Hội họa Việt Nam có nguy cơ mất gốc?

Có thể nói quá nửa người dân Việt Nam hiện nay khi được hỏi có hiểu

gì về hội họa Việt Nam không đều trả lời rằng: chẳng hiểu họa sĩ vẽ gì

và muốn diễn tả cái gì. Những năm gần đây, triển lãm mở nhiều, galery

mở nhiều nhưng người yêu thích tranh thì lại ít. Những bức tranh có giá

cao hoặc là khách nước ngoài mua hoặc là người lắm tiền thưởng thức

tranh kiểu trọc phú. Trong những ngôi nhà hàng chục tỷ đồng, bên một

bộ tràng kỷ gỗ uốn éo cổ điển lại treo một bức tranh hiện đại thời

thượng chẳng ăn nhập chút nào.

Đâu là con đường phát triển của hội họa Việt Nam

Nhìn vào mặt bằng chung có thể nhận xét hội họa Việt Nam đang thời

kỳ phát triển: các triển lãm cá nhân đều đều ra mắt, các galery mọc lên

như nấm, các nghệ sĩ xuất ngoại bằng con đường cá nhân hoặc Nhà

nước nhiều, thị trường buôn bán tranh khá nhộn nhịp… Có điều là triển

lãm tổ chức nhiều nhưng mục đích lại là để họa sĩ xuất hiện và bán

tranh chứ hiệu quả đối với công chúng rất ít. Dường như giờ đây, đối

tượng phục vụ của nghệ thuật hội họa là khách hàng chứ không phải

quần chúng nhân dân. Mà khách hàng ấy là ai? Chủ yếu là người nước

ngoài, Việt kiều hoặc những người đi ra nước ngoài. Chính vì thế, hội

họa Việt Nam những năm gần đây dường như mất gốc. Để hội nhập,

nhưng mục đích chính là thương mại, người ta bắt đầu vẽ theo nhiều

trường phái mà nhìn tranh, không ai biết tác giả của nó là người nước

nào.

Ở giữa - Tranh của Đặng Xuân Hòa

Thiên tài như Picasso hay van Gogh thì cũng phải có bản sắc riêng hay

như xem tranh của Salvado Dalí người ta vẫn biết ông gốc gác Tây Ban

Nha. Nghệ thuật là phải mang bản sắc văn hóa dân tộc, hội họa cũng

không ngoại lệ. Người họa sĩ có thể hòa nhập vào dòng chảy hội họa

thế giới, nhưng bao giờ cũng phải có ý thức giữ bản sắc riêng của mình.

Chúng ta đã chẳng từng có một danh họa Nguyễn Phan Chánh – người

đặt nền móng cho tranh lụa Việt Nam hiện đại, mang phong cách hội

họa tân thời nhưng vẫn không rời xa nguồn mạch văn hóa dân tộc.

Tranh của các họa sĩ Việt bây giờ thì sao? Họ cũng vẽ người một mắt,

người có mắt nằm trên trán, rồi cả những bức với các nét vẽ nghều

ngào diễn tả điều gì thì công chúng chịu, chả hiểu nổi.

Thế mà lại có những người vỗ tay, nhưng tôi đồ rằng trong số đó có cả

những người vỗ tay a dua, kiểu như thấy hoàng đế không mặc gì nhưng

ai cũng khen bộ quần áo hoàng đế mặc đẹp vì không khen thì bị bảo là

ngu. Căn bệnh a dua đã khiến cho nhiều họa sĩ hoang tưởng. Cũng có

một số họa sĩ bán được tranh theo xu hướng đó, thế là họ lao vào vẽ

tranh lập thể, tranh trừu tượng, tự huyễn hoặc chính mình và trở thành

những “đệ nhất tinh tướng”, cao giọng tuyên ngôn phải vẽ thế mới thời

thượng, thậm chí có người còn tự làm giá tranh của mình 10 triệu đô

hoặc 10 tỷ đồng… Còn hỏi thì họ lại bảo rằng, vẽ tranh mà phải giải

thích là vẽ cái gì thì không còn là hội họa, rằng bảo người khác cảm

nhận như mình là điều rất khó, nhưng nếu tranh gây được ấn tượng là

tốt rồi.

Vì thế, đa số công chúng chán, không còn muốn đi xem các phòng

tranh chứ đừng nói đến việc mua tranh. Nói như thế không phải người

Việt không chơi tranh, nhưng nó vẫn thuộc thú chơi cao cấp và xa xỉ

nên chỉ những cơ quan lớn, công ty lớn, khách sạn mua tranh với mục

đích tăng cường quan hệ thương mại, tức là tự làm sang mình để mưu

cầu việc khác chứ không phải để thưởng thức nghệ thuật. Có thể nói,

hiện nay, giới họa sĩ là những người giàu nhất trong giới nghệ thuật.

Một khi nét vẽ của họ đã đúng “luồng” thì mỗi bức có giá hàng nghìn

USD, khá hơn có thể 10.000 USD hoặc hơn thế với những bức vẽ khổ

to. Và không ai không giật mình khi nghe tin bức vẽ của hoạ sĩ này,

hoạ sĩ nọ đã từng được đặt giá 100.000 USD nhưng không hiểu đã bán

được chưa.

Từ đối tượng khách hàng như thế, đa số họa sĩ hiện nay đã rời bỏ chức

năng dùng hội họa để phản ánh cuộc sống mà chọn đề tài theo sự yêu

thích của khách hàng. Xu hướng khách hàng thích gì vẽ nấy đã thu hẹp

phạm vi sáng tạo của nghệ sĩ. Thậm chí có họa sĩ đi marketing trước

nhu cầu của khách hàng rồi mới về “sáng tạo”. Lại có cả họa sĩ tên tuổi

hẳn hoi, khi thấy loại tranh đó bán chạy đã vẽ hàng loạt như kiểu sản

xuất đồ mỹ nghệ. Đôi khi anh ta cũng giật mình, muốn phá phách

nhưng lại tự nhủ “khéo mà hỏng” nên đành co lại. Yên ổn và thành

công dẫn người họa sĩ đến chỗ trì trệ. Cũng lại có họa sĩ vẽ kiểu

commăng, giá cả đã thỏa thuận, khi đó chẳng còn đâu sự sáng tạo mà

vẽ theo ý đồ của người bỏ tiền mua.

Đánh giá một cách thật nghiêm túc, chục năm trở lại đây, các họa sĩ

Việt Nam đã tạo ra một không khí tưng bừng và dân chủ trong hội họa.

Song có điều ý thức vẽ tranh để bán, nghĩa là coi mục đích thương mại

hơn mục đích nghệ thuật đang trở thành ý thức chủ đạo dẫn dắt việc

sáng tác của rất nhiều họa sĩ để đến mức những họa sĩ tâm huyết phải

thốt lên “tranh Việt Nam thương mại quá mức rồi”. Gooc-ki từng nói

một câu đại ý là: chúng ta viết để làm gì thì sẽ dẫn đến việc viết như thế

nào. Đối tượng và mục đích của hội họa như thế nên chẳng có gì ngạc

nhiên khi hội họa Việt Nam chịu ảnh hưởng các trường phái phương

Tây, nghiêng về vẽ trừu tượng và siêu thực, vẽ những cái mà người

xem chẳng hiểu và chẳng giải thích được. Đó là cái bệnh của hội họa

Việt Nam khi chịu ảnh hưởng phương Tây, dẫn tới phương pháp sáng

tác xa lạ với hội họa truyền thống Việt Nam.

Tranh của Lý Trần Quỳnh Giang

Hội họa Việt Nam dành cho ai?

Phải nói rằng hội họa Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều của hội họa

phương Tây vì thị trường của nó lớn và tác phẩm của nó không bị rào

cản, cho nên các họa sĩ đang hướng đến vẽ phục vụ người nước ngoài.

Vì thế, sinh hoạt hội họa phát triển không bình thường, tranh vẽ nhiều,

bán nhiều nhưng công chúng lại không hào hứng. Thực tế thì thước đo

mua tranh của khách nước ngoài với Việt Nam mới vì lạ chứ chưa phải

vì tài. Việt Nam chưa có họa sĩ nào được khẳng định tên tuổi như họa sĩ

thế giới, có chăng chỉ vài họa sĩ Việt Nam ở nước ngoài như Lê Phổ,

Lê Bá Đảng, Điềm Phùng Thị được ngợi khen, nhưng thực chất cũng là

vì sự độc đáo chứ chưa phải vì tài năng xuất chúng.

Có thể nói, mấy năm gần đây chưa có bức tranh nào gây thành sự kiện

như tranh Phố của Bùi Xuân Phái, Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc

Vân, Em Thúy của Trần Văn Cẩn, Chơi ô ăn quan của Nguyễn Phan

Chánh. Những bức tranh này đến giờ ai nhìn cũng vẫn thấy đẹp, khi in

lại chỉ là ảnh tranh mà người ta vẫn thích. Nhưng vì đối tượng thưởng

thức của hội họa đã thay đổi, quần chúng không còn là khách hàng nên

trường phái tả thực không còn phát triển. Công chúng Việt Nam với tư

cách khách hàng có tiền để mua tranh với giá mấy nghìn USD để treo

trong nhà không nhiều (mặc dù rất muốn), điều kiện kinh tế chưa cho

phép mà mới chỉ dám bỏ ra vài trăm nghìn đồng để mua ảnh tranh hoặc

tranh sao chép, cũng là để thỏa mãn một nhu cầu làm sang cho ngôi nhà

của mình. Chỉ có điều, vừa đến thăm nhà này thấy bức tranh Mùa xuân

con nước của Levitan, mấy bữa sau tới chơi nhà người bạn khác lại

cũng thấy bức đó chễm chệ trên tường. Hay các bức tranh lá đỏ, đồng

lúa vàng… thì nhan nhản ở các nhà.

Nhu cầu khách hàng như thế đã làm cùn chức năng sáng tạo của họa sĩ,

ngay cả họa sĩ tên tuổi cũng lao vào con đường sản xuất hàng loạt,

quanh đi quẩn lại vẫn vẽ giống nhau khiến họ không vượt qua được

chính bản thân họ. Chưa kể bây giờ nhiều họa sĩ học đòi, huyễn hoặc

về mình, vẫn chẳng tạo ra được phong cách riêng, dùng màu sắc nhộn

nhạo vẫn không che lấp được sự yếu kém về hình họa. Cái yếu nhất của

phần lớn họa sĩ trẻ bây giờ là không có gốc. Cứ thử đặt các bức tranh

của họa sĩ Việt Nam cùng các bức tranh của họa sĩ nước ngoài, đố ai

nhận ra tác phẩm của các họa sĩ Việt Nam. Vì không có bản lĩnh và tài

năng nên chưa kịp hội nhập, những “nghệ sĩ” sùng ngoại này đã bị hòa

tan trong dòng chảy của nó và các “siêu phẩm đầu Ngô, mình Sở” của

họ đã trở nên xa lạ ngay trên chính mảnh đất đã nuôi dưỡng họ.