BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NÔNG THỊ THU TRANG VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NÔNG THỊ THU TRANG VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
LUẬN VĂN THẠC SỸ MỸ THUẬT
Chuyên ngành: Mỹ thuật Tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60 21 01 02
Khóa: 18 (2015 - 2017)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Văn Sửu
Hà Nội - 2017
BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
ĐH Đại học
HCM Hồ Chí Minh
Nhóm đại diện cho một số diễn đàn của người đồng tính ICS
Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội Việt Nam ISEE
LGBT Cộng đồng người đồng tính
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
ThS Thạc sĩ
TP Thành phố
TS Tiến sĩ
VHNT Văn hoá nghệ thuật
VHTT Văn hoá thông tin
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Bảng chữ cái viết tắt
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
NỘI DUNG………………………………………………………………….10
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ................................. 10
1.1. Khái niệm một số thuật ngữ được sử dụng trong đề tài .................................... 10
1.2. Khái quát về hội họa Việt Nam hiện đại ............................................................ 14
1.3. Khái quát về đề tài đồng tính trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại ................... 21
Tiểu kết chương 1......................................................................................................... 34
Chương 2: NGHIÊN CỨU NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VẤN ĐỀ ĐỒNG
TÍNH TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ................................................ 36
2.1. Biểu hiện vấn đề đồng tính trong nội dung tác phẩm ........................................ 36
2.2. Biểu hiện vấn đề đồng tính trong hình thức nghệ thuật .................................... 43
Tiểu kết chương 2......................................................................................................... 59
Chương 3: BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI .................... 60
3.1. Những thành công của việc biểu đạt vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam
hiện đại .......................................................................................................................... 60
3.2. Những hạn chế của việc biểu đạt về vấn đề đồng tính trong hội họa
Việt Nam hiện đại ....................................................................................................... 62
3.3. Bài học rút ra từ việc biểu đạt vấn đề nội tâm, giới tính trong sáng tác
hội họa .......................................................................................................................... 65
Tiểu kết chương 3......................................................................................................... 70
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 73
PHỤ LỤC ..................................................................................................................... 76
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng tính vốn là một đề tài nhạy cảm được khai thác trong nhiều lĩnh
vực nghệ thuật như: Văn học, kịch, điện ảnh, âm nhạc… và mỹ thuật cũng
không nằm ngoài nhiệm vụ phản ánh vấn đề xã hội này. Đề tài đồng tính đã
tạo nên một ấn tượng khá mạnh mẽ qua sáng tác của của một số tác giả trong
hội họa Việt Nam hiện đại. Dù táo bạo, lặng lẽ hay day dứt, ở góc độ nào các
tác giả cũng đặt người xem phải đối diện với những suy nghĩ, nhìn nhận về
một thế giới thứ ba vẫn đang tồn tại song song như một điều hiển nhiên không
thể xóa bỏ của tạo hóa.
Trong hội họa Việt Nam hiện đại, đã có một số họa sĩ mạnh dạn lựa
chọn đề tài nhạy cảm này để thể hiện. Một số tác giả là người đồng tính muốn
thông qua đó để bộc bạch nỗi niềm riêng của mình một cách ẩn ý hoặc công
khai về giới tính của bản thân và quan điểm của họ đối với vấn đề đồng tính.
Một số tác giả khác không thuộc cộng đồng người đồng tính nhưng có sự
đồng cảm, chia sẻ cũng góp phần không nhỏ cho hệ thống tác phẩm thể hiện
đề tài này. Họ mang đến một cái nhìn thông qua ngôn ngữ hội họa, với những
đường nét và màu sắc tôn lên vẻ đẹp và tình yêu của những người đồng tính...
Trong các tác phẩm của họ dù thể hiện theo cách kín đáo hay phơi bày thì
xuyên suốt là vấn đề tình dục, nghiêng về biểu hiện xu hướng xác thịt của giới
đồng tính. Các tác phẩm thường đặt vấn đề biểu đạt tiếng nói của tình yêu
thông qua ngôn ngữ của hình thể, qua những cử chỉ âu yếm của mỗi cặp đồng
tính. Từ không gian đến hình thể, màu sắc, đường nét đều được biểu hiện
mạnh mẽ để chuyển tải những khao khát cảm xúc yêu đương. Có thể nói các
tác phẩm này đã xác lập một thế giới nghệ thuật riêng phong phú về vấn đề
đồng tính và đã đạt được những thành công nhất định.
2
Những rung động tình yêu, sự giằng xé giữa khát khao sống thật giữa
những định kiến, kì thị; sự ủng hộ của xã hội; niềm hy vọng vào tương lai...
của thế giới thứ ba đã được chuyển tải vào các tác phẩm theo nhiều cách biểu
hiện thông qua các phong cách, kỹ thuật, chất liệu hội họa khác nhau. Vấn đề
này tuy khá mới nhưng trong hội họa Việt Nam hiện đại đã có một số lượng
tác giả, tác phẩm tạo được phong các cách biểu đạt riêng. Tuy nhiên nghiên
cứu chuyên sâu về đề tài này, đến nay vẫn là một khoảng trống, vì vậy tôi
đã lựa chọn đề tài “Vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại” để
làm luận văn Thạc sĩ Mỹ thuật. Tôi hy vọng sẽ có thể góp một phần nhỏ,
tạo nên một tài liệu bước đầu nghiên cứu về nghệ thuật hội họa dành cho đề
tài đồng tính.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đồng tính là một vấn đề đặc biệt của xã hội mang tính phổ quát trên thế
giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Vì thế, hệ thống sách đề cập đến vấn
đề đồng tính hiện nay tương đối nhiều. Số lượng sách lớn tập trung nhiều nhất
ở những lĩnh vực như tâm lý, xã hội, pháp luật. Tuy nhiên, trong đề tài này,
tôi muốn được nhắc đến một hệ thống sách có liên quan đến cơ sở lý luận để
góp phần làm nền tảng về cơ sở lý luận cho sự đề cập đến vấn đề đồng tính từ
góc độ Mỹ thuật học, đó là hệ thống sách Từ điển tiếng Việt. Trong luận văn
này, tôi đã trích dẫn khái niệm về vấn đề đồng tính trong hội họa từ một số
quyển Từ điển tiêu biểu.
Đó là cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam 1, 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội do Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn năm 2005; Lê Thanh Lộc
(1998), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin; Đặng Thị Bích Ngân
(2002), Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông, Nxb Giáo dục; Hoàng Phê (chủ
biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng; Viện Ngôn ngữ học (2006),
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng; Viện ngôn ngữ học (2012), Từ điển tiếng
Việt, Nxb Hồng Đức; Phan Như Ý (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb ĐH Quốc
3
gia TP. HCM. Những quyển Từ điển này phần lớn đều đưa ra khái niệm mang
tính tương đồng về vấn đề đồng tính là tình yêu, tình dục của những người có
cùng giới tính, phân biệt các kiểu đồng tính và đưa ra một số khái niệm về tên
gọi đặc biệt dành cho những người đồng tính.
Hội họa Việt Nam hiện đại phản ánh nhiều vấn đề trong xã hội trong các
giai đoạn phát triển của xã hội Việt Nam hiện đại, trong đó có vấn đề đồng
tính. Tuy nhiên, là một đề tài nhạy cảm, không thường xuyên được lựa chọn
để phản ánh trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại, vấn đề đồng tính phần lớn chỉ
được nhắc đến qua việc giới thiệu một số tác giả hội họa Việt Nam hiện đại
trong một số cuốn sách như: Bùi Như Hương, Trần Hậu Tuấn (2001), Hội họa
mới Việt Nam thập kỷ 90, Nxb Mỹ thuật; Nhiều tác giả (2005), Mỹ thuật hiện
đại Việt Nam,Viện Mỹ thuật- Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội; Nhiều tác giả
(2000), Kỷ yếu hội thảo mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, Viện Mỹ thuật; Nhiều
tác giả (2007), Kỷ yếu 20 năm Mỹ thuật thời kỳ Đổi mới 1986-2006, Trường
Đại học Mỹ thuật Hà Nội, Viện Mỹ thuật; Nhiều tác giả (2008), Kỷ yếu Nghệ
thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa,Trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam, Viện Mỹ thuật; Hội Mỹ thuật Việt Nam (2009), Những vấn đề mỹ thuật
Việt Nam hiện đại (Kỷ yếu hội thảo), Nxb Mỹ thuật; Nguyễn Quân (2010), Mỹ
thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức. Phần lớn những cuốn sách trên viết
về những vấn đề của mỹ thuật Việt Nam hiện đại nói chung, đề cập ít nhiều
đến vấn đề đồng tính. Cuốn Những vấn đề mỹ thuật Việt Nam hiện đại (Kỷ
yếu hội thảo), Nxb Mỹ thuật viết về sự đổi mới nội dung của mỹ thuật Việt
Nam hiện đại: “Thế hệ trẻ, ngược lại, vẽ nhiều tranh hư cấu, tưởng tượng,
mang tính chất chủ quan cá nhân. Họ hướng nhiều về đời sống nội tâm, về
tình cảm riêng tư như tình yêu, giới tính và thân phận con người” [tr.60], “Sau
đổi mới, Trương Tân là người trở về mình một cách thành thực nhất, tự do
nhất, làm nghệ thuật để giải toả tâm lý cá nhân, đồng thời để nói lên quan hệ
đồng tính – vốn là một sự thật xã hội mà không phải ai cũng dám bộc
4
lộ”[tr.66]. Trong đó, một phần có viết về một số tác giả nằm trong số những
nghệ sĩ sáng tác tranh về đề tài đồng tính được đề cập trong luận văn này. Tuy
nhiên, trong những cuốn sách trên, những tác giả này chỉ được nhắc đến như
một trong những nghệ sĩ thuộc về nghệ thuật Việt Nam hiện đại mà không đề
cập trực tiếp đến vấn đề đồng tính được vẽ trong tranh của họ. Cuốn sách đề
cập nhiều nhất có lẽ là quyển Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức của
tác giả Nguyễn Quân. Trong tác phẩm này, Nguyễn Quân nhắc đến “những
người tiên phong… như Trương Tân, Minh Thành,…” [tr. 115], viết về “Thế
hệ này đề cập tới những chủ đề còn xa lạ với lớp đàn anh như đô thị hoá, môi
trường, giới tính, nhân quyền, chủ nghĩa khủng bố…” [tr.117]. Trong sách,
tác giả Nguyễn Quân còn sử dụng hình ảnh của tác phẩm thể hiện đề tài đồng
tính Váy cưới (sắp đặt, voan và kim loại, 2002) của tác giả Trương Tân
[tr.256].
Vấn đề đồng tính được đề cập đến rõ ràng, cụ thể hơn trong những cuốn
sách viết về những tác giả, tác phẩm viết về nghệ thuật hiện đại, đương đại
mang tính nhân văn sâu sắc trong các cuốn sách như:
- Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội (2007), Giới có phải là một vấn đề, Nxb
Mỹ thuật: Đây là một vựng tập viết về những ý tưởng sáng tạo với các học
viên của Dự án “Giới có phải là vấn đề?” thuộc Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội
thảo luận về những lĩnh vực của nghệ thuật, những khía cạnh của đời sống
hàng ngày có liên quan đến vấn đề về giới. Trong đó, đề cập trực tiếp đến vấn
đề đồng tính là phần viết về tác phẩm sắp đặt “K, Q, QK, KQ” của Trần Quốc
Hùng có viết lời tựa cho tác phẩm: “Quân bài Vua (K) là quân bài quyền lực
lớn nhất trong bộ bài tây, là ước muốn của nhiều người đàn ông. Quân bài
Hậu (Q) là quân bài xinh đẹp nhất, chỉ đứng dưới quân K. Sự pha trộn giới
tính nam, nữ, đồng tính nam, đồng tính nữ tạo nên sự phong phú về giới tính.
Chấp nhận hay không chấp nhận bốn giới tính? Nếu bạn ngồi vào vị trí cha,
mẹ mà con mình đồng tính thì bạn sẽ suy nghĩ thế nào?...” [tr.77]
5
- Đào Mai Trang (chủ biên) (2010), 12 nghệ sĩ đương đại Việt Nam, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội: Cuốn sách giới thiệu 12 nghệ sĩ tiêu biểu trong đời sống
hiện đại, đương đại của nghệ thuật Việt Nam. Tập hợp các bài viết của cả tác
giả trong và ngoài nước viết về những nghệ sĩ này. Đây có lẽ là cuốn sách viết
đầy đủ, rõ ràng hơn về chủ đề đồng tính trong các tác phẩm của những nghệ sĩ
tiêu biểu đi theo hướng này. Trong bài “Trương Tân và con đường nghệ
thuật”, tác giả Vũ Đức Toàn viết về nghệ sĩ Trương Tân “Hình ảnh của anh
gắn liền với sự dũng cảm của một cá nhân sống thành thực với giới tính và cá
tính của mình. Sự thành thực đó được thể hiện mãnh liệt trong nghệ thuật của
anh, từ các sáng tác hội họa đến những tác phẩm nghệ thuật sắp đặt và trình
diễn…” [tr.37]. Tác giả còn đề cập cụ thể đến tác phẩm trình diễn của Trương
Tân và Nguyễn Mạnh Hùng mang tên “Cuộc gặp gỡ”: “Trước mắt khán giả,
người ta chỉ thấy hai gã gàn dở lột quần lột áo nhau, bổ nhào vào nhau với
một đống ngôn từ thượng vàng hạ cám…” [tr.45]. Cũng trong cuốn sách này,
bài viết “Lý Trần Quỳnh Giang độc thoại cùng thời gian” của tác giả Bùi
Như Hương cũng viết nhiều về hội họa của Quỳnh Giang trong các tác phẩm
vẽ về đề tài đồng tính mang tính biểu hiện về sự cô độc: “Ở tranh sơn dầu,
Giang cũng chủ yếu vẽ mình hoặc lấy mình làm cái cớ để vẽ. Nhân vật của
chị thường cô đơn, suy tư, đôi khi hút thuốc, khoả thân hoặc chơi vĩ cầm. Khi
khoả thân thì khoả thân đến trơ trụi, cùng cực, nhục cảm, cô quạnh. Có lúc lại
trốn sâu vào mình, thụt sâu vào quần áo vỏ bọc như một chú rùa chỉ để hở
chân tay, khuôn mặt và đôi con mắt đau đáu…” [tr.190].
- Bùi Như Hương, Phạm Trung (2012), Nghệ thuật đương đại Việt Nam
1990 – 2010, Nxb Tri thức, Hà Nội: Đây có lẽ là cuốn sách viết về các nghệ sĩ
và tác phẩm liên quan đến đề tài đồng tính một cách rõ ràng, cụ thể nhất. Vấn
đề này được nhắc đến trực tiếp khi các tác giả viết về những nghệ sĩ và các tác
phẩm của họ. Ngay trong những trang viết đầu tiên thuộc Phần 2 của cuốn
sách này, các tác giả đã viết về nghệ sĩ Trương Tân như sau: “Trương Tân
6
chuyên vẽ các tranh pop – giới tính, là người đầu tiên trở về chính mình một
cách thành thật nhất, tự do nhất, công khai bộc lộ tình yêu đồng tính, điều mà
xã hội Việt Nam còn dè dặt, tránh né, nghệ thuật còn kiêng kỵ…” [tr.15].
Trong phần viết này còn viết về tranh của Nguyễn Minh Thành: “Tranh
thường là các chân dung tự họa theo nhiều cách, nhiều bố cục khác nhau: một
thằng bé mọc lên trong chum vại, nón, cây, ếch nhái, chồng chất ký ức tuổi
thơ với trí tưởng tượng khác thường, bất ngờ và nhiều khi là phi lý, để nói lên
câu chuyện cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống đầy các mâu
thuẫn thế hệ, mâu thuẫn văn hoá, lối sống, các bi kịch và những câu hỏi nhân
sinh không bao giờ chấm dứt…” [tr.16]. Nhận định về hai nghệ sĩ này, các tác
giả còn viết: “Cũng có một lý do là Trương Tân với các bức tranh chủ đề giới
tính của anh khi đó đã một hai lần vấp phải kiểm duyệt, bị yêu cầu đóng
cửa… Một Trương Tân – khát vọng tự do, không ngại ngần bộc lộ tình yêu
đồng giới, một Minh Thành – suy tư về thân phận con người và nỗi buồn
nhân loại…” [tr.25]. “Đi đầu trong việc vẽ tranh pop và trưng bày thành triển
lãm có lẽ vẫn là Trương Tân. Anh vẽ các tranh sex-pop, kết hợp graffity, có
những câu chữ ngôn từ lấy từ văn hoá đường phố, như một sự thách thức, thể
hiện tự do cá nhân, đồng thời phô bày một góc khuất tình dục của đời sống
con người” [tr.43].
- Đào Mai Trang (2014), Nghệ thuật và tài năng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội:
Cuốn sách này viết về nghệ thuật của những nghệ sĩ trẻ thuộc thế hệ 8X với
những sáng tạo nghệ thuật của họ trong bối cảnh xã hội hiện đại, đương đại.
Cuốn sách không đề cập trực tiếp đến đề tài đồng tính nhưng sử dụng một số
tác phẩm minh họa thuộc về vấn đề này như: Tranh Trước gương của Phạm
Tuấn Tú [tr.92-93],…
- Đinh Gia Lê (2016), Tìm hiểu về nghệ thuật đương đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục: Tác giả có đề cập đến một số nghệ sĩ trong thế hệ trẻ của nghệ thuật
hiện đại, đương đại Việt Nam, tiêu biểu là phần viết về Trương Tân: “Nghệ
7
thuật của anh nổi bật với tinh thần giải phóng cá nhân, giải phóng các ẩn ức về
giới tính, xen kẽ trong đó là cái nhìn châm biếm sâu sắc về một số vấn nạn xã
hội…” [tr.137].
Như vậy, trong các cuốn sách kể trên, các tác giả đã viết về vấn đề đồng
tính thông qua các thủ pháp tạo hình của ngôn ngữ hiện đại, đương đại trong các
tác phẩm hội họa qua tác phẩm của một số tác giả tiêu biểu như: Trương Tân,
Nguyễn Minh Thành, Lý Trần Quỳnh Giang, Phạm Tuấn Tú… Vấn đề đồng
tính được phân tích nhiều và kỹ hơn trong một số trang viết của các cuốn sách
này.
Ngoài ra, vấn đề đồng tính được nhắc đến trực tiếp trong một số bài viết
về mỹ thuật thể hiện đề tài này như:
“Thế giới thứ ba qua góc nhìn của dân Art”, Tạp chí Đẹp, tháng 03 năm
2008 viết về một số tác giả như Lý Trần Quỳnh Giang, Trương Tiến Trà,
Nguyễn Kim Hoàng với một số tác phẩm vẽ về đề tài đồng tính của họ. “Tranh
đề tài đồng tính”, http://maivang.nld.com.vn, 09/09/2006: viết về Triển lãm Sự
thật méo mó - triển lãm gồm 12 bức tranh về đề tài đồng tính của họa sĩ trẻ
Trương Tiến Trà (sinh năm 1979) tại Gallery Suffusiveart ít nhiều gây xôn xao
giới mỹ thuật Hà Nội."Mở" - cuộc triển lãm về đề tài đồng tính”,
thethaovanhoa.vn, 28/11/2009 viết về cuộc triển lãm các tác phẩm hội họa, đồ
họa và nhiếp ảnh, được tổ chức bởi ISEE (Viện Nghiên cứu kinh tế xã hội Việt
Nam) và ICS (nhóm đại diện cho một số diễn đàn của người đồng tính).“Bàn
về đồng tính: 6 biện pháp để giảm bớt kỳ thị”, http://soi.com.vn, 25/12/2012
viết về vấn đề hiện nay những người đồng tính đang bị kỳ thị và một số hướng
giải quyết mà mọi người đang áp dụng để giải quyết vấn đề trên thông qua
nghệ thuật…
Trên thực tế, vấn đề đồng tính vẫn được phản ánh nhỏ lẻ trong các tài liệu,
cuốn sách trên mà chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn
đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại. Những cuốn sách, tài liệu tôi đã
8
trình bày trên đây đã gợi ý cho tôi một hướng nghiên cứu mang tính đầy đủ,
trọn vẹn hơn dành cho đề tài đồng tính. Vì vậy, tôi chọn “Vấn đề đồng tính
trong hội họa Việt Nam hiện đại” làm luận văn Thạc sĩ Mỹ thuật tạo hình để làm
rõ đặc điểm tạo hình đặc trưng của vấn đề đồng tính trong nghệ thuật hội họa.
3. Mục đích của luận văn
Luận văn hướng đến các mục đích nghiên cứu sau:
- Về vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại thông qua nội
dung và hình thức nghệ thuật.
- Nghiên cứu các hình thức biểu đạt của nghệ thuật tạo hình về đề tài
đồng tính trong các tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại qua nhiều chất liệu
và phong cách, ngôn ngữ tạo hình.
- Tìm ra những đặc trưng về nghệ thuật tạo hình trong những tác phẩm
thể hiện về vấn đề đồng tính. Đánh giá thành công và hạn chế về của các tác
phẩm hội họa Việt Nam hiện đại vẽ về đề tài đồng tính.
- Rút ra bài học kinh nghiệm về sử dụng ngôn ngữ tạo hình của nghệ
thuật hội họa trong sáng tác về đề tài đồng tính.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Các tác phẩm hội họa có đề tài đồng tính
- Phạm vi: Các tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đề cập đến đề tài
đồng tính từ năm 2005 đến 2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
Phương pháp khảo sát thực tế: Thực tế tại các triển lãm có các tác
phẩm liên quan đến đề tài; quan sát, chụp hình, phỏng vấn các tác giả và công
chúng, thu thập tài liệu về đề tài đồng tính trong các tác phẩm hội họa hiện đại
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Sưu tầm và thống kê tài liệu; phân loại
và phân tích tài liệu về đề tài đồng tính được thể hiện trong nghệ thuật tạo hình.
9
Phương pháp so sánh: Nghiên cứu các tác phẩm hội họa Việt Nam
hiện đại thể hiện đề tài về đồng tính, so sánh làm rõ đặc trưng riêng của mỗi
tác giả trong cách biểu đạt ý tưởng bằng ngôn ngữ hội họa.
Phương pháp nghệ thuật học: Sử dụng kiến thức, sự hiểu biết về mỹ
thuật, về nghệ thuật tạo hình để tiếp cận và nghiên cứu về hình thức thể hiện,
đặc trưng nghệ thuật của các tác phẩm hội họa vẽ về đề tài đồng tính.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn sẽ mang lại các kết quả như sau:
- Là tài liệu nghiên cứu có hệ thống về nội dung và hình thức nghệ thuật
trong các tác phẩm hội họa Việt Nam hiện đại về đề tài đồng tính. Đánh giá
những thành công và hạn chế trong việc sáng tác tác phẩm hội họa về đề tài
đồng tính.
- Xây dựng một tài liệu giúp người đọc hiểu được về tính nhân văn trong
chủ đề, đề tài sáng tác về người đồng tính và nghệ thuật biểu đạt ý tưởng
thông qua ngôn ngữ hội họa.
- Đưa ra một số bài học để giúp họa sĩ sáng tác tránh bị sa vào tình trạng
lạm dụng đề tài nhạy cảm để gây sốc, tạo nên sự nổi tiếng bằng những tiểu
xảo, sự khoa trương, cường điệu thái quá sự thực.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Mở đầu (9 trang), nội dung (61 trang) và kết
luận (2 trang).
Phần nội dung được chia thành ba chương:
Chương 1: Những cơ sở mang tính lý luận để nghiên cứu đề tài (26 trang)
Chương 2: Nghiên cứu những biểu hiện của vấn đề đồng tính (24 trang)
Chương 3: Giá trị của nghệ thuật tạo hình trong các tác phẩm hội họa Việt
Nam hiện đại thể hiện đề tài đồng tính (11 trang)
Ngoài ra, luận văn còn có phần tài liệu và phụ lục, hình ảnh phụ lục (phụ
lục minh họa hình ảnh).
10
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm một số thuật ngữ được sử dụng trong đề tài
Khái niệm "đồng tính"
Để tìm hiểu khái niệm “đồng tính” trước hết có thể tìm hiểu cách định
nghĩa của các từ điển khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt (2003), Hoàng Phê
(chủ biên), Nxb Đà Nẵng: “Đồng tính là cùng giới tính”, “đồng tính luyến ái
là có quan hệ yêu đương, ham muốn tình dục với người cùng giới tính” [16,
tr. 344]. Theo Từ điển tiếng Việt (2007), tác giả Phan Như Ý, Nxb ĐH Quốc
gia TP. HCM : “Đồng tính là chỉ có ham muốn nhục dục với người cùng giới
tính, quan hệ luyến ái đồng tính” và “Đồng tính luyến ái là có quan hệ yêu
đương, tình dục với người cùng giới tính” [33, tr. 556]. Từ điển tiếng Việt
(2012) của Viện ngôn ngữ học, Nxb Hồng Đức định nghĩa: “Đồng tính: cùng
giống đàn ông hay cùng giống đàn bà với nhau: Hai người đồng tính không
thể làm vợ chồng với nhau”. “Đồng tính luyến ái: tình yêu tha thiết, say mê,
không rời được nhau giữa đôi bạn trai hay đôi bạn gái, một hiện tượng bất
thường” [32, tr. 296]
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia : “Đồng tính luyến ái,
gọi tắt là đồng tính, là thuật ngữ chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện
tình yêu, tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa
những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một
cách lâu dài. Với vai trò là một thiên hướng tình dục, đồng tính luyến ái
là một mô hình bền vững của sự hấp dẫn tình cảm, tình yêu, hoặc hấp
dẫn tình dục một cách chủ yếu hoặc duy nhất đối với người cùng giới
tính. Đồng tính luyến ái cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những
hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này”.
11
Và cũng theo cách diễn giải của từ điển này, trong tiếng Việt người
đồng tính luyến ái nam thường được gọi là "người đồng tính nam" hoặc "gay"
/ɣ aj/ (bắt nguồn từ từ tiếng Anh "gay" /ɡ eɪ /), "bê đê" /ɓ e ɗ e/, "pê đê" /pe
ɗ e/ (bắt nguồn từ tiếng Pháp "pédérastie"). Người đồng tính luyến ái nữ
thường được gọi là "người đồng tính nữ" hoặc "lét" /lɛ t/ (bắt nguồn từ từ
lezbiən/, thường được viết phỏng theo tiếng Anh là tiếng Anh "lesbian" /ˈ
"les" dù phát âm khác với tiếng Anh. Người đồng tính rất đa dạng về mọi mặt.
Không có đặc điểm ngoại hình đặc trưng nào để "nhận dạng" người đồng tính
so với những người khác trong xã hội. Từ "bóng" hay "bê đê" (từ mang hàm ý
thể hiện sự miệt thị) mà người ta hay dùng để chỉ một người con trai cư xử và
hành động như con gái thực ra là nói đến người chuyển giới nữ nhưng chưa
có điều kiện phẫu thuật.
Như thế, đồng tính là một hiện tượng tự nhiên, một xu hướng tương đối
cố định của một bộ phận dân số, có tính liên tục xuyên suốt lịch sử và văn
hóa. Vậy nên hoàn toàn không hề có bất kỳ một phương pháp nào có thể
“chữa trị” đồng tính. Do cách gọi chung những người đồng tính bằng những
cái tên dân dã quen thuộc như “pêđê”, “bóng”, “ô môi”,… nên có rất nhiều
người bị ngộ nhận rằng người đồng tính và người chuyển giới là một. Trong
thực tế cũng có rất nhiều người chuyển giới khi chưa phẫu thuật vẫn bị nhầm
lẫn về chính bản thân mình khi tự nhận mình là người đồng tính. Về bản chất
thì sự đánh đồng lẫn lộn này xảy ra là do mọi người thường quan tâm đến
phần thể hiện giới của người đồng tính và người chuyển giới. Bất kỳ người
đồng tính nam nào có xu hướng thể hiện hơi nữ tính hoặc người chuyển giới
chưa qua phẫu thuật nào thích ăn mặc, trang điểm theo xu hướng nữ tính đều
bị coi là một và gọi là “bóng” rồi chia thành “bóng lộ” và “bóng kín”.
Còn đồng tính, song tính hay dị tính là những khái niệm liên quan đến
xu hướng tính dục, có nghĩa là việc họ yêu ai. Nói đơn giản hơn, đồng tính chỉ
12
là việc một người đàn ông yêu một người đàn ông hoặc một người phụ nữ yêu
một người phụ nữ.
Các nhà khoa học đã ghi nhận sự hiện diện của người đồng tính trong
mọi nền văn minh cổ xưa nhất từ Đông sang Tây. Và thậm chí là nhiều nhà
sinh vật học còn chứng minh rằng hiện tượng đồng tính luyến ái phổ biến
không chỉ ở con người mà còn ở các loài côn trùng đến các loài có vú. Sự đa
dạng xu hướng tính dục là một đặc điểm có tính phổ quát của toàn nhân
loại.Tùy theo từng thời kỳ và nền văn hóa thì những người đồng tính, song
tính và chuyển giới có cách gọi khác nhau. Hai dạng chính của đồng tính là
đồng tính nam và đồng tính nữ. Những người đồng tính, nam và nữ, thường
được gọi với nhiều tên khác nhau, thông thường nhất là gay và lesbienne.
Quan hệ tình dục là yếu tố cơ bản để họ tự coi là mình thuộc dạng tình yêu
nào. Từ lâu, thực tế xác nhận sự tồn tại ở mọi nơi trên hành tinh một cộng
đồng đặc biệt, viết tắt là LGBT, tức những người đồng tính nữ, đồng tính
nam, những người song tính và những người chuyển giới. Tên gọi LGBT bộc
lộ sự đa dạng và tính linh hoạt của hoạt động tình dục của cộng đồng này.
Khái niệm "vấn đề đồng tính"
Theo Từ điển tiếng Việt (2012) của Viện ngôn ngữ học, Nxb Hồng Đức:
“Vấn đề là câu chuyện nêu ra để giải quyết, việc phải giải quyết”…[32,
tr.1054]. Theo Từ điển mở Wiktionary: “Vấn đề là điều cần được xem xét,
nghiên cứu, giải quyết. Vấn đề là một cái gì đó khó xử lý hoặc khó giải quyết.
Vấn đề có thể được định nghĩa là bất cứ điều gì mà có khối lượng và chiếm
không gian trong đó bao gồm thực tế tất cả mọi thứ. Vấn đề cũng đã được sử
dụng để mô tả tầm quan trọng của một cái gì đó”.
Ngoài ra, ta cũng có thể tham khảo một khái niệm gần với “vấn đề” là
khái niệm “vấn đề xã hội” ở Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: “Vấn đề xã
hội là tất cả những gì liên quan đến con người, các nhóm người, các cộng
đồng người đến sự tồn tại, phát triển của con người trong một hoàn cảnh xã
13
hội nhất định được nhận thức như một vấn nạn của xã hội, đụng chạm đến lợi
ích của một cộng nhóm người nhất định và chỉ có thể được khắc phục thông
qua hành động xã hội”.
Nhìn trong tổng thể, từ xưa đến nay, đồng tính liên tục bị đạo đức tôn
giáo và đạo đức xã hội chỉ trích, cho nên không được đa số thành viên mỗi
cộng đồng thông cảm và thấu hiểu, dù rằng không hiếm nhân vật vĩ đại về
khoa học và nghệ thuật không giấu diếm hay được phát hiện là người đồng
tính, chẳng hạn nhà bách khoa toàn thư số một toàn cầu kiêm danh họa Italia
Leonard de Vinci (1452-1519), văn hào Anh Oscar Wilde (1854-1900), nhà
văn Pháp đoạt giải Nobel André Gide (1869-1951), hoặc nữ thủ tướng Ai len
Johanna Sigurdardottir vừa hết nhiệm kỳ, sinh năm 1948… Ngoài ra, phong
tục tập quán của nhiều dân tộc không ngớt rũ bỏ dần những yếu tố thiếu nhân
bản hay lạc hậu, dù những tiến bộ về khoa học kỹ thuật, về luật pháp và cơ
cấu xã hội khiến cho các xã hội lớn nhỏ ngày một văn minh, ngày một bao
dung, ngày thêm có lý có tình trong xử lý các mối ràng buộc hiển nhiên phải
có,… Một trong những bất hợp lý mà người đồng tính phải cắn răng chịu
đựng hiện giờ, ngay tại các nước văn minh nhất, là sự phân biệt đối xử trong
vấn đề thuê hay trả công lao động. Đằng sau những chuyện này là một thực tế
không khó giải thích. Ví dụ ngẫu nhiên ấy hé lộ biết bao cơ cực mà người ta
phải hứng chịu khi trót hay chỉ yêu người cùng giới với mình. Đáng lạ, những
con người bất hạnh ấy cứ kiên gan viết nên lịch sử riêng của họ, và lịch sử
đồng tính, tuy âm thầm và như cố ý bị lờ đi, vẫn song hành đầy kiêu hãnh với
lịch sử nhân loại. Và đó chính là một vấn đề của xã hội nói chung và văn học,
nghệ thuật nói riêng: vấn đề đồng tính.
Như thế, vấn đề đồng tính ở đây có thể hiểu là một vấn đề xã hội khi
con người chỉ có ham muốn yêu đương, nhục dục với người cùng giới tính,
quan hệ luyến ái đồng tính. Vấn đề đồng tính về việc có quan hệ yêu đương,
tình dục với người cùng giới tính được nhận thức như một sự tồn tại đặc biệt
14
trong cuộc sống, đang được xã hội quan tâm, chia sẻ, giải quyết những yếu tố
liên quan đến vấn đề này.
Khái niệm "vấn đề đồng tính trong hội họa"
Theo Từ điển thuật ngữ Mĩ thuật phổ thông (2002), Đặng Thị Bích
Ngân, Nxb Giáo dục: “Hội họa: Nghệ thuật dùng màu sắc, hình mảng, đường
nét để diễn đạt cảm xúc của người vẽ trước con người, thiên nhiên, xã hội.
Hội họa là một ngành của nghệ thuật tạo hình”.[11, tr.77].Như thế, hội họa
cũng luôn được hiểu là một ngành nghệ thuật trong đó con người sử dụng
màu vẽ để tô lên một bề mặt như là giấy, hoặc vải, để thể hiện các ý tưởng
nghệ thuật. Thông thường, công việc này do họa sĩ thực hiện. (Họa sĩ là từ
dùng để chỉ những người coi hội họa là nghề nghiệp của mình). Kết quả của
công việc đó là các tác phẩm hội họa hay còn gọi là các tranh vẽ. Hội họa là một
trong những loại hình nghệ thuật quan trọng và phổ biến nhất. Nói cách khác,
hội họa là một ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng của người nghệ sĩ bằng các tác
phẩm hội họa sử dụng kỹ thuật (nghệ) và phương pháp (thuật) của họa sĩ.
Kết hợp với các khái niệm trên, ta có thể hiểu vấn đề đồng tính trong
hội họa là một vấn đề xã hội khi con người chỉ có ham muốn yêu đương, nhục
dục với người cùng giới tính, quan hệ luyến ái đồng tính. Vấn đề đồng tính về
việc có quan hệ yêu đương, tình dục với người cùng giới tính được nhận thức
như một sự tồn tại đặc biệt trong cuộc sống, đang được xã hội quan tâm, chia
sẻ, giải quyết những yếu tố liên quan đến vấn đề này. Và trong hội họa, những
sáng tạo nghệ thuật phản ánh về đề tài đồng tính, thể hiện, diễn tả hay biểu đạt
chuyện tình yêu, cảm xúc hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới
tính với nhau được thể hiện bằng ngôn ngữ, chất liệu của nghệ thuật hội họa.
1.2. Khái quát về hội họa Việt Nam hiện đại
Ngày 7/10/1924, tại Hà Nội, toàn quyền Đông Dương Martial Merlin
ký sắc lệnh cho thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương. Trong thời gian 20
năm (1925-1945), trường đã đào tạo ra nhiều tên tuổi nổi tiếng của nền mỹ
15
thuật Việt Nam như: Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ,
Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái… Đặc biệt, triển lãm mỹ thuật đầu tiên được
khai mạc tại trường Mỹ thuật Đông Dương vào ngày 15/11/1929, đã có tác
động đáng kể đến đời sống và công chúng đương thời. Có thể nói, khuynh
hướng hiện đại đã đi vào môi trường hội họa của Việt Nam kể từ triển lãm
đầu tiên này.
Vào thời kỳ Đông Dương, nền hội họa sơn dầu Việt Nam đã ít nhiều có
những sắc thái riêng biệt, với những nội dung hết sức đặc biệt, được phản ánh
qua những tác phẩm có phong độ bậc thầy như: Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô
Ngọc Vân, Chơi ô ăn quan của Nguyễn Phan Chánh, Vườn xuân Bắc Trung
Nam của Nguyễn Gia Trí… Các họa sĩ Việt Nam đã đi từ trường phái Cổ
điển, qua Hiện thực, và phần nào tiếp cận các trường phái Hiện Đại như: Ấn
tượng… Kỹ thuật và cách sử dụng màu sắc của phong cách phương Tây là
những gì thế hệ học sinh đầu tiên được đào tạo ở trường Mỹ thuật Đông
Dương học được. Sự khởi đầu cơ bản như vậy đã đặt nền móng cho các thế hệ
trẻ noi theo và dẫn họ đến thành công. Trong những năm 1930, 1940 và 1950,
thế hệ đầu tiên của Việt Nam tham gia vào thị trường nghệ thuật quốc tế là
những họa sĩ hiện đại và được đánh giá cao tại Việt Nam cũng như nước
ngoài. Từ đó, họ có danh tiếng và được vinh danh như những bậc thầy của mỹ
thuật hiện đại Việt Nam. Trong số đó có Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh,
Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, Lê Phổ, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Đỗ Cung,
Nguyễn Tiến Chung, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên.
Những ngày đầu cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954
mở ra một trang sử khác cho mỹ thuật Việt Nam. Tháng 10/1945, trường Cao
đẳng mỹ thuật được mở ra. Các họa sĩ và các nhà điêu khắc đã tự tin, tích cực
chuẩn bị cho cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc đầu tiên trong chế độ mới và
các họa sĩ đã dành cả tâm huyết của mình trong việc sử dụng ngòi bút làm vũ
khí tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật, ca ngợi lãnh tụ và các anh
16
hùng thời đại: Tranh tượng về Bác Hồ (Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Phan
Kế An…) tự vệ chiến đấu (Văn Bình)… đã báo hiệu sự ra đời của nền nghệ
thuật cách mạng.
Chiến tranh lan dần từ miền Nam ra cả nước, cho đến cuối 1940 cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ đi liền với sự nghiệp kháng chiến toàn dân,
toàn diện là sự chuyển mình của các họa sĩ. Họ nghe theo tiếng gọi của nước
của dân tộc cho nên đa số các họa sĩ đều cầm súng, vừa cầm bút vẽ tranh để
tuyên truyền cho kháng chiến thể loại ký họa, bột màu, thuốc nước, chì, tranh
sơn mài được dùng nhiều với những tác phẩm đạt giá trị cao cả ở nội dung và
nghệ thuật, được giới thiệu ở các triển lãm mỹ thuật chào mừng sự kiện lớn
trong cả nước.
Năm 1948, Đại hội văn hoá toàn quốc ở miền Bắc đã được tổ chức gồm
các tác phẩm kháng chiến, điển hình là tác phẩm: Dân quân phù lưu (Nguyễn
Tư Nghiêm), Gặt lúa (Mai Văn Hiến), Người du kích già (Phạm Văn Đôn)…
đã phản ánh cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh với niềm lạc quan tất
thắng. Năm 1952 tại Việt Bắc trường Trung cấp mỹ thuật được thành lập do
họa sĩ Tô Ngọc Vân làm Hiệu trưởng, đã đào tạo ra một thế hệ họa sĩ đầu tiên
cho kháng chiến, những cuộc triển lãm lớn với nhiều tác phẩm nghệ thuật giá
trị của họ như tác phẩm Bác Hồ với các cháu thiếu nhi Trung - Nam - Bắc của
họa sĩ Diệp Minh Châu là bức tranh nổi tiếng mà ông vẽ bằng máu của chính
mình trên lụa. Tiêu biểu cho thế hệ các hoạ sỹ miền Nam đi theo kháng chiến.
Ngoài ra, còn có tác phẩm Du kích tập bắn (Nguyễn Đỗ Cung), Hành quân
qua đèo (Nguyễn Như Hậu)… đã cổ vũ, động viên kịp thời quân dân xông lên
diệt giặc, mang giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử. Các họa sĩ tích cực thâm
nhập vào trận địa, có người đã đổi cả chính cuộc đời nghệ thuật như họa sĩ -
liệt sỹ (Tô Ngọc Vân). Ký hoạ là một thể loại nổi tiếng của ông với tác phẩm:
Đốt đuốc đi học, Chị cốt cán, Con nghé quả thực, ngoài ra còn có một số tác
17
phẩm nổi tiếng của một số tác giả cùng thời: Cái bát (Sỹ Ngọc), Vệ quốc
quân canh đêm (Nguyễn Tư Nghiêm).
Giữa năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình lập
lại trong cả nước, giới mỹ thuật có điều kiện tập trung về thủ đô Hà Nội tổ
chức Triển lãm toàn quốc, là sự tổng kết của mỹ thuật kháng chiến nói lên
tiềm năng của mỹ thuật cách mạng dồi dào và được giới thiệu ra thế giới tiêu
biểu với những tác phẩm: Nhớ một chiều Tây Bắc (Phan Kế An), Bình minh
trên nông trang (Nguyễn Đức Nùng), Tát nước đồng chiêm (Trần Văn Cẩn)…
cho thấy tranh sơn mài rất phát triển, đóng góp cho nền mỹ thuật thời kỳ này
càng thêm phong phú hơn và nhiều cuộc triển lãm đã được mở ra trên toàn
quốc: 1960 - chào mừng đại hội lần thứ III của Đảng và 1963 triển lãm mỹ
thuật toàn quốc, mà người ta nhớ mãi: Hành quân trong rừng (Nguyễn
Khang), Nam kỳ khởi nghĩa (Huỳnh Văn Gấm), Giờ học tập (Nguyễn
Sáng)…
Đế quốc Mỹ phá hoại miền Bắc (1964), nhân dân miền Bắc lại bắt đầu
một cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập. Các họa sĩ thích ứng hoàn cảnh
mới này rất nhanh, lên đường đến những nơi nóng bỏng nhất để ghi chép,
sáng tác. Hiện thực chiến đấu sản xuất của quân dân đã đi vào tranh tượng,
vừa động viên mọi người vượt lên mọi thử thách của chiến tranh, vừa tranh
thủ sự đồng tình của thế giới.
Trong sự phát triển của mỹ thuật các họa sĩ đã vẽ rất nhiều chủ đề, đề
tài trong cuộc sống, chiến đấu khác nhau. Trước hết là hình ảnh người chiến
sỹ. Nguyễn Sáng rất thành công ở đề tài này với Giặc đốt làng tôi, Kết nạp
Đảng ở Điện Biên Phủ dựng hình đơn giản về nét và màu, bố cục thoáng và
rất khoẻ. Trong số họ, có những người không trực tiếp tham gia chiến đấu
trên trận tuyến mà họ chiến đấu ngay tại hậu phương, sản xuất lương thực
phục vụ tuyền tuyến như tác phẩm Con nghé (Nguyễn Tư Nghiêm), Tổ đổi
công miền núi (Huỳnh Tích Chù), "Con nghé của thực" (Tô Ngọc Vân), "Về
18
nông thôn sản xuất" (Ngô Minh Cầu), "Một buổi cày" (Lưu Công Nhân)...
Bên cạnh nền nông nghiệp xã hội mới còn gắn dần với công nghiệp và hình
ảnh người công nhân cũng chiếm chỗ trong tranh một cách đĩnh đạc như các
tác phẩm: "Mỏ đèo nai" (Nguyễn Tiến Chung), Một loạt tranh (Nguyễn Đỗ
Cung) như: Công nhân cơ khí, học hỏi lẫn nhau, tam ca, mời chị em ra họp để
thi thợ giỏi.. đã nêu bật những gương sáng lao động, gian khổ nhưng chủ
động, chững chạc. Hình tượng người phụ nữ trong tranh không còn là những
tiểu thư đài các nữa mà thực sự làm chủ gia đình, xã hội, tham gia sản xuất cả
nông và công nghiệp như ở các tác phẩm "Nữ dân quân vùng biển" (Trần Văn
Cẩn), "Sau giờ trực chiến" (Nguyễn Phan Chánh). Có lẽ tập trung hơn cả là
hình tượng vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đó là hình tượng "Bác Hồ" hầu như
cuốn hút tất cả các nghệ sỹ tạo hình, vào tranh tượng với rất nhiều chất liệu
khác nhau. Hình tượng Bác là hình tượng của dân tộc Việt Nam kiên cường,
bất khuất, không đếm hết được hết số tác phẩm vẽ tượng về Bác.
Giai đoạn từ 1945-1975, miền Bắc bước vào thời kỳ kháng chiến, nền
hội họa sơn dầu Việt Nam đã chuyển hóa các thành tựu của thời kỳ trước sang
khuynh hướng xã hội chủ nghĩa. Một số còn lại di cư vào Nam, các họa sĩ cổ
thụ tiêu biểu có: Nguyễn Gia Trí, Văn Đen, Nguyễn Siên, Tạ Tỵ, Hiếu Đệ,
Nguyễn Thanh Thu. Sau đó thêm nhóm họa sĩ trẻ Sài Gòn, gồm có các họa sĩ
Nguyễn Trung, Hồ Thành Đức, Bé Ký, Hồ Hữu Thủ, Trịnh Cung,… Đây là
thời gian cực thịnh của các trường phái Hiện Đại: Ấn tượng, Lập thể, Siêu
thực, Trừu tượng… Ở thời vàng son này, các họa sĩ rất được công chúng
trọng thị và mến yêu, nhất là tầng lớp trung lưu trí thức, bác sĩ, kỹ sư, công
chức, giáo sư,…
Nhìn chung, nền mỹ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Tuy gặp nhiều khó khăn, nền mỹ thuật, thiếu thốn về chất
liệu, nguyên liệu sáng tác nhưng các họa sĩ thời kỳ này vẫn không ngừng sáng
tác, tạo ra được nhiều tác phẩm với giá trị lịch sử khá cao, có nhiều tác phẩm
19
ngày nay được dùng làm tài liệu vô giá của lịch sử nước nhà một thời máu lửa
và hào hùng, nhiều tên tuổi tác giả thành danh không chỉ trong nước mà cả
trên thế giới. Các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc Mỹ vô tình
phân chia mỹ thuật hiện đại Việt Nam thành nhiều phong cách khác nhau,
mỗi phong cách đều có cái hay riêng. Sự khác biệt này thể hiện rõ nhất trong
các tác phẩm mỹ thuật của miền Bắc và miền Nam thời kì hai miền bị chia
cắt. Một mặt những cuộc chiến khốc liệt, tinh thần chiến đấu của nhân dân đã
được phản ánh. Mặt khác, chủ nghĩa hiện thực-phê bình, chủ nghĩa lãng mạn,
và chủ nghĩa thoát ly với ước mơ hòa bình tràn ngập trong các sáng tác của
các họa sĩ miền Nam.
Trước năm 1975, mỹ thuật miền Bắc phát triển theo hướng hiện thực xã
hội. Tinh thần chiến đấu, làm việc vẫn được mô tả trong các tác phẩm tranh
vẽ của các họa sĩ kháng chiến. Những tác phẩm này trong mắt các nhà sưu
tầm nghệ thuật phản ánh những hoài niệm cho thời đại anh hùng của Việt
Nam.Giai đoạn từ 1975-1990, sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh cả
nước vẫn sống trong nền kinh tế bao cấp tập trung, lực lượng họa sĩ xuất thân
từ nhiều nguồn đào tạo khác nhau, từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô,
Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Trung Quốc, và từ các nước tư bản như Pháp,
Mỹ, Ý, Anh, Nhật… Từ năm 1975 đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà
thành tựu đã được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân,
của nhóm,... và nhất là “Triển lãm mỹ thuật toàn quốc” mở đều đặn năm năm
một lần chứng tỏ con đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam khi đất
nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú trọng hơn rất nhiều, mở ra một
hướng đi lên mạnh mẽ. Mỹ thuật có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền
mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hoà bình
xây dựng xã hội chủ nghĩa như tác phẩm: " Phố cổ " (Bùi Xuân Phái) đây là
tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu, diễn tả một góc nhỏ phố cổ của Hà Nội, là đề
tài luôn được Bùi Xuân Phái say mê khám phá, sáng tác. Những cảnh phố
20
vắng với những đường nét xô lệch, mái tường rêu phong, những đầu hồi và
mái ngói đen sạm màu thời gian luôn xuất hiện trong tranh của ông. Ngoài
Bùi Xuân Phái, còn rất nhiều họa sĩ khác với các tác phẩm mang nội dung
cuộc sống hàng ngày bình dị: Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản Mèo
(Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)… Không riêng nội dung thay đổi
mà chất liệu mỹ thuật cũng đa dạng, phong phú hơn rất nhiều, các họa sĩ hầu
như không bị gò bó vào một khuôn khổ nào, họ thoả thích sáng tác, chất liệu
mỗi người một khác nhau: sơn dầu, phấn màu, mực nho, mực bột, sơn mài..
sự đa dạng của chất liệu, đã nâng cao phong phú cho các tác phẩm. Với sự
hoà nhập thực sự của nghệ sỹ hai miền Nam - Bắc và sự có mặt của các họa sĩ
lão thành đã góp phần làm cho mỹ thuật Việt Nam có sự phát triển, có sự tìm
tòi đổi mới nghệ thuật.
Sau đại hội Đảng thứ VI (1986) khẳng định đổi mới chiến lược cách
mạng mở cửa, làm bạn với các nước, chuyển dần sang kinh tế thị trường thì
mỹ thuật cũng cuốn vào dòng chảy này. Chỉ trong vòng 5 năm (1984 - 1989)
mà đã có 118 triển lãm của 3778 lượt tác giả trưng bày 8879 tác phẩm là cả
một sự " bung ra " với nhiều đề tài "đời thường ", thể loại tranh hoành tráng,
phong cảnh, tranh tĩnh vật… Các họa sĩ xâm nhập, sâu sát với xã hội, làng
xóm.. để lấy tình cảm hứng sáng tác tranh, có những tác phẩm rất mộc mạc
chân quê như tác phẩm: Vợ chồng người hàng nước, Ngày mùa ở Đông Anh
Hà Nội. Ngoài ra, còn có tác phẩm bằng lụa của Ngô Minh Cầu cùng đề tài
những con người nơi thôn quê.
Giai đoạn đổi mới (1990-2009), Bắt đầu từ cuộc trao đổi văn hóa Việt
Mỹ. Các họa sĩ Mỹ, và hoạ sĩ các nước vào Việt Nam triển lãm. Ngược lại,
các họa sĩ Việt Nam sang Mỹ và các nước tiên tiến trên thế giới triển lãm giao
lưu. Thời kỳ này là thời kinh tế thị trường mở cửa, Việt Nam gia nhập WTO,
giới họa sĩ tiếp cận nhiều thông tin, nhất là giới họa sĩ trẻ, đươc dịp khẳng
định mình, qua các trường phái Hậu Hiện Đại như Pop Art, Body Art, Trình
21
Diễn, Sắp Đặt… Cả ba miền đất nước: Huế, Sài Gòn, Hà Nội, bùng nổ triển
lãm tranh, tượng, cá nhân, nhóm, câu lạc bộ, Tòa soạn báo chí, Hội Mỹ Thuật
các nơi… Các gallerie mọc lên như nấm. Nhìn chung, các họa sĩ hiện đại đã
tìm cho mình một con đường riêng, thể hiện với một thái độ tình cảm trong
toàn tác phẩm, mỗi tác phẩm là một niềm vui lớn được nâng niu trân trọng.
1.3. Khái quát về đề tài đồng tính trong mỹ thuật Việt Nam hiện đại
Sự xuất hiện của đề tài đồng tính
Trên thế giới, thời cổ đại, vấn đề đồng tính được ghi lại tương đối ít ỏi
và giản dị, chủ yếu trong tranh vẽ và hội họa trên những hình vẽ đồ đất nung.
Giá trị lịch sử của chúng là không thể phủ nhận như: Bảo tàng mỹ thuật
Boston, Hoa Kỳ, vẫn trưng bày những bình cổ Hy Lạp. Một bình có niên đại
4.900 năm trước CN, vẽ hình thần Zephir (Gió Tây) đang hoạt động tính giao
với chàng trai Hyacinth người phàm mà thần bắt cóc được (Hình 1.1). Thần
ôm quặp lấy chàng trai sấp mặt vào mình và chà đùi mình vào đùi người trẻ
tuổi. Tại một phòng trưng bày ở Munich, CHLB Đức, trên một mặt của một
chiếc bình hai quai cổ Hy - La, ta thấy một người lớn tuổi hơn đang sờ cằm và
dương vật của kẻ trẻ hơn mình. Nhiều nghệ sĩ tạo hình vẽ tranh minh họa cho
thần thoại về những mối tình đồng tính giữa các thần Hy - La cổ đại và người
trần mắt thịt.
Sự giằng xé giữa phủ nhận hay công nhận, vấn đề đồng tính dù sao
cũng đã được phản ánh trong nghệ thuật. Trong tranh của nhà điêu khắc kiêm
họa sĩ Đức bậc thày Albrecht Durer (1471-1528), bức Cái chết của Orphée,
vẽ năm 1494, hiện trưng bày ở Kunsthall, Hamburg (Hình 1.2) thể hiện thần
âm nhạc cổ đại Hy - La Orphée là vị thần kỳ bí nhất, có sức mạnh sáng tạo và
biểu diễn siêu phàm, khiến các vật vô tri cũng rung động. Cuộc sống yêu
đương của thần vô cùng phức tạp. Có vợ và xiết đỗi chung tình, thần vẫn
không cưỡng được đồng tính luyến ái. Về sau, vợ thần mất tích, thần cất công
tìm kiếm mãi, nhưng vẫn vô vọng. Thần bèn quyết sống độc thân. Bao phụ nữ
22
quyến rũ thần đều thất bại. Họ bèn đánh hội đồng thần cho kỳ chết và xé xác
thần. Tác phẩm này của Duer kể chuyện thánh thần, nhưng theo xu hướng tả
thực nghiêm ngặt, nên giống như một cảnh tượng của đời sống thường nhật.
Từ thời Phục hưng, đồng tính được miêu tả chủ yếu theo xu hướng này.
Những khoảnh khắc đời thường đi vào hội họa thật hấp dẫn. Đồng tính nữ vẫn
hiếm hoi, như bức Hai bạn gái, 1866, của họa sĩ Pháp lừng danh Gustave
Courbet (1819-1877), hiện trưng bày ở Cung Paris nhỏ (Hình 1.3), thể hiện
hai cô gái khỏa thân đang ôm nhau ngủ. Dù muốn dù không, những tác phẩm
hội họa tương tự ca ngợi thật chí lý vẻ đẹp của cơ thể con người. Chuyện tính
giao chỉ được ám chỉ. Điều này không hẳn là hạn chế của hội họa trong đề tài
đồng tính, mà là sự tinh tế không thể coi nhẹ trong nghệ thuật nói chung và
trong nghệ thuật tạo hình nói riêng.
Ở Việt Nam, trong xã hội hiện đại, từ thế kỷ trước, dấu ấn về sự hiện
diện của người đồng tính vẫn thể hiện thấp thoáng đâu đó trong các tác phẩm
nghệ thuật. Tuy nhiên, nói chung ở giai đoạn này, đồng tính dường như bị coi
là chủ đề cấm kỵ nghiêm ngặt. Chỉ đến sau này, những câu chuyện về người
đồng tính hoặc quan hệ của những người cùng giới mới xuất hiện trở lại một
cách dè dặt trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Giai đoạn đầu, đề tài đồng tính thường được biểu hiện trong các tác
phẩm điện ảnh, kịch, tạo hình, văn học… theo nhiều cách khác nhau. Xu
hướng thứ nhất, thường thể hiện hình ảnh những người đồng tính một cách
bệnh hoạn, đầy màu sắc giễu cợt, phê phán... Nhiều tác phẩm xây dựng hình
ảnh người đồng tính làm trò câu khách, rẻ tiền bởi tác giả không hiểu được
nỗi cô đơn, bấn loạn của con người khi bị chọc ngoáy vào nỗi đau bản thể, sự
cô độc và cái chết. Biểu đạt ở dạng này, xét ở khía cạnh tư tưởng chủ đề, quả
thật là sự bôi nhọ, một kiểu gây hấn, công kích người đồng tính, góp phần vào
việc tạo ra thái độ khinh bỉ, thờ ơ. Một số tác phẩm giai đoạn sau này có đi
sâu vào việc miêu tả những nhân vật chuyển đổi giới tính hoặc song tính, tuy
23
nhiên, cũng mới dừng lại ở việc khắc họa một phương diện, vài cá thể rất nhỏ
của giới tính thứ ba, hầu như còn chưa đi sâu vào việc thể hiện những góc
khuất khác đáng được mạnh dạn phơi lộ, đồng cảm và chia sẻ… Xu hướng
thứ hai, thường gắn các vấn đề về đồng tính trong mối quan hệ với chính trị,
xã hội. Đó là tư tưởng dấn thân trong việc đấu tranh, giải phóng người đồng
tính khỏi cái nhìn lệch lạc, ác cảm, định kiến cổ hủ. Tuy nhiên, trong nhiều
tác phẩm, xu hướng này còn chưa được hiển lộ một cách rõ nét, nhiều khi còn
bị làm nhiễu, lệch tâm bởi những tư tưởng chủ đề khác. Xu hướng thứ ba, các
tác giả đi sâu vào việc thể nghiệm nhiều góc khuất thẳm sâu trong nội tâm con
người, những tình yêu đồng tính đầy chân thành, cảm động. Một góc khuất
khác cũng được các tác giả tiếp cận ở mức độ khốc liệt, dữ dằn hơn, để lại
cảm xúc xót xa về thân phận con người.
Với hội họa nói riêng, mỹ thuật nói chung, việc chỉ ra sự biểu hiện của
đề tài đồng tính trong lịch sử mỹ thuật và khái quát các xu hướng tiếp cận
trong hai thập niên gần đây là vô cùng khó, chỉ có thể mang tính chất gợi mở
và hết sức giản lược. Bởi, thực tế, mảng mỹ thuật về đồng tính để nắm bắt,
miêu tả một cách đầy đủ, toàn diện sẽ gặp phải nhiều khó khăn. Tuy nhiên, có
một thực tế, đó là cái nhìn, quan điểm xã hội đã dần dần cởi mở hơn. Với mỹ
thuật, điều này không chỉ được thể hiện thông qua số lượng ngày càng lớn các
tác phẩm, mà đặc biệt ở sự xuất hiện một cách nở rộ các triển lãm đề tài về
đồng tính với quan điểm: “Không ai được quyền chọn lựa giới tính của mình
khi sinh ra, nhưng người ta được lựa chọn cách sống với giới tính mà mình
đang có”
Nếu lấy mốc thời điểm những tác phẩm hội họa của họa sĩ Trương Tân
vẽ từ những năm 1993-1994 không được triển lãm ở Việt Nam và gần 20 năm
sau, một số tác phẩm vẫn không được phép trưng bày trong triển lãm. Với
tính chính trị xã hội và đạo đức, cho xét đoán những tác phẩm hội họa của
Trương Tân là những bức tranh đầu tiên trực diện về đề tài đồng tính, thì đến
24
nay, lịch sử khai thác đề tài cấm kỵ này đã có một hành trình, đây vẫn là một
vấn đề hết sức đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật, mà hội họa không phải
trưởng hợp ngoại lệ.
Dù muốn hay không, giới tính thứ ba và những vấn đề về cộng đồng
giới tính thứ ba đã và đang tồn tại trong xã hội như một thực tế hiển nhiên.
Không thể phủ nhận đây là đề tài đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật,
không riêng gì hội họa. Với tính chính trị, xã hội, đặc biệt gắn liền với tính
dục và tình dục đồng giới, nên trước đây, đồng tính luôn là đề tài cấm kỵ.
Hiện nay, xu hướng tiếp nhận đã trở nên cởi mở hơn. Các họa sĩ đã chủ động,
mạnh dạn sáng tạo để có những thể nghiệm đầy táo bạo, bộc lộ thẳng thắn
quan điểm, suy nghĩ, diễn ngôn của mình. Trong hành trình thể nghiệm đó,
những vấn đề đã được đặt ra hình thành nên nhiều xu hướng tiếp nhận đa
chiều.
Cứ liệu sớm nhất để xét đoán thể nghiệm sơ khai đề tài đồng tính trong
hội họa gắn liền với những tác phẩm của Trương Tân, đó là năm 1993-1994,
thể hiện hình ảnh những người đàn ông bên nhau với các tác phẩm: Khóc,
Đẹp, Tôi mong điều kỳ diệu (Hình 1.4, Hình 1.5, Hình 1.6)... Nhiều nhà phê
bình mỹ thuật cho đây là họa sĩ đầu tiên đã đưa hình ảnh người đồng tính lên
tranh, dù rằng, nhận định này chưa có những căn cứ xác đáng, nhất là sự
tương đồng trong chủ ý của chính tác giả.
Ngoài những đề tài phản ánh về tiêu cực xã hội thì chưa có một đề tài
nào lại sóng gió, gian truân trong hội họa như đề tài đồng tính. Các biến động
trong sự kiện văn hóa, chính trị đã dẫn đến những thay đổi ít nhiều trong quan
niệm, định kiến xã hội về đồng tính cũng như vấn đề tình dục.
Sau Trương Tân thì những cái tên Nguyễn Minh Thành, Lý Trần
Quỳnh Giang, Phạm Tuấn Tú, Trương Tiến Trà, Nguyễn Kim Hoàng… là
những cái tên tiên phong trong làng mỹ thuật đi sâu khám phá “thế giới thứ
25
3”. Đứng ra bênh vực tìnhyêu cùng giới, họa sĩ Trương Tân đã đưa tác phẩm
của mình ra ngoài biên giới.
Những loại hình mỹ thuật được sử dụng thể hiện đề tài đồng tính
Hội họa: là một loại hình mỹ thuật được sử dụng thể hiện đề tài đồng
tính nhiều nhất. Đại diện cho những gương mặt tiêu biểu là nghệ sĩ Trương
Tân với những bức tranh thể hiện hình ảnh những người đàn ông khoả thân,
phô bày bộ phận sinh dục và thể hiện những khát khao, ham muốn… được tác
giả thể hiện trên chất liệu giấy dó, sơn dầu và sơn mài.
Nghệ sĩ Minh Thành đầy ẩn dụ với những bức tranh chân dung vẽ bản
thân trong hình ảnh một cô gái xuyên suốt các bức tranh giấy dó và lụa của
anh. Lý Trần Quỳnh Giang với loạt tranh sơn dầu thể hiện bản thân cùng với
những con cú đặt ra những vấn đề về giới tính.Trương Tiến Trà với những
bức tranh sơn dầu thể hiện cơ thể đàn ông khoả thân quấn lấy nhau với những
khát khao tình dục cháy bỏng. Phạm Tuấn Tú thể hiện trên chất liệu sơn dầu
với những hình ảnh những nhân vật đàn ông “đảo trang” đứng trước gương ăn
mặc và trang điểm như những người phụ nữ. Nghệ sĩ người Mỹ gốc Việt
Gabby Quỳnh Anh Miller dùng chất liệu tranh lụa truyền thống để phác họa
chân dung những Người khác, dị biệt về tình dục nhưng gần gũi và đầy ý
nghĩa cho bản thân cô.
Đồ họa: với ngôn ngữ mang tính chất cô đọng, đồ họa là loại hình mỹ
thuật có số lượng tác giả chọn để biểu đạt có số lượng không nhiều. Nhắc đến
lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu, phê bình thường nhắc đến tác giả Lý Trần
Quỳnh Giang, và sau này có thêm tác giả Dương Xuân Quyền. Hai tác giả này
đều lựa chọn chất liệu khắc gỗ để biểu đạt đề tài.
Tiêu biểu cho loại hình này là tác giả Lý Trần Quỳnh Giang với tranh
khắc gỗ. Nhìn tranh khắc gỗ của Giang, ta thấy ở chị có một trí tưởng tượng
đặc biệt khác thường, kỳ lạ. Giang thường khắc họa những hình người hóa
thân vào cây cối, hay ngược lại, những cây cối hóa thân thành hình người.
26
Cây cũng có mắt, có chi có cành, có áo khoác bằng những tán lá buông rủ
mềm mại. Mắt gỗ đẹp và tròn như mắt người, chi cành khúc khuỷu như chân
tay, vân gỗ như mạch máu, hồn cây như hồn người. Tất cả đan quện vào nhau,
không có gì phân biệt. Sự khép kín, cô độc của tự vấn về đồng tính có khi
được Giang khắc một loạt “người- cây” như ở tác phẩm Những cái cây, 2004
(100x100 cm). Cũng có khi chị tự khắc họa mình giống như một thân cây trơ
trọi đứng giữa cánh rừng (tác phẩm Tôi, 2004, 100x100 cm), hoặc hóa thân
vào một gốc cây xù xì, cằn cỗi, cô quả như Buồn, 2004 (100x100 cm). Và
mạnh mẽ nhất là tác phẩm Bà ta (Hình 1.7) triển lãm tại Festival nghệ sĩ trẻ
toàn quốc năm 2007 ở Hà Nội, bức tranh khắc gỗ miêu tả hai người phụ nữ
khỏa thân của nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang sau đó bị tháo dỡ trước giờ
khai mạc vì có một số ý kiến cho rằng tranh vi phạm thuần phong mỹ tục.
Tốt nghiệp Khoa Đồ họa Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội, còn rất trẻ,
sáng tác của Lý Trần Quỳnh Giang cho thấy một sự thay đổi táo bạo, mạnh
mẽ về ngôn ngữ đồ họa khắc gỗ cũng như quan niệm về nghệ thuật so với
khắc gỗ truyền thống trước đây. Không trang trí rườm rà, không tả kể chi tiết,
không nệ thực, không hướng về chủ đề phong cảnh, tĩnh vật hay lễ hội truyền
thống quen thuộc..., ngôn ngữ nghệ thuật của Lý Trần Quỳnh Giang là ngôn
ngữ biểu hiện pha các yếu tố siêu thực, tượng trưng, đầy tính sáng tạo mới lạ.
Sắp đặt: là loại hình mỹ thuật được nhiều tác giả lựa chọn hơn, có lẽ vì
ngôn ngữ và chất liệu của loại hình này đa dạng và dễ dàng để kể một câu
chuyện, dễ dàng tự sự hơn ở một dạng tổng hợp. Đã có khá nhiều tác phẩm
sắp đặt thể hiện đề tài này, trong số đó, tác giả thường xuyên được nhắc đến là
Lý Trần Quỳnh Giang và Himiko Nguyễn.
Triển lãm sắp đặt “Những cành mệt mỏi” (Hình 1.8) - là tên gọi những
tác phẩm khắc gỗ trong hình thức sắp đặt của nữ nghệ sĩ Lý Trần Quỳnh
Giang, trưng bày tại “Festival nghệ thuật trẻ đương đại 2007” tại Hà Nội.
Các phiến gỗ dài tựa như hình người được băng bó ở phần giữa, chỉ còn hở
27
hai đầu, nơi được khắc họa một cách tượng trưng những khuôn mặt và những
đôi bàn chân xương xẩu, ủ rũ. Thiên nhiên mệt mỏi, hay con người mệt mỏi,
hay cả hai đều mệt mỏi trong thế giới này? Ở đây, chị thể hiện chính mình,
thể hiện cái tôi, cái cá nhân cô đơn trong đời sống, dưới hình thức sắp đặt của
nghệ thuật đương đại. Hình tượng “người - cây” trong các tác phẩm của Lý
Trần Quỳnh Giang khắc khoải, ủ rũ, chịu nhiều thương tổn, bị đứt rời và chia
lìa thành từng bộ phận cơ thể trên các phiến gỗ. Sau đó các phiến gỗ được chị
sắp xếp lại, liên kết thành hàng, thành serie với nhau, tạo nên một loạt những
khuôn mặt, những bộ ngực, những tay chân đứt rời, trần trụi, lộ lên từng
đường gân, thớ thịt và được khắc họa bằng một ngôn ngữ rất mạnh biểu cảm,
trực tiếp, với các vệt khắc khi dầy khi mỏng, khi sâu khi nông. Những hình
tượng lặp đi lặp lại, có sức ám ảnh day dứt. Cảm giác thương vong, đau đớn
lan tỏa khắp nơi. Và khiến người xem tự hỏi cái gì khiến cho người và cây
đau đến mức như vậy? Mạnh biểu hiện, giàu tưởng tượng, giàu ẩn dụ, các tác
phẩm sắp đặt- khắc gỗ của Lý Trần Quỳnh Giang tác động lên tâm thức người
xem, đặt ra cho mỗi chúng ta muôn vàn những câu hỏi về đời sống nhân sinh,
đặc biệt là đời sống nào cho những người đồng tính.
Nghệ sĩ thị giác Nguyễn Kim Hoàng (Himiko. Nguyễn) đã tiếp cận đề
tài này bằng một loại hình tương tác qua triển lãm sắp đặt mang tên “Thế giới
đa nguyên” (Hình 1.9). Chuẩn bị trước trong vòng bốn tháng bằng việc lần
lượt viết lên những suy nghĩ, trao đổi, trò chuyện xoay quanh vấn đề này trên
blog được lập riêng cho dự án. Không tuyên ngôn, không ồn ào, không cổ
súy, chỉ đơn giản là đưa ra một nhận định như quan điểm của chị. Rằng với
quan điểm đồng tính là vi phạm thuần phong mỹ tục, là bệnh hoạn, là phản
cảm, con người vốn đã cô đơn, thì nỗi cô đơn phải tranh đấu giữa yêu thương
và trách nhiệm trong cuộc sống của những người đồng tính như bị lồng vào
thêm một chiếc lồng, giữa những quan điểm khắt khe, càng khiến họ nghẹt
thở hơn, và chẳng dám sống thật với chính bản ngã của mình. Những bức ảnh
28
trong tác phẩm sắp đặt của chị, là hình ảnh của rất nhiều người cùng giới nắm
tay nhau đi trên đường phố. Họ là ai, đồng tính hay dị tính? Không làm sao có
thể biết được, chỉ có thể nhận thấy đó là hình ảnh ấm áp yêu thương. Qua góc
nhìn của chị, đồng tính hay dị tính, cũng chỉ là một điều tự nhiên trong cuộc
sống, và thuộc về thế giới riêng của mỗi con người. Hàng trăm bức ảnh
được đính lên tường bằng đinh ghim, ở giữa là dấu gạch chéo đỏ, thêm
một tấm gương tròn có vạch ngang màu đỏ - khiến người xem cảm nhận
rằng tác giả ngầm cảnh báo về con đường làm người đồng tình rất nhiều
khó khăn, trăn trở.
Trình diễn: là một loại hình nghệ thuật đương đại được khá nhiều nghệ
sĩ trẻ lựa chọn để biểu đạt vấn đề đồng tính. Những tác phẩm này hầu như
được đầu tư về ý tưởng và hình thức thể hiện, tạo được dấu ấn mạnh mẽ đối
với công chúng thưởng thức. Sau tác phẩm trình diễn chủ đề đồng tính kết
hợp giữa Trương Tân và Minh Thành, thì hai nghệ sĩ được nhắc đến nhiều là
Himiko. Nguyễn và Nguyễn Quốc Thành.
Nghệ sĩ thị giác Nguyễn Kim Hoàng (Himiko. Nguyễn) chọn loại hình
nghệ thuật mới là nghệ thuật trình diễn để đi sâu vào thế giới thứ ba ở khía
cạnh tâm lí, tình cảm. Chị bắt đầu về đề tài trong chuyến đi tham dự “Festival
Performance Mùa Hè” giữa các nghệ sỹ châu Á và Trung Nam Mỹ qua 4
thành phố tại Nhật Bản. “Góc khuất yêu thương”, tên chủ đề trình diễn của
chị, nói về tình yêu sâu sắc thầm lặng của những tâm hồn đồng điệu nhưng
không thể có được hạnh phúc lứa đôi bởi những mặc định khắt khe trong xã
hội. Chị hoá thân với hình ảnh người con gái im lặng đắp mặt nạ bắng sáp
nóng lên mặt mình, ngồi cách một người con gái qua những ngọn nến và mặt
bàn, được hòa thành một qua cái bóng chiếu lên tường, với những dòng chữ
làm nền chạy suốt : “Tôi nhớ bàn tay Em, mềm và ấm”, “Tôi muốn ôm Em,
nhưng…” “Giá như Em là đàn ông!” “Em hãy đi đi, tôi không mang lại được
điều gì cho Em cả”, “Đành kiếp sau vậy”… xoáy lòng cảm giác người xem.
29
Chuyến đi qua bốn thành phố là bốn cuộc trình diễn về những xung đột nội
tâm, những dồn nén yêu thương, những quay quắt chối mình, được thôi thúc
thực hiện từ những quan sát lắng nghe về tình yêu đã tan vỡ của những người
bạn đồng giới.
Nghệ sĩ Nguyễn Quốc Thành cũng là một trong những gương mặt đại
diện cho nghệ thuật trình diễn về chủ đề đồng tính tiêu biểu với tác phẩm
trình diễn “Áo bạn thành áo tôi, áo tôi thành áo bạn (Your clothes become my
clothes become your clothes) (Hình 1.10). Sống và làm việc tại Hà Nội,
Nguyễn Quốc Thành hoạt động tích cực cho phong trào chia sẻ, cảm thông
với người đồng tính và tập trung khám phá tính thẩm mỹ của phong trào này
qua các lĩnh vực nghệ thuật như nhiếp ảnh, phê bình, trình diễn, thiết kế trang
phục và tổ chức sự kiện. Năm 2013, Quốc Thành sáng lập và tổ chức liên
hoan nghệ thuật Queer Forever – là không gian chia sẻ tình yêu, tri thức về
vấn đề đồng tính và văn hóa Việt Nam, hợp tác với các cá nhân, nhóm và tổ
chức để thực hiện chương trình gặp gỡ, nói chuyện nghệ thuật, chiếu phim và
triển lãm.Bên cạnh đó, Quốc Thành còn tham gia liên hoan nghệ thuật trình
diễn và triển lãm tại Việt Nam, Nhật Bản và Mỹ và là người đồng sáng lập
Nhà Sàn Collective – nhóm các nghệ sĩ độc lập tại Hà Nội.
Trong tác phẩm trình diễn “Áo bạn thành áo tôi, áo tôi thành áo bạn
(Your clothes become my clothes become your clothes), trình diễn tại Queer
Forever Festival 2013, Nguyễn Quốc Thành đứng trong không gian căn
phòng, che mắt bằng mảnh vải đen, sử dụng 8 áo tshirt trắng thêu tên bộ đội,
chỉ rút từ đồ cá nhân (áo lót, quần đùi, tất) của bộ đội. Thành thêu tên của bộ
đội lên áo đông xuân tshirt trắng. Ngoài ra, những sợi chỉ rút từ quân phục
chạy dọc theo đường dây điện, táo tạo lại không gian và kết nối các phòng
trưng bày với nhau.
30
Video art: Với Video art, có lẽ bởi nghệ sĩ hiện đại, đương đại Việt Nam
theo đuổi loại hình này cũng không có nhiều nên tác giả, tác phẩm biểu đạt
vấn đề đồng tính thuộc loại hình này.
Tiêu biểu là nghệ sĩ Nguyễn Tân Hoàng, là người Mỹ gốc Việt hiện
đang sống ở Bryn Mawr, Philadelphia, USA. Tác phẩm Video art "Một cái
nhìn từ đáy: nam tính người Mỹ gốc Á Châu và đại diện tình dục" của
Nguyễn Tân Hoàng được giới thiệu trong Queer Forever - là lễ hội nghệ thuật
về chủ đề đồng tính ở Việt Nam, kết nối nghệ thuật đương đại và văn hoá Việt
Nam với cảm giác kỳ diệu. Lễ hội diễn ra từ ngày 14 đến ngày 29 tháng 12
năm 2013 tại Hà Nội. Queer Forever giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật của
năm nghệ sĩ đương đại và một loạt các bài giảng và thảo luận xung quanh các
chủ đề về các vấn đề kỳ quặc và giới tính trong điện ảnh, văn học và nghệ
thuật thị giác. Mục tiêu của lễ hội là tạo ra các cuộc đối thoại và khuyến khích
tư duy phê bình về các chủ đề đa dạng về tính dục và các vấn đề văn hoá và xã
hội thông qua nghệ thuật và các cuộc đối thoại liên ngành giữa các nhà nghiên
cứu, các nhà hoạt động xã hội, các nghệ sỹ và nhà văn, các cộng đồng đa dạng
về giới và đặc biệt là những người thiểu số mại dâm và công chúng.
Tác phẩm Video art "Một cái nhìn từ đáy: nam tính người Mỹ gốc Á
Châu và đại diện tình dục" của Nguyễn Tân Hoàng đã mổ xẻ các hình thức
ham muốn trong bản sắc đồng tính nam trong khu vực châu Á, văn hoá hải
ngoại Việt Nam, và điện ảnh Đông Nam Á. Nguyễn Tân Hoàng tìm hiểu
những biểu trưng nam tính của người Mỹ gốc Á, khám phá mối liên quan
giữa nam tính, tình dục với chủng tộc, sắc tộc, giữa chữ viết, tên gọi và hình
ảnh được thể hiện trong hồ sơ tìm bạn trên các trang kết duyên trực tuyến.
Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu sáng tác về đề tài đồng tính
Để chọn ra những tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong lĩnh vực này thực tế
là một vấn đề khó khăn, bởi mỗi nghệ sĩ chọn lựa hướng đi này theo cách
riêng của mình. Có người chọn mỹ thuật để nói lên tiếng nói phản biện xã hội
31
với góc nhìn từ phía người trong cuộc, thuộc cộng đồng LGBT. Có người chỉ
đơn thuần chọn nghệ thuật để nói lên cảm xúc, tình cảm, khát khao yêu và
được yêu của mình. Có tác giả thì không thuộc thế giới thứ ba này nhưng lại
có sự đồng cảm và chia sẻ với cộng đồng LGBT, muốn dùng hội họa để bảo
vệ cộng đồng này trước sự kỳ thị, phân biệt trong xã hội…
Với dân Mỹ thuật, hình như, đây là một đề tài nhạy cảm và ít khi được
các họa sĩ xem là một đề tài sáng tác bình đẳng. Tại Festival nghệ sĩ trẻ toàn
quốc năm 2007 tại Hà Nội, bức tranh khắc gỗ miêu tả hai người phụ nữ khỏa
thân của nữ họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang bị tháo dỡ trước giờ khai mạc với lý
do bức tranh thể hiện vấn đề đồng giới có biểu hiện vi phạm thuần phong mỹ
tục. Đề tài này, trước đây, trong mỹ thuật cũng ít được thể hiện. Nhưng hiện
nay, cũng có nhiều họa sĩ trẻ thoát ra khỏi những lo ngại đó đã theo đuổi và
sáng tác về đề tài đồng tính trong một khoảng thời gian dài… Dưới đây, tôi
xin được trình bày về một số nghệ sĩ và các tác phẩm của họ mà đứng trên
quan điểm cá nhân, tôi thấy họ là những nghệ sĩ tiêu biểu trong hướng sáng
tác này:
Trương Tân (Hình 2.1) là một họa sĩ thường được nhắc đến đầu tiên,
công khai biểu đạt vấn đề đồng tính trong các tác phẩm hội họa của mình.
Anh sinh năm 1963 tại Hà Nội, Việt Nam. Anh tốt nghiệp trường nghệ thuật
Hà Nội vào năm 1982 và trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội năm 1989. Anh là
giảng viên tại trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội từ 1989 tới 1997 trước khi trở
thành một nghệ sĩ toàn thời gian. Thông qua hội họa, vẽ, nghệ thuật trình
diễn, nghệ thuật sắp đặt, điêu khắc và gốm sứ, Trương Tân thách thức những
quy ước xã hội và nghiên cứu các chủ đề về bản sắc và tự do ngôn luận. Một
người tiên phong trong lĩnh vực sơn mài, trình diễn, các tác phẩm của anh
xoay quanh sự bó buộc, bị đàn áp của các cá nhân trong văn hóa truyền thống
Việt. Có lẽ vì anh là nghệ sĩ công khai đồng tính đầu tiên của Việt Nam, anh
đã mở cửa cho các nghệ sĩ sau này thảo luận về các quan niệm về tình dục
32
trong nghệ thuật. Trương Tân từng mô tả tình yêu đồng giới từ hai thập kỷ
trước, nhưng không có dịp trưng bày. Anh chỉ công bố những bức khỏa thân
nam giới vẽ với chất liệu màu nước trên giấy dó và bìa. Sau này, anh thể hiện
nhiều hơn trên chất liệu sơn mài với những gam màu truyền thống và thể hiện
vấn đề đồng tính một cách tự nhiên, bình dị như những đề tài khác trong đời
sống, không bị lên gân hay cường điệu.
Đề tài này thấp thoáng đâu đó qua những bức tranh khắc gỗ của Lý
Trần Quỳnh Giang (Hình 2.13). Bức tranh Bà ta của nữ họa sĩ Lý Trần quỳnh
Giang, đã bị loại khỏi festival nghệ sĩ trẻ toàn quốc, là tiền đề gây xôn xao
trong buổi hội thảo. Đề tài này nằm trong loạt 20 bộ tranh khắc gỗ được trưng
bày sau đó trong triển lãm cá nhân mang tên “Giang” tại L’ Espace. Loạt
tranh được đánh giá cao trong giới phê bình Mỹ Thuật, mà thông qua nó, Lý
Trần quỳnh Giang đã đoạt giải thưởng nghệ sĩ trẻ của năm 2007 của quỹ
Vietnam Foundation for the Arts. Chị đã mất gần hai năm để hoàn thành loạt
tranh khắc này.
Bản thân Giang không khẳng định đồng tính là đề tài chủ đạo, nhưng,
có thể nhìn thấy thấp thoáng những thân phận con người thuộc về thế giới thứ
3 trong những tác phẩm của chị. Đó là sự cô đơn xuyên suốt bao trùm những
bức tranh toàn đàn ông hoặc toàn đàn bà; đó là sự chế giễu, phản kháng, tẩy
chay những đám đông soi mói chỉ chực đưa những cặp mắt cú vọ chòng chọc
vào cuộc sống riêng tư của mỗi con người; đó là những bàn chân, bàn tay vô
tính được khắc họa run rẩy, được che kín trong những tấm áo; đó là những
gương mặt toàn đàn ông mệt mỏi trầm uất, rồi những gương mặt được quấn
băng kín mít, chỉ lộ ra những con mắt đau đáu yêu thương; đó là, những bộ
phận cơ thể phụ nữ run rẩy nén mình… Là toàn bộ thế giới nội tâm cô đơn
dằn xé, mâu thuẫn đến run rẩy của những thân phận con người… Qua đó, có
thể nhận thấy sự khắc họa về một thế giới khác lặng lẽ âm thầm, không quan
tâm đến những định kiến, như nụ cười nhẹ bất cần của cô khi tháo dỡ bức
33
tranh khắc hai người phụ nữ đã bị loại bỏ khỏi festival nghệ sĩ trẻ. Tạo
nên một thế chông chênh cho hai bức tranh còn lại trong bộ “những cành
mệt mỏi”.
Táo bạo và trực diện trong những bức tranh tạo hình của họa sĩ trẻ
Trương Tiến Trà (Hình 2.26). Triển lãm về đồng tính của Trà là một ý tưởng
được xây dựng trong ba năm. Anh xem dự án này như là một thử nghiệm, là
một thử thách nghề nghiệp đối với mình. Lần đầu tiên anh mang ý tưởng từ
Nga về và thể hiện tác phẩm tại Việt Nam. Du học ở Nga, Trương Tiến Trà đã
nhiều lần chứng kiến các cặp đồng tính yêu nhau với những tình yêu đẹp và tự
do. Đến với anh thật đơn giản trong ý nghĩ đó là tình yêu. Và anh muốn thể
hiện lại bằng ngôn ngữ tạo hình. Chọn lần một như những thử nghiệm bước
đầu chỉ đề cập đến tính chất thuần túy là các cặp đồng tình ôm ấp nhau qua
các cử chỉ tình cảm. Triển lãm lần hai vào tháng 8 năm 2007, anh đã mạnh
dạn hơn và đưa đến một mô tuýp mới về cách diễn đạt. Họa sĩ chọn kích
thước tranh khổ dài và hẹp để tạo nên một tình yêu kín đáo, trong đó, xuyên
suốt là vấn đề tình dục. Tác giả nghiêng về biểu hiện xu hướng xác thịt của
giới đồng tính vì anh cho rằng cơ thể con người là lối tạo hình đẹp nhất, và
anh chọn tiếng nói đó. Mỗi một tác phẩm tác giả đặt vấn đề về lối diễn đạt
hình hài như một tiếng nói về tình yêu và cử chỉ âu yếm của mỗi cặp đồng
tính. Không gian chật hẹp tạo nên sức nóng bằng những mảng màu được đan
xen tương phản mạnh, tăng thêm sức lôi cuốn mạnh mẽ đam mê. Cặp đồng
tính nam hay nữ đều được thể hiện rõ nét bằng những mảng màu nóng lạnh
trên cơ thể của từng người. Tác giả đặt vấn đề nét và màu sắc là ngôn ngữ
chính. Những chấm màu những đường contua chạy đều không ngừng nối và
đan vào nhau tạo thành một khối, chuyển tải những nụ hôn, những vòng tay
âu yếm, vuốt ve làm mềm cơ thể. Những mạch máu hằn rõ, những gam màu
nóng lạnh thể hiện sự khao khát cảm xúc yêu đương.
34
Cách thể hiện táo bạo và dứt khoát của Trương Tiến Trà đã gây một cú
shock nhẹ đối với người xem trong lần ra mắt ở Himiko visual saloon tại
thành phố Hồ Chí Minh. Ngay cả với những người trong thế giới thứ ba, thì
hình ảnh được ra trần trụi về xác thịt, khiến họ bối rối và phản ứng. Nhưng,
bản thân tác giả tự tin với cách thể hiện táo bạo trên, mà qua đó, anh vượt qua
khái niệm đạo đức cũ xưa, đưa đề tài đồng giới vào sự khai thác bình đẳng với
mọi chủ đề khác. Mỗi bức tranh dường như là một sự tuyên ngôn về giới tính
và tình dục đến khi họ yêu nhau thì đấy là chuyện đương nhiên. Phạm trù đạo
đức nó là thuần phong mỹ tục, nhưng ở đây nó là quy luật của tạo hóa. Ở đây,
tác giả muốn đặt vấn đề trong tác phẩm của mình nêu đúng điều tinh thần giá
trị cần nêu. Theo anh, tình yêu đồng tính nó là vấn đề tự nhiên. Đề tài tình yêu
đồng tính, thân xác và nhục dục là những vấn đề của đời sống đô thị hiện nay.
Sự biến đổi về nhu cầu thể xác đang tăng lên mãnh liệt, và tình dục hướng đến
những suy nghĩ không tưởng, tạo nên một làn sóng biến đổi mãnh liệt trong
xã hội con người.
Thế giới thứ ba vốn là một đề tài nhạy cảm được khai thác gây sốc câu
khách trong lĩnh vực khác như báo chí, điện ảnh và tiểu thuyết đã không bị
phiến diện qua cách thể hiện tác phẩm của các tác giả kể trên. Dù táo bạo hay
lặng lẽ hay day dứt, ở góc độ nào đi nữa, các tác giả cũng chỉ nói lên một
quan điểm cá nhân, qua đó, đặt người xem phải đối diện với những suy nghĩ,
nhìn nhận về một thế giới thứ ba vẫn đang tồn tại song song như một điều
hiển nhiên không thể xóa bỏ của tạo hóa, và tự có nhận định riêng mình.
Tiểu kết chương 1
Vấn đề đồng tính là một vấn đề mang tính phổ quát trên thế giới và
cũng là một vấn đề mang tính thời sự ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đồng
tính mang tính chất nhạy cảm nên đối tượng này phản ánh trong mỹ thuật
được lựa chọn ở nhiều cấp độ tùy theo cách lựa chọn của mỗi nghệ sĩ. Trong
chương 1, tôi đã đưa ra những khái niệm liên quan đến vấn đề đồng tính, giải
35
quyết những vấn đề về lý luận của hội họa Việt Nam hiện đại, những nghệ sĩ
Việt Nam tiêu biểu chọn thể hiện về đề tài đồng tính để làm tiền đề cho những
phần sẽ được viết nối tiếp trong chương 2: vấn đề đồng tính được giải quyết
trong hội họa Việt Nam hiện đại như thế nào.
36
Chương 2
NGHIÊN CỨU NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH
TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
2.1. Biểu hiện vấn đề đồng tính trong nội dung tác phẩm
Đồng tính là một bộ phận tất yếu của xã hội loài người. Song do sự trái
tự nhiên của nó, theo quan niệm chung phổ biến cổ kim đông tây, kiểu tình
yêu này đã và đang bị kỳ thị và đối xử bất công. Cuộc đấu tranh cho bình
đẳng và tự do của đồng tính vẫn không ngừng được tiến hành đầy quyết tâm
và bền bỉ. Trong cuộc đấu tranh này, nghệ thuật đóng vai trò ngày càng nổi
bật. Với hội họa Việt Nam hiện đại, vấn đề đồng tính được biểu hiện với
nhiều hình thái khác nhau, thể hiện sự đa dạng về ngôn ngữ và hình thức biểu
cảm. Trong luận văn của mình, tôi lựa chọn một vài biểu hiện tiêu biểu mà
các nghệ sĩ Việt Nam đã sử dụng để truyền tải về vấn đề đồng tính gồm: Biểu
hiện về sự cô độc, biểu hiện về sự khép kín, biểu hiện về sự khao khát.
Biểu hiện về sự cô độc
Cô độc là một trạng thái tâm lý của con người, nó khác với cô đơn. Sự cô
độc thường gây ra bởi nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do hoàn cảnh sống khiến
con người trở nên mặc cảm, tự ti, rồi họ thấy buồn chán, đơn độc. Nguyên do
thứ hai là do hoàn cảnh bên ngoài tạo cho con người cảm giác bất lực, chán
nản, thất vọng và thấy cô độc. Một dạng cô độc nữa là do sốc về tình cảm…
Tuy cùng là tâm lý con người với một vài biểu hiện kể ở trên nhưng sự
cô độc được biểu hiện trong tranh vẽ về chủ đề đồng tính mang một đặc điểm
khác. Chúng thường mang đậm dấu ấn đời sống cá nhân của tác giả, nhưng
đồng thời cũng là một tiếng nói mạnh mẽ xoáy thẳng vào những định kiến xã
hội khắc nghiệt. Những người đồng tính với lối sống tách biệt để tìm sự bình
yên, sống với những vui buồn và nuôi dưỡng tình yêu của mình, mặc cho định
kiến của người đời dành cho tình yêu đồng giới.
37
Sự cô độc có lẽ được thể hiện rõ nhất trong triển lãm tranh “Này, ốm
à?” (Hình 2.17, 2.18) là tên gọi triển lãm tranh sơn dầu của nữ họa sĩ trẻ Lý
Trần Quỳnh Giang với 25 bức tranh trong triển lãm đều lấy hình tượng đặc
trưng là những con cú trong nhiều trạng thái. Khác với những tác phẩm khắc
gỗ mô tả trạng thái vô cảm của một đám đông, loạt tranh lần này nhấn mạnh
sự trôi dạt và lặng lẽ của một cá thể trước sự hỗn tạp của thời cuộc. Dưới một
hình thức thể hiện khác: tranh sơn dầu ngắm nhìn các tác phẩm của cô, người
xem đều cảm thấy một nỗi buồn, một nỗi cô đơn nhất quán. Màu sắc chủ đạo
trong một loạt các tranh sơn dầu được trưng bày tại không gian triển lãm có gì
đó u tối, sầu muộn lẩn khuất được tạo nên bởi gam màu nâu, xanh đen, xanh
lục thẫm… Nỗi buồn luôn ám ảnh trong các tác phẩm Lý Trần Quỳnh Giang,
dường như nó là cái tự nhiên, bản năng ăn sâu, tự thẩm thấu vào. Có lẽ, một
phần bị chi phối bởi cá tính bên trong con người: thích sống lặng lẽ và ẩn
mình. Cô đơn khiến chị cảm thấy thoải mái, đặc biệt trong việc sáng tác.
Những người ta gọi là “bản lĩnh”, là “mạnh mẽ” thường thấy trong
cuộc sống thường là những người “ăn to nói lớn”, “ăn sóng nói gió”, cương
quyết, dứt khoát, yêu ghét phân minh, đôi khi cực đoan, cá tính rõ, bất kể đấy
là đàn bà hay đàn ông. Giang không phải típ người như vậy, đối với vẻ bên
ngoài, với mọi người, hình như Giang luôn cố giữ một cách ứng xử cho phải
phép nhất, để rồi cô “bùng” ra những cái riêng ở trong tác phẩm của mình. Và
cô cũng “tự xử lý’ chính mình trong tác phẩm là chủ yếu – cô vẽ hầu hết là
chân dung tự họa dưới mọi dạng vẻ. Với tranh khắc gỗ, thường khắc trực tiếp
trên gỗ và không in ra. Xem tranh Giang, người ta có cảm giác chung là buồn
và “dị”.
Bước vào khám phá thế giới kỳ lạ và đầy bí ẩn, u hoài mạnh mẽ, đầy
nghệ thuật của một trong những nghệ sĩ trẻ tài năng. Ẩn dật bởi nơi trú ẩn
riêng tư rất tự nhiên của Giang là sự táo bạo không chút bối rối cùng với sự
hồi tưởng trong im lặng. Không e ngại trước những phức tạp cuộc sống,
38
Giang phủ đầy những nhập nhằng màu xám mà những người khác ít dũng
cảm trốn chạy. Chọn cho mình phong cách biểu hiện, những biểu hiện của cô
chở nặng cảm xúc của chính mình, không lẫn lộn. Những hình người gầy
mảnh, vặn vẹo trong kiếm tìm điều gì đó không rõ, nhưng chắc chắn không
phải sự lụy vật chất. Đôi mắt to mở toáng toàng, hướng ra phía trước nhưng
không hướng về người đối diện và dõi vào mênh mông. Những con cú - một
hình ảnh lặp đi lặp lại trong sáng tác của Giang - mang khuôn mặt của người
thông tuệ, nhìn thấy hết, cảm được trọn. Nhưng biết hết để buồn, buồn lại chỉ
để ngưng đọng. Vì thế, tranh của Giang không có nỗi buồn ảo não. Đó là nỗi
buồn của sự không thể cưỡng nổi đời sống, không thể cưỡng nổi quy luật -
thứ nỗi buồn của người biết là mình mỏng manh mà vẫn giữ đúng bản ngã. Cả
ở tranh và đời, Giang luôn lặng lẽ như trôi trong một thế giới riêng biệt. Nếu
bắt chuyện Giang sẽ thấy ngại hỏi nhiều, không phải vì cô không trả lời.
Nhưng những câu nhã nhặn được nói bằng làn hơi nhẹ nhàng khiến người hỏi
phải ngại bởi tưởng cô vừa ốm dậy, chẳng nên bắt Giang phải nói tiếp.
Biểu hiện về sự khép kín
Khép kín là một trạng thái tâm lý của con người không muốn chia sẻ tâm
tư, tình cảm, suy nghĩ cá nhân đối với mọi người xung quanh. Họ có thể bị
người khác đánh giá là sống lạnh lùng, không chịu chia sẻ hoặc chính bản
thân người sống khép kín cố tình tạo nên một sự xa cách của bản thân đối với
những người xung quanh, sống trong thế giới riêng của mình. Với những
nghệ sĩ biểu đạt vấn đề đồng tính biểu hiện qua sự khép kín, họ dùng khá
nhiều hình thức khác nhau. Tác phẩm của họ chủ yếu thể hiện một trạng thái
phức tạp về tâm lý, sự giằng xé trong suy nghĩ cá nhân mà không cất lên tiếng
nói cụ thể nào mang tính chất phản biện xã hội, hoặc có thể hàm chứa điều
này mà không nằm trong chủ ý của tác giả.
Phản ánh rõ nét có lẽ ở triển lãm có tên “Nhập nhằng” - triển lãm hội
họa cá nhân đầu tiên của họa sỹ Phạm Tuấn Tú với 40 bức tranh xuyên suốt
39
những năm hoạt động nghệ thuật của nghệ sỹ từ 2008 đều phản ánh một trạng
thái mơ hồ, không rõ ràng, nửa nọ nửa kia. Những tác phẩm nghệ thuật của
họa sỹ Phạm Tuấn Tú (Hình 2.20-2.25) đều mang sắc xám lạnh lẽo, trong đó
nhân vật rất khó phân định giới tính. Tuy nhiên, dựa theo tên tranh, người
xem có thể nhận diện được nhân vật trong tranh mà tác giả vẽ là đàn ông và
đàn bà đồng tính, nhưng theo cách mà họ được miêu tả, họ thực sự là những
người chuyển giới, “một người có vẻ ngoài hoặc nỗ lực để trở thành thành
viên của giới tính đối lập, như là một người chuyển giới hoặc người ăn vận
kiểu lai giống theo thói quen”. Những người chuyển giới có thể tự nhận diện
họ là người khác giới, đồng tính, lưỡng tính, đa giới tính, liên giới tính và có
khi là vô tính. Những quy ước vốn có về giới tính có thể là không thỏa đáng
hoặc không thích hợp với những con người này. Chẳng hạn, như trong bức
Gay (đồng tính nam) (Hình 2.23), ta thấy có hình một người đàn ông ăn vận
khác giới, áo nịt ngực và váy. Hình ảnh trong bức tranh Ô môi (đồng tính nữ)
(Hình 2.22), ta lại thấy hình dạng thân thể một người đàn bà song cái đầu trọc
và những nét vẽ gợi hình bộ ria quanh mép, nơi cằm lại ám chỉ đây là nhân
vật chuyển giới. Có thể, mục đích của Tú là đẩy người xem vào một sự lúng
túng, ép họ phải bỏ đi cái nhìn rập khuôn thông thường về những người đồng
tính, đồng thời đương đầu với sự phức tạp liên quan đến giới tính của những
con người này... Loạt tác phẩm cho thấy anh đã tiết chế bảng màu đến tối đa.
Với những gam màu xám, nâu xám và vàng mờ (mờ vàng), anh đã tạo nên
một nền tranh mang tính trang trí kiểu thời trung cổ cho những ý đồ thật
riêng tư và giàu tình cảm của mình. Nền tranh giản dị đó không làm lãng đi
đặc tính giàu biểu cảm của tranh. Người xem có thể thấy cũng một gương
mặt song không thể nói rằng nó là một hình ảnh có tính chất tuần hoàn.
Trong từng sáng tác, nó thể hiện những cảm xúc khác nhau: từ thư giãn, mơ
mộng đến sợ hãi, ám ảnh. Cho nên, có thể nói, tuy khám phá chủ đề về đồng
40
tính và sự chuyển giới, tác giả này đã không che đậy thế giới bên trong phức
tạp của con người.
Một sự thể hiện mang tính chất khép kín được vẽ bởi nghệ sĩ trẻ Gabby
Quỳnh Anh Miller và các tác phẩm bởi Queer Forever Festival, 2013. Ví dụ
như tác phẩm Kelly Lovemonster, xê-ri Significant Others, tranh lụa của
Gabby Quỳnh Anh Miller, 2013 (Hình 2.34). Những khám phá sáng tạo của
Gabby chú trọng về sự tồn tại trong hiện tại của con người ở những thời điểm
và vị trí khác nhau – cũng giống như việc mẹ của chị được sinh ra ở Việt Nam
còn chị được sinh ra và sống ở đất Mỹ. Thường xuyên sử dụng cơ thể của
chính mình làm tác phẩm, chị sáng tạo nên một ngôn ngữ hình ảnh riêng
thông qua những tác phẩm điêu khắc, nhiếp ảnh, nghệ thuật trình diễn và
video art theo lối sáng tác của nghệ thuật vị niệm. Tác phẩm của chị miêu tả
việc chúng ta chuyển thể những thói quen và những dấu hiệu biểu trưng của
bản ngã xuyên suốt qua những biên giới của văn hoá trong thời kỳ toàn cầu
hoá. Nội dung của những tác phẩm này là về những cộng đồng đồng tính ở
vùng San Francisco nước Mỹ nói riêng và của khu vực Đông Nam Á nói
chung. Chị không muốn “dán nhãn” cho mình, rằng chị chỉ cần được coi là
một người không thuộc số đông dị tính trong xã hội. Tác phẩm Kelly
Lovemonster, xê-ri Significant Others, tranh lụa của Gabby Quỳnh Anh
Miller, 2013 miêu tả chân dung chị trong hình ảnh của một người đàn ông
lặng lẽ.
Biểu hiện về sự khao khát
Là con người, ai cũng có những ước mơ, khao khát về cuộc sống của
mình ngày một tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Và đó là một điều bình thường,
một điều tất nhiên đối với mỗi người. Tuy nhiên, một người bình thường, khi
thể hiện niềm mong mỏi trong tình yêu là những giây phút lãng mạn, những
niềm vui hạnh phúc gia đình, đời sống ngày một khấm khá về kinh tế… Nói
chung, ước vọng và khao khát của con người trong cuộc sống đời thường vô
41
cùng đa dạng. Với những người đồng tính, sự khao khát của họ dường như tập
trung cả về tình yêu. Họ mơ sao tình yêu đồng giới của họ được coi như bình
thường như tình yêu khác giới. Họ khao khát niềm hân hoan, sung sướng
trong tình dục đồng giới của họ được coi là điều đương nhiên, khao khát đối
tác của họ mang đến cho họ sự sung sướng tột đỉnh…
Một trong những đại diện cho xu hướng này là những tác phẩm của nghệ
sĩ Trương Tân, anh là một họa sĩ giá vẽ, cũng là một nghệ sĩ trình diễn khá
thành công và quan trọng trong giai đoạn “hậu đổi mới” nghệ thuật (thập niên
1990) tại Việt Nam. Phong cách nghệ thuật của Trương Tân đặc sắc với việc
anh đã sử dụng những chi tiết sinh động, cụ thể của bản thân để tạo ra tác
phẩm với sự truyền đạt ý tưởng một cách phổ quát, liên quan đến sự phức tạp
trong các mối quan hệ của con người. Được xem là một trong những nghệ sĩ
tiên phong dám chia sẻ, bênh vực vấn đề đồng tính tại Việt Nam. Trương Tân
sinh năm 1963 và tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội, nơi sau đó anh là một
giảng viên. Sau khi chuyển đến Paris theo chương trình lưu trú sáng tác Cite’
Internationale des Artes, Trương Tân liên tục tham dự các triển lãm lưỡng
niên tại châu Âu và châu Á. Và trở thành một trong những nghệ sĩ Việt Nam
được bảo tàng Nghệ thuật châu Á Fukuoka (Nhật Bản), phòng tranh
Queensland (Úc) và Bảo tàng Singapore theo dõi, sưu tập tác phẩm. Triển lãm
Mình nói chuyện gì khi mình nói chuyện tình tại gallery Bùi (23, Ngô Văn Sở
- Hà Nội đến 15-11) đánh dấu sự trở lại của Trương Tân ở Việt Nam kể từ
2007. Là nghệ sĩ hoạt động giữa Paris và Hà Nội, Trương Tân hoàn toàn cởi
mở về giới tính của bản thân. Năm 1995, tranh của anh từng bị cấm vì vẽ về
sex quá nhiều, quá mạnh. 20 tranh sơn mài trong triển lãm Làm sao hóa thiên
thần thể hiện rõ sự lãng mạn và mạnh mẽ trong các câu chuyện đồng tính. Có
thể xem triển lãm Làm sao hóa thiên thần (Hình 2.3) là một trường hợp riêng
lẻ đứng ra biện minh và bênh vực cho những người đồng tính nam. Hiện nay,
đa số những người đồng tính, ở khắp nơi trên thế giới đã và đang có cuộc
42
sống thật bình thường. Và tất nhiên, cũng còn một số khác vẫn bị đẩy ra ngoài
lề xã hội, hoặc bị khinh thường tại một số nước chậm phát triển, hoặc vì
những lý do khác như tôn giáo chẳng hạn. Ở Việt Nam hiện nay thì cũng có
những nghệ sĩ đồng tính khác làm về đề tài này. Trương Tân đã làm, để nói
điều biện minh và bênh vực cho bản thân, hay cho những người “gay”, cách
đây từ rất lâu. Cuộc triển lãm này là một hành trình tiếp nối các nhu cầu nội
tại. Trước tất cả những suy nghĩ về bản tính con người, là hình bóng những
người đàn ông như múa lượn, như phô bày thân thể đẹp đẽ, trong những thiên
nhiên êm ái đến kỳ lạ, thật là những khung cảnh yên bình.
Sự khao khát có lẽ bộc lộ rõ ràng ở những tác phẩm sơn dầu trong triển
lãm “Sự thật méo mó”(Hình 2.27-2.33) của họa sĩ Trương Tiến Trà. Anh có
sự đồng cảm trong nghệ thuật với vấn đề này bắt đầu từ những người đồng
tính chơi với Trà, qua cuộc sống, số phận, và những yêu buồn giận hờn trong
tình yêu của họ, Trà đã chọn đề tài rất khó để thể hiện của cộng đồng này, đó
là tình yêu. Những bóng hình quyện chặt vào nhau, quyết liệt, dữ dội. Nó
không có những nét tinh tế tỉ mỉ mà toát lên ở những nét quấn quýt thô
mộc, độ nóng bỏng, rừng rực sức sống của những người yêu nhau.
“Yêu người cùng giới”(Hình 2.36-2.38) là triển lãm diễn tả trực diện các
cung bậc tình yêu của người đồng tính nam được thể hiện bởi họa sĩ Dương
Xuân Quyền. Những khao khát tình yêu được thể hiện bởi hơn 20 bức nam
giới khỏa thân và yêu nhau tại nhà triển lãm của Hội Mỹ thuật tại Hà Nội.
Tuy nhiên, 3 bức mô tả hơi kỹ cảnh phòng the sau ngày khai mạc đã được đề
nghị dỡ xuống. Quyền bắt đầu theo đề tài đồng tính từ bảy năm trước. Anh
gửi 2 bức cùng tên Yêu tham gia triển lãm Trẻ 2011 tại Hà Nội nhưng không
được treo. Anh sử dụng chất liệu khắc gỗ in lên giấy đen. Rồi tô màu lên các
hình trang trí. Các thân người đều được phủ kín họa tiết thành ra tuy khỏa
thân mà cũng như mặc quần áo. Quyền chọn các họa tiết từ lông công, cánh
bướm… vẽ lên nhân vật. Theo anh: “Vẻ đẹp công phượng hay được ví cho
43
phụ nữ. Gay bên ngoài mạnh mẽ nhưng cũng có đôi chút yếu mềm ủy mị-
hình tượng công nói điều đó. Bướm biểu tượng cho sự giỡn đùa, không chắc
chắn. Tình yêu đồng giới không có sự liên kết chặt chẽ. Một lúc nào đó sẽ bỏ
nhau, như bướm lột xác từ sâu...”. Một mô típ trang trí nữa mà Quyền theo
đuổi cũng 7 năm nay là họ nhà khoai môn, dọc mùng “Mọc nơi ẩm thấp bẩn
thỉu vẫn tươi tốt vươn lên nở hoa nhưng không được người ta trân trọng,
không ai biết đến”. Hình tượng khoai môn cũng xuất hiện nhiều trong triển
lãm “Yêu người cùng giới”. Đồng tính là người bình thường, do xu hướng
tình dục, phải che giấu. Đôi khi người ta yếu đuối, mềm lòng nhưng vẫn vươn
lên trong cuộc sống, đạt được thành công. Anh mượn hình tượng cây khoai
môn để nói lên chủ đề của mình.
2.2. Biểu hiện vấn đề đồng tính trong hình thức nghệ thuật
Biểu hiện qua bố cục, màu sắc
Trong các ngành nghệ thuật tạo hình như hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc…
các nghệ sĩ thường áp dụng những nguyên tắc bố cục để sắp xếp chủ thể vào
đúng vị trí vừa mắt với người xem. Bố cục là sắp xếp các phần khác nhau sao
cho chúng sao gắn kết với nhau thành một thể thống nhất theo một ý tưởng
nào đó. Trong nghệ thuật tạo hình, bố cục là cách xây dựng tác phẩm để làm
sao truyền đạt ý đồ nghệ thuật một cách trong sáng và thuyết phục nhất. Điều
quan trọng nhất trong bố cục là việc tạo nên hình tượng nghệ thuật. Các kiệt
tác của nhiều thời đại khác nhau, được vẽ theo nhiều phong cách khác nhau,
nhưng đều làm chúng ta kinh ngạc và nhớ mãi đa phần cũng là nhờ bố cục rõ
ràng, thuyết phục.
Với các tác phẩm hội họa thể hiện đề tài đồng tính thì các tác giả tìm bố
cục của tranh với nhiều thủ pháp khác nhau. Một trong số đó là cách tạo bố
cục qua các đường nét kết nối, như đường ngang, đường dọc, đường xiên góc.
Bố cục có thể chỉ đơn giản là các đường dọc của cơ thể người, tư thế người
đứng, hay các đường ngang như chân trời, tư thế nằm, mắt người, nếp váy
44
áo… Những đường ngang dọc tự nhiên được họa sĩ cố ý nhấn mạnh qua cách
dùng màu để tạo sự cân bằng, hay hài hòa cho bức tranh. Họa sĩ thường tạo ra
nhịp điệu cho bố cục bằng mối quan hệ qua lại giữa nhân vật chính và nền,
đặc biệt là khi nền đơn giản, tạo cho mắt người xem có cảm giác va đập, hay
dao động trong không gian giữa các chủ thể, theo nhịp điệu. Tiêu biểu cho lối
bố cục này là các tác phẩm của nghệ sĩ Trương Tân và Trương Tiến Trà.
Trương Tân là nghệ sĩ công khai đồng tính đầu tiên của Việt Nam, anh
đã mở cửa cho các nghệ sĩ sau này thảo luận về các quan niệm về tình dục
trong nghệ thuật. Một số tác phẩm thú vị nhất của Trương Tân cho đến nay là
những gì anh thể hiện với chất liệu sơn mài, nơi ông thử thách thẩm mỹ
truyền thống, bằng cách giới thiệu các hình tượng gợi nhớ tới nghệ thuật
đường phố ở New York trong năm 1980 và năm 1990.
Triển lãm Làm sao hóa thiên thần (How to be an Angel) của Trương
Tân khai mạc ngày 19/6 tại phòng tranh Thavibu ở Bangkok, Thái Lan, xoáy
vào vấn đề đồng tính nam theo phong cách Pop art. 20 tác phẩm sơn mài bay
bổng và mạnh mẽ lần này là kết quả làm việc trong mấy năm qua và là triển
lãm cá nhân sau 5 năm của họa sĩ. Điều thay đổi lớn nhất trong phong cách
nghệ thuật của Trương Tân là anh đã sử dụng những chi tiết sinh động, cụ thể
của bản thân để tạo ra tác phẩm với sự truyền đạt ý tưởng một cách phổ quát,
liên quan đến sự phức tạp trong các mối quan hệ của con người.
Ở những tác phẩm Spread The Love (Hình 2.2), How to be an Angel
(Hình 2.3) Giấc mơ đỏ (Hình 2.6)… tác giả đều tạo bố cục qua hình thể nhân
vật tạo thành đường ngang, đường dọc, đường xiên góc… để tạo sự cân bằng
cho bức tranh. Anh tạo ra nhịp điệu cho bố cục bằng mối quan hệ qua lại giữa
nhân vật chính và nền, đặc biệt là nền vô cùng đơn giản, tạo cho mắt người
xem có cảm giác va đập, hay dao động trong không gian giữa các hình ảnh cơ
thể người xoay ngang, xoay dọc, xoay nghiêng theo nhịp điệu. Xu thế bố cục
này được nghệ sĩ sử dụng trong hầu hết những tác phẩm của anh khi thể hiện
45
các cơ thể nam khoả thân thay bố cục ngang - dọc bằng những đường cong và
góc cạnh. Qua sử dụng màu sắc mang cá tính có thể ấm nóng, hay lạnh, họa sĩ
tạo ra chiều sâu cho mặt phẳng tranh vốn chỉ là hai chiều. Anh sắp đặt chủ thể
theo lối bất cân xứng mà người xem thoạt đầu có thể coi là lộn xộn, nhưng
nhìn kỹ sẽ phát hiện ra trật tự riêng của bố cục. Và có những tranh được xếp
bố cục theo lối ngẫu hứng, nhưng không tùy tiện vì tuân theo một trật tự sắp
đặt riêng biệt của người họa sĩ.
Với chủ đề đồng tính, có thể nói vẫn còn “đặc biệt” ở Việt Nam, điều
khó khăn cho các nghệ sĩ có lẽ không nằm ở phương cách thực hiện tác phẩm,
mà ở chỗ họ phải suy tư thật sâu sắc để chọn được cho mình một cách tiếp
cận riêng nếu không muốn tác phẩm trở nên chỉ là những lời than thương hời
hợt - hoặc tệ hơn, sự sử dụng đề tài một cách vụ lợi. Nghệ sĩ Trương Tiến Trà
dường như cũng đã tìm ra một cách tiếp cận của riêng bản thân qua hình thức
bố cục đặc biệt. Anh đã không đề cập tới chủ đề này bằng những hình ảnh gây
sốc hoặc các thông điệp giới tính cũng như tình cảm nội tâm tường minh, mà
chỉ coi nó như một chủ đề tạo hình bình đẳng với mọi chủ đề tạo hình “công
khai” khác. Anh đã tiếp cận với đề tài đồng tính ở khía cạnh tạo hình đơn
thuần - cấp cho nó một vị thế bình đẳng như mọi dạng đề tài hội họa lâu nay
được ưu đãi trên bề mặt chung của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Bằng những
gam màu và nghệ thuật tạo hình, anh đã khắc họa nên tình yêu rất đẹp giữa
hai người đồng giới chứ không phải là những dục vọng bệnh hoạn. Bắt đầu từ
những người đồng tính chơi với Trà, qua cuộc sống, số phận, và những yêu
buồn giận hờn trong tình yêu của họ, Trà đã chọn đề tài rất khó để thể hiện,
đó là tình yêu. Những bóng hình quyện chặt vào nhau, quyết liệt, dữ dội. Nó
không có những nét tinh tế tỉ mỉ mà quấn quýt thô mộc đó là độ nóng bỏng,
rừng rực sức sống của những người yêu nhau. Với những tác phẩm Sự thật
méo mó 1-5 (Hình 2.27-2.30) anh chọn lối bố cục dọc khi thể hiện hai cơ thể
đàn ông khoả thân quyện chặt vào nhau trong các tư thế làm tình ở dáng
46
đứng, ngồi. Với những tác phẩm Sự thật méo mó 6-8 (Hình 2.31-2.33) anh lại
chọn lối bố cục ngang với hình ảnh hai cơ thể nam nằm quấn quýt trên
giường. Đó là lối bố cục tạo nên sự khúc chiết với những đường hướng
ngang, dọc rõ ràng cho từng tác phẩm, góp phần tạo nên sức mạnh của một
tiếng nói trực diện, táo bạo, chiến đấu cho sự bình đẳng của tình yêu, tình dục
đồng giới.
Một lối bố cục đặc biệt khác được khá nhiều họa sĩ theo đuổi đề tài
đồng tính yêu thích, đó là lối bố cục cân xứng, đăng đối trong tác phẩm. Tiêu
biểu cho hướng đi này là các nghệ sĩ Lý Trần Quỳnh Giang, Phạm Tuấn Tú
và Dương Xuân Quyền. Nếu với các nghệ sĩ còn lại, lối bố cục này chỉ là một
trong những sự lựa chọn thì với Phạm Tuấn Tú, dạng bố cục cân xứng, đăng
đối dường như bao trùm hầu hết những tác phẩm vẽ về vấn đề đồng tính của
anh. Với tác phẩm Trước gương (Hình 2.20) anh chọn lối đăng đối bằng cách
cho hình ảnh nhân vật đang soi gương, hai cơ thể tạo nên sự đăng đối giả
trong không gian của tác phẩm. Với tác phẩm Nội soi sự thật (Hình 2.21), Ô
môi (Hình 2.22), Chúng ta về đâu (Hình 2.23)… tác giả lựa chọn sự cân đối
hoặc đăng đối gần đến mức tuyệt đối. Lối bố cục này cho người xem sự liên
tưởng về sự hoán đổi giới tính giữa nữ và nam, giữa âm và dương, liên tưởng
đến sự đấu tranh, giằng co trong tư tưởng của mỗi người, nên sống thật với
giới tính của bản thân hay giấu đi sự thật để sống yên ổn trước những định
kiến xã hội. Lối bố cục này có thể nói là mang tính chất phổ biến, có thể thấy
ở một số tác phẩm của các tác giả khác như: Lòng còn chưa yên, tác giả
Nguyễn Minh Thành (Hình 2.10); The sadness X, tác giả Lý Trần Quỳnh
Giang (Hình 2.14); Sự thật méo mó 7, tác giả Trương Tiến Trà (Hình 2.32)…
Về màu sắc trong các tác phẩm hội họa phản ánh đề tài đồng tính, mặc
dù chức năng chính của màu sắc là để thể hiện lại chủ thể, nhưng có không ít
tranh trong hướng đề tài này dùng màu sắc để thể hiện cảm xúc hoặc thiết lập
một hệ tư duy logic. Với Lý Trần Quỳnh Giang, Nguyễn Minh Thành, Phạm
47
Tuấn Tú, bằng sự tiết chế bảng màu đến tối đa, các tác giả này thể hiện cảm
xúc qua những chủ đề về đồng tính và sự chuyển giới, phản ánh sự phức tạp
của con người. Ðối lập với bối cảnh u buồn trong các sáng tác của Lý Trần
Quỳnh Giang, Nguyễn Minh Thành, Bùi Tuấn Tú là sự tươi sáng trong các tác
phẩm của Trương Tân và Trương Tiến Trà. Màu sắc trong tranh vẽ về vấn đề
đồng tính chủ yếu mang ảnh hưởng của tính cách của các tác giả ẩn sâu trong
nhân vật. Màu sắc cho ta cái nhìn chân thực về nhân vật, và lẩn khuất trong
đó có tình cảm của tác giả thể hiện rõ nét cá tính, tình cảm của người vẽ. Tác
phẩm của Lý Trần Quỳnh Giang sử dụng màu sắc trầm buồn, toát lên sự điềm
đạm của nhân vật. Hay như màu sắc trong tranh của Trương Tiến Trà, Quỳnh
Anh được tác giả sử dụng màu sắc gam nóng mạnh mẽ với mảng hình chắc
chắn, gợi niềm hân hoan, hạnh phúc. Hay như màu sắc nhã nhặn trong tranh
của họa sĩ Nguyễn Minh Thành. Đó là sự thanh cao, thuần khiết, tác giả gợi tả
đơn giản, càng làm tăng tính giản dị, thuần khiết của nhân vật. Màu da của
nhân vật đơn sắc như nguyên màu của mặt toan. Hình cũng được chắt lọc và
giản lược. Ta có thể thấy cảm xúc, tình cảm của tác giả đã lấn át hoàn toàn về
chân dung thật sự của nhân vật.
Nguyễn Minh Thành là một trong những người tiên phong của nghệ
thuật hiện đại, đương đại Việt Nam và một trong số những nghệ sĩ Hà Nội
đầu tiên tham gia triển lãm quốc tế, và có tầm ảnh hưởng quan trọng đến sự
phát triển của nghệ thuật đương đại sau này ở Hà Nội. Sáng tác của Nguyễn
Minh Thành, chủ yếu sử dụng mực tàu và màu nước trên giấy dó, tạo dấu ấn
bằng việc sử dụng những gì dường như là chân dung tự họa của anh trong
những khám phá mang tính tâm linh và thiền định. Với Minh Thành, trong
những bức tranh lặng lẽ, dịu dàng của một người có tâm hồn bình lặng và đơn
độc. Vốn nổi tiếng với những bức tranh chân dung, những tác phẩm này của
Thành là bước tiếp trên con đường kiếm tìm vẻ đẹp. Những gương mặt đẹp
được họa sĩ vẽ trên nền giấy dó bằng những màu sắc tự nhiên như màu hồng
48
gạch, màu vàng đất đem lại một vẻ tĩnh lặng, yên bình cho các tác phẩm. Mỗi
tác phẩm của anh như một trang nhật ký dần khám phá ra vẻ đẹp và con
đường đến với hạnh phúc một cách rất tự do, để cho những cảm xúc dẫn
đường, vẽ tranh dường như là một ảo mộng tìm đến được sự bình lặng và
hạnh phúc bên trong tìm kiếm vẻ đẹp là một điều tuyệt diệu, nhưng điều quan
trọng hơn là tìm được những vẻ đẹp tồn tại quanh mình.
Quỳnh Giang là đại diện tiêu biểu cho thế hệ các họa sĩ trẻ hiện đại và
đương đại sớm thành công trong tranh sơn dầu. Ngắm nhìn các tác phẩm của
cô, người xem đều cảm thấy một nỗi buồn, một nỗi cô đơn nhất quán. Màu
sắc chủ đạo trong một loạt các tranh sơn dầu được trưng bày tại không gian
triển lãm có gì đó u tối, sầu muộn lẩn khuất được tạo nên bởi gam màu nâu,
xanh đen, xanh lục thẫm… Khi được hỏi về nỗi buồn luôn ám ảnh trong các
tác phẩm của mình, Lý Trần Quỳnh Giang cho biết chị không hề cố ý đưa cái
buồn vào tranh, dường như nó là cái tự nhiên, bản năng ăn sâu, tự thẩm thấu
vào. Có lẽ, một phần bị chi phối bởi cá tính bên trong con người: thích sống
lặng lẽ và ẩn mình. Cô đơn khiến chị cảm thấy thoải mái, đặc biệt trong việc
sáng tác. Nếu trong tranh sơn dầu, gam màu nâu thường được Lý Trần Quỳnh
Giang sử dụng thì trong tranh khắc gỗ, bạn chỉ có thể thấy được hai màu cơ
bản là đen (màu mực) và nâu trắng (màu gỗ nguyên bản) với các độ đậm nhạt
khác nhau. Sự tò mò hay quan tâm của công chúng thích hội họa đương đại đã
được thỏa mãn với triển lãm mang tên “Này, ốm à” tại Gallery Viet Art.
Cũng như mọi lần đến với nữ họa sĩ trẻ đầy tiềm lực toát ra từ nội tâm mạnh
mẽ này, công chúng lại một lần nữa “giật mình” xem tranh dưới sự điều khiển
của những đôi mắt nhìn họ từ các bức tường. Tranh của Lý Trần Quỳnh
Giang lâu nay vẫn rất sang trọng về màu sắc, và lần này sự từng trải, mẫn tiệp
của chị đã thể hiện rõ sức mạnh khi chỉ dùng đúng cặp mắt của các bức chân
dung biểu hiện nội tâm, biểu hiện nỗi cô đơn đi từ hoang mang đến đau đớn.
Để tập trung cho cảm xúc này, họa sĩ đã không rườm rà về bố cục, đường nét,
49
bao tâm tư, dằn vặt chị đổ hết vào những cặp mắt, nhấn nhá và làm ám ảnh
day dứt. Những bức họa hút người xem vào một ngõ tối, nhìn ngắm thật riêng
tư tất cả những gì thuộc về bản ngã của chính mình.
Nổi lên như một hiện tượng lạ của giới tạo hình Việt Nam, nghệ thuật
của Bùi Tuấn Tú tạo nên sự ám ảnh khôn nguôi về một thế giới bất khả minh
định, kỳ quái và đầy ma mị. Trái ngược với bảng màu sắc rực rỡ, tươi tắn mà
nhiều họa sỹ theo đuổi, Phạm Tuấn Tú chọn toàn màu xám. Có lẽ thế, nên dù
vẽ về phái đẹp thì những cô gái trong tranh anh vẫn mang vẻ liêu trai, không
ra nam, không ra nữ. Xen giữa môtíp trang trí tinh xảo, hoa hồng và gấu bông
là những con búp bê cụt đầu, con cú báo điềm bất hạnh… rờn rợn lạnh sống
lưng. Khi bước vào phòng tranh của anh, người xem thấy tầng tầng lớp lớp
các hình dạng kỳ dị, không khí đậm đặc màu sắc ma quái và dễ làm người
xem liên tưởng tới những bộ phim kinh dị, những bài hát với âm điệu ai oán.
Những gương mặt vô hồn, bất định nam/nữ, những thân hình gày đét, đen đúa
như những thây ma soi gương, chải chuốt, làm duyên được anh miêu tả đầy
kỳ dị. Nó ám ảnh người xem bởi cảm giác các sinh linh từ thế giới khác đã
nhập hồn vào nhân vật của anh. Một người bình thường rất khó vẽ được
những bức tranh như vậy, có lẽ phải là người “có căn, có cốt” theo cách nói
thông thường mới phiêu diêu trong thế giới sinh-tử như vậy được.
Từ hồi bé, anh đã theo mẹ - một thanh đồng đi hầu. Ngoài các điệu
múa, lời văn, nội thất trong ngôi điện thờ hay không khí linh thiêng của buổi
lên đồng đã đi vào tâm thức thì điều ám ảnh anh nhất định là hiện tượng nhập
đồng. Sống trong môi trường văn hóa đậm chất tâm linh, mắt thấy tai nghe
những điều kỳ lạ, những câu chuyện về người âm, vong hồn, thần linh, ma
quỷ… khiến Tuấn Tú bị ám ảnh. Thế giới sinh tử ấy đã đi vào tranh, đọng lại
hình hài ở chi tiết này, kết tụ trong tác phẩm khác mà sự hóm hỉnh cố ý gây
cười hay dục tính lúc ẩn lúc hiện. Những tác phẩm nghệ thuật của họa sỹ đều
mang sắc xám lạnh lẽo. Những hình hài trong tranh lơ đãng và vô định,
50
dường như chẳng thiết một mối liên hệ nào với trần thế. Thân thể và cái đầu
tựa như hai bản thể đối lập nhau. Một cái đầu mượn tạm một thân thể, hoặc có
khi một thân thể trần trụi đi thuê một cái đầu. Dường như tất cả trở nên chếnh
choáng, khó phân định. Ranh giới giữa kẻ đi thuê và người cho thuê bị xoá
nhòa, và sự vay mượn trở thành trạng thái nhập nhằng, không phân định biên
giới giữa giới tính, không gian và tâm linh.
Xem tranh của Tuấn Tú không đơn thuần xét về góc độ giới tính. Sự
nhập nhằng của vẻ bên ngoài, nội tâm, giới tính, tâm linh là một phần trong
quá trình sáng tác nhưng không hẳn là nhân tố quyết định. Nhân tố này được
vay mượn để thông qua ngôn ngữ hội họa kiểu sức, với bút pháp trộn lẫn sự
giễu cợt, vẻ cao ngạo pha lẫn cô độc để kể về những câu chuyện giữa người
với người, có thể rất nhân bản, hoặc rất lạnh lẽo bi ai. Và tác phẩm là sự cảm
nhận của họa sỹ về hành trình cuộc sống, hay hành trình của các cá thể, số
phận và tâm linh qua thời gian sống vật lý - lạnh lùng - vô cảm - quy luật của
trần thế.
- Biểu hiện qua hình thể nhân vật
Để giúp người xem thưởng thức hình thể của chủ thể trong một tác
phẩm hội họa, các họa sĩ thường tạo cảm giác ba chiều đặt nhân vật trong
những hệ giá trị được đặt ra cho giới họa sĩ là việc thể hiện hình khối, hay còn
gọi là hình họa lên mặt phẳng. Hình khối trước tiên là cảm giác mà khi người
xem tranh sẽ thấy người mẫu nổi bật hẳn lên trên mặt tranh, nổi như pho
tượng nổi, ghi nhận lại các nét sáng tối mà ánh sáng đã để lại trên bề mặt hình
mẫu qua mối quan hệ tương phản. Nhưng với các họa sĩ theo đuổi đề tài đồng
tính thì lại lối vẽ hiện đại với phong cách thể hiện hình thể, hình khối có nhiều
thay đổi.
Trong các tác phẩm Spread The Love (Hình 2.2), How to be an Angel
(Hình 2.3), Giấc mơ đỏ (Hình 2.6)… hình thể được họa sĩ Trương Tân biểu
hiện khá khỏe khoắn, có những cái mới trong cách tạo hình. Ta không thấy sự
51
chân thực về hình dáng của những người đàn ông trong tranh mà hình thể đã
có sự cách điệu, giản lược. Hình thể trong tranh của anh luôn mang một dáng
nghiêng đặc biệt, xuyên suốt trong các tác phẩm. Sự cách điệu và giản lược
không hẳn là làm biến dạng hoàn toàn nhân vật, ta vẫn có thể thấy được chân
dung của mỗi người. Hình thể nhân vật được gợi tả bằng hình, nét và điểm
màu. Có thể thấy, tác giả đã gợi tả thành công trạng thái của nhân vật, đồng
thời ta cảm thấy có cảm xúc của tác giả lẩn khuất trong đó. Về yếu tố hình
thể, tác giả đã bỏ qua hình ảnh hiện thực để đi đến một hình ảnh tượng trưng,
đơn giản, mà súc tích. Những đặc điểm không mất đi, vẫn giữ được thần thái
và tính cách nhân vật mang đầy tâm trạng. Tác phẩm Mây xám (Hình 2.5) đã
cho người xem ấn tượng về một chân dung với cấu trúc hình khỏe khoắn,
mạch lạc. Ở tác phẩm này, cấu trúc hình thể, màu sắc, bố cục đều không mang
tính tả thực, nhưng ta lại có thể cảm nhận nội tâm và cá tính của nhân vật.
Hình thể nhân vật được tác giả khái quát khúc triết bằng nét đen, kết hợp với
các yếu tố màu sắc đơn giản, mạnh mẽ toát lên tinh thần nhân vật.
Năm 2008, Phạm Tuấn Tú bắt đầu sáng tác với hình ảnh một người đàn
bà mang khuôn mặt đàn ông. Nhân vật trong tranh của Phạm Tuấn Tú thường
mặc trang phục của nữ (nội y, váy cô dâu, áo khoác hay tấm voan, khăn trùm
dùng trong ngày cưới), mang khuôn mặt của đàn ông, gầy guộc, trơ khốc với
ánh mắt ám ảnh, thân thể uốn éo. Cùng là một người, với các không gian chật
hẹp, nhưng không bức nào lặp lại trạng thái hay nội dung bức nào. Mỗi tác
phẩm mang tới một cách nhìn, cách hiểu, một cảm xúc khác nhau cho người
xem. Có được cảm giác ấy, có lẽ bởi nghệ sĩ không chỉ thể hiện sự nhập
nhằng của vẻ ngoài, giới tính nhân vật. Anh họa cả sự nhập nhằng trong nội
tâm, thế giới tâm linh. Các hình hài trong tranh Phạm Tuấn Tú đều uốn éo,
nửa như làm duyên, nửa như lãnh cảm. Những nhân vật ấy lơ đãng và vô
định, dường như không có mối liên hệ với trần thế. Thân thể và cái đầu
thường xuyên thể hiện ra trạng thái đối lập nhau. Một cái đầu mượn tạm một
52
thân thể, hoặc một thân thể mượn tạm một cái đầu chẳng bao giờ biểu hiện
cùng một trạng thái cảm xúc. Dường như tác giả có sự ám ảnh mạnh mẽ với
cái chết nên tác phẩm của anh mang không khí u ám, rùng rợn. Tông màu chủ
đạo trong các bức tranh đều là sắc xám lạnh lẽo. Chưa kể các chi tiết được đặt
khắp nơi báo hiệu cái chết như một cây thập tự đặt cạnh bia đá, con búp bê
cụt đầu, con cú báo điềm xấu... Màu sắc và hình thể là những yếu tố tạo hình
trong hội họa, nổi bật và dễ dàng nhận thấy. Trong một tác phẩm hội họa,
hình thể giúp người xem định hình được những nét riêng của nhân vật, từ đó
thấy được đặc điểm riêng của nhân vật. Còn màu sắc là một trong số những
yếu tố quan trọng, nó góp phần mang lại cảm xúc cho người xem - hay còn
gọi đó là chất cảm. Màu sắc cũng là yếu tố rất nổi bật và thu hút. Những yếu
tố tạo hình này kết hợp với nhau và các yếu tố khác sẽ tạo nên hiệu quả về
tổng thể cho một bức tranh. Ở một số tranh của Phạm Tuấn Tú, yếu tố hình
thể mang tính hiện thực, một số tranh khác, hình thể trong tranh đã có sự thay
đổi, không lệ thực mà phần nào mang yếu tố siêu thực. Như tranh Thoả thuận
(Hình 2.25), mặc dù tác giả cho người xem một chân dung chân thật với bút
pháp tả thực trong một trạng thái suy tư với khuôn miệng, đôi mắt nhìn xa
xăm. Cộng với đó là một phần của bức tranh dân gian cá chép trông trăng với
sóng nước và ánh trăng mờ xanh lạnh. Tất cả các yếu tố hình thể đó đã cho ta
thấy tâm trạng của nhân vật đang trăn trở về điều gì đó.
Những tác phẩm mang tính chất miêu tả chân dung của Nguyễn Minh
Thành như: Dấu ấn đầu tiên (Hình 2.8), Cô gái mù (Hình 2.12)… với cách sử
dụng hình thể hơi cường điệu, nhấn mạnh, đẩy sâu phần môi và mắt để tạo
nên đặc trưng riêng của những chân dung nhân vật, tất cả hiện lên với thần
thái điềm tĩnh, đôi mắt dịu dàng và vẫn rất tự nhiên chỉ bằng đường nét, hình
thể. Yếu tố màu sắc chỉ mang tính gợi tả, điều đó thể hiện sự đơn giản trong
tác phẩm, đồng thời ta cũng cảm thấy nét giản dị trong con người của nhân
vật. Một phần khác, người xem còn thấy ở những tác phẩm này, chân dung
53
nhân vật được khắc họa chân thực qua bút pháp tả thực. Từ hình thể, đường
nét, màu sắc đều hiện thực. Tác phẩm cho ta thấy một cô gái với gương mặt
bầu bĩnh, đôi mắt mở to đang nhìn về người xem. Tác giả đã khéo léo cho
người xem cảm giác chân thật khi nhìn vào tác phẩm. Qua một loạt các tác
phẩm ta có thể thấy, yếu tố hình thể trong các tác phẩm không mang nhiều nét
thay đổi. Hình thể không nhất thiết phải rõ ràng một cách cứng nhắc, mà
thông qua cảm xúc, hình thể trong cách tạo hình chân dung hội họa có sự thay
đổi để thể hiện được cảm xúc của tác giả đối với nhân vật.
Ở tranh của Lý Trần Quỳnh Giang như: Ốm (Hình 2.16), Người người
ngợm ngợm (Hình 2.17), Bản tin (Hình 2.18)… thường xuyên xuất hiện
những môtip bàn tay, bàn chân gầy guộc chìa ra ở đủ các tư thế. Những con
mắt sâu trũng lờ đờ thiếu ngủ, những cái nhìn lo âu, suy tư hoặc hoảng hốt,
những đám đông mệt mỏi… Sự xuất hiện về hình thể nhân vật như vậy không
phải là vô cớ. Dường như trong con người, ngoài đôi mắt và khuôn mặt ra thì
bàn tay, bàn chân là những bộ phận biểu cảm, nói lên nhiều thứ. Chúng có thể
hé lộ về sức khoẻ, tâm trạng, tuổi tác, tình cảm, tinh thần của con người, cho
đến mách bảo về nghề nghiệp, tố chất, số phận, thậm chí cả đến những tham
vọng và ước muốn thầm kín nào đó của họ. Có lẽ khó mà che giấu điều gì.
Rất có thể vì vậy mà Lý Trần Quỳnh Giang hay để ý đến tay chân, thích vẽ
tay chân và những con mắt, nơi sức mạnh biểu hiện tập trung tuyệt đối và
căng thẳng. Giang hay vẽ chân dung tự họa, vẽ cuộc sống và tâm trạng hàng
ngày của chính mình. Rút mình ra mà vẽ. Gặm nhấm thân xác và sự tồn tại
của mình mà vẽ. Vẽ những lúc ốm đau mệt mỏi, vẽ những đêm mất ngủ…
Những bức tranh thoát ra từ đời sống nội tâm bên trong, từ sự tưởng tượng, và
có lẽ ám ảnh những lúc ốm đau, ám ảnh về sự sống và cái chết. Nơi đó, con
người có thể mang hình hài cá, có thể có khuôn mặt và đôi mắt tựa cú đêm.
Sự giải toả này ùa ra thành các nhát vẽ to bản, cộm màu, ào ạt, phóng khoáng,
54
xung động. Một lối vẽ trực tiếp, nhanh, mạnh, bản năng, truyền cảm trong các
gam màu trắng, xanh, ghi xám trong trẻo, sang lạnh và tinh tế.
- Biểu hiện qua không gian, ánh sáng
Về không gian và ánh sáng, trong hội họa nói riêng và mỹ thuật nói
chung, do hiệu ứng thị giác mà vật đặt gần hay xa mắt người sẽ có chiều cao
khác nhau, và hiện tượng này đã được giới họa sĩ phát hiện ra từ rất lâu trước
khi có máy ảnh. Một số tranh phân người thành những hàng ngang từ gần đến
xa, như những hàng ghế trong nhà hát. Một số tranh còn áp dụng thêm hiệu
ứng không khí, khi những vật ở rất xa thường được pha thêm màu xanh
dương, do nhìn qua làn không khí, phản xạ màu của bầu trời.
Có những họa sĩ không thích mất thời gian với không gian nền mà tạo
không gian ngay trên mặt chủ thể với các góc, cạnh, được thể hiện sắc nét, tạo
bề nổi ấn tượng. Mặc dù độ sáng tối được dùng để thể hiện bố cục, mặt phẳng
và hình thể, nhưng khi nhìn tổng thể thì độ sáng tối. Các tác phẩm biểu đạt
vấn đề đồng tính sử dụng nhiều chất liệu hội họa để tích cực tìm tòi ngôn ngữ
của nghệ thuật tạo hình thông qua bút pháp cá nhân để thể hiện không gian.
Từ tả thực, ấn tượng, cách điệu - biểu hiện dân gian đến trừu tượng... Tất
cả được các họa sĩ thể hiện bằng ngôn ngữ của nghệ thuật, tận dụng được
nhiều ưu điểm của các chất liệu để xử lý kỹ thuật tương quan đường nét,
sáng tối, đậm nhạt của màu sắc, làm toát lên không gian trong hội họa vừa
độc đáo vừa khác lạ. Có nhiều tác phẩm phản ánh phong cách tạo hình độc
đáo nhờ vào kỹ thuật giải quyết không gian trong tranh của các họa sĩ. Đó
chính là quá trình chuyển biến từ không gian theo khuynh hướng hiện thực
sang lối không gian biểu hiện trừu tượng, định hình không gian sáng tạo
mới, ấn tượng và truyền cảm.
Các họa sĩ biểu đạt về vấn đề đồng tính thường thể hiện ở các tác phẩm
là một cách xử lý không gian khác nhau nhưng cùng tạo nên sự đồng hiện của
các nhân vật trong tranh. Trong một số tác phẩm, chủ đề hướng tới tính hiện
55
thực nhưng không gian trong các tác phẩm có sự mô tả cảnh vật cùng con
người khá thống nhất theo phép viễn cận cổ điển. Như tranh Hôm nay trời đẹp
(Hình 2.11) của Nguyễn Minh Thành, tác giả sử dụng không gian cổ điển làm
nền tảng cho sự phát triển thành không gian nghệ thuật được chuyển hóa từ
màu và hình. Cũng bằng kỹ thuật xử lý hình và màu khoáng hoạt, Nguyễn
Minh Thành đưa vào tranh cái không gian mênh mang của mây trời, hơi
sương và nước, dung hòa với những chân dung nhân vật. Không gian tạo hình
như được hòa quyện trong không gian bao la của thiên nhiên. Tác giả lấy gam
màu ghi, nâu, xám, trắng làm chủ đạo khiến cho toàn bộ bức tranh là một màu
ghi, nâu tím nhẹ nhàng, bình yên.
Bên cạnh lối diễn tả hiện thực còn có những tác phẩm diễn tả phương
pháp khai thác môtip trang trí từ vốn cổ dân tộc, như tranh Trước gương
(Hình 2.20), Chúng ta về đâu (Hình 2.24), Thỏa thuận (Hình 2.25) của Phạm
Tuấn Tú. Ở đây tác giả mô tả hình ảnh các khối hình cơ thể nhân vật cùng
những bóng đen tạo không gian có lớp lang trong - ngoài, gần - xa. Kỹ thuật
sử dụng sơn dầu luôn tạo ra ranh giới của các mặt đối lập, mảng, hình, màu
được diễn tả đan cài trong các môtip trang trí làm cho bức tranh có hiệu quả
khác biệt. Những mảng màu tối của bóng đen phía sau làm cho không gian
trong tranh như vừa mang tính truyền thống vừa phá cách trong lối diễn tả.
Những tác phẩm này cơ bản được khai thác lối vẽ truyền thống, là mối
quan hệ màu sắc, hình khối, đường nét cùng không gian hiện thực đa góc
nhìn. Chủ đề phản ánh tạo ra sự khác biệt với các phong cách sáng tác khác,
tạo ra những mức độ và sự chuyển đổi màu sắc tinh tế. Bên cạnh sắc độ là sự
no đầy và chiều sâu của màu. Đặc biệt lối vẽ chuyển sắc đã làm cho màu trở
nên sâu hút, màu pha quyện vào nhau theo tỷ lệ tùy ý để tạo ra các màu khác
nhau, khó lường trước, mỗi họa sĩ có thể tìm ra bảng màu của mình để tạo
thành sự riêng biệt trong sáng tạo.
56
Tranh Chúng ta về đâu (Hình 2.24) của Phạm Tuấn Tú lại mang đến
cho người xem một góc nhìn từ đời sống đô thị hiện đại, các nhân vật đứng
uốn éo trong các điệu nhảy hiện đại trong không gian chật chội. Hình tượng
các cô gái mặc váy áo ngắn, mải mê ngắm cơ thể mình trong các dáng vặn
người không quan tâm đến xung quanh. Tác giả khai thác hình tượng nhân vật
có từ hiện thực cuộc sống, nhưng ẩn sâu trong nội dung tác phẩm là một
thông điệp về sự phát triển của xã hội vừa hiện đại vừa vô tình làm mất đi
những kết nối thân thiết giữa con người với con người, dường như có nhiều
điều khiến con người quan tâm hơn sự nhìn và thấy trong thực tại. Bằng kỹ
thuật xử lý hình và màu tác giả đã có lối nhìn độc đáo trong cách khai thác
chủ đề nhân vật trong tranh. Yếu tố không gian tạo hình như được phân định
trong không gian của hiện thực, tác giả sử dụng màu sắc nhằm tạo ra ranh giới
của các mặt đối lập, mảng, hình, màu được diễn tả đan cài trong các nhân vật
có các thế hệ và phản ánh lối sống của con người hiện đại thông qua cử chỉ,
trang phục trong xã hội hiện đại. Màu sắc kết hợp với trang trí làm cho bức
tranh có hiệu quả biểu đạt cao, hướng tới sự đồng cảm về nhận thức thẩm mỹ
mới trong bối cảnh toàn cầu nhưng vẫn lấy không gian tạo hình hiện thực làm
tiền đề sáng tác. Đây cũng chính là những điểm trong mỹ thuật Việt Nam,
đồng thời đánh dấu những sáng tạo và khả năng diễn tả không gian trong
tranh của các họa sĩ Việt Nam.
Thiên về khuynh hướng biểu hiện, tranh The sadness X (Hình 2.14),
The sadness V (Hình 2.15), của Lý Trần Quỳnh Giang mang đến chân dung
của những con người cô độc trong không gian, hình ảnh nhân vật suy tư, ánh
mắt nhìn về nơi xa hoặc nhìn thẳng trực diện vào người xem. Trên cơ sở phát
huy được thế mạnh của chất liệu sơn dầu, tác giả đã thể hiện chân dung mang
tính hiện thực kết hợp với kỹ thuật sử dụng không gian trong tác phẩm khá
thống nhất, nhấn mạnh cá tính của nhân vật trong tranh cũng là nhờ vào ưu
điểm biểu cảm gợi hình, gợi khối trong tranh. Tác giả vận dụng những ưu
57
điểm của chất liệu sơn dầu là tính ngẫu nhiên của màu được pha trộn cùng ý
tưởng sáng tạo của nghệ sĩ đã giúp cho bức tranh đạt được những tiêu chí của
một tác phẩm chân dung mang cá tính nhân vật cũng như đạt giá trị nghệ
thuật cao.
Không gian huyền ảo, trừu tượng được Trương Tân lựa chọn để kể câu
chuyện của mình, bộc lộ suy nghĩ cá nhân. Qua tác phẩm, ta thấy như các họa
sĩ không chỉ có sự đồng điệu với thế giới thực tại mà còn trăn trở, cố gắng
diễn tả cái bên trong bản chất của nghệ thuật. Chính vì vậy, không gian nghệ
thuật trong mỗi tác phẩm lúc như bay bổng lúc lại ngưng đọng bởi khả năng
tạo mảng, màu của chất liệu sơn mài.
Tác phẩm Spread The Love (Hình 2.2), How to be an Angel (Hình 2.3),
The groom (Hình 2.4)… của Trương Tân là lối kể chuyện mang tính hiện đại
gắn liền với đời sống thực, được các tác giả thể hiện bằng những vẻ đẹp của
thời đại, những khát vọng và tình yêu cuộc sống con người. Bằng ngôn ngữ
của hội họa, mỗi bức tranh như toát lên một không gian đồng hiện, ảo vọng
cùng nhiều suy tư, trăn trở được ẩn giấu trong chiều sâu tác phẩm. Tác phẩm
đặt một bố cục phức hợp với nhiều mảng hình, màu đan xen, chồng chất lên
nhau. Tác giả sử dụng những ưu điểm của sơn mài để sắp đặt những gam màu
tương đồng, làm tăng sức biểu cảm của không gian. The groom (Hình 2.4)
như biểu hiện của sự chật chội, chen chúc, tạo ra thứ không gian ba chiều vừa
lập thể vừa trừu tượng cùng tính chất động, tác giả đã gợi ý cho các tuyến,
đường tạo thành những lớp lang của không gian. Vì vậy, người xem như đọc
được không gian bên trong và không gian bên ngoài, chúng luôn tương hỗ
cho nhau tạo thành khối thống nhất liên kết trong tổng thể bức tranh. các nhân
vật được tạo hình bằng những chu vi của nét và mảng màu bẹt. Một kỹ năng
thể hiện không gian đồng hiện, lan tỏa khắp bề mặt tranh, thứ không gian như
được lạ hóa dàn trải trên bề mặt bức tranh.
58
Hầu hết các tác giả đi theo phong cách mình đã chọn một cách ổn định,
có chăng là sự thay đổi về chủ đề, những biến động trong trải nghiệm và cảm
xúc sáng tạo. Chính vì vậy, cái đẹp ngày càng trở nên khó nắm bắt, không
gian tạo hình trở thành một khái niệm hay một phạm trù vô cùng phong phú,
tạo sự hấp dẫn cho nhiều nghệ sĩ. Ánh sáng trong tranh vẽ chủ đề đồng tính,
có lẽ nổi bật nhất là trong các tác phẩm của Phạm Tuấn Tú. Bởi mỗi một vật
chịu ảnh hưởng của nhiều nguồn sáng khác nhau nên cực khó. Để làm được
điều này, đòi hỏi người họa sĩ phải có một kiến thức uyên bác về vật lý quang
học, toán học, hóa học... và sự dày công trong quan sát, tìm tòi học hỏi ở
nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên. Cách diễn đạt không gian, ánh sáng,
màu sắc trong tranh kiểu tự nhiên chủ nghĩa. Sắc độ đậm nhạt hợp lý, xử lý và
sử dụng ánh sáng, bóng tối như một phương tiện kỹ thuật để thể hiện tư
tưởng, tình cảm, niềm vui, nỗi buồn của nhân vật. Bằng sự quan sát tinh tế, kỹ
và trong lúc làm việt lại hết sức tỉ mỉ, chậm rãi, Tuấn Tú luôn đặt nhân vật
vào tình huống điển hình, chọn động tác khó để đặc tả. Xem tranh của Tuấn
Tú không đơn thuần xét về góc độ giới tính. Sự nhập nhằng của vẻ bên ngoài,
nội tâm, tâm linh là một phần trong quá trình sáng tác nhưng không hẳn là
nhân tố quyết định... với bút pháp trộn lẫn sự giễu cợt, vẻ cao ngạo pha lẫn cô
độc để kể về những câu chuyện giữa người với người, có thể rất nhân bản,
hoặc rất lạnh lẽo bi ai.
Với những tranh Sự thật méo mó 6, 7, 8 (Hình 2.31-2.33) của Trương
Tiến Trà, ánh sáng không được diễn tả theo quy luật thường thấy của hội họa.
Bắt đầu từ những người đồng tính chơi với Trà, qua cuộc sống, số phận, và
những yêu buồn giận hờn trong tình yêu của họ, Trà đã chọn đề tài để thể
hiện, đó là tình yêu. Những bóng hình quyện chặt vào nhau, quyết liệt, dữ dội.
Nó không có những nét tinh tế tỉ mỉ mô tả ánh sáng trong không gian như
trong mỹ thuật cổ điển nhưng toát lên ở những nét quấn quýt thô mộc đó là độ
nóng bỏng, rừng rực sức sống của những người yêu nhau. Ánh sáng trong
59
tranh được thể hiện hàm chứa ngay trong những màu đỏ, cam, lam nóng rực,
lấp lánh sáng trong ánh sáng tình yêu của những người đồng tính.
Tiểu kết chương 2
Tối giản về gam màu, đơn giản về đường nét nhưng lại biểu đạt những
vấn đề nhạy cảm, phức tạp, các bức tranh vẽ về vấn đề đồng tính tạo cho
người xem những ấn tượng đặc biệt. Qua tìm hiểu về nội dung và hình thức
các tác phẩm biểu đạt vấn đề đồng tính trong chương 2, ta có thể thấy được
đặc điểm về bố cục, hình thể, màu sắc, không gian, ánh sáng… những biểu
hiện của yếu tố tạo hình trong các tác phẩm vẽ về chủ đề đồng tính của mỹ
thuật Việt Nam hiện đại. Hay nói cách khác, đó là những yếu tố chính để thể
hiện quan niệm, tư duy của họa sỹ thể hiện trên tác phẩm, thông qua tác phẩm
để truyền tải nội dung. Đối với các tác phẩm biểu đạt về vấn đề đồng tính,
việc thể hiện quan niệm của tác giả không chỉ được thể hiện rõ, mà còn biểu
hiện chính là tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, họa sĩ không muốn trói buộc
mình mà muốn tìm tòi cái mới, cách thể hiện mới, đó chính là đưa cảm xúc và
quan điểm của mình vào trong ý tứ tranh.
Hội họa Việt Nam hiện đại vẽ về chủ đề đồng tính đã chiếm một vị trí
đáng kể trong sáng tác của các họa sĩ. Vì vậy mỗi tác phẩm chứa đựng rất
nhiều cảm xúc không chỉ của tác giả mà cả của nhân vật được vẽ trong tranh,
có nhiều sự khám phá, thể nghiệm mới mẻ góp phần vào thành công chung
của nền hội họa Việt Nam hiện đại. Song song với sự đa phong cách, những
sáng tác đã đạt được chiều sâu nhất định. Sức sống bền chặt của nghệ thuật và
năng lượng sáng tạo của nghệ sĩ như gắn kết các tác phẩm để trở thành tiếng
nói mạnh mẽ. Điều đó được thể hiện trong nghệ thuật của mỗi tác phẩm. Cái
đẹp dường như chất chứa cái cá tính luôn đồng hành đi trên con đường khám
phá.
60
Chương 3
NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1. Những thành công của việc biểu đạt vấn đề đồng tính trong hội họa
Việt Nam hiện đại
Thành công đầu tiên trong việc biểu đạt vấn đề đồng tính trong hội họa
Việt Nam hiện đại có lẽ là vấn đề ý tưởng và cách diễn đạt ý tưởng một cách
nhẹ nhàng, tinh tế với một chủ đề mang tính chất nhạy cảm như vấn đề đồng
tính. Ý tưởng thực chất là nội dung của một vấn đề được nêu ra cho một công
việc cần thực hiện, nghiên cứu, thiết kế, sáng tác. Các thi sỹ sáng tác thơ phải
có ý thơ, có tính tư tưởng, nhân văn... Những nội dung đó chính là ý tưởng, là
linh hồn của bài thơ. Có như vậy, bài thơ mới có giá trị văn học sâu sắc. Các
nhà văn cũng vậy, muốn viết truyện ngắn, tiểu thuyết,... đầu tiên phải có ý
tưởng, ý tưởng được chứa đựng ngay ở cái tên và xuyên suốt toàn bộ nội dung
của tác phẩm. Đến các nhạc sĩ, kiến trúc sư trình tự thực hiện để có được một
tác phẩm hay, một công trình đẹp cũng đều phải có ý tưởng từ lúc sơ khai. Có
như vậy, sản phẩm mới có chỗ đứng và sống mãi được trong xã hội.
Trong nghệ thuật hội họa, ý tưởng cũng có vai trò rất quan trọng. Tài
năng của một họa sĩ chính là chắt lọc ý tưởng từ những trải nghiệm trong thực
tế cộng với tư duy sáng tạo. Cuối cùng là thể hiện ý tưởng của mình lên tác
phẩm bằng cảm xúc và theo một hoặc nhiều phong cách nghệ thuật khác
nhau. Vì vậy, trong lĩnh vực nghệ thuật, ý tưởng là sự khởi đầu, đồng thời
cũng là cốt lõi thẩm mỹ của sự sáng tạo. Với vấn đề đồng tính đầy nhạy cảm,
nếu người nghệ sĩ không có ý tưởng cho một bức tranh, tất cả những kỹ năng
vẽ tranh sẽ trở nên vô dụng. Ý tưởng và nghệ thuật thể hiện tạo nên phong
cách của tác phẩm. Một bức tranh thường được bắt đầu từ một ý tưởng hay
cảm hứng nảy sinh. Đối với những hoạ sĩ đã thành thục về kỹ thuật, có thể vẽ
những gì mình muốn, thì tìm ý tưởng là phần khó nhất trong quá trình sáng
61
tạo một bức tranh bởi ý tưởng phải độc đáo, phải là của riêng mình. Hơn nữa,
chỉ độc đáo thôi chưa đủ. Cái mới sẽ chóng chán nếu thiếu sự nhất quán giữa
ý tưởng và hình thức.
Các nghệ sĩ theo đuổi đề tài này trong những năm qua đã có nhiều ý
tưởng hay để biểu đạt cho vấn đề nhạy cảm đối với bản thân (nếu họ thuộc
cộng đồng LGBT) và đối với xã hội. Mỗi người có con đường tiếp cận riêng
với vấn đề này. Có người thể hiện chân dung tự họa mình dưới một giới tính
khác, có người thể hiện giới tính thực của họ khi soi gương, có người thể hiện
sự khao khát yêu đương với người cùng giới tính, có người thể hiện bản ngã
của mình một cách trực diện, mặc cho xã hội đánh giá sao thì đánh giá.
Một thành công khác trong việc biểu đạt về vấn đề đồng tính của hội
họa Việt Nam hiện đại là đã tạo nên một hệ thống các tác phẩm mỹ thuật cất
lên tiếng nói phản biện trước sự kỳ thị của xã hội đối với cộng đồng này, đòi
công lý cho người đồng tính. Lời kêu gọi này chủ yếu xuất phát từ nhận thức
là người ta sinh ra không có quyền chọn giới tính. Khi không có lỗi thì không
thể bị khép vào luật hình sự. Tuy nhiên, nhận thức này không xóa bỏ được
hình dung đó là khiếm khuyết, giống như tàn tật bẩm sinh, vì thế khó tránh
khỏi kỳ thị tâm lý. Và điều mà mà nghệ thuật biểu đạt về vấn đề đồng tính của
hội họa có thể và cần làm lại là giải quyết kỳ thị tâm lý. Những lý do thường
được viện dẫn là: Những giá trị cơ bản mà loài người coi trọng như tình yêu,
dũng cảm, thật thà, tài năng, tài sản, sự sáng tạo… đều không phụ thuộc vào
việc người đó đồng tính hay dị tính. Thay vì việc giải quyết kỳ thị giới tính,
các nghệ sĩ đi bàn về tình yêu, khả năng sáng tạo… là những chủ đề không
trực tiếp liên quan nhưng qua đó để nói lên tiếng nói phản biện sự kỳ thị của
xã hội, bảo vệ người đồng tính.
Một thành công khác trong việc biểu đạt vấn đề đồng tính trong hội họa
Việt Nam hiện đại là khiến cho người xem thấy được phần nào vẻ đẹp của
tình yêu đồng tính. Các bức tranh dường như thuyết phục là tình dục đồng
62
tính là một điều bình thường trong cuộc sống, nó đẹp như tình yêu của những
người không thuộc thế giới LGBT. Trong các bức tranh, người xem đều cảm
nhận được sự hân hoan tưng bừng. Đó là muốn nói tới sự hân hoan, sung
sướng của những cá thể cộng hưởng khi gặp nhau được thể hiện trực tiếp,
hoàn hảo, đẹp và bền vững như tình dục khác giới. Đồng tính là sự ngưỡng
mộ vẻ đẹp nội tại, niềm sung sướng tràn trề của từng cá thể và khi gặp nhau
thì chia sẻ với nhau, cộng hưởng với nhau. Kể cả khi không gặp nhau, không
quấn vào nhau, chỉ một mình hoặc đứng cách nhau thì niềm hân hoan này vẫn
cứ linh đình. Các bức tranh thể hiện một niềm say mê điên cuồng chính là
định nghĩa về cái đẹp.
3.2. Những hạn chế của việc biểu đạt về vấn đề đồng tính trong hội họa
Việt Nam hiện đại
Trong đời sống nghệ thuật, nhiều tác phẩm thể hiện về vấn đề đồng tính
liên tục xuất hiện tại các triển lãm mỹ thuật gần đây và được nhìn nhận bình
đẳng với mọi nội dung, chủ đề khác. Không những thế, nhiều tác phẩm nghệ
thuật để lại dấu ấn tốt đẹp trong giới chuyên môn cũng như công chúng yêu
nghệ thuật. Tuy nhiên, một thực tế rằng nghệ thuật thể hiện vấn đề đồng tính
trong hội họa Việt Nam hiện đại đang phát triển manh nha, tự phát theo xu
hướng cá nhân mà chưa có tính phổ quát rộng rãi, cũng như chưa xác lập
được vị thế trên trường nghệ thuật quốc tế. Về vấn đề này có nhiều nguyên
nhân nhưng tựu chung xuất phát từ mấy vấn đề sau:
Thứ nhất, đó là vấn đề còn nghèo nàn về ý tưởng sáng tác. Họa sĩ không
thể tìm ra ý tưởng cho một bức tranh nếu không có định hình sẵn về phong
cách hay thể loại, chủ đề của bức tranh mà tác giả hướng tới. Ngoài ra, để trở
thành một họa sĩ có nhiều ý tưởng, bên cạnh yếu tố về sức tưởng tượng phong
phú và trực giác nhạy cảm đối với những hiện tượng trong cuộc sống thông
qua việc quan sát thực tế, thì người họa sĩ cũng cần biết học hỏi từ những bậc
thầy đi trước, từ những tác phẩm đã có. Đó không phải là sao chép, mà từ việc
63
học hỏi ấy, các họa sĩ tự rút ra bài học và vận dụng vào phong cách hội họa
riêng của bản thân để tạo nên những tác phẩm của chính mình. Cái mới sẽ
xuất phát từ chính nền tảng kiến thức hội họa được tích lũy cộng với trực giác
cá nhân.
Nghệ thuật không đơn thuần là sự thể hiện cảm xúc mà phải được định
hình bởi ý tưởng và trí tuệ. Đó là các yếu tố đưa đến bố cục, sự hài hoà...
trong hội họa. Và cũng là những điều khiến một người cần thời gian rèn
luyện, học tập để có thể trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp. Mặc dù có nhiều
tác phẩm được đánh giá là thành công trong việc biểu đạt vấn đề đồng tính,
nhưng một số họa sĩ theo đuổi đề tài này vẫn vướng vào một sự lặp lại về ý
tưởng trong biểu đạt, đó là sự thể hiện về tình dục đồng tính. Điều này được
lặp đi lặp lại quá nhiều trong các tác phẩm tạo nên sự nhàm chán khi xem liên
tục các tác phẩm của một hay vài tác giả. Một trong số đó là các tác phẩm của
họa sĩ Trương Tiến Trà. Trong triển lãm“Sự thật méo mó”, anh trưng bày
hàng chục tác phẩm biểu đạt vấn đề đồng tính qua các tư thế làm tình của các
cặp đôi đồng tính. Điều này tạo nên một sự nhàm chán cho người thưởng thức
bởi mới đầu, người xem có thể thấy hấp dẫn bởi cảm giác bị va đập về thị
giác trước cách thể hiện trực diện và táo bạo này. Song, sau đó, đi cả phòng
tranh, các tác phẩm chỉ toàn màu xanh lam và đỏ với tư thế hai cơ thể quặp
chặt nhau khiến người xem không thấy thực sự thoả mãn bởi ý tưởng và hình
thức để biểu đạt về vấn đề này bởi đồng tính không nghèo đến mức chỉ có
vậy. Hay với tác giả khác như Nguyễn Minh Thành, các tác phẩm anh vẽ chân
dung tự họa mình trong hình ảnh một cô gái cứ lặp đi lặp lại trong các bức
tranh cũng khiến một số công chúng thưởng thức cảm thấy khó chịu với cảm
giác cứ bị nhìn mãi một thứ.
Thứ hai, hội họa về vấn đề đồng tính đôi khi còn chưa được nhìn nhận
một cách chính thống trong các triển lãm mang tầm vóc quốc gia, đôi khi ở
quy mô triển lãm cá nhân cũng không được duyệt về nội dung cũng như hình
64
thức biểu đạt, cho nên những tác phẩm này dường như chưa được xem trọng.
Điều này đã dẫn đến hội họa với chủ đề đồng tính không được hiểu theo đúng
những giá trị của nó, cả từ phía nghệ sĩ sáng tác cũng như công chúng thưởng
thức. Điển hình cho hạn chế này là việc các tác phẩm hội họa biểu đạt vấn đề
đồng tính của nghệ sĩ Trương Tân không được triển lãm trong suốt những thời
gian đầu tiên mới xuất hiện. Và sau này, khi anh quay trở lại triển lãm trong
Triển lãm nhóm“Mình nói gì khi mình nói chuyện tình” thì một số tác phẩm
của anh vẫn bị yêu cầu gỡ xuống sau khai mạc với lý do quá nhạy cảm. Hay
tác phẩm Bà ta của nghệ sĩ Lý Trần Quỳnh Giang bị gỡ xuống trước giờ khai
mạc của triển lãm “Festival nghệ sĩ trẻ toàn quốc năm 2007” ở Hà Nội với lý
do: vi phạm thuần phong mỹ tục.
Thứ ba, một số chủ đề của nghệ thuật hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính
còn mang tính chất tự sự, cô độc, có cảm giác như nghệ sĩ cố tình xa rời, xa
lánh cuộc sống đời thường, gây cảm giác khó hiểu với một số người xem như
những tác phẩm của Lý Trần Quỳnh Giang. Một số tác phẩm khác lại một
phần nào đó gây phản cảm đối với một số người xem như tranh của Phạm
Tuấn Tú. Nhiều tác phẩm của Tuấn Tú biểu đạt vấn đề đồng tính chưa phù
hợp với mỹ cảm của cộng đồng nên gây nhiều phản ứng trái chiều đối người
thưởng ngoạn như những tác phẩm Ô môi, Bóng... tạo sự kỳ thị ngay từ cách
đặt tên cũng như cách biểu đạt một cách thái quá những nhân vật trong tác
phẩm của tác giả này.
Thứ tư, những nghệ sĩ hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính chủ yếu làm
việc đơn lẻ, chưa có sự cộng tác, cộng hưởng để tạo nên sự lan tỏa, sự phát
triển chưa mang tính hệ thống. Những vấn đề của nghệ thuật hội họa biểu đạt
vấn đề đồng tính đang phải đối diện với sự kỳ thị trên cả phương diện tác
phẩm và tác giả, chúng cần thời gian thích nghi và tiếp biến cho phù hợp với
văn hóa Việt Nam tôn sùng những yếu tố truyền thống, những quan niệm dân
gian xưa cũ mà chúng tồn tại.
65
3.3. Những bài học rút ra từ việc biểu đạt vấn đề nội tâm, giới tính trong
sáng tác hội họa
Một vài năm trở lại đây, nghệ thuật hội họa nói chung và hội họa biểu
đạt vấn đề đồng tính nói riêng xuất hiện một số gương mặt nghệ sĩ trẻ với
những tìm tòi, thử nghiệm đa dạng và mới mẻ. Họ tiếp cận các vấn đề nhạy
cảm một cách trực diện hơn, thể hiện sức trẻ một cách hồ hởi hơn. Những bài
học về sự thành công và cả sự thất bại của các đàn anh đã được các họa sĩ sau
này đem ra đúc rút. Nghệ sĩ hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính với những
thành công ban đầu, đã đem lại nhiều hy vọng cho tương lai của nghệ thuật
tạo hình Việt Nam. Tuy nhiên, đánh giá về sự thành công đối với hướng đề tài
này, nhiều nhà phê bình lại đánh giá cao về việc biểu đạt nội tâm trong sáng
tác hội họa của các nghệ sĩ nữ, và trên quan điểm của tôi, tôi cũng cho rằng,
những tác phẩm thành công, đánh động đến tâm thức người xem hướng về
cộng đồng này nghiêng về các nghệ sĩ nữ với lối thể hiện riêng, rất nữ tính
của họ.
Nếu như những nghệ sĩ nam của thế hệ đầu của nghệ thuật hội họa biểu
đạt vấn đề đồng tính là những người đầu tiên mang thế giới nội tâm mình vào
tác phẩm, một hành động mới mẻ trong môi trường nghệ thuật mòn mỏi và
sáo rỗng của những thập kỷ trước, thì dường như các nghệ sĩ nữ là những
người bây giờ tiếp tục hành trình mổ xẻ và tự vấn bản thân. Họ làm việc đó
một cách quyết liệt, tới mức ta có cảm giác nó liên quan tới việc sống còn của
họ. Lý Trần Quỳnh Giang và Gabby Quỳnh Anh Miller là những ví dụ điển
hình cho xu hướng này. Trong “Ốm à?” triển lãm mang tính tự sự của Lý
Trần Quỳnh Giang tại Vietart Center, sự cô đơn lặng lẽ toát ra từ các chân
dung chỉ toàn là mắt và những ngón tay khẳng khiu. Ở một nhóm tranh khác,
những hình khỏa thân nữ của chị cũng có những cái nhìn ám ảnh, không
buông tha như vậy. Cái đau được thể hiện một cách không cầu kỳ, không phô
trương hay nổi loạn. Nó đã được chấp nhận, đã trở thành một phần của thế
66
giới nội tâm của tác giả, và do vậy, nó thậm chí cũng không đi tìm sự an ủi từ
người khác. Gabby Quỳnh Anh Miller cũng vậy, chị không cố gắng lên gân
hay cường điệu, chiến đấu cho cộng đồng LGBT một cách mạnh mẽ, gào thét
về khao khát như các tác giả nam theo đuổi hướng đề tài này mà chỉ miêu tả
chân dung chị trong hình ảnh của một người đàn ông lặng lẽ, đơn giản vậy
thôi nhưng lại vô cùng hiệu quả, đánh động vào tâm trí người xem bởi tinh
thần nhân văn của tác phẩm.
Bằng những thủ pháp về hình thể, màu sắc…. nghệ thuật hội họa của
Gabby Quỳnh Anh Miller đưa người xem dường như đang bước vào thế giới
nội tâm của nhân vật trong tranh. Một thế giới nội tâm lẻ loi, giằng xé giữa
hình hài vốn có của người phụ nữ và bên còn lại là khát khao trở thành một
người đàn ông. Cô gái đã rời bỏ hình ảnh người phụ nữ đầy quyến rũ để thực
hiện khát khao cháy bỏng trở thành một người đàn ông. Cô gái đồng tính ấy
muốn được sống là chính mình, tranh truyền tải đến người xem sự giằng xé
trong tâm hồn của cô gái
Với chủ đề về tình yêu đồng giới, các họa sĩ Việt Nam hiện đại đã mang
đến cho người yêu tranh những giây phút lắng đọng, cũng như cảm xúc mới
lạ về những góc nhìn thật khác trong tình yêu. Từ xưa tới nay, tình yêu là đề
tài muôn thủa, được các nghệ sĩ thể hiện chân thực, cũng có phút ảo diệu bằng
nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Cũng chính từ đó, những người yêu
nghệ thuật được trải qua hết cung bậc cảm xúc này đến cung bậc cảm xúc
khác: có yêu thương, có giận hờn, có dằn vặt, có day dứt... Với hội họa biểu
đạt vấn đề đồng tính, tình yêu luôn mang đến những cảm xúc “khó tả”, có thể
vỡ òa bằng tiếng khóc nức nở, có lúc bay bổng như đôi chim nghiêng cánh
cao vút tận trời xanh, lúc thì im ắng như một vùng tĩnh mịch chỉ nghe được
như tiếng thở dài.
Nếu như trước đây, cuộc sống của người đồng tính thường chỉ được đề
cập mờ nhạt qua sách báo và phim ảnh, thì hiện nay “thế giới thứ ba” lại hiển
67
hiện sắc nét trong nhiều tác phẩm sân khấu, âm nhạc, hội họa và nhiếp ảnh.
Với hội họa, hầu như các tác phẩm, dù thể hiện các khía cạnh khác nhau, hình
thức thể hiện khác nhau nhưng đều mang một thông điệp chia sẻ, cảm thông.
Với thông điệp ấy, người xem như bước chân vào thế giới thứ ba - thế giới
của những người bị tạo hóa trêu ngươi khi trao cho thân thể không đúng. Và
đương nhiên, dưới sự khắc họa chân thực của các nghệ sĩ, thế giới ấy không
hề đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ. Suy cho cùng thì mang giới tính gì, tất cả
cũng đều là con người, đều biết yêu thương và có quyền sống đúng với tình
cảm của mình.
Nếu trong giai đoạn đầu, các họa sĩ đồng tính của Việt Nam sáng tác
tranh là để nói về chính mình và những mối tình của mình. Thì hiện tại, nhiều
họa sĩ sử dụng đồng tính như một yếu tố để phục vụ mục đích nghệ thuật.
Trương Tân, Phạm Tuấn Tú lồng tình yêu đồng giới vào nhiều bối cảnh,
không gian khác nhau để tăng kịch tính và khai thác nội tâm nhân vật. Còn
với Lý Trần Quỳnh Giang, Nguyễn Minh Thành là lý giải sự cô đơn của một
thế hệ. Hiện nay, họa sĩ vẽ về đề tài đồng tính không nhất thiết phải là người
đồng tính, đó là thay đổi cho thấy đồng tính đã trở thành một đề tài hội họa
phổ biến chứ không quá riêng biệt nữa.
Như thế, trong sáng tác hội họa về vấn đề đồng tính với hệ thống các tác
phẩm những năm qua cũng cho thấy rằng, các tác phẩm chỉ đơn thuần mang
tính mô tả động tác, cử chỉ, hình dáng của người đồng tính sẽ có sức ảnh
hưởng ngắn ngủi, nếu so với tác phẩm hội họa có dụng ý nghệ thuật, hàm ý
sâu xa, bộc lộ nội tâm sâu sắc. Bởi, trong tương lai không xa, xã hội sẽ cởi mở
hơn với người đồng tính và những hình ảnh đơn thuần mang tính mô tả hình
ảnh người đồng tính trong cuộc sống ngoài đời sẽ không còn quá lạ lẫm và
độc đáo.
Mặt khác, một thứ yêu cầu cao không chỉ ở cái tâm, sự nhân văn của
người sáng tác mà mặt khác còn là bản lĩnh và sự công tâm của công chúng
68
khi xem tác phẩm. Một nghệ sĩ đưa ra sản phẩm theo cách nhìn của họ, dựa
trên vốn sống của họ, đó chỉ là một góc nhỏ, nếu người thưởng thức nghĩ phải
có những góc nhìn khác nữa thì họ nên mong đợi ở tác phẩm khác. Tuy nhiên,
đến cuối cùng, trong mỗi tác phẩm, đã có những con người có giới tính bình
thường chợt nhận ra rằng: Dù bạn là ai, bạn cũng có quyền được là chính
mình, được ở bên cạnh người mình yêu thương. Tất cả mọi người, không
phân biệt xu hướng tính dục đều cần được đối xử công bằng và tôn trọng
như nhau. Ðể xã hội không kỳ thị với người đồng tính cần cung cấp cho
mọi người kiến thức đầy đủ về người đồng tính. Ðó là xu hướng tình dục
không phải là lựa chọn của mỗi người mà là điều sẵn có, đồng tính không
phải là bệnh. Nó cũng không lây như nhiều người nghĩ. Khi có được những
hiểu biết đúng đắn sẽ dẫn đến thay đổi tích cực về hành vi, thái độ với
người đồng tính.
Lâu nay, công chúng Việt Nam quen tiếp cận vấn đề đồng tính một cách
gián tiếp. Gần thì cũng chỉ là những tác phẩm hội họa ý tứ thể hiện vấn đề
đồng tính, còn xa hơn nữa là những biểu đạt mang tính tế nhị hay những lời
đồn đoán về giới tính thật của nghệ sĩ. Trong vài năm trở lại đây, cùng với
trào lưu công khai giới tính cũng như đòi quyền kết hôn cho người đồng tính
ở nước ngoài, các họa sĩ trong nước mới bắt đầu "mon men" đến những mảng
sáng của đề tài này. Những nhân vật hiện diện trong tranh, tác phẩm hội họa
về đề tài đồng tính bỗng nhiên trở thành một món đặc sản mới lạ.
Tuy nhiên, không phải món đặc sản nào cũng vừa miệng tất cả mọi
người, thậm chí nó chỉ đáp ứng khẩu vị của số ít. Ngoài một số tác giả, tác
phẩm gây được mối quan tâm và đồng cảm sâu sắc, nhiều tranh còn phản ánh
sai lệch, cường điệu gây nhàm chán cho khán giả và đã nhận được cái lắc đầu
của cả những người đồng tính.
Ngay cả các tác phẩm của Trương Tân, Phạm Tuấn Tú, Trương Tiến Trà
khi mới ra mắt công chúng, giống như một cú sốc vào nhận thức, điểm nhìn.
69
Một điều chắc chắn là kể cả những người làm nghệ thuật, cũng rất lạ lẫm với
cách khai thác đề tài trực diện này. Tuy nhiên, dũng cảm đối mặt của các nhân
vật, về cơ bản, giống như một thứ vũ khí im lặng nhưng mạnh mẽ, đánh tan
những định kiến của công chúng về người đồng tính, tình đồng tính. Những
tác phẩm này như một bước "xé rào" ngoạn mục, làm tới số những gì công
chúng vẫn mong đợi nhưng vì e dè, những người làm nghệ thuật vẫn làm ngơ
hoặc làm quá tay đến mức không còn nhận ra nhân dạng vấn đề.
Rõ ràng công chúng rất khoan dung và đồng cảm trước vấn đề giới tính
này, miễn là mọi sự rõ ràng và không dung tục. Ðó là bàn đạp để kích thích sự
sáng tạo của người họa sĩ cũng như khuyến khích những người đồng tính
dũng cảm công khai giới tính thật. Một mặt, lợi dụng vấn đề đồng tính để gây
chú ý, hòng tìm kiếm sự nổi tiếng sẽ không qua nổi con mắt tinh tường của
công chúng hiện đại. Những trường hợp các họa sĩ với các "chiến dịch" lên
báo mập mờ về giới tính, quá trình chuyển giới hoặc lợi dụng mạng xã hội để
PR giới tính thứ ba một cách lố bịch là sự "khai tử" chính danh tiếng và sự
nghiệp hoặc đã có hoặc chưa thể hình thành.
Tất cả các tác phẩm, dù thể hiện các khía cạnh khác nhau, hình thức thể
hiện khác nhau nhưng đều mang một thông điệp chia sẻ, cảm thông. Với
thông điệp ấy, người xem như bước chân vào thế giới thứ ba - thế giới của
những người bị tạo hóa trêu ngươi khi trao cho thân thể không đúng. Và
đương nhiên, dưới sự khắc họa chân thực của các nghệ sĩ, thế giới ấy không
hề đáng sợ như mọi người vẫn nghĩ. Suy cho cùng thì mang giới tính gì, tất cả
cũng đều là con người, đều biết yêu thương và có quyền sống đúng với tình
cảm của mình.
Ðồng tính là một đề tài hấp dẫn, nhưng nếu không thận trọng, khéo léo
khai thác sẽ trở thành một trào lưu dễ dãi, dung tục hóa. Vấn đề của những
người làm nghệ thuật cũng như giới truyền thông là cần cân nhắc giữa hai
70
phạm trù lạm dụng hay giới hạn mỹ cảm mà thôi. Muốn thế, lao động nghệ
thuật phải thật sự nghiêm túc và khoa học.
Tiểu kết chương 3
Những tác phẩm của các họa sĩ về chủ đề đồng tính như những tuyên
bố mạnh mẽ về tình yêu vốn còn gặp phải nhiều áp lực từ dư luận. Không chỉ
đưa đến những cung bậc cảm xúc khác nhau về tình yêu đồng giới, có “hỉ, nộ,
ái, ố”… mà họa sĩ còn mang đến những góc nhìn mới mẻ về tình yêu, đơn
giản nhưng cũng đầy tinh tế. Trên thế giới, đồng tính đã được công nhận và
được mọi người đón nhận. Nhưng ở Việt Nam, đây vẫn là vấn đề nhạy cảm.
Nhiều người vẫn còn kỳ thị và cái nhìn “khắt khe” về người đồng tính. Vì thế,
những tác phẩm của các họa sĩ về vấn đề nhạy cảm này đã đóng góp một
tiếng nói ủng hộ tâm tư, tình cảm, nội tâm của người đồng tính qua những tác
phẩm hội họa. Qua những bức tranh, người xem sẽ hiểu và nhìn nhận sâu
rộng hơn, cảm thông cho những người đồng tính, đọng lại trong lòng người
xem những cảm xúc mới lạ, sự cảm mến và trân trọng tình yêu đồng tính.
71
KẾT LUẬN
Đồng tính hay còn gọi là đồng tính luyến ái là một bộ phận tất yếu của
xã hội loài người. Song do sự trái tự nhiên của nó, theo quan niệm chung phổ
biến cổ kim đông tây, kiểu tình yêu không bình thường ấy đã và đang bị dè
bỉu, kỳ thị và đối xử bất công thiên hình vạn trạng, xuyên suốt lịch sử loài
người, cho tới tận hôm nay. Đáng ngạc nhiên, mặc dù khoa học đã cho thấy rõ
ràng rằng đồng tính đã tồn tại trong thế giới loài vật từ khi sự sống ra đời,
nhìn nhận đối với nó vẫn rất ít thay đổi hay thay đổi rất chậm. Vẫn bị xem là
thứ yếu hay kỳ cục, cuộc đấu tranh cho bình đẳng và tự do của đồng tính vẫn
không ngừng được tiến hành đầy quyết tâm và bền bỉ. Trong cuộc đấu tranh
không cân sức đó, văn học nghệ thuật đóng vai trò chủ đạo, ngày một nổi bật
và có tính quyết định.
Nghệ thuật hội họa biểu đạt về vấn đề đồng tính xuất hiện và phát triển
tại Việt Nam trong khoảng thời gian hơn ba thập kỷ nhưng đã tác động không
nhỏ đến đời sống nghệ thuật nước ta hiện nay. Trong những năm gần đây,
nhiều tác phẩm hội họa Việt Nam đã nói lên được những trăn trở, suy tư của
nghệ sĩ với thời cuộc theo đúng ngôn ngữ đặc trưng riêng của vấn đề nhạy
cảm này. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để một số phương thức biểu đạt của
nghệ thuật hội họa về đồng tính được công chúng biết đến, đón nhận nhiều
hơn, cũng như những giá trị của nghệ thuật hội họa chủ đề đồng tính đóng
góp cho sự phong phú, đa dạng của nền nghệ thuật Việt Nam được ghi nhận
một cách đúng nghĩa.
Nghệ thuật hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính xuất hiện tại Việt Nam từ
khoảng nửa đầu thập kỷ 90, sau những năm đầu thành công của Mỹ thuật hiện
đại sau Đổi mới (cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX). Từ những tác phẩm hội họa
vào đầu thập kỷ 90 cho tới nay, các tác phẩm hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính
đã phát triển trên một chặng đường hơn ba thập kỷ và đã xuất hiện nhiều nghệ
72
sĩ chuyên sáng tác với các chất liệu hội họa khác nhau. Với một chặng đường
chưa dài, song nghệ thuật hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính đã để lại dấu ấn
đậm nét trong đời sống nghệ thuật Việt Nam hiện nay ở nhiều bình diện.
Thật ra, tư duy đổi mới là một yếu tố không thể tách rời trong sáng tạo
nghệ thuật và sự chuyển biến qua các thời kì của nền mĩ thuật hiện đại Việt
Nam đã nói lên điều đó. Tuy nhiên, chúng ta nói đến thời điểm năm 1986 để
nói đến sự thừa nhận trong đường lối của Đảng về lĩnh vực sáng tạo văn hóa
nghệ thuật.Vào giai đoạn đó, có thể nói mỹ thuật chính là lĩnh vực đi đầu
trong số các ngành nghệ thuật về sự đổi mới. Những triển lãm quan trọng, gây
ảnh hưởng tới tư duy sáng tác của các họa sĩ trẻ. Từ những tác phẩm hội họa
về đồng tính của Trương Tân năm 1993-1994 tại Trường Đại học Mỹ thuật
Hà Nội đến những tác phẩm hội họa của Lý Trần Quỳnh Giang, Phạm Tuấn
Tú, Trương Tiến Trà... và cả những tác phẩm đồ họa, sắp đặt, video của Minh
Thành, Hoàng Kimiko, Nguyễn Tân Hoàng, Nguyễn Quốc Thành… Tính cho
tới thời điểm hiện tại, đã xuất hiện khá nhiều nghệ sĩ trẻ đầy triển vọng sáng
tác chuyên sâu với nghệ thuật biểu đạt vấn đề đồng tính.
Như vậy, nghệ thuật hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính với nhiều hình
thức thể hiện đa dạng, hấp dẫn đã tạo ra sự thay đổi từ nhiều phía và là một
phần không thể thiếu trong nền nghệ thuật Việt Nam, góp phần không nhỏ
vào tiến trình giao lưu, hội nhập với môi trường nghệ thuật quốc tế. Để nghệ
thuật hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính phát triển lành mạnh, vận hành theo
đúng quy luật thì những nguyên nhân của hạn chế đã nêu cần sớm được khắc
phục, đó là: Chỉ có đào tạo một cách chính quy, bài bản thì những nghệ sĩ
sáng tác mới có nhận thức đầy đủ và hệ thống về chủ đề nhạy cảm này, cũng
như những tác phẩm nghệ thuật hội họa biểu đạt vấn đề đồng tính mới thực sự
gắn liền với cuộc sống trên tinh thần nhân văn mà không đánh mất bản sắc
văn hóa dân tộc, đào thải những tác phẩm vô giá trị, hoặc lệch lạc về mặt
thẩm mỹ.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2005),
Từ điển bách khoa Việt Nam 1, 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
2. Hội mỹ thuật Việt Nam (2004), Giải thưởng hội mỹ thuật Việt Nam 1993
– 2003, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
3. Hội mỹ thuật Việt Nam (2005), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 2000 -
2005, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
4. Hội mỹ thuật Việt Nam (2009), Những vấn đề Mỹ thuật Việt Nam hiện
đại, (Kỷ yếu hội thảo), Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
5. Hội mỹ thuật Việt Nam (2010), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 2006 –
2010, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
6. Hội mỹ thuật Việt Nam (2015), Triển lãm mỹ thuật toàn quốc 2015, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
7. Bùi Như Hương, Trần Hậu Tuấn (2001), Hội họa mới Việt Nam thập kỷ
90, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
8. Bùi Như Hương, Phạm Trung (2012), Nghệ thuật đương đại Việt Nam
1990 – 2010, Nxb Tri thức, Hà Nội.
9. Đinh Gia Lê (2016), Tìm hiểu nghệ thuật đương đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
10. Lê Thanh Lộc (1998), Từ điển mỹ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
11. Đặng Thị Bích Ngân (chủ biên) (2012), Từ điển Mĩ thuật phổ thông, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
12. Phan Ngọc (2001), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
13. Phan Ngọc (2005), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb VHTT,
Hà Nội.
14. Nguyễn Anh Nguyên (2012), Nhân tố hiện thực trong khuynh hướng
Pop art ở Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam, Hà Nội.
74
15. Nhiều tác giả (2005), Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam 1925 – 2005,
Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
16. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
17. Quang Phòng (1996), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Nxb Mỹ thuật, Hà
Nội.
18. Nguyễn Quân (2004), Ngôn ngữ của hình và màu sắc, Nxb Văn hóa-
Thông tin, Hà Nội.
19. Nguyễn Quân (2010), Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20, Nxb Tri thức, Hà
Nội.
20. Lê Văn Sửu (chủ biên) (2013), Kết nối nghệ thuật và di sản, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
21. Phan Cẩm Thượng (2008), Nghệ thuật ngày thường, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
22. Đào Mai Trang (chủ biên) (2010), 12 nghệ sĩ đương đại Việt Nam, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
23. Đào Mai Trang (2014), Nghệ thuật và tài năng, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
24. Chu Quang Trứ, Phạm Thị Chỉnh, Nguyễn Thái Lai (1998), Lịch sử mỹ
thuật và mỹ thuật học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Chu Quang Trứ, (2002), Văn hóa việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Viện mỹ
thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
26. Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội (2005), Mỹ thuật hiện đại Việt Nam, Viện
Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
27. Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội (2007), Kỷ yếu 20 năm Mỹ thuật thời kỳ
Đổi mới 1986-2006, Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
28. Trường ĐH Mỹ thuật Hà Nội (2007), Giới có phải là một vấn đề, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
29. Trường ĐH Mỹ thuật Việt Nam (2008), Kỷ yếu Nghệ thuật Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa, Viện Mỹ thuật, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
30. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
75
31. Viện Mỹ thuật (2000), Kỷ yếu hội thảo mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX,
Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
32. Viện Ngôn ngữ học (2012), Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức.
33. Phan Như Ý (2007), Từ điển tiếng Việt Nxb ĐH Quốc gia TP. HCM.
76
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
NÔNG THỊ THU TRANG VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Mỹ thuật Tạo hình (Hội họa)
Mã số: 60 21 01 02
Khóa: 18 (2015 - 2017)
PHẦN PHỤ LỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Văn Sửu
Hà Nội - 2017
77
MỤC LỤC PHỤ LỤC
Trang
Phụ lục 1: Vấn đề đồng tính trong mỹ thuật hiện đại Việt Nam........ 78
Phụ lục 2: Vấn đề đồng tính trong hội họa Việt Nam hiện đại .......... 82
Phụ lục 3: Vấn đề đồng tính trong một số tác phẩm hội họa thế giới........ 98
78
PHỤ LỤC 1 VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH TRONG MỸ THUẬT VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Hình 1.5: Tác phẩm Khóc tác giả: Trương Tân, chất liệu: màu nước, mực trên giấy dó và bìa, năm 1993-1994 Trích nguồn ảnh: Bài “Bùi Gallery lần này có treo đầu dê?” http://soi.com.vn,01.10.11
Hình 1.4: Tác phẩm Tôi mong điều kì diệu, tác giả: Trương Tân, chất liệu: màu nước, mực trên giấy dó và bìa, năm 1993-1994 Trích nguồn ảnh: Bài “Bùi Gallery lần này có treo đầu dê?” http://soi.com.vn, 01.10.11
Hình 1.6: Tác phẩm Đẹp, tác giả: Trương Tân, chất liệu: màu nước, mực trên giấy dó và bìa, năm 1993-1994 Trích nguồn ảnh: Bài “Bùi Gallery lần này có treo đầu dê?” http://soi.com.vn, 01.10.11
Hình 1.7: Tác phẩm: Bà ta, tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang, chất liệu: khắc gỗ, năm: 2007 Trích nguồn ảnh: Bài “Lý Trần Quỳnh Giang cùng bản mộc nude” http://soi.com.vn, 09.04.10
79
Hình 1.8: Tác phẩm sắp đặt: Những cành mệt mỏi, tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang, chất liệu: khắc gỗ, năm: 2007 Trích nguồn ảnh: Bài “Lý Trần Quỳnh Giang cùng bản mộc nude” http://soi.com.vn, 09.04.10
Hình 1.9: Tác phẩm sắp đặt: Thế giới đa nguyên, tác giả: Himiko Nguyễn, Trích nguồn ảnh: Bài “Thế giới thứ 3 qua góc nhìn dân art”, Tạp chí Đẹp số tháng 3/2008
80
81
Hình 1.10: Tác phẩm trình diễn Áo bạn thành áo tôi, áo tôi thành áo bạn, nghệ sĩ: Nguyễn Quốc Thành. Trích nguồn ảnh: Bài “Mỹ thuật và nhiếp ảnh về LGBT”, http://ccihp.org, 20/12/2013
82
PHỤ LỤC 2
VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH TRONG HỘI HỌA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Hình 2.2: Tác phẩm Spread The Love, Tác giả: Trương Tân Trích nguồn ảnh: Art exhibitions and Events in Thailand, http://thaiartxhibition.blogspot.com, 19/11/2010
Hình 2.1: Họa sĩ Trương Tân vẽ tranh về đề tài đồng tính Trích nguồn ảnh: Bài viết “Trương Tân - Trước kia tôi thấy rất cô đơn trong nghệ thuật” soi.com.vn, 27/04/2010
83
Hình 2.3: Tác phẩm “How to be an Angel”, tác giả: Trương Tân Trích nguồn ảnh: Art exhibitions and Events in Thailand, http://thaiartxhibition.blogspot.com, 19/11/2010
Hình 2.4: Tác phẩm “The groom”, chất liệu: sơn mài, tác giả: Trương Tân Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nghệ thuật đương đại có (còn) gì để nói”, soi.com.vn, 12/02/2012
84
Hình 2.5: Tác phẩm “Mây xám”, chất liệu: sơn mài và tổng hợp, tác giả: Trương Tân Trích nguồn ảnh: Bài viết “Họa sĩ Trương Tân: Biện minh và bênh vực cho những người "gay”, thethaovanhoa.vn, 05/07/2010
Hình 2.6: Tác phẩm “Giấc mơ đỏ”, chất liệu: sơn mài, tác giả: Trương Tân Trích nguồn ảnh: Bài viết “Họa sĩ Trương Tân: Biện minh và bênh vực cho những người "gay”, thethaovanhoa.vn, 05/07/2010
85
Hình 2.7: Chân dung họa sĩ Nguyễn Minh Thành Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nguyễn Minh Thành tìm áng mây xưa”, http://thethaovanhoa.vn, 02/05/2011
Hình 2.8: Tác phẩm “Dấu ấn đầu tiên”, màu nước trên giấy, tác giả: Nguyễn Minh Thành Nguồn ảnh: https://hanoigrapevine.com
86
Trích nguồn ảnh: Bài viết “Tác phẩm hội họa tại workshop Bảo tàng Mường”, soi.com.vn, 01/11/2011
Hình 2.9: Tác phẩm "Gần như không tự nhiên", chất liệu: màu nước trên giấy dó, tác giả: Nguyễn Minh Thành
Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nói chuyện gì khi nói chuyện tình”, soi.com.vn, 15/10/2011
Hình 2.10: Tác phẩm "Lòng còn chưa yên", chất liệu: màu nước trên giấy dó, tác giả: Nguyễn Minh Thành
Hình 2.11: Tác phẩm “Hôm nay trời đẹp”, chất liệu: màu nước trên giấy dó, tác giả: Nguyễn Minh Thành Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nói chuyện gì khi nói chuyện tình”, soi.com.vn, 15/10/2011
87
Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nói chuyện gì khi nói chuyện tình”, soi.com.vn, 15/10/2011
Hình 2.12: Tác phẩm “Cô gái mù”, chất liệu: màu nước trên giấy dó, tác giả: Nguyễn Minh Thành
88
Hình 2.14: Tác phẩm The sadness X 2008, chất liệu: sơn dầu, tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang Trích nguồn ảnh: Bài viết “Lý Trần Quỳnh Giang cùng bản mộc nude”, soi.com.vn, 09/04/2010
Hình 2.13: Chân dung họa sĩ Lý Trần Quỳnh Giang Trích nguồn ảnh: Bài viết “Lý Trần Quỳnh Giang & Trần Nhật Thăng – Nghệ thuật và cái đẹp”, http://www.elle.vn, 25/04/2013
Hình 2.15: Tác phẩm “The sadness V”, chất liệu: sơn dầu, tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang Trích nguồn ảnh: Bài viết “Lý Trần Quỳnh Giang: Sự mạnh mẽ của đàn bà…”, soi.com.vn, 16/03/2010
Hình 2.16: Tác phẩm Người người ngợm ngợm, chất liệu: sơn dầu, tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang Trích nguồn ảnh: Bài viết “Ốm à – cô đơn không có nghĩa là ốm”, soi.com.vn, 28/12/2010
89
Hình 2.17: Tác phẩm Ốm, chất liệu: sơn dầu, tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang Trích nguồn ảnh: Bài viết “Ốm à – cô đơn không có nghĩa là ốm”, soi.com.vn, 28/12/2010
Hình 2.18: Tác phẩm Bản tin, chất liệu: sơn dầu, Tác giả: Lý Trần Quỳnh Giang Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nghệ thuật đương đại 2011: giữa quyết liệt và bảo thủ”, http://btanders.blogspot.com, 11/7/2012
90
Hình 2.19: Hoạ sĩ Phạm Tuấn Tú bên tác phẩm trong triển lãm “Nhập nhằng” Trích nguồn ảnh: Bài viết “Lạc vào thế giới “nhập nhằng” của Phạm Tuấn Tú”, http://baoquocte.vn, 20/10/2014
Hình 2. 20: Tác phẩm “Trước gương”, chất liệu Acrylic, tác giả: Phạm Tuấn Tú Trích nguồn ảnh: Bài viết “Những bức tranh gây sốc về giới tính”, http://vietbao.vn, 23/10/2010
91
Hình 2.21: Tác phẩm “Nội soi sự thật”, chất liệu acrylic, tác giả: Phạm Tuấn Tú Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nhập nhằng” của Phạm Tuấn Tú, tại Nguyên Gallery”, soi.com.vn, 20/10/2014
92
Hình 2.22, 2.23: Tác phẩm“Ô môi”, “Gay”, chất liệu Acrylic, tác giả: Phạm Tuấn Tú Trích nguồn ảnh: Bài viết “Những bức tranh gây sốc về giới tính”, http://vietbao.vn, 23/10/2010
Hình 1.24: Tác phẩm “Chúng ta về đâu”, chất liệu Acrylic, tác giả: Phạm Tuấn Tú Trích nguồn ảnh: Bài viết “Phạm Tuấn Tú thể hiện sự nhập nhằng giới tính trong tác phẩm”, Express.net, 22/10/2014
Hình 2.25: Tác phẩm “Thoả thuận”, chất liệu Acrylic, tác giả: Phạm Tuấn Tú Trích nguồn ảnh: Bài viết “Nhập nhằng” của Phạm Tuấn Tú, tại Nguyên Gallery”, soi.com.vn, 20/10/2014
93
Hình 2.26: Chân dung họa sĩ Trương Tiến Trà Nguồn ảnh: Trương Tiến Trà
The Distorted Truth 1
The Distorted Truth 2
The Distorted Truth 4
The Distorted Truth 5
The Distorted Truth 3 Hình 2.27-2.30: Tác phẩm “Sự thật méo mó 1-5”, tác giả: Trương Tiến Trà Nguồn ảnh: Trương Tiến Trà
94
Hình 2.31: The Distorted Truth 6, tác giả: Trương Tiến Trà Nguồn ảnh: Trương Tiến Trà
Hình 2.32: The Distorted Truth 7, tác giả: Trương Tiến Trà Nguồn ảnh: Trương Tiến Trà
Hình 2.33: The Distorted Truth 8, tác giả: Trương Tiến Trà Nguồn ảnh: Trương Tiến Trà
95
Hình 2.34: Tác phẩm Kelly Lovemonster, xê-ri Significant Others, chất liệu: lụa, Tác giả: Gabby Quỳnh Anh Miller Trích nguồn ảnh: Bài viết “Mỹ thuật và nhiếp ảnh về LGBT”, http://ccihp.org, ngày 20/12/2013
Hình 2.35: Họa sĩ Dương Xuân Quyền với các tác phẩm vẽ về đồng tính Trích nguồn ảnh: Bài viết: “Họa sỹ Dương Xuân Quyền: Từng bị gỡ tranh vì vẽ tình yêu đồng giới”, http://anninhthudo.vn, 29/03/2017
96
Hình 2.36: Tác phẩm khắc gỗ về đề tài đồng tính của họa sĩ Dương Xuân Quyền Trích nguồn ảnh: Bài viết: “Lắng đọng trong triển lãm tranh “yêu người cùng giới” của họa sỹ trẻ Dương Xuân Quyền”, http://thuonghieucongluan.com.vn, 22/5/2017
Hình 2.37-2.38: Tác phẩm khắc gỗ về đề tài đồng tính của họa sĩ Dương Xuân Quyền Trích nguồn ảnh: Bài viết: “Lắng đọng trong triển lãm tranh “yêu người cùng giới” của họa sỹ trẻ Dương Xuân Quyền”, http://thuonghieucongluan.com.vn, 22/5/2017
97
98
PHỤ LỤC 3
VẤN ĐỀ ĐỒNG TÍNH TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM HỘI HỌA
THẾ GIỚI
Hình 3.1: Tác phẩm Don’t be shy, tác giả Sothea – Campuchia
Hình 3.2: Tác phẩm Don’t be shy, tác giả Sothea – Campuchia
99
Hình 3.3: Tác phẩm Ngược chiều gió – tranh cắt giấy về đề tài đồng tính của họa sĩ Xiyadie – Trung Quốc
Hình 3.4: Tác phẩm Disco – tranh cắt giấy về đề tài đồng tính của họa sĩ Xiyadie – Trung Quốc
100
Hình 3.5: Tác phẩm Khoái cảm tự nhiên – tranh cắt giấy về đề tài đồng tính của họa sĩ Xiyadie – Trung Quốc
Hình 3.6: Tác phẩm Làm vườn - tranh cắt giấy về đề tài đồng tính của họa sĩ Xiyadie
101
Hình 3.7: Tác phẩm Lesbian – tác giả: Donka Nucheva Ellectra – Anh quốc
Hình 3.8: Tác phẩm The Kiss – tác giả: Kenne Gregoire – Hà Lan
102
Hình 3.9: Tác phẩm Gay – tác giả: Michael Vicin - Mỹ
Hình 3.10: Tác phẩm Homosexual – tác giả: Michael Vicin - Mỹ