88 TRƯỜNG ĐẠI HC TH ĐÔ HÀ NỘI
HN ĐN (CHAOS) TRONG TIU THUYT TUYT
CA ORHAN PAMUK
Phm Tun Anh
Trưng Đi hc Cần Thơ
Tóm tt: Nghiên cu này tp trung kiến gii tính hỗn độn trong tiu thuyết Tuyết ca
Pamuk cc phương diện: Cm quan v hin thực và con ngưi, siêu cấu và th pháp
dán ghép, pha trn th loi. Kết qu nghiên cu cho thy Pamuk dng công phc dng
lch s, văn hóa xã hội vào cui thế k XX Kars, thành ph biên gii ca Th Nh Kỳ vi
những xung đột gay gt v tôn giáo, chính tr. Trong bi cnh ấy, con ngưi tn ti vi
tâm thc lc lõng, xa l và hoài nghi v s hin tn ca bn th. Siêu văn bn và th pháp
dán ghép, pha trn th loi đưc Pamuk tn dng triệt đ nhằm tăng hiệu ng v tính hn
độn, phân mnh; t đó kích thích độc gi ráp ni, kiến to ngha cho văn bn.
T khóa: Hỗn độn; Orhan Pamuk; pha trn th loi; siêu hư cấu; Tuyết.
Nhận bài ngày 12.01.2024; gửi phản biện, chỉnh sửa duyệt đăng ngày
28.04.2024
Liên h tác gi: Phm Tun Anh; Email: ptanh@ctu.edu.vn
1. M ĐẦU
Hỗn độn (chaos) mt trong những đặc thù quan trng của văn học hu hiện đại. Hn
độn va thuc tính then cht trong cm quan v hin thực đời sng, va thành t chi
phi ngh thut phi kết, to dựng văn bản của các nhà văn hậu hiện đại. Orhan Pamuk
(sinh năm 1952) nhà văn ln của văn chương hu hiện đại thế gii. Sáng tác ca Pamuk
thường phc dng bi cnh lch sử, văn hóa hội Th Nhĩ Kỳ, qua đó khắc ha nhng
mảnh đời mng manh, hoài nghi bt tín nhn thc. Tiu thuyết Tuyết tái hin bi cnh
lch sử, văn hóa xã hội cui thế k XX thành ph biên gii Kars, Th Nhĩ Kỳ - nơi chồng
chéo, đan bện nhiu mâu thuẫn, xung đột phc tạp liên quan đến chính tr, tôn giáo. Trong
bi cnh ấy, con người rơi vào tình thế ng nan, khó b xác quyết, cm thấy cô đơn, xa l
hoài nghi v s hin tn ca bn th. Nghiên cu này tp trung kiến gii tính hỗn độn
trong tiu thuyết Tuyết các phương din: Cm quan v hin thực con người; siêu
cu và th pháp dán ghép, pha trn th loi.
TP CHÍ KHOA HC - S 83/THÁNG 4 (2024) 89
2. NI DUNG
2.1. Cm quan v hin thực v con người
Các nhà văn hậu hiện đại quan nim thế gii vn hành trong s ráp ni, lp ghép ca
nhng cái ngu nhiên, li tán phi trung tâm, chứa đựng nhiều điều nm ngoài hiu biết
của con người. Hỗn độn va thuc tính, vừa đối tượng được các nhà văn hu hiện đại
phn ánh trong tác phm. V thut ng hỗn độn, trong Văn hc hu hiện đi, Huy Bc
(2019: 266) lun giải: Hỗn độn được đây được hiểu theo nghĩa cái đó mt trt t,
không theo mt quy tc nào và là mt s không thng nht, mt t hp ca nhiu d bit mà
không chu bt phán xét t mt d biệt nào” [1]. Đào Thị Thu Hng cng s (2016: 3)
nhận định: T thi c đại đến nửa đầu thế k hai mươi, đa phần nhân loi sng trong trt
tự, nhưng kể t khi Gii cấu trúc ra đời, khi nhân loại bước sang k nguyên hu hiện đi, thì
trt t hội đã bị lung lay d di, dẫn đến nguy hỗn độn hoá thế tc trên din rộng”
[2]. Hỗn độn được xem ci r ca triết m hu hiện đại, chi phi sáng tác ca các nhà
văn nhiều phương diện. Trong các sáng tác hu hiện đại, tính hỗn đn th được soi
chiếu nhiu bình din, chng hn: cm quan v con người hin thực đời sng (B tt
cùng hnh phúc ca Arundhati Roy, Nhc đi may ri ca Paul Auster, Thủy tiên đã cưỡi
chép vàng đi ca Trương Duyt Nhiên,…), cách đặt nhan đề (Rung b ca John Maxwell
Coetzee, ng v hưu và Không vua ca Nguyn Huy Thip,…), xây dựng hình tượng
nhân vt (Thằng điên quỷ s ca Sarkadi Imre, Kafka bên b bin ca Haruki
Murakami,…), cách bố trí, lp ghép các s kin, tình tiết, to dng kết cấu văn bản (Thành
ph thy tinh ca Paul Auster, Ngưi yêu du ca Toni Morrison,…). Trong Tuyết ca
Pamuk, nh hỗn độn biu th trước nht qua hin thc hỗn độn, thm phn phân mnh
mà nhà văn phục dựng trong văn bản, đồng thi còn th hin qua li trn thuật siêu hư cấu,
th pháp dán ghép và pha trn th loại để to thành chnh th ngh thut.
Bi cnh câu chuyn trong Tuyết din ra thành ph biên gii Kars, Th Nhĩ Kỳ vào
năm 1992. Thi sĩ Ka, người đang sống lưu vong tại Đức, tr v Istanbul (Th Nhĩ Kỳ) đ lo
tang l cho m, sau rời Istanbul đến Kars để mưu cầu hnh phúc; song li mc víu vào hàng
lot các s kin chng chéo, hn lon nơi này. Sau mười hai năm lưu vong Frankfurt
c), Ka tr v Istanbul vi nim tin mãnh lit rng mình s xem được chn này nhà.
Ka không quan tâm đến chính tr, ch niềm đam bất tận dành cho thi ca. “Ka” chỉ
tên viết tt của “Kerim Alakusoglu” - h tên tht ca ông. T thời còn đi học, ông đã viết
tên “Ka” thay cho họ tên tht trong các bài kim tra, bài tp v nhà, s điểm. Trong các tp
thơ được xut bản sau này, ông đều đề tên “Ka”. Tên gọi “Ka” gợi nên s trơ trọi, xa l, d
biệt bí: “Tên gọi này đất Th trong cộng đồng người Th Đức đã được ít
tiếng tăm mang chút kỳ bí” (Orhan Pamuk, 2008: 9). Đức, Ka không th hòa nhp
vi thc tại đời sng, luôn cm thy xa l, mang tâm thức lưu vong, “người yếu nhược”
(Orhan Pamuk, 2008: 10). Tr v Th Nhĩ Kỳ, Ka mong mi, khao khát s hòa nhp, gn
gũi với đất m nhưng bất thành, bi l mi th biến chuyn quá nhanh chóng, dn tr nên
l lm, không quen. Ka cho rằng đường ph, ca hiu, rp phim, nhà ca Istanbul đã lạc
mất “phần hồn” của chúng. Istanbul, thành ph phát trin bc nht Th Nhĩ Kỳ, đã trở
thành chn không quen, xa l him. Ri Istanbul, Ka di chuyn bằng xe buýt đến
Kars, thành ph “b lãng quên” của Th Nhĩ Kỳ, vi mong mi tìm nhng gì còn sót li ca
truyn thng, vốn đã t thi Ottoman. Giống như Istanbul, Kars cũng thay đổi đến ni
Ka không nhn ra du vết xưa của thành phố: “Tựa như tất c đã tan biến mất tăm
dưới lp tuyết. Qua ca kính xe ph băng, Ka thấy những ngôi nhà chung bng tông
giống như hàng loạt ngôi nhà mc lên Th trong thp k qua, nhng bin qung cáo bng
90 TRƯỜNG ĐẠI HC TH ĐÔ HÀ NỘI
nha trong khiến mọi địa phương trông từa tựa như nhau, nhng khu hiu bu c treo
trên dây căng ngang đường” (Orhan Pamuk, 2008: 11) [3]. Trú ng khách sạn Lâu Đài
Tuyết, ngm nhìn nhng bông tuyết đang rơi, Ka nhận ra tuyết không còn khơi dy cho ông
cm giác thun khiết, tinh khôi na; mà trái li, gi ni kinh s, mt mỏi: “Tuyết không còn
đưa ông về lại các đưng ph ngp tuyết ngày còn ông cm nhn t bên khung ca
s yên n của căn hộ Nisantasi như trong truyện c tích, không tr li hy vng v cuc
sống trung lưu ông vẫn lưu giữ trong trí tưởng tượng t nhiều năm nay như nơi trú n
cui cùng, ch khởi đầu ca s nghèo kh cùng cực ông chưa biết s dẫn đến
đâu” (Orhan Pamuk, 2008: 14) [3].
Kars, tng thành ph yên bình, đang nhiều xung đột liên quan đến bu c địa
phương, thậm chí “dịch t tử” (Orhan Pamuk, 2008: 12) của nhng gái tr. Th
trưởng ca thành ph này va b bn chết góc ph ch trước đó yêu cầu d b các bao
lơn xây không phép. Kẻ ám sát nhanh chóng b bắt khai báo nhưng động gây án
quá đơn giản nên ngưi dân Kars đều cm thy tht vng, hoài nghi. Serdar Bey - ch t
báo địa phương doanh s đứng đầu Kars - va hi, li va khuyên Ka cảnh giác “Ông
cn mt v không?” (Orhan Pamuk, 2008: 17) mc luôn t hào khẳng định rng
“Thành phố ca chúng tôi mt chốn thanh bình” (Orhan Pamuk, 2008: 17) [3]. “Dịch t
tử” trở thành ni ám nh, lo s Kars, đặc biệt gia đình những gái tr. Ka bàng
hoàng, sng st khi nghe nhng chuyn t sát Kars. Các gái tr lần lượt t sát bng
nhiều phương thc: t bắn vào đầu bằng súng săn, uống thuc Mortalin, treo c bng móc
và dây thng, Nhng chuyn y diễn ra khá đột ngt, chẳng có lý do hay động cơ nào đủ
thuyết phc dẫn đến hành đng t sát. Ka hoang mang, dao động vì s chóng vánh ca kiếp
người, thương tiếc cho nhng gái tr ni tuyt vọng đã thc hiện “bước nhảy” từ
cuộc đời đến cõi chết. Trong s nhng gái t sát, Ka ấn tượng v “cô gái trùm khăn” -
người đã phản kháng mnh m trước lnh cấm khăn trùm đầu trường phạm. Trong
không khí tranh cử đầy phấn khích Kars, luật gia Muzaffer Bey - ứng viên của ghế thị
trưởng thổ lộ với Ka: “Vì không được phép đến trường với biểu tượng của Hồi giáo chính
trị trùm lên đầu, họ theo nhau tự tử” (Orhan Pamuk, 2008:27) [3]. Khăn trùm đầu, mạng
che mặt (chador) đồ vật gắn liền với người phnữ trong văn a Hồi giáo. Thời đế chế
Ottoman, khăn trùm đầu mạng che mặt trở thành “vật bất li thân” của người phụ nữ mỗi
khi ra đường, tiếp xúc với nhiều người. Mãi đến đầu thế kỷ XX, sau khi nước Cộng hòa
Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập (1923), Ataturk - tng thng Th Nhĩ Kỳ t năm 1923 - 1938,
được xem người khai sinh nước Th Nhĩ Kỳ hiện đại - chủ trương bãi bỏ tục lệ buộc phụ
nữ phải mang mạng che mặt, khăn trùm đầu đàn ông đội fez (mũ nỉ đkhông vành
tua). Nỗ lực tái thiết đất nước, Ataturk chủ trương hạn chế sự ràng buộc của đạo Hồi với
nhà nước, thay thế luật lệ Hồi giáo bằng luật pháp tương tự như hệ thống luật pháp phương
Tây (Mango, 2015) [4]. Đến cuối thế kỷ XX, chủ trương của Ataturk vẫn còn ảnh hưởng
mạnh mẽ ở Thổ Nhĩ Kỳ, ít nhiều tạo nên chia rẽ giữa nhà nước thế tục và hồi giáo chính trị.
Ka không chỉ trích hay phê phán chính sách của nhà nước, song cảm thấy tiếc nuối, băn
khoăn về sự chia rẽ còn tồn đọng ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Tr v Kars, Ka không ch tìm li khung cnh yên bình thời xưa còn muốn tìm
mt gái Th Nhĩ Kỳ để kết hôn, đặc bit càng mong mi gái y Ipek - bn
ông yêu mến ngày xưa. Đây vốn điều Ka thm nghĩ nhưng không bao gi tha nhn:
“Làm sao thể dung hòa s giáo dục Tây phương ưu ca mình vi chuyện đi tìm một
người ph n hầu như không quen biết đ kết n?” (Orhan Pamuk, 2008: 29). Trước khi
tr v Th Nhĩ Kỳ, Ka sống lưu vong, tị nn chính tr Đức “một bài báo chính tr
TP CHÍ KHOA HC - S 83/THÁNG 4 (2024) 91
ông không t viết nhưng đọc vi vàng rồi cho đăng” (Orhan Pamuk, 2008: 40). Thp k
bảy mươi, nhiều nhà biên tập, nhà văn, dịch gi Th Nhĩ Kỳ b ra tòa, kết án hoc sng
lưu vong giống như Ka. Năm 1992, trở v Kars, vì là dân t nn chính tr, Ka buc phải đến
S cảnh sát để trình din. Vốn thi ni tiếng trong ngoài nước, Ka thu hút s quan
tâm của đông đảo dân Kars, được đưa tin trên báo với tiêu đề “Ka, thi nổi tiếng ca
chúng ta đến Kars” (Orhan Pamuk, 2008:34). Thậm chí, Ka còn được mời đọc thi phm
“Tuyết” tại Nhà hát Nhân dân trong bui phát trc tiếp đầu tiên ca kênh Truyn hình biên
giới Kars. Đỉnh điểm của chương trình này việc trình din v kch mi, ci biên t v
kịch đã từ những m đầu Cộng hòa, đổi tên “Tổ quc hay tấm khăn” thành “T quc
hay khăn trùm”. Ngẫu nhiên, Ka mc víu vào bui truyn thông chính tr của nhà nước, tr
thành tâm điểm chú ý ca nhiu thành phn chính tr Kars. Hn gp Ipek tim bánh
ngọt Đời Mi, Ka tình c chng kiến mt v thm sát - mt nam thanh niên n ba phát đạn
vào v hiệu trưởng ch “Ông hiệu trưởng không cho sinh viên trùm khăn đi học” (Orhan
Pamuk, 2008: 45). Muhtar, bn ca Ka, vn ng viên của chính đng Hi giáo, nhanh
chóng b cnh sát bt gi tra khảo. Điều này làm cho Ka dâng lên ni su sâu kín trong
lòng, thương cảm cho nhng mảnh đời lưu vong, nhỏ bé - dù dng thức khác nhau: “Cuộc
đời tht nhc nhn, c hai chúng ta nay đều sng mt dạng lưu vong cũng chẳng
thành đạt ghê gm hay hnh phúc cho lm. Bóng đen của chính tr vẫn còn đè nặng lên vai
bọn mình” (Orhan Pamuk, 2008: 62). Hình nh khuôn mặt đầy máu ca Muhtar in hn
trong tâm trí ca Ka, khiến ông suy nghĩ về nhng pha tra tn, hành h người c gia
nhng lực lượng đối nghch. Nhng vấn đề v chính tr, tôn giáo Kars to nên s chia r
sâu sắc đối với người dân thành ph này. Kars, Ka lạc lõng, cô đơn và mang nỗi s sâu
thm v nhng hn lon thành ph: “Ở Kars, thành ph con người v như không
tn ti thc s. Đối vi tôi không còn nơi nào đ đi đến na. Có th nói là tôi b đày ra khỏi
lch s, khi nền văn minh” (Orhan Pamuk, 2008: 63).
Ka cho rng thế gii chứa đựng điều gì đó xa xăm, hỗn độn mà ông không th lí gii và
hòa nhp. Lam, một tín đồ Hi giáo chính tr đang bị truy lùng Kars, tìm gặp Ka để thăm
nguyên do ông tr v Th Nhĩ Kỳ. B Lam đe dọa, Ka cm thy s nhưng không mạnh
bng ni s nh người l chn này. Gp g trưởng lão Saadettin thất, Ka đối
thoi, tranh bin gay gt v đức tin tôn giáo, v đấng Allah. Đối vi Ka, Allah chú trng s
đối xng huyn giữa con người - thế giới Người mt khắp nơi: “Nhưng Thượng
đế y không đây giữa các người. Người ngoài kia, trong làn mưa tuyết đang rơi vào tim
của đêm vắng, của tăm tối ca nhng k ti nghiệp” (Orhan Pamuk, 2008: 113). Đối
thoi vi Kadife - th lĩnh của các thiếu n trùm khăn, Ka giãi bày: “Càng quen với thành
ph này hơn, tôi càng cảm giác không tài nào giải thích được cho ngưi bên ngoài hiu
nhng xy ra đây. Tôi rơi c mt cái mong manh của đời người cũng như sự
ích ca mi kh ải” (Orhan Pamuk, 2008: 128).
Trong bui truyn hình trc tiếp, tiếp ni phần đọc thơ của Ka, v kch T quc hay
khăn trùm được trình din trên sân khu. V kịch được dàn dng vi ni dung t hành
động của người thiếu n trút b đốt khăn trùm đu của mình; hai tín đồ quá khích xut
hin trng phạt ngưi thiếu n chng lại điều răn của Allah; cui cùng, những người
lính Cng hòa s xut hiện để áp gii những người cung tín ri sân khấu… Thời điểm mi
người ch đợi v cu tinh ca bui din xut hiện để “nói vài lời răn dạy, my câu chuyn
thông thái” (Orhan Pamuk, 2008: 176) theo kịch bn thì hai bên sân khu ca hu,
những người lính len qua các hàng ghế để trèo lên sân khấu chĩa súng xuống khán gi,
sau đó họ đồng lot khai hỏa. Mãi đến loạt đạn th ba, các khán gi mi nhận ra người ta
92 TRƯỜNG ĐẠI HC TH ĐÔ HÀ NỘI
đang bắn đạn tht vào nh. Necip - cậu được xem “phiên bản” thời tr ca Ka, hai
giây trước khi trúng đạn, đã đứng lên hét to đ mọi người nghe thấy: “Dừng lại, đừng
bắn! Súng đạn thật đấy” (Orhan Pamuk, 2008: 178). Hỗn lon, chết chóc điều Ka,
người may mn sng sót sau trình din, day dt ám nh. Lnh thiết quân lut nhanh
chóng được ban b, hàng lot các cuc truy lùng, tra kho nhng k tình nghi được thc thi
toàn thành ph Kars. Nhiều người b bt vi cáo buc ly gián và ng h ch nghĩa dân tộc
Kurd. Tiếng súng thanh trng n ra khắp nơi, tạo nên din mo bất an, kinh hoàng: “Mấy
tháng sau khi tuyết đã tan, người ta còn tìm thy các xác chết khác biết rằng đêm y còn
nhiu v giết người nữa” (Orhan Pamuk, 2008: 193). Âm thanh náo động khơi dậy cho Ka
hi c v nhng cuộc đảo chính ông đã chứng kiến lúc nh, gi v quá kh riêng, hn
độn kinh hoàng. Ch phút chc, Kars tr thành chn hn lon, nguy hiểm: “Điều đó gây
s hãi cho nhiu khán gi truyn hình Kars, h c suy đoán xem trong thành phố xy ra
chuyn gì. Ai quá mt mi hoặc say rượu thì cm giác b sa chân vào mt ma trn hn
độn, những người khác s hãi phi chng kiến chết chóc, chém giết màn đêm đen”
(Orhan Pamuk, 2008: 191). B an ninh, cnh sát và Hi giáo chính tr chia rẽ, xung đt vi
nhau to nên cc din ri rm, phc tạp. Điều này làm Ka suy nghĩ rng mình v Kars
mt sai lm.
Cuc bu c Kars b hoãn không thi hạn. Sau vài ngày được chào đón, Ka li tr
thành tâm điểm trong các cuc bàn lun Kars vi nhng li gièm pha, nghi kị: “Vì cớ
mà nhân vt m ám tng trn khi Th Nhĩ Kỳ và nhiều năm nay sống Đức lại đột nhiên
xut hin đây như một tên gián điệp - gia nhng ngày nay khiến chúng ta chia r thành
các khi thế tc toàn thng, Kurd, Th Azerbaijan, cũng như làm hồi sinh luận điu
v v thảm sát người Armenia l ra chúng ta nên quên đi t lâu rồi” (Orhan Pamuk,
2008: 327). Tin báo “Kẻ được gọi là “Nhà thơ” Ka đến thành ph ca chúng ta làm gì trong
nhng ngày lon lạc này?” (Orhan Pamuk, 2008: 326) được in phát hành rng rãi làm
dy lên làn sóng ch trích, xua đuổi tên “gián điệp”, “vô thần và ph báng Allah” ở Kars. Rõ
ràng, vn không tham gia vào chính tr, v Kars ch để mưu cầu hôn nhân vi gái Th
Nhĩ Kỳ nhưng Ka lại mc víu vào những xung đt, chia r v chính tr và tôn giáo. Dù c
giải nhưng Ka vẫn không hiu vì sao mình li sa vào ma trn hn lon, ri rm thành ph
biên giới này. Để th an toàn ri khi Kars, Ka chp nhận làm “môi giới” cho Cảnh sát
với điều kin Kadife - th lĩnh của những cô gái trùm khăn - s lột khăn trùm đầu ca mình
trong bui tái din v kch T quốc hay khăm trùm Lam s đưc th t do. Bui tái din
tại Nhà hát Nhân dân cũng không kém chết chóc, hn lon so vi bui trình din lần đầu ba
ngày trước: “Trong buổi trình din lch s ti qua ti Nhà hát nhân dân giữa cơn nhit huyết
khai sáng, gái trùm khăn Kadife thot tiên vt b khăn, sau đó chĩa súng vào Sunay
Zaim, người din k ác bóp cò” (Orhan Pamuk, 2008: 371). Trong bui truyn hình trc
tiếp này, khán gi Kars kinh hoàng chng kiến din viên Sunay Zaim b bn chết súng
có đạn thật. Lam được B an ninh tr t do, song li b đội đặc nhim truy lùng và bn chết.
Ka được h tng lên xe ri khỏi Kars để tr v Đc. Ít lâu sau, Ka b phn t ca Hi giáo
chính tr bn chết trong đêm Đức nghi ng liên quan đến cái chết ca Lam. Cái chết
của Ka đã khép lại mảnh đời lc lõng, hoài nghi và bt tín nhn thc vi thc tại đời sng.
Phc dng bi cảnh văn hóa, hi Kars, Th Nhĩ Kỳ cui thế k XX, Pamuk khéo
léo phn ánh hin thc hỗn độn, thm phn phân mnh. Tu trung, hỗn độn tr thành
thuc tính tt yếu được phn ánh trong Tuyết và các tiu thuyết khác ca Pamuk, chng hn
Bo tàng ngây thơ, Xa l trong tôi, Pho đài trắng. Giống như các nhà văn hậu hiện đại
khác, Pamuk không ý đnh un nn, tái thiết hin thực đời sng; trái li, ông chp