 Chị Hiền vào làm việc tại 1 công ty nước ngoài tại  Bình  Thuận  từ  ngày  25/11/2009.  Sau  2  tháng  thử  việc,  ngày  25/01/2010,  chị  có  ký  với  công  ty  1  Hợp đồng lao động (HĐLĐ) thời hạn 1 năm.

 Khi  sắp  hết  thời  hạn  bảng  HĐLĐ  này,  Nhân  sự  công  ty  có  đưa  cho  chị  Bảng  ký  tiếp  Hợp  đồng  (Bảng  này  là  mẫu  do  công  ty  tự  thiết  kế),  nội  dung là có đồng ý ký tiếp HĐLĐ hay không? Chị  Hiền  đã  ký  tên  vào  Bảng  này,  sau  đó  nhân  sự  công  ty  lưu  lại  bảng  này  và  không  đưa  cho  chị  Hiền  1  bảng  nào,  đồng  thời  sau  khi  kí  vào  bảng  này  chị  Hiền  cũng  không  thấy  Nhân  sự  đưa  cho  chị  HĐLĐ  để  ký  tiếp  lần  2.  Chị  Hiền  tìm  hiểu  thì  được biết Nhân sự công ty căn cứ vào bảng này  để ký tiếp HĐLĐ lần 2 cho người lao động.

 Ngày  10/07/2011,  do  có  việc  gia  đình  chị  Hiền  không  thể  tiếp  tục  hợp  đồng,  chị  viết  đơn  xin  nghỉ việc và đã được Giám đốc công ty đồng ý.  Ngày 11/08/2011, chị Hiền chính thức nghỉ việc.  Trong  1  tháng  bàn  giao  công  việc,  chị  Hiền  đã  hoàn  thành  đầy  đủ  các  thủ  tục  bàn  giao  cho  công ty và các bên nhận bàn giao đều đã đồng  ý, chủ quản xác nhận.

 Tuy nhiên, sau khi nghỉ việc, công ty đã bắt chị  Hiền bồi thường nửa tháng lương và không cho  chị hưởng Trợ cấp thất nghiệp, khi hỏi lý do thì  nhân sự trả lời: "do chị Hiền đã ký tên vào Bảng  có  đồng  ý  ký  tiếp  HĐLĐ,  nên  được  xem  như  là  vi phạm Hợp  đồng,  đơn phương chấm dứt Hợp  đồng".

 Chị Hiền cho rằng: "Chị chưa ký Hợp đồng sao gọi  là vi phạm Hợp đồng? có sếp đồng ý đơn xin nghỉ  việc và hoàn thành đầy đủ thủ tục bàn giao sao lại  gọi là Đơn phương chấm dứt hợp đồng?"

 Nhân  sự  công  ty  đã  hỏi  Sở  LĐTBXH  và  trả  lời  chị  Hiền rằng : Nếu chị chưa ký Hợp đồng lần 2 nhưng  đã ký vào bảng thẩm duyệt công ty thì mọi cam kết  được áp dụng theo Hợp đồng lần 1.

 Chị Hiền thấy không hài lòng lắm với cách làm của

công ty. Bạn hãy tư vấn cho chị Hiền:

 1.  Bảng  biểu  do  công  ty  thiết  kế  như  trên  có  thể

thay thế cho HĐLĐ được không?

 2. Việc công ty buộc chị Hiền phải bồi thường nửa  tháng  lương  và  không  cho  chị  hưởng  trợ  cấp  thôi  việc là đúng hay sai? Giải thích tại sao?

 1.  Bảng  biểu  do  công  ty  thiết  kế  như  trên  không thể thay thế cho Hợp đồng lao động vì  nó  chỉ  là  bảng  khảo  sát  của  công  ty  đối  với  các nhân viên khi sắp hết hạn hợp đồng rằng  có  muốn  tiếp  tục  làm  việc  với  công  ty  nữa  không,  nếu  muốn  tiếp  tục  thì  công  ty  có  thể  cân nhắc kí tiếp hợp đồng và lúc này công ty  phải  kí  1  bản  hợp  đồng  hợp  pháp  theo  quy  định  tại  Khoản  2  Điều  27  chứ  không  thể  dựa  vào bảng khảo sát để xác nhận rằng hợp đồng  lần  2  đã  được  kí  kết,  việc  này  là  không  đúng  với quy định của pháp luật lao động.

 2. Việc làm trên của công ty là sai, vì Theo quy  định tại Khoản 2 Điều 27 BLLĐ (đã sửa đổi bổ  sung  năm  2007),  khi  HĐLĐ  xác  định  thời  hạn  hết  hạn  mà  người  lao  động  vẫn  tiếp  tục  làm  việc  thì  trong  thời  hạn  30  ngày  kể  từ  ngày  HĐLĐ hết hạn, hai bên phải ký kết HĐLĐ mới,  nếu  không  kí  kết  hợp  đồng  với  thì  hợp  đồng  đã  giao  kết  trở  thành  hợp  đồng  không  xác  định thời hạn. Như vậy khi hết hạn hợp đồng,  công ty đã không giao kết một hợp đồng mới  do  đó  hợp  đồng  đã  giao  kết  đương  nhiên  trở  thành  hợp  đồng  không  xác  định  thời  hạn  và  như vậy chỉ cần chị Hiền báo trước cho công  ty  ít  nhất  45  ngày  trước  khi  thôi  việc  chị  sẽ  được  hưởng  trợ  cấp  thôi  việc  và  không  phải  bồi thường cho công ty.

 Vào  năm  2003,  Nam  vào  làm  việc  ty  X,  cho  công  Nam  được  công  ty  đưa  lên  Sài  Gòn  học  2  năm,  học  phí  do  công  ty  đóng.

 Trong  khi  học,  công  ty  bắt  Nam  cam  kết  sau  khi  học  xong  phải  làm  cho  công  ty  7  năm, nếu không thì phải bồi thường chi phí  đào  tạo,  cam  kết  được  ký  lúc  Nam  đang  học  năm  2004,  lúc  đó  chưa  ký  hợp  đồng  lao động.

 Sau khi học xong là năm 2005, do công ty  chưa cần người nên Nam phải làm ở ngoài  1  năm,  đến  gần  cuối  năm  2006,  công  ty  mới  gọi  Nam  vào  làm  và  cho  đến  nay  thì  Nam  đã  ký  3  hợp  đồng  lao  động  rồi,  mấy  hợp  đồng  lao  động  trước  là  có  xác  định  thời  hạn,  chỉ  có  bản  hợp  đồng  gần  đây  nhất, cách đây khoảng 1 năm là không xác  định thời hạn.

Hỏi: Nếu sắp tới Nam muốn xin nghỉ việc và báo  trước  45  ngày  thì  Nam  có  phải  bồi  thường  phí đào tạo không? Thời  gian  phục  vụ  công  ty  sau  khi  đào  tạo  được tính bắt đầu vào lúc nào? Lúc Nam vào  công ty làm hay là lúc Nam ra trường? Thời  gian Nam làm ở ngoài 1 năm có tính vào thời  gian phục vụ cho công ty hay không? Lúc Nam tốt nghiệp, công ty đã giữ lấy bằng  cấp  của  Nam,  vậy  sau  khi  Nam  nghỉ  làm,  Nam có thể lấy lại được tất cả không?

 1. Nam  đã ký hợp  đồng làm việc không xác  định  thời  hạn.  Sắp  tới,  Nam  dự  định  xin  đơn  phương  chấm dứt hợp đồng lao động bằng việc thông báo  cho người sử dụng lao động biết trước 45 ngày là  đúng  theo  quy  định  tại  Điều  37  Bộ  luật  lao  động  sửa  đổi,  bổ  sung  năm  2007.  Tuy  nhiên  do  Nam  được  công  ty  tuyển  vào  học  nghề  và  Nam  cũng  đã ký vào cam kết sau khi học xong phải làm việc  cho  công  ty  7  năm,    nếu  không  thì  phải  bồi  thường  chi  phí  đào  tạo,  hiện  tại  Nam  vẫn  chưa  hoàn thành thời gian làm việc như đã cam kết sau  khi  đào  tạo  nên  nếu  nghỉ  việc  Nam  sẽ  phải  bồi  thường  chi  phí  đào  tạo  cho  công  ty  theo  đúng  quy định của pháp luật lao động.

 2.  Theo  quy  định  tại  Khoản  1  Điều  33  BLLD,  sửa  đổi bổ sung năm 2007 thì “hợp đồng lao động có  hiệu lực từ ngày giao kết, hoặc từ ngày do hai bên  thỏa  thuận  hoặc  từ  ngày  người  lao  động  bắt  đầu  làm  việc”.  Trên  thực  tế  việc  Nam  không  làm  cho  công  ty  từ  năm  2005  đến  năm  2006  nguyên  nhân  xuất phát từ công ty nên Nam. Vậy thời gian 1 năm  bạn  làm  việc  ở  ngoài  không  được  tính  vào  thời  gian  Nam  làm  việc  cho  công  ty.  Do  đó,  thời  gian  bắt đầu làm việc ở tại công ty là năm 2006 và đây  là mốc để tính thời gian làm việc cam kết sau khi  Nam học xong.

 3.  Việc  công  ty  yêu  cầu  Nam  nộp  lại  bằng  cấp  cũng  chỉ  là  cách  để  công  ty  đảm bảo Nam thực hiện theo  đúng cam  kết  của  mình.  Nên  sau  khi  hoàn  thành  nghĩa  vụ  thanh  toán  các  khoản  chi  phí  đào  tạo,  Công  ty  sẽ  hoàn  trả  đầy  đủ  bằng  cấp  cho  Nam.  Trường  hợp  dù  đã  thanh  toán  đầy  đủ  mà  công  ty  vẫn  không  trả  thì  Nam  có  thể  khởi  kiện  yêu  cầu công ty trả lại bằng cấp cho mình.

 Tháng

2/2008,  tập  thể  lao  động  công  ty  Phong  Phú  có  trụ  sở  tại  Tỉnh  Bình  Dương  tranh  chấp  với  lợi  NSDLĐ  về  ích.

 Sau  khi  đã  hòa  giải  ở  Hội  đồng  hòa  giải  và  trọng tài, NLĐ vẫn không đồng ý. Hơn 50% số  lao  động trong công ty Phong Phú  đã đồng ý  phương  án  Đình  công  nhưng  BCH  công  đoàn  không  chấp  nhận.  Tập  thể  NLĐ  đã  cử  ra  đại  diện  để  tiến  hành  đình  công.  Tập  thể  NLĐ  đã  tuân  theo  các  thủ  tục:  lấy  ý  kiến,  gửi  quyết  định  đình  công  đến  3  nơi  sau  đó  tiến  hành  đình công.

 1.  Đây  là  trường  hợp  đình  công  hợp  pháp

hay bất hợp pháp. Tại sao?

 2. Giả định rằng: Tòa Lao động TAND tỉnh  Bình Dương đã ra quyết định đây là 1 cuộc  đình công bất hợp pháp, buộc phải ngừng  đình  công  ngay,  đồng  thời  Tòa  cũng  yêu  cầu  NSDLD  phải  trả  lương  cho  toàn  bộ  NLĐ  trong  thời  gian  ngừng  việc  để  đình  công  (vì  lý  do  NSDLD  là  có  lỗi  để  xảy  ra  cuộc đình công đó). Hãy nêu nhận xét của  bạn  về  việc  giải  quyết  đình  công  trên  của  Tòa lao động TAND tỉnh Bình Dương?

 Đây là trường hợp đình công bất hợp pháp vì theo  Điều  173  Luật  sửa  đổi  bổ  sung  một  số  điều  của  Bộ  luật  Lao  động  2007  thì  một  trong  những  trường  hợp  đình  công  bất  hợp  pháp  là  :“Việc  tổ  chức và lãnh đạo đình công không tuân theo quy  định tại Điều 172a”, theo Điều 172a thì đình công  phải do Ban chấp hành công đoàn cơ sở tổ chức  và  lãnh  đạo,  đối  với  doanh  nghiệp  chưa  có  Ban  chấp  hành  công  đoàn  cơ  sở  thì  việc  tổ  chức  và  lãnh  đạo  đình  công  mới  do  đại  diện  tập  thể  lao  động  cử  ra  và  việc  cử  này  cũng  đã  được  thông  báo với công đoàn cấp huyện hoặc tương đương.  Tình huống trên đây thuộc trường hợp đã có công  đoàn  tại  cơ  sở  do  vậy  việc  đình  công  phải  do  công  đoàn  cơ  sở  tổ  chức  và  lãnh  đạo,  như  vậy,  việc tập thể người lao động ở đây tự ý cử đại diện  tiến hành đình công là trái với quy định của pháp  luật.

 Ý  kiến  bổ  sung:  quy  định  của  Điều  172a  còn  khá  nhiều bất cập, trên thực tế vai trò của công đoàn cơ  sở  còn  yếu  kém  và  hoạt  động  không  hiệu  quả,  vì  hầu hết chủ tịch công đoàn công ty thường rất thân  thiết với người sử dụng lao động và thường nghiêng  về  giới  chủ  nhiều  hơn  do  đó  việc  phụ  thuộc  vào  ý  kiến của ban chấp hành công đoàn cơ sở sẽ khiến  cho việc đình công của người lao động rất khó thực  hiện.  Mặt  khác,  dù  gì  thì  công  đoàn  cũng  là  người  lao động, nếu họ có ý chống đối lại người sử dụng  lao động không khác nào “tự hại mình”, có gì đảm  bảo  sau  khi  đình  công  được  giải  quyết,  người  lao  động  trong  công  đòan  sẽ  không  gặp  phải  cái  nhìn  thiếu thiện cảm từ người sử dụng lao động.Điều đó  đẫn  đến  1  thực  tế  là  trong  số  hàng  ngàn  các  vụ  tranh  chấp  ­  đình  công  diễn  ra  trong  thời  gian  qua  trên  cả  nước  rất  ít  các  cuộc  đình  công  do  công  đoàn  đứng  ra  lãnh  đạo.  Điều  đó  cho  thấy  sự  yếu  kém của tổ chức này trong các doanh nghiệp.

 2.  Quyết  định  trên  của  Tòa  án  nhân  dân  tỉnh Bình Dương là sai vì theo quy định tại  Khoản  1  và  2  Điều  174d  Bộ  luật  Lao  động  đã  được  sửa  đổi  bổ  sung  năm  2007  thì  người  lao  động  tham  gia  đình  công  không  được  trả  lương  và  các  quyền  lợi  khác  theo  quy  định  của  pháp  luật  trừ  trường  hợp  2  bên có thỏa thuận khác. Và chỉ những NLĐ  không  tham  gia  đình  công  nhưng  ngừng  việc  vì  lí  do  đình  công  thì  được  trả  lương  ngừng việc theo quy định tại Khoản 2 Điều  62 BLLĐ và các quyền lợi khác.

 Năm  2005,  anh  T  ký  hợp  đồng  lao  động  không  xác  định thời hạn để làm công nhân cho một công ty của  Nhật Bản có chi nhánh tại Việt Nam. Năm 2007, công  ty  thông  báo  hứa  thưởng  cho  nhân  viên  cũ  có  công  giới thiệu nhân viên mới vào công ty. Nếu người mới  ký hợp đồng và làm việc dưới hai tháng thì người giới  thiệu được thưởng 50 000 đồng, làm trên hai tháng thì  thưởng  100  000  đồng,  làm  trên  sáu  tháng  thì  thưởng  150 000 đồng.

 Muốn  hưởng  tiền  thưởng,  anh  T.  mạo  nhận  mình  có  giới  thiệu  một  số  nhân  viên  mới.  Thật  không  may,  công ty phát giác hành vi mạo nhận này nên đưa anh  T. ra xem xét kỷ luật. Bởi lẽ khi đối chiếu thực tế, các  nhân  viên  do  anh  T.  mạo  nhận  giới  thiệu  đã  khẳng  định mình không hề quen biết anh T., cũng chưa từng  nhờ anh nộp hồ sơ giúp.

 Cuối tháng 2­2008, công ty lập biên bản kỷ luật  anh  T.  về  hành  vi  “vi  phạm  gian  dối  để  nhận  tiền  công  ty”,  đồng  thời  ra  quyết  định  sa  thải  anh  T.  với  lý  do  “lừa  dối  nhận  tiền  công  ty”.  Điều  này  đồng  nghĩa  với  việc  công  ty  đã  đơn  phương  chấm  dứt  hợp  đồng  lao  động  đối  với  anh.

 Cho  rằng  mình  bị  sa  thải  trái  luật,  tháng  10  –  2008,  anh  T.  nộp  đơn  kiện  công  ty  ra  TAND  quận nơi công ty đặt trụ sở. Theo anh T., hành  vi mạo nhận của mình tuy có thật nhưng mới là  sai  phạm  lần  đầu, chưa  gây  thiệt hại  cho công  ty. Bởi lẽ anh chưa nhận của công ty một đồng  tiền thưởng nào. Giả như hành vi mạo nhận có  trót lọt thì tiền thưởng anh nhận được cũng chỉ  khoảng  600  000  đồng.  Anh  T.  nói  công  ty  cần  áp dụng hình thức kỷ luật khác tương xứng với  vi phạm của anh, chứ sa thải thì quá nặng.

 Anh T. khẳng định công ty họp xét kỷ luật sa thải  mà không mời anh tham gia. Trong đơn khởi kiện,  anh yêu cầu tòa án hủy bỏ quyết định sa thải của  công  ty,  buộc  công  ty  nhận  anh  trở  lại  làm  việc.  Ngoài  ra,  anh  còn  yêu  cầu  công  ty  trả  cho  mình  hơn 20 triệu đồng, bao gồm tiền bồi thường vì bị  sa  thải  trái  luật  và  tiền  lương  trong  những  ngày  anh không được làm việc. Nếu không muốn nhận  anh trở lại làm việc, công ty phải trả cho anh trợ  cấp thôi việc cùng một khoản tiền thỏa thuận để  chấm dứt hợp đồng.

 Được biết, khi xem xét đơn kiện, TAND quận từng  yêu  cầu  anh  T.  rút  đơn  vì  cho  rằng  vụ  án  này  buộc phải thông qua thủ tục hòa giải tại cơ sở.   Bạn  hãy  phân  tích  những  sai  phạm  trong  tình

huống trên ?

 Về  yêu  cầu  của  TAND  quận  giải  quyết  vụ  việc:  Căn  cứ  vào  Điểm  a  Khoản  2  Điều  166  BLLĐ  đã sửa đổi bổ sung năm  2007  thì  trường  hợp  này  không  bắt  buộc  phải  qua hòa giải tại cơ sở do  đó  yêu  cầu  của  TAND  quận  yêu  cầu  anh  T  rút  đơn là sai.

 Về phía công ty: Công ty trên đã làm

không đúng cả về hình thức lẫn nội dung  khi sa thải anh T. Xét các trường hợp áp  dụng hình thức sa thải tại Điều 85 BLLĐ có  trường hợp NLĐ “có hành vi trộm cắp,  tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh  doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại  nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của doanh  nghiệp” thì bị sa thải. Trong tình huống  trên, hành vi lừa dối của anh T chưa gây  thiệt hại cho công ty vì anh T chưa nhận  của công ty một đồng tiền thưởng nào nên  đây không phải là thiệt hại nghiêm trọng  do đó anh T không thuộc trường hợp sa  thải này.

 Mặt khác đây mới là sai phạm lần đầu,nên  có thể áp dụng hình thứ ký luật khiển trách  là phù hợp với quy định tại Khỏan 1 Điều 6  Nghị định 41/1995 hướng dẫn về ký luật lao  động và trách nhiệm vật chất: “Hình thức  khiển trách bằng miệng hoặc bằng văn  bản được áp dụng đối với NLĐ phạm lỗi  lần đầu, nhưng ở mức độ nhẹ”. Ngay việc  họp xem xét xử lý kỷ luật mà không có anh  T. tham gia đã đủ cơ sở để tòa án tuyên  hủy quyết định sa thải.

 T  thường  trú  tại  phường  Quan Hoa, quận Cầu giấy  là  kĩ  sư  kĩ  thuật  giao  kết  hợp  đồng  lao  động  không  xác  định  thời  hạn  với  ngân  hàng  ACB,  làm  việc  tại  chi  nhánh  Trung  Yên,  quận  Thanh  Xuân,  Hà  Nội.  Trước  khi  thực  hiện  hợp  đồng  lao  động,  T  có thời gian thử việc là  2 tháng.

 Trước khi thực hiện hợp đồng lao động, T có

thời gian thử việc là 2 tháng.

 Trong  thời  gian  thử  việc,  T  được  cử  đi  Singapore  học  lớp  huấn  luyện  nghiệp  vụ  vận hành và bảo trì máy rút tiền ATM trong  thời  gian  2  tuần  với  chi  phí  do  ngân  hàng  đảm  bảo.  Sau  3  tháng  thực  hiện  hợp  đồng  chính thức, T trúng tuyển khóa đào tạo sau  đại  học  tại  Singapore  với  học  bổng  100%  theo  hợp  đồng  hợp  tác  đào  tạo  giữa  Singapore  và  ngân  hàng,  thời  gian  đào  tạo  là 2 năm, bắt đầu từ ngày 1/6/2004.

T  được  cử  đi  học  với  cam  kết  sau  khi  học  xong sẽ tiếp tục thực hiện hợp đồng ít nhất  là 5 năm, nếu không sẽ bồi thường toàn bộ  chi  phí  và  khoản  tiền  tương  ứng  với  tiền  lương, thưởng đã hưởng từ ngân hàng từ khi  bắt  đầu  làm  việc.  Hết  thời  gian  học,  T  làm  đơn  xin  tạm  hoãn  hợp  đồng  thêm  1  tháng  nữa để giải quyết một số công việc cá nhân,  ngân hàng không chấp thuận và yêu cầu T  phải  có  mặt  tại  nơi  làm  việc  vào  ngày  10/6/2006.  Ngày  17/6/2006,  T  vẫn  không  có  mặt tại nơi làm việc nên ngân hàng ra quyết  định sa thải và buộc T bồi thường theo cam  kết  lên  đến  205.000.000đ.  Ngày  10/7/2006  T  về nước và không đồng ý với quyết định sa  thải với lí do về muộn vì bị ốm.

 Cơ  quan  nào  có  thẩm  quyền  giải  quyết tranh chấp nếu T yêu cầu?

 Tranh  chấp  lao  động  giữa  T  và  ngân  hàng

ACB là tranh chấp lao động cá nhân.

 Theo quy định tại Điều 165 BLLĐ: Thì nếu T  có  yêu  cầu  thì  các  cơ  quan  có  thẩm  quyền  giải  quyết  là  hội  đồng  hòa  giải  cơ  sở,  hòa  giải  viên  lao  động  hoặc  Tòa  án  nhân  dân  (Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân)

 Đồng  thời  căn  cứ  vào    khoản  2  Điều  166  BLLĐ thì loại tranh chấp về xử lý kỉ luật theo  hình  thức  sa  thải  T  của  ngân  hàng  không  cần thông qua hòa giải và T có thể trực tiếp  gửi  đơn  yêu  cầu  giải  quyết  tranh  chấp  lên  Tòa  án  nhân  dân  mà  không  thông  qua  việc  hòa giải ở Hội đồng hòa giải cấp cơ sở hoặc  hòa giải viên lao động.

 Nhận xét về quyết định sa  thải T?

 Quyết định sa thải T của ngân hàng ACB trong  trường  hợp  trên  là  đúng  về  nội  dung  (hình  thức)  sa  thải,  nhưng  sai  về  mặt  trình  tự  (thủ  tục)

 Về hình thức xử lý kỉ luật sa thải thì ngân hàng  ACB  đã  thực  hiện  đúng.  Vì  T  đã  vi  phạm  vào  điểm c khoản 1 Điều 85.

 T đã làm đơn xin tạm hoãn hợp đồng lao động  không phù hợp với những quy định tại Điều 35  BLLĐ  về  các  trường  hợp  được  tạm  hoãn  hợp  đồng  lao  động.  Vì  vậy  việc  Ngân  hàng  không  chấp  nhận  đơn  xin  tạm  hoãn  hợp  đồng  lao  động và yêu cầu T phải có mặt tại ngân hàng  và  làm  việc  vào  ngày  10/6/2006  là  hợp  lý.  Nhưng  ngày  17/6/2006  T  vẫn  không  có  mặt  ở  công ty, như vậy T đã tự ý bỏ việc.

 Tổng  thời  gian  nghỉ  việc  của  T  là  7  ngày  trong  một  tháng  và  không  có  lý  do  chính  đáng (điểm c khoản 1 Điều 85 BLLĐ).

 Tuy  nhiên,  việc  sa  thải  T  của  ngân  hàng  được  tiến  hành  sai  quy  định  về  trình  tư,  thủ  tục xử lý kỉ luật sa thải của pháp luật.

 Ngân hàng ACB đã vi phạm khoản 2 Điều 38  BLLĐ  khi  không  hề  thực  hiện  việc  trao  đổi  với ban chấp hành công đoàn cơ sở mà sau  7 ngày kể từ ngày ngân hàng ấn định nhưng  T không có mặt ngân hàng đã ra quyết định  sa thải đối với T.

 Đồng  thời  ngân  hàng  cũng  vi  phạm  quy  định tại khoản 3 Điều 87 BLLĐ khi ra quyết  định sa thải khi không có mặt T và không  có  sự  tham  gia  của  đại  diện  Ban  chấp  hành công đoàn cơ sở trong ngân hàng.

 Giải  quyết  quyền  lợi  cho  T  theo quy định của pháp luật  hiện hành?

 Quyết định sa thải T của ngân hàng là đơn  phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.  Theo  quy  định  tại  Điều  94  BLLĐ  thì  ngân  hàng ACB phải hủy bỏ quyết định sa thải,  xin  lỗi  công  khai,  khôi  phục  danh  dự,  quyền  lợi  vật  chất  cho  T  (theo  khoản  1  Điều 41 BLLĐ)

 Ngân  hàng  ACB  phải  nhận  T  quay  trở  lại  làm  việc  theo  hợp  đồng  đã  kí  trước  đó  và  ngân hàng phải bồi thường một khoản tiền  tương ứng với tiền lương và phụ cấp lương  (nếu  có)  trong  những  ngày  không  được  làm  việc  và  cộng  với  ít  nhất  hai  tháng  lương và phụ cấp lương (nếu có).

 Trường  hợp  nếu  T  không  muốn  trở  lại  làm  việc  tại  ngân  hàng  ACB  thì  ngoài  khoản  bồi  thường  tương  ứng  với  tiền  lương  lại  làm  việc  và  phụ  cấp  lương  (nếu  có)  cộng  với  ít  nhất  hai  tháng  tiền  lương  và  phụ cấp lương (nếu có) thì T còn được trợ cấp theo  quy định tại Điều 42 Bộ luật lao động hưởng trợ cấp  thôi việc.

 Còn trường hợp, nếu ngân hàng không muốn nhận  T  trở  lại  làm  việc  và  được  T  chấp  thuận  thì  ngoài  việc T được nhận khoản bồi thường tương ứng với  tiền lương và  phụ cấp lương (nếu có) trong những  ngày  không  được  làm  việc;  ít  nhất  hai  tháng  tiền  lương  và  phụ  cấp  lương  (nếu  có);  khoản  tiền  trợ  cấp  thôi  việc  với  mỗi  năm  làm  việc  là  nửa  tháng  tiền lương và phụ cấp lương nếu có như trường hợp  thứ  hai  ở  trên,  T  còn  được  nhận  thêm  một  khoản  tiền bồi thường thêm cho người lao động để chấm  dứt hợp đồng lao động đã được T và ngân hàng ký  kết.

 Ngoài các quyền lợi được giải quyết ở trên,  trong trường hợp hai và ba khi T chấm dứt  HĐLĐ với ngân hàng ACB thì:

 Ngân  hàng  phải  trả  lương  cho  T  trong  những  ngày  chưa  thanh  toán  tiền  lương,  nếu có.

 Chốt sổ bảo hiểm cho T  Trả  lại  hồ  sơ,  sổ  lao  động,  sổ  bảo  hiểm

cho T.

 Ý kiến cho trường hợp trên:

ế ị ộ

ế

ị ả

ế

ẽ ị

 Theo quy định, việc xử lý kỷ luật sa thải đối với  người vi phạm kỷ luật lao động phải căn cứ vào  mức  độ  lỗi  của  người  vi  phạm  và  theo  đúng  trình  tự  thủ  tục  xử  lý,  trong  đó  phải  bảo  đảm  quyền  của  người  lao  động  được  tự  bào  chữa  hoặc nhờ luật sư bào chữa để bảo vệ quyền lợi  hợp pháp của mình.  Quy t đ nh k lu t sa th i c a ng i s d ng ả ủ ỷ ậ ườ ử ụ lao đ ng ch đ c th a nh n là h p pháp khi ậ ỉ ượ ợ quy t đ nh đó v a đúng v căn c đ c quy ề ị ừ ứ ượ BLLĐ l i kho n 1 Đi u 85 đ nh t i v a đ m ạ ề ả ạ ừ c quy đ nh v th i hi u x lý k lu t b o đ ỷ ậ ử ệ ề ờ ị ượ BLLĐ) cũng nh th t c x lý k lu t ( Đi u 86 ỷ ậ ử ư ủ ụ ề ( Đi u 87 i s d ng lao đ ng BLLĐ). N u ng ộ ườ ử ụ ề không tuân th đúng các quy đ nh đó s b coi là sa th i ng

i lao đ ng trái pháp lu t.

ủ ườ

 Như  vậy,  theo  quy  định  của  pháp  luật  hiện  hành,  việc  xử  lý  kỷ  luật  lao  động  bằng  hình  thức  “sa  thải”  trước  hết  phải  căn  cứ  vào  mức  độ  lỗi  của  người  vi  phạm.  Đây  là  điều  kiện  về  nội dung. Tiếp theo là điều kiện về thủ tục: việc  xử  lý  phải  bảo  đảm  đúng  thủ  tục  để  bảo  đảm  quyền tự bảo chữa của người vi phạm, tức là họ  có quyền có mặt trong buổi họp xét kỷ luật với  tư  cách  đương  sự.  Hai  điều  kiện  này  có  mối  quan hệ chặt chẽ với nhau tạo căn cứ cho việc  xét xử lý kỷ luật được chặt chẽ, khách quan và  công minh

 Song,  có  thể  nói,  điều  kiện  quan  trọng,  có  ý  nghĩa  quyết  định  hình  thức  kỷ  luật  thế  nào  vẫn  phải  là  vấn  đề  lỗi  của  người  vi  phạm.  chẳng hạn trong tình huống trên, nếu cứ lấy  điều  kiện  thủ  tục  làm  yếu  tố  quyết  định  để  đánh  giá  tính  hợp  pháp  và  công  bằng  của  quyết  định  sa  thải  thì  một  nghịch  lý  sẽ  xảy  ra:  Người  sử  dụng  lao  động,  do  sơ  suất  nào  đó về mặt thủ tục sẽ phải nhận lại người lao  động  mà  sự  vi  phạm  của  họ  đã  khiến  bản  thân họ xứng đáng bị sa thải. Đây quả là một  thiệt thòi cho người sử dụng lao động.

 Vấn đề này cần nghiên cứu sâu hơn để có  giải pháp có hiệu quả trong việc giải quyết  các tranh chấp lao động. Nên chăng có thể  cho  phép  Tòa  án  khi  gặp  phải  các  trường  hợp  này,  có  quyền  hủy  quyết  định  sa  thải  vi phạm thủ tục và buộc cơ quan ra quyết  định sa thải phải làm lại thủ tục theo đúng  quy  định  của  pháp  luật.  Có  như  vậy  mới  bảo  đảm  sự  công  bằng  trong  giải  quyết  các tranh chấp lao động, đặc biệt là vấn đề  kỷ luật sa thải.

 Nếu  Ngân  hàng  sa  thải  T  đúng pháp luật thì T phải bồi  thường những khoản nào?

 T  phải  bồi  thường  cho  ngân  hàng  nửa  tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có)  ­ theo quy định tại khoản 2 Điều 41 BLLĐ.  T  phải bồi  thường  cho ngân  hàng toàn  bộ  chi  phí  đào  tạo  trong  quá  trình  T  được  cử  đi  đào  tạo  tại  Singapo  ­  theo  quy  định  tại  khoản 3 Điều 41 BLLĐ.

 Cùng  với  chi  phí  đào  tạo,  T  còn  phải  bồi  thường  cho  ngân  hàng  một  khoản  chi  phí  khác  hỗ  trợ  cho  việc  học  của  T  do  ngân  hàng trả nếu trước đó giữa ngân hàng và T  có thỏa thuận.