TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế Tập 4, Số 2 (2016)
7
KẾT CẤU TỰ S TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM SAU NĂM 1986
Nguyễn Văn Hùng
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế
Email: nguyenvanhungdhkhhue@gmail.com
TÓM TẮT
Tiểu luận nhận diện, phân tích những đổi mới trong hhình duy tự sự của tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam sau 1986 từ bình diện kết cấu tự sự. Những thể nghiệm sáng tạo mới mẻ
của các tiểu thuyết gia về lối kết cấu đa tầng, phân mảnh; kết cấu đồng hiện và kết cấu liên
văn bản… hướng tới phản ánh hiện thực lịch sử con người trong sphức hợp, nhiều
chiều. Nhìn từ bình diện kết cấu tự sự, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 một bước
phát triển mới của tiểu thuyết lịch sử i riêng tiểu thuyết Việt Nam nói chung. Bước
phát triển này không chỉ ảnh xạ của những vấn đề lịch sử, văn hóa, hội, khung tri
thức thời đại trong không gian sáng tạo mới sau 1986, n cả về phương diện cách tân
tiểu thuyết để hòa nhập vào nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới.
Từ khóa: kết cấu tự sự, luận giải lịch sử, tiểu thuyết lịch sử.
Kết cấu phạm tbề sâu của cấu trúc truyện kể. Các nhà luận đã nhận thấy tầm
quan trọng lớn lao của nhân tố này trong việc kiến tạo hệ hình (paradigm) duy tiểu thuyết
hiện đại/hậu hiện đại, đồng thời đặt nó lên tầm mô thức của văn hóa. Kết cấu tự sự trở thành hệ
quy chiếu các giá trị văn học, hiểu theo nhiều trường nghĩa: tư duy sáng tạo, hiệu quả tiếp nhận,
khả năng tồn tại dưới dạng vật chất/phi vật chất, không gian/phi không gian của văn học.
Khước từ hình kết cấu truyền thống, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986
trong nỗ lực “vượt thoát” nhằm làm mới thể loại đã tổ chức nhiều mô hình kết cấu độc đáo. Đối
với tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết lịch sử, những yêu cầu phương diện kết cấu tính
chất bắt buộc phần nào đã “trói buộc” sự sáng tạo của nhà văn: tác phẩm phải cốt truyện rõ
ràng, mạch lạc; hệ thống sự kiện vừa đảm bảo tính khách quan, chân xác, vừa phải được sắp xếp
theo một trật tự nhất định… Tuy vậy, mỗi người một cách, nhiều tác giả đã cố gắng tìm cho
mình những phương thức kết cấu tối ưu nhất nhằm chiếm lĩnh, khám phá luận giải lịch sử,
văn hóa, con người chiều sâu. Với những thể nghiệm nh đột phá ấy, tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam sau năm 1986 đã dần chủ động tiệm cận, chiếm lĩnh những phương thức nghệ thuật
hiện đại/hậu hiện đại của thế giới.
1. Nới lỏng “khung” kết cấu truyền thống
“Khung” theo quan niệm của Iu.Lotman bình diện kết cấu dễ nhận biết nhất của tác
phẩm nghệ thuật. Tác phẩm văn học cũng có khung, giống như khung của bức tranh, pho tượng,
hay sàn diễn của nhà hát” [7, tr.155]. Đặc trưng của thể loại tiểu thuyết lịch s tái hiện bức
Kết cấu tự sự trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986
8
tranh lịch sử của một triều đại, một giai đoạn, làm phông nền cho những suy về lịch sử, văn
hóa của nhà văn. Vì thế, trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trước và sau năm 1986, nhiều tác giả
đã dựa hẳn vào khung lịch sử của một/nhiều triều đại, một/nhiều thời đại làm điểm tựa để dựng
khung truyện kể.
Dựa vào khung lịch sử của các triều đại để dựng khung truyện kể là kiểu kết cấu truyền
thống của tiểu thuyết phương Đông, đặc biệt trong thể loại chương hồi. như Tam quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung, Tuỳ Đường diễn nghĩa của Chử Nhân Hoạch, hay Hoàng nhất
thống chí của Ngô gia văn phái, Hoàng Việt hưng long chí của Ngô Giáp Đậu. Kiểu kết cấu này
cho phép tác giả dễ dàng mở rộng quy mô truyện kể, bao quát không gian rộng lớn với nhiều sự
kiện, nhiều tuyến nhân vật để tạo nên những bộ trường thiên tiểu thuyết.
Nếu tác phẩm nghệ thuật như “một ngôi nhà”, ràng ngôi nhà ấy sẽ được dựng nên
bởi nhiều chất liệu, nhiều bộ phận lớn nhỏ. Tiểu thuyết, nhất là các tác phẩm có dung lượng lớn,
nội dung của nó luôn được phân chia thành các chương, hồi, mục, đoạn, phần. Các phần, đoạn,
chương, hồi, mục chính là các “cột lớn”, “cột nhỏ” dựng lên, làm giá đỡ cho khung ngôi nhà tác
phẩm văn học. Nhiều tác giả viết về đề tài lịch sử cũng đang xu hướng quay trở lại với cách
dựng “khung” của mô hình tiểu thuyết truyền thống.
Tuy nhiên cũng nên nói một chút về sự khác biệt để khẳng định những tìm tòi, đổi mới
của các nhà văn so với giai đoạn trước. Điều khác biệt này gắn liền với cách thức sử dụng chất
liệu ngôn từ mối tương quan giữa cái biểu hiện (lời) - cái được biểu hiện (nội dung). Các tác
giả truyền thống khi đặt nhan đề cho tác phẩm, từng chương, hồi bao giờ cũng cố gắng chuyển
tải tối đa nội dung sẽ được triển khai tiếp sau. Nghĩa là, lời được sử dụng bao giờ cũng phải ôm
khít, bao bọc phản ánh gần như trọn vẹn nghĩa bên trong của văn bản. Người đọc thông qua
hệ thống tiêu đề này để đoán định những sự kiện, biến cố sắp được kể. như nhan đề hồi thứ
nhất trong Tam Quốc diễn nghĩa: “Tiệc vườn đào anh hùng kết nghĩa/Chém Khăn Vàng, hào
kiệt lập công”, hay hồi thứ nhất trong Hoàng nhất thống chí: “Đặng Tuyên Phi được yêu
dấu, đứng đầu hậu cung, Vương Thế tử bị truất ngôi, ra nhà kín” đã bao quát gần như toàn bộ
nội dung sẽ được triển khai trong hồi. Trong khi đó tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau m
1986, cách đặt tên chương, hồi kngắn gọn, không theo trình tsự kiện, hành động hay nhân
vật, khi làm rối nghĩa, mờ nghĩa; thậm chí nhiều tác phẩm không đặt tên phần, hồi hay
chương chỉ đánh số thứ tự ngẫu nhiên khiến người đọc “lạc đường” bằng những sự kiện,
biến cố không được sắp xếp theo trật tự niên đại thời gian.
Mặt khác, nguyên tắc dựng khung của hình tự sự hiện đại cũng rất khác với truyện
kể trung đại. Trong truyện kể trung đại, khung thường dựa vào một truyện hoặc một chuỗi
truyện. Chuỗi truyện này nhiều sự kiện, tình tiết đến đâu cũng đều hướng về một hành
động trung tâm - cốt truyện chính theo đchia năm phần: Mở đầu - Phát triển - Đỉnh điểm -
Thắt nút - Kết thúc. Chính vậy, kết cấu “khung” của t sự truyền thống khá cứng nhắc,
nguyên khối, ít đột biến, vai trò sáng tạo của nhà văn bị hạn chế tối đa. Trong truyện kể hiện đại
thì khác hẳn, vai trò chủ quan của tác giả được tận dụng tối ưu, sự “phi trung tâm” hành động và
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế Tập 4, Số 2 (2016)
9
nhân vật, sự cắt rời, lỏng lẻo của các chương, đoạn, buộc người đọc phải liên tục kết nối, tưởng
tượng, sắp xếp.
Thật vậy, tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau m 1986 phá bỏ nguyên tắc thống nhất
hành động của khung truyện kể trung đại. Nhìn vào hệ thống tiêu đề các phần, chương trong Hồ
Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam),
Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Sương
tháng Giêng (Uông Triều), ta thấy ngay sự thiếu vắng của một hành động trung tâm,
xuyên suốt. Một khi khung truyện kể nới lỏng, hệ chủ đề sẽ được mở rộng, đa dạng và phức tạp
hơn. Ngoài những suy tư, trăn trở về số phận con người trong các cuộc biến thiên lịch sử, các
nhà văn còn “giải lịch sử”, soi rọi các vấn đề của quá khứ dưới góc độ đời tư - thế sự - nhân
văn: khát vọng tự do, tình yêu đôi lứa, hạnh phúc gia đình, giải phóng bản năng, ý chí quyền
lực, bi kịch nhân… một phương diện khác, thủ pháp chuyển điểm nhìn vào nhân vật hoặc
chiến lược đa tầng bậc người kể chuyện, gấp bội điểm nhìn đã khiến các phần, các chương hiện
diện như những bức chân dung, những khung cảnh, hay những mảnh truyện chắp nối giống như
bè phối trong dàn giao hưởng.
Việc chia cuốn tiểu thuyết ra thành từng phần, các phần thành chương, các chương
thành đoạn, tiết, nói theo cách của M.Kundera đó cách thức nhằm vào “việc phát âm rành rọt
của tiểu thuyết”, tạo nên “sự sáng sủa” trong kết cấu truyện kể [6, tr.91]. tiểu thuyết, các
phần, chương, “tiết” tuy không xa rời chủ đề chính của văn bản, nhưng lại được gắn kết với
nhau một cách lỏng lẻo, thậm chí lộn xộn, ngẫu nhiên. Sự phá vỡ nguyên tắc thống nhất,
xuyên suốt của hành động trung tâm nỗ lực cách tân truyền thống ttâm thức, cái nhìn hiện
đại/hậu hiện đại, gắn với nguyên tắc đối thoại của tiểu thuyết. Điều đó không những giúp những
thiên tiểu thuyết của các nhà văn mở rộng khung, tạo ra một không gian truyện kể đa tầng, nhiều
cấp độ, còn là cách để nhà văn thể hiện được quan niệm của mình về lịch sử, một lịch sử
không khép kín, không bất biến mà luôn vận động, tiếp diễn, nối kết và đối thoại với các vấn đề
của đời sống đương đại.
Trong nhiều tiểu thuyết sự đổi mới nằm ở chiều sâu truyện kể chứ không phải ở kết cấu
bề mặt văn bản. Nhìn n ngoài, các phần, chương của Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Hội
thề (Nguyễn Quang Thân), Đất trời (Nam Dao), Sông Côn mùa (Nguyễn Mộng Giác),
Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Sương tháng Giêng (Uông Triều)… như được sắp xếp
tuân theo lối tự sự truyền thống, tức có sự phục tùng thời gian tuyến tính của truyện kể. Tuy
nhiên, nhcó sự di chuyển điểm nn, kết hợp với những thủ pháp độc thoại nội tâm, dòng ý
thức… cho nênc truyện kể đó không đơn phiến, một chiều khép kín luôn được mở rộng
về nhiều phía: khách quan - chủ quan, lịch sử, đạo đức - đời , thế sự, n tộc - cá nhân. Lúc
này, lịch sử không chỉ được soi rọi qua c trận chiến, các sự kiện, biến cố của dân tộc
được nhìn nhận diễn giảii nhiều giác độ.
Như vậy, kết cấu “khung” đã giúp c tiểu thuyết gia dựng n bối cảnh, không khí
của một/nhiều triều đại, giai đoạn lịch sử. Các truyện kể không bị chi phối nhiều o skiện,
Kết cấu tự sự trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau năm 1986
10
biến cố lịch sử tiệm tiến đến sự phân tích, luận giải, đối thoại lịch sử, n hóa con
người chiều u. Nhàn cũng nngười đọc quyền đượcnh dung, thụ hưởng lịch sử
theo cách riêng của mình. quan trọng hơn, từ vị thế hiện đại/hậu hiện đại, người đọc có thể
đặt lịch sử trong nhiều tình huống giả định về một khng khác của tình thế lịch sử, các
quan hệ đời sống, các số phận nhân đã được ghi lại hoặc mặc định trong cnh s để đối
thoại lại, diễn giải lại, truy vấn c vấn đề ý nghĩa nhân sinh - hiện tại, kiến tạo hằng s
biến thiên của lịch sử.
2. Lạ hóa cách nhìn về lịch sử bằng lối kết cấu lắp ghép, phân mảnh, đa tầng bậc
Lp ghép, phân mnh vn thut ng của kĩ thuật điện ảnh nhưng ngày càng được ưa
chung s dng rng rãi trong ngh thut t s hiện đại. Vic s dng th pháp này khiến
cho tác phm cùng mt lúc to nên s l hoá cho đối tượng (các hiện tượng, hình nh xa nhau
khi ghép cnh nhau s to nên nhng lớp nghĩa mới), đồng thi hin thc bn bề, đa tầng ca
cuc sng nh đó mà hiện lên.
Với xu ng tiếp cn tính phức tạp của cuộc sống trong thế giới hiện đại, tiểu thuyết
đương đại thường tổ chức kết cấu phân mảnh, lắp ghép. Đây một trong những thể nghiệm,
tìm tòi đổi mới của văn xuôi Việt Nam. Phương thức này phù hợp với quan niệm hiện thực
mảnh vỡ, thậm phồn thế giới nội tâm đa chiều của con người hiện đại. Bảo Ninh (Nỗi buồn
chiến tranh), Nguyễn Bình Phương (Trí nhớ suy tàn, Thoạt thủy, Ngồi, Mình họ), Tạ Duy
Anh (Giã biệt bóng tối), Châu Diên (Người sông Mê), Phạm Thị Hoài (Thiên sứ), Nguyễn Danh
Lam (Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc)… đã để lại những dấu ấn đậm nét trong nỗ
lực tiếp cận, khám phá, thể hiện đời sống đương đại đa chiều, bề bộn.
Có th nói, tiu thuyết nói chung tiu thuyết lch s nói rng đã tiếp thu và vn dng rt
thành ng kĩ thut này, góp phn làm nên s đổi mới duy th loi. Kiu kết cu này khiến cho
ct truyn lng lo, mơ hồ, co giãn, khó nm bt. Cu trúc tác phẩm được chp ni t nhng mnh
vn ca hin thc. Tác phm va là tiếngi ca ý thc, va là “tiếng gi ca giấc mơ”, “tiếng gi
ca trò ci” (M.Kundera) th hini hin tại đang vận đng, luôn biến chuyn. Nhng tiu thuyết
tiêu biu cho li kết cu này: Gn thu (Võ Th Ho), Người đi vắng (Nguyễn Bình Pơng), Mu
Tng Ngàn (Nguyn Xuân Khánh), Minh sư (Thái Li), Đàm đạo v Điu Ng Giác Hng
(Bùi Anh Tn).
Giàn thiêu một độ lch khá gia thi gian truyn k và thi gian k chuyn. Câu
chuyện được k mang màu sc huyn o, v không đầu, không cuối, lng trong mt thi
gian vô hn: th xy ra triu Lý, lại cũng có thể trôi đến mt thời đại khác và có khi li
đang hiện din trong cuc sng ca mỗi con người hin ti. Câu chuyện được kết cu trong 4
phn: Li Phật, Ru cá bơn, Bài ca đầu lâu nhân, Bài ca chu sa đỗ t; trong mi phn li chia
thành nhiều chương nhỏ. Vi hai hình thc hi c và d thut, Giàn thiêu đã làm “đứt gãy” trc
thi gian tuyến tính ca câu chuyn, khiến ct truyn v khó nm bt, khó k li. Nếu theo
chiu thun, câu chuyn phải được k t tui tr ca T Lộ, đến quá trình tu luyn tr thành đại
sư Từ Đạo Hạnh, sau đó đầu thai vào nhà Sùng Hin hầu, mười hai năm sau lên ngôi Hoàng đế -
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – Đại học Huế Tập 4, Số 2 (2016)
11
Thn Tông. Tuy vy, Giàn thiêu lại được kết cấu theo phương thức phi tuyến tính, khiến cho
các lp thi gian b xáo trn, đan bện hin ti - quá kh, xuyên t kiếp trước đến kiếp sau.
Chương I ly mc thời gian năm 1127 khi Thn Tông va lên ngôi (12 tuổi). Đây
vừa con ngưi ca hin ti, vừa con người ca tin kiếp. T chương II (Đêm nguyên
tiêu) đến chương VIII (Ngược thác Oán),c gi quay tr li mc thời gian năm 1088 đ k v
cuộc đời s phn bt hnh ca T L cùng mi tình dang d vi Nhu Anh. So vi thi
đim hin ti ca Lý Thn Tông chương I, chuyện k v T L là câu chuyn thì quá kh.
Song quá kh y li không phải được tái hin bng gic , cũng không phi nhng ng
hi c, mt si y ni kết vi hin ti b n giu nên qkh mang hình thc ca hin
ti. T đây, câu chuyện được chia thành hai ng: (1) u chuyn v Thn Tông (gm
c chương: IX. Lãnh cung, X. Long sàng, XI. Niệm xứ, XII. Đọa xứ, XIII. Hổ, XIV.
phong, XV. Nghiệp chướng, XXII. Lãnh tiếu nhân gian; XXIII. thư, XXIV. Đoạn đầu đài,
XXV. Lửa; (2) câu chuyện về Từ Lộ - Từ Đạo Hạnh (gồm các chương: XVI. Hành ớc,
XVII. Báo n, XVIII. Thiền sư, XIX. Vinh hoa, XX. Đầu thai, XXI. Giải thoát). Người đọc
luôn cảm giác đây hai nhân vật đc lp, không si dây liên h o. Đến các phn
chương sauy mới phân chia ranh gii gia quá kh vi hin ti, ri dn dn hai vai nhp
m một, người đọc mi v nhn ra ngưi này là duyên nghip tiền đnh ca người kia.
Người đi vắng, Minh Đàm đạo v Điu Ng Giác Hoàng s dng li kết cu
truyn lng ghép khá độc đáo và mới l. Mi tác phm là s lp ghép nhiu câu chuyn, đan xen
đồng thi nhiu mng không gian, thi gian khác nhau. Không gian ca Người đi vắng din ra
thành ph Thái Nguyên và đan xen thế gii ca cái đương đại n ã, hỗn độn là nhng trang viết
v cuc khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cn (Trịnh Văn Cn) lãnh đạo chng lại người Pháp
hồi đầu thế k XX. th thy, kết cu tiu thuyết ca Nguyễn Bình Phương tr nên xa l vi
nh kết cu truyn thng. khiến cho ct truyn tr nên lng lo, bi s tùy tin, lai
ghép, lch tâm, phi trung tâm hóa… Nhà văn c ý sắp đặt, lp ghép các s kin lch s cũng như
biến c cuộc đời con người để chuyên ch mt hin thực “thm phồn” hỗn tp, khc lit, cùng
bi kịch đớn đau của kiếp nhân sinh. Có th nhn thy cm quan mang màu sc hu hiện đi khá
nét trong tác phm ca Nguyễn Bình Phương. Tác giả đã mang lại gương mặt l lm cho th
tài tiu thuyết lch s.
Minh ca Thái Lợi cũng thể hin một hướng tìm tòi kết cu mi cho th loi.
Mng hi c v cuc chiến 1954 - 1975 vi thc ti ca hai nhân vật Tư Trà Thành những
năm 2004 - 2009 ch những đoạn đan xen, mang chức năng dẫn truyện. Đoàn Minh Thành
đang nghiên cứu v đề tài lch s bi cnh chính x Thun Hóa - Qung Nam vào thi
đoạn Nguyn Hoàng (1525 - 1613) trn nhm. Hai mng quá kh, mt gn mt xa luôn chi phi
những suy ng của Thành, đặc bit câu chuyn v Nguyn Hoàng hành trình m cõi.
Câu chuyện đó được Thành ghi chép li và anh gi nó là nhng trang kí s lch s. C thế cuc
sng ca Thành luôn b gn cht vi s phn ca Nguyn Hoàng, lúc hin ti khi thì quá kh.
tiu thuyết này s phân mnh, lp ghép liên tc nhiu câu chuyn khác nhau: (1) câu
chuyn t hin ti vi mng hi c gn (cuc chiến tranh chng M ca dân tc), (2) câu