Giải quyết n xấu bằng dịch v ngân hàng đầu
Ngân hàng đầu có th đóng vai trò dịch v tài chính trung gian, vấn, h tr
việc x lý các tài sản đảm bảo của các khoản n xấu trong ngân hàng, giúp ngân
hàng và doanh nghiệp t giải quyết được vấn đề n xấu. Qua đó, làm giảm gánh
nặng cho ngân sách nhà nước, cũng như giảm bớt s can thiệp, h tr không cần
thiết của các quan quảnnhà nước.
“Loạn” con s n xấu
Một trong những giải pháp quyết liệt mà Ngân hàng Nhà nước đề ra là kế hoạch
thành lập công ty mua bán n với s vốn khong 100.000 nghìn t đồng để giải
quyết đang tình trạng n xấu tăng cao, lên đến 10% tổng n so với mức 6%
cuối năm ngoái. Giải pháp này được đưa ra cùng với hàng loạt giải pháp khác
trong cuộc họp mới đây giữa Ngân hàng Nhà nước với 14 ngân hàng thương mại
lớn (G14+1).
Hiện đang có rất nhiều tranh luận v giá tr của khoản n xấu là bao nhiêu, 108,6
nghìn t đồng hay t l n xấu khoảng 13% tổng n (theo đánh gđộc lập của
Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings trong đánh gv t l n xấu h thống
ngân hàng Việt Nam); hay t 8,25% đến 14,01% theo Trung tâm Nghiên cứu kinh
tế và chính sách (VEPR) trong công b mới nhất. Thảo luận của giới chuyên môn,
các nhà hoạch định chính sách v cách thức quản lý công ty mua bán n tr g
100.000 t đồng cũngmột ch đề được bàn thảo rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
Với một thực tế rằng, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc thù và hoạt
động củaảnh hưởng rất lớn đến toàn b nền kinh tế quốc gia, các ngân hàng
thương mại cũng thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo an toàn vốn,đắp các chi
phí vận hành, trích lập d phòng theo quy định, hoạt động kinh doanh phải có lợi
nhuận, có c tức chia cho các c đông và duy trì đà tăng trưởng. Khi gặp rủi ro
trong kinh doanh, phát sinh các điều kiện bất li làm ảnh hưởng đến kết qu tài
chính của ngân hàng, v nguyên tắc, các ngân hàng phải t đứng ra giải quyết các
vấn đề của mình, phối hợp cùng các đối tác kinh doanh đ giải quyết n xấu
sau cùng là yêu cầu s tr giúp t Chính ph với vai trò là người điều hành nền
kinh tế.
Vai trò dịch v tài chính trung gian
Mua bán n là một công c hữu hiệu trong vic giải quyết n nghi ng và n xấu
trong s sách ngân hàng. Tr một s lượng không lớn các trường hp tín chấp, hầu
hết các khoản n đềutài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo có th dưới dạng động
sản hoặc bất động sản. Bên cạnh việc mua bán các khoản nợ, việc chuyển s hữu
khoản n t người cho vay đầu tiên sang một người khác thì việc mua bán, chuyển
nhượng, thanh lý các tài sản đảm bảomột gii pháp mang tính thương mại cao
với mục đích người cho vay có th thu hồi được vốn vay nhanh chóng. Tuy nhiên,
khi vấn đề n xấu tr nên trầm trọng, việc chuyển nhượng các tài sản đảm bảo mất
giá tr (distressed assets) tr nên khó khăn hơn, do việc giảm giá tr nng n và áp
lực phải bán trong thời gian ngắn các tài sản đảm bảo.
Các t chức dịch v tài chính trung gian có th đóng vai trò quan trọng trong việc
vấn, h tr việc chuyển nhượng các tài sản đảm bảo này. Điển hình là dịch v
ngân hàng đầu ti các quốc gia có nền tài chính phát triển và hiện tại, Việt
Nam cũng đã có một s công ty chứng khoán là đối tác giúp các ngân hàng thương
mại giải quyết việc xcác tài sản đảm bảo của các khoản n xấu.
Với khái niệm ngân hàng đầu một ch th trung gian với chức năng chính
vấn và thực hiện huy động nguồn vốn trên th trường vốn cho các khách hàng,
các ngân hàng đầu có th vấn các giao dịch chuyển nhượng với các tài sản c
th như một s sản xuất, toàn b công ty hay một lượng c phần của công ty,
một b phận sn xuất - kinh doanh trong công ty, một d án đầu h tầng k
thuật hay bất động sản, các khoản phải thu... Các nghiệp v ngân hàng đầu bao
gồm c vấn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A), vấn tái cấu doanh
nghiệp. Trong đó, việc s dụng các nghiệp v hoán đổi các chứng khoán n
chứng khoán vốn nhm giúp doanh nghiệp đi vay được dòng tiền vào tốt hơn,
đểth thanh toán được n ngân hàng qua việc giảm bớt lượng tài sản mà doanh
nghiệp hay ch s hữu doanh nghiệp nắm gi (gm c các tài sn hữu hình hay s
hữu c phần công ty).
Nghiệp v bảo lãnh phát hành chứng khoán cho khách hàng cũngmột trong
những nghiệp v ngân hàng đầu quan trọng giúp doanh nghiệp tăng dòng tiền
vào qua việc phát hành các loại chứng khoán bao gồm chứng khoán n (trái phiếu)
và chứng khoán vốn (c phiếu, trái phiếu chuyển đổi). Việc s dụng các công c
chứng khoán trên th trường vốn s giúp doanh nghiệp gim được việc vay ngân
hàng qua th trường tiền tệ, do đó doanh nghiệp s giảm bớt được áp lực vay vốn,
tr lãi và ngân hàng có hội giảm được t l n xấu. Giải quyết vấn đề này có
một nghiệp v ngân hàng đầu vấn chng khoán hóa cho doanh nghiệp.
Chứng khoán hóa là quá trình tập hợp và tái cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh
khoản nhưng lạithu nhập bằng tiền cao trong tương lai như các khoản phải thu,
các khoản n rồi chuyển đổi chúng thành trái phiếuđưa ra giao dịch trên th
trường tài chính. V k thuật, chứng khoán hóa được thực hiện trên hai nhóm tài
sản ch yếu, đó là: các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản và các tài sản
tài chính không được thế chấp bằng bất động sản. Do đó, tương ứng với hai loại
tài sản trên, sau khi được chứng khoán hóa s hình thành hai loại chứng khoán là:
các chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sn (mortgage-backed securities) và
các chứng khoán tài sản tài chính (asset-backed securities).
Một ưu điểm của dịch v ngân hàng đầu trong các nghiệp v vấn này là ngân
hàng đầu đóng vai trò là t chức vấn tài chính chuyên nghiệp và trung gian,
nên tạo điều kiện nâng cao tính minh bạch đảm bảo quyền lợi của các bên có liên
quan, cũng như tính tuân th các quy định của pháp luật.
Dù rằng các dịch v ngân hàng đầu không th giải quyết trit để vấn đề n xấu
ngân hàng do các yếu t khách quan và ch quan nội tại trong giao dịch giữa ngân
hàng và doanh nghiệp, nhưng việc ngân hàng (người cho vay) và doanh nghiệp
(người đi vay) cùng phối hp tích cực với các t chức tài chính trung gian như
ngân hàng đầu để x lý n xấu, chuyển nhượng n vay, chuyển nhượng tài sản
đảm bảo, tái cấu doanh nghiệp, tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp... s làm th
trường vốn phát triển hơn, th trường tiền t quốc gia lành mạnh hơn. Đồng thi,
việc ngân hàng và doanh nghiệp t giải quyết tốt được vấn đề n xấu s làm giảm
gánh nặng cho ngân sách nhà nước, cũng như giảm bớt được s can thiệp củac
quan quản lý nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng và doanh
nghiệp.