Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
MỤC LỤC
Mục lục.................................................................................................................. 1
Lời mở đầu ............................................................................................................ 3
Chương 1: Nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của
Ngân hàng thương mại....................................................................................... 5
1.1 Những hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại ............................... 5
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM..................................... 5
1.1.2 Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại ............................... 8
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế.13
1.2 Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại ...................................................17
1.2.1 Cơ cấu và nguồn hình thành nên nguồn vốn của NHTM ..................17
1.2.2 Tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hệ thống NHTM ..28
1.2.3 Nguyên tắc và mục tiêu trong công tác huy động vốn của NHTM ....30
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của NHTM ..............33
1.3.1 Các nhân tố bên ngoài Ngân hàng ....................................................34
1.3.2 Các nhân tố thuộc về Ngân hàng ......................................................36
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển thành phố Hà nội ..........................................................................42
2.1 Khái quát chung về chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội ......................42
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng ĐT&PT Hà nội ...42
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội............44
2.1.3 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội ...45
2.1.4 Kết quả đạt được từ các hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội trong những năm gần đây ......................................................46
2.2 Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Hà nội ...........................................................................................52 2.3 Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội ..................................................................................62
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
2.3.1 Thành tựu đạt được trong công tác huy động vốn của Ngân hàng
trong những năm vừa qua..........................................................................62
2.3.2 Những hạn chế cần khắc phục trong công tác huy động vốn.............64
2.3.3 Những nhân tố tác động tới công tác huy động vốn của Chi nhánh
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội trong thời gian qua .........................................66
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân
Hàng Đầu Tư và Phát Triển Hà nội ...................................................................71
3.1 Mục tiêu và phương hướng tăng cường công tác huy động vốn tại Chi
nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội trong thời gian tới ...................................71
3.1.1 Mục tiêu ...........................................................................................71
3.1.2 Phương hướng chiến lược nguồn vốn trong thời gian tới ..................73
3.2 Các giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng
ĐT&PT Hà nội trong thời gian tới.................................................................76
3.2.1 Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp cho từng thời kỳ..............76
3.2.2 Cải tiến nghiệp vụ, đa dạng hoá các hình thức huy động ..................77
3.2.3 Đa dạng hoá và nâng cao các loại hình dịch vụ Ngân hàng...............78
3.2.4 Sử dụng lãi suất linh hoạt trong từng thời kỳ, đáp ứng sự biến động
của thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng ....................79
3.2.5 Gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn....................................80
3.2.6 Tăng cường công tác Marketing trong tất cả các mảng hoạt động của
Ngân hàng .................................................................................................81
3.2.7 Nâng cao vị thế và tuy tín của Ngân hàng.........................................82
3.2.8 Xây dựng trụ sở và trang bị hệ thống máy móc thiết bị để tạo ra hình
ảnh tốt về Ngân hàng.................................................................................83
3.3 Một số kiến nghị nhằm thực hiện các giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội....................84 3.3.1 Kiến nghị với Nhà nước ...................................................................84 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước .................................................86
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng ĐT&PT Việt nam.....................................90
Kết luận ................................................................................................................91
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là điều kiện tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.
Ở việt nam hiện nay, vốn đang trở thành một vấn đề cấp thiết cho quá trình tăng
trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên để huy động được khối lượng
vốn lớn từ nền kinh tế trong nước là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt
nam nói chung và đối với hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng. Trong điều
kiện thị trường chứng khoán phát triển chưa tương xứng với nhu cầu rất lớn của
nền kinh tế thì quá trình nhận và điều chuyển vốn trên thị trường chủ yếu được
thực hiện thông qua hệ thống Ngân hàng thương mại_Nơi tích tụ, tập trung, khơi
dậy và động viên các nguồn lực cho sự phát triển nền kinh tế đất nước và trên thực
tế ở nước ta có hơn 80% lượng vốn trong nền kinh tế là do hệ thống Ngân hàng
cung cấp. Điều này cho thấy, việc tăng cường công tác huy động vốn, đảm bảo
chất lượng và số lượng vốn luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu trong quá trình
hoạt động của bất kỳ một NHTM nào.
Là một thành viên của hệ thống Ngân hàng Việt nam, Ngân hàng ĐT&PT
Hà nội phải chung sức thực hiện nhiệm chung của toàn ngành, làm thế nào để huy
động được vốn đáp ứng cho sự nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước,
phát triển kinh tế địa phương là một vấn đề đang được Ngân hàng rất quan tâm.
Trong thời gian học tập tại trường và thực tập tại Ngân hàng ĐT&PT Hà nội,
em nhận thấy công tác huy động vốn luôn giữ vị trí rất quan trọng đối với hệ thống
NHTM trong việc đáp ứng vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, góp phần thực hiện
chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước. Hơn nữa trong thời gian gần đây việc
huy động vốn của Ngân hàng đang gặp phải rất nhiều khó khăn do tình trạng khan
hiếm vốn đối với các NHTM nói chung, do vậy đây là một vấn đề đang được các
Ngân hàng rất quan tâm. Vì lý do này em đã chọn đề tài: “Giải pháp tăng cường
công tác huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thành phố Hà nội”.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Đề tài được hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng cùng với việc phân tích thực trạng công tác huy động vốn
tại Ngân hàng ĐT&PT Hà nội trong những năm gần đây. Qua đó nhận thấy được
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân để trên cơ sở đó em mạnh dạn đề xuất
một số giải pháp và đưa ra một số kiến nghị nhằm tăng cường công tác huy động
vốn tại Ngân hàng ĐT&PT Hà nội.
Ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm 3
chương:
Chương 1: Nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn
của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn của Ngân hàng ĐT&PT Hà
nội.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn của Ngân hàng
ĐT&PT Hà nội.
Đây là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có quá trình nghiên cứu ở cả tầm vi
mô và tầm vĩ mô. Nhưng do thời gian nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận và thực
tiễn, cùng với trình độ hiểu biết còn hạn chế. Do vậy mà bài viết của em còn nhiều
điểm chưa đề cập đến và còn những thiếu sót nhất định. Nên em rất mong nhận
được sự đóng góp và chỉ bảo của các thầy cô và các bạn đọc. Em xin chân thành
cảm ơn Cô giáo Cao Thị Ý Nhi đã tận tình chỉ bảo và các cô chú, các anh chị đang
công tác tại phòng Nguồn vốn-Kinh doanh và các phòng ban khác của Ngân hàng
đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài tốt nghiệp này.
Em chân thành cảm ơn!
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
CHƯƠNG 1 NGUỒN VỐN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
1.1.1.1 Định nghĩa ngân hàng thương mại
Để đưa ra một định nghĩa về Ngân hàng thương mại người ta thường phải
dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính. Theo luật
Ngân hàng Pháp năm 1941 định nghĩa: ”Được coi là Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình
thức ký thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các
nghiệp vụ, chiết khấu hay tài chính”.
Ở nước ta trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước, “Thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở
hữu và thu nhập hợp pháp, các hình thức sở hữu có thể hỗn hợp, đan xen với nhau
hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng, các doanh nghiệp không phân biệt
quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng
trước pháp luật”. Theo hướng đó nền kinh tế hàng hoá phát triển tất yếu sẽ tạo
những tiền đề cần thiết cho những hoạt động của ngành Ngân hàng nói chung và sự
ra đời của nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Cho nên để
tăng cường quản lý, định hướng hoạt động cho các Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác, tạo thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế đồng thời bảo vệ lợi ích
hợp pháp của các tổ chức và cá nhân, pháp lệnh Ngân hàng, Hợp Tác Xã Tín dụng
và Công ty Tài chính đã xác định” Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán”.
1.1.1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại.
a Lịch sử hình thành
Lịch sử đã ghi nhận sự ra đời và phát triển của ngành Ngân hàng được quyết
định bởi quá trình phát triển của các quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Nghề Ngân hàng bắt
đầu từ nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng, việc lưu hành từng đồng
tiền của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế
đã tạo ra nhu cầu đổi tiền hoặc đúc tiền tại các cửa khẩu hoặc trung tâm thương
mại. Người làm nghề đúc tiền hoặc đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách
đổi ngoại tệ lấy bản tệ hoặc ngược lại, lợi nhuận thu được là chênh lệch giữa giá
mua và giá bán. Bên cạnh các nghệp vụ trên, người làm nghề đổi tiền, đúc tiền còn
thực hiện cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Việc cất trữ hộ người khác là điều kiện để thực
hiện thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt, với ưu điểm của thanh toán
không dùng tiền mặt đã thu hút khách hàng gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu
thông tiền kim loại các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, vừa cất trữ hộ và thanh
toán hộ_Các cửa hàng vàng bạc loại này gọi là Ngân hàng của những thợ vàng.
Ban đầu các Ngân hàng hoạt động bằng vốn tự có để tài trợ cho các hoạt động của
mình nhưng điều đó không kéo dài. Từ thực tiễn, các Ngân hàng nhận thấy thường
xuyên có người gửi tiền và người rút tiền song tất cả các người gửỉ tiền không cùng
đồng thời rút tiền ra cùng một lúc nên luôn có một lượng tồn khoản khá lớn nằm
tại Ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, chủ Ngân hàng có thể sử dụng tạm
thời một phần tiền gửi của khách hàng để cho vay. Từ đó các hoạt động cơ bản của
Ngân hàng ngày càng hình thành và phát triển
b Lịch sử phát triển
Hình thức Ngân hàng đầu tiên là Ngân hàng của các thợ vàng hoặc của
những kẻ cho vay nặng lãi - Thực hiện cho vay đối với các cá nhân, chủ yếu là
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
những người giàu nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng. Nhiều chủ Ngân hàng
lớn còn mở rộng cho vay đối với các vua chúa- hình thức cho vay chủ yếu là thấu
chi. Sau này khi sản xuất phát triển hơn, quan hệ trao đổi, mua bán sản phẩm, hàng
hoá giữa các vùng, các quốc gia diễn ra sôi động hơn thì các nhà buôn nhận thấy
rằng các Ngân hàng thợ vàng này không đáp ứng được nhu cầu của họ. Do vậy một
só nhà buôn đã tự thành lập Ngân hàng và gọi là NHTM. Như vậy NHTM được
thành lập xuất phát từ tư bản thương nghiệp gắn liền với quá trình luân chuyển của
tư bản thương nghiệp. Các NHTM này vừa thực hiện phát hành tiền vừa thực hiện
kinh doanh do vậy mà trong lưu thông đã tồn tại nhiều loại tiền khác nhau gây khó
khăn cho lưu thông. Các ngniệp vụ Ngân hàng thời kỳ này đã bao gồm hầu hết các
nghiệp vụ của Ngân hàng đương đại. Tuy nhiên điểm khác biệt giữa NHTM và
Ngân hàng thợ vàng là NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết
khấu thương phiếu - Đây là các khoản cho vay ngắn hạn dựa trên quá trình luân
chuyển của hàng hoá với lãi suất thấp hơn so với lợi nhuận được tạo ra do sử dụng
tiền vay. Để đảm bảo an toàn tài sản, ban đầu Ngân hàng không cho vay đối với
người tiêu dùng, không cho vay đối với nhà nước, không cho vay trung và dài hạn.
Đến cuối thế kỷ XVIII lưu thông hàng hoá được mở rộng cả về qui mô và
phạm vi. Trong bối cảnh ấy việc có nhiều Ngân hàng phát hành với nhiều loại giấy
bạc khác nhau đã cản trở quá trình phát triển kinh tế. Mặt khác sự phá sản của
nhiều Ngân hàng đã gây tổn thất lớn cho người gửi tiền nói riêng và nền kinh tế nói
chung. Đặc biệt sau khủng hoảng kinh tế 1929-1933 thì xu hướng chung trên toàn
thế giới là quốc hữu hoá các Ngân hàng phát hành, các Ngân hàng này không được
phép phát hành kỳ phiếu, phát hành giấy bạc Ngân hàng. Chuyển chức năng này về
NHTƯ, NHTƯ không chỉ phát hành giấy bạc Ngân hàng mà còn thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về lĩnh vực Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng, đó là sự ra đời
của NHTƯ. Còn các Ngân hàng khác chỉ thực hiện chức năng nhận tiền gửi, cho
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
vay, đầu tư và làm dịch vụ thanh toán và goi các Ngân hàng này là các Ngân hàng
chuyên doanh hay Ngân hàng thương mại.
Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu
thế chung của nền kinh tế thế giới thì hệ thống NHTM đã phát triển ngày càng đa
dạng về loại hình, phạm vi, về qui mô, về chất lượng hoạt động và có mối liên kết
trên toàn cầu.
1.1.2 Chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Chức năng của Ngân hàng thương mại
Một là: Chức năng là trung gian tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường các giao dịch kinh tế diễn ra rất sôi động đã tạo
ra những khoản thu nhập, chi tiêu và tích luỹ bằng tiền của các tầng lớp trong xã
hội. Quá trình đó làm hình thành nên những người có tiền tích luỹ có khả năng
cung cấp tín dụng và những người có nhu cầu tín dụng để đáp ứng cho nhu cầu đầu
tư phát triển. Nhưng làm thế nào để họ tìm gặp được nhau và làm sao có thể cùng
thoả mãn những nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiền tiết kiệm
đang nằm phân tán trong xã hội mà mỗi khoản tiết kiệm lại theo đuổi một mục đích
riêng.
Nhờ có thị trường tài chính và cơ chế chuyển giao vốn năng động của thi
trường tài chính mà trong đó hệ thống NHTM giữ vai trò chủ đạo, NHTM hoạt
động như một chiếc cầu nối giữa khả năng cung ứng vốn và nhu cầu về vốn tiền tệ
trong xã hội. Là trung gian tín dụng, Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới
giữa một bên là người có tiền cho vay và một bên là những người có nhu cầu chi
tiêu cần đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, bằng những biện pháp, chính
sách và áp dụng những phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại Ngân hàng có
khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để phân bổ vốn
cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Như vậy có nghĩa là Ngân hàng đã biến những
đồng tiền tạm thời nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động, biến những đồng tiền
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
tệ nằm phân tán thành nguồn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh
doanh, qua dó phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Hai là: Chức năng làm trung gian thanh toán
Trong đời sống hàng ngày diễn ra hàng tỷ lượt giao dịch, thanh toán bằng
tiền mặt. Nếu như mọi khoản thanh toán đầu thanh toán bằng tiền mặt trao tay thì
sẽ kéo theo hàng loạt các công việc phức tạp và tốn kém mà nhiều khi còn gặp rủi
ro không lường trước được. Khi NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình làm
trung gian tín dụng Ngân hàng đã thu hút được hầu hết các nhà kinh doanh có quan
hệ buôn bán với nhau mở tài khoản tại Ngân hàng tạo cơ sở cho các Ngân hàng
đứng ra làm trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản bằng cách trích số
dư tiền gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người bán, tiến
hành các nghiệp vụ này Ngân hàng trở thành là người thủ quỹ và là bộ máy kế toán
đáng tin cậy của các nhà kinh doanh trong việc làm trung gian nhận và trả tiền theo
yêu cầu của họ, kế toán và kết toán tài khoản cho họ. Do đó, quá trình thực hiện
chức năng này hệ thống NHTM đã góp phần quan trọng làm giảm bớt khối lượng
lưu thông tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông thuần tuý, giúp cho việc thanh toán
tiền hàng hoá dịch vụ được thuận lợi, nhanh chóng, an toàn. Đối với Ngân hàng
thực hiện chức năng này tạo cho Ngân hàng có thể duy trì và nâng cao khả năng
thanh toán, quản lý được tình hình thu chi của các đơn vị qua đó có các quyết định
kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và an toàn tài sản cho khách hàng và
Ngân hàng.
Ba là: Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Quá trình tạo tiền của NHTM bắt nguồn từ quá trình phát triển hoạt động tín
dụng gắn liền với việc mở rộng thanh toán qua Ngân hàng. Qua việc thực hiện hai
chức năng trên Ngân hàng đã thu hút được một lượng khách hàng và số lượng tiền
gửi khá lớn tại Ngân hàng, bằng cách dùng tiền gửi của người này để cho người
khác vay và người này lại tạo nên tiền gửi của người khác nằm trong cùng hệ thống
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Ngân hàng. Quá trình đó NHTM đã tự tạo được khối lượng tiền gửi tăng thêm
nhiều lần từ số tiền gửi đầu tiên (Tiền gửi sử dụng Sec), khối lượng tiền đó sẵn
sàng cung ứng cho nhu cầu thanh toán vì người ta có thể viết Sec để rút tiền từ tài
khoản tiền gửi của họ, Sec được sử dụng làm phương tiện thanh toán thay thế cho
tiền trong việc mua bán hàng hoá và chi trả dịch vụ khác.
1.1.2.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, từ khi ra đời và phát triển
NHTM đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền
kinh tế thế giới. Ở tất cả các nước, hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển,
đóng vai trò tập trung những khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cung ứng
vốn cho các nhà đầu tư cần vốn- Đó chính là quá trình huy động vốn và sử dụng
vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình NHTM đã đóng góp một lượng vốn
đáng kể và hàng loạt các dịch vụ Ngân hàng khác cho nền kinh tế.
Một là: Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, là
cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một khối
lượng lớn tiền tạm thời nhà rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và thực hiện các
dịch vụ Ngân hàng cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó tiến hành cấp phát tín dụng
cho các thành phần kinh tế, những tổ chức và cá nhân cần vốn để phục vụ cho nhu
cầu chi tiêu của mình. Tức là Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một
bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay và một bên là những người cần
vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là Ngân hàng đã trở thành người khơi thông
và kích hoạt các nguồn vốn, làm cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lãi.
Những hoạt động đó của NHTM đã thực sự tác động điều hoà cung cầu tiền tệ,
biến những đồng tiền nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung
vốn vào việc tài trợ cho các ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
người lao động và bằng những khoản tín dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động
có thêm điều kiện ổn đinh và cải thiện đời sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho các nhà kinh doanh trong việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ các
điều kiện do Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh nghiệp
nhận được đều phải trả lãi và khi hết thời gian sử dụng phải hoàn trả gốc. Vì vậy để
đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho
Doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần phải thẩm định phương án sử
dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả thi của dự án, thẩm định các
yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình độ nhân viên, tài sản đảm bảo…)
một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây
dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sau khi cho Doanh nghiệp vay
vốn, Ngân hàng vẫn tiếp tục tiến hành giám sát quá trình sử dụng vốn vay của
Doanh nghiệp và thông qua hoạt động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp
Doanh nghiệp quản lý tốt hơn về vốn và sử dụng vốn.
Ba là: Ngân hàng khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế.
Bất kỳ đối tượng nào trong nền kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng đều được
hưởng lãi, điều đó có nghĩa là thu nhập của người gửi tiền sẽ tăng lên. Người gửi
tiền có thể gửi theo bất kỳ phương thức nào, bất kỳ thời hạn nào, Các cá nhân có số
tiền nhàn rỗi chưa sử dụng đến thì có thể gửi vào Ngân hàng khi cần thì có thể rút
ra bất cứ lúc nào. Thông qua chính sách lãi suất Ngân hàng đã khuyến khích khách
hàng tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để có thể tăng tiêu dùng trong tương lai.
Bốn là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự dịch chuyển của vốn
đầu tư dẫn đến bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và phát triển vùng.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Trong hoạt động tài trợ của mình, Ngân hàng có thể tài trợ đối với tất cả các
đơn vị và cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Với hệ thống
các Ngân hàng chuyên doanh cùng với mạng lưới chân rết của mình, NHTM có
mặt ở hầu hết các địa bàn trong phạm vi cả nước. Thông qua đó Ngân hàng sẽ tiến
hành cho vay đối với những ai cần vốn mà đáp ứng được các điều kiện của Ngân
hàng thì Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay. Ngoài ra khi có sự ưu tiên của nhà nước
về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế nào đó thì Chính phủ đưa ra những
chính sách riêng cho từng vùng và thông qua hệ thống NHTM sẽ tiến hành cung
ứng vốn cho những vùng đó. Hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển
đã làm cho việc di chuyển vốn diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực
lượng bình quân từ tất cả các ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn
được dịch chuyển từ vùng thừa vốn sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển
đồng đều giữa các ngành, xoá dần sự khác biệt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn
định.
Năm là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.
Với đặc điểm của NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với các hoạt
động chủ yếu là huy dộng vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung gian thanh
toán. Lượng tiền trong lưu thông được Ngân hàng kiểm soát. Thông qua các khoản
mục của NHTM, NHTƯ sẽ xác định được lượng tiền mặt đang lưu thông trong nền
kinh tế, từ đó để có các biện pháp kiểm soát nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh
hưởng xấu có thể xảy ra. Trường hợp nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ
của mình, NHTƯ sẽ tiến hành điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất
chiết khấu hoặc tái chiết khấu, tham gia vào thị trường mở để tác động tới NHTM
để qua đó làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông.
Sáu là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu- thúc đẩy phát
triển thương mại quốc tế.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hoá và
toàn cầu hoá thì các mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai trò
ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Cùng hoà chung với xu thế đó NHTM cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc
đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội nhập vời nền kinh tế thế giới. Bằng các hoạt
động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện các hình thức thanh toán, bảo
lãnh… đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển hàng hoá dịch vụ giữa các quốc gia
với nhau một cách thuận lợi và nhanh chóng.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
1.1.3.1 Nhận tiền gửi
Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các khoản tiền
gửi từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của các cá nhân,
của các tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi
đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng là đến rút tiền ở Ngân hàng. Qua
hoạt động này Ngân hàng đã thu hút một lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi để phục
vụ cho các hoạt động của mình như hoạt động cho vay và thông qua đó cung cấp
phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
1.1.3.2 Hoạt động tài trợ của ngân hàng
Trên cơ sở lượng tiền gửi từ nền kinh tế mà Ngân hàng đã tiếp nhận và quản
lý được sau khi trừ đi phần dự trữ cần thiết theo qui định, phần còn lại sẽ được
Ngân hàng sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của mình. Do tính đa dạng của
khách hàng và nhu cầu phong phú về phương thức sử dụng tiền tài trợ của khách
hàng nên Ngân hàng đã thiết lập và xây dựng các phương thức tài trợ khác nhau.
a Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của chính phủ và TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
thường là cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc thu chưa đủ thì chính phủ các
nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Phương thức được
sử dụng nhiều nhất là Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ mua bán tín phiếu, trái phiếu
hoặc làm đại lý phát hành các giấy tờ có giá cho Chính phủ, qua nghiệp vụ này một
mặt vừa thực hiện nghĩa vụ với nhà nước mặt khác vừa đem lại thu nhập cho Ngân
hàng.
b Tài trợ cho nền kinh tế
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì vấn đề sống còn là phải có nguồn lực
tài chính đủ mạnh, trước hết là dể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mặt
khác là để mở rộng qui mô và tham gia cạnh tranh để đứng vững trong nền kinh tế
thị trường. Nguồn lực này thì ngoài nguồn vốn tự có của các Doanh nghiệp
(thường chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ), thì phần lớn các doanh nghiệp đều phải dựa và
nguồn vốn tín dụng Ngân hàng. Tuỳ theo nhu cầu và loại hình kinh doanh mà
Ngân hàng chấp nhận cấp tín dụng theo các phương thức khác nhau trên cơ sở thoả
mãn các điều kiện vay vốn do Ngân hàng đưa ra. Khi thực hiện nghiệp vụ này thì
nó đem lại lợi nhuận rất lớn cho Ngân hàng và đây là nguồn thu chủ yếu của Ngân
hàng.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và theo mục đích nhất
dịnh trên cơ sở với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là phương thức phổ
biến nhất trong hoạt động tài trợ của Ngân hàng đối với khách hàng.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn kéo dài trên cơ
sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng và khách
hàng đi thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó hoặc
tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Trong thời hạn cho thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng. Hình
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
thức này giúp người thuê có ngay tài sản có giá trị lớn để phục vụ cho sản xuất
nhưng người thuê phải trả lãi suất thuê thường cao hơn các hình thức vay khác.
Góp vốn đầu tư: Là hình thức Ngân hàng cùng với một số đối tác cùng góp
vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình thức đầu tư trực
tiếp hoặc đầu tư gián tiếp, và Ngân hàng được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như
một cổ đông thường.
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mua lại
các khoản nợ, hay chiết khấu các chứng từ có giá.
c Mua bán ngoại tệ
Đây là hình thức Ngân hàng làm trung gian trong việc chuyển đổi các đồng
tiền của các quốc gia với nhau theo nhu cầu của khách hàng dựa trên tỷ giá mua
bán các đồng tiền đó với nhau, qua hoạt động này Ngân hàng thu được lợi nhuận từ
chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Số lượng ngoại tệ mà Ngân hàng mua
được có thể dùng để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu vay bằng ngoại tệ
hoặc dùng để thanh toán trong các giao dịch bằng ngoại tệ.
d Các dịch vụ của Ngân hàng
Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ.
Thông qua việc thu hút khách hàng (Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài khoản
giao dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ quản lý tài khoản của khách hàng và tiến
hành chi trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản phải thu của chủ tài
khoản theo lệnh của họ. Thực hiện nghiệp này một mặt Ngân hàng giúp khách
hàng giảm bớt được chi phí trong quá trình thanh toán mặt khác Ngân hàng tập
trung được một lượng tiền lớn trong nền kinh tế để sử dụng cho các hoạt động của
mình.
Bảo quản vật có giá
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Đây là một dịch vụ mang lại thu nhập khá cao cho các Ngân hàng. Trên thế
giới dịch vụ này rất phát triển. Nội dung của nghiệp vụ này là các Ngân hàng cho
khách hàng thuê két của Ngân hàng để bảo quản tài sản của mình và thu phí từ hoạt
động cho thuê đó.
Dịch vụ bảo lãnh
Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng với
bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Muốn vạy khách hàng phải có
được sự đồng ý của Ngân hàng, nó phải tuân theo một qui trình bảo lãnh riêng. Khi
Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì Ngân hàng được hưởng một
khoản phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của từng
hợp đồng bảo lãnh.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn đầu tư
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính vì vậy có rất nhiều cá nhân và doanh nghệp đã nhờ Ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về
đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Với trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên và hệ thống cơ sở vật chất
kỹ thuật, Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các thông tin về chứng khoán và
đầu tư chứng khoán như các danh mục đầu tư, quản lý tài khoản, mua bán hộ, bảo
quản chứng khoán…
Cung cấp dịch vụ đại lý
Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh
hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi, nhiều Ngân hàng (thường là các Ngân hàng lớn)
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
cung cấp dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành
chứng chỉ tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2 NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Để thuận tiện chi việc đi sâu vào nghiên cứu nguồn vốn của Ngân hàng
thương mại, trước hết cần phải nắm bắt được định nghĩa nguồn vốn của NHTM là
gì?
“Vốn của Ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo
lập hoặc huy động được dùng để đầu tư, cho vay hoặc thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM. Nó quết định sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng”
1.2.1 Cơ cấu và nguồn hình thành nên nguồn vốn của NHTM
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi
trong sản suất kinh doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau.
Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển
đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng và các hoạt động về
nguồn vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phất triển của cấc Ngân hàng
thương mại. Nguồn vốn đóng vai trò chi phối và quyết định đối với các hoạt động
của các NHTM trong việc thực hiện các chức năng của mình.
Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm:
1.2.1.1 Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng
Vốn thuộc sở hữu của NHTM chiếm một tỷ trọng nhỏ trong các khoản mục
tạo nên nguồn vốn (thường chỉ chiếm 5% trong tổng nguồn vốn) nhưng nó có vai
trò cực kỳ quan trọng đối với các Ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định
nên Ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như trang bị cơ sở
vật chất kỹ thuật, tạo tài sản cố định phục vụ cho bản thân Ngân hàng, có thể sử
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
dụng cho vay, đặc biệt là đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo
vệ, vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng được coi như là tài sản đảm bảo gây lòng tin
với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán cho khách hàng khi Ngân hàng hoạt
động thua lỗ. Hơn nữa nó là một căn cứ quyết định đối với qui mô và khối lượng
vốn huy động cũng như hoạt động cho vay và bảo lãnh của Ngân hàng. Quy mô và
sự tăng trưởng vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng sẽ quyết định năng lực phát triển
của NHTM. Khi đánh giá về qui mô của một NHTM thì tiêu chí đầu tiên được đề
cập là vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng đó.
Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng bao gồm:
a Vốn điều lệ: Là mức vốn được hình thành khi Ngân hàng được thành lập. Vốn
điều lệ luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu
phải có khi thành lập một Ngân hàng do pháp luật qui định. Vốn điều lệ được ghi
vào điều lệ thành lập Ngân hàng. Tuỳ thuộc vào loạ hình Ngân hàng mà vốn điều
lệ được hình thành từ những nguồn gốc khác nhau:
Ngân hàng quốc doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ Ngân sách nhà nước
cấp
Ngân hàng cổ phần: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các cổ
đông thông qua việc mua các cổ phiếu.
Ngân hàng liên doanh: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn góp của các bên
liên doanh.
Ngân hàng nước ngoài: Vốn diều lệ được hình thành từ 100% vốn nước
ngoài.
Ngân hàng tư nhân: Vốn điều lệ được hình thành từ vốn của chủ Ngân hàng.
b Các quỹ
Quỹ dự trữ: Nhằm để bổ sung vốn điều lệ.
Quỹ dự phòng rủi ro: Để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo vệ vốn điều lệ..
Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Lợi nhuận chưa chia.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
1.2.1.2 Nguồn huy động
Theo quan niệm của các nhà kinh tế học và các nhà Ngân hàng trong tổng
nguồn vốn của Ngân hàng ngoài nguồn vốn thuộc chủ sở hữu thì tất cả các nguồn
vốn còn lại được coi là nguồn vốn huy động. Như vậy nguồn vốn huy động của các
Ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng tới hơn 90% trong tổng nguồn vốn. Vì vậy
các hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn
vốn huy động này.
a Nhận tiền gửi
Là nguồn vốn mà Ngân hàng huy động được từ các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, cá nhân… trong xã hội thông qua quá trình nhận tiền gửi, thanh toán hộ,
các khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghịệp vụ kinh doanh khác. Bản chất của tài
khoản tiền gửi là tài sản thuộc sở hữu của các đối tượng khách hàng khác nhau,
Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng nó để cho vay, chiết khấu, thanh toán… nhưng
không có quyền sở hữu, Ngân hàng có trách nhiệm phải hoàn trả đúng hạn cả gốc
và lãi hoặc khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng. Tiền gửi chiếm một tỷ
trọng khá lớn trong nguồn vốn huy động của các Ngân hàng thương mại.
Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng thương mại rất đa dạng, tuỳ
thuộc vào các tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
a1 Theo tiêu thức nguồn hình thành
Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà cá nhân
và tổ chức trực tiếp chuyển vào Ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tết kiệm, doanh
nghiệp nộp tiền bán hàng…Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh
tế được Ngân hàng tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với kỳ hạn
và mục đích khác nhau, các cá nhân thường gửi tiền để hưởng lãi còn các tổ chức
doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng.
Tín dụng tạo tiền gửi: Ít người biết được rằng đây là một hình thức nhận tiền
gửi. Khi Ngân hàng cho khách hàng vay vốn thì Ngân hàng chuyển số tiền cho vay
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
của khách hàng vào tài khoản tiền gửi của khách hàng ngay trong Ngân hàng. Khi
khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay lập thì Ngân hàng có thể sử dụng số tiền
đó mặc dù với thời hạn rất ngắn.
a2 Theo tiêu thức kỳ hạn
Ngày nay người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để
có thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi và là cơ sở để Ngân hàng xây dựng chiến
lược dự trữ phù hợp và chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn đó vào quá trình
hoạt động kinh doanh.
Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là các khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định,
người gửi tiền có thể rút ra bất kỳ lúc nào tuỳ theo nhu cầu của mình do đó lãi suất
của loại tiền gửi này thường thấp hơn so với các loại tiền gửi có kỳ hạn xác định.
Tiền gửi không kỳ hạn đáp ứng nhu cầu của những khách hàng chưa có dự định rõ
ràng trong tương lai. Đây là hình thức chủ yếu được các doanh nghiệp lựa chọn
nhằm mục đích giao dịch trong kinh doanh. Do vậy lượng tiền gửi không kỳ hạn
thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Với
đặc tính của nguồn tiền này là luôn biến động cho nên Ngân hàng chỉ được sử dụng
một tỷ lệ phần trăm(%) nhất định của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được nhất
định tuỳ thuộc vào dự tính của Ngân hàng về sự ổn định tương đối của lượng tiền
huy động được trong thời gian tới. Quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan
trọng của quả lý dự trữ của Ngân hàng.
Tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thõa thuận giữa người gửi
tiền và Ngân hàng về số lượng, kỳ hạn và lãi suất của khoản tiền gửi dó. Do có sự
xác định rõ ràng về kỳ hạn nên Ngân hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn
tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung và
dài hạn. Do đặc tính của khoản tiền gửi này là có độ ổn định cao nên Ngân hàng
chủ động trong việc sử dụng nguồn tiền đó để phục vụ cho hoạt động kinh doanh
của mình, vì vậy Ngân hàng trả lãi cho người gửi tiền cao hơn lãi suất của loại tiền
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
gửi không kỳ hạn và tiền giửi thanh toán, Ngân hàng đưa ra các kỳ hạn khác nhau
như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, Mức lãi suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, nếu kỳ hạn
càng dài thì lãi suất càng cao. Các khách hàng gửi tiền theo loại này thì khi đến hạn
sẽ được hoàn trả cả gốc và lãi theo qui định, nếu chưa đến hạn mà khách hàng gửi
tiền rút tiền ra trước thì khách hàng chỉ được hưởng lãi suất của tiền gửi không kỳ
hạn.
a3 Theo tiêu thức loại tiền
Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi cơ bản mà các Ngân hàng thương mại
nhận được, nguồn vốn nội tệ là nguồn vốn chủ yếu đối với các Ngân hàng, nó phụ
thuộc vào mức thu nhập trong nước và lãi suất huy động trong từng thời kỳ, loại
tiền này thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượng tiết kiệm.
Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh nhận tiền gửi nội tệ, Ngân hàng còn nhận tiền
gửi dưới dạng ngoại tệ đặc biệt là các ngoại tệ mạnh như USD, FRF, GBP, DEM…
Những ngoại tệ này cũng rất cần thiết trong hoạt động của Ngân hàng như kinh
doanh ngoại tệ trong nước, trong quan hệ tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc
tế…các Ngân hàng có xu hướng mở rộng kinh doanh đối ngoại thường có nguồn
vốn ngoại tệ lớn. Nhận tiền gửi bằng ngoại tệ là một phương thức đa dạng hoá về
phương thức huy động vốn của các Ngân hàng thương mại.
a4 Theo tiêu thức mục đích sử dụng
Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của cá nhân với mục đích là
tìm kiếm một khoản thu nhập với số tiền nhàn rỗi của mình. Thông thường tiền gửi
có khối lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối
tượng giảm chi tiêu trong hiện tại với kỳ vọng sẽ tăng được chi tiêu trong tương
lai. Phương thức gửi tiền tiết kiệm chủ yếu là nộp tiền trực tiếp vào Ngân hàng
hoặc gián tiếp chuyển thu nhập dưới hình thức chuyển qua tài khoản.
Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước phát
triển, thường sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình. Những người
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
để dành một khoản tiền gửi vào Ngân hàng (Thông thường là các khoản tiền đều
đặn hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất định trong tương lai
như xây dựng nhà cửa, mua ôtô… và cũng được hưởng lãi trên số tiền gửi như các
loại tiết kiệm khác. Khi có nhu cầu sử dụng tiền vào mục đích nói trên, nếu số dư
của khoản tiết kiệm đó chưa đủ thì Ngân hàng có thể hỗ trợ thêm một phần dưới
hình thức cho vay với một lãi suất hợp lý đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên. Đây là
một hình thức huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính chất ổn định,
đồng thời có tác dụng tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân về việc mua sắm
nhà cửa, phương tiện.
Tiền gửi thanh toán: Là các khoản ký gửi của cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh không nhằm mục đích tìm kiếm thêm thu nhập mà để
được hưởng các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng, thông thường các khoản tiền
gửi thanh toán có số lượng lớn. Mặt khác một số Ngân hàng thường ưu tiên hơn
đối với các doanh nghiệp mở tài khoản tại Ngân hàng và phải có số dư nhất định
trên tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng. Các khoản tiền gửi này Ngân hàng phải chịu
chi phí thấp, phải quản lý chính xác khâu dự trữ nhưng lại được sử dụng một khoản
tiền lớn phục vụ cho các hoạt động của mình.
Các khoản tiền gửi thanh toán một mặt làm phát triển hệ thống thanh toán
không dùng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng, tiết kiệm chi phí trong lưu thông,
mặt khác kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp. Khi thực hiện chức
năng là trung gian thanh toán cho nền kinh tế, Ngân hàng tạo được một nguồn vốn
từ hoạt động thanh toán: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi chờ
thanh toán… Các khoản tiền tạm thời đang nằm ở tài khoản của Ngân hàng chờ sử
dụng nên được coi là nhàn rỗi. Ngân hàng thương mại cũng thu hút được một
lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho
các tổ chức tín dụng khác, nhận vốn uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
nước…. Do tiền được giải ngân theo tiến độ công việc nên Ngân hàng có thể sử
dụng tạm thời các khoản tiền đó vào kinh doanh.
b Vốn vay
Tiền gửi mà Ngân hàng nhận được là nguồn vốn mà Ngân hàng có được một
cách thụ động. Trong hoạt động của mình nếu như thiếu vốn thì Ngân hàng phải
chủ động tìm kiếm vốn để thực hiện các hoạt động của mình. Nguồn vốn mà Ngân
hàng chủ động tạo nên đó là nguồn vốn vốn vay. Vậy các Ngân hàng đi vay khi
nào?
Thứ nhất: Vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh toán của Ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của Ngân hàng là nhận tiền gửi với
trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử
dụng. Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà Ngân hàng nhận
được trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút thì Ngân hàng sẽ gặp
khó khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng nghĩa là Ngân hàng thiếu tiền
trả cho khách hàng. Vậy Ngân hàng phải đi vay.
Thứ hai: Vay hộ cho khách hàng
Vì hoạt động cơ bản của Ngân hàng là tài trợ cho nền kinh tế nên khi khách
hàng có nhu cầu vay vốn Ngân hàng và đảm bảo các yêu cầu do Ngân hàng đặt ra
thì Ngân hàng sẽ cho vay. Tuy nhiên với những khách hàng vay với khối lượng
lớn, thời hạn dài mà Ngân hàng lại không muốn dùng toàn bộ số tiền của mình có
để đầu tư cho dự án này (vì rủi ro đem lại có thể rất cao) nhưng Ngân hàng cũng
không muốn mất khách hàng nên họ thoả thuận với nhau qua đó Ngân hàng thay
mặt khách hàng phát hành trái phiếu để thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ
vốn cho dự án. Người ta chỉ phát hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng
và trong một thời hạn bằng thời gian tồn tại của dự án.
Thứ ba: Vay để cho vay
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành tiền gửi tại các Ngân
hàng nghĩa là các Ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền trong lưu thông. Để
tăng lượng tiền gửi của mình các Ngân hàng thường tăng lãi suất để thu hút các
khoản tiền gửi ở các Ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi một Ngân hàng
tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các Ngân hàng khác cũng đồng loạt
tăng lãi suất lên làm chi phí Ngân hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại thay đổi
không đáng kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà Ngân hàng cho là
có hiệu quả thì Ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất hoạt động
không đồng đều giữa các Ngân hàng về huy động vốn và sử dụng vốn và vậy
những Ngân hàng thiếu vốn có thể đi vay ở những Ngân hàng còn thừa vốn chưa
sử dụng hết hoặc đi vay vốn từ NHTƯ hoặc các định chế tài chính khác. Mặt khác
do Ngân hàng dự đoán được sự gia tăng của nhu cầu tín dụng trong tương lai mà
nguồn vốn huy động chưa thể đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn rrong thời kỳ tới thì
Ngân hàng thực hiện đi vay vốn để đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Thứ tư: Vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau.
Vào cuối kỳ hạch toán, nếu các chủ Ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ
đó lớn nghĩa là kỳ đó họ phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ
sẽ có những khoản chi phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả lãi
trước nhằm tăng chi phí cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau
Như vậy Ngân hàng sẽ đi vay với các lý do trên, với các mục đích vay khác
nhau Ngân hàng sẽ áp dụng các hình thức vay khác nhau.
b1 Kỳ phiếu có mục đích
Khi các Ngân hàng muốn có một khoản tài chính để tài trợ cho các dự án có
qui mô lớn, thời hạn dài hoặc tăng qui mô hoạt động của các Ngân hàng hoặc liên
doanh với các tổ chức khác mà nguồn vốn vốn hiện tại chưa đáp ứng được, Ngân
hàng có thể phát hành kỳ phiếu để tạo nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư cho
các hoạt động này. Có thể kỳ phiếu là một chứng chỉ nhận nợ của Ngân hàng có
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
mục đích kỳ hạn rõ ràng. Kỳ phiếu của Ngân hàng phát hành để huy động vốn từ
dân cư và các tổ chức kinh tế để tạo lập nguồn vốn trung và dài hạn dể tài trợ cho
các hoạt động của mình. Khi Ngân hàng muốn giảm chi phí cho kỳ sau thì Ngân
hàng phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả trước.
b2 Trái phiếu
Trái phiếu Ngân hàng thực chất là một giấy nhận nợ của Ngân hàng với
khách hàng. Phát hành trái phiếu Ngân hàng nhằm tập trung vốn trung và dài hạn
để tài trợ cho các dự án lớn theo yêu cầu phát triển trên địa bàn hoặc tập trung vốn
tài trợ cho các dự án được Chính phủ chỉ định. Ngân hàng phát hành trái phiếu chủ
yếu là để vay hộ khách hàng. Trái phiếu khác kỳ phiếu có mục đích ở chỗ kỳ phiếu
có mục đích thường được sử dụng linh hoạt hơn như kỳ phiếu có thể được phát
hành ở từng chi nhánh trên cơ sở được sự chấp thuận của NHTƯ với khung lãi suất
và thời hạn phát hành riêng biệt. Còn trái phiếu thường được phát hành với qui mô
lớn hơn và đồng loạt trong cả hệ thống Ngân hàng.
Như vậy trái phiếu và kỳ phiếu có mục đích đều được Ngân hàng phát hành
với mục đích huy động vốn trung và dài hạn và là khoản vay của các Ngân hàng
trên thị trường. Ngoài ra còn có các hình thức vay khác.
b3 Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng và vốn vay từ Ngân hàng trung ương
Tuỳ theo tình hình hoạt động của Ngân hàng trong từng thời kỳ và lý do của
các khoản vay của mình mà Ngân hàng có những hình thức vay phù hợp. Với các
hình thức vay như trên Ngân hàng có thể mất rất nhiều thời gian. Đối với mục đích
sử dụng ngay như để đảm bảo khả năng thanh khoản cho Ngân hàng thì hai hình
thức vay vốn trên không phù hợp. Ngân hàng có thể sử dụng phương thức khác
như vay vốn ở các tổ chức tín dụng khác hoặc vay ở NHTƯ. Thực tế cho thấy hoạt
động huy động vốn và sử dụng vốn thì không đồng đều giữa các Ngân hàng, ở
những thời điểm có những Ngân hàng thiếu vốn nhưng lại có những Ngân hàng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
tạm thời đang thừa vốn thì các Ngân hàng này có thể vay mượn lẫn nhau vì mục
đích của cả đôi bên. Hơn nữa các Ngân hàng đều làm trung gian thanh toán cho
nền kinh tế nên các Ngân hàng đều mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau và trong những
trường hợp Ngân hàng nào đó thiếu vốn để thanh toán chi khách hàng của mình thì
Ngân hàng kia có thể cho vay để Ngân hàng đó đảm bảo khả năng thanh toán.
Trong những trường hợp cấp bách mà Ngân hàng không thể vay được ở các Ngân
hàng khác thì có thể vay ở NHTƯ vì NHTƯ là người cho vay cuối cùng đối với
các NHTM. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn mà NHTƯ chia
thành các loại sau:
Vốn vay ngắn hạn bổ sung: Là hình thức mà NHTM xin vay vốn bổ sung
nguồn vốn ngắn hạn của mình. Trong trường hợp này các NHTM chỉ được vay khi
còn hạn mức tín dụng theo qui định của NHTƯ.
Vốn vay để đảm bảo khả năng chi trả: Các NHTM vay vốn của NHTƯ để
bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán hoặc thiếu hụt trong dự trữ (thường là
vay với thời hạn ngắn).
Tái cấp vốn: NHTƯ cho các NHTM vay vốn trên cơ sở các chứng từ có giá.
Các chứng từ này phải hợp lệ, hợp pháp và an toàn. Tái cấp vốn gồm có các hình
thức: Cho vay bằng chiết khấu hoặc tái chiết khấu giấy tờ có giá và cho vay có bảo
đảm.
Tuy nhiên việc NHTM vay vốn ở NHTƯ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ
quốc gia trong từng thời kỳ mà NHTƯ có thể cho vay với khối lượng, thời hạn, lãi
suất, hạn mức… khác nhau để thực hiện chính sách tiền tệ của mình.
Như vậy với đặc điểm tiện lợi của kỳ phiếu, trái phiếu hoặc vốn vay từ các
tổ chức tín dụng khác hoặc vay ở NHTƯ là tuỳ theo mục đích sử dụng của các
khoản vay cùng với tính cân đối giữa nguồn vốn và cho vay tại những thời kỳ nhất
định. Với một tỷ lệ lãi suất đủ sức hấp dẫn, Ngân hàng có thể chủ động huy động
được lượng vốn cần thiết trong thời gian ngắn. Vì vậy các hoạt động về nguồn vốn
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
ngày nay được gọi là nguồn vốn chủ động thu gom của các Ngân hàng và hoạt
động quản lý dự trữ. Hơn nữa việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu ngoài mục đích
huy động còn có mục đích khác như kiềm chế lạm phát, góp phần hình thành và
phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán- Một kênh huy động vốn trung
và dài hạn hữu hiệu của nền kinh tế.
c Nguồn vốn khác
c1 Điều chuyển vốn
Ngày nay hệ thống NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty và các
công ty con gồm Ngân hàng mẹ và các hệ thống các Ngân hàng Chi nhánh trực
thuộc. Có một phương thức huy động vốn rất hiệu quả hiện nay là chu chuyển vốn
điều hoà. Do tình hình hoạt động của các chi nhánh tại các địa bàn khác nhau là
khác nhau (do ảnh hưởng của điều kiện phát triển kinh tế của từng vùng, do phong
tục tập quán…) Cho nên những Chi nhánh Ngân hàng mà hoạt động sử dụng vốn
vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên Ngân hàng mẹ và xin
được nhận được một lượng vốn điều hoà cần thiết cho hoạt động của mình. Còn
những Ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt qúa khả năng sử dụng vốn thì
đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về Ngân hàng mẹ để được
hưởng lãi suất điều hoà. Như vậy Ngân hàng mẹ chịu trách nhiệm điều chuyển vốn
từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh trong cùng hệ thống. Chi phí nhận
nguồn vốn điều hoà này thấp hơn chi phí nguồn vốn huy động nhưng các Ngân
hàng chỉ được nhận nguồn vốn này sau khi đã lập kế hoạch về lượng vốn huy động
được trong kỳ sau.
c2 Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
Một số Ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ Ngân hàng đại lý. Khi đó trong
nguồn vốn của Ngân hàng còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Nguồn vốn
này được hình thành chủ yếu là do các tổ chức tài chính trong nước hoặc nước
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
ngoài uỷ thác cho Ngân hàng một khoản tiền để Ngân hàng thực hiện cho vay đối
với các dự án của mình, cũng có thể là các khoản vay của Chính phủ được uỷ thác.
Trên đây là các nguồn hình thành nên nguồn vốn của các NHTM, nhìn qua
ta thấy trong cơ cấu tổng nguồn vốn thì vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng
cao nhất (trên 90%), nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử
dụng vốn của Ngân hàng. Vì vậy từng Ngân hàng phải có những chiến lược huy
động vốn của riêng mình trên cơ sở phù hợp với điều kiện thực tế của từng Ngân
hàng và của môi trường kinh doanh để không ngừng nâng cao thị phần huy động
nhằm phục cụ tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
1.2.2 Tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hệ thống NHTM
Cũng như các ngành nghề kinh doanh khác, để cho hoạt động kinh doanh
được diễn ra thường xuyên và liên tục thì cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng
thương mại là một Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ trong đó tiền là nguyên liệu
chính trong việc tạo ra sản phẩm Ngân hàng, là một thứ nguyên liệu độc tôn không
thể thay thế. Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản xuất của Ngân hàng là hoạt động huy
động vốn. Do đặc trưng của nguồn vốn huy động là luôn có một lượng tồn khoản
rất lớn và Ngân hàng có thể sử dụng lượng tồn khoản này để phục vụ cho qúa trình
hoạt động kinh doanh của mình. Nên tình hình hoạt động của Ngân hàng phụ thuộc
rất lớn vào tình hình huy động vốn của chính Ngân hàng đó.
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô hoạt
động của các Ngân hàng.
Nguồn vốn khả dụng của Ngân hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở
rộng hay thu hẹp tín dụng, hoạt dộng bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán của
Ngân hàng. Thông thường so với các Ngân hàng nhỏ thì các Ngân hàng lớn có các
khoản mục về đầu tư, cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng tín dụng cũng
lớn hơn. Trong khi các Ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt dộng chủ yếu
trong một khu vực nhỏ hay trong một quốc gia. Nếu khả năng vốn của Ngân hàng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
lớn thì Ngân hàng có thể mở rộng qui mô khối lượng tín dụng, có thể tài trợ cho
các dự án lớn (về qui mô tín dụng, về thời hạn tín dụng…) và sẵn sàng đáp ứng
nhu cầu của khách hàng về các dịch vụ của Ngân hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn huy động giúp Ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Trong cơ cấu vốn của Ngân hàng thì ngoài phần vốn tự có thì còn có vốn
huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác. Một Ngân hàng không thể chỉ hoạt
động với nguồn vốn tự có và vốn đi vay vì vốn tự có của Ngân hàng chỉ chiếm một
tỷ trộng nhỏ trong tổng cơ cấu vốn của Ngân hàng còn vốn vốn đi vay thì Ngân
hàng phải phụ thuộc vào dối tượng cho vay về thời hạn, số lượng và các chi phí
khác. Do đó có thể Ngân hàng sẽ bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh. Ngược lại nếu
Ngân hàng có lượng vốn lớn sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình.
Nguồn vốn lớn làm tăng khả năng hoạt động của Ngân hàng như chủ động đa dạng
hoá các hình thức và phương thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng lợi
nhuận, phục vụ cho mục tiêu cuối cùng của Ngân hàng là an toàn và sinh lời.
Thứ ba: Vốn huy động giúp Ngân hàng nâng cao vị thế của mình trong lòng
thị trường.
Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình thì
Ngân hàng phải tạo được niềm tin với khách hàng. Điều này được thể hiện ở khả
năng sẵn sàng thanh toán cho khách hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng cao
chỉ khi Ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn. Mặt khác uy tín của Ngân hàng còn
thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của Ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể cho
vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như Ngân hàng có nguồn vốn lớn và ổn
định- Điều này phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của Ngân hàng.
Thứ tư: Vốn huy động quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng.
Để có thể chiến thắng trong cạnh tranh thì ngoài việc phải có chiến lược
cạnh tranh hợp lý thì yếu tố vế khả năng tài chính luôn giữ vai trò quyết định cuối
cùng. Nếu Ngân hàng có nguồn vốn khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế cả về qui mô, khối lượng tín dụng, chủ
động về thời gian và thời hạn cho vay thậm chí trong việc điều chỉnh lãi suất cho
vay để thu hút khách hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn có thể phát triển thêm nhiều
loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như liên doanh liên
kết. đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ… Bằng chính những hoạt
động này sẽ góp phần phân tán rủi ro, thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng thị
phần, nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng… Từ đó sẽ nâng cao hiệu quả
kinh doanh của Ngân hàng.
Nhận thức được vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của NHTM, nên từng
Ngân hàng phải hoạch định được chiến lược huy động vốn cho đơn vị mình nhằm
chủ động tạo lập được nguồn vốn ổn định và không ngừng tăng trưởng để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của mình- Đó là yếu tố đầu tiên quyết định đến hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng.
1.2.3 Nguyên tắc và mục tiêu trong công tác huy động vốn của NHTM
1.2.3.1 Nguyên tác huy động vốn
Nguyên tắc thứ nhất: Việc huy động vốn phải trên cơ sở nhu cầu cho vay.
Ngân hàng phải tính toán nhu cầu cho vay để xác định số vốn cần huy động. Phải
đảm bảo cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn về qui mô, về thời hạn để nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng.
Nguyên tắc thứ hai: Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng (bao gồm các
Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp tư nhân, các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã
hội và các tầng lớp dân cư) phải có trách nhiệm hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả vốn
lẫi lãi theo thoã thuận trước giữa Ngân hàng và khách hàng.
Để đảm bảo khả năng chi trả theo nguyên tắc trên, pháp lệnh Ngân hàng,
Hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính quy định các NHTM phải mở tài khoản
tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước và duy trì trên tài khoản đó số tiền dự trữ bắt buộc
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
(do Ngân hàng nhà nước qui định), Ngân hàng không được huy động quá 20 lần
tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ của mình.
Nguyên tắc thứ ba: Ngân hàng không được phát hành trái phiếu mà việc
phát hành trái phiếu đó tạo cho các chủ sở hữu giành được quyền quản lý trực tiếp
và gián tiếp đối với Ngân hàng.
1.2.3.2 Mục tiêu trong công tác huy động vốn
Mục tiêu trong công tác huy động vốn là cơ sở cho việc đề ra kế hoạch và
chiến lược về nguồn vốn của Ngân hàng. Như trên chúng ta đã nghiên cứu, nguồn
vốn của Ngân hàng khá đa dạng, bao gồm nhiều thành phần. Một số thành phần
không ổn định nhưng có khả năng giao dịch cao và lãi suất thấp. Ngược lại một số
thành phần hạn chế khả năng phát hành Sec, có tính ổn định cao nhưng lãi suất
cao. Do đó chi phí vốn, cơ cấu vốn, tính chất ổn định, thời hạn của nguồn vốn là
nhân tố quan trọng đánh giá chất lượng nguồn vốn và là mục tiêu mà các Ngân
hàng đều hướng tới. Đây là những yếu tố quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu
vừa an toàn vừa có lợi nhuận cao của Ngân hàng.
Một là: Tìm kiếm nguồn vốn rẻ.
Chi phí trả lãi được coi là chi phí lớn nhất trong các chi phí của Ngân hàng.
Trong đó lớn nhất là chi phí trả lãi đầu vào cho tiền gửi có kỳ hạn và trả lãi trái
phiếu và kỳ phiếu... Định kỳ Ngân hàng lập biểu về số dư và lãi suất tương ứng để
xác định vốn huy động bình quân và tính toán chi phí trả lãi. Thông thường có ba
cách trả lãi : Trả lãi trước, trả lãi khi đến hạn và trả lãi nhiều lần theo định kỳ. Mỗi
cách trả lãi khác nhau sẽ ảnh hưởng đến chi phí khác nhau. Quản lý chi phí trả lãi
là hoạt động thường xuyên và quan trọng của các Ngân hàng. Mỗi sự thay đổi về
lãi suất hay cơ cấu nguồn vốn đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi, từ đó ảnh
hưởng đến thu nhập của Ngân hàng. Việc tính chi phí của từng nguồn vốn cụ thể TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
cho phép các nhà quản lý xác định nguồn vốn nào rẻ hơn, có nên thay đổi lãi suất
hay không, thu nhập từ tài sản tăng thêm có đủ bù đắp chi phí của nguồn vốn tăng
thêm hay không. Về nguyên tắc, những nguồn vốn có thời hạn càng ngắn và tính
ổn định thấp thì chi phí nguồn vốn cũng phải thấp tương ứng. Tuy nhiên nguồn rẻ
thì lại đồng nghĩa với giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng. Tính chi phí một cách
chính xác cho phép Ngân hàng chủ động lựa chọn những nguồn vốn khác nhau và
đảm bảo doanh thu đủ bù đắp chi phí và đem lại tỷ lệ thu nhập mong đợi.
Hai là: Tạo ra nguồn vốn ổn định và cơ cấu phù hợp.
Cơ cấu vốn cần đa dạng thể hiện ở việc duy trì một tỷ lệ giữa vốn huy động
ngắn hạn và dài hạn, giữa vốn nội tệ và ngoại tệ. Một Ngân hàng có chất lượng huy
động vốn cao sẽ có nguồn vốn dồi dào và cơ cấu vốn cân đối, tránh cho Ngân hàng
rơi vào tình trạng căng thẳng về tài chính trong điều kiện môi trường kinh doanh
thường xuyên thay đổi.
Hơn nữa Ngân hàng phải dự đoán xu hướng biến đổi cơ cấu nguồn vốn huy
động. Yếu tố này cũng rất quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng vốn
của Ngân hàng. Mỗi loại nguồn vốn có điểm mạnh, điểm yếu riêng biệt trong việc
huy động và khai thác. Do đó sự biến động về cơ cấu vốn sẽ kéo theo sự biến đổi
trong cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh… và kéo theo sự thay đổi lợi nhuận, rủi ro
trong hoạt động Ngân hàng. Sự biến đổi cơ cấu vốn huy động phụ thuộc một phần
vào kế hoạch điều chỉnh của Ngân hàng và những nhân tố bên ngoài Ngân hàng
đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu và tiếp cận thị trường.
Ba là: Xây dựng qui mô và sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định.
Quy mô vốn huy động có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân
hàng. Ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cần có quy mô vốn tương đối lớn, trong
đó vốn huy động là một bộ phận quan trọng. Không thể nói đến chất lượng huy
động vốn tốt nếu việc huy động không đáp ứng được nhu cầu về khối lượng vốn
kinh doanh. Khối lượng vốn phải đạt tới qui mô nhất định theo kế hoạch huy động
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
của Ngân hàng. Để thực hiện tốt vấn đề này cần kết hợp hài hoà các yếu tố khác
như lãi suất, chính sách Marketing khách hàng, các hình thức huy động vốn, uy tín
của khách hàng…
Tuy nhiên không phải cứ có nguồn vốn lớn đã là tốt, nó cần phải phù hợp
với qui mô hoạt động của Ngân hàng, mức vốn tự có, khả năng cho vay và đầu tư
của Ngân hàng… Hơn nữa việc mở rộng hoạt động chỉ thực sự an toàn khi nguồn
vốn huy động luôn có tốc độ tăng trưởng ổn định. Nếu qui mô vốn hiện tại lớn
nhưng Ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán được xu hướng của các dòng
tiền gửi vào và rút ra trong giai đoạn tiếp theo thì sẽ rất khó khăn trong việc cho
vay va đầu tư và mất đi sự chủ động của mình.
Bốn là: Điều hành tốt nguồn vốn phục vụ kinh doanh.
Trong hoạt động Ngân hàng thường xuyên xảy ra tình trạng không cân đối
về vốn giữa các chi nhánh trong cùng hệ thống, giữa các Ngân hàng. Nếu có công
tác quản lý huy động vốn hợp lý thì Ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong việc giải
quyết tình trạng thừa thiếu tạm thời này. Một số biện pháp thường sử dụng như
điều chuyển vốn giữa các chi nhánh (trong trường hợp mất cân đối nội bộ), vay các
Ngân hàng khác, vay NHTƯ…Chất lượng huy động ở đây thể hiện ở việc đưa ra
quyết định lựa chọn đúng đắn, có lợi nhất đối với Ngân hàng, đảm bảo sự chủ động
trong kinh doanh.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Cũng như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được thì
trước hết phải có vốn. Nhưng mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt đó
là tiền tệ. Thực tế các NHTM kinh doanh “quyền sử dụng vốn tiền tệ”. Do đó nhu
cầu về vốn của các NHTM là rất lớn và việc tạo lập vốn cho Ngân hàng là một vấn
đề quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Để tạo lập và
duy trì được khối lượng vốn với qui mô lớn và có tính ổn định cao thì Ngân hàng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
phải có chiến lược khai thác vốn hợp lý trên cơ sở tận dụng tối đa những nhân tố
tích cực và hạn chế những nhân tố tiếu cực ảnh hưởng tới công tác huy động vốn
của Ngân hàng. Cụ thể trong công tác huy động vốn của các NHTM chịu ảnh
hưởng của các nhân tố sau.
1.3.1 Các nhân tố bên ngoài Ngân hàng
1.3.1.1 Chu kỳ phát trỉển kinh tế
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một nhân tố vĩ mô có tác động trực
tiếp đến hoạt động của NHTM nói chung và đến hoạt động huy động vốn nói riêng.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển tăng trưởng và ổn định, thu nhập của người
dân được đảm bảo và ổn định thì nhu cầu tích luỹ của dân cư cao hơn từ đó lượng
tiền gửi vào Ngân hàng tăng lên hay khả năng huy động vốn tăng lên. Mặt khác khi
nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định thì nhu cầu sử dụng vốn tăng lên, Ngân
hàng có thể mở rộng khối lượng tín dụng bằng cách tăng lãi suất huy động nhằm
kích thích người dân gửi tiền vào Ngân hàng để tạo nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu
cầu tiền tín dụng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào tình trạng suy
thoái, thu nhập thực tế của người lao động giảm và ngày càng biến động, điều này
sẽ làm giảm lòng tin của khách hàng vào sự ổn định của đồng tiền hơn nữa khi thu
nhập thấp thì lượng tiền nhàn rỗi trong toàn nền kinh tế sẽ giảm xuống mà lượng
tiền dân cư đã ký thác vào hệ thống Ngân hàng còn có nguy sơ bị rút ra. Khi đó
Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản ký dự trữ và củng
cố lòng tin của khách hàng vào hệ thống Ngân hàng.
1.3.1.2 Môi trường pháp lý
Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của Ngân hàng đều phải chịu
sự điều chỉnh của pháp luật. Các hoạt động của các NHTM chịu sự điều chỉnh của
luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của nhà nước.
Mặt khác, ở Việt nam hiện nay các NHTM được tổ chức theo mô hình tổng công ty
do vậy các chi nhánh Ngân hàng trong hoạt động của mình ngoài việc phải tuân TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
thủ theo pháp luật và các văn bản dưới luật của nhà nước ban hành còn phải tuân
thủ theo các quy định mà NHTƯ ban hành cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự
trữ, hạn mức cho vay… trong sự ràng buộc của pháp luật, các yếu tố của nghiệp
vụ huy động vốn thay đổi làm thay đổi qui mô và chất lượng hoạt động huy động
vốn. Mặt khác, các NHTM là các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, là
lĩnh vực chứa đựng rủi ro rất lớn do vậy mà Ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ các
qui định của pháp luật.
1.3.1.3 Môi trường cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh là hiện tượng phổ biến và khách
quan. Ngành Ngân hàng là một trong những ngành có mức độ cạnh tranh cao và
ngày càng phức tạp. Trong những năm qua, thị trường tài chính ngày càng trở nên
sôi động hơn do sự tham gia của nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ chức tài
chính phi Ngân hàng. Hiện nay số lượng Ngân hàng được phép hoạt động ngày
càng tăng cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của nhiều tổ chức phi Ngân
hàng, trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế là có
hạn . Từ đó làm mất tính độc quyền của hệ thống Ngân hàng và ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
Ngoài ra, hình thức cạnh tranh không đa dạng như các ngành khác làm cho
tính cạnh tranh của Ngân hàng ngày càng cao. Các Ngân hàng cạnh tranh chủ yếu
bằng hình thức lãi suất và dịch vụ. Hiện nay ở nước ta các Ngân hàng chủ yếu cạnh
tranh bằng hình thức lãi suất, chưa phổ biến hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ. Do
đó Ngân hàng phải xây dựng được mức lãi suất như thế nào là hợp lý nhất, hấp dẫn
nhất kết hợp với danh tiếng và uy tín của mình để tăng được thị phần huy động.
Điều này là rất khó khăn vì nếu lãi suất cao hơn đối thủ cạnh tranh thì lãi suất cho
vay cũng phải tăng lên để đảm bảo Ngân hàng vẫn có lãi, nếu lãi suất thấp hơn thì TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
không hấp dẫn được khách hàng. Do cạnh tranh tăng lên, lãi suất huy động hiện
nay có xu hướng tăng lên trong khi các dịch vụ liên quan dến tiền gửi không tăng
lên một cách tương ứng.
1.3.1.4 Yếu tố tiết kiệm của dân cư
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng chủ yếu được hình thành từ việc
huy động các nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư. Đây là lượng tiền nhàn rỗi chủ
yếu có được do việc người dân tiết kiệm tiêu dùng ở hiện tại để kỳ vọng sẽ được
chi tiêu nhiều hơn trong tương lai. Do đó công tác huy động vốn của Ngân hàng
chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố này. Nếu không có tiết kiệm thì sẽ không có vốn
để đầu tư cho sản xuất và ngược lại.
Yếu tố tiết kiệm của dân cư lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như thu nhập
của dân cư, thói quen chi tiêu bằng tiền mặt và đặc biệt là sự ổn định của nền kinh
tế. Nếu nền kinh tế mất ổn định, giá trị đồng tiền luôn biến động thì xu hướng
chung của dân cư sẽ đổi các đồng tiền bản tệ ra các đồng tiền mạnh (Ngoại tệ) hay
cất trữ vàng bạc, mua bất động sản.. là những tài sản có tính ổn định cao hơn.
Ngoài ra việc phân bố dân cư ở các vùng lãnh thổ khác nhau thì yếu tố tâm
lý, văn hoá và lối sống cũng khác nhau. Do đó. Ngân hàng phải nắm bắt được yếu
tố tâm lý của dân từ đó để đưa ra các hình thức huy động vốn phù hợp.
1.3.2 Các nhân tố thuộc về Ngân hàng
1.3.2.1 Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng
Mỗi Ngân hàng phải tự hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh
riêng biệt, phù hợp với các điều kiện bên trong và bên ngoài Ngân hàng. Chiến
lược kinh doanh có tính quyết định tới hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Ngân
hàng cần phải xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm
mạnh, điểm yếu, thấy được những cơ hội và thách thức. Trên cơ sở đó dự đoán sự
thay đổi của môi trường để xây dựng được chiến lược kinh doanh phù hợp mà
trong đó chiến lược phát triển qui mô và chất lượng nguồn vốn là một bộ phận TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
quan trọng trong chiến lược tổng thể của Ngân hàng. Trong từng thời kỳ, dựa trên
chỉ tiêu được giao về hoạt động huy động vốn , sử dụng vốn và các hoạt động khác
của NHTƯ cùng với tình hình thực tế của từng Ngân hàng, Ngân hàng phải lập kế
hoạch và lên cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Nếu nhận thấy trong năm
có những dự án tốt cần vay vốn với khối lượng lớn, thời hạn dài thì Ngân hàng sẽ
có kế hoạch huy động vốn để tìm kiếm được nguồn vốn tương ứng bằng cách đưa
ra các loại hình huy động với lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn đa dạng. Còn nếu nhận thấy
trong năm tới Ngân hàng cần phải thu hẹp khối lượng tín dụng thì Ngân hàng sẽ có
kế hoạch huy động một lượng vốn vừa đủ để tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn. Mặt
khác, trong chiến lược kinh doanh của mình Ngân hàng cần phải đặc biệt chú trọng
vào chi phí vốn mà Ngân hàng phải chịu trong khâu huy động. Phải tìm kiếm
nguồn vốn rẻ, thời hạn dài thông qua việc lựa chọn các hình thức huy động khác
nhau, có như vậy Ngân hàng mới chủ động trong việc tìm kiếm và sử dụng vốn.
1.3.2.2 Các hình thức huy động vốn, chất lượng các dịch vụ do Ngân hàng cung ứng và hệ thống các màng lưới
Một yếu tố ảnh hưởng đến qui mô và chất lượng nguồn vốn huy động là
hình thức, kỳ hạn và các dịch vụ cung cấp có liên quan như giao dịch tại nhà, rút
tiền tự động, tư vấn kinh doanh, dịch vụ thu tiền hộ... Ngoài ra còn có một số yếu
tố khác như thời gian và thủ tục giao dịch.
Do nhu cầu của khách hàng khi đến Ngân hàng là khác nhau nên việc thoả
mãn được những nhu cầu đa dạng của khách hàng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động huy động vốn. Trong nền kinh té thị trường thì hiện tượng cạnh tranh là
tất yếu, việc đáp ứng nhu cầu khách hàng là điều kiện tiên quyết dể đạt được thắng
lợi trong kinh doanh. Một Ngân hàng có các hình thức huy động và kỳ hạn huy
động vốn phong phú, linh hoạt, thuận tiện hơn sẽ có sức thu hút khách hàng mới và
duy trì những khách hàng hiện có hơn những Ngân hàng khác. Các Ngân hàng hiện
nay không chỉ huy động tiền gửi tiết kiệm mà còn khuyến khích người dân gửi tiền
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
dưới nhiều hình thức khác nhau như mở tài khoản tiền gửi, huy động qua kỳ phiếu,
trái phiếu phong phú cả về mệnh giă, kỳ hạn và chủng loại….
Khi hình thức huy động vốn đa dạng và hấp dẫn thì sẽ làm cho số lượng
người gửi tiền tăng lên và khi dó chi phí huy động sẽ giảm xuống. Hơn nữa, hình
thức huy động vốn phong phú cũng là điều kiện để thu hút những khoản vốn đa
dạng từ nhiều nguồn khác nhau với những tính chất khác nhau về số lượng, chất
lượng và kỳ hạn... Từ đó sẽ giúp Ngân hàng sử dụng vốn linh hoạt, an toàn và hiệu
quả hơn.
Dịch vụ Ngân hàng chỉ là sản phẩm phụ trong hoạt động của Ngân hàng
nhưng trong chiến lược cạnh tranh đã cho thấy Ngân hàng nào có dịch vụ đa dạng,
chất lượng dịch vụ cao, đáp ứng được những nhu cầu của khách hàng thì sẽ thu hút
được khách hàng đến với mình. Hiện nay với sự tham gia của nhiều loại hình Ngân
hàng và các tổ chức phi Ngân hàng cùng cạnh tranh với nhau, điều đó có nghĩa là
khách hàng càng có điều kiện thuận lợi để lựa chọn Ngân hàng tốt nhất đáp ứng
được nhu cầu của mình. Vì vậy dịch vụ Ngân hàng ngày càng đóng vai trò quan
trọng và chính là một yếu tố góp phần thu hút khách hàng có hiệu quả nhất.
1.3.2.3 Chính sách lãi suất
Điều đầu tiên mà bất kỳ một cá nhân hay tổ chức kinh tế nào cũng muốn
tham khảo khi gửi tiền vào Ngân hàng chính là lãi suất. Vì vậy chính sách lãi suất
là một trong những chính sách quan trọng nhất trong số các chính sách bổ trợ cho
công tác huy động vốn của Ngân hàng.
Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất như là một công cụ quan trọng trong
việc huy động và thay đổi qui mô nguồn vốn thu hút vào Ngân hàng, đặc biệt là
quy mô tiền gửi. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, Ngân hàng cần phải ấn
định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện ưu đãi về lãi suất cho khách hàng lớn, gửi
tiền thường xuyên.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Tuy nhiên không phải Ngân hàng cứ đưa ra mức lãi suất cao là thu hút được
nhiều nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi suất cụ thể
mà Ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiền mức lợi tức thực tế là bao
nhiêu. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất mà Ngân hàng đưa ra phải luôn đảm bảo
lớn hơn tỷ lệ lạm phát, do đó Ngân hàng phải dự đoán chính xác tỷ lệ lạm phát
trong từng thời kỳ để đưa ra mức lãi suất hợp lý. Ngoài ra khi quyết định đưa ra
mức lãi suất nào đó còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như thời gian đáo hạn
của khoản tiền gửi, khả năng chuyển hoán giữa các kỳ hạn, mức độ rủi ro và lợi
nhuận mang lại từ các khoản đầu tư khác, các qui định của nhà nước, qui định của
NHTƯ, mức lãi suất đầu ra mà Ngân hàng có thể áp dụng đối với các khách hàng
vay vốn.
Lãi suất càng cao thì càng hấp dẫn người gửi tiền nhưng lãi suất huy động
cao cũng có nghĩ là lãi suất cho vay cũng phải cao tương ứng thì Ngân hàng kinh
doanh mới có lãi. Mức lãi suất đủ cao để thu hút khách hàng nhưng cũng không
được cao quá để vẫn có thể thu hút được khách đi vay mà không làm giảm lợi
nhuận của Ngân hàng. Hơn nữa Ngân hàng phải tính đến chi phí huy động vốn của
mình và mặt bằng lãi suất huy động của Ngân hàng mình so với các Ngân hàng
khác.
1.3.2.4 Đổi mới công nghệ Ngân hàng nhất là khâu thanh toán
Cùng với việc đổi mới hoạt động Ngân hàng, các NHTM ngày càng chú
trọng tới việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động Ngân hàng, đặc
biệt là khâu thanh toán. Nhờ đó làm cho vốn luân chuyển nhanh, thuận tiện, đảm
bảo an toàn cho khách hàng trong việc gửi tiền, rút tiền và vay vốn. Nếu thực hiện
tốt khâu này thì sẽ hạn chế được việc lưu thông bằng tiền mặt vừa không hiệu quả
vừa không an toàn. Ngoài ra nếu tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt tăng lên thì
Ngân hàng sẽ thu hút được càng nhiều các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế
vào hệ thông Ngân hàng và góp phần làm giảm chi phí in ấn, bảo quản, kiểm đếm..
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Hiện nay các Ngân hàng đang vận động dân cư mở tài khoản tiền gửi thanh
toán, thực hiện quá trình thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ qua tài khoản tiền gửi
trong đó Ngân hàng đóng vai trò là người làm trung gian thanh toán, ngoài ra Ngân
hàng còn đưa ra các hình thức huy động vốn thông qua các hình thức hấp dẫn như
tiền gửi tiết kiệm ở một nơi có thể rút ở nhiều nơi, thực hiện thanh toán qua thẻ tín
dụng, thẻ tiền gửi...
Để thực hiện tốt vấn đề này, ngành Ngân hàng phải tiếp tục trang bị những
công nghệ hiện đại, nhất là khâu thanh toán. Mặt khác Ngân hàng cần nghiên cứu
để đưa ra các hình thức huy động vốn phù hợp. Từ đó tạo cho khâu thanh toán luân
chuyển vốn nhanh và thuận tiện cho công tác kiểm soát.
1.3.2.5 Hoạt động Marketing Ngân hàng
Đây là vấn đề hết sức quan trọng nhằm giúp cho Ngân hàng nắm bắt được
yêu cầu, nguyện vọng của khách hàng. Từ đó Ngân hàng đưa ra được các hình thức
huy động vốn, chính sách lãi suất, chính sách tín dụng... cho phù hợp. Đồng thời
các NHTM phải tiến hành thu thập thông tin đầy đủ, kịp thời để nắm bắt được nhu
cầu của thị trường từ đó để có các biện pháp hơn đối thủ cạnh tranh nhằm giành ưu
thế về mình.
1.3.2.6 Mức độ thâm niên và uy tín của Ngân hàng
Trên cơ sở thực tế sẵn có, mỗi Ngân hàng đã, đang và sẽ tạo được hình ảnh
riêng của mình trong lòng thị trường. Một Ngân hàng lớn, có uy tín sẽ có lợi thế
hơn trong các hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói
riêng. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho Ngân hàng có khả năng ổn định
khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phí huy động từ đó giúp Ngân hàng chủ
động hơn trong kinh doanh. Một Ngân hàng có một bề dày lịch sử với danh tiếng,
cơ sở vật chất, trình độ nhân viên… sẽ tạo ra hình ảnh tốt về Ngân hàng, gây được
sự chú ý của khách hàng từ đó lôi kéo được khách hàng đến quan hệ giao dịch với
mình. TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội
Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội có trụ sở tại 4B - Lê Thánh Tông - -
Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội được thành lập từ ngày 27/05/1957 theo Nghị Định
233/NĐ-TC_TCCP của Bộ Tài Chính. Hơn 45 năm, gần 1/2 Thế kỷ Ngân hàng ghi
dấu sự tồn tại và phát triển theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng với tên gọi lịch sử :
Chi hàng kiến thiết thành phố Hà Nội 1957 – 1981.
Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Thành phố Hà Nội 1982 – 1989.
Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội 1990 đến nay.
Trải qua hơn 45 năm phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng vầ bảo vệ Tổ Quốc, xây dựng nền kinh tế XHCN _ Ngân hàng đã không
ngừng phát triển và trưởng thành, cán bộ công nhân viên Ngân hàng ĐT&PT Hà
nội đã vững chí bền lòng, kiên trì thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng,
đồng thời là một tổ chức luôn gắn liền với những biến đổi lớn lao và sâu sắc về
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá qua mỗi thời kỳ lịch sử Thủ đô góp phần thêm
nét đẹp Thăng Long ngàn năm văn hiến, đó là một quá trình phấn đấu liên tục giữ
vững tôn chỉ, mục đích, bám sát thực tiễn, phát hiện và cổ vũ nhưng nhân tố mới,
những điển hình tiêu biểu, thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của ngành, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao.
Đất nước vào thời kỳ đổi mới đòi hỏi Ngân hàng phải chuyển biến mạnh về
chất, phải thực hiện huy động vốn để hoạt động, không trông chờ vào Ngân sách,
phải mở rộng diện hoạt động cả trong và ngoài nước để thực sự đi vào kinh doanh
tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Trước tình hình đó Ngân hàng ĐT&XD Hà
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
nội được chủ tịch HĐBT quyết định chuyển thành Ngân hàng ĐT&PT theo quyết
định số 401/CT ngày 14/01/1990, ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng
ĐT&PT nói riêng có bước ngoặt quan trọng, nhất là từ khi có 2 pháp lệnh về Ngân
hàng
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam, Ngân hàng ĐT&PT Hà
nội chủ yếu cung ứng vốn đầu tư cho những công trình then chốt phục vụ cho việc
xây dựng kinh tế Thủ đô. Theo tinh thần Nghị quyết ĐH VI và ĐH VII của Đảng,
cùng với sự chỉ đạo của Chính phủ, ngay từ đầu những năm 90 cùng với toàn
ngành CN Ngân hàng ĐT&PT Hà nội vừa thực hiện nhiệm vụ cấp phát vốn XDCB
theo kế hoạch Nhà nước vừa thí điểm thành công chuyển đổi cơ chế đầu tư, thực
hiện đa dạng hoá các hình thức tín dụng: Cho vay bảo đảm giá trị theo vàng(1992),
cho vay đầu tư chiều sâu bằng ngoại tệ(1993), cho vay uỷ thác tài trợ ODA(1994),
chủ động tạo lập tăng thêm nguồn vốn bằng nhiều hình thức: phát hành kỳ phiếu
đảm bảo theo giá trị vàng, huy động tiết kiệm xây dựng nhà ở, phát hành kỳ phiếu
bằng VND &USD, huy động tiết kiệm….
Đặc biệt từ ngày 01/01/1995 Ngân hàng ĐT&PT VN nói chung và Chi
nhánh Hà Nội nói riêng chuyển nhiệm vụ cấp phát vốn ĐTXDCB sang TC ĐTPT,
từ đó đã chuyển sang giai đoạn mới: Kinh doanh đa năng tổng hợp thực sự đã trở
thành một NHTM quốc doanh phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển
trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN như việc đa phương hoá, đa dạng
hoá hình thức và biện pháp huy động vốn phục vụ đầu tư và phát triển của Ngân
hàng. Vào ngày 16/12/1996 CN Ngân hàng ĐT&PT Hà nội được TGĐ NH
ĐT&PT VN chấp thuận theo tiêu chuẩn DNNN hạng 1 bao gồm 17 phòng, 04 Chi
nhánh trực thuộc với 12 bàn tiết kiệm, các điểm giao dịch Ngân hàng bán lẻ tại các
khu vực đông dân cư, các trọng điểm kinh tế thủ đô thu hút khách hàng đến gửi
tiền, quan hệ tín dụng và cung cấp dịch vụ Ngân hàng đối với từng cá nhân và các
tổ chức kinh tế.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội
Ngân hàng ĐT&PT Hà Nội có trụ sở chính tại 4B Lê Thánh Tông là DNNN
hạng 1 và 03 chi nhánh trực thuộc là chi nhánh khu vực Đông Anh, khu vực Thanh
Trì và khu vực Cầu Giấy.
Tại hội sở chính cơ cấu tổ chức của Ngân hàng ĐT&PT Hà nội như sau :
Về nguồn nhân lực của Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội bao gồm 341
cán bộ công nhân viên trong đó nữ là 220 người, 121 là nam. 12 người có trình độ
thạc sĩ chiếm 3,52 %. 234 người có trình độ đại học, chiếm 68,62 %. Còn lại là các
trình độ khác.
Ban Giám đốc gồm có 01 Giám Đốc là người có quyền cao nhất, giúp việc
cho Giám đốc là 03 Phó giám đốc. Và một số phòng ban chủ yếu sau:
Phòng Tài chính – Kế toán: Phòng tài chính kế toán là một đơn vị thuộc tổ
chức Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội, có nhiệm vụ tham mưu cho Giám đốc
tổ chức chỉ đạo, tham gia công tác hạch toán kế toán và quản lý thu chi tài chính
toàn chi nhánh và trực tiếp tổ chức và quản lý thu chi tài vụ tại hội sở phù hợp với
chế độ và pháp luật hiện hành.
Phòng Thẩm định kinh tế kỹ thuật và Tư vấn đầu tư: Là đơn vị thuộc
Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội, làm tham mưu cho giám đốc để chỉ đạo,
điều hành, kiểm tra công tác tín dụng, công tác thẩm định kinh tế kỹ thuật và tư
vấn đầu tư và trực tiếp thực hiện một số công việc thẩm định, kinh tế kỹ thuật và tư
vấn đầu tư theo đúng các chủ trương, chính sách, chế độ, thể lệ của Nhà nước,
Thống đốc NHNN và chỉ đạo của tổng giám đốc Ngân hàng ĐT &PT Việt nam.
Phòng Tín dụng: Phòng tín dụng là một đơn vị thuộc Chi nhánh Ngân hàng
ĐT&PT Hà nội, được tổ chức thành 04 phòng, các phòng tín dụng 1,2 và 4 có
nhiệm vụ tổ chức thực hiện việc kinh doanh tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
và dịch vụ ngân hàng đối với các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phần kinh tế
trung ương và kinh tế địa phương bằng cả nội tệ và ngoại tệ.
Phòng tín dụng 3 vừa làm tham mưu vừa tổ chức thực hiện việc kinh doanh
tiền tệ thông qua nghiệp vụ tín dụng và dịch vụ ngân hàng đối với các đơn vị và cá
nhân thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, coi trọng cổ phần hoá trong hoạt
động kinh tế.
Phòng Nguồn vốn - Kinh doanh: Phòng nguồn vốn và quản lý kinh doanh
là đơn vị thuộc tổ chức bộ máy Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội có chức năng
tham mưu cho Giám đốc trong công tác nguồn vốn, công tác tiếp thị và chỉ đạo
điều hành hoạt động kinh doanh của chi nhánh nói chung và công tác huy động
vốn của các TCTD, TCTC, TCXH….nói riêng.
Phòng Kinh tế đối ngoại và Thanh toán quốc tế: Phòng kinh tế đối ngoại
và thanh toán quốc tế là đơn vị thuộc Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội có
chức năng tham mưu cho giám đốc chỉ đạo, điều hành hoạt động quản lý ngoại hối,
các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại ; Trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ
ngân hàng đối ngoại.
Phòng Tổ chức cán bộ: Làm tham mưu cho giám đốc trong việc thực hiện
các chủ trương, chính sách của Đảng, chế độ, pháp luật của nhà nước và của ngành
về các mặt : Tổ chức bộ máy, cán bộ, đào tạo, lao động, tiền lương đáp ứng yêu
cầu hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
2.1.3 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng đầu tư và Phát triển Hà nội
Hiện nay với tư cách là một ngân hàng thương mại thực thụ, Chi nhánh
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh đa dạng phục vụ
chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển trong cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN, trong hoạt động kinh doanh Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội luôn
bám sát 4 định hướng lớn của ngành và tư tưởng chỉ đạo của ban lãnh đạo Chi
nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: “Phải tăng trưởng mạnh mẽ, đảm
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
bảo an toàn hệ thống, tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro, xây dựng cơ cấu hợp lý về
vốn, sử dụng vốn và công nghệ. Xây dựng tập thể vững mạnh, đặc biệt chăm lo đội
ngũ cán bộ và trí thức, kỹ năng, phẩm chất đạo đức. Chăm lo xây dựng lề lối,
phương thức quản trị điều hành, đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng”.
Trong thời gian qua Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã không ngừng
hoàn thiện và phát triển các dịch vụ của ngân hàng nhằm thu hút tối đa và làm
thoả mãn các nhu cầu của khách hàng với các hoạt động chính như sau :
Huy động vốn bằng VNĐ từ dân cư và các TCKT dưới mọi hình thức.
Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ (chủ yếu là USD)
Làm đại lý, uỷ thác cho vay, cấp vốn từ nguồn hỗ trợ từ các nước, các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt nam.
Đầu tư dưới các hình thức liên doanh với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước .
Thực hiện các dịch vụ chuyển tiền nhanh, thanh toán quốc tế, thanh toán qua
mạng WSIFT.
Thực hiện các dịch vụ thanh toán giữa Việt nam và Lào.
Làm đại lý thanh toán các loại thẻ thanh toán quốc tế như Visa, Sec du lịch, Master card.
Thực hiện các dịch vụ ngân quĩ như thu đổi ngoại tệ, thu đổi ngân phiếu, chi trả kiều hối, chi trả tận nhà.
Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.
Thực hiện các nghiệp vụ về bảo lãnh.
Làm đại lý về thuê mua tài chính.
Làm đại lý về thanh toán bảo hiểm nhân thọ.
Thực hiện các dịch vụ về tư vấn đầu tư.
2.1.4 Kết quả đạt được từ các hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà nội trong những năm gần đây
Trong bối cảnh cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng gay gắt, Chi
nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã triển khai có kết quả các giải pháp trong hoạt
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
động kinh doanh. Liên tục đổi mới toàn diện, sâu sắc cả về chiều rộng và chiều sâu
đáp ứng nhu cầu phát triển, đổi mới của đất nước và Thủ đô trên mọi lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội, giữ
vững vị thế chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư phát triển trên địa bàn Thủ đô. Kết quả
đó được thể hiện trên các mặt:
a Công tác nguồn vốn
Bảng 1: Tình hình huy động vốn từ năm 2000-2002
Đơn vị: Tỷ đồng
31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 Chỉ tiêu USD VNĐ USD VNĐ USD VNĐ
I. Tg Ngắn hạn
1. Tg của TCKT 102,2 934,9 96,9 1.357,1 160,2 1.623,1
2. Tg Tiết kiệm 67,4 192 283,9 230,8 254,3 119,1
3. Kỳ phiếu 145,7 89,8 1,5 228,1 1,3 632,5
II. TG Trung-Dài
1. Tg của TCKT 0 63,1 0 248,1 0 476,8
2. Tg Tiết kiệm 161,9 205,9 446,1 204,8 300,1 159,1
3. Kphiếu-Tphiếu 338,9 202,1 222,9 206,2 427,2 566,7
Tổng cộng 816,1 1.687,8 1.051,3 2.475,1 1.144,4 3.586,3
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh)
Nguồn vốn huy động đến 31/12/2002 đạt 4.730,5 tỷ, tăng 1.204 tỷ(+34%) so
với đầu năm. Trong đó nguồn vốn huy động bằng VNĐ là 3.577 tỷ, chiếm 79,5%
tổng nguồn vốn huy động; nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ là 1.115,5 tỷ USD,
cụ thể:
Tiền gửi của các TCKT đạt 2.260 tỷ, tăng 558 tỷ(+41%) so với đầu năm.
Nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 2.470 tỷ đồng, tăng 646 tỷ(+35,4%) so với
đầu năm
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Trước bối cảnh nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế tăng mạnh 31/12/2002,
nhiều dự án lớn đến thời điểm giải ngân, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã ổn
định và bắt đầu cần vốn cho phát triển sản suất kinh doanh trong khi nguồn vốn
của nhiều Ngân hàng khan hiếm, một số Ngân hàng đã có hiện tượng cầm chừng
trong hoạt động tín dụng. Song bằng nhiều giải pháp linh hoạt trong đó có phát
hành kỳ phỉếu, mở rộng mạng lưới huy động vốn, nâng cao chất lượng phục vụ
khách hàng trên mọi mặt nên Ngân hàng ĐT&PT Hà nội vẫn đảm bảo duy trì được
nguồn vốn ổn định, tăng trưởng cao đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng nhu
cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, ngoài ra còn điều chuyển
vốn về Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam để điều hoà toàn nghành.
b Công tác tín dụng
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn từ năm 2000-2002
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2000 2002 Năm 2001
I. Đồng Việt Nam
1.Tổng dư nợ cho vay 1.305 2.210 2.722
2.Dư nợ vốn lưu động 978 1.577 1.925
3.Dư nợ trung hạn 304 458 785
4.Nợ khoanh 0 0 0
II. Ngoại tệ (Qui đổi)
1.Tổng dư nợ cho vay 481 478,3 673,9
2.Dư nợ vốn lưu động 231,7 186,5 342,5
3.Dư nợ trung hạn 254,6 255,5 252,6
4.Góp vốn đồng tài 12,7 66,3 78,8 trợ
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh)
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Tổng dư nợ đến 31/12/2002 là 3.396 tỷ, tăng 708 tỷ(+26,3%) so với đầu
năm, chiếm 6,6% thị phần tín dụng trên địa bàn, trong đó:
Dư nợ tín dụng ngắn hạn đạt 2.258 tỷ, tăng 29% so với đầu năm.
Tín dụng trung và dài hạn đạt 1.138 tỷ đồng, tăng 48,7% so với đầu năm.
Do quán triệt đúng các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương Đảng,
Thành uỷ thành phố Hà nội, sáng tạo trong điều hành và nâng cao vị thế, uy tín của
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội, đồng thời có nhiều đổi mới trong công tác tiếp thị nên
trong năm 2002 Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã xét duyệt và ký hợp đồng tín dụng
được 129 dự án với tồng số vốn là 461 tỷ đồng. Điển hình là các dự án: Nhà mày
gạch Granit Đồng nai, nhà máy sứ Bình dương, Tổng công ty Điện lực Việt nam,
Công ty bánh kẹo Hải châu, Nhà máy cao su sao vàng, Công ty sứ thanh trì, Nhà
máy cơ điện Trần phú, dự án làng sinh viên, Công ty dệt Minh khai, Công ty sản
xuất công nghiệp và xây lắp Hà nội, công ty TNHH Hoa Việt, Xí nghiệp liên
doanh Xuân Kiên, công ty xây dựng Hồng hà, Tổng công ty đầu tư xây dựng Hà
nội…
Công tác thẩm định, cho vay, thu nợ theo dõi nợ vay… được thực hiện đúng
theo qui trình quản lý chất lượng ISO_9000. Thực hiện nghiêm túc qui chế cho vay
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam tại quyết định 1627/NHNN nên tỷ
lệ nợ quá hạn chỉ có 0.06%.
c Công tác phát triển dịch vụ
Công tác thanh toán trong nước được thực hiện nhanh chóng, an toàn, hiệu quả.
Doanh số thanh toán trong nước đạt 14.000 tỷ đồng tăng 17% so với năm 2001.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế được thực hiện an toàn và
hiệu quả:
Doanh số hoạt động thanh toán quốc tế đạt 257 triệu USD, tăng 38% so với
năm 2001.
Doanh số mua bán ngoại tệ đạt 204 triệu USD so với năm 2001.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Do đơn giản hoá thủ tục bảo lãnh nên doanh số bảo lãnh cả năm là 1.210 tỷ
tăng 15% so với năm 2001.
Công tác kho quỹ được đảm bảo an toàn tuyệt đối với lượng thu chi tiền mặt
trong năm 2002 là 14.882 tỷ tăng 26% so với năm 2001. Phục vụ tận tình đối với
một số khách hàng lớn và trả nhiều món tiền thừa cho khách nên được khách hàng
rất khen ngợi và tin yêu.
Do mở rộng các hoạt động dịch vụ nên Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã hoàn
thành vượt mức kế hoạch chỉ tiêu thu phí dịch vụ Ngân hàng ĐT&PTVN giao.
d Công tác thực hiện đề án cơ cấu lại Ngân hàng
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã triển khai có kết quả cơ cấu lại nợ và lành
mạnh hoá tài chính, trong đó đã tách bạch cho vay thương mại và cho vay chỉ định,
công tác xử lý nợ tồn đọng đã được Ngân hàng ĐT&PT Hà nội chỉ đạo sát sao,
quán triệt đến từng cán bộ để nhận thức rõ tính cấp bách và cần thiết của công tác
xử lý nợ tồn đọng, thực hiện đúng QĐ 149/QĐ-Tg và các văn bản hướng dẫn của
NHNN và Ngân hàng ĐT&PT Việt nam. Trong năm đã xử lý được 7.528 triệu nợ
tồn đọng trong đó đặc biệt thu được 2 tỷ nợ tồn đọng của tín dụng chỉ định cho vay
từ năm 1990-1991.
Đã chuyển dịch cơ cấu tài sản Nợ–Tài sản có cho phù hợp với điều kiện kinh
doanh theo hướng tăng tỷ trọng vốn lưu động trung và dài hạn trong tổng nguồn
vốn huy động từ 39% (năm 2001) lên 43% (năm 2002) để dần ổn định nguồn vốn
xoá bỏ sự mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và sử dụng vốn, tăng tỷ
trọng thu dịch vụ trong tổng thu Ngân hàng từ 4,8%(năm 2001) lên 6,5%(năm
2002).
Thực hiện tốt cơ cấu lại tổ chức hoạt động và quản lý, trong đó tổ chức sắp
xếp phát triển mạng lưới hoạt động cho phù hợp, chăm lo phát triển nguồn nhân
lực. Thực hiện đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng
nhiệm vụ trong tình hình mới, có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cán bộ tự học để
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học. Tính đến nay Chi nhánh đã có
12 cán bộ có trình độ cao học tăng 20% so với năm 2001 và 230 cán bộ có trình độ
đại học tăng 17% so với năm 2001. Trong năm đã cử một số cán bộ đi học tập tại
Đức, Pháp, Bỉ, Hà Lan. Úc, Trung quốc, Thái lan… Đây là dịp để cán bộ tăng
cường học tập nghiên cứu nghiệp vụ phục vụ cho Ngân hàng.
e Hiệu quả kinh doanh
Thực hiện phương châm ”Hiệu quả, an toàn trong tăng trưởng”, trong công
tác điều hành trong kinh doanh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội luôn đảm bảo chênh
lệch lãi suất đầu vào - đầu ra, tiết kiệm trong chi tiêu nội bộ, thực hiện đúng định
mức theo qui định của Ngân hàng ĐT&PT Viẹt Nam. Vì vậy Ngân hàng ĐT&PT
Hà nội đã hoàn thành vượt mức kế hoạch chỉ tiêu lợi nhuận.
Những thành tích nỗi bật trong hoạt động kinh doanh trong năm vừa qua
Mặc dù môi trường kinh doanh gặp không ít khó khăn, nhưng Ngân hàng
ĐT&PT Hà nội bằng nội lực của mình đã biết khai thác tốt các nhân tố khách quan
và chủ quan thuận lợi để vươn lên trong hoạt động kinh doanh của mình và đã đạt
được những thành tích rất đáng khen ngợi, cụ thể:
Trong bối cảnh nguồn vốn (Đặc biệt nguồn vốn bằng VNĐ) rất khó khăn,
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội vẫn tạo được nguồn vốn ổn định và tăng trưởng, đáp
ứng nhu cầu vốn của khách hàng và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, nâng
cao sức mạnh của Ngân hàng ĐT&PT trên địa bàn Thủ đô.
Triển khai mạnh tín dụng đầu tư phát triển, phục vụ đắc lực cho đầu tư phát
triển trên địa bàn Thủ đô để giữ vững và nâng cao vị thế của Ngân hàng trên địa
bàn.
Tiếp tục đa dạng hoá khách hàng với các thành phần kinh tế, đa dạng hoá
các hình thức, kỳ hạn tiền gửi khác nhau. Củng cố và tạo niềm tin đối với khách
hàng thông qua công tác tư vấn, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng, cùng với sự
năng động sáng tạo của cán bộ tín dụng và sự phối hợp nhịp nhàng nhanh chóng TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
của các phòng ban. Nhờ đó Ngân hàng ĐT&PT Hà nội không những đã giữ được
khách hàng mà còn tăng trưởng được nhiều khách hàng tiền gửi, tiền vay trong một
thời gian ngắn đã gắn bó máu thịt với Ngân hàng.
Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ Ngân hàng:
Doanh số thanh toán trong nước tăng 1-7% so với năm 2001.
Doanh số bảo lãnh tăng 15% so với năm trước.
Thu chi tiền mặt tăng 26% so với năm trước.
Hoạt động nghiệp vụ Ngân hàng đối ngoại tăng 38% so với năm trước
Hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thu dịch vụ phí do Ngân hàng ĐT&PT VN giao.
Đảm bảo an toàn trong kinh doanh:
Tăng trưởng tín dụng với chất lượng tốt, Tỷ nợ quá hạn 0,6%, giảm 0,12% so
với năm 2001.
Đảm bảo tốt khả năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và đáp ứng nhu cầu đầu
tư trong điều kiện thị trường tiền tệ có rất nhiều khó khăn và có sự mất cân đối
nghiêm trọng giữa nội tệ và ngoại tệ.
Trích đủ dự phòng rủi ro theo đúng qui định.
Mặc dù điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn, nhưng kết quả kinh doanh
vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao.
Năng suất lao động đều tăng trên các chỉ tiêu, thể hiện:
Dư nợ tín dụng bình quân đầu người tăng 11% so với năm 2001.
Nguồn vốn huy động bình quân đầu người tăng 14% so với năm 2001.
Lợi nhuận bình quân đầu người tăng 16% so với năm 2001.
Thực hiện tốt đề án cơ cấu lại Ngân hàng theo đúng lịch trình của Ngân hàng
ĐT&PT Việt Nam, được Ngân hàng Thế giới đánh giá tích cực.
2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 15 của Bộ chính
trị về phương hướng phát triển kinh tế Thủ đô đến năm 2010 và nghị quyết đại hội
lần thứ XIII Đảng Bộ thành phố Hà nội. Cùng với các ban ngành khác, hệ thống
Ngân hàng Việt nam nói chung, Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã góp phần không
nhỏ vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế Thủ đô trong những thời gian vừa
qua. Để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất
nước, phục vụ cho việc phát triển kinh tế Thủ đô, Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã
tích cực chủ động khai thác các nguồn vốn nhàn rỗi, mở rộng mạng lưới huy động,
đưa ra nhiều hình thức huy động nhất là các nguồn vốn trung và dài hạn để tạo lập
nguồn vốn cho riêng mình.
Trong những năm vừa qua, tình trạng thiếu vốn mà cụ thể hơn là thiếu tiền
đồng trong hệ thống NHTM là một vấn đề rất nóng bỏng, thị trường tiền tệ luôn rơi
vào tình trạng căng thẳng về vốn, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau bằng cách
đồng loạt nâng lãi suất huy động và kèm theo một số tiện ích khác nhằm thu hút
khách hàng, thậm chí một số Ngân hàng dùng biện pháp hoán đổi ngoại tệ với
NHTƯ. Trong bối cảnh đó Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã phát huy sức mạnh nội
lực, chủ động sáng tạo với bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn của toàn thể
cán bộ công nhân viên đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch kinh doanh do Ngân hàng
ĐT&PT Việt nam giao một cách tự tin đáng phấn khởi.
Trong các loại hình huy động vốn của Ngân hàng thì Ngân hàng chủ yếu tập
trung vào 3 loại hình huy động chính như sau:
o Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế
o Huy động tiền gửi tiết kiệm
o Huy động bằng cách phát hành Trái phiếu- Kỳ phiếu
Bảng 3: Cơ cấu vốn của Ngân hàng ĐT&PT Hà nội từ 200-2002
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Chỉ tiêu 2000 % 2001 % 2002 %
1.TG của các TCKT 1.100 43,8 1.712 48,3 2.261 47,8
2.TG Tiết Kiệm 626,9 25 1.165,5 33 832,6 17,6
785,5 31,2 658,7 18,7 1.627,7 34,6
3.Kỳ phiếu-Trái phiếu Tổng nguồn VHĐ 2.512,4 100 3.536,2 100 4.721,3 100
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh)
a Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Đây là các khoản mục tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
dùng để thực hiện các khoản đảm bảo thanh toán cho việc chi trả tiền nguyên nhiên
vật liệu, hàng hoá - dịch vụ, công lao động…
Nhìn vào bảng 3 ta thấy tỷ trọng tiền gửi của các TCKT trong tổng vốn huy
động tăng trưởng cao và ổn định qua các năm, nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Cụ thể, trong năm 2000 tỷ trọng tiền gửi
của các TCKT chiếm 43% trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng 1.100 tỷ
đồng. Năm 2001 tỷ trọng tiền gửi chiếm 48% trong tổng nguồn vốn huy động
tương ứng 1.702 tỷ đồng tăng 54,7% so với năm 2000. Trong năm 2002 tỷ trọng
tiền gửi chiếm 47,8% trong tổng vốn huy động tương ứng 2.260 tỷ đồng tăng
32,8% so với năm 2001.
Với tỷ lệ tăng trưởng cao và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy
động của Ngân hàng qua các năm như trên đồng nghĩa với việc Ngân hàng đã
không ngừng huy động được các nguồn vốn có qui mô lớn và có độ ổn định cao.
Từ đó Ngân hàng có thể sử dụng một lượng lớn tồn khoản để phục vụ cho hoạt
động kinh doanh của mình một cách chủ động với chi phí thấp nhất.
Xác định nguồn vốn huy động từ các TCKT là rất quan trọng, đây là nguồn
vốn có chi phí đầu vào thấp nhất, có độ ổn định cao và qui mô tiền gửi lớn, nhưng
ngược lại Ngân hàng lại bị phụ thuộc vào các luồng vốn gửi vào hay rút ra của
khách hàng nhát là các khách hàng lớn. Do vậy mà trong những năm qua Ngân
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
hàng đã tiến hành phân loại khách hàng, xác định khách hàng trọng tâm để có
chính sách khách hàng linh hoạt, vận dụng lãi suất mềm dẻo, sử dụng nhiều hình
thức và biện pháp khác nhau nhằm duy trì và thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
b Tiền gửi tiết kiệm
So với các hình thức huy động khác thì nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết
kiệm chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng
trong những năm gần đây. Cụ thể trong năm 2000 tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm chỉ
chiếm 20% trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng 627 tỷ đồng. Năm 2001,
tiền gửi tiết kiệm tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối với tỷ lệ tăng trưởng cao,
chiếm 33% trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng 1.165 tỷ đồng, tăng 86% so
với năm 2000. Nhưng năm 2002 thì tiền gửi tiết kiệm lại giảm, chỉ chiếm 17,6%
trong tổng nguồn vốn huy động, tương ứng 833 tỷ đồng giảm 28,6% so với năm
2001.
Với đặc tính của loại tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi có kỳ hạn xác định
(loại tiền gửi không kỳ hạn chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể) và khả năng huy động
là rất lớn vì tiềm năng vốn trong dân là rất lớn. Khi huy động được nguồn vốn này
thì Ngân hàng có thể xác định chính xác kỳ hạn cho vay đối các khoản cho vay của
mình từ đó có kế hoạch cụ thể trong công tác sử dụng vốn. Do vậy mà Ngân hàng
ĐT&PT Hà nội cần phải có biện pháp nhằm khai thác mạnh hơn nguồn vốn này
trong thời gian tới.
c Trái phiếu – Kỳ phiếu
Để thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại nguồn vốn cho phù hợp với nhu cầu sử
dụng vốn của Ngân hàng thi việc huy động vốn trung và dài hạn thông qua việc
phát hành các giấy tờ có giá như trái phiếu và kỳ phiếu là rất quan trọng. Nhận
thức được nhiệm vụ và khó khăn trước mắt, trong thời gian qua Ngân hàng đã thực
hiện rất tốt công tác này.Trong những năm gần đây tỷ trọng nguồn vốn huy động
từ việc phát hành trái phiếu và kỳ phiếu luôn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Trong năm 2000 nguồn vốn này chiếm 31,2%
trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng 785 tỷ đồng. Năm 2001 thì nguồn vốn
huy động giảm cả về số tương đối và số tuyệt đối. Cụ thể là nguồn vốn này chỉ
chiếm 18,7% trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng 658 tỷ đồng giảm 16% so
với năm 2000. Trong năm 2001 có thể nói là có sự đổi mới đáng kể trong công tác
huy động vốn bằng nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá, trong năm này có sự tăng
lên đáng kể cả về qui mô và tốc độ tăng trưởng vốn. Cụ thể nguồn vốn này chiếm
34,6% trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng 1.628 tỷ đồng, tăng 147% so với
năm 2001.
Nguyên nhân của sự tăng trưởng này là do tình trạng khan hiếm vốn, nên các
Ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất huy động nhằm cạnh tranh nhau, song cùng với
Ngân hàng ĐT&PT Việt nam, Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã huy động bằng cách
phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với những hình thức đa dạng về lãi suất, về kỳ
hạn, về phương thức trả lãi, làm tốt công tác Marketing như tặng quà cho khách
hàng gửi tiền với số lượng lớn và kỳ hạn dài (từ 6 tháng trở lên) và đặc biệt là
Ngân hàng đã đổi mới trong việc trả lãi cho khách hàng từ việc trước kia nếu
khách hàng rút tiền trước hạn thị không được hưởng lãi nhưng bây giờ Ngân hàng
đã cho phép khách hàng khi rút tiền trước hạn thì được hưởng mức lãi suất của tiền
gửi không kỳ hạn nên đã thu hút được rất nhiều khách hàng, do vậy mà doanh số
huy động từ nghiệp vụ này tăng mạnh trong khi vốn huy động tiết kiệm lại giảm và
chiếm tỷ trọng thấp mặc dầu tổng nguồn vốn huy động vẫn tăng trưởng cao.
d Chứng chỉ tiền gửi
Ngay trong quí I/2003 (12/02/2003 đến 07/03/2003) dưới sự chỉ đạo của
Tổng giám đốc Ngân hàng ĐT&PT Việt nam về việc phát hành chứng chỉ tiền gửi,
Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã triển khai có hiệu quả công tác này và đã
thu được kết quả đáng khích lệ. Tính đến ngày kết thúc đợt phát hành (07/03/2003)
Chi nhánh đã huy động được 285.5 tỷ đồng qui đổi, trong đó VNĐ là 281.6 tỷ
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
đồng và 3.847 ngàn USD, chứng chỉ tiền gửi ghi danh và ghi sổ chiếm 84,1%,
chứng chỉ tiền gửi vô danh chiếm 15,9% , chứng chỉ tiền gửi ngoại tệ chiếm 17,6%
và chứng chỉ tiền gửi nội tệ chiếm 82,4%.
Khác với các đợt phát hành kỳ phiếu và trái phiếu trước đây, đợt phát hành
chứng chỉ tiền gửi lần này loại VNĐ đối tượng mua đã được mở rộng đến các tổ
chức và doanh nghiệp. Chứng chỉ tiền gửi được khách hàng lựa chọn nhiều nhất là
kỳ hạn 13 tháng (chiếm 60%), còn chứng chỉ tiền gửi bằng USD kỳ hạn 18 tháng là
chủ yếu (chiếm 70%).
Điểm đặc biệt của đợt phát hành này là trong tổng số chứng chỉ tiền gửi bán
được thì số khách hàng mua mới chiếm đến 80%, còn số chuyển từ các hình thức
huy động khác đến hạn sang chỉ chiếm 20% và số khách hàng đế mua cũng nhiều
nhất so với các đợt phát hành trái phiếu trước đây. Có được thành quả này là do có
sự chỉ đạo thống nhất của ban Giám đốc và ban chỉ đạo phát hành chứng chỉ tiền
gửi của chi nhánh, có sự tổ chức tập huấn diện rộng cho cán bộ tham gia bán
chứng chỉ tiền gửi, có sự chuẩn bị chu đáo ở các khâu, làm tốt công tác tiếp thị
quảng cáo như phát tờ rơi, có quà tiếp thị cho khách hàng đến mua….Do vậy mà
trong thời gian ngắn Ngân hàng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Bảng 4: Cơ cấu kỳ hạn của nguồn vốn huy động
Đơn vị: Tỷ đồng Tỷ trọng Tỷ lệ Chỉ tiêu Năm 2001 2000 2002 01/00 02/01 2000 2001 2002
I.Tiền gửiTCKT 1. Tiền gửi Ngắn hạn 1.037 1.445 1.783 39,3 23,4 41,3 41,2 37,8
248 475,8 293 91,8 2.51 7,03 10,1
2.Tiền gửi Trung-Dài II.Tiền gửi Tiết Kiệm 63
1.Ngắn hạn 2.Tiền gửi Trung-Dài 259,4 367,5 514,6 650,9 373,4 98,4 -27,5 10,3 14,6 7,9 459,3 77,1 -29,5 14,6 18,5 9,7
III.Kỳ phiếu-Trái phiếu TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
1.Tiền gửi Ngắn hạn 244,5 229,5 633,7 93,9 176 9,7 6,5 13,4
2.Tiền gửi Trung-Dài 540,9 429,1 993,9 -26 132 21,5 12,3 21,1
Tổng VHĐ 2.512,3 3.517,1 4.719,1 100 100 100
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh)
a Tiền gửi của các tổ chức kinh tế
Qua bảng số liệu ta thấy, nhìn chung tiền gửi ngắn hạn của các tổ chức kinh
tế luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng và
có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Cụ thể tỷ trọng nguồn vốn này trong năm
2000 là 41,3% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2001 chiếm 41,2% tăng
40,2% so với năm 2000. Năm 2002 chiếm 37,8%, tăng 22,7% so với năm 2001.
Nguyên nhân của việc tiền gửi ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng cao là do khách
hàng muốn gửi tiền vào chủ yếu là để phục vụ cho việc thanh toán tiền hàng hoá
dịch vụ và thu tiền từ các sản phẩm dịch vụ đã cung ứng cho khách hàng trong
từng tháng, từng quí, từng năm hay là từng chu kỳ sản suất kinh doanh của mình.
Khoản mục này tạo thành vốn luân chuyển qua các chu kỳ sản xuất, do vậy, việc
gửi với kỳ hạn ngắn sẽ thuận tiện hơn cho khách hàng trong việc sử dụng.
Còn tiền gửi trung và dài hạn chiếm tỷ trọng thấp, thường là thấp nhất trong
tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Trong năm 2000 nguồn vốn này chỉ
chiếm 2.51% trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Năm 2001 chiếm
7,02% trong tổng nguồn vốn huy động, tăng 293% so với năm 2000. Năm 2002
chiếm 10,1% tăng 92,2%. Tuy chiếm tỷ trọng thấp nhưng điều đáng mừng là tỷ
trọng nguồn vốn tăng dần qua các năm với tốc độ tăng trưởng cao. Điều này phải
thừa nhận là một thành công lớn của đội ngũ cán bộ công nhân viên của Ngân hàng
trong việc thu hút, lôi kéo khách hàng có quan hệ giao dịch với Ngân hàng một
cách thường xuyên và ổn định hơn.
b Tiền gửi tiết kiệm
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Nhìn qua ta thấy tiền gửi tiết kiệm loại trung và dài hạn chiếm tỷ trọng lớn
hơn so với tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn và trong năm 2002 tiền gửi tiết kiệm giảm
mạnh, Cụ thể:
Tiền gửi ngắn hạn trong năm 2000 huy động được 259 tỷ đồng, chiếm
10,3% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2001 huy động được 514 tỷ đồng,
tăng 98,4% so với năm 2000, chiếm 14,6% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm
2002 huy động được 373 tỷ đồng, giảm 27,5% so với năm 2001 chiếm 7,9% trong
tổng nguồn vốn huy động.
Qua hai năm từ 2001-2002 có sự biến động lớn trong công tác huy động tiền
gửi tiết kiệm ngắn hạn của Ngân hàng. Nguyên nhân của sự biến động này là do
năm 2002 thì tình trạng khan hiếm vốn xảy ra đối với hầu hết các Ngân hàng, cho
nên các Ngân hàng đều chuyển hướng huy động của mình từ nghiệp vụ huy động
vốn truyền thống sang các hình thức huy động vốn khác như phát hành các loại
giấy tờ có giá như trái phiếu và kỳ phiếu với lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn phong phú,
phương thức trả lãi đa dạng. Cho nên đã có sức hấp dẫn khách hàng, điều đó làm
cho cơ cấu huy động có sự thay đổi.
Tiền gửi tiết kiệm trung và dài hạn chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng
nguồn vốn huy động loại trung và dài hạn của Ngân hàng và biến động mạnh trong
2 năm gần đây (2001-2002) mặc dù loại tiền gửi này vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể
trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Ta thấy trong năm 2000 nguồn
vốn này huy động được 367 tỷ đồng chiếm 14,6% trong tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2001 huy động được 651 tỷ đồng, tăng 77,1% so với năm 2000, chiếm 18,5%
trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2002 huy động được 459 tỷ đồng giảm 29,5
tỷ đồng so với năm 2001 chỉ chiếm 9,7% trong tổng nguồn vốn huy động.
c Trái phiếu – Kỳ phiếu
Nhìn chung nguồn vốn huy động ngắn hạn bằng Trái phiếu và kỳ phiếu
chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng. Hình thức chủ
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
yếu là phát hành kỳ phiếu loại ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng với lãi suất trả
trước hoặc trả sau. Trong nhiều năm qua Ngân hàng đã khai thác có hiệu quả
nguồn vốn này. Năm 2000 huy động được 245 tỷ đồng chiếm 9,7% trong tổng
nguồn vốn huy động. Năm 2001 huy động được 329,5 tỷ đồng tăng 93,9% so với
năm 2000, chiếm 6,5% trong tổng nguồn vốn huy động. Năm 2002 huy động được
634 tỷ đồng tăng 176% so với năm 2001, chiếm 13,4% trong tổng nguồn vốn huy
động. Đây là điều rất đáng mừng, trong khi huy động bằng tiền gửi tiết kiệm ngắn
hạn có xu hướng giảm thì Ngân hàng đã tạo lập được một nguồn huy động mới có
tiềm năng khai thác lớn để cân đối nguồn vốn huy động.
Huy động tiền gửi trung và dài hạn thông qua việc phát hành trái phiếu và kỳ
phiếu chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Bằng cách phát hành loại kỳ phiếu 24 tháng, 36 tháng, 60 tháng với lãi suất hấp
dẫn, phương thức trả lãi trước hoặc trả lãi sau và việc phát hành trái phiếu kỳ hạn
từ 1 năm đến 5 năm với lãi suất hấp dẫn nên đã thu hút được khối lượng vốn trong
dân hoàn thành chỉ tiêu được giao. Trong năm 2000 Ngân hàng đã huy động được
541 tỷ đồng chiếm 21,5% tổng nguồn vốn huy động. Năm 2001 huy động được
429 tỷ đồng giảm 26% so với năm 2000, chiếm 13,3% trong tổng nguồn vốn huy
động, Năm 2002 huy động được 994 tỷ đồng tăng 132% so với năm 2000, chiếm
21,1% tổng nguồn vốn huy động. Qua đó ta thấy được sự ngược nhau giữa huy
động bằng tiết kiệm và huy động bằng cách phát hành giấy tờ có giá. Đứng trước
tình hình khó khăn về vốn, Ngân hàng đã nhanh nhạy dổi mới phương thức huy
động nhằm khai thác có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Do vậy mà đã bù
đắp được sự thiếu hụt trong việc huy động các nguồn vốn khác, nên đã đảm bảo
được tổng nguồn vốn huy động vẫn tăng qua các năm, đáp ứng nhu cầu kinh doanh
của Ngân hàng.
Bảng 5: Cơ cấu loại tiền của tiền gửi tổ chức kinh tế
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Đơn vị: Tỷ đồng
2001 2002 Chỉ tiêu 2000 USD VNĐ USD
VHĐ USD VNĐ USD
VHĐ
1Ngắn hạn
VHĐ USD VNĐ USD 102,1 934,9 9,85 96,9 1.357 16,7 1.624 160.2 8,9
2.Trung,Dài 0 68,1 0 124,1 476.8 0 0 0 0
Tổngcộng 102,1 1003 96,9 1.482 2.101 160,2
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh)
Nhìn vào bảng 5 ta thấy được số lượng ngoại tệ của các tổ chức kinh tế chỉ
chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng. Đặc biệt trong
năm 2001 thì số lượng ngoại tệ gửi vào với kỳ hạn ngắn chiếm tới 67% trong tổng
nguồn vốn huy động đối với tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Còn với loại tiền gửi
trung và dài hạn thì không có. Các tổ chức kinh tế chỉ gửi với kỳ hạn ngắn để đáp
ứng cho nhu cầu thanh toán của mình trong thời hạn ngắn phù hợp với chu kỳ sản
suất kinh doanh của từng đơn vị. Điều này cũng chứng tỏ rằng, doanh số hoạt động
thanh toán quốc tế của Ngân hàng chưa cao, tuy có tăng dần qua các năm. Do vậy,
Ngân hàng cần phải phát triển hoạt động này mạnh hơn trong thời gian tới, để vừa
có thể thu hút được khách hàng có các quan hệ với mình vừa thu hút được lượng
tiền gửi rất lớn của khách hàng và đem lại thu nhập cho Ngân hàng trong quá trình
cung ứng dịch vụ cho khách hàng.
Bảng 6: Cơ cấu loại tiền của tiền gửi dân cư
Đơn vị: Tỷ đồng
2001 2002 Chỉ tiêu 2000 USD VNĐ USD
1.Ngắn hạn 213,1 281,8
VHĐ USD VNĐ USD 43,1 285,4 458,9
VHĐ USD VNĐ USD VHĐ 25,4 38,3 255,6 751,5
2.Trung-Dài 500,5 408,1 55,1 668,9 411,1 61,9 737,3 725,9 50,4
Tổng cộng 713,6 689,9 954,3 870 992,9 1.4778
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn – Kinh doanh)
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Nhìn vào bảng ta thấy số lượng ngoại tệ mà dân cư gửi vào Ngân hàng với
kỳ hạn ngắn chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng nguồn vốn huy động tương ứng.
Trong năm 2000 số lượng ngoại tệ chiếm 43,1% trong tổng nguồn vốn huy động
ngắn hạn của Ngân hàng. Năm 2001 chiếm 38,3% trong tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2002 chiếm 25,4% trong tổng nguồn vốn huy động.
Tiền gửi ngoại tệ loại trung và dài hạn thì chiếm tỷ trọng cao hơn so với tiền
gửi bằng nội tệ trong suốt 3 năm qua. Cụ thể, trong năm 2000 tiền gửi bằng ngoại
tệ loại trung và dài hạn chiếm 55,1% trong tổng nguồn vốn huy động tiền gửi trung
và dài hạn của Ngân hàng. Trong năm 2001 chiếm 61,9% trong tổng nguồn vốn
huy động. Trong năm 2002 chiếm 50,4%_ Đây là một bất lợi lớn cho Ngân hàng vì
trong hoạt động của mình, số lượng khách hàng có nhu cầu ngoại tệ chỉ chiếm tỷ lệ
nhỏ trong tổng số khách hàng có quan hệ giao dịch với Ngân hàng, do vậy mà
Ngân hàng phải dùng số ngoại tệ thu được để gửi vào NHNN hoặc đầu tư ra nước
ngoài để hưởng lãi nhằm bù đắp chi phí đầu vào, song thủ tục tiến hành rườm rà,
phức tạp và phải qua nhiều cầu.
Nguyên nhân của việc tiền gửi ngoại tệ loại trung và dài hạn tăng nhanh và
chiếm tỷ trọng lớn trong nhiều năm qua là vì tâm lý người dân là muốn hưởng lãi
suất cao, nhưng để đề phòng rủi ro việc đồng nội tệ mất giá so với đồng ngoại tệ
mạnh nhất là trong thời gian dài thì họ đổi nội tệ sang ngoại tệ rồi gửi vào Ngân
hàng vừa được hưởng lãi suất cao vừa đảm bảo ổn định đồng tiền của mình và
thậm chí còn có khả năng được hưởng chênh lệch tỷ giá tăng nhất là trong thời
gian gần đây khi mà đồng USD liên tục tăng giá và giữ giá trong thời gian dài.
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
2.3.1 Thành tựu đạt được trong công tác huy động vốn của Ngân hàng trong những năm vừa qua
Trong bối cảnh chung của hệ thống Ngân hàng, những năm gần đây tình
trạng thiếu vốn của các NHTM nhất là thiếu tiền VNĐ vào dịp cuối năm, có những
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Ngân hàng đã cầm chứng trong hoạt động tín dụng. Song bằng nhiều giải pháp linh
hoạt trong đó có phát hành kỳ phiếu, mở rộng mạng lưới huy động vốn, nâng cao
chất lượng phục vụ khách hàng trên mọi mặt nên Ngân hàng ĐT&PT Hà nội vẫn
đảm bảo duy trì được nguồn vốn ổn định, tăng trưởng cao, đảm bảo khả năng thanh
toán, đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp thậm chí
còn chuyển vốn về Ngân hàng ĐT&PT Việt nam để điều hoà toàn ngành. Cụ thể
nguồn vốn huy động đến 31/12/2002 đạt 4.731 tỷ đồng, tăng 1.204 tỷ đồng(+34%)
so với đầu năm trong đó nguồn vốn huy động bằng VNĐ là 3.577 tỷ đồng chiếm
79,5% trong tổng nguồn vốn huy động, nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ là 1.156
tỷ đồng(qui đổi) chiếm 20.5%, trong đó:
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 2.260 tỷ đồng tăng 558 tỷ(+40%) so với
đầu năm
Nguồn vốn huy động từ dân cư đạt 2.470 tỷ tăng 646 tỷ(+35,4%)
Trong năm 2002 kinh tế nước ta nói chung và kinh tế Thủ đô nói riêng đã
chuyển biến theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá và phát triển ở tất cả các
ngành, các khu vực, các chỉ tiêu kinh tế đều tăng trưởng tốt hơn năm trước và hoạt
động Ngân hàng - Tài chính cũng mang đậm màu sắc đó. Song bên cạnh đó môi
trường kinh doanh của Ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn do tình trạng thiếu
tiền mặt đã buộc các Ngân hàng trên địa bàn đồng loạt nâng lãi suất huy động lên
là ảnh hưởng tới chi phí và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Nhưng bằng sự nỗ
lực của mình, Ngân hàng đã xác định được những điều kiện thuận lợi, khó khăn,
nắm bắt tốt thời cơ nên đã có hướng đi đúng đắn theo định hướng của ngành. Cụ
thể đã tự chủ được nguồn vốn để phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước,
Ngân hàng đã tập trung nguồn vốn huy động được đầu tư cho những chương trình
lớn, các dự án trọng điểm, các ngành then chốt của nền kinh tế như ngành điện lực,
các khu công nghiệp… với doanh số cho vay là 461 tỷ đồng, góp phần tăng năng
lực sản xuất cho nền kinh tế. Đồng thời chi nhánh đã chú trọng mở rộng đa dạng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
hoá các sản phẩm dịch vụ đáp ứng cao nhất nhu cầu của khách hàng. Nhờ vậy mà
trong những năm qua tổng nguồn vốn huy động đã không ngừng tăng lên đáp ứng
được nhu cầu về vốn cho Ngân hàng đặc biệt là việc huy động vốn trung và dài hạn
có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định, cơ cấu vốn trung và dài hạn có xu hướng
dịch chuyển theo hướng có lợi cho Ngân hàng chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong
tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng.
Trên địa bàn Thủ đô, với sự góp mặt của gần 100 Ngân hàng và tổ chức tín
dụng khác làm cho môi trường cạnh tranh càng trở nên khó khăn hơn, nhưng Ngân
hàng ĐT&PT Hà nội đã dần khẳng định mình, tăng trưởng được thị phần hoạt
động. Đến cuối năm 2002 Ngân hàng đã chiếm 6,6% thị phần tín dụng và gần
4,9% thị phần huy động vốn trên địa bàn đưa chi nhánh trở thành một trong các
đơn vị đứng đầu về thị phần hoạt động trên địa bàn.
Cùng với sự chỉ đạo nhất quán, toàn diện của Ngân hàng ĐT&PT Việt nam,
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội đã quán triệt việc thực hiện chiến lược phát triển của
toàn hệ thống với nỗ lực quyết tâm cao nhất để hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch. Công
tác điều hành nguồn vốn theo nguyên tắc tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn trên cơ
sở kế hoạch giải ngân, kế hoạch huy động vốn, nhu cầu thanh toán. Ngân hàng
định kỳ tính toán lãi suất bình quân đầu ra, đầu vào làm căn cứ để có đối sách kịp
thời, chính xác để vừa đảm bảo tính cạnh tranh vừa đảm bảo thu nhập cho Ngân
hàng. Ngoài ra bằng chính sách khách hàng của mình, Ngân hàng đã tích cực, chủ
động tìm kiếm, vận động khách hàng có tiềm năng tiền gửi, từ đó vừa thiết lập mở
rộng vừa củng cố vững chắc mạng lưới khách hàng giao dịch thường xuyên.
2.3.2 Những hạn chế cần khắc phục trong công tác huy động vốn
Trong cơ cấu vốn huy động thì vốn huy động tiết kiệm từ dân cư là một
nguồn vốn quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng, nhất là loại tiền gửi có kỳ
hạn. Đây là nguồn vốn có độ ổn định cao, điều đó giúp Ngân hàng chủ động hơn
trong việc sử dụng vốn để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Nhưng trong thời gian qua, tỷ trọng vốn huy động tiết kiệm của Ngân hàng
ĐT&PT Hà nội có xu hướng giảm mạnh trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân
hàng từ 35,3% năm 2001 còn 12,9% năm 2002, Đây là việc phải xem xét và cần có
sự điều chỉnh trong thời gian tới.
Trong cơ cấu kỳ hạn, tuy tỷ trọng vốn trung và dài hạn có xu hướng tăng dần
từ 37,7% năm 2001 lên 39% năm 2002, song so với nhu cầu sử dụng vốn của Ngân
hàng trong việc cho vay các dự án với thời hạn vay trung và dài hạn thì chưa đủ,
cần phải có sự điều chỉnh về cơ cấu kỳ hạn nhằm giúp cho Ngân hàng có thể mở
rộng cho vay đối với các dự án lớn có tính khả thi cao.
Số lượng ngoại tệ chiếm tỷ trọng khá trong tổng nguồn vốn huy động, trong
khi việc sử dụng ngoại tệ thu được để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu
ngoại tệ còn hạn chế thì đây là một bất lợi cho Ngân hàng về việc sử dụng số tiền
huy động này, thậm chí còn có thể chịu rủi ro tỷ giá. Ngân hàng chủ yếu chỉ có thể
sử dụng số ngoại tệ thu được để gửi vào NHNN để hưởng chênh lệch lãi suất.
Hoạt động của Ngân hàng còn hạn chế về thời gian. Do Ngân hàng hoạt
động trên địa bàn Thủ đô - Nơi mà đại bộ phận dân số là cán bộ công nhân viên
nhà nước. Thời gian mở cửa của Ngân hàng trùng với thời gian làm việc của các cơ
quan khác. Do đó, các cán bộ công nhân viên có tiền muốn gửi vào Ngân hàng thì
phải mất một thời gian cho công việc này, điều này gây không ít rắc rối phiền hà
đối với người gửi tiền. Ngân hàng nên nghiên cứu để đưa ra các hình thức nhận và
trả tiền ngoài giờ (ngoài giờ hành chính, ngày lễ,ngày nghỉ) để có thể thu hút tiền
gửi của công chúng bất kỳ lúc nào trong ngày. Đồng thời nghiên cứu và ứng dụng
một số phương thức huy động mới như thu nhận tiền tại nhà, tại văn phòng của
doanh nghiệp, bố trí làm việc theo ca để tăng thời gian giao dịch, phù hợp với nhu
cầu của khách hàng trên địa bàn để tận dụng triệt để các nguồn thu.
Sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng tuy đã phát triển thêm nhiều hình thức mới
nhưng chủ yếu vẫn là những sản phẩm truyền thống. Các loại hình huy động vốn
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
còn ít, chưa đa dạng để khách hàng có thể lựa chọn. Ngân hàng chủ yếu canh tranh
bằng lãi suất, còn các các dịch vụ khác thì còn ở mức hạn chế. Trong thời gian tới
cần nghiên cứu, ứng dụng và nhân ra diện rộng các loại hình dịch vụ mới nhằm
tăng thu hút thêm nhiều khách hàng mới.
Mạng lưới huy động tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa đủ so với khả
năng có thể khai thác của Ngân hàng. Các quầy giao dịch, các quỹ tiết kiệm phân
bố dường như chỉ chú trọng cho công tác huy động vốn trong dân cư nơi tập trung
các khu dân cư đông đúc mà chưa chú trọng đến những nơi tập trung những khách
hàng lớn của Ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
Công tác Marketing Ngân hàng tuy đã được chú trọng và là công tác trọng
tâm của Ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt nhưng vẫn chưa được thực
hiện theo một chính sách nhất quán. Từng bộ phận, từng cán bộ vẫn chưa ý thức
được hết tầm quan trọng của của công tác này, nhận thức còn đơn giãn nên trong
phối hợp thực hiện vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Tuy Ngân hàng đã
chủ động tìm đến khách hàng nhưng do môi trường cạnh tranh quyết liệt, mặt khác
do điều kiện và phương pháp tiếp cận chưa phù hợp nên hiệu quả chưa cao. Công
tác thu thập thông tin về thị trường, về nhu cầu khách hàng, về đối thủ cạnh tranh
còn hạn chế do vậy mà thiếu thông tin phản hồi để có những điều chỉnh kịp thời.
2.3.3 Những nhân tố tác động tới công tác huy động vốn của chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội trong thời gian qua
2.3.3.1 Những nhân tố tích cực
a Nhân tố khách quan
Ngân hàng ĐT&PT Hà nội hoạt động trên địa bàn Thủ đô là trung tâm kinh
tế-chính trị-xã hội của cả nước, nơi tập trung nhiều khách hàng lớn, là nơi thử
nghiệm mọi nghiệp vụ mới của toàn ngành, được Ngân hàng ĐT&PT VN cho áp
dụng nhiều kinh nghiệm thành công, vì vậy Ngân hàng luôn có đầy đủ nghiệp vụ
hơn các Ngân hàng khác trên địa bàn.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Uy tín của Ngân hàng ĐT&PT VN nói chung và Ngân hàng ĐT&PT Hà nội
nói riêng được khẳng định và nâng cao dần cả ở thị trường trong và ngoài nước.
Trong hoạt động luôn nhận được sự chỉ đạo kịp thời, sát sao của NHNN nói chung
và Ngân hàng ĐT&PT VN nói riêng, luôn được sự quan tâm về mọi mặt của ban
lãnh đạo và được sự hỗ trợ trực tiếp của các phòng ban chức năng.
b Nhân tố chủ quan
Ngân hàng đã thực hiện mở rộng mạng lưới huy động, áp dụng chính sách
lãi suất linh hoạt mang tính cạnh tranh cao, các phương thức phục vụ khách hàng
theo hướng khép kín các dịch vụ Ngân hàng, làm tốt công tác Marketing Ngân
hàng.
Các Quỹ tiết kiệm gần trung tâm các quận, các khu dân cư có giao thông
thuận tiện. Tinh thần, thái độ phục vụ khách hàng chu đáo, nhiệt tình. Thực hiện tư
vấn cho khách hàng về hình thức, kỳ hạn gửi tiền cho phù hợp với nhu cầu của
khách hàng, tạo ra sự tin tưởng của khách hàng đối với Ngân hàng.
Trình độ công nghệ áp dng trong công tác huy động vốn nói riêng và trong
hoạt động Ngân hàng nói chung đạt mức trung bình khá so với các NHTMQD trên
địa bàn, do vậy mà đã giảm được thời gian giao dịch và thời gian chờ đợi của
khách hàng.
Cơ sở khách hàng đa dạng, nhiều tiềm năng đặc biệt là nhóm các Tổng Công
ty 90,91 không ngừng tăng trưởng. Bên cạnh đó đối tượng khách hàng chủ yếu là
các khách hàng truyền thống như các Công ty, các doanh nghiệp trên địa bàn Hà
nội có doanh số hoạt động tiền gửi, tiền vay và dịch vụ lớn.
Chính sách khách hàng được thực hiện có kết quả tốt, luôn nỗ lực trong việc
giữ được các khách hàng truyền thống và mở rộng thu hút các khách hàng có tiềm
năng lớn mà Ngân hàng có thể khai thác. Công tác hội nghị khách hàng được tổ
chức thường xuyên hành năm qua đó nắm bắt được các thông tin, kiến nghị của
khách hàng, từ đó chủ động trong kế hoạch hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
2.3.3.2 Những nhân tố tiêu cực
a Nhân tố khách quan
Môi trường kinh tế và môi trường pháp lý chưa thật sự ổn định và đồng bộ
đã gây cản trở tới hoạt động huy động vốn. Nguy cơ lạm phát còn có khả năng đe
dọa, làm cho người dân chưa thật sự tin tưởng vào môi trường đầu tư.
Nền kinh tế chịu sự biến động của nền kinh tế thế giới, đồng tiền còn phụ
thuộc nhiều vào dồng USD do vậy mà trong thời gian qua khi mà cục dự trữ liên
bang Mỹ đã nhiều lần cắt giảm lãi suất đã làm cho lãi suất của nước ta bị ảnh
hưởng gây cản trở cho công tác huy động vốn của hệ thống Ngân hàng nước ta.
Ngoài ra trong thời gian qua sự tăng giá của đồng USD và giá vàng tăng mạnh đã
gây tâm lý hoang mang cho người dân, do vậy mà có hiện tượng người dân rút tiền
đồng để mua vàng hoặc mua đồng USD cất trữ làm cho đồng nội tệ đã thiếu nay
càng thiếu hơn.
Luật đất đai được bổ sung sửa đổi có hiệu lực từ năm 2001 nên nhiều người
dân thay vì gửi tiền vào Ngân hàng thì họ đã mua bất động sản hoặc đầu tư xây
dựng nhà ở. Ngoài ra, Luật doanh nghiệp ra đời cùng với cơ chế tháo gỡ khó khăn
cho cho doanh nghiệp đã làm cho số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong vài
năm gần đây tăng lên đáng kể, điều đó làm cho một lượng lớn vốn nhàn rỗi của
dân cư trước đây kể cả tiền gửi ở Ngân hàng cũng được rút ra để tiến hành đầu tư
trực tiếp hay gián tiếp vào sản xuất kinh doanh.
Hiện nay với sự tham gia của nhiều loại hình Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác đã làm cho môi trường cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn. Sức ép cạnh
tranh từ các NHTMQD, Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh…với tiềm
năng về vốn, công nghệ, trình độ cán bộ công nhân viên là rất lớn. Ngoài ra sự
cạnh tranh của các tổ chức phi Ngân hàng trong việc thu hút vốn trong dân bằng
nhiều hình thức mới có tính hấp dẫn cao như loại hình tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm
nhân thọ, mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá… đã làm mất đi sự độc
quyền của Ngân hàng trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán một mặt đã tạo ra cho
Ngân hàng tham gia vào một nghiệp vụ mới qua đó có điều kiện mở rộng thêm
mạng lưới khách hàng, có thêm một kênh huy động vốn trung và dài hạn mới với
tiềm năng khái thác rất lớn, đồng thời có thêm nguồn thu nhập từ việc tham gia vào
hoạt động của thị trường chứng khoán. Nhưng trong thời gian qua do sự kém sôi
động của tthị trường nên đã làm hạn chế khả năng chuyển đổi của trái phiếu, kỳ
phiếu Ngân hàng và trên thực tế doanh số mua bán trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng
rất thấp, từ đó làm hạn chế tới khả năng huy động vốn trung và dài hạn của Ngân
hàng. Mặt khác, sự ra đời của thị trường chứng khoản đã ảnh hưởng phần nào tới
khả năng huy động vốn của Ngân hàng vì khi thị trường chứng khoán ra đời thì
người dân có thêm cơ hội đầu tư mới, họ sẵn sàng đầu tư vốn của mình vào những
nơi có tỷ suất lợi nhuận lớn hơn. Do vậy mà sẽ hạn chế lượng vốn gửi vào Ngân
hàng thậm chí sẽ có một lượng vốn đáng kể rút ra để đầu tư vào thị trường chứng
khoán.
Tâm lý người dân nói chung là muốn gửi tiền vào Ngân hàng với kỳ hạn
ngắn, loại có tính lỏng cao hơn. Khi cần có thể rút ra để chi tiêu mà vẫn thu được
lãi suất mong muốn, do vậy mà tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng gây khó khăn cho việc tạo lập
nguồn vốn để cho vay các dự án lớn. Ngoài ra do thói quen của người dân là thích
chi tiêu tiền mặt, không muốn hoặc chưa hiểu biết hết công dụng của việc thanh
toán không dùng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng cho nên số lượng tài khoản cá
nhân còn ít, Ngân hàng cần khai thác nghiệp vụ này trong thời gian tới để khai thác
một lượng vốn rất lớn trong nền kinh tế.
b Nhân tố chủ quan
Mặc dù Ngân hàng đã có những bước tiến lớn trong công tác hiện đại hoá
công nghệ Ngân hàng song những hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như
thanh toán qua tài khoản tại Ngân hàng, máy rút tiền tự động… chưa phát triển ra
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
diện rộng. Công nghệ Ngân hàng cả về qui trình nghiệp vụ lẫn trang thiết bị công
nghệ là yếu tố quyết định khă năng cạnh tranh của Ngân hàng còn hạn chế, chưa
thực hiện đi trước một bước và chưa tương xứng với khả năng hoạt động của Ngân
hàng. Thiếu chương trình phần mềm cung cấp thông tin phục vụ công tác quản trị
điều hành. Trình độ ứng dụng công nghệ còn hạn chế, sản phẩm dịch vụ còn ít, số
lượng khách hàng đông nên chưa đáp ứng được hết nhu cầu của khách hàng.
Công tác xây dựng qui trình nghiệp vụ thực hiện chưa đồng bộ, dẫn đến sự
phối hợp thực hiện nghiệp vụ chưa nhịp nhàng và tốc độ giao dịch chưa cao.
Công tác quản trị điều hành còn mang tính bị động, thiếu nhạy bén. Chương
trình công tác và chế độ báo cáo thực hiện chậm, chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu
quản trị đề ra. Công tác quản trị điều hành, phân tích dự báo còn bị động, hạn chế
trong việc xây dựng các chính sách mang tính dài hạn.
Các hình thức tiếp thị quảng cáo còn ít, công tác khách hàng chưa được quan
tâm đúng mức, Marketing còn dàn trải, hiệu quả thấp. Chưa tìm được nhiều khách
hàng, dự án lớn. Việc quảng cáo mới chỉ bó hẹp trên các tạp chí của ngành, chưa
phổ biến rộng rải đến các khách hàng.
Mạng lưới kinh doanh mỏng, chủ yếu tập trung ở hội sở nên chưa khai thác
hết khả năng và lợi thế của Ngân hàng trong công tác huy động vốn. Ngoài ra sản
phẩm của Ngân hàng chưa thật phong phú, chủ yếu là các sản phẩm truyền thống,
do vậy mà dã ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của Ngân hàng.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
3.1 MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐT&PT HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1 Mục tiêu
Là một trung gian tài chính, Ngân hàng nhận thức được rằng để hoạt động
kinh doanh được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục thì trước hết phải có
nguyên liệu đầu vào, mà hoạt động tìm kiếm nguyên liệu đó là quá trình thu hút
vốn tiền gửi của dân cư và các TCKT. Do vậy, mục tiêu huy động vốn có vị trí rất
quan trọng trong mục tiêu tổng thể của Ngân hàng. Mục tiêu này được xác định
trên cơ sở:
Xuất phát từ định hướng chiến lược của Ngân hàng ĐT&PTVN: Giữ vị thế là
một trong những Ngân hàng lớn nhất Việt nam, giữ vai trò chủ đạo trong việc cung
ứng vốn cho đầu tư phát triển, luôn nỗ lực cao nhất để đáp ứng sự nghiệp Công
nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định
tiền tệ, từng bước xây dựng Ngân hàng ĐT&PT VN trở thành một Ngân hàng vững
mạnh để nhanh chóng hội nhập với các Ngân hàng trong khu vực và thế giới.
Xuất phát từ định hướng chiến lược huy động vốn của Ngân hàng ĐT&PT Việt
Nam.
Đa dạng hoá các hình thức huy động, có biện pháp nâng cao tỷ trọng tiền gửi
có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, đồng thời tăng lượng vốn huy
động từ các tầng lớp dân cư.
Coi trọng công tác huy động vốn trung và dài hạn thông qua phát hành kỳ
phiếu, trái phiếu trung và dài hạn ở cả trong và ngoài nước.
Gắn chiến lược huy động vốn với sử dụng vốn.
Đổi mới phong cách phục vụ
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt đối với khách hàng
Đồng thời dựa trên đường lối và chiến lược phát triển kinh tế chung của
Đảng và Nhà nước, kế hoạch phát triển của hệ thống Ngân hàng ĐT&PT VN giai
đoạn 2001-2010, căn cứ vào điều kiện thuận lợi và khó khăn của môi trường kinh
doanh, Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội xác định một số mục tiêu chủ yếu
của trong thời gian tới:
Mục tiêu tổng quát
Phấn đấu trở thành là một trong những Ngân hàng đầu tiên trên địa bàn về qui
mô hoạt động và chất lượng dịch vụ, về sức cạnh tranh và tính năng động. Là một
trong những Ngân hàng có chất lượng hoạt động tốt trên địa bàn, có cơ cấu hợp lý,
có sản phẩm đa dạng, phong cách phục vụ kiểu mẫu.
Là Ngân hàng kinh doanh đa năng tổng hợp, có tỷ trọng dịch vụ chiếm tỷ lệ
lớn.
Có trình độ công nghệ Ngân hàng tiên tiến, cao hơn mức trung bình trên địa
bàn.
Xây dựng tập thể vững mạnh, đoàn kết nhất trí cao, hoạt động điều hành có kỷ
cương nề nếp và đảm bảo có thu nhập cao, ổn định cho người lao động
Cụ thể chỉ tiêu kế hoạch năm 2003 được chi nhánh đặt ra là:
Nguồn vốn huy động bình quân tăng 30% so với năm 2002
Dư nợ tín dụng bình quân tăng 20% so với năm 2002
Thu dịch vụ ròng tăng 35% so với năm 2002
Lợi nhuận trước thuế tăng 10% so với năm 2002
Tỷ lệ dư nợ quá hạn < 3%
Trích tỷ lệ dự trữ bắt buộc đúng theo qui định
Mục tiêu trong công tác huy động vốn
Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả các hình thức huy động vốn
truyền thống đồng thời đa dạng hoá các công cụ và hình thức huy động vốn mới,
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
sử dụng công cụ lãi suất phù hợp để tạo nên nguồn vốn ổn định, giảm sự biến động
nguồn vốn theo chu kỳ.
Từng bước cơ cấu lại khách hàng theo hướng tăng nền vốn tiền gửi thanh toán
và tăng tỷ trọng nguồn vốn huy động trung và dài hạn.
Nâng cao hơn nữa chất lượng các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới huy động,
tăng cường tiếp thị, quảng cáo thông tin, tuyên truyền và áp dụng nhiều hình thức
khuyến khích tạo điều kiện phục vụ tốt nhất cho khách hàng.
Chủ động kiểm soát gia tăng tín dụng trên cơ sở cân đối nguồn vốn và gắn liền
với tăng cường kiểm tra, đánh giá, phân tích thực trạng các khoản vay, đặc biệt là
các khoản vay có tiềm ẩn rủi ro dẫn đến khả năng không thu được nợ.
Trang bị đầy đủ máy móc,thiết bị cần thiết, chú trọng tới yếu tố đồng bộ và kịp
thời trong đầu tư công nghệ.
3.1.2 Phương hướng chiến lược nguồn vốn trong thời gian tới
Tiếp tục thực hiện chương trình huy động vốn theo chỉ đạo của Ngân hàng
ĐT&PT VN và NHTƯ, huy động vốn trong nước là chủ yếu, từng bước điều chỉnh
cơ cấu nguồn vốn tạo nguồn để cho vay trung và dài hạn, hạn chế cho vay nước
ngoài. Trên cơ sở cơ chế, chính sách, Ngân hàng tích cực mở rộng quan hệ vay vốn
bằng nhiều hình thức với các Ngân hàng và các tổ chức tài chính quốc tế để tạo
thêm nguồn vốn phục vụ cho đầu tư. Nghiên cứu thực hiện phương thức NHTM
phối hợp với các doanh nghiệp xây dựng dự án để gọi vốn liên doanh, vay vốn
nước ngoài. Mở rộng huy động vốn gắn liền với khả năng mở rộng cho vay và đầu
tư vào các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là các chương trình
nghành kinh tế và các dự án có hiệu quả.
Coi huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa then chốt quyết định của
từng chi nhánh để đáp ứng nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng đã ký, đồng
thời giữ vững nền vốn, đảm bảo khả năng thanh toán.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Thực hiện theo hướng coi việc tăng trưởng tiền gửi khách hàng là trọng tâm
trên cơ sở nâng cao chất lượng và mở rộng dịch vụ thanh toán trong nước, thanh
toán quốc tế, mở rộng cung ứng sản phẩm dịch vụ để tăng nhanh số lượng khách
hàng có quan hệ giao dịch với Ngân hàng.
Coi việc huy động vốn dân cư là nhiệm vụ thường xuyên. Trên cơ sở phân
tích nhu cầu thị trường để đưa ra các hình thức huy động, kỳ hạn, lãi suất huy động
cho phù hợp nhằm thu hút tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi đang còn nằm phân tán
trong nền kinh tế. Đồng thời phát triển thêm các loại hình dịch vụ như mở rộng
thanh toán qua các hình thức tài khoản tiền gửi cá nhân, mở rộng dịch vụ đại lý.
Tăng tỷ trọng huy động vốn trung và dài hạn nhằm từng bước khắc phục tình
trạng thừa vốn ngắn hạn, thiếu vốn trung và dài hạn. Việc đẩy mạnh việc huy động
vốn trung và dài hạn là yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của ngành Ngân hàng
nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn đầu tư trung và dài hạn của nền kinh tế.
Tập trung toàn lực tăng cường huy động vốn VND, nhất là vốn trung và dài
hạn nhằm cân đối cơ cấu loại tiền và cơ cầu kỳ hạn trong tổng tài sản của Ngân
hàng. Coi việc huy động tiền gửi khách hàng là then chốt, đột phá tăng trưởng tiền
gửi thông qua tăng trưởng số lượng khách hàng, tăng qui mô giao dịch của mỗi
khách hàng, thực hiện đa dạng hoá khách hàng giao dịch theo thành phần và theo
lĩnh vực kinh doanh nhằm tránh những biến động nguồn tiền theo chu kỳ kinh
doanh. Tăng cường hoạt động trong khâu tiếp thị đặc biệt là với những khách hàng
có luồng tiền mặt lớn.
Nghiên cứu đưa ra các hình thức huy động vốn mới, tiếp tục duy trì và hoàn
thiện các hình thức huy động vốn truyền thống, đồng thời đa dạng hoá các công cụ
và hình thức huy động như nhận tiền gửi uỷ thác đầu tư, vốn tài trợ trên cơ sở xử lý
hài hoà lợi ích của người gửi tiền, Ngân hàng thương mại và người vay vốn thông
qua việc xác định lãi suất huy động và lãi suất cho vay phù hợp.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Mở rộng mạng lưới huy động đặc biệt là đầu tư vào cơ sở vất chất nhằm tạo
hình ảnh tốt về Ngân hàng, mở rộng và cải tiến mạng lưới giao dịch phù hợp với
qui mô tăng trưởng nguồn vốn huy động, nghiên cứu áp dụng các sản phẩm dịch
vụ mới ngày càng đa dạng nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường.
Gắn chặt các hoạt động khác với công tác huy động vốn, các phòng tín dụng
gắn nhiệm vụ huy động vốn tiền gửi thông qua quan hệ tín dụng, cung ứng các
dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng, tăng cường cho vay có bảo đảm bằng tiền gửi
của khách hàng với lãi suất ưu đãi, khuyến khích khách hàng chuyển doanh thu từ
các dự án vào tài khoản tại Ngân hàng, đồng thời nắm vững nhu cầu sử dụng vốn
vay, tiền gửi tại Ngân hàng nhằm tăng cường hiệu quả công tác quản lý và sử dụng
vốn. Các phòng Kế toán, Thanh toán quốc tế nâng cao tốc độ và chất lượng giao
dịch, ưu đãi phí hợp lý nhằm tăng thêm doanh số giao dịch và tiền gửi. Thực hiện
giao chỉ tiêu huy động đến từng phòng nghiệp vụ. Đề cao trách nhiệm và vai trò
của các bộ phận nghiệp vụ trong công tác nguồn vốn và sử dụng vốn, thực hiện
công tác kinh doanh tiền tệ để thu hút thêm nhiều khách hàng, nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, tăng thu dịch vụ cho Ngân hàng.
Hết sức coi trọng công tác điều hành vốn, cân đối hợp lý cơ cấu tài sản Nợ-
Có nhằm hạn chế rủi ro lãi suất, rủi ro kỳ hạn cũng như tỷ giá. Vận dụng các cơ
chế hiện hành tổ chức điều hoà nguồn vốn kinh hoạt, phấn đấu dần dần điều chỉnh
cơ cấu tài sản Nợ- Có phù hợp nhằm hạn chế rủi ro về cơ cấu loại tiền, lãi suất đối
với hoạt động Ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tiếp tục đổi mới cơ chế
điều hành nguồn vốn theo hướng xây dựng cơ cấu vốn tích cực, tăng vốn trung và
dài hạn, đảm bảo vốn phục vụ cho đầu tư phát triển, giữ vững và phát triển nền
vốn.
Giao chỉ tiêu huy động vốn tiền gửi khách hàng cho từng cán bộ giao dịch
trực tiếp như Tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế…Giao chỉ tiêu huy động vốn
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
dân cư hàng quí đối với các Quỹ tiết kiệm, các Phòng giao dịch, các chi nhánh có
gắn với động lực vật chất.
3.2 CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐT&PT HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
Qua việc nghiên cứu nội dung công tác huy động vốn tại chi nhánh Ngân
hàng ĐT&PT Hà nội ta thấy nguồn vốn huy động có bước tăng trưởng cao qua các
năm, đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của Ngân hàng. Chiến lược huy động vốn
hướng vào tăng trưởng nguồn vốn huy động tại chỗ là hợp lý, giúp cho Ngân hàng
ngày càng độc lập tự chủ trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh những
điều kiện thuận lợi cả bên trong và bên ngoài Ngân hàng thì Ngân hàng còn gặp
nhiều khó khăn và hạn chế cần khắc phục. Để nâng cao hiệu quả hoạt động huy
động vốn thì Ngân hàng phải xây dựng được hệ thống các giải pháp hợp lý nhằm
khai thác tối đa các nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực. Dưới quan
điểm là một cá nhân đang nghiên cứu về hoạt động huy động vốn, em mạnh dạn đề
xuất một số giải pháp sau:
3.2.1 Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp cho từng thời kỳ
Mỗi một Ngân hàng phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh phù
hợp cho từng thời kỳ trên cơ sở chiến lược phát triển chung của Đảng và nhà nước,
chiến lược phát triển chung của ngành, của từng hệ thống NHTM. Tuỳ từng điều
kiện khách quan và chủ quan thuận lợi hay bất lợi mà từng chi nhánh xây dựng cho
mình một chiến lược kinh doanh cụ thể (Chiến lược huy động vốn, chiến lược sử
dụng vốn và các hoạt động khác). Trên cơ sở chiến lược đề ra, dựa trên điều kiện
thực tế để Ngân hàng có biện pháp cụ thể để tổ chức chỉ đạo, điều hành thực hiện
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
thưc chiến lược chung đó, đồng thời phải thường xuyên cập nhật thông tin để có ý
kiến chỉ đạo kịp thời.
3.2.2 Cải tiến nghiệp vụ, đa dạng hoá các hình thức huy động
Để hấp dẫn người gửi tiền và giảm bớt khối lượng giấy tờ cần thiết phải sử
lý thì Ngân hàng phải thực hiện hiện đại hoá, vi tính hoá qui trình thực hiện công
việc. Trước đây, nhiều người có tiền không muốn gửi tiền vào Ngân hàng vì họ
cho rằng thủ tục gửi tiền và rút tiền rất phiền hà. Do vậy đã hạn chế rất nhiều đến
công tác huy động vốn. Muốn nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn thì Ngân
hàng phải tiến hành cải tiến qui trình nghiệp vụ, giảm thủ tục giấy tờ, tăng năng
suất phục vụ khách hàng, tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi đến giao dịch
với Ngân hàng.
Cần phải mở rộng mạng lưới huy động, chi nhánh phải có kế hoạch cụ thể
và chủ động mở ra các điểm giao dịch mới, tăng cường thêm phương tiện vât chất
kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động ở trụ sở cũng như các điểm giao dịch khác để
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Đồng thời hết sức chú trọng tới việc tạo
ra bộ mặt mang phong cách riêng của Ngân hàng, bằng cách nâng cao tinh thần,
tác phong phục vụ, phấn đấu đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Đa dạng hóa các hình thức huy động, thường xuyên bám sát tình hình biến
động lãi suất thị trường, dự báo xu hướng biến động để đưa ra các mức lãi suất hợp
lý, linh hoạt có tính cạnh tranh cao. Làm như vậy thì mới có thể đáp ứng được nhu
cầu đa dạng của người gửi tiền, nhờ đó Ngân hàng có thể khai thác triệt để hơn các
nguồn vốn tiềm năng.
Sử dụng linh hoạt nhiều hình thức huy động vốn, cần nghiên cứu áp dụng
nhiều hình thức huy động vốn mới như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu để huy động
vốn trung và dài hạn, phát hành chứng chỉ tiền gửi. Về tiền gửi tiết kiệm thì áp
dụng nhiều các loại hình tiết kiệm mới như tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm an sinh học
đường, tiết kiệm hôn nhân, tiết kiệm báo hiếu, tiết kiệm tích luỹ, tiết kiệm gửi một
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
nơi có thể rút ở nhiều nơi khác nhau… Nghiên cứu các hình thức huy động tiết
kiệm gửi góp, nhận và trả tại nhà…
3.2.3 Đa dạng hoá và nâng cao các loại hình dịch vụ Ngân hàng
Trong hoạt động Ngân hàng hiện nay, các Ngân hàng cạnh tranh với nhau
chủ yếu bằng hệ thống các dịch vụ Ngân hàng. Chiến lược này bao gồm việc đa
dạng hoá bằng cách áp dụng có chọn lọc các hoạt động mà các Ngân hàng khác (cả
trong và ngoài nước) đã áp dụng, từ đó cải tiến để tạo ra sự khác biệt đối với những
dịch vụ sẵn có và phát triển các sản phẩm dịch vụ mới theo một qui trình chính
thức. Dịch vụ đa dạng, thuận tiện sẽ tác động trực tiếp tới qui mô và chất lượng
nguồn tiền gửi giao dịch của khách hàng, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn nhằm
phục vụ cho các mục đích thường xuyên của họ. Hơn nữa, dịch vụ đa dạng cũng có
tác dụng kích thích thu hút thêm được nhiều nguồn vốn có kỳ hạn.
Trình độ công nghệ Ngân hàng càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy hài
lòng về những dịch vụ được cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền vào Ngân hàng.
Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp Ngân hàng thực hiện cạnh tranh phi lãi suất
vì khách hàng không chỉ quan tâm đến lãi suất mà còn cả chất lượng các dịch vụ
mà họ được cung ứng nhất là đối với các khách hàng lớn. Với cùng một mức lãi
suất huy động như nhau, Ngân hàng nào cung ứng dịch vụ tốt hơn thì sẽ chiếm ưu
hơn thế trong cạnh tranh.
Các dịch vụ Ngân hàng là yếu tố quan trọng nói lên tính tiện ích của Ngân
hàng. Hiện nay, ở nước ta hệ thống Ngân hàng ngoài việc thu hút tiền gửi tiết kiệm
của dân cư thông qua việc cạnh tranh lãi suất và thực hiện những dịch vụ chủ yếu
đối với các doanh nghiệp, hiện đang còn một mảng rất lớn các tiện ích Ngân hàng
dành cho cá nhân đang bị bỏ ngõ. Do vậy, để hoạt động dịch vụ sớm trở thành
công cụ cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng, tăng nguồn vốn huy động đồng
thời làm tăng thu nhập cho khách hàng thì ngoài các dịch vụ hiện đang áp dụng,
Ngân hàng cần tiến hành thêm các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, tư vấn tài
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
chính, tư vấn pháp luật. Mở rộng hoạt động quản lý tài chính, chi trả thu nhập, trả
lương cho các doanh nghiệp lớn, phát triển các dịch vụ kiều hối và dịch vụ khác
nhằm thu hút ngoại tệ, tăng nguồn thu ngoại tệ cho hoạt động kinh doanh phù hợp
với chính sách quản lý ngoại hối và tăng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng.
Ngân hàng cần tham gia tích cực hơn nữa vào các hoạt động của thị trường
chứng khoán, đây là một kênh thu hút nguồn vốn nguồn vốn trung và dài hạn rất
quan trọng. Với khả năng của mình Ngân hàng có thể tham gia vào các hoạt động
như phát hành, đại lý phát hành chứng khoán, trung gian môi giới thực hiện mua
bán chứng khoán, trực tiếp đầu tư chứng khoán. Ngoài ra Ngân hàng có thể cho
vay bằng cách cầm cố chứng khoán, thực hiện bảo quản chứng khoán và quản lý
chứng khoán, thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng một cách nhanh
chóng, tiện lợi, an toàn.
3.2.4 Sử dụng lãi suất linh hoạt trong từng thời kỳ, đáp ứng sự biến động của thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng
Lãi suất là công cụ quan trọng để Ngân hàng huy động nguồn vốn hiện có
trong các tầng lớp dân cư, các Doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng khác. Đồng thời
Ngân hàng có thể sử dụng để điều chỉnh cơ cấu tiền gửi có kỳ hạn, vì mục đích chủ
yếu của khách hàng là có lãi. Chính sách lãi suất hợp lý phải vừa đẩy mạnh việc
thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hôị đồng thời vừa kích thích
các khách hàng vay vốn sử dụng vốn có hiệu quả phục vụ cho đầu tư sản suất kinh
doanh.
Lãi suất hiện nay còn bị ảnh hưởng rất lớn bởi sự cạnh tranh của các Ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác. Do đó, Ngân hàng cần phải xây dựng và thực
hiện chính sách lãi suất trên cơ sở chính sách khách hàng và tính toán lãi suất hiệu
quả hoặc mức độ rủi ro của từng món vay. Đồng thời phải mang tính linh hoạt,
uyển chuyển, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, người vay tiền nhưng trên hết
phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Việc ấn định lãi suất còn phải
căn cứ vào quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường ở từng thời kỳ khác nhau, trong TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
đó lãi suất đầu ra quyết định lãi suất huy động đầu vào, thể hiện ở việc huy động
vốn phải được thực hiện trên cơ sở sử dụng vốn. Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể mà
Ngân hàng nên điều chỉnh khung lãi suất phù hợp, đảm bảo tính cạnh tranh cho
Ngân hàng.
Lãi suất huy động có ảnh hưởng lớn trong việc thu hút khách hàng gửi tiền
vào Ngân hàng, cho nên ngoài yếu tố uy tín của Ngân hàng thì lãi suất đóng vai trò
rất quan trọng trong việc thu hút vốn tiền gửi. Nếu lãi suất hợp lý thì sẽ thu hút
được nhiều các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào Ngân hàng. Do vậy Ngân
hàng cần phải thường xuyên theo dõi tình hình biến động lãi suất trên thị trường,
dự đoán xu hướng biến động, thực hiện tính toán lãi suất bình quân đầu ra, đầu vào
để đưa ra các mức lãi suất vừa có tính cạnh tranh, vừa có tính hấp dẫn nhưng vẫn
đảm bảo lợi ích cho Ngân hàng.
3.2.5 Gắn liền việc huy động vốn với sử dụng vốn
Trong hoạt động Ngân hàng hiện nay, muốn đạt hiệu quả cao trong kinh
doanh thì phải bám sát vào nhu cầu thực tế để có những điều chỉnh kịp thời. Trong
đó hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn là công việc chủ yếu và thường xuyên
của bất kỳ Ngân hàng nào. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh thì vấn đề là phải làm
sao cân đối được hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn để cho Ngân hàng không
bị động trong kinh doanh, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng và đảm bảo
chi phí thấp nhất. Nguồn vốn huy động chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nó được
sử dụng đúng nơi, đúng lúc. Vì vậy việc nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn có
ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của công tác huy động vốn.
Đồng thời, việc sử dụng vốn có hiệu quả là cơ sở để Ngân hàng mở rộng thực hiện
huy động vốn. Về mặt kinh tế, sử dụng vốn có hiệu quả sẽ đảm bảo cho Ngân hàng
có khả năng trang trải chi phí cho những nguồn vốn huy động và mang lại lợi
nhuận cho Ngân hàng. Ngoài ra còn tạo cơ sở để Ngân hàng áp dụng các biện pháp
kinh tế trong công tác huy động vốn sau này. Hơn nữa việc sử dụng vốn có hiệu
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
quả còn thúc đẩy sự phát triển trong quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng của
mình, tạo cho Ngân hàng ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch với Ngân
hàng.
Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả chính là một cách tạo vốn và phát triển
vững chắc nhất. Do vậy, cùng với chiến lược huy động vốn, Ngân hàng cần phải có
chiến lược sử dụng vốn đúng đắn cho thời gian trước mắt và lâu dài một cách có
hiệu quả và tiết kiệm. Hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn nên gắn bó với
nhau theo các tỷ lệ đảm bảo an toàn về khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn tối thiểu và tỷ
lệ an toàn tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài
hạn, tỷ lệ dự trữ tối đa cho vay đối với số dư tioền gửi theo quyết định của thông
đốc Ngân hàng nhà nước và thực tế hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
3.2.6 Tăng cường công tác Marketing trong tất cả các mảng hoạt động của Ngân hàng
Để hoạt động kinh doanh được diễn ra một cách thường xuyên và liên tục thì
Ngân hàng phải có một số lượng khách hàng đủ lớn có quan hệ giao dịch với mình.
Do đó mà việc thu hút được khách hàng quan tâm đến sản phẩm mà mình cung
ứng là một nhiệm vụ rất quan trọng trong hoạt động Ngân hàng. Muốn vậy thì đòi
hỏi Ngân hàng phải thực hiện tốt công tác Marketing Ngân hàng. Hiện nay các sản
phẩm Ngân hàng chưa được các phương tiện thông tin đại chúng quảng cáo rầm rộ
như các sản phẩm khác, có chăng chỉ là các sản phẩm truyền thống như tiết kiệm,
cho vay và một số sản phẩm khác và cũng chỉ thực hiện khi các Ngân hàng cần vốn
để thực hiện cho một dự án đầu tư cụ thể. Các sản phẩm dịch vụ mới thì hầu như
chưa được quảng cáo, hướng dẫn, giới thiệu. Như vậy là chưa cung cấp một cách
đầy đủ các thông tin cần thiết đến dân chúng khiến cho họ có tâm lý e ngại khi có
nhu cầu cần tìm một Ngân hàng để giao dịch, đặc biệt là các cá nhân và doanh
nghiệp nhỏ. Do vậy mà Ngân hàng cần phải phối hợp với các ngành phát thanh,
truyền hình, báo chí để xây dựng hình ảnh của mình trong lòng thị trường. Không
nhất thiết phải thực hiện thường xuyên mà có thể định kỳ hàng tuần, hàng tháng có TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
những buổi phát sóng quảng cáo giới thiệu về Ngân hàng, các hình thức dịch vụ
mà Ngân hàng cung ứng, giới thiệu, hướng dẫn các sản phẩm dịch vụ mới…
Để thực hiện thành công Marketing trong Ngân hàng, ngoài bộ phận chuyên
trách phân tích thì tất cả nhân viên cũng như ban lãnh đạo đều phải tham gia vào
hoạt động này, coi tiếp thị là một công tác trọng tâm trong hoạt động của Ngân
hàng. Bên cạnh đó đặc biệt chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, giáo dục thái
độ phục vụ ân cần, niềm nở cho đội ngũ nhân viên đặc biệt là nhân viên giao dịch
tại quầy. Thái độ phục vụ chính là yếu tố tạo nên ấn tượng của khách hàng về Ngân
hàng. Với sự phục vụ tận tình của mình, các cán bộ công nhân viên đã tham gia
một cách tự nhiên vào hoạt động Marketing Ngân hàng.
Ngân hàng nên thực hiện nghiên cứu chu kỳ khách hàng về nhu cầu nguồn
vốn cũng như các dịch vụ khác của Ngân hàng, tiến hành phân tích khách hàng để
nắm bắt được nhu cầu của khách hàng từ đó nâng cao hiệu quả phục vụ khách hàng
một cách tốt nhất. Ngoài ra, Ngân hàng phải có chiến lược khách hàng đúng đắn,
ưu tiên khách hàng truyền thống, khách hàng giao dịch với số lượng lớn về lãi suất,
phí dịch vụ, thời gian và các ưu đãi khác. Cần có chính sách khuyến khích vật chất
với những khách hàng lớn để vừa có thị trường đầu tư vốn, vừa thu hút được khách
hàng và có khả năng khai thác được khối lượng lớn nguồn vốn.
Hàng năm nên tổng kết rút kinh nghiệm trong công tác Marketing, công tác
khách hàng trong năm trước, phát huy những điểm mạnh, hạn chế điểm yếu, tham
khảo kinh nghiệm của các Ngân hàng khác trên địa bàn, quan tâm đến động thái
của các doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh để thực hiện chính sách Marketing
phù hợp với đặc điểm và qui mô của Ngân hàng.
3.2.7 Nâng cao vị thế và tuy tín của Ngân hàng
Trong hoạt động Ngân hàng thì vị thế và uy tín của Ngân hàng có ảnh hưởng
đến kết quả hoạt động của Ngân hàng. Nếu các Ngân hàng trên cùng địa bàn đưa ra
các mức lãi suất huy động như nhau, cung ứng các sản phẩm dịch vụ như nhau thì
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Ngân hàng nào có vị thế và uy tín cao hơn sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn
nhất là các khách hàng lớn. Uy tín của Ngân hàng được thể hiện trong chính các
hoạt độngcủa Ngân hàng như khả năng sẵn sàng chi trả theo nhu cầu của khách
hàng, khả năng đối phó với những trường hợp khách hàng rút tiền ra với khối
lượng lớn và đột xuất, khả năng cho vay đối với các dự án lớn, mức độ đa dạng của
sản phẩm dịch vụ mà Ngân hàng cung ứng cúng như những tiện ích mà Ngân hàng
mang lại cho khách hàng và hơn hết là mức độ hài lòng của khách hàng về việc sử
dụng các sản phẩm Ngân hàng.
Như vậy với khả năng của mình Ngân hàng sẽ tạo ra được hình ảnh của
riêng mình trong lòng thị trường, một Ngân hàng lớn có uy tín và danh tiếng trong
nhiều năm thì sẽ có được lợi thế trong hoạt động huy động vốn nói riêng và trong
hoạt động Ngân hàng nói chung. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho Ngân
hàng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm được chi phí huy động, nâng
cao khả năng thu hút và giữ được khách hàng của mình thậm chí trong những
trường hợp lãi suất huy động tiền gửi có thấp hơn một chút nhưng người gửi tiền
vẫn lựa chọn Ngân hàng để gửi tiền mà không tìm đến những Ngân hàng khác trả
lãi hấp dẫn hơn vì họ cho rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ tuyệt đối an toàn.
3.2.8 Xây dựng trụ sở và trang bị hệ thống máy móc thiết bị để tạo ra hình ảnh tốt về Ngân hàng
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược
Marketing Ngân hàng. Đối với người gửi tiền thì mục đích của họ là đông vốn của
mình sinh lãi và an toàn sau một thời gian đầu tư. Do vậy mà trụ sở Ngân hàng tạo
ra ấn tượng đầu tiên của khách hàng đối với Ngân hàng về mức độ an toàn, khả
năng tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh nhất là đối với những khách hàng
lần đầu tiên quan hệ giao dịch với Ngân hàng. Ngoài vị trí và mức độ khang trang
của trụ sở Ngân hàng thì một yếu tố rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân
hàng đó là hệ thống thiết bị máy móc phục vụ cho hoạt động của Ngân hàng nhằm
tăng năng suất và rút ngắn thời gian thực hiện công việc. Ngân hàng cần tiến hành TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
trang bị thêm máy móc thiết bị hiện đại và nâng cấp các chương trình phần mềm,
xác lập hệ thống thông tin nội bộ, hoàn chỉnh đồng bộ để phục vụ kinh doanh, nâng
cao độ chính xác, an toàn, hiệu quả, thuận lợi và cung cấp thông tin kịp thời chính
xác giúp cho công tác chỉ đạo điều hành hoạt động của Ngân hàng một cách tốt
nhất. Việc áp dụng công nghệ vào hoạt động Ngân hàng giúp Ngân hàng có khả
năng cung ứng cho khách hàng những sản phẩm dịch vụ hiệu quả nhất và kinh tế
nhất.
Qua việc phân tích về thực trạng huy động vốn của Ngân hàng trong thời
gian qua, ta nhận thấy tuy môi trường cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn
song với khả năng của mình Ngân hàng vẫn đảm bảo duy trì được nguồn vốn ổn
định để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Điều đó chứng tỏ rằng tiềm năng vốn
trong dân là rất lớn nhưng vấn đề làm sao để khai thác có hiệu quả các nguồn vốn
này thì lại phụ thuộc vào khả năng của từng Ngân hàng. Do vậy từng Ngân hàng
cần phải tìm ra những giải pháp cho riêng mình và vận dụng nó một cách có hiệu
quả thì mới có khả năng đem lại kết quả cao trong hoạt động kinh doanh của chính
Ngân hàng.
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
3.3.1 Kiến nghị với nhà nước
3.3.1.1 Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn
của Ngân hàng. Nó có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể gây
cản trở, hạn chế công tác huy động vốn. ổn định môi trường kinh tế vĩ mô là thành
quả của sự phối hợp nhiều chính sách như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ,
chính sách đối ngoại…Trong đó chính sách tiền tệ cá vai trò đặc biệt quan trọng
đối với hoạt động của Ngân hàng.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Đối với Việt nam hiện nay, một trong những nội dung của việc ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô chính là việc chống lạm phát, ổn định tiền tệ. Nó là điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện các giải pháp huy động vốn có hiệu quả. Thực tế đã
chứng tỏ rằng, trong thời gian qua Nhà nước và các ngành, các cấp trong đó trước
hết là Ngân hàng nhà nước đã thành công trong việc tạo lập và duy trì ổn định tiền
tệ. Ngân hàng nhà nước đã bước đầu sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô một cách có hiệu quả, duy trì được tỷ lệ
lạm phát hợp lý. Đây là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các giải pháp huy
động vốn có hiệu quả. Trong giai đoạn tới một trong những giải pháp ổn định chủ
yếu là phải kiểm soát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho nền kinh tế có tốc độ
tăng trưởng cao trong thế ổn định và bền vững. Đồng thời cũng là điều kiện phát
huy tác dụng của chính sách tiền tệ trong việc điều tiết lượng tiền trong lưu thông
sao cho phù hợp với các mục tiêu và sự biến động của nền kinh tế.
3.3.1.2 Tạo lập môi trường pháp lý
Theo tinh thần của Đảng và Nhà nước thì trong cơ chế thị trường các thành
phần kinh tế dược tự do lựa chọn hình thức sở hữu, tự do lựa chọn ngành nghề
kinh doanh (những ngành nghề mà pháp luật không cấm), được tự do cạnh
tranh…Song phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhà nước. Do vậy nhà nước
cần ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng nhằm định hướng hoạt động cho
các ngành kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng.
Trong lĩnh vực Ngân hàng, hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Do vậy mà
cần sự định hướng chung của nhà nước và sự chỉ đạo sát sao, kịp thời nhằm đảm
bảo ổn định thị trường tiền tệ, góp phần đem lại hiệu quả hoạt động chung cho các
ngành khác. Việc nhà nước ban hành hệ thống pháp lý không chỉ tạo niềm tin đối
với công chúng mà còn với những khuyến khích của nhà nước còn tác động trực
tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một bộ phận
tiêu dùng chưa cấp thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất trữ dưới dạng vàng
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản suất kinh doanh hoặc gửi vốn vào
Ngân hàng kể cả việc khai thác ở mức cao nhất tiềm lưc vốn của các doanh nghiệp.
Các văn bản luật hoặc dưới luật cần được ban hành một cách có hệ thống
hơn nhằm đảm bảo mọi hoạt động tài chính, tiền tệ, tín dụng đều được pháp luật
hoá, tạo nên một môi trường ổn định về pháp lý và chế độ chính sách cho các Ngân
hàng. Song song với việc ban hành các điều luật về Ngân hàng Nhà nước cũng nên
kết hợp với các luật khác như Luật ngân sách, luật doanh nghiệp, luật thương
mại… để tạo ra hệ thống luật đầy đủ và đồng bộ, có tác dụng điều chỉnh các mối
quan hệ liên quan đến hoạt động Ngân hàng.
Việc ban hành, hướng dẫn thi hành và thực hiện cần phải sử lý thống nhất
chặt chẽ. Đồng thời phải có sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp hữu quan để
tạo lập và hoàn thiện các văn bản luật khác có liên quan. Mặt khác phải sử lý
nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật nhất là đối với các cán bộ Ngân hàng.
Làm như vậy mới tạo ra được niềm tin của dân chúng vào vai trò Đảng và Nhà
nước trong việc điều hành các hoạt động của nền kinh tế nói chung cũng như tin
tưởng vào hệ thống Ngân hàng nói riêng.
3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực
Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng. Ngân hàng nhà nước thực hiện vai trò quản lý của
mình thông qua các NHTM từ đó tác động vào nền kinh tế. Với vai trò là Ngân
hàng của các Ngân hàng, Ngân hàng nhà nước định hướng cho các NHTM trong
việc thực hiện các hoạt động của Ngân hàng nói chung và tới công tác huy động
vốn noi riêng. Do đó Ngân hàng nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện chính sách
tiền tệ hợp lý hơn nhằm khuyến khích người dân gửi tiền bằng các công cụ lãi suất,
tỷ giá, thị trường mở và một số công cụ khác nhằm bảo đảm quyền lợi cho người
gửi tiền.
3.3.2.1 Xây dựng chính sách điều hành lãi suất linh hoạt cho từng thời kỳ
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Lãi suất là một công cụ quan trọng trong chính sách tiền tệ của nhà nước
nhằm điều chỉnh quan hệ cung cầu trên thị trường. Lãi suất là đòn bẩy kinh tế có
tác dụng kích thích người dân có tiền gửi vào Ngân hàng để hưởng lãi và qua công
cụ lãi suất thì NHNN sẽ tác động đến lượng tiền cung ứng thông qua các NHTM từ
đó làm ảnh hưởng đến lượng tiền trong lưu thông. Do vậy để thực hiện tốt chức
năng quản lý nhà nước về Tiền tệ-Tín dụng- Ngân hàng thì cùng với việc xây dựng
và thực hiện đồng bộ các công cụ khác của chính sách tiền tệ thì cần phải chú trọng
và thức hiện có hiệu quả công cụ lãi suất trong từng thời kỳ để nâng cao chất lượng
hoạt động của mình.
Hiện nay, theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30-05-2002 của
Thống đốc NHNN kể từ ngày 01-06-2002 chính thức thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận bằng đồng Việt nam của tất cả các tổ chức tín dụng. Theo quyết định này các
tổ chức tín dụng được quyền chủ động xác định lãi suất cho vay nội tệ trên cơ sở
cung cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Tuy nhiên hàng tháng
NHNN vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay
thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm tổ chức tín dụng được lựa chọn
để các tổ chức tín dụng tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, đảm bảo yêu
cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Song trên thực tế ngay từ
đầu năm 2002 lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đã
bỏ xa lãi suất cơ bản của NHNN. Với cơ chế lãi suất mới như trên, nếu như trước
đây các tổ chức tín dụng buộc phải tuân theo lãi suất cơ bản và chỉ được chủ động
quyết định trong khuôn khổ biên độ giao động do NHNN qui định, thì từ ngày 01-
06-2002 lãi suất cơ bản hoàn toàn chỉ để tham khảo, biên độ qui định chính thức
được bãi bỏ. Điều đó có nghĩa là các tổ chức tín dụng được quyền chủ động hoàn
toàn, linh hoạt đưa ra các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của mình cả nội
tệ lẫn ngoại tệ.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
Cơ chế lãi suất mới này phù hợp với cơ chế lãi suất ở các nước trong khu
vực và tiến dần tới thông lệ quốc tế mà Việt nam đang định hướng hội nhập nền
kinh tế nói chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng. NHNN chuyển dần sang thực
hiện các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, giảm dần sự can thiệp vào công
việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Song để cho các tổ chức tín dụng tự điều
hành lãi suất của mình theo sự biến động của thị trường sẽ làm cho sự cạnh tranh
càng trở nên phức tạp hơn, dễ gây ra sự biến động lớn cho thị trường, Do vậy vấn
đề đặt ra là phải nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều hành của NHNN, linh hoạt
phối hợp điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm nâng cao hiệu quả của
chính sách mới.
3.3.2.2 Đa dạng hoá danh mục các giấy tờ có giá trong các giao dịch của NHNN
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến trên thế
giới áp dụng và đã trở thành công cụ quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông
tiền tệ. Ở nước ta hính thức khai trương nghiệp vụ thị trường mở vào ngày 12-07-
2000. Mặc dù hiện nay doanh số giao dịch qua các phiên giao dịch chưa lớn, số
lượng thành viên và số lượng hàng hoá tham gia trrên thị trường còn hạn hẹp
nhưng kết quả các phiên giao dịch cho thấy việc sử dụng công cụ thị trường mở đa
có những dấu hiệu tích cực, tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và
góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Song để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường thì vấn đề cần làm hiện
nay là phải đa dạng hoá danh mục các chứng từ có giá nhằm tạo thêm hàng hoá
cho thị trường, đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của các thành viên tham gia thị trường.
Hiện nay hàng hoá được giao dịch chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, việc chỉ
dựa vào tín phiếu kho bạc trong việc điều tiết cung cầu vốn trên thị trường đã khiến
cho NHNN rơi vào thế bị động và là một nguyên nhân quan trọng làm hạn chế hiệu
quả tác động của chính sách tiền tệ.
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
3.3.2.3 Nâng cao vai trò hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, duy trì sự phát triển ổn
định, an toàn và lành mạnh hoạt động của hệ thống Ngân hàng để góp phần tích
cực vào quá trình phát triển nền kinh tế, ổn định chính trị, xã hội là một nhiệm vụ
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ngày 01-
09-1999 Chính phủ ban hành nghị định số 89/1999/NĐ-CP về bảo hiểm tiền
gửi.ngày 11-09-1999 Thủ Tướng Chính phủ ra quyết định 218/1999/QĐ-TTg
thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt nam và ngày 07-07-2000 Bảo hiểm tiền gửi Việt
nam đã chính thức khai trương đi vào hoạt động. Từ khi đi vào hoạt động đến nay,
thời gian tuy chưa nhiều đối với một tổ chức nhưng bảo hiểm tiền gửi đã có những
cố gắng để đạt được những kết quả khả quan như đã cấp giấy chứng nhận bảo hiểm
tiền gửi và thu phí đúng theo qui định, chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm
theo đúng trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi cho người tham gia, hỗ trợ tài chính
đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi gặp khó khăn về tài chính, kiểm tra
giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia…Song bên cạnh đó còn có một số
vướng mắc, tồn tại cần phải giải quyết trong thời gian tới đó là:
Thứ nhất: Mở rộng phạm vi tiền gửi dược bảo hiểm
Hiện nay phạm vi tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt nam
ghi danh của cá nhân tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Do qui định các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đã chuyển dần việc huy động vốn của các cá nhân
từ hình thức ghi danh sang hình thức vô danh, tích cực huy động bằng vàng và
ngoại tệ để không phải đóng phí bảo hiểm tiền gửi. Những tổ chức thực hiện biện
pháp này thường là các tổ chức có qui mô hoạt động tiền gửi lớn, tình trạng này
nguồn thu phí bảo hiểm tiền gửi giảm sút, trong khi đó nguy cơ rủi ro về tiền gửi
của cấ nhân tăng lên do tiền gửi không thuộc đối tượng được bảo hiểm.
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả công tác trao đổi và cung cấp thông tin giữa
NHNN và Bảo hiểm tiền gửi Việt nam: Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Bảo
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
hiểm tiền gửi thì việc nắm bắt kịp thời thông tin về tình hình hoạt động của các tổ
chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi là rất quan trọng, nó tạo điều kiện để Bảo
hiểm tiền gửi có phương án kiểm tra, giám sát, chỉ đạo kịp thời.
Do vậy, để sử lý những vướng mắc và tồn tại nói trên, trong thời gian tới
NHNN cần có các giải pháp để phối hợp với Bảo hiểm tiền gửi nhằm tạo ra môi
trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi, để từ đó Bảo hiểm
tiền gửi thực sự trỏ thành chỗ dựa đáng tin cậy và duy trì sự phát triển ổn định của
các tổ chức tín dụng trong cơ chế thị trường.
3.3.2.4 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
Ngân hàng Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước đối với
hoạt động của hệ thống Ngân hàng, cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra để chấn chỉnh và sử lý kịp thời những hành vi, những biểu hiện tiêu cực làm
thất thoát vốn của nhà nước va nhân dân. Đưa hoạt động của các tổ chức tín dụng
đi vào nề nếp, khuôn phép song vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong hoạt động
kinh doanh của từng chi nhánh.
3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng ĐT&PT Việt nam
Là cơ quan quản lý trực tiếp Ngân hàng ĐT&PT Hà nội, do đó để tạo điều
kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh qua đó nâng cao chất
lượng và hiệu quả trong hoạt động thì em xin có một số kiến nghị với Ngân hàng
ĐT&PT Việt nam như sau:
Thứ nhất: Kiến nghị về chính sách huy động vốn
Cần phải tăng cường công tác dự báo dà hạn nhằm giúp các chi nhánh nắm bắt
được xu hướng phát triển của thị trường để có biện pháp, giải pháp nghiệp vụ phù
hợp.
Ngân hàng ĐT&PT VN cần xây dựng hoàn chỉnh các chức năng, cơ chế huy
động vốn mang tính tương đối ổn định nhằm thực hiện mục tiêu của chiến lược
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
phát triển, trên cơ sở đó xây dựng các chế độ nghiệp vụ phù hợp để hướng dẫn các
chi nhánh chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh trong từng thời kỳ.
Cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo như đưa những tin tức, hình
ảnh liên quan đến các hoạt động thu tiền gửi tiết kiệm, các đợt phát hành các loại
chứng từ có giá để làm sao cho người dân có được một số thông tin cần thiết nhằm
kích thích và thu hút dân chúng quan tâm đến sản phẩm của mình.
Thứ hai: Kiến nghị về chính sách lãi suất và công tác điều hành nguồn vốn.
Xây dựng trên cơ sở thực hiện đầy đủ các qui định của NHNN (về tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, ký quĩ bão lãnh, đảm bảo khả năng thanh toán…) theo nguyên tắc đánh
giá đúng mức đóng góp của từng chi nhánh vào kết quả chung của toàn ngành,
thực hiện hỗ trợ qua lãi suất điều chuyển vốn nội bộ nhằm phát huy tính năng động
của từng chi nhánh.
Ban hành cơ chế tổ chức hoạt động, cơ chế điều hành nguồn vốn, cơ chế
điều hành lãi suất phù hợp với qui mô và đặc điểm hoạt động của chi từng nhánh.
Phải xây dựng theo hướng tạo khuôn khổ pháp lý, nâng cao quyền tự chủ, linh
hoạt, phân rõ trách nhiệm trong hoạt động nhằm phát huy tối đa vai trò và vị thế
của từng chi nhánh. Các văn bản hướng dẫn phải được ban hành kịp thời, cụ thể và
tránh chồng chéo.
KẾT LUẬN
Huy động vốn là nghiệp vụ cơ bản, thường xuyên và là vấn đề trung tâm
trong hoạt động của bất kỳ Ngân hàng nào. Quy mô, chất lượng huy động vốn có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các Ngân hàng nói riêng và nó
quyết định tới sự cung ứng vốn cho nền kinh tế nói chung. Với phương châm của
Đảng và Nhà nước ta “ Coi nguồn vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
là quan trọng” nhưng trong điều kiện thị trường tài chính chỉ mới phát triển ở mức
độ hạn chế thì việc cung ứng vốn để phục vụ cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế
đất nước chủ yếu phải dựa vào hệ thống NHTM. Do vậy, làm thế nào dể tăng
cường hiệu quả công tác huy động vốn trong Ngân hàng đảm bảo số lượng và chất
lượng nguồn vốn luôn là vấn đề thường xuyên được các nhà quản lý Ngân hàng
quan tâm.
Qua thời gian nghiên cứu lý luận tại trường cùng với thời gian thực tập tại
Chi nhánh Ngân hàng ĐT&PT Hà nội, em đã nhận thấy vấn đề huy động vốn luôn
là hoạt động truyền thống, quan trọng và có tính chất quyết định tới mọi hoạt động
khác của Ngân hàng. Nhất là trong thời gian gần đây vấn đề huy động vốn đang trở
thành bài toán khó đối với các Ngân hàng. Với vốn kiến thức của bản thân và qua
tìm hiểu thực tế về công tác huy động vốn em đã hoàn thành chuyên đề thực tập
này với mong muốn phần nào đó có thể áp dụng vào thực tiễn hoạt động huy động
vốn của Ngân hàng, đóng góp một phần nhỏ kiến thức của nình vào việc nâng cao
hơn nữa hiệu quả công tác huy động vốn của Ngân hàng ĐT&PT Hà nội trong thời
gian tới.
Đây là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu ở nhiều góc độ
và nhiều phương diện khác nhau. Trong thời gian tới Ngân hàng ĐT&PT Hà nội
cần phải có các biện pháp kết hợp đồng bộ giữa sự cố gắng của bản thân cùng với
sự hỗ trợ của các ngành, các cấp có liên quan trong việc thực hiện có hiệu quả công
tác huy động vốn nói riêng và trong hoạt động Ngân hàng nói chung nhằm phục vụ
cho công cuộc phát triển nền kinh tế Thủ đô cũng như của cả nước.
NHẬN XÉT CỦA NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b
Gi¶i ph¸p t¨ng cêng c«ng t¸c huy ®éng vèn t¹i Ng©n hµng §T&PT Hµ néi
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
TrÇn Hoµi Nam- Nh 41b