
KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 7 – Công ty đa quốc gia
169
Chương VII
CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
1. Định nghĩa công ty đa quốc gia
Hood và Young (1979) cho rằng công ty đa quốc gia có thể định nghĩa là: một công ty
sở hữu (toàn bộ hay một phần), kiểm soát và quản lý các tài sản tạo ra thu nhập ở nhiều hơn
một quốc gia.
Người ta lập luận rằng định nghĩa nên hạn chế hơn, chẳng hạn chỉ bao gồm các doanh
nghiệp có quy mô lớn hơn một mức nhất định, hoặc bằng việc loại bỏ sở hữu thiểu số ở nước
ngoài, hoặc bằng việc loại ra những doanh nghiệp có hoạt động ở chỉ hai quốc gia. Tuy nhiên,
nếu theo định nghĩa hạn chế sẽ có thể loại bỏ những hiện tượng quan trọng và thú vị. Ở đây
chúng ta sẽ vận dụng định nghĩa rộng.
2. Tầm quan trọng của hoạt động đa quốc gia
Theo Dunning, vào cuối năm 1978 giá trị ghi sổ của đầu tư nước ngoài ở các quốc gia
buôn bán chủ yếu trên thế giới lên đến 400 tỷ đôla Mỹ. Theo Uỷ ban của Cộng đồng kinh tế
Châu Âu thì 260 công ty đa quốc gia lớn nhất đã thuê hơn 25 triệu người vào năm 1973. Các
chỉ số cho thấy doanh thu của một số công ty lớn nhất còn lớn hơn tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của một số quốc gia.
3. Sơ lược về lịch sử của công ty đa quốc gia
Theo Ghertman và Allen (1984) thì công ty đa quốc gia đầu tiên là S.A. Cockerill
Steelworks được thành lập vào năm 1815. Các công ty đa quốc gia đầu tiên hầu hết là ở châu
Âu và bao gồm cả những doanh nghiệp vẫn có cái tên riêng của hộ gia đình như British
American Tobacco, Lever Brothers, Michelin và Nestle'. Phạm vi địa lý của nhiều công ty này
phản ánh sự phân phối ảnh hưởng thuộc địa và một phần đáng kể các công ty đa quốc gia nằm
trong các liên kết ngược trở lại nông nghiệp và khoáng sản ở các thuộc địa nhằm mục đích là
nguyên liệu thô sẽ được chế biến ở nước đế quốc để bán trong nước hoặc xuất khẩu.
Có nhiều công ty đa quốc gia như thế trước Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng chúng
thường chỉ hạn chế ở kiểu hoạt động đã mô tả trên và không thể coi là có đặc điểm cơ bản trên
trường thế giới. Casson (1987) đã chỉ ra rằng một phương pháp chung hơn về cạnh tranh toàn
cầu, đặc biệt trong những năm 1920 và 1930, là xây dựng các cartel quốc tế trong nhiều ngành
mà sau này do các công ty đa quốc gia nắm giữ.

KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 7 – Công ty đa quốc gia
170
Thời kỳ tăng trưởng chính của các công ty đa quốc gia, đặc biệt là trong công nghiệp,
là những năm 1950 cho đến những năm 1970, sau đó sự mở rộng của chúng bắt đầu đến đỉnh
cao. Làn sóng phát triển này do các doanh nghiệp của Mỹ dẫn đầu chuyển sang các thị trường
châu Âu nơi mà sự có mặt của chúng rõ nét đến mức Sự thách thức của Mỹ (Servan-
Schreiber (1967)) được xem là mối đe doạ nghiêm trọng đối với khả năng đạt được sự tăng
trưởng vững chắc của châu Âu. Các nền kinh tế châu Âu bị coi là có nguy cơ trở thành phụ
thuộc vào các doanh nghiệp của Mỹ do các doanh nghiệp của Mỹ có các hoạt động kinh
doanh ở mức cao hơn, bao gồm nghiên cứu và phát triển và marketing, người tiêu dùng châu
Âu theo thị hiếu của Mỹ ở mức kinh ngạc và do sức mạnh thị trường của các công ty Mỹ.
Các công ty đa quốc gia của Mỹ trong giai đoạn này có các đặc điểm mà vào thời kỳ
đó được coi là yếu tố quyết định các đặc điểm của các công ty đa quốc gia sau Chiến tranh.
Trước hết chúng được kéo sang các nước đã phát triển chủ yếu khác, chứ không phải các nước
thuộc địa hoặc các nước đang phát triển khác. Mục đích của chúng là phục vụ các thị trường
lớn như Cộng đồng châu Âu trên cơ sở địa phương và cả sản xuất sản phẩm thay thế nhập
khẩu, chứ không phải liên kết dọc ngược trở lại nguồn nguyên liệu. Thứ hai, nghiên cứu về
một công ty đa quốc gia Mỹ cho thấy rằng sự phát triển của nó gắn liền với các ngành tập
trung hoá cao, nghiên cứu nhiều và còn thể hiện mức quảng cáo cao và sử dụng một tỷ lệ lớn
lao động có tay nghề.
Những lý thuyết khác vào những năm 1970 và 1980 chỉ ra rằng các công ty đa quốc
gia có thể có các hình thức khác. Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia Nhật ở nước ngoài
cho đến tận những năm gần đây vẫn tập trung vào các hoạt động "trên nền xuất khẩu" ở các
nước công nghiệp hoá mới, đối lập với kiểu hoạt động với các công ty đa quốc gia của Mỹ là
sử dụng nhiều lao động có tay nghề, nghiên cứu và phát triển nhiều. "Sự thách thức của Mỹ"
đã bị đảo ngược khi các doanh nghiệp châu Âu gia nhập thị trường Mỹ và sự sở hữu của châu
Âu đối với các doanh nghiệp Mỹ trở nên rõ nét ít nhất là bằng sở hữu của Mỹ ở châu Âu. Sự
xuất hiện của các công ty đa quốc gia nằm ở các quốc gia đang phát triển như Ấn Độ ngược
với kiểu trước đây với thực tế có rất nhiều các công ty đa quốc gia nhỏ. Khu vực dịch vụ là
một bộ phận quan trọng của các công ty đa quốc gia và là một nhân tố đóng góp vào việc
đánh giá lại bản chất của các các công ty đa quốc gia. Người ta đã công nhận rằng hoạt động
của công ty đa quốc gia bao gồm nhiều hoạt động hơn trước đã được đánh giá lại.
II. LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
1. Vận dụng của các quan điểm khác nhau
Một trong các đặc điểm quan trọng nhất của công ty đa quốc gia là nó tập hợp được rất
nhiều các lĩnh vực khác nhau, mà lẽ ra không liên quan, của phân tích kinh tế vào với nhau. Thứ
nhất, lý thuyết thương mại quốc tế có liên quan khi các công ty đa quốc gia buôn bán bên ngoài

KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 7 – Công ty đa quốc gia
171
biên giới và vị trí của các hoạt động kinh tế khác nhau là một lĩnh vực quan trọng cần phải phân
tích. Thứ hai, các lý thuyết về cơ cấu và hành vi của ngành rất quan trọng khi các công ty đa
quốc gia có các hành động chiến lược có thể ảnh hưởng đến các đối thủ cạnh tranh. Thứ ba,
công ty đa quốc gia có những giao dịch phối hợp ra ngoài biên giới đã làm phát sinh các vấn đề
về "quốc tế hoá" hay "thị trường và thứ bậc". Casson (1987) chỉ ra rằng việc vận dụng lý thuyết
chung cho các vấn đề cụ thể phát sinh do công ty đa quốc gia tạo ra một cái "xoắn" đặc biệt cho
lý thuyết trong việc vận dụng, đó là một lĩnh vực đặc biệt thú vị để nghiên cứu.
2. "Quốc tế hoá" và lý thuyết chi phí giao dịch
Khuyến nghị rằng công ty đa quốc gia có thể được giải thích bằng một tập hợp các
công cụ tương tự như các công cụ áp dụng cho liên kết dọc hoặc đa dạng hoá cái mà đã tạo cơ
sở cho những tiến bộ về mặt lý luận từ nhiều tác giả, đáng chú ý là các tác giả McManus
(1972), Buckley và Casson (1976), Krugman (1981) và Casson (1982). Nhiều quan điểm có
liên quan tới các quan điểm của Coase và Williamson, các quan điểm đó được biểu thị theo
nhiều cách.
Cụ thể, phân tích của Buckley và Casson đã trở thành cơ sở cho những phát triển tiếp
sau xung quanh khái niệm "quốc tế hoá". Phân tích của họ xây dựng năm 1976 đã xác định 5
lợi thế mà một giao dịch quốc tế hoá có thể có so với thị trường gồm:
Tăng khả năng kiểm soát và kế hoạch hoá
Cơ hội phân biệt giá
Tránh độc quyền song phương
Giảm sự không chắc chắn
Tránh sự can thiệp của chính phủ
Cũng có hàng loạt các vấn đề khác liên quan đến sự lựa chọn giữa đầu tư trực tiếp của
nước ngoài (FDI) và bán một lợi thế thông qua việc cấp giấy phép. Vấn đề thứ nhất liên quan
đến bản chất của lợi thế sẽ được trao đổi. Trong một số trường hợp, chẳng hạn một máy mới
sáng chế ra, hoặc "một thành phần bí mật", thì có thể dễ dàng xác định được lợi thế và chuyển
giao nó cho một doanh nghiệp khác. Trong nhiều trường hợp khác doanh nghiệp có thể không
biết chính xác cái gì tạo cho mình mũi nhọn cạnh tranh và không thể bán một lợi thế được xác
định không chính xác như vậy. Tương tự, cũng có thể rất tốn kém khi chuyển giao một lợi thế
ra ngoài ranh giới của doanh nghiệp gốc, điều đó làm cho người ta thích đầu tư vào đó hơn,
hoặc những nhà kinh doanh địa phương không đủ khả năng mua lợi thế này. Cả Krugman
(1981) và Porter (1985) đều nhấn mạnh khả năng bị mất quyền kiểm soát gắn liền với việc
bán một lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp độc lập mà doanh nghiệp đó có thể sử dụng
nó để trở thành một đối thủ cạnh tranh có hiệu quả trong tương lai. Về mặt nguyên lý có thể
vượt qua được điều này bằng việc phác thảo và hiệu lực hoá các hợp đồng, nhưng điều đó lại
làm nảy sinh những điểm cơ bản đã được nhấn mạnh trong phân tích của Williamson, cái
được gọi là việc kết hợp giữa sự không chắc chắn và hành vi cơ hội sẽ tạo ra sự quản lý không

KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 7 – Công ty đa quốc gia
172
hiệu quả. Trong bối cảnh đa quốc gia, các giao dịch giữa các doanh nghiệp độc lập còn bị làm
khó thêm do khoảng cách về địa lý, thể chế luật pháp khác nhau và do thiếu những hợp đồng
kinh doanh không chính thức giữa các bên giao dịch, đó là những người sống trong các nền
văn hoá kinh doanh rất khác nhau.
Mặc dù việc quốc tế hoá có nhiều lợi thế so với thị trường, và đầu tư nước ngoài có xu
hướng được ưa thích hơn cấp giấy phép nhưng cũng cần phải nhớ rằng các lợi thế này không
phải là tuyệt đối. Việc cấp giấy phép là hình thức hoạt động cơ bản diễn ra trên một quy mô
đáng kể và trong một số ngành (như hoá chất và dược).
Nếu một giao dịch thị trường được thực hiện thì có rất nhiều hoạt động "tạo thị
trường" phải tiến hành mà những hoạt động này lại mất chi phí. Các bước diễn ra theo trình
tự:
Xây dựng hợp đồng
Xác định và thông tin về các chi tiết cho mỗi bên
Đàm phán
Giám sát bao gồm cả sàng lọc chất lượng
Vận chuyển hàng hoá
Trả hoặc tránh thuế
Hiệu lực hoá
Các dịch vụ tạo ra thị trường này được cung cấp bởi các văn phòng, các cửa hàng và
phòng trưng bày mà về mặt nguyên lý là chuyên môn hoá trong việc cung cấp các dịch vụ
này. Tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp việc tạo ra thị trường gắn liền với việc bán bản
thân hàng hoá để tránh việc người mua phải thực hiện hai giao dịch riêng biệt. Hơn nữa, nếu
người mua đánh giá cao tầm quan trọng của kiểm soát chất lượng thì có thể liên kết ngược trở
lại việc sản xuất ra hàng hoá, thay vì để cho những người tạo thị trường độc lập thực hiện việc
giám sát.
Nếu người mua cơ động trên phạm vi quốc tế thì họ sẽ thích mua từ một người tạo thị
trường hơn là từ nhiều người khác nhau trên mỗi một địa điểm. Tuy nhiên độ tin cậy và uy tín
kinh doanh của người tạo thị trường lại phụ thuộc chủ yếu và khả năng đáp ứng cùng các tiêu
chuẩn chất lượng ở mỗi địa điểm. Vì thế động cơ liên kết ngược trở lại quá trình sản xuất sẽ
cực kỳ mạnh mẽ, và công ty đa quốc gia là kết quả của điều đó. Tương tự người mua muốn
đặt mua ở nơi này để nhận hàng ở nơi khác, điều đó đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà
máy chi nhánh ở các địa điểm khác nhau. Một số doanh nghiệp có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh
trong bản thân việc tạo thị trường mà điều đó lại có thẻ chuyển giao được trên phạm vi quốc
tế. Trong trường hợp này đó là lợi thế đặc biệt tạo ra cơ sở cho việc "đi nước ngoài".
Mô hình này cho thấy rằng các công ty đa quốc gia có xu hướng được biểu thị chủ yếu
ở các đoạn thị trường nơi mà chất lượng cao là quan trọng nhất.
3. Phương pháp "được lựa chọn rộng"

KINH TẾ QUẢN LÝ
Chương 7 – Công ty đa quốc gia
173
Phân tích "quốc tế hoá" đưa ra một lý thuyết chung để giải thích công ty đa quốc gia.
Tuy nhiên nó có phải là toàn diện hay không vẫn còn là một đề tài đang tranh cãi. Một
phương pháp có liên quan chặt chẽ nhưng lại khác với phương pháp này là phương pháp
"được lựa chọn rộng" của Dunning đưa ra năm 1976. Lý thuyết đó phát biểu rằng mức độ,
hình thức và diễn biến của hoạt động đa quốc gia được quy định bởi 3 tập hợp các lợi thế. Thứ
nhất, có liên quan tới cả phân tích của Hymer và quốc tế hoá, bao gồm các lợi thế sở hữu. Các
lợi thế này phát sinh hoặc do các công ty đa quốc gia sở hữu các tài sản mà các doanh nghiệp
khác không có, hoặc do các cấp quản lý thứ bậc làm giảm các chi phí giao dịch gắn liền với
việc phối hợp các hoạt động nằm ở các nước khác nhau.
Điều kiện thứ hai cho việc sản xuất quốc tế là các doanh nghiệp có lợi thế sở hữu sẽ
muốn chuyển giao những lợi thế sở hữu đó thông qua các cấp bậc quản lý chứ không phải
thông qua thị trường. Như vậy lý thuyết "quốc tế hoá" tạo ra một trong ba mạch trong hệ biến
hoá "được lựa chọn rộng". Buckley và Casson (1985) lập luận rằng sự thất bại của bản thân
các thị trường nguyên liệu đã trở thành điều kiện cần và đủ cho việc quốc tế hoá diễn ra.
Nhưng Dunning (1985) lại lập luận rằng phải phân biệt giữa khả năng quốc tế hoá cuả doanh
nghiệp và các lý do để doanh nghiệp quốc tế hoá. Như vậy rõ ràng là có những mối quan hệ
chặt chẽ giữa hệ biến hoá lựa chọn rộng và mô hình quốc tế hoá.
Mạch thứ ba của hệ biến hoá lựa chọn rộng liên quan đến vị trí sản xuất. Để việc quốc
tế hoá diễn ra không chỉ các doanh nghiệp có lợi thế sở hữu dẫn đến việc giao dịch quốc tế
hoá có hiệu quả nhất, mà còn có cả lợi thế trong việc kết hợp các đầu vào có thể trao đổi được
phát sinh từ nước gốc(như kỹ năng quản lý hoặc lợi thế công nghệ) với các đầu vào khác của
nước sở tại. Nếu không thì doanh nghiệp sẽ chỉ hoạt động ở một địa điểm. Những lợi thế như
thế có thể phát sinh theo nhiều cách. Cách rõ ràng nhất là có sự khác nhau trong các điều kiện
doanh thu và chi phí địa phương, phát sinh từ các mức lương và giá đầu vào khác nhau, hoặc
các hàng rào thương mại và tính di động của các yếu tố. Hirsh (1976) nghiên cứu sự lựa chọn
này theo quan điểm tối thiểu hoá chi phí, và khuyến nghị những khác nhau sau đây làm quy
tắc ra quyết định nên sản xuất trong nước hay sản xuất ở nước ngoài:
Xuất khẩu sang nước B nếu:
Pa+ M < Pb+ C trong đó:
Pa và Pb là chi phí sản xuất ở nước A, nước B
M là chi phí thêm marketing xuất khẩu
C là chi phí thêm của việc kiểm soát hoạt động ở nước ngoài
Sản xuất ở nước B nếu:
Pb+ C < Pa+ M
Chi phí sản xuất, chi phí marketing và các chi phí kiểm soát khác phụ thuộc vào rất
nhiều các yếu tố, bao gồm:
Thuế quan và các hàng rào thương mại