
KHÁI NIỆM, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN
CỨU CỦA TÂM LÝ HỌC
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ
1 Bản chất của hiện tượng tâm lý
Trong đời sống hàng ngày chữ “tâm lý” dùng ở đây mới có thể mới được
hiểu theo nghĩa hẹp, để chỉ thái độ, cách cư sử của con nguời. Để hiểu chính xác
và khoa học tâm lý là gì, từng hiện tượng tâm lý nẩy sinh và phát triển ra sao, vận
hành theo quy luật nào…, loài người đã phải trải qua một thời gian dài nghiên cứu,
thử nghiệm; đã phải chứng kiến biét bao cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các khuynh
hương khác nhau.
Tóm lại tâm lý con người là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan, có
cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, được nẩy sinh bằng
hoạt động sống của từng người và gắn bó với các quan hệ xã hội lịch sử.
1.1 Tâm lý là bản chất của vật chất cao cấp

Chủ nghĩa duy tâm cổ đại cho rằng, hiện tượng tâm lý là bản chất siêu hình
đặc biệt của sinh vật và được gọi là linh hồn. Theo nhà triết học duy tâm cổ đại Hy
lạp là Platon (427-347 trước công nguyên ), linh hồn là siêu hình và độc lập với
thể xác; con người sống được là nhờ linh hồn liên hệ với thể xác. Khi con người
sống, linh hồn là nguyên nhân sinh ra quá trình sống của cơ thể và nó truyền đạt
tất cả các hiện tượng tâm lý vốn có của con người. Các nhà duy tâm khách quan,
như G. Berkeley ( 1685 – 1753) cho rằng, thế giới ý niệm ra vạn vật, sinh ra thế
giới vật chất. Còn các nhà duy tâm chủ quan cho rằng, vốn dĩ có thế giới vật chất,
những vật chất cụ thể là do cảm giác của con người mà có. Thuyết linh hồn của
Platon ở phương tây, thuyết tâm của đạo khổng phương đông đều tuyệt đối hóa
thuộc tính tinh thần của tâm lý, hoàn toàn tách biệt tâm lý khỏi vật chất.
Những người theo trường phái “nhị nguyên luận” như Decarte ( 1596 -
1650), đã dùng khái niệm phản xạ để giải thích các hoạt độngcủa cơ bắp đơn giản
của động vật, của con người và cho rằng những hoạt động chủ định, có ý thức của
con người và là do linh hồn điều khiển. Theo J.Lock tâm lý con người là những
kinh nghiệm. Kinh nghiệm bên ngoài do tác động bên ngoài vào giác quan mà có;
kinh nghiệm bên trong được sinh ra từ “ ý thức bên trong”, tự nó hoạt động, chỉ tự
nó mới biết được nó. Quan niệm nhi nguyên là sự biến dạng của chủ nghiã duy
tâm.

Đối lập với quan điểm của chủ nghiã duy tâm là chủ nghĩa duy vật. Theo
họ, trong vũ trụ bao la chỉ có vật chất là tồn tại mãi mãi và luôn luôn biến đổi, với
những tính chất muôn hình muôn vẻ. Tâm lý không tồn tại ngoài vật chất.
Quan điểm duy vật thô sơ cho rằng tâm lý là một thứ vật hoặc do các vật chất
khác sinh ra như lửa, nước, không khí...
Démocrit: Não là chỗ trú ngụ của linh hồn, là trung tâm hoạt động của tâm thần.
Aristot (384-322 trước CN): Cảm giác do tác động của vật vào giác quan gây ra,
tinh thần là chức năng của thân thể, thị giác là chức năng của mắt.
Các nhà duy vật Trung Quốc đã từng dùng thuyết ngũ hành để giải thích nguồn
gốc của
vật chất (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).
Tuân Tử ( 315-230 trước CN) cho rằng: Thân thế con người sinh ra tinh thần và
cái tốt, cái xấu ... đều nằm trong thân thế con người.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tâm lý là biểu hiện
của vật chất, là sản phẩm dưới dạng đặc biệt của vật chất có tổ chức cao là bộ não
của con người. Sự phát triển của tâm lý luôn gắn với sự phát triển của hệ thống
thần kinh.

Thế giới vật chất vận động và biến đổi không ngừng từ vô cơ thành thể
hữu cơ, từ hữu cơ thành sự sống . Sự phát triển đó liên tục, ngày càng phức tạp,
hoàn chỉnh dần và cuối cùng thành sự phản ảnh thế giới khách quan của những
sinh vật có hệ thống thần kinh , có não bộ. Mặt khác, sự phản ánh của sinh vật với
thế giới xung quanh cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Những sinh vật đầu
tiên có bản tính kích thích, biến đổi để thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhờ đó cảm
giác phát triển, đó chính là sự bắt đầu của phản ảnh tâm lý. Những phản ảnh ban
đầu mang tính chung chung, đơn giản, sau đó phát triển dần thành những cảm giác
chuyên biệt ( thị giác, thính giác , xúc giác…). Những sinh vật càng tiến hóa, hoạt
động càng phức tạp thì phản ánh tâm lý của chúng càng phong phú và hoàn thiện,
với những hình thức như: tưởng tượng, tư duy, xúc cảm, tình cảm…Ý thức là hình
thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người.
1.2 Tâm lý có bản chất là phản xạ
Hệ thần kinh động vật hoạt động theo cơ chế phản xạ. Những phản xạ này
bao gồm các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.Phản xạ có điều kiện là cơ
chế hoạt động của hệ thần kinh cao cấp, của vỏ não. Hoạt động của hệ thần kinh
gắn liền với hoạt động nội tiết của cơ thể và vỏ não là bản chất thực tế bản chất
tâm lý.Vì vậy, tất cả các hiện tượng tâm lý đều mang tính chất phản xạ. Các phản
xạ được hình thành nhằm đáp ứng mọi kích thích của thế giới bên trong hoặc bên
ngoài cơ thể.

1.3 Tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan
Tâm lý có nội dung là sự phản ánh chủ quan thế giới khách quan. Sự phản
ánh này là muôn màu muôn vẻ và phức tạp. Phản ảnh là một quá trình đi từ nhận
thức cảm tính tới nhận thức lý tính rất phức tạp để nhận biết bản thân sự vật hiện
tượng từ thuộc tính bên ngoài đến bản chất.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động
trong không gian và thời gian và thường để lại những dấu vết của nó.Phản ánh tâm
lý là những phản ánh đặc biệt tạo ra hình ảnh tâm lý về thế giới khách quan vào bộ
óc con người (là vật chất được biến vào con người, là bản sao sinh động, sáng tạo,
mang tính chủ thể, các chủ thể khác nhau phản ảnh khác nhau)
Trong mối quan hệ qua lại với thế giới xung quanh, con người không chỉ
nhận cảm, suy nghĩ, nhớ lại hoặc tưởng tượng ra mà còn thực hiện những hành
động khác nhau gây nên những biến đổi thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu
cầu không ngừng tăng lên của mình.
1.4. Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử
Đây là điểm khác nhau giữa tâm lý người và tâm lý động vật. Con người
khi sống trong xã hội lời người đã giao tiếp với nhau, cùng nhau lao động và phát
triển xã hội.Tâm lý con người có bản chất xã hội lịch sử, phản ảnh sự hình thành
và phát triển của lịch sử xã hội.Trong hoạt động, nhất là trong hoạt động sống,