớn.

Càng đáng lo ngại hơn nữa khi một dạng nền kinh tế ngầm trên thị trường phi

chính thức (shadow economy) hiện đang hiện diện mạnh mẽ ở Việt Nam bất chấp

những nỗ lực của các cơ quan chức năng. Đây là một dạng nền kinh tế mà những bất

cập trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đã làm cho đồng USD và vàng vẫn còn là những

phương tiện thanh toán phổ biến trong nền kinh tế. Thậm chí ngay cả những doanh

nghiệp hoạt động chân chính cũng buộc phải sử dụng USD và vàng trong các giao dịch

chính thức của mình.

Đây là một cảnh báo về nguy cơ dẫn đến các hành vi rửa tiền khó lần ra dấu vết

nếu như các nhà hoạch định chính sách không có những định hướng hợp lý trong chính

sách tiền tệ, đặc biệt là việc tháo gỡ các rào cản phi lý trên thị trường ngoại hối.

43

Thực tế cho thấy, mặc dù lượng kiều hối trong năm 2010 vừa qua chuyển về

Việt Nam là khá cao, trên 8 tỷ USD nhưng theo đánh giá của các chuyên gia ngân hàng

con số thực tế có khả năng còn cao hơn nhiều do lượng kiều hối phi chính thức chiếm

đến khoảng 30% - 60% tổng lượng kiều hối thực tế.

Tổng cộng lại, lượng kiều hối còn cao hơn cả số đầu tư trực tiếp nước ngoài cả

năm và những nguồn tiền này rất khó xác định nguồn gốc xuất xứ của chúng.

Đó còn là do những nguồn gốc khác dẫn đến các hành vi rửa tiền như tình trạng

tham nhũng tràn lan đến mức đã trở thành một “thị trường tham nhũng” hẳn hoi, tình

trạng trốn thuế, tình trạng tiêu cực lãng phí và thất thoát trong xây dựng cơ bản cùng

với các dạng tổ chức tội phạm đang ngày càng phát triển nhưng các biện pháp để ngăn

chặn vẫn chưa mang lại thành quả như mong đợi.

Minh chứng cho các nhận định này là hành vi rửa tiền tiêu biểu rằng nguồn tiền

phi pháp từ hoạt động ma túy mới vừa được khám phá là trường hợp Lê Thị Mai sử

dụng tiền thu được từ hoạt động buôn ma túy đầu tư dưới danh nghĩa của Công ty Viet-

Can Resorts và Plantation vào tỉnh Khánh Hòa.

Ngoài ra còn rất nhiều các ví dụ khác nữa về hành vi rửa tiền từ các hành vi tội

phạm như tham nhũng trốn thuế….

Vụ tham ô mới vừa phát hiện ở Tổng công ty hàng không Việt Nam chẳng hạn,

các tội phạm là những viên chức nhà nước đã lập các chứng từ thanh toán khống cước

phí vận chuyển và hao hụt xăng dầu một số tiền lên đến mức kỷ lục là 50 tỷ đồng và

sau đó dùng số tiền này để thành lập công ty cổ phần Nam Vinh. Rồi từ công ty này,

các đối tượng đã lập thêm công ty con là công ty cổ phần dầu khí Đông Xuyên.

Ngoài ra theo Interpol, đã từng có các hoạt động rửa tiền thông qua hệ thống

ngân hàng Việt Nam.

Những chứng cứ mới vừa phát hiện trong thời gian qua có thể chỉ mới là bề nổi

của tảng băng. Trên thực tế, có thể còn có nhiều những nguồn tiền từ các hoạt động

phạm tội khác như tham nhũng, tham ô lãng phí,… vẫn chưa được phát hiện.

44

2.5.2. Nổ lực phòng chống rửa tiền chỉ mới khởi động:

Hiện nay chúng ta vẫn chưa có cơ chế phối hợp thực hiện như thế nào giữa các

ngành ngân hàng, tài chính, chứng khoán, tòa án, công an và các nhà hoạch định chính

sách để chống lại tội phạm rửa tiền.

Kinh nghiệm của Hồng Kông cho thấy, mặc dù đã xây dựng lực lượng chống

rửa tiền từ năm 1989, nhưng quá trình tìm sự hợp tác từ phía các cơ quan pháp luật có

trách nhiệm chống rửa tiền với các đối tác khác như ngân hàng, các tổ chức kiểm toán,

luật sư, những người đổi tiền, đại lý chuyển tiền, các nhà môi giới chứng khoán, các

công ty bất động sản… là điều không hề đơn giản.

Thậm chí việc phối hợp điều tra cũng mới chủ yếu tập trung ở khu vực ngân

hàng. Còn ở các lĩnh vực khác như các doanh nghiệp có liên quan, các công ty kiểm

toán và công ty môi giới chứng khoán, những mối liên kết giữa các cơ quan điều tra

với các công ty này rất khó để thực hiện.

Đã có những e ngại đầu tiên về nghị định chống rửa tiền từ phía khách hàng và

báo chí khi các ngân hàng phải báo cáo cho NHNN về các giao dịch trong một ngày

của một cá nhân hoặc tổ chức có tổng giá trị từ 200 triệu đồng trở lên, hoặc những

khách hàng nào có lượng tiền gửi từ 500 triệu đồng trở lên tại một ngân hàng. Tâm lý

không đồng tình của người dân cũng có cơ sở do đây là những quy định quá mới và

quá đột ngột nên đã có những đồn đoán rằng nỗ lực chống rửa tiền sẽ vấp phải những

trở ngại nhất định khi một số ngân hàng tìm cách bảo vệ cho các khách hàng của mình.

Việc tổ chức nào tham gia vào các hoạt động chống rửa tiền cũng chưa nhận

được nhiều sự đồng tình của các nhà nghiên cứu và công luận.

Cuối cùng là do hoạt động rửa tiền không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc

gia mà mang tính quốc tế, do đó những nỗ lực quốc tế chống lại tội phạm rửa tiền cũng

phải được đặt ngang hàng với các biện pháp khác. Có điều do Việt Nam hiện nay mới

chỉ là quan sát viên của APG (bao gồm 28 quốc gia thành viên và 12 quan sát viên) nên

những phối hợp quốc tế cũng khó có khả năng mang lại hiệu quả cao.

45

Tất cả những phân tích trên cho thấy phải chăng vấn đề “chống ai” vẫn còn mập

mờ khiến cho mọi người hiểu rằng vẫn còn có “vùng cấm” đối với những hành vi hoặc

cá nhân có liên đới hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động rửa tiền.

2.5.3. Thủ đoạn rửa tiền trên mạng của tội phạm Việt Nam:

Kể từ khi Internet bắt đầu phát triển mạnh cách đây một thập kỷ, giao dịch điện

tử trên mạng ngày càng tăng và theo quy luật tự nhiên, tội phạm mạng cũng bắt đầu gia

tăng với tốc độ không kém. Để tiến hành việc rửa tiền, đầu tiên casher (người rửa tiền)

cần có là CC (credit card, còn được gọi là xê xê, xi xi, cào cào, châu chấu, con cáo, con

cá….). Ở Mỹ và các nước Châu Âu, các shop (cửa hàng) bán hàng lớn bắt đầu mở

trang web của họ và bán qua mạng. Người ta đua nhau sử dụng thẻ tín dụng (credit

card) để mua hàng.

Quá trình này đều được thực hiện theo các bước: người mua vào trang web bán

hàng, chọn lựa sản phẩm họ ưa thích, nhập số thẻ tín dụng và mã số xác nhận, thông tin

về người mua, kế đến hàng sẽ được chuyển về địa chỉ của họ. Quy trình tưởng như

khép kín này lại chứa đựng một nguy cơ tiềm ẩn: lộ thông tin thẻ tín dụng. Điều gì sẽ

xảy ra nếu như một hacker (tin tặc) cao tay chiếm được quyền kiểm soát trang web bán

hàng đó? Anh ta sẽ có được một cơ sở dữ liệu chứa đầy thông tin thẻ tín dụng, thông

tin thanh toán: tất cả những gì cần thiết để sử dụng trái phép thẻ tín dụng đó. Nếu

casher không phải là một hacker cao tay, anh ta có thể mua thẻ tín dụng từ những

hacker khác, trong một số diễn đàn rửa tiền của Việt Nam, thẻ tín dụng được chia sẻ

hàng ngày và miễn phí. Vậy hacker làm gì với thẻ tín dụng có được? Họ sẽ cố gắng

biến tiền trong thẻ thành tiền sạch của mình, gọi là “carding” và tiền này phải có được

yêu cầu tiên quyết: sạch, không sợ bị pháp luật sờ gáy.

Đầu tiên, các casher lười biếng sẽ tìm đến cách dễ nhất để tiêu thụ thẻ là bán lại

cho người khác. Giá thẻ tín dụng chùa dao động tùy thời điểm và tùy loại thẻ. Những

thẻ có khả năng chi trả cao như American Express sẽ có giá cao, khoảng từ 1 - 2 USD,

còn lại là Visa, Master, Discover có giá thấp hơn: từ 0,5 - 1 USD. Một thị trường chợ

46

đen được hình thành và giá bán hầu như được thống nhất. Các casher sẽ bán thẻ cho

người cần sử dụng, nhận tiền qua thẻ ATM hoặc tiền ảo trên mạng (Egold, Liberty

Reverse…), thẻ điện thoại. Cả hai đều sử dụng nick chat Yahoo và đây là cách có thể

gọi là an toàn nhất.

Kế đến là phương pháp được sử dụng nhiều nhất: dùng thẻ chùa để mua hàng

trên mạng. Vì các trang web giao dịch trực tuyến hầu hết không chấp nhận khách hàng

đến từ Việt Nam nên đầu tiên casher phải tìm được một người sống ở các quốc gia

được chấp nhận, thông thường là ở Mỹ. Khó khăn tiếp theo là địa chỉ IP, dãy số đặc

trưng cho một máy tính nối vào mạng Internet, cung cấp thông tin về quốc gia, thậm

chí thành phố của người sử dụng mạng. Vì vậy nếu casher ở Việt Nam, anh ta không

thể trực tiếp dùng địa chỉ IP của mình để mua hàng mà phải thông qua một proxy,

socks (máy tính trung gian) đặt ở Mỹ để tiến hành giao dịch thanh toán. Người ta có

thể dễ dàng tìm được proxy trên mạng, những proxy tốt được sắp xếp theo quốc gia,

bang, thành phố và được bán công khai tại một số trang web như: 5socks.net,

vip72.com… Kế đến họ thiết lập thỏa thuận: shipper (tiếng lóng chỉ casher rửa tiền

theo cách này) mua hàng trên mạng gửi cho dropper (người nhận hàng). Sau đó có 2

cách giải quyết: dropper tiêu thụ hàng hoặc giữ lại dùng và gửi tiền cho shipper hoặc

dropper gửi hàng về Việt Nam cho shipper. Điểm đáng ngạc nhiên là ngay cả việc dán

tem để gửi hàng về cũng được thực hiện “chùa”: casher dùng thẻ chùa mua tem trên

mạng (hệ thống bưu điện Mỹ cho phép dùng thẻ tín dụng mua tem với địa chỉ người

gửi và nhận được in sẵn trên tem) và gửi cho dropper dán vào hàng cần chuyển. Việc

này tưởng như đơn giản nhưng lại rất khó khăn, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm

của từng shipper, các shop có độ khó khác nhau và phải sử dụng loại thẻ khác nhau.

Các shipper hàng “cao thủ” có cả danh sách BIN (6 chữ số đầu của thẻ tín dụng, phụ

thuộc vào ngân hàng và loại thẻ), dựa vào đó họ có thể phân loại thẻ, nhận biết thẻ nào

có nhiều hay ít tiền, số tiền tối đa trong một lần chi trả… Trình độ của các shipper còn

được tính trên tỉ lệ “ped”(thành công mua hàng) và “led”(thất bại) - theo tiếng lóng.

47

Giữa các shipper và dropper chỉ giao tiếp với nhau qua nick chat nên việc lừa lọc là

thường xuyên. Đối với các shipper non kém, họ sẽ bỏ qua nhưng đối với những tay cáo

già, họ sẽ “chơi cho chết” dropper phản bội bằng cách ship (mua) thật nhiều hàng đến

nhà dropper để gây ra sự nghi ngờ và hậu quả có thể khiến dropper vào tù. Sự gia tăng

các hoạt động phạm pháp này khiến casher nảy sinh nhu cầu trao đổi kinh nghiệm,

buôn bán, từ đó các diễn đàn được thành lập để chia sẻ kinh nghiệm về các shop

cardable (có thể rửa tiền - tiếng lóng), các thủ thuật qua mặt trang bán hàng… Có

những diễn đàn lớn như viet4…. số thành viên lên đến hơn mười nghìn, chúng ta thử

làm một phép tính nhỏ, cho rằng số shipper có thể kiếm được tiền chỉ là 1/5 số đó là

2.000 người, lượng tiền một người kiếm được trong 1 ngày là 200 USD (con số thực tế

có thể từ 100 - 3.000 USD tùy theo giá trị món hàng) thì tổng số tiền thất thoát đã là

400.000 USD/ngày. Đây là con số còn thấp hơn nhiều so với thực tế nhưng nó cũng

giúp chúng ta thấy được mức độ tổn thất khủng khiếp mà loại tội phạm kinh tế này gây

ra. Trên đây là hai cách thường được sử dụng bởi các casher tầm trung và casher

newbie (chỉ người vừa vào “nghề”). Ở trình độ “cao” hơn, một số ít casher có tham gia

các diễn đàn casher lớn của thế giới sử dụng những cách thức tinh vi và mất nhiều công

sức như chơi poker, bet (đánh bài, cá độ trực tuyến), fake affiliate (làm đại lý giả mạo),

fake shop (làm site bán hàng giả mạo)…

Hiện nay, trên mạng có rất nhiều trang cho cá độ bóng đá, thể thao và đánh bài

trực tuyến, cho phép người tham gia deposit (nạp tiền) vào tài khoản cá độ, đánh bài từ

thẻ tín dụng và withdraw (rút tiền) từ tài khoản cá độ, đánh bài ra tài khoản ngân hàng,

séc hoặc các tài khoản thanh toán trực tuyến như MoneyBookers, Paypal. Cách thực

hiện của casher khá đơn giản: dùng thẻ chùa nạp tiền vào tài khoản cá độ, đánh bài,

chơi một vài ván để tránh sự nghi ngờ, sau đó rút tiền từ tài khoản đó ra tài khoản ngân

hàng… đơn giản nhưng hiệu quả. Ngoài ra, có những trang web bán hàng trên mạng

cho phép người khác làm đại lý ăn hoa hồng của họ: bạn giới thiệu người khác vào

mua hàng trên trang web của họ, họ sẽ chi phần trăm hoa hồng lại cho bạn. Vậy casher

48

làm gì? Câu trả lời là: trò chơi hai mặt. Một mặt, casher đóng vai đại lý bán hàng: đặt

banner (biểu ngữ) của website bán hàng trên site (miền) của họ (mỗi banner có kèm

theo đoạn mã, khi người khác click vào thì chủ site bán hàng sẽ biết được, từ đó họ có

thể trả tiền cho đại lý giới thiệu). Mặt khác, họ đóng vai “người được giới thiệu”: tự

click vào banner của site bán hàng, dùng thẻ chùa mua hàng và cuối cùng phần trăm

hoa hồng sẽ chảy vào tài khoản làm đại lý của họ.

Ví dụ: bạn làm đại lý bán hàng cho công ty B, bạn đóng giả người khác, dùng

thẻ chùa mua hàng của công ty B là 100 USD và nói với B người giới thiệu bạn mua

hàng là đại lý của bạn thì công ty B sẽ trả 10 USD hoa hồng cho đại lý của bạn. Từ đó

casher rút tiền về qua séc, tài khoản ngân hàng…và tất nhiên tiền khi qua quy trình này

đã trở thành tiền sạch 100%. Đây là một cách khó vì dễ bị chủ site bán hàng phát hiện,

khóa tài khoản đại lý. Một biến tướng của fake affliate là fake affiliate sex (đại lý của

các trang bán phim, truyện sex), khó hơn nhưng thuận lợi hơn trong việc rút tiền (qua

epassporte). Với cách này casher có thể kiếm được từ 500-1000 USD hoặc hơn, tùy

trình độ, thời gian đầu tư và độ kiên nhẫn của hacker.

Còn fake shop là phương pháp rửa tiền khó nhất mà chỉ số ít casher ở Việt Nam

có thể làm được. Đầu tiên casher tự tạo một shop bán hàng “danh chính ngôn thuận”,

đăng ký trang bán hàng với một paygate (cổng thanh toán trực tuyến), thông thường là

Paypal, Swreg, 2checkout… Tiếp đó, họ sẽ cố gắng nâng cao thứ hạng shop bán hàng

của mình, tạo lòng tin với paygate. Cuối cùng, casher dùng thẻ chùa vào shop của

chính mình, tự mua hàng và thanh toán. Tiền sẽ chảy vào tài khoản trong paygate (ví

dụ tài khoản Paypal) của casher, và đến kỳ hạn chỉ cần rút tiền ra: hoàn toàn sạch. Cách

này vất vả vì casher phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng, đầu tư nhiều thời gian để tạo uy tín

shop cho mình, nâng thứ hạng và tránh nghi ngờ từ paygate. Nhưng nếu thực hiện

thành công thì số tiền “kiếm” được không phải là nhỏ. Ngoài ra, còn một phương pháp

khác như lừa đảo tài khoản ngân hàng (scam online bank account), cashout (rút tiền) từ

Western Union và các dịch vụ chuyển tiền online, fake Google Adsense, Adbrite (tự

49

bán quảng cáo, tự mua)... nhưng vì độ khó của nó nên phần nào làm chùn bước các

casher Việt Nam. Các hacker Việt Nam hiện nay đã biến tướng khá nhiều, chuyển từ

hack để chứng tỏ thành tích sang mục đích trục lợi.

2.5.4. Kết quả đạt đƣợc trong hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam:

Theo Cục Phòng chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ở Việt

Nam, khó có thể thống kê chính xác thời điểm hành vi “rửa tiền” xuất hiện, nhưng có

những dấu hiệu cho thấy, các nhóm tội phạm quốc tế đã nhắm đến Việt Nam để thực

hiện hành vi rửa tiền.

Nguyên thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, ông Lê Đức Thúy cho biết

đã từng biết và xử lý một vài vụ khi những đối tác nước ngoài vào Việt Nam với ý định

lừa đảo. Vào năm 1998, một nhân vật người Đức vào Ngân hàng Nhà nước xin mở tài

khoản và nói rằng nếu cho mở tài khoản thì trong một tuần sẽ chuyển vào 100 triệu

USD cho vay trong 30 năm với lãi suất ưu đãi 2%/năm. Có những cán bộ cũng đã phấn

khởi theo đuổi việc này, kể cả lãnh đạo. Nhưng sau khi tìm hiểu mới biết đây là hành vi

lợi dụng việc được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước để đi lừa đảo.

Nhân vật này không mở được tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước sau đó xin đến

mở tài khoản tại Ngân hàng Deutsch Bank tại Việt Nam.

Khi mở tài khoản rồi không có tiền nhưng đến xin vay trước 5 ngàn USD nói

rằng cho vay thì vài hôm nữa sẽ chuyển vào Việt Nam vài triệu USD. Ngân hàng này

lập tức đóng ngay tài khoản này lại.

Nguyên thống đốc cũng đã từng tiếp những nhân vật vào Việt Nam do cả những

người làm việc trong cơ quan bảo vệ pháp luật dẫn đến gặp với những hứa hẹn cho vay

tiền 20 tỷ USD trong 20 năm, lãi suất ưu đãi và sau 10 năm cũng khóa luôn khoản nợ

chỉ với điều kiện có 5% “lại quả”.

Những tổ chức tín dụng cũng nhận được những lời chào mời qua tín dụng thư

(LC). Giám đốc ngân hàng Bình Tây đã bị cách chức vì đã xác nhận vào một thư LC

như vậy sau khi kẻ đó lập tức chạy ra ngoài nước và điện về tống tiền ngân hàng. Nó

50

có thể dùng LC đã có xác nhận ấy để đi lừa đảo trên thị trường quốc tế và ngân hàng sẽ

phải là người thanh toán cuối cùng. Ngân hàng sau đó đã mất hơn 5.000 USD để giải

quyết hậu quả.

Có nhiều hoạt động liên quan đến rửa tiền nhưng do luật pháp nước ta về vấn đề

chống rửa tiền chưa hoàn thiện nên không kiểm soát được hoạt động này.

Lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol cũng đưa ra cảnh báo, trong những năm

qua, đã xuất hiện một số vụ rửa tiền thông qua việc chuyển tiền có nguồn gốc bất hợp

pháp từ nước ngoài vào Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tượng, băng nhóm tội phạm

người gốc Phi vào Việt Nam sử dụng giấy tờ giả mở tài khoản tại các ngân hàng

thương mại để đồng bọn ở nước ngoài chuyển tiền vào, sau đó rút hết tiền trong các tài

khoản này.

Điển hình là vụ rửa tiền xuyên quốc gia đã được Công an Đà Nẵng phát hiện

vào tháng 10/2008, bắt được thủ phạm là Baggio Carlitos Linska, quốc tịch

Mozambique khi tên này đến chi nhánh một NHTM tại Đà Nẵng mở cùng lúc 2 tài

khoản. Ngay sau khi mở được tài khoản, lập tức có hơn 4,1 tỷ đồng được chuyển vào.

Điều đáng nghi ngờ là, đối tượng này tức tốc làm thủ tục để rút tiền. Nhận thấy giao

dịch bất thường, cơ quan điều tra đã vào cuộc và xác minh số tiền trên là khoản tiền

bọn tội phạm đánh cắp từ một tài khoản nước ngoài. Sau đó chuyển vào Việt Nam qua

hai chi nhánh ngân hàng thương mại tại Đà Nẵng và Bà Rịa - Vũng Tàu.

Công an Đà Nẵng đã tiến hành tạm giữ Linska và Massamba Lendebe Vis (quốc tịch

Mozambique). Đáng tiếc là Niaty Lokasso Djamba (quốc tịch Congo), người đã mở tài

khoản và được chuyển số tiền hơn 3,34 tỷ đồng tại Bà Rịa - Vũng Tàu đã nhanh chân

tẩu thoát.

Từ tháng 4/2004 đến tháng 7/2006, các cơ quan chức năng đã phát hiện James

Edmund Corbett (công dân Australia, tạm trú tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức,

Thành phố Hồ Chí Minh) có dấu hiệu bất thường, nghi vấn là rửa tiền. James E.Corbett

đã mở các tài khoản vãng lai USD tại một số ngân hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh,

51

thông qua các tài khoản này, đã nhận hơn 3,2 triệu USD từ nước ngoài chuyển vào Việt

Nam, sau đó lần lượt chuyển cho một số công ty ở Việt Nam và ở nước ngoài.

Ngoài ra, trong một số vụ án khác, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã phát

hiện hành vi rửa tiền hoặc có dấu hiệu rửa tiền. Điển hình là vụ Việt Kiều Lê Thị

Phương Mai đầu tư tiền từ hoạt động ma tuý vào các dự án của Công ty Viet - Can

Resorts & Plannation Inc. Theo hồ sơ của Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI), Lê Thị

Phương Mai là nhân vật đã đứng ra tổ chức một tập đoàn tội phạm quốc tế lớn tại Bắc

Mỹ, hoạt động theo qui trình khép kín từ sản xuất, tiêu thụ ma túy đến rửa tiền. Đầu

năm 2004, trước khi bị FBI bắt khoảng 3 tháng, Mai cùng một số người khác dưới

danh nghĩa người của Công ty Viet - Can Resorts & Plantation Inc., có trụ sở tại 857,

Unit 1, Somerset St. WestOttawaOntario (Canada), đã về Việt Nam tìm “cơ hội đầu

tư”. Mai đã xin phép đầu tư 25 triệu USD vào dự án khu nghỉ mát và căn hộ cho thuê

tại Dốc Lết, thuộc huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Cùng lúc, Công ty Viet - Can

Resorts & Plantation cũng lập một website trên mạng internet để quảng bá dự án du

lịch cùng một dự án khác ở tỉnh Lâm Đồng. Tháng 2/2004, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh

Khánh Hoà có văn bản đồng ý về mặt chủ trương cho phép đầu tư khu nghỉ mát và căn

hộ cho thuê với diện tích khoảng 70 ha tại Dốc Lết. Dự án chưa kịp hoàn thành thủ tục

thì Mai bị bắt giữ.

Hoặc như vụ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nhận được e-mail từ

một số doanh nhân Nigeria yêu cầu mở tài khoản 28 triệu USD, hứa hẹn sẽ chi lại 15%

tổng số tiền... Trong thời gian gần đây, lực lượng công an Việt Nam đã phối hợp với

Trung tâm Thông tin phòng chống rửa tiền của NHNN (nay là Cục Phòng chống rửa

tiền) đã phát hiện nhiều giao dịch nghi vấn liên quan đến hoạt động này.

Các chuyên gia của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và quản lý chức vụ

(Bộ Công an) cũng cho rằng, việc rửa tiền qua chứng khoán là việc rất dễ dàng, do đặc

thù của chứng khoán là mọi người đều có quyền mua đi bán lại cổ phiếu và tái đầu tư

trong khi giá cổ phiếu lại lên xuống thất thường. Rửa tiền qua đánh bạc chính là

52

phương pháp rửa tiền nhanh nhất, như trong một số vụ án thời gian qua đã bị phanh

phui. Trước đây, Công an Việt Nam phối hợp với phía Canada điều tra trùm cá độ

bóng đá Ngô Tiến Dũng (tức Lai Thành Hữu, Dũng “Kiều”) có dấu hiệu mang hàng

chục triệu USD từ nước ngoài về “rửa tiền” ở Việt Nam. Ngô Tiến Dũng được xác định

là người cầm đầu đường dây cá độ bóng đá cực lớn, với số tiền luân chuyển 1-2 triệu

USD mỗi đêm. Vụ việc này cho thấy, mánh khoé của tội phạm rửa tiền là dùng “tiền

bẩn” mở tài khoản ở ngân hàng, sau đó chúng sẽ dùng số tiền đó rót vào những trận cá

độ bóng đá trên mạng. Nếu thắng, tiền thưởng sẽ được thanh toán vào một tài khoản

hợp pháp khác.

2.5.5. Những hạn chế trong hoạt động phòng, chống rửa tiền ở Việt Nam:

2.5.5.1. Nền kinh tế vẫn còn sử dụng tiền mặt là phổ biến:

Có một sự khác nhau cơ bản giữa nền kinh tế hầu như không sử dụng tiền mặt

ở Mỹ và nền kinh tế tiền mặt của nước ta.

Trong nền kinh tế của Mỹ và các nước công nghiệp phát triển khác, các giao

dịch lớn chủ yếu được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, các tổ chức và cá nhân không

sử dụng tiền mặt để thực hiện các giao dịch lớn. Họ đã quen gửi tiền vào ngân hàng và

giao dịch thanh toán mọi thứ qua hệ thống này. Lâu dần, các chính phủ dựa theo tập

quán này để thực hiện các biện pháp giám sát, kiểm soát hữu hiệu về thuế bằng cách

quy định bắt buộc mọi giao dịch lớn đều phải thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Toàn

xã hội trở nên xa lạ với hiện tượng dùng tiền mặt để mua nhà, mua xe… hoặc những

loại tài sản khác có giá trị lớn. Việc dùng một số lượng tiền mặt lớn (vài chục ngàn, vài

trăm ngàn USD) để mua bán, giao dịch đều bị xem là những hiện tượng bất thường và

không được những người làm ăn đàng hoàng chấp nhận.

Không người lương thiện nào dám bán một tài sản có giá trị lớn của mình để

nhận lại một số tiền mặt lớn. Không người lương thiện nào dám giữ một số lượng lớn

tiền mặt trong nhà. Trừ khi chứng minh được là thắng canh bạc lớn tại các sòng bạc,

một người tự nhiên có trong tay một số tiền mặt vài chục ngàn, vài trăm ngàn đô la Mỹ

53

chắc chắn sẽ bị nghi ngờ về một nguồn gốc bất minh của số tiền đó. Hầu như chỉ có

giới tội phạm, các tay buôn bán ma túy, buôn lậu vũ khí mới có trong tay những khoản

tiền mặt lớn như thế.

Ở các nước này, đồng tiền mặt, với số lượng lớn và tập trung được xem là đã

bị nhuộm bẩn.

Ngược lại, trong những nền kinh tế đang phát triển, trong đó có Việt Nam, tiền

mặt là phương tiện thanh toán phổ biến nhất. Không chỉ tiền mặt bản xứ, vàng, đô la

Mỹ cũng được sử dụng rộng rãi trong việc mua bán các loại hàng hóa, tài sản có giá trị

lớn. Việc mua bán các tài sản, hàng hóa như nhà cửa xe cộ, đất đai với giá trị tương

đương hàng tỷ đồng, hàng trăm, hàng ngàn lượng vàng, hàng trăm ngàn USD không

phải là chuyện hiếm. Các giao dịch như thế đều được xã hội mặc nhiên thừa nhận, hơn

nữa còn tỏ ra tiện lợi, nhanh chóng. Thử hỏi, trong tổng số các căn nhà ở khu Phú Mỹ

Hưng, Nam Sài Gòn được bán ra mà tổng giá trị lên đến hàng trăm triệu đô la Mỹ, đã

có bao nhiêu phần trăm được thanh toán qua ngân hàng? Theo luật, đồng bạc do Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam phát hành có hiệu lực thanh toán không hạn chế trên toàn

lãnh thổ Việt Nam.

Nhà nước cũng chưa có quy định nào về việc hạn chế thanh toán tiền mặt cho

các giao dịch có giá trị lớn. Đồng tiền mặt, do vậy, đã hợp pháp và “sạch” ngay từ khi

nó còn ở ngoài hệ thống ngân hàng. Một khi nó đã được sạch ngay từ khi nằm ngoài hệ

thống ngân hàng, vậy cần gì phải “rửa” nó bằng cách đưa vào trong ngân hàng để rồi

có thể bị “lộ tẩy”?

2.5.5.2. Nhận thức của dân chúng còn hạn chế:

Hiện nay, khái niệm rửa tiền còn khá mới mẻ so với người dân và các doanh

nghiệp Việt Nam. Vì vậy, điều họ quan tâm là hoạt động rửa tiền có ảnh hưởng đến lợi

ích hay hoạt động của họ hay không.

54

Việc ban hành Luật phòng, chống rửa tiền là một nhu cầu tất yếu khách quan

trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, do không được tuyên

truyền giải thích khiến người dân và doanh nghiệp lo lắng:

- Có phải họ là đối tượng của hoạt động rửa tiền hay không.

- Các doanh nghiệp lo lắng các giao dịch của họ điều bị ghi sổ và sẽ gặp phiền

toái nếu các cơ quan chức năng yêu cầu phải giải trình về các giao dịch.

- Lo lắng về mức độ bảo mật thông tin giao dịch của mình khi mà đa phần các

giao dịch đều bị ghi sổ.

Về mức giá trị giao dịch phải báo cáo theo quy định của Nghị Định:

- Các giao dịch bằng tiền mặt và tổ chức thực hiện trong ngày trên 200 triệu

đồng (hoặc tương đương) đối với các giao dịch tiền tệ.

- Trên mức 500 triệu đồng (hoặc tương đương) đối với các giao dịch tiền gửi

tiết kiệm.

Ắt hẳn, các nhà làm luật Việt Nam cho rằng mức giá trị này là hợp lý để kiểm

soát, vì các quốc gia trên thế giới cũng sử dụng mức giá trị này trong điều kiện thu

nhập bình quân đầu người cao hơn Việt Nam rất nhiều: ở Mỹ mức giá trị là 10.000

USD; ở Châu Âu là 15.000 EUR.

Nhưng họ đã quên, không tính đến yếu tố nền kinh tế tiền mặt của Việt Nam.

Các quốc gia như Mỹ và các nước Châu Âu đã quen với việc thanh toán qua ngân

hàng, việc sử dụng tiền mặt đối với họ rất hiếm, nên nếu một giao dịch bằng tiền mặt

với mức giá trị trên không tránh khỏi nghi ngờ có liên quan đến rửa tiền.

Tại Việt Nam, có những người đã từng cầm hàng tỷ đồng hay vàng để mua

nhà, nhưng điều đó được mọi người chấp nhận do tập quán dùng tiền mặt.

Vì vậy, với những lo lắng trên thì người dân và các doanh nghiệp có xu hướng

chuyển hẳn sang giao dịch bằng tiền mặt để tránh rắc rối.

Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trong việc tuân thủ hoàn toàn Nghị Định

chống rửa tiền, một phần vì lo ngại mất khách, một phần khác do những vấn đề phát

55

sinh trong quá trình thực hiện. Đơn cử, chỉ riêng một cơ sở giao dịch của Ngân Hàng

Quốc Doanh, khối lượng tiền thu chi từ các nguồn khác nhau có thể lên tới hàng tỷ

đồng, nếu cứ phải báo cáo mỗi khi tổng giá trị giao dịch của một khách hàng đạt 200-

500 triệu đồng thì khối lượng việc vô cùng lớn.

Như vậy, nếu với mục tiêu chống rửa tiền, biện pháp giám sát các lượng tiền

gửi vào hệ thống ngân hàng ở một mức nhất định có thể chỉ ngăn chặn được phần ngọn

mà chưa đánh thẳng vào phần gốc, chưa kể có thể gây ra những tác động phụ không

mong muốn đối với những người gửi tiền lương thiện nhưng ngại phiền phức và cả đối

với hệ thống ngân hàng nước ta đang nổ lực thu hút nguồn tiền…

Để phân biệt tiền sạch, tiền bẩn cho mục tiêu chống rửa tiền cần phải được

thực hiện ngay từ các giao dịch ngoài hệ thống ngân hàng.

2.5.5.3. Chuyển ngân (kiều hối) lậu không qua ngân hàng:

Bên cạnh luồng kiều hối vào Việt Nam theo con đường chính thức, thì một bộ

phận lớn kiều hối chảy vào Việt Nam theo con đường không chính thức, gọi là “kiều

hối lậu”. Kiều hối lậu chuyển vào Việt Nam chủ yếu bằng tiền mặt USD do Việt Kiều

thu gom ở nước ngoài chuyển về nước và được trao tận tay cho người nhận. Cơ chế

quản lý ngọai hối hiện hành ở Việt Nam không cấm đưa kiều hối vào Việt Nam dưới

bất kỳ hình thức nào, miễn là khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan hải quan theo

quy định. Trên thực tế người nhận “kiều hối lậu” rất ít khi gửi, bán ngoại tệ cho ngân

hàng mà chủ yếu là nắm giữ ngoại tệ tiền mặt hoặc bán trên thị trường ngầm. Bên cạnh

đó, đối với nguồn kiều hối chính thức, cơ chế quản lý ngoại hối cho phép việc chi trả

bằng ngoại tệ tiền mặt cho người thụ hưởng trong nước cũng là nguyên nhân tạo nên

lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngầm. Chính vì thế, “kiều hối lậu” là kênh rửa

tiền vừa nhanh vừa dễ của những tội phạm quốc tế, nên cần có chế tài kiểm soát chặt

chẽ nhằm hạn chế.

2.5.5.4. Tham nhũng còn phổ biến:

56

Có thể xếp những người rửa tiền (ngoài các tổ chức khủng bố) làm ba nhóm:

(1) Những người buôn lậu (ma tuý, vũ khí, lao động bất hợp pháp…), (2) những người

tham nhũng, và (3) những người muốn tránh thuế, nói chung là những người muốn giữ

kín thu nhập thật sự (dù là hợp pháp) của mình. Tất nhiên, ba nhóm trên không hoàn

toàn biệt lập: tham nhũng, rửa tiền, và kinh doanh bất chính có nhiều chỗ giống nhau,

cấu kết với nhau, và tiếp sức cho nhau.

Tham nhũng thì cần có người để rửa tiền hối lộ, người rửa tiền này có thể là

tội phạm chuyên nghiệp, hoặc công ty ma. Ngược lại, tội phạm và doanh nghiệp cũng

thường đút lót các quan chức tham ô để làm ngơ dịch vụ rửa tiền. Một khó khăn căn

bản hiện nay là mỗi nước đánh giá tính quan trọng của mỗi loại tiền bẩn một khác. Ở

các nước chậm tiến thì nạn tham nhũng rửa tiền là vấn đề nhức nhối nhất. Trái lại, các

nước tây phương thì xem việc rửa tiền bẩn liên hệ đến khủng bố là quan trọng nhất, và

không hề “chê” tiền bẩn do tham nhũng ở các nước khác.

Tham nhũng phát sinh mạnh ở những nơi mà các thể chế quản lý yếu kém, ở

những nơi mà một chính sách của chính phủ và chế độ pháp quy tạo ra phạm vi hoạt

động cho nó, ở nơi mà các cơ quan giám sát bị gạt ra ngoài lề hoặc tham nhũng. Bên

cạnh việc các công chức, quan chức nhận hối lộ, biển thủ công quỹ để tư lợi thì tham

nhũng còn có nhiều hình thức khác, như “gia đình trị”, ô dù, trốn thuế, thay đổi nguồn

thu, gian lận bầu cử...

Theo TS Yin Chheng Sorn, tham nhũng bắt nguồn từ 5 nhân tố chính. Thứ

nhất, các nhân tố chính trị. Mức độ tham nhũng được gắn với sức mạnh của một xã hội

dân sự, tự do và độc lập của báo chí. Thứ hai, các nhân tố pháp luật và đạo đức. Gắn

với tham nhũng là chất lượng của hệ thống luật pháp đất nước, là sự tồn tại của các bộ

luật chống tham nhũng có hiệu quả và khả năng thực thi pháp luật. Tham nhũng diễn ra

ở những nơi mà giá trị đạo đức đã bị lãng quên bởi những con người quên đi nhân

phẩm và theo chủ nghĩa vị kỷ. Thứ ba, nhân tố về lương bổng. Ở những nơi mà mức

lương của công chức thấp và có sự khác biệt lớn giữa tiền lương ở khu vực công với

57

khu vực tư nhân, công chức muốn tham gia vào những hoạt động tham nhũng nhiều

hơn. Thứ tư, nhân tố kinh tế. Tham nhũng phát triển mạnh ở những nơi mà chính phủ

tạo ra môi trường kinh tế độc quyền. Ông Yin Chheng Sorn nhấn mạnh đến nhân tố thứ

năm, sự hành chính quan liêu. Trong bối cảnh có nhiều hơn sự can thiệp pháp quy và

hành chính trong nền kinh tế, tỉ lệ tham nhũng dường như cao hơn. Ở những nơi mà

chính phủ đặt ra một số lượng lớn những luật lệ và quy chế thì ở đấy có cơ hội lớn hơn

cho các công chức khai thác hoặc phá hoại chúng. Khi sự tùy tiện tăng lên và tính trách

nhiệm suy giảm thì khả năng tham nhũng tăng lên.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, quyết tâm nhưng nhìn chung tình hình tham

nhũng ở Việt Nam hiện vẫn còn nghiêm trọng và diễn biến phức tạp; xảy ra ở nhiều

lĩnh vực (đất đai, tài nguyên, khoáng sản, đầu tư xây dựng, quản lý tài chính, tài sản

công, quản lý doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng); xảy ra ở nhiều địa phương. Tệ

tham nhũng vẫn là vấn đề bức xúc, là mối quan tâm lớn của xã hội và là một trong

những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Công tác phòng chống tham nhũng vẫn

còn nhiều hạn chế và chưa thực hiện được mục tiêu là ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng

tham nhũng.

2.5.5.5. Luật pháp còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, và chậm ban hành:

Rửa tiền có thể coi là một hình thức “bảo đảm” cho các khoản tiền lớn và

những tài sản do tham nhũng được hợp pháp hoá thông qua nhiều thủ đoạn tinh vi của

kẻ phạm tội nhằm trốn tránh pháp luật.

Chính vì vậy, một hệ thống pháp luật hoàn thiện với những quy định chặt chẽ

về chống rửa tiền sẽ góp phần phòng ngừa, ngăn chặn và khắc phục kịp thời hậu quả

của hành vi tham nhũng.

Hiện nay pháp luật Việt Nam về cơ bản đã đáp ứng được những yêu cầu của

Công ước về việc áp dụng các biện pháp nhằm phát hiện, kiểm soát việc di chuyển tiền

mặt và các công cụ tài chính có giá trị chuyển đổi thành tiền qua biên giới. Chúng ta đã

có những quy định về thẩm quyền của các cơ quan chuyên trách được thu thập thông

58

tin liên quan đến các hoạt động ngân hàng, tài chính trong một số lĩnh vực như An ninh

quốc gia, Phòng chống ma tuý… Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hình sự hoá hành

vi có nội hàm giống với hành vi rửa tiền thành một tội phạm riêng tại Điều 251 “Tội

hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có”. Bên cạnh đó, Nghị định số

74/2005/NĐ-CP về phòng chống rửa tiền đã đưa ra các biện pháp cụ thể nhằm thu

thập, xử lý các thông tin, việc thành lập một trung tâm thông tin về phòng chống rửa

tiền trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm đầu mối tiếp nhận, xử lý thông tin,

thu thập tài liệu, hồ sơ các cá nhân, tổ chức đã thực hiện các giao dịch bằng tiền mặt có

giá trị lớn và các giao dịch đáng ngờ để cung cấp thông tin, tài liệu cho các cơ quan

chức năng đấu tranh phòng chống rửa tiền cũng như quy định về trách nhiệm của các

cơ quan, tổ chức trong phòng, chống rửa tiền, đặc biệt là các cơ quan có chức năng liên

quan trực tiếp đến lĩnh vực này như Ngân hàng, Công an, Tài chính, Thanh tra… Và

Luật Phòng, Chống Tham Nhũng được ban hành cũng đã có những quy định về việc

công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và minh bạch

tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn nhằm có sự kiểm soát chặt

chẽ mọi biến động về tài sản của tổ chức và cá nhân, đồng thời hạn chế tối đa việc để

xảy ra các hành vi tham nhũng. Đây thực sự là cơ sở pháp lý quan trọng nhằm tạo điều

kiện thuận lợi cho các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình xử lý những hành vi

tham nhũng.

Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng để có thể áp dụng có hiệu quả những quy

định của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng vào thực tiễn ở Việt Nam sẽ

còn gặp không ít khó khăn. Bởi lẽ, những quy định trên chỉ mang tính định hướng căn

bản. Biện pháp phòng, chống tham nhũng hữu hiệu nhất là phải có một hệ thống pháp

luật hoàn chỉnh, không còn kẽ hở để những hành vi tham nhũng có cơ hội xâm nhập và

lây lan… Nghị quyết số 04-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần

thứ 3, Khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống

tham nhũng, lãng phí đã nhận định hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,

59

lãng phí thời gian qua chưa cao, còn có nhiều hạn chế và khuyết điểm. Mà một trong

những nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế, chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thiếu

đồng bộ, còn nhiều sơ hở, nhưng chậm sửa đổi, bổ sung.

60

Kết luận chƣơng 2

Tội phạm “rửa tiền” có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới với hành vi rửa tiền

ngày càng tinh vi hơn.

Thực tế cho thấy, có một luồng tiền rất lớn đã đổ vào thị trường chứng khoán và bất

động sản, vốn có tốc độ phát triển khó dự đoán, tuy nhiên, việc kiểm tra nguồn gốc tiền

không được quan tâm đúng mức. Bên cạnh hệ thống pháp luật lỏng lẻo là tâm lý sợ mất

khách hàng của các tổ chức tín dụng nên việc kiểm tra thông tin, nguồn gốc các khoản

tiền giao dịch của khách hàng thường chỉ mang tính hình thức.

Thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán đã gây khó khăn cho việc quản lý

nguồn tiền lưu thông trong nền kinh tế và tạo điều kiện cho tội phạm rửa tiền hoạt động

dễ dàng hơn.

Trong khi đó, nguồn gốc chính của các khoản tiền bất hợp pháp tại Việt Nam là do

lừa đảo, đánh bạc, buôn bán vũ khí, mại dâm, buôn lậu, ma túy… song do các chủ thể

sử dụng tiền mặt trong thanh toán nên các luồng tiền bất hợp này khó kiểm soát.

Biết được những hạn chế, nhận thức, đánh giá hành vi của bọn tội phạm rửa tiền,

điều quan trọng ở đây là giải pháp nhằm phòng chống rửa tiền hiện nay ở nước ta như

thế nào.

61

CHƢƠNG 3:

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG VÀ CHỐNG RỬA TIỀN Ở

VIỆT NAM

3.1. Đối với Chính Phủ:

3.1.1. Thành lập trung tâm thông tin phòng, chống rửa tiền:

Xem xét lại chủ trương hình thành trung tâm thông tin phòng chống rửa tiền

trực thuộc Ngân hàng Nhà nước. Đã hội nhập cũng nên tuân thủ những sân chơi của

khu vực và quốc tế.

Tổ chức chống rửa tiền ở Việt Nam nên tham khảo mô hình đơn vị tình báo tài

chính ở các quốc gia thành viên của FATF và nhất thiết phải trực thuộc Chính phủ để

bộ máy này thật sự có một quyền hạn to lớn hơn nữa trong cuộc chiến đấu chống lại

nạn rửa tiền và tham nhũng.

Chính sự yếu kém về quản trị ở các ngân hàng và định chế tài chính ở nước ta

đã khiến tội phạm rửa tiền phát triển. Chống rửa tiền: vì vậy cần làm quyết liệt.

Hoạt động rửa tiền ở mỗi quốc gia khác nhau do những đặc thù riêng biệt nên không

thể áp dụng một cách máy móc hoàn toàn các biện pháp chống rửa tiền ở các nước trên

thế giới vào trong nước.

Phòng chống rửa tiền không đơn thuần là phòng chống tội rửa tiền của các tổ

chức mà phòng chống cả những hoạt động phạm pháp đã tạo ra nguồn tiền đó.

Do đó, nhiệm vụ trung tâm này cần phải thực hiện các yếu tố quan trọng sau:

- Liệt kê rõ ràng và chi tiết những tội danh có liên quan đến các hoạt động rửa

tiền. Những tội danh này nên bao quát toàn diện 20 tội danh mà FATF đề xuất cho mỗi

nước.

- Chính phủ cần phải khẩn trương ban hành bổ sung các loại tội danh ngoài các

tội danh thông thường dẫn đến các hành vi rửa tiền như tham nhũng, trốn thuế… thì

với đặc thù ở nước ta. Chỉ rõ đích danh các hành vi và tội phạm sau đây: (1) lạm dụng

62

thân thế chính trị, (2) các loại tội phạm về môi trường vốn dĩ đã và đang hoành hành ở

mức báo động và (3) các giao dịch nội gián nhằm thu lợi nhuận bất chính (chẳng hạn

như định giá sai giá trị doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa để chiếm đoạt tài sản

công).

- Phải có những biện pháp giám sát ở trình độ rất cao để chẩn đoán các nguồn

gốc chính yếu của các nguồn tiền bẩn, hình thành từ hoạt động rửa tiền, là từ những

hoạt động gì. Có thể đó là do buôn lậu ma túy, tham nhũng, trốn thuế, giao dịch nội

gián, lợi dụng uy thế chính trị, tội phạm môi trường…

Trong thời gian qua chúng ta chỉ mới đưa ra ánh sáng một số tội phạm rửa tiền

liên quan đến các tội danh trốn thuế, buôn lậu ma túy.

Những nguồn tiền khác được tẩy sạch từ tội phạm tham nhũng hoặc các hành vi

có liên quan đến các tội danh lợi dụng uy tín chính trị, mà điển hình là trường hợp con

lợi dụng uy tín cha trong vụ mua bán quota ở Bộ Thương mại, hoặc những giao dịch

nội gián nhằm thu lợi bất chính, chẳng hạn như định giá sai giá trị doanh nghiệp nhà

nước cổ phẩn hóa để chiếm đoạt tài sản công vẫn chưa được thu hồi và đưa ra ánh

sáng.

Nếu như Chính phủ và Quốc hội nêu đích danh các tội phạm này trong nghị

định hoặc luật chống rửa tiền thì cuộc chiến đấu để chống lại các loại tội phạm này sẽ

giảm thiểu ở mức đáng kể và chắc chắn sẽ thu hồi về cho ngân sách một khoản tiền

không nhỏ.

3.1.2. Phấn đấu trở thành thành viên chính thức của FATF:

Cần phải nhanh chóng trở thành thành viên chính thức của FATF (lực lượng tài

chính đặc nhiệm chống rửa tiền) và nên lấy đề xuất 40+8 của tổ chức này là khung

pháp lý cơ bản, để từ đó đề ra các biện pháp chống rửa tiền mang đặc thù Việt Nam.

Việc trở thành thành viên của FATF còn giúp Việt Nam nhận được nhiều hơn

nữa sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật chống rửa tiền và làm cho tiến trình hội nhập nền kinh tế

63

toàn cầu trở nên thuận lợi, tránh trường hợp 3 ngân hàng thương mại quốc doanh của

chúng ta bị “cấm hành nghề” trên thế giới do Việt Nam chưa có Luật chống rửa tiền.

3.1.3. Sớm ban hành Luật phòng, chống rửa tiền:

Hoạt động rửa tiền là một hoạt động phức hợp ngoài cả lĩnh vực ngân hàng và

mang tầm mức quốc tế, chính vì thế nếu tổ chức chống rửa tiền chỉ trực thuộc ngân

hàng nhà nước, thì có khả năng chúng cũng trở thành một ủy ban chỉ đạo “thông tin”

như ủy ban chỉ đạo lũ lụt chẳng hạn, và sẽ không đủ quyền lực để tham gia vào trận

chiến đầy phức tạp và tinh vi như cuộc chiến chống rửa tiền và tham nhũng. Không để

dòng tiền bẩn chảy vào vì sẽ làm hạ thấp uy tín quốc gia.

Ngoài những tội danh bình thường như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế thì Việt

Nam cần đưa những tội danh sau đây vào danh sách:

- Những hành vi lạm dụng thân thế chính trị để làm giàu trái quy định.

- Các tội phạm môi trường hiện đang hoạt động mạnh mẽ ở mức độ báo động:

các cá nhân hay doanh nghiệp khai thác tài nguyên môi trường trái phép…

- Đồng thời danh sách này còn làm cơ sở cho hoạt động chống rửa tiền của các

định chế tài chính: xây dựng và thiết lập hệ thống theo dõi kiểm soát các giao dịch tài

chính mà không bị cản trở bởi bất cứ thế lực nào. Tham nhũng chính là nguồn gốc và

rủi ro lớn nhất dẫn đến tội phạm rửa tiền.

Hiện nay, tại Việt Nam chưa có pháp luật rõ ràng về việc phòng chống tham

nhũng.

Tham nhũng hiện đã có những lệch hướng nghiêm trọng: lệch hướng về một bộ

phận trung tâm nào đó, về một vùng miền nào đó, lệch xa so với các quốc gia khác có

cùng trình độ. Chỉ có dũng cảm nhìn nhận, và đánh giá một cách khách quan mới có

thể tìm ra phương thuốc “đặc trị” chế ngự thảm họa này.

Việc chống rửa tiền cần có sự phối hợp đồng bộ giữa tất cả các cơ quan, tổ chức

trong chính phủ và toàn cộng đồng xã hội.

64

Do đó chính phủ cần phải có những quy định cụ thể buộc các cơ quan chức năng

phải hỗ trợ cho hoạt động chống rửa tiền mà đứng đầu chính là đơn vị tình báo chống

rửa tiền.

Chính phủ phải thực hiện được việc quản lý các cá nhân và các doanh nghiệp.

Đối với các cá nhân, quản lý theo số chứng minh nhân dân, đối với các doanh nghiệp

thì quản lý theo số giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Thông tin của cá nhân và tổ chức này được các ban ngành có liên quan cập nhật

vào hệ thống mạng. Các ngân hàng có thể tra cứu khi muốn xác minh những thông tin

về khách hàng của mình.

Hiện nay, ngân hàng nhà nước Việt Nam đã có trung tâm thông tin tín dụng

(CIC) – một hình thức của ngân hàng dữ liệu tuy nhiên dữ liệu của trung tâm này chưa

đầy đủ hay chưa được cập nhật nên lợi ích từ việc thành lập một ngân hàng dữ liệu –

một hình thức hoàn hảo của trung tâm thông tin để cung cấp đến mức tối đa nguồn

thông tin nhằm giúp các ngân hàng và định chế tài chính trong việc nhận biết khách

hàng.

Nhằm hỗ trợ cho hoạt động của ngân hàng, dữ liệu này, chính phủ cần quy định

cụ thể yêu cầu các ban ngành phải cập nhật những thông tin cần thiết có liên quan đến

các cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên để việc thu thập thông tin có hiệu quả hơn nữa thì

ngân hàng dữ liệu này cũng cần trả phí cho các cơ quan chức năng đã cập nhật các

thông tin. Đây là một hình thức khuyến khích các cơ quan này tích cực hơn nữa trong

công tác cập nhật thêm dữ liệu cho ngân hàng.

Vấn đề quan trọng là cần phải phân biệt được tiền sạch, tiền bẩn tại những giao

dịch phi ngân hàng và kiểm soát được chúng.

3.1.4. Hạn chế tối đa việc lƣu thông tiền mặt để “phòng từ gốc” .

Sử dụng tiền mặt khiến việc kiểm soát luồng tiền khó khăn hơn, đưa Việt Nam

trở thành một “điểm đến” của tội phạm rửa tiền. Các đối tượng hưởng lợi đã thông qua

65

các hoạt động hợp pháp như gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán, bất động

sản, vàng hoặc gửi sang các ngân hàng nước ngoại, nơi có luật bí mật ngân hàng.

Nhu cầu “rửa tiền” ngày càng lớn khi có quy định cán bộ công chức phải kê

khai tài sản, thu nhập cá nhân trong Luật phòng, chống tham nhũng.

Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm Liên hợp quốc (UNODC) nhận định,

Việt Nam dễ bị tội phạm rửa tiền tìm đến do nền kinh tế sử dụng nhiều tiền mặt, cùng

với hoạt động thương mại và đầu tư ngày càng gia tăng. UNODC cảnh báo nếu không

có biện pháp nhanh và hiệu quả để đối phó với rửa tiền thì tội phạm và tham nhũng sẽ

gia tăng, vận hành hợp pháp tài chính tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng.

Vì vậy, Chính Phủ cần phải xây dựng cho cộng đồng xã hội tập quán thanh toán

không dùng tiền mặt, tạo nền móng vững chắc cho hoạt động chống rửa tiền.

Ta có thể tham khảo một số biện pháp sau để hướng người dân giảm việc sử

dụng tiền mặt:

- Chính Phủ khuyến khích bằng cách giảm thuế nếu thanh toán qua thẻ hay có

những chính sách ưu đãi như về cho thuê mặt bằng hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt

động.

- Chính Phủ phải kiểm soát được hoạt động của những người mua bán tiền mặt.

- Đặt ra các hạn mức thanh toán bằng tiền mặt.

- Giám sát, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thanh toán bằng tiền mặt.

- Dần dần chuyển sang thanh toán không bằng tiền mặt: đầu tiên quy định việc

mua bán các tài sản có giá trị lớn như: mua đất, mua xe, mua nhà,… muốn công nhận

là hợp pháp phải được thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Sau đó, chuyển tất cả các

giao dịch khác sang thanh toán qua hệ thống ngân hàng chỉ sử dụng tiền mặt khi giá trị

nhỏ.

- Khuyến khích các ngân hàng thương mại phát hành, lắp đặt ngày càng nhiều

các máy ATM, máy POS; nhằm gia tăng lượng thẻ, giảm khối lượng tiền mặt vào lưu

thông.

66

- Ban hành Luật Séc, hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Séc,

để việc sử dụng séc được nhanh chóng, thuận tiện không chỉ trong cùng địa phương và

cùng tổ chức phát hành séc, để phương tiện thanh toán bằng séc được sử dụng phổ

biến.

- Triển khai mạnh các tiện ích thiết thực và phổ biến như thanh toán tiền điện,

nước, điện thoại, truyền hình cáp trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh toán nhỏ lẻ

của khách hàng qua kênh dịch vụ ngân hàng điện tử, các dịch vụ thanh toán trực tuyến

như Mobile Banking, Internet Banking.

3.1.5. Kê khai tài sản cán bộ công chức và xử lý sai phạm:

Một trong những biện pháp nhằm ngăn chặn hành vi rửa tiền cũng như ngăn

chặn những hậu quả của hành vi tham nhũng gây ra, trước hết chúng ta cần có những

cơ chế kiểm soát chặt chẽ nguồn thu nhập của cá nhân và tổ chức, cũng như kiểm soát

nguồn gốc của những tài sản có giá trị, để tăng cường hơn nữa khả năng phát hiện và

khắc phục hậu quả tham nhũng.

Tuy nhiên, đây vẫn là một trong những khó khăn mà chúng ta đang khắc phục.

Bởi vì, những quy định về vấn đề này tuy đã có nhưng còn chưa đầy đủ và trên thực tế

hiệu lực thi hành còn thấp, những điều luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự riêng

đối với hành vi hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm các tội về tham nhũng hoặc có liên

quan đến tham nhũng vẫn chưa có. Thêm vào đó, hoạt động đấu tranh chống rửa tiền

đặt ra những yêu cầu về hợp tác quốc tế. Trong khi hiện nay, Việt Nam mới chỉ tham

gia ký kết rất ít các điều ước quốc tế, đặc biệt là những điều ước quốc tế liên quan đến

hoạt động hợp tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các tội phạm rửa tiền. Do đó,

chúng ta sẽ thiếu cơ sở pháp lý khi xử lý những vụ việc có yếu tố nước ngoài. Từ thực

tế trên cũng như trước những yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đòi

hỏi chúng ta cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa để hoàn thiện hệ thống pháp

luật của mình. Có thể nói cùng với những quy định pháp luật chặt chẽ về phòng, chống

tham nhũng, thì việc áp dụng đúng đắn những yêu cầu của Công ước Liên hợp quốc về

67

chống tham nhũng sẽ góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả cho cuộc đấu tranh

phòng, chống tham nhũng.

3.1.6. Quản lý chuyển ngân ngoại tệ:

Tuyên truyền và thực thi Điều 14, Công ước Liên hợp quốc về chống tham

nhũng quy định về các biện pháp chống rửa tiền. Với tư cách là thành viên, Việt Nam

cần thiết lập một chế độ giám sát và điều tiết toàn diện đối với các ngân hàng, các tổ

chức tài chính phi ngân hàng, kể cả các thể nhân hay pháp nhân cung cấp dịch vụ chính

thức hoặc không chính thức về chuyển tiền hoặc vật có giá trị, và ngay cả với những tổ

chức dễ phát sinh rửa tiền nhằm ngăn chặn, phát hiện kịp thời mọi hình thức rửa tiền.

Đồng thời đảm bảo rằng các cơ quan hành chính, giám sát, thực thi pháp luật và các cơ

quan khác về chống rửa tiền (gồm cả các cơ quan tư pháp nếu phù hợp với luật quốc

gia) có khả năng hợp tác và trao đổi thông tin ở cấp quốc gia và quốc tế trong phạm vi

điều kiện mà pháp luật quốc gia quy định.

Mỗi quốc gia thành viên cũng cần xem xét thành lập một đơn vị tình báo tài

chính đóng vai trò là trung tâm quốc gia nhằm thu thập, phân tích và phổ biến thông tin

về những vụ việc có mầm mống của hiện tượng rửa tiền. Đây là những yêu cầu mang

tính chất bắt buộc. Bên cạnh đó, Công ước cũng đưa ra những yêu cầu mang tính chất

khuyến nghị và tuỳ nghi cho các quốc gia thành viên như xem xét thực hiện các biện

pháp khả thi nhằm phát hiện, kiểm soát việc di chuyển tiền mặt và các công cụ có thể

chuyển đổi thành tiền qua biên giới nước mình; các biện pháp này có thể bao gồm việc

yêu cầu các cá nhân và tổ chức kinh doanh báo cáo về việc chuyển qua biên giới những

lượng tiền mặt lớn và vật có giá trị chuyển đổi thành tiền khác. Quốc gia thành viên

cũng có thể lựa chọn việc thực hiện những biện pháp phù hợp và khả thi dựa trên yêu

cầu của thể chế tài chính, kể cả bên chuyển tiền như: điền vào đơn chuyển tiền qua

đường điện tử và các loại thư tín liên quan những thông tin chính xác và có ý nghĩa về

người gửi tiền; duy trì thông tin đó xuyên suốt quá trình chi trả và tăng cường giám sát

việc chuyển các khoản tiền không có thông tin đầy đủ về người gửi tiền. Phát triển và

68

thúc đẩy hợp tác song phương, tiểu khu vực, khu vực và toàn cầu giữa các cơ quan tư

pháp, thực thi pháp luật và giám sát tài chính nhằm đấu tranh chống rửa tiền. Đồng thời

các quốc gia thành viên cũng có thể coi các sáng kiến chống rửa tiền tương ứng của các

tổ chức khu vực, liên khu vực và đa phương là hướng dẫn khi thiết lập chế độ điều tiết

và giám sát chống rửa tiền.

3.1.7. Tăng cƣờng giám sát hoạt động rửa tiền qua thị trƣờng chứng khoán:

Hoạt động rửa tiền qua công ty chứng khoán có thể bóp méo việc định giá

chứ ng khoá n và tà i sả n , làm gia tăng tính biến động của thị trường và rủi ro vì người

tham gia có nhữ ng mụ c tiêu khá c hơn là tì m kiế m lợ i nhuậ n cao nhấ t cho đầ u tư .

Để nâng cao hiệ u quả phò ng chố ng tộ i phạ m rử a tiề n , chuyên gia về lĩ nh vự c nà y

khuyế n nghị , các công ty chứng khoán phải phát triển chính sách , thủ tục, kiể m soá t

nộ i bộ bao gồ m thu xế p quả n lý tuân thủ phù hợ p và có quy trì nh rà soá t đầ y đủ ; có

chương trì nh đà o tạ o nhân viên thườ ng xuyên ; có chức năng kiểm toán để kiểm tra hệ

thố ng. Đối với các hoạt động , giao dị ch đá ng ngờ , phải báo cáo ngay cơ quan có thẩm

quyề n trong thờ i gian 48 giờ đồ ng hồ .

3.2. Giải pháp về hợp tác các nƣớc để phòng, chống rửa tiền:

Rửa tiền cho tới thời điểm hiện nay đã mang tính chất quốc tế. Vì thế để chống

rửa tiền cần có sự hợp tác của các quốc gia – hợp tác quốc tế.

Tổ chức hàng đầu hoạt động mang tính chất quốc tế trong lĩnh vực chống rửa tiền

là FATF: lực lượng tài chính đặc nhiệm chống rửa tiền. FATF đã đưa ra các chuẩn mực

cho phong trào chống rửa tiền quốc tế là “40 khuyến nghị” và “những điều phụ lục”

bao gồm hệ thống tư pháp hình sự và thực thi pháp luật, hệ thống tài chính và sự điều

tiết hệ thống đó, và hợp tác quốc tế để chống rửa tiền. Những khuyến nghị này đưa ra

những nguyên tắc hành động và cho phép các nước áp dụng chúng một cách linh hoạt

tùy theo thực trạng và luật pháp từng nước.

Thêm vào đó, nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chuẩn mực quốc tế về chống rửa

tiền trên toàn thế giới FATF đã xúc tiến thành lập các nhóm hành động khu vực.

69

Những nhóm này có địa vị quan sát viên đối với FATF. Chức năng của thành viên khu

vực này cũng như các thành viên FATF. Ví dụ như nhóm khu vực đánh giá lẫn nhau

giữa các thành viên và theo dõi xu hướng rửa tiền trong khu vực.

Những nổ lực phát triển những nhóm khu vực FATF ở Châu Phi và Nam Mỹ đã

dẫn đến việc thành lập nhóm chống rửa tiền Đông và Nam Phi. Lực lượng đặc nhiệm

về hoạt động tài chính và chống rửa tiền ở Nam Mỹ. Những tổ chức khu vực khác theo

dạng FATF là nhóm chống rửa tiền ở Châu Á – Thái Bình Dương, lực lượng đặc

nhiệm về hoạt động tài chính ở vùng biển Caribean, và Ủy ban hội đồng Châu Âu PC –

R – EV.

Sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế còn có nghĩa là FATF đã dựng lên

mạng lưới chống rửa tiền toàn cầu. Nhiều tổ chức tham gia vào cuộc chiến chống rửa

tiền với tư cách như quan sát viên của FATF như ngân hàng phát triển Châu Á, Ngân

hàng đầu tư và phát triển Châu Âu (EBRD), Ngân hàng phát triển liên Hoa Kỳ (IADB),

Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nhóm thanh tra ngân hàng hải ngoại (OGBS), Văn phòng

liên hợp quốc về kiểm soát ma túy và ngăn ngừa tội phạm (ONO DCCP). Nhiều tổ

chức quốc tế đã hình thành các chương trình chống rửa tiền quan trọng.

3.3. Biện pháp của ngành Ngân Hàng:

3.3.1. Mục tiêu chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC.

Trong hệ thống các hình thức được sử dụng để rửa tiền bọn tội phạm đặc biệt

quan tâm tới rửa tiền qua hệ thống Ngân Hàng. Do vậy ngành ngân hàng phải phối hợp

chặt chẽ với các cơ quan, cán bộ ban ngành có liên quan để thực hiện hiệu quả cuộc

đấu tranh chống rửa tiền. Đó là đào tạo đội ngũ nhân viên có đủ trình độ nhận biết

khách hàng, thiết lập, sử dụng các biện pháp kỹ thuật đào tạo … để chống rửa tiền.

Trong tất cả các công đoạn bọn tội phạm muốn rửa tiền qua ngân hàng thì giai đoạn để

phát hiện ra hành vi nhất là giai đoạn khách hàng khai báo thông tin để mở tài khoản.

Vì thế, ngày nay thực hiện chính sách nhận biết khách hàng (Know Your Customer –

KYC) đang từng bước phát triển được hiệu quả trong việc chống rửa tiền.

70

 Làm tăng khả năng đảm bảo cho các ngân hàng tuân thủ các điều luật và các

quy định.

 Làm giảm khả năng các ngân hàng trở thành nạn nhân của những hoạt động

bất hợp pháp do khách hàng của họ thực hiện.

 Bảo vệ uy tín và danh tiếng của Ngân Hàng.

 Không làm cản trở mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và các khách hàng

của họ.

Chính sách “nhận biết khách hàng” phải được áp dụng với tất cả mọi khách

hàng giao dịch trong nước và quốc tế, phải yêu cầu cung cấp các bằng chứng chứng

minh nhân dân và các bằng chứng về các quyền sở hữu lợi nhuận từ các giao dịch thực

hiện qua ngân hàng. Chính sách “nhận biết khách hàng” cũng phải được áp dụng với

tất cả các loại hình doanh nghiệp. Người đại diện doanh nghiệp cũng như người thừa

kế phải được luật pháp thừa nhận. Tất cả các báo cáo của doanh nghiệp phải chính xác

và được cập nhật (đặc biệt là các báo cáo về tên sở hữu doanh nghiệp) để làm căn cứ

kiện cáo trong trường hợp rửa tiền. Tất cả các thủ tục “nhận biết khách hàng” này đều

được thực hiện kể từ khi khách hàng đặt quan hệ giao dịch. Một loạt các công việc cần

thực hiện để nhận biết khách hàng.

 Nếu cá nhân mở tài khoản có địa chỉ nhà riêng và nơi làm việc không cùng

địa chỉ bàn với ngân hàng thì nhân viên ngân hàng phải tìm hiểu tại sao khách hàng lại

mở tài khoản tại ngân hàng mình.

 Sau khi khách hàng mở tài khoản, các ngân hàng phải gọi điện đến nhà riêng

(đối với cá nhân) và trụ sở công ty (đối với công ty) để cảm ơn khách hàng về việc mở

tài khoản. Thông qua đó, ngân hàng sẽ mở rộng điều tra đối với những số điện thoại

không giao dịch được.

 Ngân hàng cần phải hỏi nguồn gốc của một khối lượng tiền mặt lớn dùng để

mở tài khoản hoặc tìm hiểu về khách hàng thông qua các ngân hàng phục vụ trước đó.

71

 Ngân hàng cũng cần phải kiểm tra trực tiếp tại trụ sở công ty để thấy rõ sự

tồn tại và khả năng cung cấp dịch vụ của công ty.

 Yêu cầu khách hàng là doanh nghiệp cung cấp:

* Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.

* Danh sách địa chỉ khách hàng và người cung cấp chính của doanh

nghiệp. Thông qua danh sách này, ngân hàng sẽ kiểm tra được các hoạt động đáng ngờ

của khách hàng như tài khoản tiền gửi mâu thuẫn với hoạt động kinh doanh, việc mua

bán, thanh toán, chuyển tiền bằng điện, chuyển vốn ra nước ngoài mâu thuẫn với hoạt

động kinh doanh.

* Miêu tả lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính và các giao dịch quốc tế

thường xuyên.

3.3.2. Công cụ hỗ trợ thực hiện chính sách “nhận biết khách hàng”:

Công cụ hỗ trợ cho việc “nhận biết khách hàng” được sử dụng phổ biến là trang

tìm kiếm thông tin sàn lọc World - check. Lợi ích của World - check:

 Dịch vụ sàng lọc dựa trên Web

 Màn hình tên cá nhân hoặc tổ chức đối với cơ sở dữ liệu của nó.

- Biết được các đơn vị đã từng bị xử phạt.

- Vạch ra những người liên quan Chính trị cấp cao (PEPs – Politically

Exposed Persons)

- Các rủi ro thông tin tình báo

- Xử phạt kinh tế và Thương mại

72

Hình 3.1: Màn hình World – check (1)

Sau khi có được kết quả từ world check, kết quả hoặc là không khớp hoặc là sẽ

nằm trong 3 vùng:

1. Exact match (khớp tuyệt đối)

2. Part Match (khớp một phần)

3. Phonetic Match (khớp theo ngữ âm)

Đối với trường hợp (1): Dữ liệu nhận biết các tên khớp tuyệt đối với mục nhập.

Do đó, kiểm tra phải đảm bảo rằng cách viết khớp với các tài liệu nguồn.

Ví dụ:

73

- Nếu Laurie Henry đã được nhập và Lawrie Henry 'trong cơ sở dữ liệu, nó sẽ

hiển thị không khớp.

- Nếu Laurie Henry Inc đã được nhập và Laurie Henry Incorporated trong cơ sở

dữ liệu, nó sẽ hiển thị không khớp.

- Nếu Laurie Henry đã được nhập và Laurie Henry Wilson Inc là trong cơ sở dữ

liệu, nó sẽ được hiển thị khớp.

- Nếu Laurie Henry Wilson đã được nhập và Laurie Wilson trong cơ sở dữ liệu,

nó sẽ hiển thị không khớp.

Thứ tự từ không quan trọng

- Nếu Laurie Henry đã được nhập và Henry Laurie trong cơ sở dữ liệu, nó sẽ

được hiển thị khớp.

Đối với trường hợp (2): Chỉ phù hợp một phần của tên tìm kiếm.

Kết quả khớp với tất cả các mục có chứa các chuỗi của các chữ cái nhập vào.

Ví dụ:

- Nếu chỉ nhập “bla”, dữ liệu sẽ dò tìm và kết quả truy cập trên „John Black‟,

„Blaine White‟, „Tony Blair‟ and „Abla Reza‟, nếu đây là những cơ sở dữ liệu.

Nếu chuỗi ký tự nhập vào dài hơn thì kết quả ít khớp hơn.

Đối với trường hợp (3): Có thể nhập 1 dò tìm theo cách phát âm (âm thanh).

Trường hợp này sẽ lãng phí rất nhiều thời gian nên không được khuyến khích.

World check hiện đang thực hiện tìm kiếm theo phiên bản La Mã. Các phiên

bản khác cần phải được La Mã hóa. Đối với các nước sử dụng chữ quốc ngữ không

chuẩn có thể đổi World-Check Mode theo dạng Phonetic Match. Đối với trường hợp

không khớp thì sử dụng E-mail trong màn hình dưới đây để gửi đến hộp thư của phòng

chức năng để làm minh chứng kiểm toán sau này:

74

Hình 3.2: Màn hình World – check (2)

Những điểm cơ bản cần chú ý khi làm world check:

- Họ tên - Name (family name/given name)

- Ngày tháng năm sinh -Date of Birth/Age

- Giới tính - Gender

- Nơi sinh - Place of Birth

- Quốc tịch - Nationality

Những điểm khác:

- Nghề nghiệp - Occupation

- Cư ngụ - Residence

Khi kết quả là khớp (match) được tìm thấy, sử dụng thư điện tử (E-mail) hồ sơ

để hỗ trợ điều tra phân tích từng trường hợp.

75

Hình 3.3: Màn hình World – check (3)

3.3.3. Nguyên tắc cơ bản của chính sách “nhận biết khách hàng”:

- Thiết lập chức năng kiểm soát nội bộ tính tuân thủ với những nhiệm vụ:

* Kiểm tra giao dịch, đánh giá sự tuân thủ chính sách và các thủ tục.

* Kiểm tra những nhân viên đang làm việc để đánh giá sự hiểu biết về pháp

luật và chính sách, thủ tục của ngân hàng.

* Xem xét những chính sách đã được ban hành và những chương trình đào

tạo để tiến hành đề nghị chỉnh sửa cho phù hợp hơn.

* Báo cáo tất cả những điều phát hiện được cho người quản lý cấp cao.

- Phân định rõ trách nhiệm giữa điều hành hàng ngày với chức năng kiểm soát

nội bộ.

- Đảm bảo đội ngũ nhân viên được đào tạo phù hợp đầy đủ tất cả các khía cạnh

của những chính sách và thủ tục nội bộ. Một chương trình đào tạo phù hợp bao gồm:

76

* Tất cả các nhân viên nghiệp vụ, nhân viên kiểm toán nội bộ, nhân viên

giao dịch với khách hàng đều phải được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng,

kể cả những phương pháp và kế hoạch rửa tiền thông thường.

* Thường xuyên bồi dưỡng để nhân viên được cung cấp thông tin cập nhật

và hiện hành nhất.

- Người quản lý cấp cao phải tiến hành các quy định, quy trình phù hợp được

ban giám đốc phê chuẩn và thi hành đầy đủ. Đồng thời người quản lý cấp cao phải

được cung cấp thông tin về tình hình thực hiện kế hoạch, các báo cáo kiểm toán và báo

cáo đề xuất về bất kỳ sự không tuân thủ nào.

- Việc vận dụng chính sách “nhận biết khách hàng” kết hợp với các biện pháp

khác với sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan hữu quan chắc chắn sẽ mang lại nhiều

thắng lợi trong cuộc chiến chống rửa tiền.

77

Kết luận chƣơng 3

Thế giới có biết bao vấn nạn cần phải giải quyết như đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai,

khủng bố,… bây giờ lại phải chiến đấu với nạn rửa tiền – kẻ luôn đồng hành với các

hoạt động tội ác.

Bọn tội phạm ngày càng có những hành động tinh vi hơn, trong khi các công cụ

phòng chống rửa tiền tại Việt Nam rất yếu kém, nhận thức của người dân còn hời hợt,

lại thêm vào đó là nền kinh tế của ta sử dụng tiền mặt trong giao dịch là chủ yếu. Trong

tương lai nếu không thể cải thiện thì công tác phòng chống rửa tiền sẽ gặp rất nhiều

khó khăn.

Tác giả đưa ra những thực trạng, khó khăn, giải pháp cơ bản để thông qua thực tiễn

có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động chống rửa tiền.

78

KẾT LUẬN CHUNG

Rửa tiền là hành vi tội phạm mang tính chất quốc tế và hậu quả của nạn rửa tiền là

không lường hết được nếu nó không được kiểm soát chặt chẽ.

Phân tích thực trạng và xu hướng rửa tiền của bọn tội phạm tại các nước khác nhau,

chúng ta thấy được bản chất cực kỳ nguy hiểm của hoạt động này. Nó lôi kéo hầu hết

các thành phần kinh tế quan trọng của đất nước tham gia vào quy trình rửa tiền: các cơ

quan trung ương, các doanh nghiệp nhà nước… và nhất là nó lợi dụng hoạt động của

các ngân hàng – một thành phần được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc gia…. Đối

với nền kinh tế toàn cầu, nó làm suy yếu mối quan hệ kinh tế quốc tế, phá hoại uy tín

của nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng; nó cản trở trào lưu hội nhập của các thị trường

tài chính, làm phá hỏng mối quan hệ liên ngân hàng toàn cầu.

Nguy hiểm hơn là nạn rửa tiền làm tha hóa nhiều quan chức chính phủ, các doanh

nhân cũng như nhiều thành phần dân cư khác. Tất cả đều vì lợi nhuận, vì bị đồng tiền

dụ dỗ mà đã vô tình hay hữu ý tiếp tay, phục vụ cho bọn tội phạm, bọn tham nhũng.

Như vậy, hậu quả xã hội của nạn rửa tiền cũng nghiêm trọng không kém hậu quả kinh

tế mà nó gây ra.

Nhận thức được mức độ nguy hiểm của hoạt động rửa tiền, cộng đồng thế giới đã

nhanh chóng vào cuộc. Nhiều tổ chức chống rửa tiền quốc tế đã được thành lập như

Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FAFT) đã được thành lập tại Châu Âu, Châu Mỹ, Châu

Phi.

Không thờ ơ với các hoạt động quốc tế, Việt Nam của chúng ta cũng đã tích cực

hoạch định các chương trình phòng và chống rửa tiền. Như đã phân tích ở trên, với một

hệ thống ngân hàng hoạt động còn manh mún, một thị trường tài chính còn non trẻ,

Việt Nam đang và sẽ trở thành đích ngắm của bọn rửa tiền. Đã có một vài hiện tượng

nghi ngờ là rửa tiền tại Việt Nam. Nếu không có một khung pháp lý chặt chẽ về vấn đề

này, và nếu như không trang bị một kiến thức đầy đủ cho các cán bộ ngân hàng trong

79

việc phát hiện và xử lý các hành vi nghi ngờ về rửa tiền thì chẳng bao lâu nữa hoạt

động này sẽ nhanh chóng xâm nhập và hoành thành ở nước ta.

Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, Chính phủ Việt Nam và hệ thống ngân hàng đã

nhanh chóng hoạch định các chương trình cụ thể chống rửa tiền. Tại Ngân hàng Ngoại

thương Việt Nam – một ngân hàng có nhiều giao dịch quốc tế nhất, đã xây dựng một

quy trình “nhận biết khách hàng” (KYC) cụ thể để thực hiện tại các bộ phận tín dụng,

quan hệ đại lý, chuyển tiền...

Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – cơ quan quản lý cao nhất về ngân hàng,

hiện tại đã hoàn chỉnh nội dung dự thảo Luật về chống rửa tiền để trình lên Chính phủ

phê duyệt. Dự kiến Nghị định này sẽ được ban hành vào cuối năm 2012.

Ngoài việc hoàn thiện các văn bản pháp lý về rửa tiển, Việt Nam cũng luôn luôn

hướng tới hội nhập và tìm kiếm sự hỗ trợ của các tổ chức chống rửa tiền trên thế giới

trong cuộc chiến đấu đầy cam go với một loại hình tội phạm mới có tên là “tội phạm

rửa tiền” này.

Hy vọng với sự nỗ lực hợp tác của các quốc gia cũng như việc nâng cao tầm nhận

thức của mọi người dân về nạn rửa tiền, công cuộc chống rửa tiền sẽ ngày một đạt

nhiều thắng lợi, và các đồng tiền “bẩn” thu từ ma túy, buôn lậu, tham nhũng, khủng

bố… sẽ không còn khả năng được “làm sạch” một cách phi pháp nữa.

Do thời gian nghiên cứu ngắn nên đề tài này không tránh được những sai sót, rất

mong sự hướng dẫn và chỉ bảo của quý thầy cô.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị định số 75/2005/NĐ-CP ngày 07/06/2005 của Chính Phủ Việt Nam ban

hành về phòng, chống rửa tiền, www.sbv.gov,vn.

2. Thông tư số 22/2009/TT-NHNN ngày 17 tháng 11 năm 2009, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng, chống rửa tiền,

www.sbv.gov,vn.

3. Dự Thảo Luật Phòng Chống Rửa tiền ngày 01/09/2011, www.sbv.gov,vn.

4. Pháp lệnh ngoại hối sè: 28/2005/PL-UBTVQH11, www.sbv.gov,vn.

5. Pháp luật Việt Nam về Phòng Chống Rửa Tiền, www.sbv.gov.vn.

6. Minh Nghĩa (2002), Chính sách nhận biết khách hàng, một chính sách chống

rửa tiền hiệu quả ở Mỹ, Tạp chí Ngân Hàng 11/02

7. TS. Nguyễn Trọng Hoài & Nguyễn Hoài Bảo (2005), Rửa tiền trở ngại cho phát

triển kinh tế, Tạp chí kinh tế phát triển.

8. PGS.TS.Trần Ngọc Thơ (2005), Chống rửa tiền nhưng chống ai?, Tạp chí kinh

tế phát triển.

9. Hồng Phúc (2005), Việt Nam thúc đẩy hoạt động chống rửa tiền,

http://vietbao.vn.

10. Lan Anh (theo VNE, 2001), Ba “Thiên đường rửa tiền” có thể bị trừng phạt,

http://www.chaobuoisang.net.

11. Paul Bauer (2001) Tìm hiểu chu trình rửa tiền, Tạp chí điện tử của bộ ngoại

giao Mỹ.

12. Phòng và chống hoạt động rửa tiền tại Việt Nam hiện nay của Lê Thị Phương

Anh.

13. Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn Online (08/06/2009), làm sao đẩy mạnh thanh

toán không dùng tiền mặt, http://www.thesaigontimes.vn.

14. Anh Phương (2002), Để hạn chế tham nhũng, phải có cơ chế chống rửa tiền,

http://suckhoedinhduong.nld.com.vn.

15. Theo SGGP (2011), Công tác phòng chống tham nhũng còn hạn chế,

http://www.baodienbienphu.com.vn.

16. P.Thảo (2011), Thói quen dùng tiền mặt tại Việt Nam “hút” tội phạm rửa tiền,

http://dantri.com.vn.

17. Nguyễn Vũ (2011), Chính Phủ trình dự án Luật Phòng chống rửa tiền,

http://vneconomy.vn.

18. Trần Thế Anh – Theo Tạp Chí Thanh Tra (2011), Pháp luật Việt Nam với những

yêu cầu về phòng ngừa rửa tiền của Công Ước Liên Hợp Quốc về chống tham

nhũng, http://www1.mt.gov.vn.

19. Theo SSTG (2010), Giải pháp phòng chống rửa tiền, http://sstg.vn.

20. Thị trường tài chính tiền tệ 2009, 2010, 2011.

21. Laundering reports reach record high, http://news.bbc.co.uk

22. Exposing Mortgage Fraud, http://www.visualanalytics.com

23. Guideline No.3.3 – Prevention of Money Laundering, http://www.info_gov_hk-

hkma-eng-guide.com

PHỤ LỤC

Những phi vụ rửa tiền ở các quốc gia trên thế giới được phát hiện:

1. Tại Tây Ban Nha:

Tháng 3 năm 2005, Cảnh sát Tây Ban Nha tuyên bố đã phá băng nhóm rửa tiền

quốc tế có trụ sở ở Marbella – thành phố nghỉ mát miền Nam. Một phần trong nguồn

tiền 300 triệu USD phi pháp bị tình nghi có liên quan đến công ty dầu Yukos của Nga.

41 người thuộc ít nhất 5 quốc tịch Tây Ban Nha, Pháp, Phần Lan, Nga và Ukraina

bị bắt. Một con tàu, hai chiếc máy bay và hơn 40 xe ô tô hạng sang cũng bị thu giữ

trong đợt truy quét. Cuộc điều tra kéo dài 10 tháng.

Interpol và Europol cùng tham gia vào chiến dịch mang mật danh Cá voi trắng, do

Tây Ban Nha và Nga hợp tác tiến hành. Bộ trưởng Nội vụ Tây Ban Nha miêu tả đây là

cuộc điều tra lớn nhất của nước này.

Mạng lưới nói trên bị nghi đã rửa hơn 300 triệu USD cho các băng nhóm chuyên

giết người, kinh doanh ma túy, vũ khí và mại dâm. Các quan chức Tây Ban Nha cho

biết họ nghi một số nhân vật trong nhóm đã rửa tiền tuồn ra từ công ty Yukos.

Một nguồn tin thân cận với hoạt động điều tra tiết lộ thêm: “Có một số cá nhân

bên trong Yukos dường như đã rút ra một số tiền mà công ty hay các quan chức thuế

không biết. Họ bòn rút tiền của Yukos rồi đầu tư vào một công ty Hà Lan, qua đó

chuyển tiền tới Tây Ban Nha”. Ở Matxcơva, phát ngôn viên của công ty – Alexander

Shadrin – từ chối bình luận về vụ việc: “Chúng tôi không thể bình luận cho đến khi

biết tên của những người liên quan”.

Yukos bị giới chức Nga cáo buộc nợ 28 tỷ USD tiền thuế. Người sáng lập công

ty, Mikhail Khodorkovsky, bị giam từ tháng 10/2003 và phải đối mặt với các cáo trạng

gian lận và trốn thuế.

Vùng Costa del Sol của Tây Ban Nha, bao gồm Marbella và thành phố Malaga, từ

lâu đã là nơi đóng bản doanh của nhiều băng nhóm tội phạm quốc tế.

Mánh khóe rửa tiền của bọn tội phạm núp dưới hình thức buôn bán ô tô sang

trọng vừa được triệt phá.

Cảnh sát Tây Ban Nha vừa thu giữ 25 triệu euro tiền mặt tại Madrid, trong chiến

dịch truy quét tội phạm rửa tiền từ những phi vụ buôn bán ma túy. Sau 16 tiếng truy

lùng, cảnh sát đã phát hiện hàng trăm túi tiền được giấu dưới sàn dày 25cm của một

biệt thự ở Madrid.

Trong chiến dịch phối hợp giữa Đội cảnh sát chống rửa tiền Tây Ban Nha và Cục

Điều tra Liên Bang Mỹ, các bên đã bắt giữ 20 người, trong đó có 17 người Tây Ban

Nha và 3 người đến từ Mỹ.

Quan chức cảnh sát địa phương nhấn mạnh, tầm quan trọng của việc phá vụ án

này không chỉ ở quy mô khoản tiền thu giữ mà ở việc triệt phá hoàn toàn đường dây

rửa tiền này. Cơ quan chức năng đã tịch thu 60 xe ô tô và kiểm soát 21 tài sản sang

trọng khác ở Tây Ban Nha và Mỹ vì có liên quan tới vụ việc này

2. Tại Thái Lan:

Tòa án tối cao Thái Lan nghi ngờ Cựu Bộ Trưởng Y Tế Kakkiat Sukthana lạm

dụng chức quyền để có được 233,88 triệu Baht (tương đương 5,8 triệu USD) và ra lệnh

tịch biên toàn bộ kể cả tài sản của ông dưới tên những người khác.

Nguyên nhân: Cựu Bộ Trưởng Y Tế không thể chứng minh lời khai số tiền đặt trong

13 tài khoản Ngân Hàng có nguồn gốc từ đánh bạc, trợ cấp chính trị và vay mượn.

Trong số tài sản bị tịch biên của ông Rakkiat có 179,48 triệu Baht được để trong tài

khoản ngân hàng của Jirayu Charasathein, cựu trợ lý thân cận nhất của ông, và tài

khoản của Pitsanukorn Udornsathit, em vợ của cựu bộ trưởng. Ông Rakkiat cho biết số

tiền này có được từ đánh bạc ở Australia nhưng không công bố vì lo ngại chuyện đó sẽ

phá hoại uy tín và địa vị bộ trưởng.

Theo ông tin từ tòa án, Jirayu đang chịu 6 năm tù vì tội tham nhũng và Pitsanukorn

không thể khẳng định số tiền đó có được từ đánh bạc. Ngay cả nếu cựu bộ trưởng đã

thắng bạc thì ông phải cho số tiền vào tài khoản của chính mình.

Bên cạnh đó, nếu đúng là tiền thắng bạc thì ông Rakkiat phải giữ chứng từ sổ sách của

sòng bạc để chứng minh. Tuy nhiên, ông không có bằng chứng này.

Biên bản của tòa án có đoạn: “Nếu có bằng chứng tiền được chuyển từ sòng bạc cho

ông Rakkiat, thì lập luận tiền có được do đánh bạc là có thể đáng tin cậy. Tuy nhiên,

đưa tiền vào tài khoản của Jirayu và Pitsanukorn có nghĩa là rửa tiền”.

Cơ quan tư pháp còn phát hiện 15,4 triệu Baht trong tài khoản ở Ngân Hàng KrungThai

của Bà Surakanya, vợ ông Rakkiat, cũng khó có khả năng xuất phát từ tiền đánh bạc.

Bà Surakanya cho biết luôn cùng chồng tới các sòng bạc lớn nước ngoài, mỗi lần thắng

cuộc, ông lại đưa tiền cho bà rồi bà đưa tiền vào Tài Khoản Tiết Kiệm của mình. Số

tiền có được từ 4 lần đánh bạc tại Australia, Malaysia và MaCao.

Tuy nhiên, tòa án phát hiện ông Rakkiat đã thua nặng 2 lần tại MaCao: một lần 24,3

triệu Baht, một lần 17 triệu Baht. Như vậy, càng có cơ sở chứng minh ông không thể

đưa cho bà số tiền 15,4 triệu Baht.

Bên cạnh đó, Cựu lãnh đạo Seritham Pinit Charusombat đã giúp ông gây quỹ 24 triệu

Baht. Đổi lại, ông gia nhập Đảng hành động xã hội vì Udon Thani. Tuy nhiên, tiền này

được nhanh chóng chuyển vào tài khoản của Jirayu và chưa bao giờ được sử dụng vào

mục đích chính trị.

3. Tại Mỹ:

Ngày 01 tháng 07 năm 1998, trưởng phòng tài chính, chủ tịch và phó chủ tích của công

ty Supermail.Inc, một công ty Séc chuyển khoản đã bị bắt vì tham gia vào một vụ rửa

tiền trong cuộc điều tra kéo dài 2 năm do văn phòng ở Los Angeles của cục điều tra

liên bang và phòng cảnh sát Los Angeles tiến hành.

Theo hồ sơ, công ty này là một công ty Séc chuyển khoản lớn nhất hoạt động ở Tây

Hoa Kỳ và là một trong những đại lý chuyển tiền hàng đầu ở Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ

cho Mexico và Châu Mỹ La Tinh.

Ba thành viên ban quản trị cùng với 6 nhân viên và các cộng sự bị bắt sau khi bồi thẩm

đoàn đưa ra bản cáo trạng với 67 điểm kết tội 11 bị cáo bao gồm cả công ty Supermail

có âm mưu rửa tiền, né tránh yêu cầu báo cáo về lưu hành tiền tệ và chiếm đoạt tài sản

một cách bất hợp pháp.

Mục tiêu đầu tiên của cuộc điều tra là quỹ của công ty ở Reseda, California. Những

người điều tra dưới vỏ bọc bí mật đã tiếp cận với người quản lý, người đã đồng ý rửa

những khoản tiền “ma túy” với khoản phí tiền mặt. Đặc biệt người quản lý đã chuyển 1

số lượng lớn tiền mặt thành giấy lệnh chuyển tiền của công ty.

Khi có một lượng tiền lớn cần được rửa, người quản lý sẽ yêu cầu các cộng sự làm việc

ở những khu vực khác giúp đỡ. Khi người quản lý mới điều hành những hoạt động ở

chi nhánh Resada vào tháng 4 năm 1997 thì anh ta đã đưa tới công ty một số thành

viên. Những nhân viên này được phép phát hành những phiếu gửi tiền và chuyển một

lượng lớn tiền bất chính tới một tài khoản bí mật ở Miami, trong khi đó số tiền để duy

trì hoạt động vẫn nằm trong quỹ của công ty. Tổng cộng các bị cáo đã rửa hơn 3 triệu

USD tiền “ma túy”. Người ta cho rằng đây là một trong những vụ điều tra chống nạn

rửa tiền nhằm vào giới kinh doanh Séc chuyển khoản lớn nhất trong lịch sử Mỹ.

Trong thời gian qua, đã có không ít ngân hàng Mỹ hoặc hoạt động tại Mỹ bị phạt hàng

trăm triệu USD do cho phép dòng tiền bẩn chảy qua hệ thống của mình. Tháng 6 năm

2010 vừa qua, Ngân hàng Wachovia, trực thuộc đại gia Wells Fargo & Co, thừa nhận

đã không phát hiện các giao dịch rửa tiền trị giá tới 378,4 tỉ USD của các băng đảng ma

túy Mexico từ năm 2004-2007. Số tiền này tương đương 1/3 tổng GDP Mexico.

Wachovia đã chấp nhận nộp phạt 160 triệu USD.

Trước đó, Ngân hàng Anh Barclay cũng thú nhận đã che giấu các giao dịch tổng cộng

500 triệu USD trong thời gian 1995-2006 từ các nước bị Mỹ cấm vận tài chính, và

đồng ý nộp phạt 298 triệu USD. Năm 2006, Ngân hàng Mỹ quốc tiết lộ các băng nhóm

rửa tiền Nam Mỹ đã chuyển 3 tỉ USD qua một tài khoản ở Manhattan của ngân hàng

này.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là cây chứ chưa phải là rừng cây. Các nhà điều tra Mỹ

hiện vẫn chưa xác định được bao nhiêu tiền bẩn và tiền liên quan đến khủng bố trong

tổng số giao dịch 1.000 tỉ USD. Tuy nhiên, chuyên gia Eric Lewis khẳng định con số

này thông qua các giao dịch tiền mặt đáng ngờ trong hệ thống ngân hàng Mỹ là “có

quy mô gây chóng mặt” nhưng “chẳng ai đặt thành vấn đề”.

Lý do, theo ông Lewis, là vì các ngân hàng Phố Wall cứ cố tình ngó lơ cho các hoạt

động giao dịch mờ ám diễn ra, bởi họ “luôn được khuyến khích quay mặt đi khi nhận

được một phần bánh lớn”.

Lewis cũng lưu ý mức phạt đối với các ngân hàng vi phạm là quá nhỏ, vì “các ngân

hàng thường cho rằng việc bị phạt ít khi xảy ra, mà nếu có bị phạt thì số tiền phạt ấy

cũng chỉ là một phần chi phí kinh doanh”.

4. Tại Hồng Kông:

Theo nhật báo Nam Hoa Buổi sáng (South China Morning Post) ngày 14/1/2004,

các thành viên trong ban hội thẩm tại một phiên tòa sơ thẩm ở Hồng Kông đã vô cùng

kinh ngạc trước số tiền được chuyển trái phép từ Trung Quốc qua một ngân hàng ở

Hồng Kông. Có thể nói đây là đường dây rửa tiền lớn nhất từ trước đến nay bị phanh

phui tại Hồng Kông.

Mỗi ngày có hàng tỷ USD “bẩn” được tẩy rửa trên thế giới. Ông Peter Callaghan,

Ủy viên công tố của phiên tòa kéo dài 6 ngày (13/1 – 18/1/2004) cho biết, đường dây

chuyển tiền bất hợp pháp này đã hoạt động trong suốt 5 năm qua với số tiền lên tới cả

trăm tỷ USD.

Theo kết quả thống kê, chỉ trong vòng 35 ngày, 3 tập đoàn kinh doanh tại Trung

Quốc đã chuyển trái phép qua một ngân hàng tại Hồng Kông tổng cộng 3,2 tỷ USD

(hơn 92 triệu USD mỗi ngày). Ông Callaghan nói: “Theo tôi, đây là vụ rửa tiền lớn

nhất bị phá vỡ tại Hồng Kông, thậm chí nói là lớn nhất trên thế giới từ trước đến nay”.

Hai mắt xích cơ bản trong đường dây chuyển tiền bất hợp pháp này là: Công ty

đổi tiền Guardecade và Chi nhánh Tsim Sha Tsui của Ngân hàng Po Sang Bank ở

Hồng Kông. Có 6 bị can trong đường dây đã bị truy tố: Lam Yiu-chung – cựu quan

chức quản lý cao cấp của Po Sang Bank; Chan Chung-ming và Judas Yip Heuong-

wing – Giám đốc điều hành và là các cổ đông chính của Guardecade; hai cổ đông khác

là Wong Sung-tak và Wong Sung-kai; cùng Chiu Kam-lung – người vận chuyển tiền.

Tại phiên tòa, các bị can đều phủ nhận mọi tội bị cáo buộc, như vận chuyển tiền trái

phép, đưa và nhận hối lộ…

Được vận chuyển tới Hồng Kông từ Trung Quốc, qua sự “giúp sức” của

Guardecade và Posang Bank, số tiền “lậu” khổng lồ sẽ được chia nhỏ thành nhiều tài

khoản hợp pháp tại các ngân hàng. Tiền “bẩn” – bao gồm nhiều loại tiền khác nhau:

USD, Lire (Ý), Mark (Đức), Nhân dân tệ… được thu gom từ “Kan syndicate”, “Ma

syndicate” và một tập đoàn kinh doanh khác tại Trung Quốc đại lục, sau đó chuyển

sang Hồng Kông (có thể bằng cách buộc vào cơ thể những người vận chuyển). Tại

Công ty Guardecade, toàn bộ số tiền này được đổi sang đôla Hồng Kông rồi gởi vào

Chi nhánh Tsim Sha Tsui của Posang Bank. Với sự giúp sức của chi nhánh Ngân hàng

này, khoản tiền bất hợp pháp được chia thành hàng ngàn tài khoản nhỏ nằm gọn trong

các ngân hàng ở Hồng Kông và một số ngân hàng ở các nước khác. Theo ông

Callaghan, toàn bộ quy trình rửa tiền trên được chỉ đạo trực tiếp từ các tập đoàn kinh

doanh tại Trung Quốc đại lục.

Hiện nay, cảnh sát Hồng Kông đã hợp nhất hai đơn vị chống tội phạm để tăng

cường nguồn lực, giúp công tác điều tra về đường đi của các đồng tiền “bẩn” một cách

có hiệu quả hơn.

5. Tại Ấn Độ:

Một nhà triệu phú được xem là một trong những trùm ngân hàng ngầm lớn nhất

thế giới, Narét Kuma Giên đã bị bắt hôm 6-12 năm 2009 tại thủ đô Niu Đêli của Ấn Độ

sau một thời gian dài bị săn lùng trên toàn cầu với sự tham gia của cảnh sát nhiều nước.

Lực lượng an ninh cho rằng Giên, 50 tuổi, đã rửa hàng triệu USD cho các nhóm

tội phạm có tổ chức tại Anh trong vòng vài năm qua. Hoạt động của ngân hàng ngầm

do Giên đứng đầu đã bị nhà chức trách Anh điều tra từ năm 2006 sau khi phát hiện hắn

có liên quan đến việc chuyển tiền cho các băng nhóm ma túy và mạng lưới tội phạm

khác. Theo nhà chức trách Italia và Mỹ, Giên cũng bị tình nghi đã hợp thức hóa những

khoản tiền bẩn của nhiều kẻ buôn bán ma túy người Anbani, Italia cũng như những

băng nhóm maphia tại Mỹ, Các Tiểu vương quốc Arập thống nhất (UAE), Pakixtan và

Anh. Cảnh sát Đức và Mỹ còn cho rằng, hoạt động của hệ thống ngân hàng ngầm này

có liên hệ với tất cả những nhóm buôn bán ma túy và khủng bố hàng đầu trên khắp thế

giới.

Giên cũng có tên trong danh sách truy nã của cảnh sát Tây Ban Nha và Hà Lan.

Với hàng loạt chân rết rộng khắp, Giên chịu trách nhiệm kiểm soát một hệ thống rửa

tiền quy mô lớn có khả năng chuyển tới 2,2 tỷ USD/năm.

Tuy nhiên, việc bắt giữ trùm ngân hàng này rất khó khăn do việc chuyển tiền

hoàn toàn không mang tính cơ học. Dùng dịch vụ của Giên, khách hàng có thể gửi tiền

tại một nước và ngay lập tức nhận tiền tại một quốc gia khác mà không cần phải

chuyển tiền điện tử hay bằng cách truyền thống. Việc chuyển tiền được thực hiện dựa

hoàn toàn vào lòng tin và cực kỳ khó để theo dõi bất chấp những nỗ lực quốc tế, phần

lớn thông qua một hệ thống được gọi là Hawala có cơ sở tại Trung Đông, Nam Á và

Đông Phi.

Ông Ian Cruxton, Phó Giám đốc Cơ quan Chống tội phạm có tổ chức của Anh

cho biết: "Hệ thống chuyển tiền bất hợp pháp này không quan tâm tới bất cứ rào cản

địa lý hoặc văn hóa nào, chúng có thể rửa tiền cho người Anh, người Pakixtan và Thổ

Nhĩ Kỳ sống ở Anh và châu Âu có dính líu tới buôn bán ma túy". Giên, còn được biết

đến với cái tên Narét Paten là người Ấn Độ nhưng đã chuyển tới sống ở Đubai, UAE từ

năm 1995 và khởi nghiệp bằng một công ty chuyên về thép phế liệu và đồ ăn. Công ty

này sau đó đã trở thành cơ sở cho các hoạt động chuyển tiền của Giên. Hắn đã bị cảnh

sát Đubai bắt giữ vào tháng 4-2007 sau một năm tiến hành điều tra. Tuy nhiên, một

năm sau đó, Giên được tại ngoại và trốn khỏi UAE.Theo Cơ quan Chống ma túy của

Bộ Tư pháp Mỹ, cảnh sát tại Đubai đã kiểm tra tài sản của trùm ngân hàng ngầm này

sau khi hắn bị bắt và phát hiện nhiều số liệu chứng minh rằng Giên đã trực tiếp thực

hiện việc chuyển tiền qua các ngân hàng và một số cơ sở tại Đubai vào những tài

khoản ở một công ty tài chính tại Manhattan, NewYork.

Chính phủ Mỹ đã ra lệnh phong tỏa những tài khoản có liên quan đến hoạt động

rửa tiền trong khi tòa án yêu cầu tịch thu hơn 4,3 triệu USD. Gần 3 triệu USD tiền mặt

nữa từ việc kinh doanh của Giên ở khắp thế giới cũng đã bị đóng băng. Cuộc điều tra

kéo dài hai năm tại Italia cho thấy hệ thống của Giên có thể rửa sạch 4 triệu USD/ngày

khi tiền buôn bán hêrôin và tiền của các tổ chức khủng bố được chuyển qua các cửa

hàng chăm sóc sắc đẹp ở Italia. Vụ việc cho thấy sự tồn tại của hệ thống các ngân hàng

ngầm trên thế giới vẫn là một thách thức đối với lực lượng an ninh các nước.

6. Tại các quốc gia khác:

6.1. Tại Israel:

Cơ quan cảnh sát điều tra Tel-Aviv đã thực hiện lệnh bắt khẩn cấp 24 cán bộ

chủ chốt và nhân viên quan trọng của ngân hàng Farmer tại thủ đô Tel-Aviv vì những

tội danh liên quan đến đường dây rửa tiền xuyên quốc gia có quy mô lớn chưa từng có

trong lịch sử nước này.

Ngân hàng Farmer là ngân hàng thương mại lớn nhất của Israel, chiếm 31%

tổng tài sản hệ thống ngân hàng của quốc gia này. Hoạt động giao dịch của ngân hàng

Farmer chiếm 1/3 các hoạt động giao dịch của toàn bộ hệ thống ngân hàng tại Israel.

Sau khi phát hiện các hoạt động mờ ám, cảnh sát đã chính thức tiến hành điều

tra toàn bộ hoạt động và lập tức phong tỏa 180 tài khoản trị giá hơn 278 triệu USD của

18 khách hàng gửi trong chi nhánh này. Ngoài ra hơn 200 khách hàng khác có số tiền

gửi trên 250.000 USD có nguồn gốc không rõ ràng cũng bị triệu tập cơ quan điều tra để

thẩm vấn. Cảnh sát Israel còn phối hợp cảnh sát Pháp và Luxemburg để điều tra các tài

khoản chuyển tiền từ nước ngoài.

Các khách hàng có máu mặt liên quan đến vụ án này đa số là các nhà kinh

doanh nổi tiếng người Israel và người nước ngoài, trong đó có cả Gusinsky, trùm

truyền thông người Nga gốc Do Thái, người bị Chính Phủ Nga truy nã gắt gao đang

lưu vong ở Anh.

Chiều ngày 06/03/2005, cơ quan điều tra Israel đã tiến hành khám xét văn

phòng đại diện của Gusinsky tại Tel-Aviv và tịch thu toàn bộ giấy tờ tài liệu trong văn

phòng ông ta. Trong số người có liên quan đến vụ án rửa tiền còn có đại xứ quán Israel

tại Anh.

Theo tiết lộ của cảnh sát Israel, các cách thức rửa tiền của đường này như sau:

- Những ông trùm sẽ chuyển 1 lượng lớn tiền phạm pháp vào các tài khoản cá

nhân dùng để giao dịch và chuyển vào hàng chục công ty ma do họ lập ra trên khắp

toàn cầu và sau những vòng quanh co cuối cùng số tiền đó được rửa sạch và nằm trong

vỏ bọc các tài khoản lẻ và nó quay về túi chủ nhân của chúng.

- Hay một cách khác cũng thường được các ông trùm rửa tiền vận dụng đó là

chia nhỏ số tiền bất hợp pháp thành những khoản khác nhau tại ngân hàng (theo quy

định của chính phủ Israel những người có tài khoản vượt quá 250.000 USD sẽ buộc

phải báo cáo về nguồn gốc tiền của số tiền đó).

- Hay chuyển 1 lượng lớn tiền cần rửa vào tài khoản tại 1 ngân hàng nào đó và

vay lại chính ngân hàng đó bằng số tiền đã gửi rồi mang đi nước ngoài hợp pháp.

- Chỉ tính trong năm 2004, số tiền phi pháp được rửa tại chi nhánh ngân hàng Farmer

lên tới hàng trăm triệu USD.

6.2. Tại Đức:

Công ty địa ốc SPAG ở St Petersburg bị các công tố viên Đức buộc tội làm sạch

“hàng chục triệu Euro” cho “một trong những tập đoàn tội phạm lớn và mạnh nhất của

Nga”.

Chi nhánh của SPAG ở Hensen, Đức đã bị cảnh sát nước này lục soát cùng 27

hãng khác hồi tuần trước. Giới chức Đức ra thông báo cho biết tập đoàn tội phạm rửa

tiền nêu trên được cho là đóng đô ở St Petersburg, đã dính líu tới “buôn lậu xe hơi,

rượu, buôn người”.

Theo các công tố viên, thủ đoạn rửa tiền của bọn tội phạm là sử dụng một trang

web của các công ty đa quốc gia, kêu gọi đầu tư vốn vào SPAG, rồi sau đó chuyển tiền

trở lại Nga để đầu tư nhà đất.

SPAG từng bị cơ quan tình báo Đức điều tra vì nghi ngờ rửa tiền cho các băng

nhóm tội phạm Nga và trùm ma túy Colombia. Thông tin này công bố trên các tờ

Newsweek và Le Monde hồi năm 2000 và 2001.

Theo Le Monde, căn cứ tài liệu tình báo của Đức cho biết, theo kết quả điều tra

Gangster Nga chuyển tiền qua một thành viên hội đồng tư vấn SPAG tên là Rudolf

Ritter tới các tài khoản ở Romania, sau đó dùng tiền này để mua nhà đất thông qua chi

nhánh SPAG tại St Petersburg.